Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Tây Hà Nội

LỜI MỞ ĐẦU LỜI MỞ ĐẦU Trong xu thế hội nhập hiện nay, cạnh tranh giữa các ngành, lĩnh vực diễn ra ngày càng gay gắt trên nhiều mặt va ngành ngân hàng cũng không nằm ngoài quy luật đó. Ngân hàng ngày càng đóng một vai trò quan trọng, là ngành trụ cột của nền kinh tế. Sự phát triển bền vững của ngành góp phần thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. Trong hoạt động ngân hàng thì hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong bảng tổng kết tài sản của một ngân hàng và đem lại thu nhập nhiề

doc71 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1292 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Tây Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u nhất. Tuy nhiên đây cũng là hoạt động luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất. Chính vì vậy mà việc nâng cao chất lượng tín dụng luôn là mục tiêu hàng đầu của các ngân hàng thương mại. Vì nếu chất lượng tín dụng không tốt dễ dẫn đến rủi ro và làm giảm lợi nhuận cũng như ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đồng nghĩa với việc làm ảnh hưởng đến sự phát triển chung của nền kinh tế. Đặc biệt NHNo&PTNT Việt Nam là một trong 4 ngân hàng thương mại lớn nhất cả nước với mạng lưới hoạt động rộng khắp, hoạt động của ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến đời sống người dân thì vấn đề quản lý chất lượng tín dụng hiệu quả lại càng quan trọng. Xuất phát từ chính nhu cầu thực tiễn bức xúc đó, đồng thời được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo PGS-TS Vương Trọng Nghĩa và sự giúp đỡ tận tình của cán bộ nhân viên phòng Tín dụng, toàn thể cán bộ công nhân ciên NHNo&PTNT Tây Hà Nội nói chung em đã mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội” để làm chuên đề tốt nghiệp của mình. Thông qua việc nghiên cứu em muốn tìm hiểu sâu về hoạt động tín dụng của ngân hàng và các biện pháp để nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng No&PTNT Tây Hà Nội để thấy được những mặt được, những hạn chế còn tồn tại và những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó. Cuối cùng là đề xuất giải pháp và kiến nghị để thực hiện công tác nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh. Đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội. Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội. Dù đã có nhiều cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu song do còn nhiều hạn chế về kiến thức và thức và kinh nghiệm thực tế nên đề tài không tránh khỏi những hạn chế. Chính vì vậy em rất mong được sự đóng góp chỉ bảo của các thầy cô giáo cũng như các bạn sinh viên quan tậm Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Khái quát về ngân hàng thương mại Khái niệm Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doan nào trong nền kinh tế. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại Hoạt động huy động vốn Cho vay là một hoạt động sinh lời cao và là nguồn thu nhập chủ yếu của các ngân hàng thương mại. Do đó các ngân hàng đã tìm mọi cách để huy động được tiền. Hoạt động huy động vốn của các ngân hàng ngày càng phát triển mạnh và các ngân hàng có những biện pháp huy động vốn sau: Nhận tiền gửi Một trong những nguồn vốn huy động quan trọng là các khoản tiền gửi (thanh toán và tiết kiệm của khách hàng). Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người gửi tiết kiệm với cam kết hoàn trả đúng hạn. Đây là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, tổ chức và dân cư. Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Nguồn này bao gồm: Tiền gửi thanh toán Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thưnh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép các nhu cầu chi trả của cá nhân, doanh nghiệp và cá nhân đều đựơc ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của cá nhân, doanh nghiệp đều được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn chung lãi suất của khoản tiền này là rất thấp thay vào đó các chủ tài khoản được hưởng dịch vụ ngân hàng với chi phí thấp. Tiền gửi có kì hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội Nhiều khoản thu nhập bằng tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian nhất định. Theo hình thức này người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán như đối với tiền gửi thanh toán. Nếu cần chi tiêu thì họ phải đến ngân hàng rút tiền tuy nhiên lãi suất cao hơn tuỳ theo độ dài kì hạn. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư Các tầng lớp dân cư đều có khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng. Trong điều kiện khả năng tiếp cânk với ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện mục tiêu an toàn cà sinh lợi đối với các khoản tiền gửi tiết kiệm đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng với lãi suất cạnh tranh hấp dẫn. Tiền gửi của các ngân hàng khác Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại các ngân hàng khác. Tuy nhiên quy mô nguồn này thường không lớn. Phát hành giấy tờ có giá Giống như các doanh nghiệp khác các ngân hàng cũng vay mựơn bằng cách phát hành giấy nợ (kì phiếu, trái phiếu, tín phiếu) trên thị trường vốn. Rất nhiều ngân hàng thương mại thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn nên không thể cho vay trung và dài hạn. Do đó các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ xung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo. Những ngân hàng nào có uy tín hợc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngấn hàng. Ngân hàng cần nghiên cứu kĩ thị trường để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp. Vay của ngân hàng nhà nước và các tổ chức tín dụng khác Vay của ngân hàng nhà nước là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trã bắt buộc, ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu là tái chiết khấu các thương phiếu đã được các ngân hàng thương mại chiết khấu.Nghiệp vụ này làm thương phiếu của NHTM giảm đi và dự trữ tiền mặt tăng lên. Ngân hàng nhà nước điều hành vay mượn một cách chặt chẽ, các ngân hàng thương mại phải thực hiện những điều kiện kiểm soát nhất định. Ngoài ra các ngân hàng còn tiến hành vay mựơn của các tổ chức tín dụng khác. Đây là nguồn các ngân hàng thương mại vay mượn lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt mức yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay có thê sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay mượn để tìm kiếm lãi súât cao hơn và ngược lại. Nguồn khác Loại này bao gồm nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán, nguồn khác Nguồn uỷ thác Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ uỷ thác như: uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát và uỷ thác giải ngân và thu hộ… Các hoạt động này tạo nên nguồn uỷ thác trong các ngân hàng và làm gia tăng nguồn vốn của các ngân hàng. Nguồn trong thanh toán Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn trong thanh toán (séc trong quá trình chi trả, tiền kí quỹ để mở L/C…) Nguồn khác: Các khoản nợ khác như thuế chưa nộp,lương chưa trả… Hoạt động sử dụng vốn Hoạt động tín dụng Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các ngân hàng thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Trong hoạt động tín dụng, mục tiêu chủ yếu của quản lý ngân hàng là kiếm được lợi nhuận, trên cơ sở phục vụ các nhu cầu tín dụng của cộng đồng. Nhà quản lý ngân hàng cũng phải quyết định phân chia vônd trong phạm vi các khoản mục cho vay, nghĩa là vốn phải được phân thành các khoản mục cho vay tiêu dùng, cho vay thương mại, cho vay bất động sản và cho vay khác.Hoạt động tín dụng cũng có thể đựoc phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau. Sự phân chia này được thực hiện trên cơ sở khả năng sinh lợi và nhu cầu tín dung, phù hợp với các giới hạn và các quy định phải tuân theo. Hoạt động đầu tư Các quỹ còn lại, sau khi các nhu cầu hợp lệ về tín dụng cho khách hàng đã được đáp ứng, ngân hàng thường dồn vào đầu tư chứng khoán có chất lượng cao và tương đối dài hạn. Hoạt động này nhằm mang lại thu nhập cho ngân hàng, đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh, lợi nhuận trước thuế và bổ xung cho các tài sản dự trữ thứ cấp khi các chứng khoán dài hạn gần đến hạn thanh toán. Các hoạt động dịch vụ Ngoài các hoạt động tín dụng, đầu tư các ngân hàng thương mại còn cung cấp một danh mục các sản phẩm dịch vụ đa dạng nhằm phục vụ nhu cầu ngày càng cao của các tầng lớp dân cư trong nền kinh tế: Cung cấp các dịch vụ thanh toán và ngân quỹ Ngân hàng không chỉ nhận tiền gửi mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho các khách hàng của họ. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt tại các ngân hàng, tức là người gửi tiền không phải đến ngân hàng để rút tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách hàng (séc). Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin nhiều hình thức thanh toán được phát triển như: uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thanh toán L/C…Ngoài ra hiện nay hầu hết các ngân hàng còn mở rộng và phát triển các sản phẩm thẻ để phục vụ nhu cầu thanh toán như thẻ ATM, thẻ tín dung., thẻ thanh toán… tạo nên sự thuận tiện cho khách hàng trong việc thanh toán và thông qua đó ngân hàng thu được phí dịch vụ. Khi các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của các cá nhân, tổ chức ngân hàng do đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do có kiinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàn dịch vụ quản lý ngân quỹ. Trong đó ngân hàng thực hiện nhiệm vụ thu, chi cho một công ty kinh doanh. Bảo lãnh Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền của các khách hàng nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của các tổ chức tín dụng khác… và thu phí bảo lãnh. Cung cấp các dịch vụ môi giới và đầu tư chứng khoán Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ chính cho phép khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Và đây cũng chính là lý do khiến các ngân hàng tiến hành bán các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, cung cấp cho khách hàng các cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường hợp ngân hàng đứng ra tổ chức thành lập công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán. Cung cấp các dịch vụ đại lý Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở nhiều nơi. Do đó nhiều ngân hàng lớn thường cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong hoạt động đồng tài trợ.. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại Khái niệm Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm). Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau; ngay trong cả quan hệ tài chính, tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có một nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính, tín dụng có thể hiểu theo các nghĩa sau: Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch từ quỹ người cho vay sang quỹ người đi vay. Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. Như một công ty công nghiệp hoặc thương mại bán hàng trả chậm cho một công ty khác, trong trường hợp này người bán chuyển giao hàng hoá đến bên mua và sau một thời gian nhất định theo thoả thuận bên mua phải trả tiền cho bên bán. Phổ biến hơn cả là giao dịch gữa ngân hàng và các định chế tài chính khác với doanh nghiệp và cá nhân thể hiện dưới hình thức cho vay, tức là ngân hàng cấp tiền vay cho bên đi vay và sau một thời hạn nhất định người vay phải thanh toán cả vốn gốc và lãi. Trên cơ sở tiếp cận tín dụng theo chức năng cơ bản của ngân hàng thì tín dụng được hiểu như sau: Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên di vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo toả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Các đặc trưng cơ bản của tín dụng Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tái sản trên cơ sở hoàn trả và có những đặc trưng sau: + Tài sản trong quan hệ giao dịch tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản). Trong những năm 60 trở về trước hoạt động tín dụng của ngân hàng chỉ có cho vay bằng tiền. Xuất phát từ tính đặc thù đó mà nhiều lúc thuật ngữ cho vay và tín dụng được coi là đồng nghĩa với nhau. Từ những năm 70 trở lại đây cho thuê vận hành cà cho thuê tài chính đã được các ngân hàng và các định chế tài chính kháccung cấp cho khách hàng. Đây là một sản phẩm kinh doanh của ngân hàng, một hình thức tín dụng bằng tài sản thực. + Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển tà sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng. Trong thực tế một số nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm với khách hàng mà chú trọng dến các bảo đảm, chính quan điểm này đã ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. + Giá trị lúc hoàn trả phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là người đi vay phải trả thêm cả phần lãi ngoài vốn gốc. Để thực hiện đựơc nguyên tăc này thì phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát, hay nói cách khác phải xác định lãi suất thực dương. Tuy nhiên lãi suất chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, nên trong một số trường hợp lãi suất danh nghĩa có thể thấp hơn lạm phát, ngoại lệ này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn. + Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước thực chất là lệnh phiếu trong đó bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán Các loại tín dụng ngân hàng 1.2.3.1 Phân loại tín dụng theo thời gian Việc phân loại tín dụng theo thời gian có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian có mối liên hệ mật thiết với tính an toàn và khả năng sinh lời của của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Thời hạn tín dụng thường được xác định cụ thể và ghi trong hợp đồng tín dụng, là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng. Thời hạn tín dụng được tính từ lúc đồng vốn đầu tiên của ngân hàng được phát ra cho đến khi đồng vốn cuối cùng được thu về. Đối với các khoản cho vay không xác định trước được thời han như cho vay luân chuyển, cho vay thấu chi thì ngân hàng sẽ thoả thuận với khách hàng là ngân hàng được quyền trích tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán để thu nợ khi tài khoản có tiền. Thời gian chiết khấu thương phiếu là thời hạn cón lại của thương phiếu Thời hạn bảo lãnh là thời gian có hiệu lực của bảo lãnh được thoả thuận ghi trong hợp đồng bảo lãnh Nếu là cho thuê thời gian được tính từ lúc ngân hàng giao tài sản cho khách hàng cho đến lúc khách hàng hoàn đủ tiền thuê. Phân loại tín dụng theo thời gian bao gồm: + Tín dụng ngắn hạn: có thời hạn từ 12 tháng trở xuống; + Tín dụng trung hạn: Có thời hạn từ 12 tháng đến 60 tháng; + Tín dụng dài hạn: Có thời hạn trên 60 tháng Tín dụng ngắn hạn Tín dụng ngắn hạn nhằm tài trợ cho tái sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của nhá nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất. Ngân hàng có thể áp dụng cho vay trực tiếp, cho vay gián tiếp , cho vay từng lần hoặc cho vay theo hạn mức, có hoặc không có tái sản đảm bảo, dưới hình thức chiết khấu, thấu chi hoặc luân chuyển. Ngân hàng cấp tín dụng ngắn hạn trong các trường hợp sau: + Ngân hàng cho Nhà nước vay để tài trợ cho nhu cấu chi tiêu của nhà nước. Hình thức phổ biến hiện nay là ngân hàng mua trái phiếu do kho bạc nhf nước phát hành. + Ngân hàng cho vay đối với các tổ chức tài chính như các ngân hàng, các công ty tài chính, các TCTD …nhằm đáp ứng nhu cấu thanh khoản. Một số công ty chứng khoán vay vốn của ngân hàng thương mại trong quá trình bảo lãnh và phân phối chứng khoán cho công ty phát hành. Phần lớn các khoản cho vay này đều dựa trên uy tín của người vay, phấn còn lại là dựa trên uy tín của người thứ ba, hoặc ngân hàng dựa trên chứng khoán có tính thanh khoản cao. + Ngân hàng cho vay đối với các doanh nghiệp nhằm tái trợ cho nhu cầu vốn tăng thêm cho sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp là khách hàng chiếm số lượng đông nhất của các ngân hàng thương mại. Phần lớn các khoản vay này có thế chấp hoặc cầm cố tái sản. + Ngân hàng tài trợ cho các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu và cho vay thanh toán. + Ngân hàng cho vay đối với người tiêu dùng nhằm thoả mãn nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, phương tiện vận tải. Tín dụng trung và dài hạn Doanh nghiệp có nhu cầu tín dụng trung và dài hạn để mua sắm trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kĩ thuật công nghệ… Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, để tồn tại và phát triển , nhu cầu vốn trung và dài hạn ngày càng cao. + Cho vay bằng cách mua các trái phiếu: các ngân hàng mua trái phiếu trung, dài hạn của doanh nghiệp nhằm tài trợ cho quá trình hình thành tài sản cố định. Kì hạn và khả năng chuyển đổi của trái phiếu, lãi suất trái phiếu tình hình tài chính doanh nghiệp, kế hoạch tương lai…đều được ngân hàng tính toán khi mua trái phiếu. + Cho vay theo các dự án: Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định…nhằm thực hiện các dự án nhất định có thể xin vay ngân hàng. Một trong những yêu cầu của ngân hàng là người vay phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch đầu tư cũng như quá trinìh thực hiện dự án. Thẩm định dự án là điều kiện để ngân hàng quýêt định phần vốn cho vay và xác định khả năng hoàn trả của doanh nghiệp. Nhu cầu tài trợ cho đầu tư nếu không được sự trợ giúp của hệ thống ngân hàng thì không thể thoả mãn được do vậy các ngân hàng luôn luôn cố gắng và tìm các thể thức phù hợp và không ngừng mở rộng các khoản cho vay trung và dài hạn Phân loại tín dụng theo hình thức Theo hình thức cho vay thì có thể phân loại tín dụng thành: cho vay, bảo lãnh, chiết khấu, cho thuê. Cho vay Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao co khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Các phương thức cho vay Cho vay theo hạn mức thấu chi Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Để đựoc thấu chi khách hàng phải làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và thời gian thấu chi. Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể kí séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ séc …vượt quá số dư tiền gửi để trả. Khi khách hàng có tiền nhập về trong tài khoản tiền gửi ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà khách hàng phải trả: Lãi suất thấu chi* Thời gian thấu chi* số tiền thấu chi Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gin và quy mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán song không chính xác. Do vậy hình thức cho vay này tạo điều kiện cho khách hàng trong quá trình thanh toán. Đây cũng là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản , phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả cá nhân và doanh nghiệp trong vài ngày, vài tháng trong năm để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng. Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và có kì thu nhập ngắn. Thấu chi là kĩ thụât cho vay đặc biệt trong đó mang rất nhiều ưu và nhược điểm đối với ngân hàng và khách hàng. Do đó nó ngoài những điều kiện chung trên nó cần có thêm một số điều kiện sau: + Khách hàng phải có năng lực tài chính thuộc loại mạnh. + Khách hàng có quan hệ thưòng xuyên và có uy tín ở mức độ nhất định đối với ngân hàng. Cho vay từng lần Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Mỗi lấn vay khách hàng phải làm đơn trình ngân hàng về phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và kí hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu bảo đảm nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt thành các hồ sơ khác nhau. Cho vay theo hạn mức Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng trong một thời gian nhất định. Hạn mức tín dụng tính cho cả kì hoặc cuối kì. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Trong kì khách hàng có thể vay, trả nhiều lần, song dư nợ không vượt quá hạn mức tín dụng. Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng vốn vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của chứng từ ngân hàng sẽ cấp tiền cho khách hàng. Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho nhứng khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay thường xuyên tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này ngân hàng không xác định trước kì hạn nợ và thời hạn tín dụng. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lý ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt thành các kì hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay. Cho vay luân chuyển Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc đầu quý khách hàng phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng sẽ thoả thuận về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và tiêu thụ. Việc cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá nên cả ngân hàng và doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới. Người vay cam kết các khoản vay sẽ được trả cho người bán và mọi khoản thu bán hàng đều dùng trả vào tài khoản tiền vay trước khi được trích trả vào tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng. Cho vay luân chuyển thưòng áp dụng với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kì tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay - trả thường xuyên với ngân hàng. Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho khách hàng. Thủ tục vay chỉ cần thực hiện một lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được cung cấp vốn kịp thời vì vậy việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn. Tuy nhiên nếu như doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiêu thụ hàng hoá thì ngân hàng cũng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn của mình. Cho vay trả góp Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thờng được áp dụng đối với các khoản cho vay trung, dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần sẽ được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ. Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp băng tài sản mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Nếu ngưòi vay mất việc hoặc ốm đau thu nhập giảm sút thì thu nhập của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng. Cho vay gián tiếp Đây là hình thức cho vay thông qua tổ chức trung gian. Ngân hàng cho vay qua các tổ, đội, nhóm như nhóm sản xuất, hội nông dân, hội cựu chiến binh, hội Phụ nữ…Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian như thu nợ, phát nợ tiền vay. Tổ chức có thể trung gian có thể đứng ra tín chấp cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong nhóm bảo lãnh cho một thành viên vay. Điều này rất thuận tiện khi người vay không có đủ tài sản thế chấp. Cho vay gián tiếp thường được áp dụng với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, xa cách ngân hàng. Trong trường hợp như vậy cho vay qua các tổ chức trung gian có thể tiết kiệm chi phí cho vay, giảm bớt rủi ro cho ngân hàng. Tuy nhiên, nó cũng bộc lộ các khiếm khuyết. Nhiều trung gian đã lợi dụn vị thế của mình và nếu ngân hàng không kiểm soát tốt sẽ tăng lãi suất cho vay hoặc giữ lại số tiền của thành viên khác cho riêng mình. Các phương thức cho vay khác Ngoài các phương thức cho vay trên còn có các phương thức cho vay khác mà pháp luật không cấm như: + Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một với một dự án vay vốn của khách hàng, trong đó có một tổb chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. + Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức tín dụng chấp thuận cho khách hàng sử dụng vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá dịch vụ cà rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lí của tổ chức tín dụng. + Các phương thức cho vay khác. Bảo lãnh Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay khách hàng của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ như cam kếtvới bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay. Bảo lãnh thường có 3 bên: bên bảo lãnh(ngân hàng), bên được bảo lãnh (khách hàng của ngân hàng), bên hưởng bảo lãnh(bên thứ ba). Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín. Ngân hàng không phải xuất tiền ngay khi bảo lãnh, do vậy bảo lãnh được coi như tài sản ngoại bảng. Tuy nhiên, khi khách hàng không thực hiện được cam kết, ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ chi trả cho bên thứ ba. Khoản chi trả này được xếp vào tài sản xấu trong nội bảng và cấu thành nợ quá hạn. Chính vì vậy bảo lãnh cũng chứa đựng các rủi ro như một khoản cho vay và cần phải phân tích khách hàng như khi cho vay. Các loại bảo lãnh Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm: Là cam kết của tổ chức tín dụng với bên nhận bảo lãnh, bảo đảm việc khách hàng thực hiện đúng các thoả thụân về chất lượng sản phẩm theo hợp đồng đã kí với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm chất lượng sản phẩm phải bồi thường cho bên nhận bảo lãnh mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì tổ chức tín dụng sẽ đứng ra trả thay. Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước: là cam kết của tổ chức tín dụng với bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm nghĩa vụ trả tiền ứng trước của khách hàng theo hợp đồng đã kí kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng phỉa trả tiền ứng trước mà không hoàn trả hoặc hoàn trả không đầy đủ thì tổ chức tín dụng sẽ thực hiện thay. Bảo lãnh đảm bảo tham gia dự thầu: Là cam kết của tổ chức tín dụng với bên mời thầu, để đảm bảo nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trường hợp khách hàng phải nộp phạt do vi phạm quy định đấu thầu mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì tổ chức tín dụng sẽ đứng ra thực hiện thay. Bảo lãnh vay vốn: là cam kết của ngân hàng với bên nhận bảo lãnh, về việc sẽ trả nợ thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả hoặc không trả đầy đủ, đúng hạn nợ vay với bên nhận bảo lãnh. Bảo lãnh bảo đảm thanh toán: là cm kết của ngân hàng về việc thanh toán tiền theo đúng hợp đồng thanh toán cho người thụ hưởng nếu khách hàng của ngân hàng không thanh toán đầy đủ. Cho thuê Đây là hình thức mà ngân hàng mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho ngân hàng thu gần đủ (hoặc thu đủ) giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi. Hết hạn thuê khách hàng có thể mua lại tài sản đó. Cho thuê giống một khoản cho vay thông thường ở chỗ ngân hàng phải xuất tiền vơí kì vọng thu về cả gốc lẫn lãi sau một thời hạn nhất định; khách hàng phải trả gốc và lãi dưới dạng tiền thuê hàng kì. Ngân hàng cũng phải đối đầu với rủi ro khi khách hàng kinh doanh không trả được tiền thuê đầy đủ và đúng hạn. Tuy nhiên có nhiều điểm khác với cho vay như tài sản cho thuê vẫn thuộc sở hữu của ngân hàng, ngân hàng có quyền thu hồi nếu thấy người thuê không thực hiện đúng hợp đồng, đồng thời ngân hàng cũng phải có trách nhiệm cung cấp đúng loại tài sản cần cho khách hàng và phải bảo đảm về chất lượng của sản phẩm đó Chiết khấu Chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn trong đó khách hàng chuyển nhượng thương phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng để nhận một số tiền bằng mệnh giá trừ đi lãi suất chiết khấu và hoa hồng phí. Ngân hàng sẽ tiến hành thu nợ ở người thu lệnh phiếu nếu là hối phiếu, hoặc ở người phát hành nếu là lệnh phiếu, khi đến hạn thanh toán. Giữa nghiệp vụ chiết khấu và nghiệp vụ cho vay có những điểm giống và khác nhau: Giống nhau: Khách hàng được sử dụng một khoản ứng trước của ngân hàng; sau một thời gian ngân hàng được hoàn trả cả gốc và lãi Khác nhau: Trong cho vay ngân hàng đứng ra thu nợ trực tiếp người vay còn trong nghiệp vụ chiết khấu thì ngân hàng ngân hàng không thu nợ người chiết khấu mà thu nợ ở người phải thanh toán tiền của người xin chiết khấu; cho vay có nhiều loại ngắn hạn, trung hạn, dài hạn còn chiết khấu chỉ có 1 loại là ngắn hạn. Chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng tương đối an toàn tuy nhiên vẫn có những rủi ro xảy ra. Vì vậy trước khi chiết khấu cũng phải nghiên cứu mục đích vay vốn, khả năng hoàn trả và tính chất đạo đức của người vay. Ngoài ra ngân hàng còn phải nghiên cứu một số khía cạnh của nghiệp vụ chiết khấu. Rủi ro trong chiế._.t khấu thương phiếu bao gồm các loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng như rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái. Tuy nhiên rủi ro tín dụng là đáng quan tâm hơn cả. Rủi ro tín dụng trong chiết khấu thương phiêu sẽ dẫn đến ngân hàng không thu hồi được nợ khi đáo hạn. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro này thường là: + Rủi ro không hoàn trả xuất phát từ việc chiết khấu các hối phiếu giả tạo: hối phiếu “Trống”, hối phiếu trống có sự đồng loã, hối phiếu trống dây chuyền. + Rủi ro không hoàn trả xuất phát từ khả năng tài chính yếu kém của người thụ lệnh và người hưởng thụ - khách hàng chiết khấu. Trong một số trường hợp, mặc dù hối phiếu được lập trên quan hệ thương mại nhưng do khả năng tài chính yếu kém của người thụ lệnh và người hưởng thụ dẫn đến sai hẹn trong việc thanh toán nợ cho ngân hàng. Vì vậy trước khi chiết khấu phải nghiên cứu khả năng tài chính của họ thông qua hồ sơ thông tin được lưu tại ngân hàng. Theo mức độ tín nhiệm với khách hàng Tín dụng không có bảo đảm Là loại cho vay không có tái sản thế chấp, cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa trên uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ t hứ hai bổ xung. Tín dụng có bảo đảm Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Đối với khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ xung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn. Phân loại theo mục đích Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại, và dịch vụ. Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ xung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu… Cho vay các định chế tài chính bao gồm cấp tín dụng cho các ngân hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và cho các định chế tài chính khác. Cho vay cá nhân: là loại cho vay đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền và các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng. Cho thuê: cho thuê của các định chế tài chính bao gồm hai loại cho thuê vận hành và cho thuê tài chính. Tài sản cho thuê bao gồm bất động sản và động sản, trong đó chủ yếu là máy móc, thiết bị. Vai trò của tín dụng ngân hàng 1.2.4.1 Tín dụng ngân hàng góp phần đẩy nhanh quá trình sản xuất mở rộng, góp phần đầu tư phát triển Muốn hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, doanh nghiệp cần phải có một số vốn nhất định, trong trường hợp muốn mở rộng sản xuất kinh doanh thì họ cần phải có một số vốn lớn hơn. Vấn đề thiếu vốn tạm thời không phải bất cứ lúc nào họ cũng đáp ứng nổi những nhu cầu đó. Trong trường hợp muốn để sản xuất và tái sản xuất mở rộng họ cần phải đi vay vốn của ngân hàng. Tín dụng ngân hàng góp phần điều hoà vốn trong nội bộ nền kinh tế, tạo cho quá trình sản xuất được diễn ra liên tục. Trong nền kinh tế tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn hình thành vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp vì cậy thông qua việc đầu tư tín dụng sẽ góp phần sắp xếp, tổ chức lại sản xuất hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Mặt khác thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng đã đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế, giải quyết vấn đề xã hội. 1.2.4.2 Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn cho quá trình sản xuất Sự tồn tại khách quan của TD là một tiền đề quan trọng cho sự vận động liên tục vốn của nền kinh tế. Những nguồn vốn chưa được sử dụng trong nền kinh tế bao gồm: Vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế: thu nhập bằng tiền của doanh nghiệp để bảo đảm hao phí vật tư trong quá trình sản xuất, thu nhập bằng tiền của người lao động hình thành do quỹ lương tích luỹ, thu nhập thuần tuý sáng tạo từ các doanh nghiệp sản xuất. Vốn tạm thời nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư Tín dụng ngân hàng đã động viên, tập trung các nguồn vốn đó về một mối thông qua hoạt động của mình. Trên cơ sở đó các nguồn tài chính sẽ được ngân hàng khai thác, sử dụng triệt để nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao, tránh tình trạng vốn chết đồng thời thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 1.2.4.3Tín dụng ngân hàng góp phần tăng cường chế độ hạch toán trong các doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Đặc trưng cơ bản của tín dụng ngân hàng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả các lợi tức của con nợ đối với ngân hàng. Các đơn vị kinh tế, cá nhân khi vay vốn của ngân hàng đều phải cam kết đầy đủ các điều kiện mà ngânhàng đưa ra nhằm đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả, phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của đơn vị và hoàn trả đúng kì hạn. Nếu đơn vị không thực hiện đúng cam kết thì ngân hàng sẽ dừng việc cho vay. Do đó thúc đẩy các đơn vị phải tìm mọi biện pháp để tăng hiệu quả sử dụng vốn như đẩy nhanh vòng quay vốn, tăng năng suất, hạ giá thành nhằm tạo ra lợ nhuận cao hơn từ đó thúc đẩy đoan vị sản xuất kinh doanh tăng cường khâu hạch toán kế toán một cách chặt chẽ để đảm bảo doanh lợ ngày càng cao, tăng hiệu quả sử dụng vốn. 1.2.4.4 Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện phát triển ngành kinh tế kém phát triển, công cụ tài trợ cho ngành kinh tế mũi nhọn Hoạt động tín dụng ngân hàng là tập trung vốn tiền tạm thời nhàn rỗi nhằm phân tán tới tay các doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước, các cá nhân. Nhưng trong quá trình đầu tư tín dụng không phải trải đều cho các chủ thể có nhu cầu mà ciệc đầu tư được tiến hành mộy cách tập trung chủ yếu vào các đơn vị có triển vọng phát triển sản xuất kinh doanh, quá trình đầu tư này là tất yếu vì vứa dảm bảo tránh rủi ro tín dụng vừa thúc đẩy phát triển kinh tế. Tuy nhiên nền kinh tế vẫn phải có một số ngành kinh tế phải thực sự được đầu tư cho các ngành đó. Đây là những ngành kinh tế mũi nhọn, xương sống của nền kinh tế vì chúng tạo ra sự phát triển cho các ngành khác giúp nền kinh tế tăng trưởng vững mạnh. 1.2.4.5 Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy kinh tế đối ngoại phát triển Tín dụng ngân hàng trở thành một phương tiện nối liền nền kinh tế các nước với nhau. Tín dụng đóng một vai trò quan trọng trong tài trợ xuất nhập khẩu hang hoá và hoạt động hoá nền kinh tế. Các họat động này đòi hỏi một nguồn vốn lớn, đặc biệt là vốn ngoại tệ mà không một tổ chức cá nhân nào có đủ. Chính vì vậy mà tín dụng ngân hàng là nguồn tài trợ đắc lực cho các nhà đầu tư và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ. Hơn thế nữa nếu ngân hàng có một chính sách tín dụng đúng đắn thì nó sẽ tác động tốt đến việc xuất nhập khẩu hàng hoá. Một chính sách tín dụng ưu đãi đối với các sản phẩm xuất khẩu sẽ làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa này trên thị trường quốc tế, tức là đẩy mạnh xuất khẩu đem lại nhiều lợ ích cho quốc gia. Chất lượng tín dụng ngân hàng Khái niệm Chất lượng tín dụng được các nhà kinh tế nói đến bằng nhiều cách khác nhau nhưng chúng ta có thể hiểu rằng “Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng (người gửi tiền và người vay tiền) phù hợp với sự phát triển của kinh tế xã hộivà đảm bảo sự tồn tại của ngân hàng”. Đối với ngân hàng thương mại: chất lượng tín dụng nghĩa là phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của bản thân ngân hàng và đảm bảo tính cạnh tranh trên thị thrường với nguyên tắc hoàn trả đúng thời hạn và có lãi. Đối với khách hàng: Đối với nền kinh tế: Nhận xét: Chất lượng tín dụng là một khái niệm có tính tương đối, nó vừa cụ thể (chất lượng tín dụng thể hiện thông qua các chỉ tiêu có thể tính toán được) đồng thời vừa trừu tượng (thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng, tác động tới nền kinh tế) chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ quan và khách quan. - Chất lượng tín dụng là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng thương mại với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh của ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển. - Chất lượng tín dụng được xác định thông qua nhiều yếu tố: Khả năng thu hút khách hàng, mức độ an toàn của các khoản tín dụng, vòng quay vốn tín dụng… - Để có chất lượng tín dụng cao phải có các biện pháp quản lý chất lượng và đồng bộ, đây là cách quản lý mới, nó không chỉ đảm bảo chất lượng tín dụng mà còn thoả mãn ngày càng đầy đủ nhu cầu của khách hàng. Để làm được điều đó mỗi một thành viên trong ngân hàng phải hiểu và thực hiện tốt quy trình quản lý tín dụng. Như vậy chất lượng tín dụng là một phạm trù rộng lớn, quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín trong hoạt động. Chất lượng tín dụng và hiệu quản tín dụng là hai chỉ tiêu quan trọng của ngân hàng thương mại. Hai chỉ tiêu này có điểm giống nhau là các chỉ tiêu phản ánh lợi ích vốn tín dụng ngân hàng mang lại cho khách hàng ngân hàng trong nền kinh tế. Nhưng có sự khác nhau: hiệu quả tín dụng mạng tính hiệu quả và tính toán được, là chỉ tiêu số lượng so sánh lợi ích thu được với chi phí bỏ ra trong quá trình đầu tư tín dụng. Chỉ tiêu chất lượng tín dụng là chỉ tiêu của hiệu quả hoạt động tín dụng, thông qua hiệu quả của hoạt động tín dụng để đánh giá chất lượng tín dụng. Chât lượng tín dụng và hiệu quả tín dụng có mối liên hệ mật thiết với nhau, tỉ lệ thuận với nhau, từ sự thay đổi của hiệu quả tín dụng sẽ dẫn đến sự thay đổi của chất lượng tín dụng do đó cần phải quan tâm nâng cao hiệu quả tín dụng 1.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Hiện nay vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đang được cáo ngân hàng rất quan tâm và tìm cách để có thể đạt hiệu quả cao nhất .muốn có giải pháp hưu hiệu đê nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng chúng ta cần phải xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến nó Nhân tố thuộc về môi trường Nhân tố từ phía ngân hàng Nhân tố tư phía khách hàng. 1.3.2.1 Nhân tố thuộc về môi trường Nhân tố môi trường kinh tế Nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường kinh tế đến hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng sẽ thấy được ảnh hưởng của nó đến hoạt động tín dụng. Bất kì một ngân hàng nào cũng chịu sự chi phối của nhưng chu kì kinh tế .trong giai đoạn nền kinh tế tăng trưởng thì các ngành nói chung đều kinh doanh thuận lợi hơn, tỷ lệ thu hồi nợ vì thế tăng đồng thời dư nợ trong nền kinh tế tăng làm giảm tỷ lệ các khoản nợ xấu. Trong giai đoạn nền kinh tế suy thoái thì tất yếu nhu cầu tín dụng cũng giảm vì hoạt động sản xuất kinh doanh bị ngừng trệ, khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp cũng như của nền kinh tế giảm sút. Lúc này ngân hàng sẽ dư thừa, ứ đọng một lượng vốn lớn, nguồn huy động được sử dụng không hiệu quả có nghĩa là chất lượng tín dụng giảm sút. Mặt khác trong nền kinh tế suy thoái thì các doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả dẫn đến khẳ năng tài chính không tốt, suy giảm khả năng trả nợ vay ngân hàng do đó rủi ro trong hoạt động tín dụng cua ngân hàng càng tăng cao. Nhân tố môi trường pháp lý Môi trường pháp lý được hiểu là một hệ thống các văn bản pháp lý có liên quan đến hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Những hoạt động này muốn có hiệu quả thì phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ đi kèm hỗ trợ. Hệ thống pháp luật thông thoáng, minh bạch và đầy đủ sẽ tạo điều kiện giúp cho hoạt động quản lý tín dụng của ngân hàng đạt hiệu quả cao từ đó nâng cao chất lượng của hoạt động tín dung và ngược lại. Mặt khác sự thay đổi chủ trương chính sách của nhà nước cũng gây ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp nhất là về cơ cấu kinh tế, chính sách xuất, nhập khẩu, do thay đổi một cách đột ngột gây sáo trộn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không tiêu thụ được sản phẩm dẫn đến nợ quá hạn, nợ khó đòi. Môi trường tự nhiên Đây là các nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, hoả hoạn, dịch bênh…khi xảy ra thường đem lại hậu quả lớn tác động đến ngân hàng và khách hàng, ngân hàng không có khả năng thu hồi vốn làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. 1.3.2.2 Nhân tố thuộc về phía ngân hàng Hoạt động huy động vốn Hoạt động huy động vốn của mỗi ngân hàng quyết định đến khả năng đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng. Với mỗi nguồn vốn ổn định, cơ cấu nguồn vốn hợp lý là cơ sở để ngân hàng đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn của khách hàng. Có thể nói hoạt động huy động vốn của ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng của mỗi ngân hàng đó. Chính sách tín dụng Hoạt động tín dụng là hoạt động bao trùm của các ngân hàng. Với tầm quan trọng và quy mô lớn, hoạt động này thực hiện theo một chính sách rõ ràng và xây dựng hoàn thiện qua nhiều năm đó là chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ và nhân viên ngân hàn, tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung cho hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời. Nôi dung của chính sách tín dụng nói chung là các vấn đề liên quan đến cấp tín dụng nói chung như: quy mô, lãi suất, kì hạn, đảm bảo, phạm vi, các khoản tín dụng có vấn đề và các nội dung khác. Có thể nói chính sách tín dụng là xương sống trong hạot động của ngân hàng thương mại. Mục tiêu của nó là giảm thiểu rủi ro tín dụng và tăng khả năng sinh lời. Nội dung chính của chính sách tín dụng là tài trợ cho khách hàng, phục vụ cho khách hàng trên cơ sở an toàn. Do đó nếu chính sách tín dụng được xây dựng thống nhất và khao học thống nhất từ trên xuống dưới sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng duy trì tiêu chuẩn tín dụng của mình, tránh rủi ro quá mức và đánh giá đúng về cơ hội kinh doanh của mình từ đó nâng cao chất lượng của hoạt động tín dụng của ngân hàng mình. Ngoài ra chính sách quản trị tín dụng cảu ngân hàng cũng vô cùng quan trọng. Cho đến nay hầu hết các ngân hàng chưa ban hành chiến lược, chính sách phát triển và quản lý rủi ro tín dụng, chất lượng tín dụng bằng cách đầy đủ bằng văn bản. Tất cả các chỉ đạo từ NHTW mới chỉ là văn bản hướng dẫn thi hành quy chế cho vay, bảo lãnh, bảo đảm tiền vay và các quy chế khác do ngân hàng nhà nước ban hành. Các ngân hàng cần phải có chính sách cho vay thận trọng đối với những doanh nghiệp có vấn đề. Tầm nhìn chiến lược của các ngân hàng cũng vô cùng quan trọng, nó chính là nguên nhân dẫn đến tình trạng cạnh tranh, thu hút khách hàng bằng cách giảm giá, lãi suất cho vay giảm bất chấp rủi ro là một tác động đến chất lượng của hoạt động tín dụng. Quy trình tín dụng Chất lượng tín dụng cũng chịu tác động bởi quy trình tín dụng của ngân hàng đó. Quy trình tín dụng là các quy định và trình tự cần thực hiện trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng. Một quy trình hợp lý góp phần nâng cao hiệu quả của công tác hoạt động quản trị nhằm giảm thiểu rủi ro và nâng cao thu nhập cho mỗi ngân hàng. Thông qua quy trình tín dụng sẽ giúp các ngân hàng thiết kế các thủ tục cho vay với các nhóm khách hàng khác nhau phù hợp với quy định của pháp luật, đảm bảo cung cấp kịp thời nhu cầu vay vốn của khách hàng và an toàn cho ngân hàng. Trong quy trình tín dụng thì có thể nói thẩm định tín dụng là bước quan trọng nhất. Đó là việc tổ chức xem xét một cách khách quan, toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến tính khả thi của dự án, phương thức sản xuất kinh doanh để ra quyết định tín dụng. Mục đích cua việc thẩm định là nhằm giúp ngân hàng có các kết luận chính xác về tính khả thi hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ và những khả năng rủi ro có thể xảy ra để quyết định cho vay hay từ chối đồng thời xác định số tiền cho vay, thời gian cho vay, mức thu nợ hợp lý phù hợp với từng doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả cao và tạo điều kiện cho ngân hàng có thể quản lý tốt chất lượng tín dụng của mình. Chất lượng nhân sự - Năng lực cán bộ: Cán bộ tín dụng là người phải tiếp xúc với nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Do đó cán bộ tín dụng phải là người am hiểu về nhiều lĩnh vực phải có khả năng dự báo các vấn đề liên quan đến khách hàng, phải có khả năng phân tích tài chính, phân tích ngành và phân tích những biến động của nền kinh tế… Từ đó có thể đưa ra những phán quyết hợp lý và giúp cho ngân hàng tránh được những rủi ro có thể xảy ra trong khâu quyết định cho vay. - Tư cách đạo đức của cán bộ: Cán bộ tín dụng là người trực tiếp thẩm định dự án vay vốn khả năng trả nợ của khách hàng cũng như trực tiếp kiểm tra kho hàng, tài sản thế chấp, trực tiếp giải ngân, kiểm tra sử dụng vốn vay, là đầu mối tiếp xúc với khách hàng nên nếu đạo đức cán bộ tín dụng không tốt sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của món vay và khả năng thu hồi nợ. Mặt khác trong hoạt động tín dụng cán bộ tín dụng chính là hình ảnh của ngân hàng. Do đó một cán bộ ngân hàng có tư cách đạo đức, có trình độ, không chỉ am hiểu nghiệp vụ ngân hàng mà còn hiểu biết về khách hàng, có khả năng tư vấn cho khách hàng, có thể tạo ra ấn tượng tốt đẹp với khách hàng, góp phần nâng cao uy tín của ngân hàng. Từ đó thu hút khách hàng và tạo điều kiện nâng cao chất lượng tín dụng. Công tác kiểm tra, kiểm soát Mở rộng quy mô hoạt động tín dụng, tăng cường cho vay mà không lường hết những rủi ro, bất trắc xảy ra thì dễ dẫn đến nguy cơ sụp đổ và phá sản đối với các ngân hàng thương mại. Một trong những hoạt động nhằm giúp cho ngân hàng hạn chế được những rủi ro trên là công tác kiểm tra, kiểm soát, thanh tra. Công tác này không chỉ thực hiện đối với khách hàng mà còn thực hiện với bản thân ngân hàng. Thông qua công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ có thể loại trừ được những cán bộ biến chất, gây thất thoát tài sản, làm mất uy tín của ngân hàng. Đồng thời thông qua kiệc kiểm soát ngân hàng sẽ biết được khách hàng có sử dụng tiền vay đúng mục đích, đúng tiến độ hay không, quá trình kinh doanh có những bất lợi gì, có dấu hiệu lừa đảo hay làm ăn thua lỗ không từ đó có những biện pháp xử lý thích hợp góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động của ngân hàng nói chung, hoạt động tín dụng nói riêng. Công tác thu thập và xử lý thông tin Vai trò của thông tin trong hoạt động sản xuất kinh doanh là vô cùng quan trọng. Vai trò của thông tin đối với ngân hàng nói chung và đặc biệt là trong hoạt động tín dụng lại càng quan trọng. Thông tin về khách hàng là căn cứ để ngân hàng tiến hành cấp tín dụng. Do đó khả năng thu thập và xử lý thông tin của ngân hàng quyết định thành công của hoạt động tín dụng. Thông thường, những khách hàng có thể không trả được món vay lại là người luôn muốn đi vay. Họ sẵn sàng chấp nhận một mức lãi suất cao và do đó họ dễ dàng được lựa chọn cho vay nhất. Đây chính là sự lựa chọn đối nghịch trong hoạt động tín dụng. Trong trường hợp khác, khách hàng khi đã có món tiền vay có thể thực hiện những hoạt động không mong muốn theo quan điểm của các ngân hàng, như vậy việc họ có thể đầu tư vào các dự án có độ rủi ro lớn và dẫn đến mất khả năng trả nợ. Đây chính là rủi ro đạo đức. Để có được những khoản vay chất lượng ngân hàng phải vượt qua những vấn đề về lựa chọn đối nghịch va rủi ro đạo đức này. Mà nguyên nhân của những vấn đề này là do thông tin không hoàn hảo, ngân hàng không thu thập đầy đủ thông tin về khách hàng của mình. Vai trò của công tác thu thập và xử lý thông tin không được coi nhẹ. Mặt khác, với một hệ thống thông tin tín dụng hoàn chỉnh có thể giúp cho ngân hàng có được cái nhìn sâu rộng, toàn diện hơn về môi trường kinh doanh, môi trường kinh tế từ đó đưa ra những quyết định đúng đắn trong hoạt động của mình. 1.3.2.3 Nhân tố thuộc về phía khách hàng Để đảm bảo khoản tín dụng sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả, mang lại lợi ích cho ngân hàng thì, góp phần vào sự tăng tưởng và phát triển kinh tế xã hội thì vai trò của ngân hàng là hết sức quan trọng. Một khách hàng có tư cách đạo đức tốt, tình hình tài chính lành mạnh sẽ có khả năng hoàn trả vốn vay của ngân hàng khi đến hạn qua đó đảm bảo an toàn và nâng cao chất lượng tín dụng. Nhóm nhân tố này phụ thuộc vào năng lực cả khách hàng, tư cách đạo đức của khách hàng. Năng lực của khách hàng Trước hết năng lực, trình độ của khách hàng là khả năng của doanh nghiệp trong việc đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn đòi hỏi của tín dụng. Điều kiện tín dụng được đưa ra nhằm chuẩn hoá khả năng của doanh nghiệp trong quá trình vay vốn đồng thời đảm bảo khả năng vay vốn của ngân hàng. Năng lực của khách hàng được đánh gía trên các mặt sau: Năng lực tài chính của doanh nghiệp Năng lực này biểu hiện ở nhiều góc độ và được các ngân hàng khác nhau đánh chấp nhận ở các mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào chính sách tín dụng của họ, nhưng nó biểu hiện trên các chỉ tiêu cơ bản về số tương đối và tuyệt đối được tính toán đối với khách hàng. Đó là: + Quy mô và chất lượng vốn tự có + Các khoản phải trả; + Các khoản phải thu; + Thời gian thanh khoản và sự ổn định gía cả của hàng tồn kho; + Sự thay đổi thanh khoản của khách hàng trong năm; + Lợi nhuận và sự ổn định của nó; + Các tài sản vô hình: sự tín nhiệm, nhãn hiệu bản quyền, bằng sáng chế, các đặc quyền được hưởng từ phía ngân hàng, thị trường,… + Các tỷ số cơ bản đựoc xét đến: Tỷ số khả năng thanh toán; Các tỷ số hoạt động; Các tỷ số ổn định tài chính; Các tỷ số sinh lời. Như vậy năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở mức vốn tự có của doanh nghiệp và tỷ trọng nguồn vốn tự có trên vốn huy động. Ngoài ra năng lực tài chính của doanh nghiệp còn thể hiện ở khả năng thanh toán đối với các khoản nợ, số vốn lưu động tối thiểu cho việc duy trì hoạt động thường xuyên của tài sản cố định. Vì vậy năng lực tài chính của khách hàng càng cao thì khả năng thanh toán của khách hàng càng tốt tạo điều kiện nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng. Năng lực sản xuất của doanh nghiệp Năng lực sản xuất của doanh nghiệp biểu hiện giá trị công cụ lao động mà chủ yếu là tài sản cố định, biểu hiện cụ thể của quá trình sản xuất sản phẩm, công nghệ sản xuất, các nhu cẩu trước đây. Nghiên cứu năng lực sản xuất của doanh nghiệp cho biết quy mô sản xuất của doanh nghiệp, sự phù hợp của quy mô đó với thị trường, cơ cấu và khả năng làm chủ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Năng lực thị trường và năng lực sản xuất tạo nên khả năng tìm kiếm lợi nhuận. Một điều kiện tín dụng đòi hỏi doanh nghiệp phải có sản xuất ổn định, phải kinh doanh có lãi, có năng lực sản xuất và quản lý đáp ứng một trình độ nhất định theo yêu cầu của thi trường. Năng lực thị trường của doanh nghiệp Năng lực thị trường của doanh nghiệp được lượng hoá theo các mặt: khối lượng sản phẩm tiêu thụ, chất lượng sản phẩm như thế nào, có phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng hay không. vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, mối quan hệ với nhà cung cấp và tiêu thụ…Nghiên cứu năng lực thị trường của doanh nghiệp cho biết khả năng mở rộng đầu tư của doanh nghiệp cũng như định hướng đầu tư của doanh nghiệp. Tư cách đạo đức của khách hàng Đây cũng là một yếu tố quan trọng tác động đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nếu như khách hàng có tư cách đạo đức không tốt, cố tình lừa đảo ngân hàng, cung cấp thông tin sai lệch làm cho sự đánh giá khách hàng của ngân hàng không chính xác dẫn đến các khoản tín dụng không lành mạnh, hoặc khách hàng chây ỳ không trả nợ sẽ là nguyên nhân làm giảm chất lượng tín dụng của ngân hàng. 1.3.3 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng 1.3.3.1 Các chỉ tiêu định tính Việc đánh giá định tính chất lượng tín dụng ngân hàng là rất khó khăn và không có chỉ tiêu nào cụ thể. Các ngân hàng khác nhau thì sẽ có những tiêu chuẩn khác nhau phù hợp với ngân hàng mình. Thông thường để đánh giá chất lượng tín dụng dựa trên một số tiêu chí như sau: + Việc cấp tín dụng có đảm bảo các yêu cầu về an toàn theo quy định của chính ngân hàng và của ngân hàng nhà nước không. + Việc cấp tín dụng có dựa trên các nguyên tắc của tín dụng ngân hàng hay không. Các nguyên tắc đó là: Khách hàng phải cam kết hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định. Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo mục đích đã thoả thuận vơí ngân hàng, không trái với quy định của pháp luật và các quy định của ngân hàng cấp trên. Ngân hàng tài trợ trên phương án hoặc dự án có hiệu quả. + Vốn vay có đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu vốn của khách hàng hay không + Uy tín và vị thế mà ngân hàng tạo dựng được trong kinh doanh. 1.3.3.2 Các chỉ tiêu định lượng Tỷ lệ nợ quá hạn Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và hoặc lãi đã quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn chính là tỷ lệ giữa khoản nợ gốc quá hạn hoặc tính cả tiền lãi quá hạn so với tổng dư nợ. Tỷ lệ nợ quá hạn / tổng dư nợ = Nợ quá hạn/ tổng dư nợ. Chỉ tiêu này cho biết trong 100 đồng dư nợ có bao hiêu đồng nợ quá hạn Cho vay với bản chất không thể thiếu là phải có thời hạn hoàn trả, là yếu tố quan trọng để đánh gía chất lượng cho vay. Khi một khoản vay được phát ra không được trả đúng hạn đã cam kết mà không có lý do chính đáng thì đều phải chuyển sang nợ quá hạn. Phần lớn các khoản nợ quá hạn là các khoản nợ có vấn đề, thể hiện tính an toàn trong cho vay của các ngân hàng thương mại không được đảm bảo vì những khoản nợ này có thể làm cho ngân hàng bị mất vốn vì những nguyên nhân khác nhau như sử dụng vốn sai mục đích, thua lỗ trong kinh doanh từ phía khách hàng …Do đó nợ quá hạn phát sinh là điều khó tránh khỏi. Để đánh giá chất lượng tín dụng của các ngân hàng người ta thường dùng chỉ tiêu nợ quá hạn, nợ xấu trên tổng dư nợ. Đây là chỉ tiêu quan trọng đánh gía chất lượng tín dụng của ngân hàng. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng là không tốt, độ an toàn tín dụng không cao. Tuy nhiên tỷ lệ này không xét đến các khoản tín dụng có nguy cơ quá hạn. Do đó các khoản cho vay tăng nhanh thì tỷ lệ này có thể không phản ánh chính xác chất lượng tín dụng. Tổng dư nợ tăng lên trong khi đó số nợ đến hạn chỉ tăng khi các khoản nợ đến kì hạn trả. Mặt khác các ngân hàng thương mại cũng cần chú ý khi sử dụng chỉ tiêu này. Bởi lẽ chỉ tiêu này có thể bị làm biến dạng thông qua việc giãn nợ, đảo nợ hoặc do định kì hạn nợ không đúng. Để đánh giá nợ quá hạn của ngân hàng một cách đầy đủ hơn người ta có thể sử dụng thêm các chỉ tiêu: Nợ quá hạn có khả năng thu hồi/ tổng dư nợ; Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi/ Tổng dư nợ; Nợ khó đòi/ tổng dư nợ… Để phân tích chất lượng tín dụng người ta chủ yếu phân tích nợ quá hạn và chia theo các tiêu thức sau: - Theo thời hạn: Theo thời gian nợ quá hạn được phân chia theo số ngày quá hạn của khoản nợ tính từ thời điểm chuyển sang nợ quá hạn. - Theo khả năng thu hồi: Nợ quá hạn có khả năng thu hồi và không có khả năng thu hồi. - Theo thành phần kinh tế. Ở Việt Nam hiện nay theo quy định của ngân hàng nhà nước thì tỷ lệ nợ xấu/ tổng dư noạ là một chỉ tiêu dùng để đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng. Theo QĐ 493/2005/QĐ-NHNH, thì ít nhất mỗi quý một lần trong thời hạn 15 ngày làm việc đầu tiên của tháng tiếp theo tổ chức tín dụng phân loại nợ gốc và trích lập dự phòng rủi ro đến thời điểm cuối ngáy làm việc cuối cùng của tháng, quý trước đó. Đồng thời tổ chức tín dụng phải phân loại nợ xấu, đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng trên cơ sở hàng tháng để phục vụ công tác quản lý chất lượng rủi ro tín dụng. Theo quyết định này thì nợ được chia làm 5 nhóm và nợ xấu là các khoản nợ từ nhóm 3-5. -Nợ nhóm 1:Nợ đủ tiêu chuẩn bao gồm + Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi đúng hạn. + Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và theo tổ chức tín dụng là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại. + Trường hợp khách hàng trả đầy đủ nợ gốc và lãi quá hạn và nợ gốc và lãi của các kì hạn nợ tiếp theo trong tối thiểu 6 tháng đối với các khoản nợ trung và dài hạn, 3 tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn kể từ ngày bắt đầu trả đầy đủ nợ gốc và lãi bị quá hạn và có hồ sơ chứng minh các nguyên nhân làn khoản nợ bị qúa hạn đã được xử lý khắc phục đồng thời tổ chức tín duụng có đầy đủ cơ sở đánh gía là khách hàng có khẳ năng trả nợ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại thì tổ chức tín dụng có thể phân loại khoản nợ đó vào nợ nhóm 1. -Nợ nhóm 2: Nợ cần chú ý + Các khoản nợ quá hạn từ 10 - dưới 90 ngày. + Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong thời hạn đã cơ cấu lại. Nợ nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn + Các khoản nợ quá hạn từ 91 đến 180 ngày + Các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã đã cơ cấu lại. + Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng. Nợ nhóm 4: Nợ nghi ngờ + Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày. + Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại. Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn Gồm các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày, các khoản nợ khoanh chờ chính phủ xử lý, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại. Vòng quay vốn tín dụng Doanh số thu nợ Vòng quay vốn tín dụng = Tổng dư nợ bình quân Vòng quay vốn tín dụng không chỉ ra trực tiếp chất lượng tín dụng nhưng nó phản ánh khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng của ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Vòng quay vốn tín dụng càng cao phản ánh tốc độ luân chuyển vốn tín dụng càng nhanh. Đây là chỉ tiêu thường được các ngân hàng thương mại tính toán hàng năm để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng, chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu khách hàng và phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích của ngân hàng, khách hàng và nhà nước. Trong hoạt động tín dụng các khoản vốn được cấp cho nhiều loại khách hàng, nhiều đối tượng khác nhau. Do vậy việc tính toán chỉ tiêu này chỉ có một tính chất tương đối nhưng lại có một ý nghĩa lớn trong việc đánh gía chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại. Số lượng khách hàng có quan hệ vay vốn Chất lượng tín dụng không chỉ là các khoản tín dụng lành mạnh, không có nợ quá hạn mà còn là khả năng đáp ứng tốt nguồn vốn vay của ngân hàng tạo đi._.o vay các doanh nghiệp nhà nước, quan tâm đến các mặt hàng kinh doanh lợi nhuận cao. - Vận dụng linh hoạt các cơ chế ưu đãi đối với khách hàng lớn, thường xuyên củng cố duy trì mối quan hệ với khách hàng truyền thống, giữ vững khách hàng đã có và thu hút khách hàng mới, trên cơ sở đảm bảo hiệu quả kinh doanh. - Tiến hành đánh giá, phân loại khách hàng theo văn bản 1406/NHNo-TD, đánh giá phân loại nợ theo Quyết định 165/QĐ-HĐQT tới 100 khách hàng có quan hệ với chi nhánh. - Thường xuyên duy trì các hoạt động kiểm tra, kiểm soát các mặt nghiệp vụ nhằm phát hiện, sửa chữa kịp thời các sai sót phát sinh, nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh. - Xây dựng quy trình thẩm định phù hợp với từng loại hình, từng đối tượng cho vay.. - Không ngừng nâng cao trình độ cán bộ tín dụng và cán bộ thẩm định: Trong năm đã liên tục mở các lớp tập huấn cho cán bộ tín dụng về phân tích, đánh giá tài chính doanh nghiệp, học tập các văn bản mới của Ngân hàng No&PTNT Việt Nam. - Chi nhánh đã đáp ứng một cách nhanh chóng, đầy đủ nhu cầu vốn lưu động của các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Qua đó ngân hàng đã góp phần mở rộng và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đặc biệt là trong những năm qua ngân hàng đã chú trọng đến tín dụng trung và dài hạn, dư nợ tín dụng trung và dài hạn đã tăng lên qua các năm. 2.3.2 Những hạn chế còn tồn tại Tuy đã đạt đợc một số thành tựu nhất định song hoạt động tín dụng tại chi nhánh ngân hàng No&PTNT Tây Hà Nội vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần phải khắc phục trong những năm tới để có thể làm tốt công tác tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung. Mặc dù tổng dư nợ của ngân hàng tăng lên tuy nhiên song song với đó tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng đã liên tục tăng qua 3 năm. Đặc biệt trong năm 2007 tỷ lệ này tăng vọt lên 0.72% và trong đó hầu hết là các khoản nợ không có khả năng thu hồi cao (chủ yếu là các khoản nợ nhóm 5- nợ có khả năng mất vốn). Điều này cho thấy chất lượng tín dụng của ngân hàng trong thời gian qua đang bị giảm sút rõ rệt. Mặc dù vòng quay vốn tín dụng của chi nhánh là tương đối cao tuy nhiên do nợ quá hạn và nợ xấu phát sinh tăng và ít nhiều làm giảm vòng quay vốn tín dụng. Trong thời gian qua vòng quay vốn tín dụng đang có xu hướng giảm. Do đó đã ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng cũng như hoạt động kinh doanh làm giảm thu nhập của ngân hàng. Khả năng thu hút khách hàng còn yếu, số lượng khách hàng có quan hệ vay vốn với ngân hàng giảm dần qua các năm. 2.3.3Nguyên nhân 2.3.3.1 Nguyên nhân khách quan Như vậy ta thấy chất lượng tín dụng của chi nhánh trong những năm qua còn nhiều hạn chế cần khắc phục. Để có thể đưa ra được các biện pháp đúng đắn và mang lại hiệu quả cao chúng ta cần phải nhìn nhận những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên. Trong đó nguyên nhân nguyên nhân khách quan cũng đóng một vai trò quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Thứ nhất: Nguyên nhân thuộc về phía môi trường Môi trường kinh tế có nhiều bất lợi cho ngân hàng: Tứ sau khi Việt Nam ra nhập WTO thì nền kinh tế mặc dù có những cải cách mạnh mẽ và chuyển biến tích cực, tuy nhiên mặt khác các ngân hàng thương mại đua nhau mở thêm chi nhánh và mở rộng mạng lưới, do đó sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt trên nhiều mặt: lãi suất, phí dịch vụ…và làm giảm số lượng khách hàng của chi nhánh. Trong những năm qua nước ta thường xuyên đối phó với thiên tai, dịch bệnh như cúm gia cầm, dịch lở mồm long móng, …ảnh hưởng xấu đến đời sống nhân dân và gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Dẫn đến làm suy giảm khả năng thu hồi vốn của ngân hàng. Hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập và thiếu đồng bộ. Đặc biệt một số chính sách liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng như: tiến độ cấp giấy sử dụng đất, sắp xếp lại các doanh nghiệp, cổ phần hoá các doanh nghiệp triển khai còn chậm đã ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng. Mặt khác mặc dù chính phủ, ngân hàng nhà nước và các bộ ngành liên quan đã ban hành hơn 20 văn bản pháp luật, quy định, thông tư nhằm hướng dẫn thực hiện các biện pháp rủi ro tín dụng. Nhưng trên thực tế những văn bản, quy định này vẫn chưa thực sự phát huy tác dụng đã ảnh hưởng ít nhiều đến công tác quản lý chât lượng tín dụng tại ngân hàng. Thứ 2: Nguyên nhân thuộc về phía khách hàng Thông tin mà khách hàng cung câp còn hạn chế: Các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với chi nhánh chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và kinh tế hộ gia đình. Thời gian hoạt động của các doanh nghiệp còn chưa lâu, do đó nguồn thông tin mà khách hàng cung cấp còn hạn chế. Mặt khác việc thực hiện công tác tài chính, kế toán trong các doanh nghiệp còn chưa nghiêm túc. Các doanh nghiệp vì muốn vay vốn của ngân hàng nên nộp bản báo cáo tài chính sai lệch không đúng với thực tế. Chính những điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến công tác thẩm định của ngân hàng, dẫn đến đánh giá sai lệch về khách hàng vay, làm giảm chất lượng tín dụng. Một số khách hàng cố tình chây ì, mặc dù có khả năng nhưng thiếu ý chí trả nợ khiến công tác thu hồi nợ gặp nhiều khó khăn. Một nguyên nhân nữa có thể kể đến là sự yếu kém trong năng lực quản lý của khách hàng. Như đã phân tích, đối tượng trọng điểm cho vay của chi nhánh là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đây là thành phần kinh tế được đánh giá là năng động, có cơ hội phát triển trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là trình độ quản lý của các doanh nghiệp còn chưa cao, chưa theo kịp trình độ phát triển của nền kinh tế thi trường. Vì thế các doanh nghiệp rất dêx gặp rủi ro trong kinh doanh và suy giảm khả năng trả nợ cho ngân hàng. 2.3.3.2 Nguyên nhân chủ quan Chi nhánh ngân hàng No&PTNT Tây Hà Nội đi vào hoạt động được 05 năm, trụ sở làm việc của chi nhánh phần lớn phải đi thuê, chưa mang tính ổn định lâu dài, thiếu đồng bộ, chi phí cao, đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình hoạt động kinh doanh và phần nào tác động đến hoạt động tín dụng của ngân hàng. Là đơn vị mới thành lập nên cơ cấu nguồn chưa hợp lý, vốn dài hạn chiếm tỷ trọng thấp, lãi suất đầu vào cao, không ổn định. Đây là một khó khăn lớn cho chi nhánh trong việc hoạch định chính sách cho vay một cách hợp lý gây ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của mình. Công tác thẩm định tín dụng tiến hành chưa thực sự hiệu qủa. Trong quá trình thẩm định cán bộ tín dụng chủ yếu dựa vào các thông tin do khách hàng mang đến trong khi tính trung thực của nguồn thông tin này là không đảm bảo. - Trình độ, năng lực của cán bộ tín dụng còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu công việc. Ngân hàng No&PTNT Tây Hà Nội là chi nhánh mới thành lập, các cán bộ ngân hàng chủ yếu trong diện cơ cấu và đào tạo lại, các cán bộ trẻ, năng động, sáng tạo chiếm tỉ lệ không cao. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tín dụng của ngân hàng. - Công tác kiểm tra, kiểm soát sau khi vay đối với khách hàng còn bị buông lỏng, đặc biệt đối với những doanh nghiệp có quan hệ tín dụng lâu dài. Đây là những đối tượng mà các cán bộ tín dụng có tâm lý cả nể, tin khách hàng mà bỏ qua công tác kiểm tra định kì. Vì thế không kịp phát hiện những dấu hiệu bất thường trong hoạt động của doanh nghiệp, gây nên nợ quá hạn. - Công tác maketing của ngân hàng còn chưa cao, chưa chủ động tìm đến với khách hàng. Do đó chi nhánh không mở rộng được cho vay, số lượng khách hàng vay vốn giảm sút. - Quy trình cho vay còn chưa được thực hiện chặt chẽ. Quy trình cho vay là quy trình bắt buộc phải thực hiện trong quá trình thẩm định cho vay, giám sát và thu nợ các khoản vay nằhm đảm bảo an toàn và nâng cao chất lượng vốn vay. Song trong quá trình thực hiện còn chưa đầy đủ, nghiêm túc từ đó ảnh hưởng đến chất lượng khoản vay. Bước chuẩn bị cho vay, phát tiền vay còn tồn tại như: từ khi nhận đựoc giấy đề ghị vay vốn của khách hàng, quá trình tiếp cận, thẩm định mục đích và đièu kiện vay vốn còn sơ sài , chưa tận tình chi tiết để khách hàng phải đi lại nhiều lần, chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của khách hàng. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI NHNo&PTNT TÂY HÀ NỘI 3.1 Mục tiêu, định hướng hoạt động của NHNo&PTNT Tây Hà Nội trong thời gian tới 3.1.1 Mục tiêu. Về huy động vốn: Nâng dần tỷ trọng nguồn vốn huy động từ dân cư nhất là nguồn vốn trung và dài hạn, tiến tới tự cân đối một cách vững chắc nguồn vốn để đầu tư. Về công tác tín dụng: Từng bước chuyển đổi cơ cấu đầu tư, đối tượng đầu tư, cho vay hộ kinh doanh và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chú trọng công tác đào tạo và đò tạo lại cán bộ, không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu của hoạt động kinh doanh. Về các chỉ tiêu cụ thể: + Tổng nguồn vốn đạt trên 3000 tỷ đồng, tăng trưởng hơn 20% so với năm 2007 (loại trừ vốn vay các TCTD). Trong đó tiền gửi dân cư chiếm trên 40% + Tổng dư nợ đạt 2500 tỷ đồng (không kể nguồn cho vay uỷ thác đầu tư) tăng trưởng 20% so với năm 2007. + Tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ < 5% + Đủ quỹ lương, thưởng theo quy định, lợi nhuận đạt 30 tỷ. 3.1.2 Định hướng Tiếp tục lựa chọn định hướng kinh doanh đã lựa chọn, điều chỉnh chiến lược kinh doanh phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế, đảm bảo tăng trưởng đều và vững chắc. Mở rộng quy mô gắn với nâng cao chất lượng,hiệu quả kinh doanh, Đa dạng các hình thức huy động vốn với lãi suất linh hoạt, tiếp tục mở rộng hình thức tín dụng bậc thang, tiết kiệm gửi góp, rút gốc linh hoạt, tiết kiệm có thưởng. Đồng thưòi làm tốt công tác huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, tài chính, gắn với cung cấp tối đa các dịch vụ tiện ích cho khách hàng, thực hiện chi tả lương cho cán bộ, công nhân viên cảu các tổ chức. Từng bước nâng cao tỷ trọng nguồn vốn có tính ổn định, có mức lãi suất đầu vào hợp lý. Tiếp tục duy trì và mở rộng tín dụng với các doanh nghiệp vay vốn truyền thống, tín nhiệm tại chi nhánh, các tổng công ty và các thành viên sản xuất kinh doanh có tính ổn định và hiệ quả. Tăng cường tiếp cận và mở rộng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp dân doanh. Mặt khác, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nghiệp vụ, nâng cao chất lượng công tác thẩm định, kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay, coi trọng chất lượng tín dụng, đảm bảo các khoản cho vay thu đầy đủ, kịp thời cả gốc và lãi. Tiếp tục điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn và cơ cấu đầu tư tín dụng theo hướng quản trị rủi ro lãi suất, kiên trì áp dụng lãi suất cho vay phù hợp, nâng cao năng lực tài chính. Triển khai mạnh mẽ công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ để tạo ra ưu thế trong cạnh tranh, dảm bảo việc làm và thu nhập cho người lao động trong chi nhánh. Phát huy truyền thống đơn vị anh hùng trong thưòi kì đổi mới của NHNo&PTNT Việt Nam, truyền thống đoàn kết giữa chuyên môn – chi bộ Đảng – Công đoàn. Tập thể chông nhân viên chức phần đấu thi đua hoàn thành tốt các nhiệm vụ, mục tiêu đề ra. Phấn đấu trở thành đơn vị đứng đầu trong toàn hệ thống. 3.2 Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội 3.2.1 Tăng cường công tác đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Cán bộ tín dụng là một nhân tố quan trọng quyết định đến chất lượng tín dụng. Cán bộ tín dụng phải có kiến thức phong phú về nhiều ngành lĩnh vực, có khả năng nắm bắt những thay đổi của thị trường. Như vậy mới có thể cho vay một cách hiệu quả. Do đó chi nhánh cần tạo điều kiện nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ của mình đặc biệt là đội ngũ cán bộ tín dụng để nâng cao hiệu quả hạot động của mình. Hàng kì chi nhánh cần mở các lớp đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ. Bồi dưỡng kiến thức pháp luật để đáp ứng với những yêu cầu hội nhập trong thời gian tới. Ngoài ra cũng cần phải giáo dục tư cách, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng. Những ngưòi làm công tác tín dụng là những người trực tiếp gặp gỡ khách hàng, thẩm định khách hàng, xem xét tài sản thế chấp. Do đó phải thường xuyên làm công tác tư tưởng cho nhân viên tín dụng. 3.2.2 Thực hiện nghiêm túc công tác kiểm tra, giám sát sau khi cho vay Kiểm tra, kiểm soát sau khi cho vay không những có thể ngăn chặn được ý đồ sử dụng tiền vay không đúng mục đích của khách hàng mà còn có thể giúp ngân hàng xác định được dấu hiệu của các khoản vay có vấn đề từ đó ngân hàng có các biwnj pháp xử lý kịp thời, hạn chế đến mức thấp nhất tổn thất xảy ra. Do vậy nâng cao chất lượng tín dụng chi nhánh cần phải thực hiện một cách nghiêm túc công tác kiểm tra, kiêm soát sau khi cho vay tránh tình trạng qua loa, chiếu lệ + Định kì hàng tháng, hàng quý cán bộ tín dụng phải tiến hành kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay cảu ngân hàng thông qua sổ sách hạch toán thưo dõi của kháchh hàng, hoá đơn chứng từ cũng như thông qua việc thị sát tiến độ thực hiện dự án, phương thức sản xuất kinh doanh của khách hàng. + Khi nhận được các báo cáo tài chính của khách hàng cán bộ tín dụng phải theo dõi, phân tích tìnhg hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của khách hàng vay vốn…để xác địnhcác biến động ảnh hưởng lớn đến khả năng trả nợ cảu khách hàng. + Đối với tài sản đảm bảo là máy móc thiết bị, nhà xưởng cán bộ tín dụng phải thưòng xuyên kiểm tra trên hồ sơ bảo đảm tiền vayvà kiểm tra tài sản tại hiện trường để kịp thời xử lý các vấn đề phát sinh như: mất mát, hư hỏng, làm giảm giá trị, có sự chuyển nhượng người sở hữu, những biến động về gía trị thị trường của tài sản…Còn đối với trường hợp bảo đảm là bảo lãnh của bên thứ ba cán bộ tín dụng phải thưòng xuyên theo dõi năng lực tài chính của người bảo lãnh. Bên cạnh công tác kiểm tra kiểm soát khách hàng, chi nhánh cũng phải thường cuyên kiểm tra, kiểm soát nội bộ để có thể phát hiện và ngăn chặn kịp thời những sai sót trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng. 3.2.3 Nâng cao chất lượng công tác thẩm định khách hàng Nâng cao chất lượng công tác thẩm định khách hàng chính là cơ sở để hình thành các khoản vay tốt, có độ an toàn cao. Và để hình thành bước công việc này cần tựhc hiện các biện pháp cụ thể sau: 3.2.3.1 Nâng cao khả năng thu thập thông tin Nguồn thông tin đầu tiên mà cán bộ tín dụng nhận đựoc chính là nguồn thông tin từ bộ hồ sơ vay vốn của khách hàng.cung cấp. Tuy nhiên trong điều kiện Việt Nam hiện nay tính chính xác của nguồn thông tin này thường không cao. Do đó cán bộ tín dụng cần phải thu thập thêm các thông tin thông qua việc trực tiếp gặp gỡ khách hàng, phỏng vấn, tham quan nhà xưởng, xem xét tài sản thế chấp…giúp ngân hàng có những nhận định chính xác hơn. Ngoài hai nguồn thông tin trên cán bộ tín dụng còn có thể thu thập thông tin từ các ngân hàng khác đã có quan hệ với người vay, những doanh nghiệp có quan hệ với ngưòi xin vay, đặc biệt là các doanh nghiệp bán nguyên vật liệu và doanh nghiệp tiêu thu sản phẩm của khách hàng. Qua đó có thể thấy được rõ hơn về năng lực tài chính, năng lực sản xuất và khả năng tiêu thu sản phẩm của khách hàng. Những người làm công tác cho vay cũng cần quan tâm đến nguồn thông tin từ trung tâm phòng ngừa và xử lý rủi ro tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam, từ thông tin tín dụng của ngân hàng nhà nước, thông tin từ báo chí, internet.. 3.2.3.2 Nâng cao khả năng đánh giá, phân tích khách hàng Từ những thông tin có đựơc, cán bộ tín dụng phải tiến hành đánh giá, phân tích thông tin của khách hàng. Đây là bước công việc cần thực hiện nghiêm túc không thể qua loa chiếu lệ, tuy nhiên phải đảm bảo nhanh gọn, tiết kiệm chi phí đến mức thấp nhất. Trong quá, trình phân tích đánh giá cần chú ý những nội dung sau; Năng lực pháp lý của khách hàng: Cần kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ pháp lý bao gồm :giấy phép thành lập doanh nghiệp, giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, quyết định bổ nhiệm Giám đốc, Phó giám đốc, quyết định bổ nhiệm kế toán trưởng, nghị quyết về việc xin vay của HĐQT…. Uy tín của khách hàng: Năng lực tài chính của khách hàng: Đây là nội dung vô cùng quan trọng trong quá trình phân tích khách hàng. Phân tích tài chính giúp cho ngân hàng có thể biết được khả năng trả nợ của khách hàng đồng thời xác định kì hạn nợ hợp lý phù hợp với nhu cầu của khách hàng . Phương pháp được áp dụng phổ biến trong phân tích tài chính là phương pháp phân tích tỷ số. Tuy nhiên khi sử dụng các tỷ số này cán bộ tín dụng cần chú ý rằng các tỷ số này thường được cấu tạo từ 2 số có bản chất khác nhau do đó tìm kiếm các số có mối tương quan với nhau là điều cần thiết và tuỳ vào từng trường hợp cụ thể mà cán bộ tín dụng nên chú trọng vào nhóm tỷ số này hay nhóm tỷ số khác. Nhóm tỷ số dùng để phân tích bao gồm: + Nhóm tỷ số về khả năng thanh toán: Cho biết khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của khách hàng. Khả năng thanh toán có thể được đo bằng tỷ số khả năng thanh toán hiện thời và tỷ số thanh toán nhanh. + Nhóm tỷ số nợ: Phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp. Tỷ số nợ trên tổng tài sản: Tỷ số này đánh giá mức độ sử dụng nợ để tài trợ cho toàn bộ tài sản của người vay. Nói chung khi tỷ số này càng thấp thì khoản cho vay càng được đảm bảo. Tỷ số nợ trên vốn chủ sở hữu: Tỷ số này đánh giá khả năng sử dụng nợ của khách hàng, qua đó đo lường khả năng tự chủ tài chính của người vay. + Nhóm tỷ số về khả năng hoạt động: Phân tích tỷ số này để hiểu thêm về hiệu qủa hoạt động của người vay. + Nhóm tỷ số về khả năng sinh lời: Nhóm tỷ số này cho biết khả năng tạo ra lợ nhuận của người vay. Thực ra khả năng trả nợ của khách hàng xuất phát từ khả năng tạo thu nhập của khách hàng. Nhóm tỷ số này cao chứng tỏ khả năng trả nợ trong dài hạn của doanh nghiệp là tốt. Khả năng sinh lời được biểu hiện qua các tỷ số: Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm: Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia lợi nhuận sau thuế cho doanh thu. Nó phản ánh số lợi nhuận sau thuế trên 1 đồng doanh thu. Doanh lợi vốn chủ sở hữu: chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia lợi nhuận sau thuế cho vốn chủ sở hữu. Đứng trên góc độ ngân hàng thường quan tâm đến lợi nhuận trước thuế vì phần trả nợ gốc và lãi là phần chi trước thuế. Tuy nhiên nếu người vay có ROE cao + Tỷ số về khả năng hoàn trả lãi vay: tỷ số này cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm của khách hàng. Nó được tính bằng tỷ số giữa lợi nhuận trước thuế và lãi trên lãi vay. +Doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE):chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia lợi nhuận sau thuế cho vốn chủ sở hữu. nó phản ánh khả năng sinh lời của một đồng vốn chủ. ROE càng cao thì khả năng sinh lời của doanh nghiệp càng lớn khả năng trả nợ của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. + Doanh lợi tài sản (ROA): chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế cho tổng tài sản. Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất dùng để đánh giá khả năng sinh lời của một đồng vốn đầu tư. Phương án vay vốn của khách hàng Đánh giá phương án vay vốn của khách hàng là vô cùng quan trọng. Thông qua việc thẩm định phương án vay vốn, ngân hàng có thể đánh giá được tính hiệu quả, khả thi của phương án. Hơn thế nữa khi thẩm định phương án vay vốn của khách hàng, cán bộ tín dụng cần phải tìm ra những cơ sở để tham gia góp ý, tư vấn cho khách hàng vay, xác định số tiền cho vay thời gian vay, dự kiến tiến độ giải ngân, các điều kiện cho vay…Từ đó tạo tiền đề cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả đảm bảo tính an toàn của khoản vay. Tài sản đảm bảo Tài sản đảm bảo chính là nguồn trả nợ thứ 2 ngân hàng. Nếu tài sản đảm bảo có giá trị thị trường lớn, có tính thanh khoản cao sẽ góp phần làm giảm tổn thất cho ngân hàng khi có rủi ro tín dụng xảy ra. Khi xem xét đến tài sản đảm bảo cán bộ tín dụng cần xem xét tính đầy đủ, pháp lý của dồ sơ tài sản đảm bảo,giá trị thị trường của tài sản đảm bảo… Môi trường kinh tế Cán bộ tín dụng cũng cần phải phân tích các điều kiện môi trường kinh tế, nhận biết các xu hướng phát triển gần đây của doanh nghiệp cũng như ngành mà khách hàng đang hoạt động, thấy được mức độ tác động của những thay đổi trong nền kinh tế đối với khoản vay. 3.2.4 Giải pháp đối với các khoản nợ quá hạn Để hạn chế đến mức thấp nhất khả năng tổn thất trong tương lai của ngân hàng, song song với việc thực hiện nghiêm túc về phân loại nợ và trích lạp dự phòng rủi ro của ngân hàng nhà nước, chi nhánh cần phân tích nguyên nhân, thực trạng nợ quá hạn để đưa ra các giải pháp khắc phục. Trong trường hợp khách hàng có khả năng tài chính khó khăn tạm thời song vẫn còn khả năng và ý chí trả nợ, chi nhánh nên áp dụng chính sách hỗ trợ như cho vay thêm, gia hạn nợ, …Điều này một mặt góp phần tạo điều kiện cho khách hàng trả nợ, một mặt nó góp phần củng cố mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng. Trong trường hợp khách hàng cố tình chây ì không có khả năng trả nợ chi nhánh nên thực hiện chính sách thanh lý như bán tài sản thế chấp, phong toả tài sản thế chấp, trong trường hợp tài sản thế chấp không đủ để xử lý rủi ro tín dụng thì dùng nguồn dự phòng để xử lý. Song song với những biện pháp trên, chi nhánh cũng nên chú ý đến việc tận thu nợ ngoại bảng. Việc tận thu nợ ngoại bảng hay đã xử lý rủi ro chính là góp phần lành mạnh hoá tài chính của chi nhánh. Đồng thời trong quá trình tận thu nợ ngoại bảng ngân hàng cần chú trọng vấn đề bảo mật thông tin không đưọơc tiết lộ thông tin cho khách hàng biết về việc đã xử lý rủi ro tín dụng, tránh tình trạng khách hàng biết cố tình chây ì không trả. 3.2.5 Các giải pháp hỗ trợ khác 3.2.5.1 Đẩy mạnh hoạt động huy động vốn Hoạt động huy động vốn tạo điều kiên cho hoạt hộng tín dụng của ngân hàng giúp cho ngân hàng có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu cay vốn của khách hàng. Tính chất và đặc điểm của nguồn huy động được ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách tín dụng của ngân hàng. Do đó cần phải đẩy mạnh hoạt động huy động vốn đồng thời xây dựng cơ cầu nguông huy động hợp lý nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của chi nhánh. 3.2.5.2 Nâng cao trình độ công nghệ ngân hàng Công nghệ ngân hàng là một yêu cầu hết sức cơ bản. Do kinh doanh trong lĩnh vực đặc biệt, nhu cầu về thông tin và xử lý thông tin một cách chính xác và hiệu quả là điều vô cùng quan trong đối với ngân hàng đồng thời. Do đo cần phải chú trọng nâng cao trình độ công nghệ ngân hàng từ đó phục vụ tốt hơn cho hoạt động kinh doanh nói cung cũng như công tác tín dụng nói chung. 3.2.5.3 Cho vay gắn liền với sử dụng các dịch vụ, tiện ích của ngân hàng như(dịch vụ tài khoản thanh toán, phát hành thẻ tín dụng và dịch vụ ngân hàng điện tử) Đây là các dịch vụ bổ trợ cho hoạt động tín dụng nhằm giảm chi phí hoạt động cho ngân hàng và tăng thêm tiện ích cho khách hàng góp phần thu hút thêm khách hàng và việc quản lý chất lượng tín dụng của ngân hàng cũng tốt hơn. 3.2.5.4 Đẩy mạnh các hoạt động maketing Vai trò của maketing trong kinh doanh nói chung và trong kinh doanh ngân hàng nói riêng là không thể phủ nhận. Trước hết, maketing tham gia vcao việc giải quyết những vấn đề cơ bản cua hoạt động kinh doanh ngân hàng. Hoạt động maketing trở thành cầu nối gắn kết hoạt động của ngân hàng với thi trường. Đặc biệt hoạt động maketing tạo vị thế cạnh tranh cho ngân hàng. DO đó trong thời gian tới ngân hàng cần đẩy mạnh hoạt động maketing hơn nữa để thu hút khách hàng. 3.3 Kiến nghị 3.3.1 Kiến nghị với chính phủ Quốc hội cần ban hành mới và chỉnh sửa các luật kinh tế theo thông lệ quốc tế, có tầm bao quát rộng hơn để có thể được áp dụng lâu dài. Cụ thể là: chiỉnh sửa luật các tổ chức tín dụng cho phù hợp với sự phát triển của ngân hàng trong thời đại mới. Đồng thời sửa đổi các luật liên quan đến như luật doanh nghiệp, luật đất đai, luật phá sản…tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho hoạt động ngân hàng được an toàn phù hợp với xu thế hội nhập của nền kinh tế. Chính phủ nên chỉ đạo kiên quyết xử lý có kết quả công nợ dây dưa của nền kinh tế. Đồng thời cần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp quốc doanh, sát nhập, giải thể các doanh nghiệp nhà nước làm ăn không hiệu quả. Ổn định nền kinh tế vĩ mô góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp nói chung và hoạt động của các ngân hàng nói chung. 3.1.2 Kiến nghị với NHNN Việt Nam Ngân hàng nhà nước cần ban hành chặt chẽ các quy định về chuyển nợ thành vốn góp cổ phần giúp ngân hàng có cơ sở để tiến hành cải tổ lại hoạt động cảu doanh nghiệp để thu hồi nợ. Tăng cường công tác thanh tra hoạt động tín dụng của các ngân hàngthwơng mại, thường xuyên bám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng để sớm phát hiện và ngăn chặn kịp thời những sai phạm…xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Mặt khác tiếp ỵuc đào tạo lại và tăng cường đội ngũ thanh tra một cách sâu sắc và toàn diện hơn nữa. Thông qua kiểm tra, giám sát nhằm tăng cường tính công khai minh bạch trong hoạt động ngân hàng để củng cố lòng tin của nhân dân vào hệ thống ngân hàng Việt Nam. Hoàn thiện và phát triển hệ thống thông tin tín dụng (CIC) của ngành ngân hàng nâng cao chất lượng phục vụ của ngân hàng và các doanh nghiệp. Matk khác cũng cần quy định một mức độ liên đới trách nhiệm nhất định của CIC trong trường hợp NHTM, TCTD bị rủi ro, thiệt hại do sử dụng thông tin thiếu chính xác của trung tâm cung cấp. Trung tâm tín dụng CIC: + Cung cấp thông tin kịp thời, chính xác, đầy đủ về tình hình tài chính của từng khách hàng cũng như từng ngành, vùng kinh tế. + Xây dựng hệ thống định mức tín nhiệm doanh nghiệp phù hợp. + Cung cấp thông tin cảnh báo sớm cho các ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại phải đi đầu trong việc công khai hoá tình hình tài chính cvà có chế độ báo cáo định kì hàng năm. 3.3.3 Kiến nghị với NHNo&PTNT Việt Nam Ngân hàng No&PTNT Việt Nam cần tăng cường vai trò kiểm tra, kiểm toán nội bộ với từng chi nhánh trực thuộc. Đồng thời phải hoàn thiện, đổi mới bộ máy kiểm tra, kiểm toán thành một hệ thống từ trụ sở đến các đơn vị cơ sở. Việc kiểm tra phải đựoc tiến hành thường xuyên toàn diện và chính xác để kịp thời phát hiện và xử lý những rủi ro một cách kịp thời trước trong và sau khi cho vay. Bên cạnh đó cần có những chỉ đạo, hướng dẫn các chi nhánh để có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các chi nhánh để tránh tình trạng cạnh tranh nội bộ không lành mạnh làm ảnh hưởng tới xu thế phát triển chung của NHNo&PTNT Việt Nam. Bám sát định hướng, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước để từ đó có kế hoạch, định hướng phát triển cho riêng mình. NHNo&PTNT cần xây dựng kế hoạch đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như các kiến thức về quản trị, về nghiệpvụ ngân hàng hiện đại ở cả trong và ngoài nước nhằm bắt kịp sự phát triển như vũ bão của ngành ngân hàng trong nền kinh tế hiện nay. NHNo&PTNT Việt Nam cần triển khai tốt hơn nữa chương trình IPCAS, triển khai phần mềm ứng dụng và vấn tin (phone banking) cho các chi nhánh trên điạ bàn cũng như cho chi nhánh NHNo&PTNT Tây Hà Nội. Ngoài ra cần phải điều chỉnh lại cơ chế về phí điều hoà vốn: Cần điều chỉnh lại phí điều hoà vốn cì hiện naylãi suất huy động vốn tăng cao (huy động chủ yếu là loại 7 tháng, 12 và 13 tháng) như vậy sẽ bị lỗ đối với các đơn vị thừa vốn. Xây dựng quy trình tín dụng hợp lý. Với quy trình tín dụng hiện nay của NHNo&PTNT Việt Nam, cán bộ tín dụng là người phải trực tiếp nhận đơn xin vay của khách hàng; kiểm tra tính xác thực đầy đủ của hồ sơ xin vay, các diều kiện vay vốn. Thẩm định kiểm tra đối tượng vay, theo dõi việc sử dụng vốn vay và đôn đốc khách hàng trả nợ. Và như vậy tình trạng bỏ bớt khâu công việc hoặc làm qua loa, đại khái là điều khó tránh khỏi. Hậu quả là phát sinh nợ quá hạn, chất lượng tín dụng giảm sút. Thực hiện tốt công tác dự báo và định hướng tín dụng cho các chi nhánh trong từng giai đpạn phát triển kinh tế, tránh tình trạng rủi ro tín dụng xảy ra ở nhiều chi nhánh mới có những khuyến cáo. Ngân hàng No&PTNT Việt Nam nên có những biện pháp nhằm thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, tập trung nhiều vào việc phát triển các dịch vụ. Vì sự phát triển của thị trường chứng khoán hiện nay đang làm giảm đi vai trò trung gian đơn thuần về tín dụng. Bởi lẽ thay vì huy động vốn thông qua ngân hàng thì giờ đây các doanh nghiệp có thể huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Điều này buộc các ngân hàng thương mại phải thay đổi phương thức hoạt động thực hiện đa dạng hoá sản phẩm tập trung nhiều vào phát triển các dịch vụ. Để thực hiện chiến lược này thành công, NHNo&PTNT Việt Nam cần chú ý nghiên cứu các dịch vụ của ngân hàng thế giới đã triển khai. Bên cạnh đó cần có những nghiên cứu cụ thể về nhu cầu trong nước để có những sửa đổi hoặc cải tiến cho phù hợp. KẾT LUẬN Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng không ngừng lớn mạnh và ngày càng thể hiện vai trò trụ cột của nền kinh tế nước nhà. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt đựoc vẫn còn tồn tại những khó khăn, vướng mắc cần khắc phụ. Một trong những vấn đề đó đã dược đề cập trong đề tài là những khó khăn, vướng mắc trong việc nâng cao chất lượng tín dụng trong các ngân hàng thương mại. Qua bài trình bày trên ta thấy được nhno&PTNT Tây Hà Nội từ khi ra đời đã gặt hái đựoc những thành công nhất định, dư nợ tín dụng liên tục tăng qua các năm với cơ cấu nguồn ngày càng phù hợp hơn đảm bảo thực hiện đúng chủ trương của nhà nước. Mặc dù vậy chất lượng tín dụng của chi nhánh còn chưa cao và có xu hướng giảm đi qua các năm.Trong những năm tới ngân hàng cần cố gắng hết mình trong công cuộc triển khai và nâng cao chất lượng tín dụng của chi nhánh để có thể hạn chế rủi ro tín dụng một cách thấp nhất đảm bảo hoạt động kinh doanh diễn ra thuận lợi và an toàn và tác động tích cực tới nền kinh tế. Tuy nhiên việc tổ chức và thực hiện việc nâng cao chất lượng tín dụng không phải là một việc làm đơn giản có thể thực hiện đựoc trong một sớm một chiều. Vì nó liên quan đến nhiều mặt trong hoạt động của ngân hàng. Để thành công không những cần sự cố gắng của bản thân chi nhánh mà cần có sự quan tâm chỉ đạo kịp thời của ngân hàng cấp trên cũng như các ngành hữu quan. Với những kiến thức được học, cùng với bầu nhiệt huyết của một sinh viên sắp tốt nghiệp cũng như những gì lĩnh hội được sau 3 tháng thực tập em hy vọng với những phân tích, nhận định, giải pháp, kiến nghị…trong bài viết này có thể ứng dụng không chỉ trong chi nhánh mà còn có thể ứng dụng cho các ngân hàng thương mại. Với những gì đã trình bày em hy vọng mình có thể đóng góp một phần nhỏ bé cùng chunh sức với các cán bộ của ngân hàng tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của chi nhánh nói riêng và các ngân hàng thương mại nói chung. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7623.doc
Tài liệu liên quan