LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm qua hệ thống ngân hàng của nước ta đã đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế xã hội. Và chưa bao giờ hoạt động ngân hàng lại sôi động như hiện nay. Với sự có mặt của ngân hàng chúng ta có thể nhận được các nguồn tài trợ cần thiết khi chúng ta cần thành lập doanh nghiệp, khi chúng ta có những dự án kinh doanh hiệu quả mà nguồn vốn trong tay không đủ để tài trợ cho dự án đó. Hiện nay hoạt động của ngân hàng thương mại rất đa dạng và phong phú, các ngân hàng ngày
61 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1230 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Hà Tĩnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
càng cho ra thị trường nhiều dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của lượng khách hàng đến với ngân hàng ngày càng đông. Cùng với tiết kiệm và thanh toán thì tín dụng là một trong những hoạt động cơ bản nhất, truyền thống nhất của ngân hàng, không có một ngân hàng nào trên thế giới này mà không thực hiện hoạt động tín dụng. Thông qua hoạt động tín dụng các ngân hàng thương mại đã góp phần cung ứng vốn cho nền kinh tế. Đây là hoạt động mang lại lợi nhuận lớn nhất cho các ngân hàng nhưng cũng là hoạt động có rủi ro rất lớn.
Sau gần 4 tháng thực tập tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Tĩnh, cùng với những kiến thức đựơc học tại trường về tín dụng em xin chọn đề tài : “ Nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Tĩnh”
Kết cấu của chuyên đề ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì phần nội dung gồm ba chương
Chương I: Lý luận chất lượng tín dụng ngân hàng
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn trong những năm gần đây
Chương II: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Tĩnh
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các cô chú cán bộ nhân viên trong ngân hàng đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập tại ngân hàng. Đồng thời em cũng xin trân trọng cảm ơn sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo đã hướng dẫn tận tình để em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp của mình.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1.Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1.1 Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng là người cho vay đối với hàng triệu hộ gia đình và với hầu hết các cơ quan chính quyền địa phương… hơn nữa đối với các doanh nghiệp nhỏ ở địa phương, tư những người bán rau quả nhỏ tới người kinh doanh ôtô ngân hàng là người cung cấp tín dụng cơ bản phục vụ cho việc mua hàng hoá dự trữ hoặc ôtô trưng bày. Khi kinh doanh người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hoá dịch vụ, họ thường sử dụng séc, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử. Và khi cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính họ thường tìm đến ngân hàng để nhận được lời tư vấn. Thật khó có thể tưởng tượng nền kinh tế sẽ vận hành như thế nào khi ngân hàng biến mất.
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Theo các nhà ngôn ngữ học cả tiếng Pháp Banque và tiếng Ý Banca đã được sử dụng từ nhiều thế kỉ trước để chỉ “bàn của những người đổi tiền” - họ là những người đổi tiền thường ngồi ở bàn, hoặc hiệu nhỏ trong các trung tâm thương mại giúp các nhà du lịch đến đổi tiền và chiết khấu các thương phiếu. Tuy nhiên hình thức ngân hàng đầu tiên là ngân hàng của các thợ vàng hoặc ngân hàng của nhũng kẻ cho vay nặng lãi- thực hiện cho vay với các cá nhân, chủ yếu là người giàu, quan lại, địa chủ... nhằm mục đích phục vụ cho vay tiêu dùng. Hình thức cho vay chủ yếu là thấu chi do vậy rủi ro rất lớn và kết quả là dẫn đến sự ra đời của ngân hàng nhà buôn – đây chính là hình thức của ngân hàng thương mại. Sự ra đời của ngân hàng thương mại gắn liền với sự phát triển của tư bản thương nghiệp, với sự luân chuyển của tư bản thương nghiệp. Các ngân hàng nhà buôn vẫn thực hiện các nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng thợ vàng, điểm khác biệt giữa ngân hàng thương mại và ngân hàng thợ vàng trước đó là các ngân hàng thương mại cho các nhà buôn vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu. lúc đầu các ngân hàng thương mại chỉ cho vay ngắn hạn nhưng không cho vay tiêu dùng, không cho vay đối với nhà nước. Trước đây các ngân hàng thương mại đều được phát hành tiền dẫn đến sự khó khăn trong thanh toán và do vậy một số ngân hàng có uy tín đứng ra làm nhiệm vụ phát hành tiền và giám sát hoạt động của các ngân hàng thương mại đó là các ngân hàng Trung ương.
Cùng với sự phát triển của kinh tế và khoa học công nghệ, hoạt động ngân hàng đã phát triển rất nhanh và do vậy cũng đã có nhiều hình thức ngân hàng ra đời với nhiều dịch vụ mới phát triển hơn.
Peters.Rose đã đưa ra khái niệm về ngân hàng như sau: Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng , tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức tài chính nào trong nền kinh tế. .
1.1.2 Vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
Trong khi nhiều người chỉ tin rằng ngân hàng chỉ đóng vai trò rất nhỏ trong nền kinh tế - chỉ nhận gửi và cho vay, thì trên thực tế một ngân hàng hiện đại đã phải thực hiện rất nhiều vai trò trong nền kinh tế thì mới có thể tăng cường khả năng cạnh tranh của mình và đáp ứng nhu cầu bức thiết của xã hội. Các ngân hàng ngày nay có thể nói đang thực hiện những vai trò sau.
1.1.2.1.Vai trò trung gian
Chuyển các khoản tiền nhàn rỗi trong dân chúng vào lưu thông. Trong thực tế luôn có những người có nguồn vốn dư thừa trong khi đó lại cóp những người có các cơ hội kinh doanh thuận lợi nhưng không có vốn. Và lúc này ngân hàng sẽ đứng ra giúp hai bên để cả ba cùng có lợi, người thừa tiền kiếm được tiền từ cho vay, người có cơ hội kinh doanh có vốn kinh doanh và thu lợi nhuận, còn ngân hàng sẻ kiếm được một khoản giống như là hoa hồng khi giúp được cả hai bên cùng có lợi. Sự tồn tại của ngân hàng là rât cần thiết vì hai đối tượng trên nếu quan hệ trực tiếp thì sẽ gặp rất nhiều trở ngại về không gian và thời gian. Hơn nữa hiện tượng thông tin không cân xứng luôn tồn tại trong hệ thống tài chính, và khả năng thẩm định thông tin của ngân hàng là rát tốt.
1.1.2.2.Vai trò thanh toán
Ngay từ khi ra đời ngân hàng đã thực hiện vai trò này, đó là việc chiết khấu các thương phiếu cho các thương gia khi họ tham gia thương mai quốc tế. Ngân hàng sẽ thay mặt khách hàng của mình thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ. Để việc thanh toán diễn ra nhanh chóng và tiết kiệm chi phí ngân hàng đưa ra nhiều loại hình thanh toán như thanh toán bằng sec, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, các loại thẻ ..
1.1.2.3.Vai trò người bảo lãnh
Khi thực hiện vai trò này ngân hàng sẽ đứng ra dùng uy tín của mình cam kết sẽ trả nợ cho khách hàng khi khách hàng mất khả năng thanh toán. Khi thực hiện bảo lãnh thì ngân hàng không phải xuất tiền cho khách hàng. bảo lãnh của ngân hàng tạo ra mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro. Trách nhiệm tài chính trước hết thuộc về khách hàng, một khi khách hàng không thực hịên được nghĩa vụ của mình thì lúc đó ngân hàng mới phải thực hiện. Việc ngân hàng thực hiện vai trò này thể hiện rõ nhất qua việc ngân hàng phát hành thư tín dụng cho khách hàng.
1.1.2.4.Vai trò đại lý
Ngân hàng thay mặt khách hàng quản lý và bảo vệ tài sản của họ. Các ngân hàng ở Thụy Sĩ nổi tiếng với vai trò này, khi khách hàng đến gửi tài sản của mình vào đây thì lúc họ nhận lại tài sản vẫn nguyên như cũ, ngay cả tiền gửi vào khi nhận lại số Seri không thay đổi. Bên cạnh đó nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập hệ thống chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi, do vậy các ngân hàng có thể cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ. Một số ngân hàng còn đóng vai trò làm đại diện phát hành cho các công ty chứng khoán.
1.1.2.5.Vai trò thực hiện chính sách của Chính phủ
Bên cạnh chính sách tài khoá thì chính sách tiền tệ cũng là một công cụ quan trọng để Chính phủ điều tiết thị trường. Khi có lạm phát xẩy ra các ngân hàng thương mại bắt buộc phải thu hút vốn để làm giảm lượng tiền lưu thông và ngược lại. Bên cạnh đó các ngân hàng cũng thường phải theo đuổi các mcụ tiêu xã hội.
Có thể thấy chức năng của ngân hàng hiện đại qua sơ đồ sau
Hình 1: Những chức năng cơ bản của ngân hàng thương mại
1.2. Chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại.
1.2.1 Những khái niệm chung về tín dụng ngân hàng.
Ở Việt Nam hiện nay, theo luật các Tổ chức Tín dụng thì: Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng và cấp tín dụng là việc tổ chứ tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bàng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác. Như vậy tuy có sự khác nhau giữa việc cấp tín dụng và cho vay nhưng khi nói đến hoạt động tín dụng người ta thường nghĩ tới việc cho vay của Ngân hàng.
Cuốn Ngân hàng thương mại(Nhà xuất bản đại học kinh tế quốc dân) thì : Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại nói riêng và của các tổ chức tài chính nói chung, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro lớn nhất. Tín dụng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng.
Còn trong cuốn Tín dụng ngân hàng do nhà xuất bản thống kê do TS Hồ Diệu chủ biên thì đưa ra khái niệm tín dụng ngân hàng như sau: Tín dụng (Credit) xuất phát từ tiếng Latinh là Credo( tin tưởng, tín nhiệm ) là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (Ngân hàng hoặc các định chế tài chính khác) và bên đi vay ( cá nhân hoặc tổ chức ) trong đó bên cho vay chuyền giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, ngay cả trong quan hệ tài chính, tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có thể hiểu theo các nghĩa sau.
Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dich quỹ từ người cho vay sang người đi vay. Tín dụng còn có nghĩa là là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng. Trong một số ngữ cảnh cụ thể thuật ngữ tín dụng đồng nghĩa với thuật ngữ cho vay. Ví dụ như thuật ngữ tín dụng ngắn hạn đồng nghĩa với thuật ngữ cho vay ngắn hạn.
Như vậy ta có thể hiểu tín dụng là quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng trong đó ngân hàng đóng vai trò là người chuyển giao tài sản cho khách hàng sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định theo thoã thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Việc tuân thủ các nguyên tăc trên đây nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời.
Từ khái niệm trên ta thấy tín dụng có các đặc trưng như sau: tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho vay bằng tiền và cho thuê bằng động sản hoặc bất động sản. Khi cho vay thì ngân hàng phải có cơ sở để tin rằng khách hàng sẻ trả được nợ đúng hạn và giá trị hoàn trả thường lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài phần gốc. Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay đựơc cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Xét về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước ... thực chất là lệnh phiếu, trong đó bên đi vay phải hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Do các quy định của ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại thường có những quy định rất cụ thể chi tiết về tín dụng.
Ngân hàng thường phải cân nhắc kỹ lưỡng ước lượng khẳ năng rủi ro và sinh lợi trước khi cấp một khoản tín dụng. Để chuẩn hoá quy trình tiêp xúc, phân tích cho vay và thu nợ đối với khách hàng ngân hàng thường đưa ra quy trình phân tích tín dụng, nó bao gồm quá trình thẩm tra trước, trong và ssau khi cấp tín dụng. Trong đó quá trình phân tích trước khi cấp tín dụng là bước quan trong nhất quyết định chất lượng của khoản tín dụng. Nội dung chính chủ yếu là thu thập và xử lý các thông tin liên quan đến khách hàng bao gồm năng lực sử dụng vốn vay, khẳ năng tạo lợi nhuận, khả năng thu hồi nợ và các điều kiện kinh tế khác có liên quan đến người vay. Sau đó ngân hàng và khách hàng ký hợp đồng tín dụng, đây là căn cứ pháp luật xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng. Do vậy cả ngân hàng và khách hàng đều phải nghiên cứu kỹ hợp đồng trước khi ký. Tiếp theo như trong hợp đồng đã ghi ngân hàng sẻ cấp cho khách hàng một khoản tiền như đã thoã thuận, trong quá trình cho vay ngân hàng luôn kiểm tra hoạt động của khách hàng nếu thấy có dấu hiệu lừa đảo hoặc chất lượng tín dụng không tốt ngân hàng sẽ tiến hành thu khoản nợ trước hạn. Hết thời hạn tín dụng ngân hàng tiến hành thu nợ gốc và lãi đồng thời sẻ thực hiện chấm dứt hợp đồng.
1.2.2 Các hình thức tín dụng của ngân hàng
Căn cứ vào mục tiêu quản lý của ngân hàng và yêu cầu của khách hàng mà ta có thể phân chia tín dụng thành nhiều hình thức khác nhau:
1.2.2.1.Phân loại tín dụng theo thời gian:
Theo thời gian tín dụng được chia thành hai loại chính: Tín dụng ngắn hạn và tín dụng trung và dài hạn.
a, Tín dụng ngắn hạn: hình thức tín dụng này có thời gian từ 12 tháng trở xuống. Loại tín dụng ngắn hạn thường được sử dụng để tài trợ cho tài sản lưu động hoặc đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn trong chi tiêu, sản xuất kinh doanh của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất. Với tín dụng ngắn hạn này ngân hàng có thể cấp dưới dạn trực tiếp hoặc gián tiếp, cho vay từng lần, cho vay theo món, có đảm bảo hoặc không có bảo đảm. Hình thức tín dụng ngắn hạn có độ rủi ro thấp hơn so với hình thức tín dụng trung và dài hạn, bên cạnh đó nguồn huy động cho tín dụng ngắn hạn cũng rẻ hơn so với hình thức trung và dài hạn.
Ngân hàng xác định quy mô cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp như sau.
Doanh số bán tính theo doanh số trong kỳ
Vòng quay hàng hoá dự trữ trong kỳ
Nhu cầu hàng hoá bình quân trong kỳ
=
Bước 1: Xác định nhu cầu dự trữ hàng hoá bình quân trong kỳ
Doanh số bán ra tính theo giá vốn kỳ trước
Doanh số bán ra tính theo giá vốn kỳ trước
Vòng quay được tính dựa trên doanh số bán ra của kỳ trước
=
Vòng quay hàng hoá dự trữ kỳ trước
=
Vòng quay hàng hoá dự trữ kỳ trước
Dự trữ hàng hoá bình quân kỳ trư
Dự trữ hàng hoá bình quân kỳ trước
Bước 2: Xác định nhu cầu tín dụng ngắn hạn
Nguồn vốn chủ sở hữu, vay các tổ chức tín dụng khác tài trợ cho nhu cầu dự trữ hàng hoá bình quân
=
Nhu cầu vay ngắn hạn ngân hàng
Nhu cầu hàng hoá dự trữ bình quân trong kỳ
Trong trường hợp khách hàng chưa lập kế hoạch trước ngân hàng sẽ tính toán nhu cầu cho vay cho từng phương án để tính số tiền cần vay.
b, Tín dụng trung hạn. theo quy định hiện nay của ngân hàng nhà nước tín dụng trung hạn là loại hình cấp tín dụng có thời gian từ 12 tháng đến 5 năm.
Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án co quy mô vừa và nhỏ, thời gian thu hồi vốn nhanh. Trong nông nghiệp cho vay trung hạn chủ yếu đầu tư vào các đối tượng sau: máy nông nghiệp, hệ thống mương máng dẫn nước, xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê, tiêu điều... Ngoài ra đối với các doanh nghiệp mới thành lập thì nguồn hình thành vốn lưu động đầu tiên thường là vốn trung hạn.
c, Tín dụng dài hạn: hình thức tín dụng dài hạn thường có thời gian từ 5 năm trở lên và thời hạn tối đa có thể lên đến 20-30 năm, một số trường hợp cá biệt có thể lên tới 40 năm. Tín dụng dài hạn thường được cấp để mua sắm trang thiết bị, phương tiện sản xuất mới, xây dựng nhà xưởng, xí nghiệp mới, đổi mới kĩ thuật công nghệ. Như vậy đối tượng cho vay chủ yếu của các ngân hàng thương mại trong hình thức này chủ yếu là nhu cầu vốn cố định các doanh nghiệp. Nhà nước vay trung và dài hạn để đầu tư phát triển, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, các dự án phát trọng điểm. Do thời gian cho vay dài nên loại hình cho vay nặp nhiều rủi ro hơn do xác xuất xẩy ra biến động là lớn hơn và từ đó lãi suất của loại hình tín dụng này thường cao hơn loại hình tín dụng ngắn hạn. Thông thường hình thức này được thực hiện dưới dạng ngân hàng mua các trái phiếu tài trợ cho quá trình hình thành tài sản cố định và cho vay theo các dự án đầu tư.
Trước đây thì các ngân hàng thương mại thường cho vay ngắn hạn, nhưng từ những năm 70 trở lại đây các ngân hàng thương mại đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung mới đó là nâng cao tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng dư nợ của ngân hàng.
1.2.2.2. Phân theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng.
Tài sản đảm bảo các khoản tín dụng cho phép các ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất không có hoặc có nhưng không đủ. Theo tài sản bảo đảm tín dụng được chia thành tín dụng có bảo đảm và tín dụng không có tài sản bảo đảm.
a, Tín dụng có bảo đảm. Với hình thức này ngân hàng yêu cầu khách hàng của mình khi nhận tài sản của mình phải có tài sản bảo đảm. Tài sản đảm bào có thể chính là uy tín của chính khách hàng, bằng thế chấp, cầm cố tài sản, bảo lãnh của người thứ ba. Cam kết có bảo đảm là cam kết của ngươi nhận tín dụng về việc dùng tài sản mà mình đang sở hữu hoặc sử dụng, hoặc khả năng trả nợ của người thứ ba để trả nợ cho ngân hàng trong trường hợp khách hàng mất khả năng trả nợ.
Trong những năm 90 các ngân hàng chỉ được phép cho vay có bảo đảm trừ các doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả và cho vay hộ nông dân từ 5 triệu đồng trở xuống. Từ năm 1999 trở đi sau khi chính phủ ban hành nghị định 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay thì các tổ chức tín dụng được cho vay không có bảo đảm được mở rộng hơn so với trước đây.
b, Tín dụng không cần tài sản đảm bảo. Đây là khoản tín dụng mà ngân hàng cấp cho khách hàng mà không cần tài sản đảm bảo, không cần bảo lãnh của bên thứ ba. Đây là những khoản cho vay thường được cấp cho những khách hàng có uy tín, khách hàng làm ăn thường xuyên với ngân hàng, có tình hình tài chính vững mạnh hoặc là những khoản tín dụng nhỏ so với vốn của người vay.
1.2.2.3 Phân theo mục đích sử dụng
Dựa vào căn cứ này tín dụng thường được chia ra thành các loại sau
- Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, động sản trong lĩnh vực công nghiêpk thương mại, dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón , thuốc trừ sâu, giống cây trồng, nhiên liệu, thức ăn gia súc.
- Cho vay công nghiệp và dịch vụ là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp thương mại dịch vụ.
- Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các loại vật dụng đắt tiền trong nhà, các khoản thanh toàn thông thường qua thẻ tín dụng.
- Cho vay các định chế tài chính khác bao gồm cấp tín dụng cho các gnân hàng, công ty tài chính, công ty bảo hiểm và các định chế khác.
1.2.2.4 Phân theo xuất xứ tín dụng
Dựa vào cách này có thể phân tín dụng thành hai loại.
a, Tín dụng trực tiếp: Tức là ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay hoàn trả nợ trực tiếp cho ngân hàng. Phần lớn phần cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp. Ta có thể hiểu tín dụng trực tiếp qua sơ đồ sau:
1-Cấp vốn
Hình 2. Hình thức tín dụng trực tiếp
Khách hàng
Ngân hàng
2-Thanh toán nợ
b, Tín dụng gián tiếp
Đây là hình thức tín dụng mà các ngân hàng thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc các chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Mô hình cho vay gián tiếp được thực hiện như sau:
Hình 3: Hình thức tín dụng gián tiếp
2- Thanh toán nợ
1- Cấp tín dụng
Ngân hàng
Khách hàng
nhận vốn vay
Người thanh
toán nợ
Các ngân hàng cho vay gián tiếp theo các loại sau: Chiết khấu thương phiếu, mua các phiếu bán hàng tiêu dùng và máy móc nông nghiệp trả góp.
Ngoài ra còn nhiều cách phân chia khác nữa như: phân theo thành phần kinh tế, phân theo đối tượng tín dụng, phân theo mức độ rủi ro…
1.2.3 Vai trò của tín dụng ngân hàng
Tín dụng đóng vai trò rất quan trọng không chỉ đối với bản thân ngân hàng mà còn đối với các chủ thể trong nền kinh tế.
+ Đối với ngân hàng: hoạt động tín dụng là hoạt động rất quan trọng, nó bao trùm các hoạt động khác của ngân hàng. Nó chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các ngân hàng thương mại và thường phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng thương mại và đây cũng chính là hoạt động cơ bản mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho các ngân hàng.
+ Đối với các doanh nghiệp: Nó cung cấp nguồn vốn tài trợ cho hoạt động hàng ngày. Đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn trong sản xuất kinh doanh, thúc đẩy quá trình huy động vốn đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển và mở rộng sản xuất hàng hoá. Hiện nay mặc dù các doanh nghiệp có thể huy động vốn trên thị trường chứng khoán, tuy nhiên đây không phải là kênh huy động chủ yếu của các doanh nghiệp vì điều kiện huy động trên thị trường này không phải doanh nghiệp nào cùng đáp ứng được nhất là các doanh nghiệp nhỏ. Mặt khác khi cần có nguồn vốn gấp để thực hiện một dự án nào đó doanh nghiệp thường tìm đến ngân hàng xin cấp tín dụng.
+ Đối với nhà nước: Thông qua hoạt động tín dụng của ngân hàng thì nhà nước có thể thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của mình như ổn định và phát triền kinh tế, tài trợ cho các dự án do nhà nước đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng cho phát triển kinh tế, thực hiện các dự án cho vay đối với người nghèo, vùng sâu vùng xa. Góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ...
1.2.4 Chất lượng tín dụng ngân hàng
Ngân hàng là một tổ chức tài chính rất quan trọng trong nền kinh tế, hoạt động của ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế. Sự sụp đổ của một ngân hàng có thể dẫn đến sự sụp đổ của cả hệ thống ngân hàng thương mại và nó sẽ kéo theo sự sụp đổ của cả nền kinh tế. Một khoản tín dụng có chất lượng tốt là một khoản tín dụng mang lại hiệu quả cho cả ngân hàng và khách hàng, quy trình tín dụng nhanh gọn chính xác, giải ngân kịp thời nguồn vốn cho khách hàng đồng thời thu được gốc và lãi nhanh chóng đúng thời hạn. Nói cách khác chất lượng tín dụng ngân hàng được thể hiện ở chất lượng hiệu quả của hoạt động cấp và nhận tín dụng của cả khách hàng và ngân hàng.
Chất lượng tín dụng là một phạm trù rộng bao gồm nhiều nội dung trong đó nội dung quan trọng nhất thể hiện ở tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ. Ta có thể hiểu một cách nôm na chất lượng tín dụng là mức độ an toàn của khoản tín dụng, nói đến chất lượng tín dụng là vừa nói đến tính chất và số lượng của các khoản tín dụng. Một ngân hàng có chất lượng tín dụng tốt là một ngân hàng có mức độ rủi ro đối với các khoản tín dụng là thấp và hoạt động tín dụng rất hiệu quả.
Hiện nay các ngân hàng thương mại ở Việt Nam thì hoạt động tín dụng vẫn chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tổng tài sản có. Vì vậy sự tồn tại và hưng thịnh của một ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào hoạt động tín dụng và chất lượng tín dụng. Để xác định chất lượng tín dụng ta dùng các chỉ tiêu đinh tính và định lượng
1.2.4.1 Chỉ tiêu định tính
Đây là các chỉ tiêu không thể lượng hoá được. Nó được xem xét chất lượng của môt khoản tín dụng từ lúc cấp tín dụng đến lúc khoản tín dụng được thu hồi trên các góc độ: Quy trình cho vay có đảm bảo đúng thủ tục theo quy định của ngân hàng hay không. Khách hàng có sử dụng nguồn vốn đúng mục đích khi vay hay không, trong quá trình vay khách hàng có đáp ứng đầy đủ các điều kiện do ngân hàng đề ra không, khách hàng có hoàn trả gốc và lãi đúng hạn không. Bên cạnh đó chỉ tiêu định tính thì chất lượng tín dụng ngân hàng còn được xem xét trên góc độ là các khoản tín dụng ngân hàng cấp mang lại lợi ích như thế nào cho khách hàng, ngân hàng và cho xã hội
1.2.4.2 Chỉ tiêu định lượng
Chất lượng tín dụng ngân hàng xét trên góc độ định lượng tức là xác định bằng con số chỉ tiêu cụ thể.
+ Dư nợ quá hạn: Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đến hạn thoã thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Khi một món nợ không trả được vào kỳ hạn nợ, toàn bộ gốc còn lại sẽ được chuyển thành nợ quá hạn. Đây là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền mà Ngân hàng chưa thu hồi được sau một thời gian nhất định kể từ khi khoản vay đáo hạn đến thời điểm đang xem xét. Mức dư nợ quá hạn của một ngân hàng càng cao thì càng chứng tỏ chất lượng của các khoản tín dụng mà ngân hàng cấp càng thấp.
+ Tỷ lệ nợ quá hạn: Được xác định bằng cách lấy dư nợ quá hạn chia cho tổng dư nợ. Đây là chỉ tiêu rất quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng. Dư nợ quá hạn càng nhỏ, tỷ lệ nợ quá hạn càng thấp thì chất lượng tín dụng càng cao. Mặt khác chỉ tiêu này phản ánh được quy mô của nợ quá hạn trên tổng dư nợ. Từ đó giúp các nhà quản trị ngân hàng đưa ra các quyết định về tỷ lệ dự phòng rủi ro, các khoản trích lập về rủi ro đồng thời đưa ra các quyết sách về định hướng hoạt động của ngân hàng để tìm cách giảm tỷ lệ này xuống.Thông qua tỷ lệ này người ta sẻ đánh giá sự hiệu quả của hoạt động của ngân hàng.
+ Tỷ lệ nợ khó đòi: Được tính bằng cách lấy tổng dư nợ khó đòi chia cho tổng dư nợ quá hạn. Nợ khó đòi là một phần của nợ quá hạn, song có mức nguy hiểm cao hơn. Khi đưa một khoản vay đã được đưa vào khoản khó đòi thì ngân hàng thường không hi vọng sẽ thu hồi được khoản cho vay này nữa và thường phải trích quỹ dự phòng của mình ra bù, trên thực tế thì những khoản nợ khó đòi đôi khi cũng thu hồi được nhưng tỷ lệ này rất nhỏ. Cũng như những chỉ tiêu khác ở trên, một ngân hàng có tỷ lệ nợ khó đòi càng lớn thì chất lượng tín dụng của ngân hàng đó càng thấp.
+ Các khoản cho vay có vấn đề: Đây là các khoản cho vay mặc dù chưa đến hạn và chưa được coi là nợ quá hạn, song trong quá trình theo dõi, nhân viên ngân hàng nhận thấy nhiều khoản tài trợ đang có dấu hiệu không lành mạnh, có nguy cơ trở thành nợ quá hạn. Khoản cho vay có vấn đề được xây dựng trên quy định của ngân hàng.
+ Tính kém đa dạng của tín dụng: Sự đa dạng hoá của tín dụng sẻ giúp nó giảm thiểu được rủi ro. Những thay đổi trong chu kỳ của người vay là không tránh khỏi. Nếu một ngân hàng tập trung tài trợ cho một nhóm khách hàng, của một ngành hoặc một vùng hẹp thì rủi ro sẽ cao hơn so với đa dạng hoá.
+ Lợi nhuận của ngân hàng: Do hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại là tín dụng cho nên lợi nhuận của một ngân hàng cũng là một chỉ tiêu phản ánh chất lượng nguồn tín dụng của ngân hàng. Nếu ngân hàng có chất lượng tín dụng tốt thì lợi nhuận của ngân hàng là lớn và ngược lại.
1.2.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Ngân hàng.
Hoạt động ngân hàng là một hoạt động rất đa dạng và phức tạp, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Các yếu tố này vừa ảnh hưởng tích cực vừa ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động ngân hàng đặc biệt là hoạt động tín dụng. Ta có thể chia các yếu tố này thành hai nhóm đó là nhóm yếu tố khách quan và nhóm yếu tố chủ quan.
1.2.5.1 Nhóm yếu tố chủ quan:
Đây là những yếu tố xuất phát từ bản thân các ngân hàng. Có thể coi đây là những yếu tố quyết định đến chất lượng của các khoản tín dụng.
- Chất lượng nguồn nhân lực: Tuỳ thuộc vào chất lượng nguồn nhân lực làm tín dụng ngân hàng mà chất lượng của các khoản cho vay là khác nhau. Người ta thường ví bộ mặt của một ngân hàng chính là đội ngũ nhân viên giao dịch. Khả năng giao tiếp thẩm định tốt của ngân hàng sẽ làm cho các khoản tín dụng có độ rủi ro thấp hơn. Ngoài ra đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng của khoản tín dụng. Kiến thức, chuyên môn và kinh nghiệm của nhân viên ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của các khoản tín dụng, với khả năng của mình các cán bộ ngân hàng sẻ đánh giá được một dự án là tốt hay xấu để đưa ra quyết định nên cho vay hay không.
- Quy mô của ngân hàng cũng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng, quy mô ngân hàng càng lớn thì lượng khách hàng đến với ngân hàng càng đông và qua đó ngân hàng sẽ dễ dàng lựa chọn được những khách hàng ít rủi ro. Mặt khác với quy mô lớn thì ngân hàng có thể trang bị được công nghệ thiết bị tiên tiến phục vụ cho nghiệp vụ thẩm định trước cho vay, dẫn đến việc thẩm định sẽ tốt hơn, chính xác hơn. Hiện nay công nghệ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong các ngân hàng, với công nghệ hiện đại thì thông tin về khách hàng sẽ chính xác hơn, khoản cho vay sẽ ít rủi ro hơn
- Quy trình cấp tín dụng của ngân hàng: Một ngân hàng có quy trình cấp tín dụng càng hợp lý, khoa học và đặc biệt là khâu thẩm định được tiến hành một các nghiêm chỉnh thì càng chính xác và từ đó chất lượng của khoản tín dụng lại càng cao. Tuy nhiên quy trình cấp tín dụng không nên rườm rà, phức tạp tạo cho khách hàng một sự khó chịu. Hiện nay các ngân hàng đều tìm cách rút ngắn quy trình và thủ tục cho vay song vẫn đảm bảo được sự đúng đắn khi cấp tín dụng cho khách hàng, tránh rủi ro không cần thiết.
1.2.5.2 Nhóm yếu tố khách quan:
Đây là nhóm yếu tố xuất phát từ môi trường xum quanh hoạt động ngân hàng, từ phía các khách hàng của ngân hàng.
- Môi trường xum quanh hoạt động của ngân hàng: Thiên tai lũ lụt là những hiểm hoạ thường trực không chỉ đối với khách hàng mà còn là một trong những nguyên nhân khiến ngân hàng không thu hồi được vốn của mình. Bên cạnh môi trường thiên nhiên thì môi trường pháp lý cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của khoản tín dụng một hệ thống pháp luật tốt sẻ giúp cho hoạt động của ngân hàng an toàn hơn, và khách hàng cũng vậy từ đó khách hàng sẻ có môi trường kinh doanh tốt hơn khả năng trả nợ sẻ cao hơn, mặt khác với môi trường pháp lý tốt thì sự ràng buộc của khách hàng về khoản vay sẻ lớn hơn từ đó khách hàng sẻ ít khi thực hiện hoạt động rủi ro hơn.
- Các yếu tố xuất phát từ khách hàng: yếu tố khách hàng là một trong những yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của một khoản tín dụng. Khách hàng là người nắm giữ nguồn vốn của ngân hàng, việc trả nợ hay không phụ thuộc rất lớn vào họ. Trình độ quản lý của khách hàng càng cao thì khả năng thu lợi của khách hàng càng lớn. Khả năng tài chính của khách hàng chính là nguồn trả nợ cho các khoản vay của ngân hàng. Nếu một khách hàng có thu nhập thường xuyên và ổn định thì khả năng trả nợ của khách hàng sẻ càng lớn. Hiện tượng thông tin không cân xứng trong thị trường tài chính là một trong những lý do tồn tại của ngân hàng. Đạo đức của khách hàng ảnh hưởng không nhỏ ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28910.doc