Nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội - Hải Phòng

MỤC LỤC DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức bộ máy 30 Bảng 2.1: Kết quả huy động vốn 31 Bảng 2.2: Kết quả hoạt động tín dụng 33 Bảng 2.3: Kết quả hoạt động thanh toán quốc tế 34 Bảng 2.4: Kết quả hoạt động bảo lãnh 35 Bảng 2.5: Kết quả Kinh doanh ngoại tệ 36 Bảng 2.6: Qui mô khách hàng tín dụng 38 Bảng 2.7: Qui mô và Cơ cấu tín dụng 39 Bảng 2.8: Doanh số cho vay và thu nợ 40 Bảng 2.9: Cơ cấu Dư nợ tín dụng theo thời hạn 41 Bảng 2.10: Dư nợ tín dụng và huy động theo

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1499 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội - Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kỳ hạn 42 Bảng 2.11: Cơ cấu Dư nợ phân loại theo nhóm 43 Bảng 2.12: Cơ cấudư nợ theo ngành kinh tế. 46 Bảng 2.13: Cơ cấu dư nợ theo Bảo đảm. 48 Bảng 2.14: Cơ cấu thu nhập. 49 Bảng 2.15: Tình hình thu hồi nợ đã được xử lý bằng quỹ DPRR 50 Bảng 2.16: Phân bổ CBTD 58 PHẦN MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài: Hoạt động của Ngân hàng thương mại vốn là một hoạt động quan trọng trong nền kinh tế. Hoạt động của NHTM bao gồm nhiều hoạt động khác nhau như: Huy động vốn; Thanh toán; Tín dụng; Bảo lãnh; Thanh toán quốc tế; ... và mỗi hoạt động đều có vai trò khác nhau trong tổng thể hoạt động chung của NHTM. Hoạt động tín dụng là một mảng hoạt động lớn và đóng một vai trò hết sức quan trọng trong toàn bộ hoạt động của NHTM. Tính quan trọng của hoạt động tín dụng được thể hiện trước hết mang lại nguồn thu nhập chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập của NHTM, bên cạnh đó nhờ hoạt động này mà NHTM có thể bán chéo sản phẩm, tạo nền tảng thu hút hỗ trợ cho các hoạt động khác như Bảo lãnh, thanh toán quốc tế, chuyển tiền.... Quan trọng hơn và đáng quan tâm hơn cả là mặt trái của hoạt động này, hoạt động tín dụng có mang lại hiệu quả cao như vai trò vốn có của nó hay không thì hoàn toàn phụ thuộc vào những rủi ro tiềm ẩn do nó mang lại. Những rủi ro này không những làm cho hoạt động của NHTM kém hiệu quả, mà hơn nữa nó làm cho NHTM mất đi tính thanh khoản vốn hết sức cần thiết và nhạy cảm gây ra những tổn thất thậm chí là sự phá sản đối với NHTM. Thực hiện quản trị tốt Hoạt động tín dụng không chỉ nâng cao hiệu quả, làm tăng khả năng cạnh tranh của NHTM trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập ngày nay mà còn đóng góp tích cực vào sự vận hành của nền kinh tế thông qua sự tác động của cung - cầu tiền tệ dẫn đến làm thúc đẩy tăng trưởng hay kìm hãm kinh tế, lạm phát, khủng hoảng tiền tệ.... giúp cho Nhà nước thực hiện tốt vai trò quản lý Nhà nước về hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Với tầm quan trọng của hoạt động tín dụng đối với NHTM và nền kinh tế cùng kinh nghiệm thực tiễn công tác tại chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội - Hải Phòng kết hợp với kiến thức học được của khoá học cao học vừa qua, em chọn đề tài nghiên cứu “Nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội - Hải Phòng”. Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu cơ sở lý luận về chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại. Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội Hải Phòng. Đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội Hải Phòng. Đối tượng và Phạm vị nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng tín dụng của NHTM. Phạm vi nghiên cứu : Chất lượng tín dụng của chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội Hải phòng trong 03 năm từ năm 2005 đến 2007. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học gồm: Phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh và diễn dịch; phương pháp thống kê và chuyên gia. Cấu trúc của Luận văn: Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Chất lượng tín dụng của Ngân hàng Thương mại. Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội Hải Phòng. Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội Hải Phòng. Chương 1 CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI: Khái niệm Ngân hàng thương mại: Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng thương mại gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình kinh tế là điều kiện và sự đòi hỏi khách quan đối với NHTM và NHTM phát triển tạo điều kiện ngược lại thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Ban đầu, Ngân hàng được gọi là ngân hàng “Thợ vàng” vì nó gắn liền với nghiệp vụ đúc hoặc đổi tiền của các thợ vàng. do lưu hành tiền tệ riêng của từng quốc gia kết hợp với việc giao thương quốc tế tạo ra nhu cầu đổi tiền trong giao dịch buôn bán dẫn đến những người làm nghề kinh doanh đổi tiền thực hiện việc kinh doanh đổi tiền tại các cửa khẩu hoặc trung tâm thương mại nơi giao thương. Những người làm nghề đúc, đổi tiền thực hiện đổi bản tệ lấy ngoại tệ và ngược lại đổi từ ngoại tệ lấy bản tệ, lợi nhuận thu được là chênh lệch mua bán giữa hai loại tiền. Những người làm nghề đổi tiền thường là những người giầu, trước đó có thể đã làm nghề Tín dụng nặng lãi. Họ thường có két tốt để cất giữ đảm bảo an toàn và do yêu cầu của các lãnh chúa, các nhà buôn họ thực hiện cất giữ hộ an toàn và cũng xuất phát từ thực hiện cất giữ hộ làm cho họ tăng thu nhập, tăng nguồn các loại tiền và đồng thời tăng qui mô tài sản của họ. Việc cất trữ hộ bên cạnh đó đã làm nẩy sinh việc thanh toán hộ và thanh toán không dùng tiền mặt và từ ưu điểm này đã thu hút các thương gia gửi tiền vào nhiều hơn và trong điều kiện đó các chủ cửa hàng vừa thực hiện lưu thông tiền kim lọai, vừa đổi tiền và vừa Tín dụng nặng lãi và họ là những nhà buôn tiền. Đầu tiên, những nhà buôn tiền chỉ dùng vốn tự có của mình để hoạt động Tín dụng nặng lãi. Từ hoạt động thực tiễn họ đã nhận thấy rằng thường xuyên có người gửi vào và cũng có những người lấy tiền ra và tất cả trong trong số đó họ không rút tiền cùng một lúc và đã tạo ra số lượng dư tiền gửi thường xuyên ở trong két. Do tính chất vô danh của tiền, nên các nhà buôn tiền đã lấy số lượng dư tiền gửi của khách hàng để hoạt động Tín dụng. Hoạt động này làm thay đổi cơ bản hoạt động của nhà buôn tiền - kẻ Tín dụng nặng lãi trở thành nhà buôn tiền và là Ngân hàng thương mại sau này. Hình thức ngân hàng đầu tiên là ngân hàng của những thợ vàng hoặc ngân hàng của những kẻ Tín dụng nặng lãi, thực hiện chủ yếu là Tín dụng đối với các cá nhân giàu có, quan lại. Nhiều chủ ngân hàng lớn còn mở rộng Tín dụng đối với Vua, Chúa nhằm tài trợ một phần cho nhu cầu chi tiêu chiến tranh. Hình thức chủ yếu là Tín dụng thấu chi. Do lợi nhuận từ việc Tín dụng mang lại lớn, nhiều chủ Ngân hàng đã lạm dụng ưu thế của chứng chỉ tiền gửi (lưu thông thay vàng hoặc bạc), phát hành chứng chỉ tiền gửi khống để Tín dụng và dẫn đến các ngân hàng mất khả năng thanh toán. Sự sụp đổ của các Ngân hàng dẫn đến khó khăn cho những nhà buôn, bên cạnh đó lãi suất vay cao dẫn đến các nhà buôn đã tự thành lập Ngân hàng với mục đích ban đầu chủ yếu tài trợ ngắn hạn và thanh toán hộ, gắn liền với quá trình luân chuyển tư bản thương nghiệp và Ngân hàng này được gọi là Ngân hàng thương mại. NHTM thực hiện các nghiệp vụ truyền thống là nhận tiền gửi, thanh toán, cất giữ hộ và Tín dụng. Sự khác biệt cơ bản giữa NHTM và Ngân hàng thợ vàng lúc đó là NHTM chủ yếu Tín dụng chiết khấu thương phiếu dựa trên quá trình luân chuyển hàng hoá (các khoản phải thu) với lãi suất Tín dụng phù hợp (thấp hơn lợi nhuận được tạo ra do sử dụng tiền vay). Sự phá sản của các ngân hàng dẫn đến sự hình thành nên các ngân hàng tiền gửi (chỉ giữ hộ, thanh toán hộ để thu phí, không Tín dụng). Đồng thời tại mỗi nước trong những điều kiện khác nhau mà hình thành nên những loại hình Ngân hàng khác nhau như: Ngân hàng tiết kiệm, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng Trung ương (Ngân hàng Nhà nước) … tạo nên hệ thống các Ngân hàng (trừ Ngân hàng Trung ương có chức năng chủ yếu là xây dựng và quản lý chính sách tiền tệ quốc gia) mỗi Ngân hàng thực hiện một số nghiệp vụ khác nhau song đều là các trung gian tài chính thực hiện kinh doanh tiền tệ. Do quá trình phát triển mạnh mẽ của kinh tế từ đó hình thành hệ thống các Ngân hàng đa dạng phát triển nhanh và các loại hình Ngân hàng lần lượt ra đời do đòi hỏi của sự phát triển cần phải xã hội hoá nhằm tích tụ và tập trung tư vốn hình thành nên Ngân hàng cổ phần. Quá trình phát triển đòi hỏi tăng cường hơn nữa vai trò của Nhà nước trong hoạt động điều hành chính sách tiền tệ đã tạo ra các Ngân hàng sở hữu Nhà nước. Sự mở rộng hoạt động của các Ngân hàng sang các quốc gia khác đã thúc đẩy sự ra đời của Ngân hàng liên doanh và các tập đoàn Ngân hàng phát triển mạnh mẽ vào những năm cuối thế kỷ 20 tạo ra những nghiệp vụ mới như mở rộng Tín dụng trung - dài hạn, Tín dụng đầu tư bất động sản, Tín dụng chứng khoán, Tín dụng tiêu dùng, cho thuê tài sản …Bên cạnh đó nhiều hình thức huy động tiền gửi cũng phát triển như tiết kiệm trả lãi cuối kỳ, đầu kỳ, theo định kỳ, tiết kiệm an sinh, tích luỹ… đồng thời nhờ có sự phát triển vượt bậc về công nghệ trong lĩnh vực Ngân hàng nhiều dịch vụ khác cùng phát triển như rút tiền tự động qua máy ATM 24/24 giờ, bảo lãnh trong nước, mở L/C, mobile banking...Về qui mô Ngân hàng cũng phát triển mạnh mẽ không chỉ mang tính quốc gia mà còn xuyên quốc gia mang tính khu vực và toàn cầu. NHTM là một định chế tài chính có vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng, vậy NHTM là gì: Theo Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khoá 10 thông qua ngày 12/12/1997: Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan.(cũng theo luật này thì Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp được thành lập theo qui định của luật này và các qui định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ Ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán). Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại: Huy động vốn: Là hoạt động khởi điểm sơ khai của NHTM trong quá trình hình thành và phát triển. Ngày nay huy động vốn là một trong những hoạt động hết sức quan trọng của NHTM. Huy động vốn đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo ra nguồn vốn cho hoạt động của NHTM. Vốn huy động chiếm tỷ trọng rất lớn trong nguồn vốn tín dụng và là cơ sở cho hoạt động tín dụng. Các nước đều có qui định chung về mức độ huy động vốn vay tối đa của NHTM thông qua việc qui định tỷ lệ vốn Chủ sở hữu của NHTM không thấp hơn một mức (%) nào đó so với tổng tài sản, từ đó cho thấy vai trò to lớn của vốn huy động (tiền gửi). Để có thể huy động vốn nợ được tốt, đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa vốn chủ sở hữu và việc huy động tiền gửi cũng như phát hành các công cụ nợ của NHTM. Việc kết hợp đó tạo ra được khả năng huy động vốn tối đa phục vụ cho hoạt động của NHTM, đảm bảo nguồn vốn huy động được ổn định. Huy động vốn nợ trực tiếp tạo ra nguồn thu cho NHTM thông qua việc hoạt động tín dụng, phần vốn còn lại các NHTM thực hiện bán vốn qua thị trường liên Ngân hàng và kinh doanh vốn qua thị trường này cũng mang lại nguồn thu nhập lớn cho các NHTM. Cuối cùng thì quan trọng hơn cả là việc huy động được tốt thì tạo cho NHTM chủ động hơn trong việc đảm bảo tính thanh khoản cho NHTM. Huy động vốn có các hình thức cơ bản sau: - Huy động vốn chủ sở hữu: Là vốn thuộc quyền sở hữu của NHTM, là nguồn tiền được đóng góp từ chủ Ngân hàng bỏ vào đầu tư ban đầu để thành lập NHTM hoặc được hình thành thêm trong quá trình kinh doanh (các quỹ dự trữ, lợi nhuận không chia). Ngoài ra, khi cần thiết vốn chủ sở hữu còn được huy động trong quá trình hoạt động thông qua việc phát hành cổ phiếu để tăng vốn (về cơ bản cổ phiếu bao gồm cổ phiếu thông thường và cổ phiếu ưu đãi). - Huy động vốn thông qua các công cụ nợ: bao gồm kỳ phiếu và trái phiếu. Kỳ phiếu dùng chủ yếu huy động vốn ngắn hạn cho các NHTM. Trái phiếu phát hành để huy động vốn trung-dài hạn cho NHTM. Hình thức huy động thông qua các công cụ nợ này mang tính ổnn định hơn, làm tăng khả năng huy động vốn của NHTM trong thời gian ngắn và hoàn toàn chủ động trong sử dụng nguồn vốn nhằm phục vụ cho việc mở rộng đầu tư tín dụng của NHTM vào các dự án lớn, có thời gian dài. - Huy động vốn thông qua đi vay các NHTM: các NHTM thực hiện việc đi vay nhằm điều hoà vốn trong toàn hệ thống, tăng dự trữ đảm bảo tốt khả năng thanh khoản của NHTM. Việc huy động vốn thông qua hình thức này thường đơn giản và nhanh gọn có thể vay trực tiếp, vay qua Ngân hàng đại lý (hoặc NHTW) và khoản vay thường không có bảo đảm (nếu có thường là chứng khoán của kho bạc). Đối với việc huy động vốn trên thì hàng năm các NHTM thường xem xét đánh giá lẫn nhau để định ra một hạn mức cho vay phù hợp cho từng thời kỳ, đối với từng NHTM. Hạn mức cho từng NHTM thì hoàn toàn có thể khác nhau trên cơ sở xem xét năng lực tài chính, tín nhiệm ... - Huy động vốn thông qua vay NHTW: Thường là hình thức huy động cuối cùng trong hoạt động huy động vốn của NHTM. Thường áp dụng cho việc vay để đảm bảo duy trì dự trữ bắt buộc hay thiếu hụt thanh toán. Hình thức cho vay chủ yếu của NHTW là thực hiện tái chiết khấu và NHTM phải chịu thực hiện các hình thức bảo đảm cũng như kiểm soát chặt chẽ nhất định. Hình thức huy động này thường làm giảm uy tín của NHTM trên thị trường. - Huy động vốn thông qua tiền gửi: là hình thức huy động vốn phổ biến nhất của NHTM, đồng thời là nguồn huy động lớn nhất của NHTM. Huy động theo hình thức này chủ yếu là tiền gửi của dân cư và tổ chức dưới hình thức có kỳ hạn (chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi chờ thanh toán của tổ chức) và không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán của tổ chức). Đây là nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn huy động của NHTM. - Huy động khác: bao gồm huy động các khoản uỷ thác; tiền ký quỹ; các khoản nợ thuế chưa nộp, lương chưa trả ... đây là hình thức huy động mang tính thụ động và thường có khối lượng nhỏ không đáng kể. Tín dụng: Tín dụng là hoạt động cơ bản, cũng là hoạt động tiếp theo sau huy động vốn và kinh doanh ngoại tệ trong lịch sử quá trình hình thành và phát triển của NHTM. Hoạt động Tín dụng là hoạt động kế tiếp của hoạt động huy động vốn và là hoạt động trọng yếu trong sử dụng vốn của NHTM, mang lại thu nhập chủ yếu cho NHTM. Thu nhập từ hoạt động tín dụng thường chiếm tỷ trọng lớn thậm chí đến trên 90% trong tổng thu nhập của NHTM. Khi ngân hàng càng phát triển thì tỷ trọng thu nhập từ hoạt động này có xu hướng giảm xuống do có các hoạt động nghiệp vụ phái sinh và kèm theo là thu nhập từ các hoạt động phi tín dụng ngày càng gia tăng nhắm đáp ứng nhu cầu dịch vụ cho khách hàng hiện đại như: thanh toán, bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ, rút tiền tự động... Tuy nhiên về tỷ trọng thu nhập giảm, nhưng về số lượng tuyệt đối (qui mô) ngày càng tăng nhanh. Hoạt động tín dụng là hoạt động hết sức quan trọng của NHTM, vì là hoạt động mang lại thu nhập chính cho NHTM, là hoạt động không thể thiếu làm nền tảng nhằm thu hút các dịch vụ khác cho NHTM, nhưng ngược lại đó cũng là hoạt động chứa đựng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho NHTM. Hoạt động tín dụng không tốt sẽ gây ảnh hưởng lớn đến tính thanh khoản, thậm chí dẫn đến sự sụp đổ của NHTM. Tín dụng của NHTM tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà có tiêu thức phân biệt khác nhau như: Thời hạn tín dụng; Sản phẩm tín dụng; mục đích cấp tín dụng; theo ngành kinh tế; hình thức bảo đảm tiền vay... và từ đó có các hình thức tín dụng khác nhau như: Tín dụng ngắn hạn, Trung - dài hạn; Tín dụng có bảo đảm và tín dụng không có bảo đảm; Tín dụng công nghiệp, nông nghiệp, thương mại - dịch vụ,… Các hoạt động khác của NHTM: - Kinh doanh ngoại tệ: Kinh doanh ngoại tệ của NHTM là mảng kinh doanh không chỉ đóng góp vào lợi nhuận mà còn mang tính chất phục vụ khách hàng nhằm tăng tiện ích (trọn gói) trong hoạt động dịch vụ của NHTM. Các phương thức kinh doanh ngoại tệ bao gồm: Giao dịch trao ngay: Là giao dịch mua bán một số lượng ngoại tệ xác định tỷ giá giao ngay tại thời điểm giao dịch và kết thúc thanh toán trong hai ngày làm việc tiếp theo kể từ ngày cam kết mua bán; Giao dịch có kỳ hạn: Là giao dịch mà hai bên cam kết sẽ mua bán với nhau một số lượng ngoại tệ theo một tỷ giá xác định tại thời điểm giao dịch và việc thanh toán sẽ được thực hiện sau một thời gian nhất định kể từ ngày ký kêt giao dịch; Giao dịch hoán đổi: Là giao dịch đồng thời cả hai giao dịch mua và bán cùng một số lượng đồng tiền này với đồng tiền khác với tỷ giá xác định tại thời điểm ký kết và với thời hạn khác nhau. - Bảo quản vật có giá: Là nghiệp vụ chủ yếu cho thuê két: Bảo quản vàng bạc đá quý: Khi khách hàng có nhu cầu bảo quản vàng bạc đá quý tại NHTM, NHTM sẽ lưu tài sản của khách hàng trong két và thu phí bảo quản trên cơ sở số lượng, khối lượng vật có giá; Bảo quản giấy tờ có giá: tương tự trên, nhưng chủ yếu thu phí theo mức theo một khoảng thời gian nhất định trên cơ sở giá trị và tầm quan trọng của giấy tờ có giá. - Đầu tư + Đầu tư ngắn hạn: chủ yếu là Kinh doanh chứng khoán, là hoạt động đầu tư mang tính ngắn hạn trên thị trường chính thức hoặc phi chính thức nhằm thu lợi về cho NHTM, thông thường với qui mô nhỏ các NHTM thường đầu tư thông qua phòng Dự án đầu tư hay phòng đầu tư chứng khoán. Trường hợp qui mô đủ lớn thì các NHTM thường thành lập Cty chứng khoán trực thuộc (TNHH một thành viên hoặc cổ phần…) để thực hiện kinh doanh nghiệp vụ này mang tính chuyên nghiệp hơn. Kinh doanh chứng khoán mang lại cho NHTM nguồn thu nhập tương đối lớn trong giai đoạn vừa qua ở Việt Nam (chiếm có thể lên tới 20% lợi nhuận của một NHTM). Ngoài ra các NHTM còn đầu tư vào các công cụ như trái phiếu, tín phiếu của chính phủ phát hành nhằm tối ưu hoá dự trữ tiền mặt , đồng thời duy trì tốt khả năng thanh khoản, đảm bảo khả năng chuyển đổi thành tiền mặt nhanh chóng khi cần thiết. + Đầu tư dài hạn: Chủ yếu là hoạt động góp vốn hay đầu tư thông qua cổ phiếu dài hạn nhằm tham gia vào hoạt động quản trị/điều hành của pháp nhân được đầu tư để thu lợi thông qua lợi tức được phân chia theo kết quả hoạt động kinh doanh của pháp nhân đó; Đầu tư dài hạn khác: Ngoài các hoạt động đầu tư trên, các NHTM còn tham gia các hoạt động đầu tư kiếm lợi khác như: Kinh doanh bất động sản, liên doanh, liên kết... - Phát hành bảo lãnh (bao gồm cả trong nước và nước ngoài): là nghiệp vụ phát hành chứng thư bảo lãnh cho khách hàng để bảo đảm nghĩa vụ của khách hàng đối với bên thứ 3 (thực hiện thay khách hàng khi khách hàng vi phạm cam kết theo thoả thuận mà được NHTM bảo lãnh). Nghiệp vụ này có nhiều hình thức bảo lãnh như: Dự thầu, thanh toán, thực hiện hợp đồng, bảo hành công trình, giao hàng, L/C… đây cũng là nghiệp vụ mang tính dịch vụ phi tín dụng mang lại lợi nhuận cho ngân hàng thường an toán và ít rủi ro hơn. - Bao thanh toán: Là một hình thức cấp tín dụng của NHTM cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu của bên bán theo thỏa thuận trong hợp đồng giữa bên bán với bên mua. Bao gồm bao thanh toán trong nước và quốc tế. Thu nhập ròng của NHTM chính là chênh lệch giữa giá trị khoản phải thu với giá trị tài trợ của NHTM. - Chiết khấu các loại giấy tờ có giá (thương phiếu, tín phiếu, hối phiếu): NHTM mua lại các giấy tờ có giá theo một tỷ lệ giá mua nhất định dựa trên cơ sở cơ bản là mức độ rủi ro và thời hạn thanh toán còn lại của các loại giấy tờ này. - Cung cấp tài khoản giao dịch: là hình thức mà NHTM mở, quản lý tài khoản cho khách hàng, cung cấp các dịch vụ cần thiết liên quan đến tài khoản của khách hàng như xác nhận số dư, phong tỏa làm tài sản bảo đảm... - Chuyển tiền: trong nước hoặc nước ngoài nhằm phục vụ cho hoạt động thanh toán theo yêu cầu của khách hàng - Nhận uỷ thác đầu tư: Nhận sự ủy thác vốn, tài sản của khách hàng để tiến hành đầu tư theo sự ủy thác đó. - Cho thuê tài sản (thuê mua tài sản): thường là các NHTM thực hiện nghiệp vụ này thông qua việc thành lập công ty quản lý và cho thuê tài sản. Là hình thức đầu tư vốn mua tài sản theo yêu cầu của khách hàng để cho thuê lại trong một khoảng thời gian nhất định. Thông thường sau khi kết thúc thời hạn thuê đó (đã thu đủ vốn gốc, chi phí và lãi hợp lý) thì sẽ tiến hành thanh lý lại tài sản đó cho khách hàng. - Cung cấp các dịch vụ đại lý: Các NHTM làm đại lý lẫn cho nhau trong để đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng, như đại lý thanh toán, thông báo LC, chuyển tiền... - Chi trả lương: Chi trả lương vào tài khoản của người hưởng lợi theo yêu cầu của khách hàng. - Dịch vụ rút tiền tự động: thực hiện lệnh chi tiền theo yêu cầu của khách hàng trong bất kỳ thời gian nào thông qua hệ thống máy ATM. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯỢNG MẠI: Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại: Khái niệm: Hoạt động Tín dụng (Credit) được xuất phát từ tiếng Latinh là credo tức là tin tưởng, tín nhiệm. Trong thực tế hoạt động tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể mà mỗi cách hiểu có một nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính - tín dụng có thể được hiểu theo một số nghĩa như sau: - Xét theo góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể có thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì hoạt động tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay. - Trong một quan hệ tài chính cụ thể, hoạt động tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. - Xét trên góc độ quan hệ giữa bên cho vay và bên đi vay thì hoạt động tín dụng có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng. - Nếu hoạt động tín dụng được xem xét như một chức năng của NHTM thì được hiểu như sau: Hoạt động Tín dụng là một hoạt động giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (Ngân hàng và các định chế tài chính khác nhau) và bên bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên vay sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Bản chất hoạt động tín dụng là một hoạt động quan hệ về tài sản có hoàn trả và có một số đặc trưng cơ bản sau: + Tài sản trong quan hệ tín dụng Ngân hàng dưới hai hình thức là bằng tiền và bằng tài sản Bất động sản hay động sản. + Vì phải hoàn trả lên người cho vay phải có cơ sở tin tưởng rằng người đi vay sẽ hoàn trả đúng hạn (tín nhiệm hay tài sản ràng buộc nghĩa vụ của Người vay đối với người cho vay). + Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác người đi vay phải hoàn trả cả vốn gốc vay và lãi (đủ đảm bảo cho hoạt động của người cho vay bù đắp chi phí và có được mức lợi nhuận nhất định tương xứng với rủi ro mà NHTM có thể gánh chịu). Các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tín dụng của NHTM: Tuỳ theo cách thức nhìn nhận hay phân chia, ta có thể có các nguyên tắc khác nhau, nhưng nhìn chung lại có 03 nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tín dụng của NHTM là: Hoàn trả đầy đủ gốc lãi đúng hạn; Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích; Vốn vay phải có tài sản tương đương để bảo đảm. Cụ thể: - Vốn vay phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn: Đảm bảo tính thanh khoản trong hoạt động là mục đích tối thượng của các NHTM, bởi lẽ vốn của NHTM cho vay có nguồn gốc chủ yếu là vốn huy động (đi vay). Việc huy động vốn đều có thoả thuận rõ ràng về thời hạn hoàn trả / không kỳ hạn và lãi suất kèm theo. Để có hiệu quả trong hoạt động của NHTM, thì việc dự trữ càng thấp (tới mức dự trữ bắt buộc theo qui định của NHTW) hay cho vay càng nhiều thì thu nhập càng cao và ngược lại. Tuy nhiên giữa cho vay và dự trữ là hai mặt trái ngược, dự trữ thấp, cho vay nhiều thì không đảm bảo cho việc chi trả vốn huy động (hay tính thanh khoản thấp), nếu dự trữ cao đảm bảo chắc chắn hơn tính thanh khoản thì chi phí dự trữ tăng và làm cho thu nhập của NHTM giảm. NHTM luôn phải cân nhắc giữa cơ cấu cho vay trong mối quan hệ với dự trữ để đảm bảo một tỷ lệ thích hợp theo khẩu vị rủi ro của mỗi NHTM nhưng mức dự trữ không thấp hơn mức dự trữ bắt buộc theo qui định của Nhà nước cho từng thời kỳ. Đáp ứng đòi hỏi trên, các NHTM luôn phải phân bổ số lượng tiền cho vay và thời hạn cho vay với cơ cấu thích hợp để giải quyết mâu thuẫn này vì thế việc cho vay phải được hoàn trả đúng hạn mới đảm bảo được khả năng thanh khoản của NHTM. Việc huy động tiền gửi của NHTM đòi hỏi phải thanh toán trả gốc và lãi cho người gửi, đồng thời bên cạnh đó phải đảm bảo chi phí cũng như mức lãi nhất định để NHTM duy trì hoạt động và chấp nhận rủi ro trong hoạt động của mình, do đó việc cho vay đòi hỏi phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi và với mức lãi suất đảm bảo chi trả cho người gửi, cho chi phí hoạt động của NHTM và một mức lãi thích hợp cho việc chấp nhận rủi ro trong hoạt động. - Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích: Nhằm bảo vệ an toàn vốn của mình (đi vay) cho vay đối với khách hàng, NHTM phải thoả thuận với khách hàng về các mục đích sử dụng vốn vay trên cơ sở đảm bảo tính hợp pháp, tính an toàn và quay vòng của đồng vốn ... nên các NHTM phải tiến hành phân đoạn thị trường, thực hiện cấp hạn mức tín dụng cho từng lĩnh vực, xây dựng các điều kiện cho vay khuyến khích hay hạn chế cụ thể,.... Để thực hiện mục đích đó, NHTM phải thoả thuận với khách hàng việc sử dụng vốn vay theo những mục đích cụ thể và được NHTM tiến hành thẩm định nhằm đánh giá các rủi ro tiềm ẩn để đưa ra ưuyết định cho vay hay không cùng các điều kiện, biện pháp phòng ngừa kèm theo. Thoả thuận các điều kiện kèm theo mục đích sử dụng vốn vay đó nhằm tạo điều kiện cho các NHTM kiểm soát được rủi ro của đồng vốn mà có được biện pháp kịp thời, chủ động xử lý nhằm giảm thiểu rủi ro mất vốn, dẫn đến ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của NHTM. do vậy vốn vay cần phải được sử dụng đúng mục đích. - Vốn vay phải có tài sản tương đương để làm đảm bảo: Rủi ro trong hoạt động kinh tế có thể làm ảnh hưởng đến vốn của các khách hàng trong hoạt động là một tất yếu khách quan và từ đó làm ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn vay của NHTM. Nhằm đảm bảo hơn nữa việc hạn chế những rủi ro này, NHTM cho vay trên cơ sở phải có tài sản tương ứng để đảm bảo cho vốn vay nhằm dự phòng nguồn thu cho NHTM khi có rủi ro xảy ra và tạo khả năng kiểm soát của NHTM cũng như động lực để khách hàng vay vốn thực hiện hiệu quả hoá hoạt động kinh doanh của mình nhằm và thực hiện đúng các thoả thuận với NHTM. Vai trò của NHTM trong nền kinh tế: - Thúc đẩy sự tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế: sự tăng trưởng kinh tế được dựa trên sự tăng trưởng của từng doanh nghiệp, từng ngành trong nền kinh tế. NHTM thông qua hoạt động tín dụng đã hỗ trợ một khối lượng vốn lớn cho các doanh nghiệp, các ngành để không ngừng mở rộng đầu tư - kinh doanh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, tăng trưởng với tốc độ hợp lý, góp phần trực tiếp vào thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. NHTM cho vay tín dụng trên cơ sở các dự án/phương án kinh doanh có hiệu quả, đảm bảo khả năng hoàn trả vốn vay (gốc + lãi). Thông qua hoạt động tín dụng sẽ kích thích các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực có thế mạnh, đảm bảo khai thác có hiệu quả trong hoạt động. Với nguồn vốn tín dụng của NHTM, doanh nghiệp có được điều kiện nâng cao hơn hiệu quả hoạt động của mình và về số lượng cũng như chất lượng đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế. - Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp: Chính vì phải trả lãi cho số tiền đi vay, buộc các doanh nghiệp không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động thì việc đi vay mới có ý nghĩa trong hoạt động kinh doanh. Vốn vay được mở rộng thích hợp, doanh nghiệp có điều kiện đầu tư tăng năng lực thông qua việc đổi mới và áp dụng công nghệ hiện đại, mở rộng kinh doanh, tăng dự trữ nguyên vật liệu, hàng hoá ... từ đó tạo ra được vị thế tốt trong cạnh tranh (giá cả, thị trường, sản phẩm...) và ngược lại sẽ thúc đẩy cho doanh nghiệp không ngừng nâng cao được khả năng cạnh tranh của mình. Chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại: Khái niệm: Như ta thấy, chất lượng là đặc tính, công dụng của một sản phẩm hay dịch vụ cụ thể nhằm đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng (được xã hội thừa nhận - mang tính xã hội), như vậy chất lượng ở đầy chủ yếu nhằm đáp ứng cho xã hội và đó là mục đích hàng đầu cũng là mục đích cuối cùng mà người cung cấp quan tâm trước khi đạt được mục đích lợi nhuận. Tuy nhiên tín dụng là một dịch vụ đặc biệt và nó cũng được cung cấp bởi một tổ chức đặc biệt hơn đó là NHTM, do đó chất lượng tín dụng cũng mang tính đặc biệt hơn cả. Tính đặc biệt thể hiện ở chỗ: Thứ nhất là dịch vụ, nhưng nó phải mang tính hoàn trả cao. Thứ hai là chính vì tính hoàn trả đó mà để thực hiện được chắc chắn tình hoàn trả thì dịch vụ này phải đáp ứng được cả yêu cầu của người dùng và Ngân hàng Thương mại (người bán, người phục vụ). Thứ ba là như hàng hoá thông thường chỉ được đa số người tiêu dùng thừa nhận và sử dụng, nhưng dịch vụ tín dụng ở đây phải được xem xét và thừa nhận đặc biệt hơn nữa là trên góc độ vĩ mô quản lý Nhà nước về kinh tế. Như vậy Chất lượng tín dụng được hiểu gắn liền với nhiều góc độ xem xét, nhìn nhận trên nhiều phương diện khác nhau từ nguời khách hàng, NHTM, xã hội: - Khách hàng vay vốn: là sự đáp ứng tốt nhất về thủ tục, qui mô tín dụng, thời gian xét duyệt, giải ngân, thời hạn và lãi suất cho vay, phong cách phục vụ.... hay là đáp ứng được cơ hội kinh doanh và sự hài lòng trong phục vụ, góp phần mang lại hiệu quả kinh doanh cao cho khách hàng. - Khách hàng gửi tiền: thể hiện sự đáp ứng tốt về Lãi suất huy động, về tính thanh khoản khi khách hàng rút tiền gửi đến hạn, trước hạn. - Nền kinh tế: Thúc đẩy được sự tăng trưởng kinh tế cả về tốc độ, cơ cấu ngành trong nền kinh tế và đảm bảo góp phần kiềm chế lạm phát và hỗ trợ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế khác của Nhà nước. - Ngân hàng Thương mại: trước hết đảm bảo được khả năng an toàn (đảm bảo thu hồi vốn vay đúng hạn đáp ứng tốt khả năng thanh khoản) và khả năng sinh lợi (đảm bảo thu hồi đủ lãi cho vay và đồng thời thu hút tốt hơn các dịch vụ khác cho Ngân hàng tạo nguồn thu nhập cao, ổn định) là mục tiêu quan trọng và mang tính tổng quát nhất. Ta có thể hiểu thêm cụ thể hơn trong các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng của NHTM. Như vậy, với một số lĩnh vực cơ bản, ta có thể hiểu được chất lượng tín dụng theo quan điểm từng lĩnh vực. Chất lượng tín dụng luôn được gắn với bối cảnh, điều kiện, tác dụng... của từng lĩnh vực, từng giai đoạn lịch sử cụ thể, đặc biệt là bối cảnh về kinh tế. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại: Do chất lượng tín dụng là chỉ tiêu rộng dưới góc nhìn của các lĩnh vực khác nhau thì có các chỉ tiêu khác nhau để phản ánh chất lượng tín dụng. Tuy nhiên trong bài luận văn này đề cập tới chất lượng tín dụng của NHTM dưới góc nhìn của NHTM. Để phản ánh được chất lượng tín dụng thì chúng ta phải sử dụng hệ thống nhiều chỉ t._.iêu khác nhau, mỗi chỉ tiêu hay nhóm chỉ tiêu chỉ phản ánh một hoặc vài khía cạnh nhất định trong tổ hợp nhiều mặt của chất lượng tín dụng. Do vậy ta xem xét từng nhóm chỉ tiêu bao gồm: - Nhóm chỉ tiêu về doanh số hoạt động tín dụng: Phản ánh qui mô, tốc độ luân chuyển hoạt động tín dụng của NHTM trong một khoảng thời gian nhất định. Gồm có Doanh số cho vay và doanh số thu nợ qua các năm. - Nhóm chỉ tiêu Dư nợ: Là nhóm chỉ tiêu đóng vai trò quan trọng trong việc phản ánh chất lượng tín dụng, chủ yếu mang tính định lưọng về số lượng và cơ cấu dư nợ tín dụng, thông qua đó các NHTM có thể biết được tình trạng tín dụng về mặt số lượng, qui mô của mình và tiến hành thực hiện cơ cấu hoá lại các khoản vay theo hướng qui mô và tỷ trọng có lợi nhằm nâng cao chất lượng tín dụng. Để có thể hiểu phần này ta xem xét một số khái niệm phân loại nợ theo quyết định 493/2005/QĐ- NHNN ngày 22/04/2005 của NHNN V/v Phân laọi nợ và trích DPRR của các Tổ chức tín dụng như sau: Nợ nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn): Là nợ + Trong hạn (chưa gia hạn) và các TCTD đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả lãi và gốc đúng hạn. + Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và các TCTD đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại đúng hạn Nợ nhóm 2 (Nợ cần chú ý): Là các khoản nợ + Đã gia hạn nợ và còn trong thời gian đã gia hạn hoặc nợ quá hạn từ 10 đến 90 ngày. + Đã điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu và TCTD có hồ sơ đánh giá KH có khả năng trả nợ đầy đủ gốc và lãi đúng kỳ hạn đã được điều chỉnh lần đầu Nợ nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn): Là các khoản nợ + Đã quá hạn từ 91 đến 180 ngày + Đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn phân loại vào nhóm 2. + Được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không có khả năng trả nợ đầy đủ theo hợp đồng tín dụng. Nợ nhóm 4 (Nợ nghi ngờ ): Là các khoản nợ + Đã quá hạn từ 181 đến 360 ngày + Đã được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu. + Đã được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai. Nợ nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn): là các khoản nợ + Đã quá hạn trên 360 ngày. + Đã được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu và đã quá hạn trên 90 ngày trở lên. + Đã được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai và đã quá hạn theo thời hạn cơ cấu lại lần thứ hai. + Đã được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên (chưa quá hạn và đã quá hạn). Các nhóm nợ từ 3 đến 5 được gọi chung là nợ xấu Ngoài những tiêu chuẩn cho từng nhóm nợ nêu trên còn có một số tiêu chuẩn khác như phân loại lại nợ vào nhóm thấp hơn khi đáp ứng được một số điều kiện thanh toán nợ hay phân nhóm nợ cao hơn khi có nhóm nợ được phân loại cao hơn với một số khoản nợ khác đối với cùng một khách hàng. Bên cạnh đó các NHTM có thể chủ động xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để chủ động phân loại nợ theo khả năng đánh giá của NHTM dự trên khả năng trả nợ của khách hàng. Trên cơ sở khái niệm trên, tương ứng với các nhóm nợ ta có hệ thống các chỉ tiêu dư nợ theo nhóm nợ như sau: Tỷ trọng dư nợ nhóm (1) /Tổng dư nợ: Phản ánh mức độ nợ không đạt tiêu chuẩn của NHTM Tỷ trọng dư nợ nhóm (2)/Tổng dư nợ: Phản ánh mức độ nợ cần chú ý. Tỷ trọng dư nợ xấu /Tổng dư nợ: Phản ánh mức độ nợ dưới tiêu chuẩn - Cơ cấu dư nợ theo thời hạn và theo nguồn vốn: Phản ánh quan hệ giữa sử dụng vốn và huy động vốn, xem xét cơ bản tính thanh khoản trong hoạt động của Ngân hàng thương mại. Tỷ trọng dư nợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Tỷ lệ vốn huy động ngắn hạn sử dụng cho vay trung-dài hạn. - Cơ cấu dư nợ theo tài sản bảo đảm: cho thấy mức độ tài sản đảm bảo để dự phòng khả năng rủi ro xấu nhất. (6) Tỷ trọng dư nợ có bảo đảm / Tổng dư nợ Cho thấy một đồng dư nợ có bao nhiêu đồng có TSĐB. Tỷ trọng này càng lớn cho thấy việc cho vay của NHTM có nhiều dư nợ được đảm bảo an toàn bằng tài sản hay có nguồn thu nợ dự phòng nhiều hơn. - Nhóm chỉ tiêu theo ngành kinh tế: Cơ cấu dư nợ theo ngành KT: Phản ánh mức độ đa dạng hoá nợ cho vay nhằm phân tán rủi ro của hoạt động tín dụng của NHTM theo từng ngành kinh tế. Tỷ trọng dư nợ theo từng ngành kinh tế / Tổng dư nợ - Cơ cấu thu nhập: cơ cấu thu nhập phản ánh được tỷ trọng thu nhập từ hoạt động tín dụng trong tổng thu nhập của NHTM. Nếu cùng điều kiện dư nợ, nếu thu nhập từ hoạt động tín dụng làm gia tăng thu nhập từ hoạt động phi tín dụng càng lớn thì rủi ro tín dụng của NHTM càng nhỏ hơn. (8) Tỷ trọng thu nhập từ hạot đọng tín dụng = Thu nhập từ hoạt động tín dụng / Tổng thu nhập - Thu hồi nợ đã được xử lý bằng quỹ Dự phòng rủi ro: Nợ đã được xử lý từ quỹ DPRR là nợ được hạch toán ngoại bảng, các NHTM vẫn tiếp tục theo dõi và thu hồi. Khi thu hồi được nợ này thì sẽ hạch toán vào thu nhập bất thường của NHTM trong kỳ. Việc thu hồi được nợ này có ý nghĩa hết sức quan trọng, kết quả sẽ khẳng định được là khoản nợ có rủi ro hay hết rủi ro và là thu nhập trực tiếp của NHTM để thu lại khoản đã chi của mình mà đã trích DPRR trước đó làm quỹ DPRR đã được sử dụng để xử lý khoản nợ này theo qui định. Tình hình thu hồi nợ đã được xử lý bằng quỹ DPRR được đánh giá về mặt giá trị lẫn tỷ trọng được thu hồi trong từng thời kỳ. NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI: Chất lượng tín dụng của NHTM bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố, mỗi nhân tô ảnh hưởng đến một/vài khía cạnh của chất lượng tín dụng. Ta xem xét các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng theo cách phân loại nguồn gốc xuất phát. Nhân tố thuộc về NHTM. Trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp: - Trình độ chuyên môn: trình độ chuyên môn của người làm tín dụng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng hoạt động tín dụng. Lính vực hoạt động tín dụng là lĩnh vực hoạt động kinh tế rất rộng, liên quan đến nhiều đối tác trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Đặc biệt là hoạt động mang tính động, phụ thuộc phần nhiều vào đối tác và việc kiểm soát nguồn vốn cho vay cũng như hoạt động kinh doanh của KH, do đó đòi hỏi người làm tín dụng phải có trình độ chuyên môn tốt, am hiểu biết về kinh tế và xã hội thì mới có khả năng nắm bắt và hiểu được đầy đủ nhất thông tin về sử dụng vốn của Khách hàng để từ phân tích và đánh giá được những rủi ro tiềm ẩn trong quá trình đó (dưới nhiều khía cạnh như kinh tế, pháp luật, chính trị,...) nhằm đưa các quyết định đúng đắn nhất liên quan đến việc tài trợ, kiểm soát quá trình sử dụng vốn vay và thu hồi nợ vay (gốc và lãi) an toàn, đúng hạn và có hiệu quả. - Đạo đức nghề nghiệp: Do đặc thù hoạt động như trên, nên chất lượng tín dụng phụ thuộc phần lớn vào người làm tín dụng, do tính chất hoạt động ngoàI trụ sở, liên quan nhiều đối tượng, hồ sơ và chuẩn mực cho vay mang tính định tính cũng như định lượng (không thể chuẩn xác) đòi hỏi tương đối phức tạp và nguồn thông tin kiểm soát người vay chủ yếu do người làm tín dụng nắm giữ... Do đó nếu người làm tín dụng mà không có phẩm chất đạo đức tốt sẽ đứng về phía người vay làm thiên lệch hồ sơ, thông tin cung cấp cho lãnh đạo làm cho chất lượng hoạt động tín dụng giảm sút nghiêm trọng, có khả năng gây ra nợ xấu cho NHTM và thậm chí mất vốn. - Mức độ nhiệt tình với công việc: Người làm tín dụng mà tâm huyết với công việc thì họ có niềm say mê tạo động lực tốt hơn để làm việc, để học hỏi, để đi sâu đi sát vào khách hàng nhằm nắm bắt được các thông tin về sử dụng vốn vay, nguồn thanh toán nợ vay tìm tòi các biện pháp hay tạo ra cơ hội quản lý vốn được tốt, hạn chế nợ xấu phát sinh cho NHTM. Để tạo ra được động lực đối với người làm tín dụng trước hết đòi hỏi người làm tín dụng phải thực sự tâm huyết và yêu nghề và NHTM phải sử dụng hợp lý nguồn nhân lực, có cơ chế quản lý phù hợp thẻ thể hiện: có chính sách đãi ngộ tốt kèm theo việc khen thưởng cũng như kỷ luật tương xứng với người làm tín dụng. Bộ máy tổ chức: - Bộ máy hoạt động tín dụng: được tổ chức khoa học, gọn nhẹ sẽ giảm được sự chồng chéo trong hoạt động, sẽ đảm bảo được tính thống nhất, sự phối hợp tốt trong công việc, sẽ nâng cao được hiệu quả, kiểm soát tốt chất lượng tín dụng. - Bộ máy hỗ trợ và phối hợp: cùng với bộ máy hoạt động tín dụng tạo ra chu trình phục vụ khách hàng khép kín, góp phần thúc đẩy hoạt động tín dụng mang tính chuyên môn hoá cao hơn và góp phần hỗ trợ hoạt động tín dụng được có hiệu quả hơn thông qua việc phục vụ tốt khách hàng và thu hút được nhiều dịch vụ phi tín dụng khác. Hạ tầng cơ sở: Hạ tầng cơ sở tạo ra các điều kiện cần thiết, thuận tiện phục vụ cho hoạt động tín dụng của NHTM như điều kiện văn phòng làm việc, các công cụ lao động, hệ thống phần mềm quản lý hoạt động tín dụng… - Hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin: Với sự phát triển không ngừng của công nghệ thông tin ngày nay không chỉ phục vụ tốt như một công cụ đặc lực trong nhiều lĩnh vực hoạt động cũng như đời sống sinh hoạt xã hội, thì CNTT đóng góp đáng kể vào hoạt động tín dụng. CNTT giúp cho việc cập nhật thông tin cần thiết cho quá trình thẩm định và ra quyết định tín dụng, giúp cho việc quản lý mang tính tập trung và khoa học cao, tiết kiệm thời gian và nhân lực, đặc biệt đảm bảo độ chính xác cao trong việc kiểm soát thông tin tín dụng không chỉ mang tính nội bộ mà còn mang tính ngành và tính xã hội hoá cao. - Hạ tầng cơ sở khác: bao gồm nơi làm việc, hệ thống trang thiết bị phục vụ công việc, phương tiện đi lại, điện thoại … phục vụ cho hoạt động tín dụng của NHTM. Nếu hạ tầng đó không đảm bảo chất lượng thì gây ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động tín dụng: làm cho CBTD sẽ không nhiệt tình với công việc, việc đánh giá, kiểm soát, quản lý hoạt động tính dụng mất nhiều thời gian hơn, và kém hiệu quả. Huy động vốn: Nguồn vốn là cơ sở cho việc cấp tín dụng. Qui mô tăng trưởng tín dụng phụ thuộc hoàn toàn vào qui mô vốn huy động của Ngân hàng thương mại. Việc huy động vốn tốt mới có thể đáp ứng được cho việc tăng trưởng tín dụng. Qui mô vốn chỉ phản ánh về số lượng, còn tính chất ổn định của nguồn vốn thể hiện qua thời hạn vốn huy động sẽ giúp cho việc cho vay đáp ứng tốt về thời hạn theo nhu cầu của khách hàng. Nguồn vốn ổn định sẽ tạo điều kiện cho NHTM chủ động hơn trong việc sử dụng vốn và thường sẽ mang lại hiệu quả sử dụng vốn cao hơn. Trong điều kiện nguồn vốn huy động không ổn định, dẫn đến các NHTM phải dự trữ lớn hơn (nhằm đảm bảo tinhd thanh khoản) làm giảm hiệu quả hoạt động, đồng thời các NHTM có khả năng gặp rủi ro lớn hơn. Bên cạnh đó, Lãi suất huy động vốn qui định về cơ bản lãi suất cho vay tín dụng (giá bán) và ảnh hưởng lớn đến thu nhập của Ngân hàng thương mại. Chính sách tín dụng của NHTM: Chính sách tín dụng thể hiện những định hướng lớn trong hoạt động tín dụng bao gồm: qui mô, lĩnh vực đầu tư, cơ cấu tín dụng theo một số tiêu thức, phương thức cho vay... làm nền tảng, kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng. Những định hướng này nhằm mục đích hướng tới sự an toàn trong hoạt động tín dụng của một NHTM, tập trung khai thác thế mạnh của Ngân hàng đối với thị trường, tối ưu hoá trong việc sử dụng các nguồn lực của ngân hàng,... Xuất phát từ chính sách tín dụng làm nguồn gốc để xây dựng lên hệ thống qui trình, qui cơ chế, hướng dẫn, chỉ đạo trong hoạt động tín dụng. Các nhân tố khác thuộc về NHTM: - Qui trình nghiệp vụ tín dụng: thống nhất chung trình tự cụ thể các bước cần làm cho người làm tín dụng từ nhận hồ sơ, quá trình thẩm định, phân tích, đánh giá tín dụng cho đến giải ngân tiền vay, kiểm soát sau, thu hồi nợ, xử lý nợ xấu (nếu có)… hoạt động của CBTD phải dựa trên qui trình nghiệp vụ tín dụng (cẩm nang tín dụng), nếu qui trình tốt đảm bảo đầy đủ các bước của quá trình tín dụng thì sẽ tiết kiệm thời gian cho người làm tín dụng và đảm bảo chỉ dẫn cho người làm tín dụng các bước thẩm định, phân tích, đánh giá, thu thập và xử lý thông tin được cụ thể, khoa học, an toàn cho hoạt động tín dụng… đúng theo qui định của pháp luật, từ đó đưa ra được các quyết định tín dụng thích hợp với từng giai đoạn trong quá trình tín dụng làm cho chất lượng hoạt động tín dụng luôn được cải thiện và có hiệu quả tốt nhất. - Qui chế lao động tiền lương: Là động lực thúc đẩy hoặc kìm hãm người lao động nói chung và người làm tín dụng nói riêng. Một qui chế tốt là qui chế tạo được động lực cho người làm tín dụng luôn gắn bó và có trách nhiệm cao trong công việc đối với NHTM và đó chính là công cụ ngăn ngừa rủi ro tín dụng tốt nhất. Nhân tố thuộc về Khách hàng. Phẩm chất, tư cách tín dụng của khách hàng: Uy tín của khách hàng ảnh hưởng tương đối lớn đến chất lượng tín dụng của NHTM, đặc biệt trong trường hợp khi khách hàng gặp khó khăn trong thanh toán nợ, nếu họ không có ý thức hợp tác tốt với NHTM thì sẽ dẫn tới trây ỳ, thậm chí phó mặc cho NHTM nếu vấn đề khó khăn đó nghiêm trọng. Khách hàng có uy tín tốt có thể ví uy tín, nên cố gắng tự kết hợp với NHTM xử lý mọi vấn đề để thanh toán cho NHTM thậm chí kể cả việc sẵn sàng thanh lý tài sản thế chấp cũng như các tài sản khác thuộc về trách nhiệm nợ hay sở của mình. Thực tế cho thấy, uy tín của khách hàng tốt thì sẽ giúp họ thận trọng hơn trong quá trình ra quyết định đầu tư, quyết định vay vốn và luôn đặt nghĩa vụ nợ vay lên hàng đầu khi ra các quyết định kinh doanh. Năng lực của khách hàng: - Năng lực tài chính: Thể hiện khả năng về vốn, tài sản, nguồn thanh toán,... của khách hàng trong quá trình thực hiện kinh doanh. Năng lực tài chính tốt sẽ đảm bảo được khả năng của khách hàng trong việc thực hiện dự án/phương án kinh doanh đồng thời gắn trách nhiệm của khách hàng cao nhất trong quá trình ra các quyết định đầu tư cũng như hợp tác với NHTM khi gặp rủi ro. Năng lực tài chính của khách hàng càng tốt thì họ càng có trách nhiệm hơn đồng thời càng có khả năng tự gánh chịu rủi ro khi xảy ra, không làm ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vay cho NHTM. - Năng lực chuyên môn: Năng lực chuyên môn giúp cho khách hàng tổ chức tốt điều hành và quản trị hoạt động kinh doanh cũng như đầu tư của mình, hạn chế được tốt các rủi ro trong quá trình kinh doanh, đảm bảo tính chính xác và tính đúng đắn trong các quyết định đầu tư cũng như các quyết định liên quan trong hoạt động kinh doanh. Luôn đặt mục tiêu lợi nhuận trong tổng thể chung với rủi ro và hiệu quả hoá hoạt động kinh doanh của mình mang tính chiến lược, lâu dài hơn. Hoạt động kinh doanh luôn đảm bảo tính bền vững làm cơ sở vững chắc để đảm bảo tốt cho khả năng trả nợ vay NHTM khi khoản vay đến hạn. Nhân tố thuộc về cơ quan cấp trên: Cơ quan cấp trên là cơ quan quản lý, là cơ quan ra quyết định ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của NHTM, có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động từ khâu tổ chức bộ máy, qui cơ chế kiểm soát hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. ảnh hưởng bao gồm: - Mô hình tổ chức bộ máy tín dụng: Bộ máy hoạt động tín dụng là nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của một NHTM và là yếu tố quyết định sự thành bại trong hoạt động tín dụng. Bộ máy được tổ chức khoa học, gọn nhẹ thì đảm bảo cho hoạt động tín dụng được điều hành không chồng chéo, tiết kiệm được sức nguời sức của và hơn nữa đảm bảo được tính linh hoạt trong hoạt động mà vẫn kiểm soát tốt hoạt động tín dụng từ đó hạn chế được rủi ro tín dụng một cách tốt nhất. - Cơ chế kiểm soát hoạt động tín dụng của hệ thống: bao gồm việc phân cấp, phân quyền kiểm soát và hệ thống các qui chế giám sát kèm theo nhằm kiểm soát hoạt động tín dụng, hạn chế tối đa rủi ro tín dụng có thể. Một cơ chế kiểm soát tốt là cơ chế minh bạch, đảm bảo quyền lợi gắn với trách nhiệm, cơ chế tạo động lực cho các đối tượng thực thi phát huy được quyền, khả năng của mình như vậy mới có thể mang lại được kết quả tốt. - Cơ chế phân quyền quản lý tín dụng: Đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của thị trường, NHTM buộc phải có hệ thống mạng lưới rộng khắp và qui mô ngày càng lớn để đảm bảo khả năng cạnh tranh. Nhằm tạo sự chủ động cho hoạt động tín dụng của các chi nhánh, phòng giao dịch trong hệ thống thì cơ chế phân quyền được ra đời để qui định quyền quản lý (phán quyết) của mỗi chi nhánh, phòng giao dịch. Cơ chế phân quyền tốt sẽ đảm bảo được tính linh hoạt, chủ động trong hoạt động tín dụng của các CN, PGD và đồng thời kiểm soát tốt hơn rui ro trong hoạt động tín dụng. - Cơ chế thưởng phạt (quyền lợi và trách nhiệm): luôn là động lực hay kìm hãm người lao động trong NHTM nói chung và người làm tín dụng nói riêng làm việc tích cực, có trách nhiệm cao trong công việc hoặc ngược lại. Một cơ chế tốt có thể khuyến khich, động viên người làm tín dụng tích cực, có trách nhiệm cao, gắn bó lâu dài với NHTM và cuối cùng là giảm thiểu rủi ro tín dụng một cách có hiệu quả. Nhân tố thuộc về cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên: Là nhân tố cực kỳ quan trọng và đặc biệt là trong kiểm soát và điều hành hoạt động tiền tệ của hệ thống NHTM, một lĩnh vực nhạy cảm đối với nền kinh tế. bao gồm về bộ máy tổ chức và hệ thống các văn bản pháp qui. - Hệ thống văn bản pháp qui: Qui định về tổ chức, cách thức, thể thức, các chuẩn mực hoạt động của NHTM, cơ chế, thẩm quyền của các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc điều tiết, giám sát hoạt động của NHTM. NHTM chỉ có thể hoạt động có chất lượng (hoạt động tín dụng có chất lượng) khi hệ thống văn bản pháp qui đầy đủ, khoa học và phù hợp với qui luật phát triển của NHTM trong tổng thể nền kinh tế theo từng thời kỳ. Hệ thống này quản lý tốt hoạt động Ngân hàng theo mục đích của quản lý Nhà nước về kinh tế, nhưng phải đảm bảo được quyền chủ động và linh hoạt của các NHTM, mới khai thác được tính sáng tạo, tạo ra được động lực thực sự cho hệ thống NHTM phát triển lành mạnh, bền vững và có hiệu quả theo đúng mục tiêu của nền kinh tế. - Bộ máy tổ chức và tính linh hoạt đối với quản lý Nhà nước trong hoạt động tín dụng: Thể hiện sự tổ chức khoa học gọn nhẹ, luôn thích ứng, thay đổi kịp thời của các cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động ngân hàng trong việc quản lý hoạt động của các NHTM theo từng giai đoạn phát triển kinh tế thông qua sự thay đổi hệ thống văn bản pháp qui cũng như tổ chức hoạt động điều hành của các cơ quan này một cách linh hoạt trước sự phát triển và trước diễn biến bất thường của nền kinh tế. Với nghiên cứu lý luận về hoạt động của NHTM nói chung, hoạt động tín dụng nói riêng trên đây, cho ta cách nhìn tổng quan về hoạt động tín dụng của NHTM, các chỉ tiêu cơ bản phản ánh chất lượng tín dụng của NHTM và hệ thống các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng, đặc biệt là chất lượng tín dụng của NHTM. Nhằm hiểu đầy đủ và sâu sắc hơn những vấn đề này trên thực tế hoạt động của NHTM, luận văn đi vào nghiên cứu thực tiễn hoạt động tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội Hải Phòng dưới góc nhìn lý luận như trên và dùng lý luận này để phân tích, đánh giá cũng như tìm ra nguyên nhân cụ thể làm cho chất lượng tín dụng của chi nhánh còn có những hạn chế. Chương 2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG TMCP QUÂN ĐỘI HẢI PHÒNG 2.1. KHÁI QUÁT VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG TMCP QUÂN ĐỘI HẢI PHÒNG: 2.1.1 Quá trình phát triển: Ngân hàng TMCP Quân đội được thành lập theo Quyết định số 0054/NH-GP do NHNN Việt Nam cấp ngày 14/09/1994 và Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 060297 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội cấp ngày 30/09/1994. Số vốn điều lệ ban đầu là 20 tỷ đồng với định hướng chủ yếu trong giai đoạn đầu là phục vụ các doanh nghiệp Quân đội tham gia phát triển kinh tế và thực hiện nhiệm vụ Quốc phòng. Cổ đông sáng lập chủ yếu là các Tổng công ty, Công ty và các Nhà máy thuộc Bộ Quốc phòng. Theo sự phát triển của nền kinh tế, mục tiêu của Ngân hàng TMCP Quân đội từng bước được thay đổi phù hợp với mục tiêu là trở thành một ngân hàng bán lẻ, đa năng và là một trong những Ngân hàng hàng đầu của Việt Nam. Trải qua hơn 13 năm hoạt động, vốn điều lệ ban đầu chỉ có 20 tỷ đồng, duy nhất một trụ sở chính tại 28A Điện Biên Phủ- Ba Đình- Hà Nội, nhưng đến nay đã có những bước phát triển vượt bậc: vốn điều lệ liên tục tăng đến 1.045,2 tỷ vào cuối năm 2006 và đến cuối năm 2007 đã đạt 2.000 tỷ đồng và dự kiến năm 2008 sẽ là 3.500 tỷ; Tổng tài sản tăng từ 32 tỷ năm 1995; năm 2005 tăng lên 8.214 tỷ; năm 2006 tăng lên 13.529 tỷ và trên 19.120 tỷ năm 2007 và lợi nhuận trước thuế tăng từ 4,8tỷ năm 1995 lên 148,6 tỷ năm 2005; năm 2006 là 252,9 tỷ và năm 2007 là 520 tỷ. Ngân hàng Quân đội liên tục phát triển mở rộng mạng lưới tại các trung tâm kinh tế lớn trên khắp cả nước, cho đến cuối năm 2007 đã nâng tổng số điểm giao dịch lên là 65 điểm và dự kiến trong năm 2008 sẽ tăng lên tối thiểu đạt tới 100 điểm, tuỳ theo tình hình thị trường. Bên cạnh đó, Ngân hàng luông chú trọng mở rộng quan hệ hợp tác với các Ngân hàng trên thế giới nhằm đảm bảo khả năng thanh toán trên toàn cầu, cho đến nay hệ thống mạng lưới ngân hàng đại lý đã mở rộng lên tói 700 Ngân hàng trên khắp các châu lục. Liên tục nhiều năm liền Ngân hàng Quân đội được xếp trong nhóm top 5 Ngân hàng ngoài quốc doanh lớn nhất Việt Nam và nhận được nhiều giải thưởng cao quý. Do nhu cầu phát triển mạng lưới tới các tỉnh, thành phố khu đô thị có kinh tế phát triển, Chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội Hải Phòng được thành lập theo quyết định số 140/1998/QĐ-NHNN5 ngày 20/04/1998 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và đăng ký kinh doanh số 0054/308918 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Phòng cấp ngày 20/05/1998. Với bộ máy tổ chức ban đầu là 10 CBNV và hoạt động chủ yếu dựa vào các đơn vị Quân đội đóng quân trên địa bàn thuộc quân khu Ba và quân chủng Hải Quân. Sau nhiều năm phát triển cho đến nay đã thực hiện mở rộng hoạt động kinh doanh đa dạng đến mọi thành phần kinh tế theo qui định của pháp luật. Chi nhạnh hoạt động với đầy đủ nghiệp vụ ngân hàng của một chi nhánh Ngân hàng thương mại tại Việt Nam với các nghiệp vụ: Huy động vốn từ cá nhân đến các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế (từ huy động có kỳ hạn đến không kỳ hạn với các kỳ hạn từ ngắn hạn đến trung hạn); Sử dụng vốn (được mở rộng từ dư nợ ban đầu hơn 90% là của các đơn vị, doanh nghiệp Quân đội đến nay hơn 50% là dư nợ của các doanh nghiệp và cá nhân ngoài Quân đội với các hình thức cho vay đa dạng từ ngắn, trung dài hạn với nhiều lĩnh vực đầu tư như: đóng tầu, kinh doanh sắt thép, vật liệu xây dựng, vận tải biển, xây dựng,... và với nhiều nghiệp vụ như: nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân); bảo lãnh (thanh toán, dự thầu, bảo hành công trình...); mở L/C; thanh toán trong nước và quốc tế; phát hành thẻ... - Bộ máy tổ chức và mạng lưới: Chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội Hải Phòng với mô hình tổ chức ban đầu gồm: Ban giám đốc và 04 Bộ phận, phòng trực thuộc là Phòng Tín dụng, Phòng Kế Toán, Phòng Hành Chính, Bộ phận Kho Quỹ. Về nhân sự khi mới thành lập ban đầu 1998 có 10 CBNV đến 2006: 70 CBNV ; 2007 : 90 CBNV. Ngay từ khi mới thành lập chỉ có một địa điểm giao dịch duy nhất của chi nhánh tại sô 2b Lạch Tray-Ngô Quyền-Hải Phòng. Đến năm 2004 đã mở thêm chi nhánh Lê Chân tại 266 Trần Nguyên Hãn, Hải Phòng, năm 2005 tiếp tục thành lập chi nhánh trực thuộc thứ 2 trên địa bàn Hải Phòng tại 346 Đà Nẵng-Hải Phòng là chi nhánh Ngô Quyền. Đến nay ngoài 02 chi nhánh còn có tiếp Phòng Giao dịch Lạch Tray tại 2b Lạch Tray (thay thế vị trí cho chi nhánh Hải Phòng chuyển về trụ sở mới về số 06 Máy Tơ - Ngô Quyền - Hải Phòng) và Quỹ Tiết Kiệm 266 Trần Nguyên Hãn, Hải Phòng (thay thế vị trí của CN Lê Chân chuyển về 146 Tôn Đức Thắng - Lê Chân - Hải Phòng). Như vậy đến hết 31/12/2007, chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội Hải Phòng có 04 điểm giao dịch trực thuộc. Mô hình tổ chức theo sơ đồ sau: Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức bộ máy Phòng Kế toán Phòng Kinh doanh Phòng HC nhân sự Phòng QL tín dụng Bộ phận K. Quỹ Phó giám đốc GIÁM ĐỐC Mối quan hệ chỉ đạo: Mối quan hệ phối hợp. - Thị trường: Thị trường ban đầu khi thành lập chủ yếu hướng tới phục vụ các doanh nghiệp Quân đội trên địa bàn Hải Phòng và các tỉnh lân cận trực thuộc chủ yếu Quân Khu Ba và Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Sau một thời gian hoạt động đến năm 2003 chi nhánh đã mở rộng hướng vào các doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn bao gốm doanh nghiệp địa phương và trung ương đóng trên địa bàn, tuy nhiên tỷ trọng dư nợ các doanh nghiệp Quân đội vẫn ở mức trên 80%. Từ năm 2005 cho đến nay đã hướng tập trung mạnh sang các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh và tỷ trọng dư nợ các doanh nghiệp ngoài Quân đội tăng đáng kể lên đến 60% trong tổng dư nợ. Hoạt động cơ bản của chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội- Hải Phòng: Hoạt động huy động vốn: Huy động vốn là hoạt động cơ bản và hết sức quan trọng đối với NHTM nói chung và chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội Hải Phòng nói riêng. Xem xét hoạt động của chi nhánh trước hết ta xem xét hoạt động huy động vốn nhằm đảm bảo cho các hoạt động khác mà chủ yếu là hoạt động tín dụng của chi nhánh: Bảng 2.1: Kết quả huy động vốn Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Giá trị Tỷ trọng Giá trị Tỷ trọng 2006-2005 Giá trị Tỷ trọng 2007-2006 Không KH 186,226 42.3% 256,141 37.1% 69,915 251,514 32.4% (4,627) Ngắn hạn 152,590 34.6% 239,050 34.6% 86,460 419,498 54.0% 180,448 Trung-dài hạn 101,726 23.1% 195,586 28.3% 93,860 106,230 13.7% (89,356) Tổng huy động 440,542 100.0% 690,777 100.0% 250,235 777,242 100.0% 86,465 (Nguồn số liệu: Báo cáo tài chính năm 2005 - 2007) Kết quả hoạt động huy động vốn trong 03 năm ở trên cho thấy: Hoạt động huy động vốn của chi nhánh tương đối đa dạng theo thời hạn có cả huy động tiền gửi không kỳ hạn, ngắn hạn và trung hạn. - Xét về tổng thể huy động: Tổng huy động vốn từ năm 2005 đến năm 2007 liên tục được tăng trưởng, tuy nhiên tăng trưởng trong năm 2007 giảm hơn so với năm 2006 là do sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt nam đã thu hút một lượng vốn lớn tham gia, từ đó làm xuất hiện sự cạnh tranh trong huy động vốn giữa các NHTM trở lên mạnh mẽ hơn.. - Huy động tiền gửi không kỳ hạn: Tương tự như tổng huy động, huy động tiền gửi không kỳ hạn cũng liên tục tăng trưởng và năm 2007 tốc độ tăng trưởng chậm lại với lý do là có sự cạnh tranh như trên giưa các NHTm dẫn đến tiền gửi không kỳ hạn được dịch chuyển sang có kỳ hạn. Tỏng huy đọng vốn vẫn đảm bảo tăng trưởng và sự dịch chuyển này làm cho cơ cấu huy động của chi nhánh thay đổi giữa có kỳ hạn và không kỳ hạn. Tuy nhiên huy động vốn không kỳ hạn của chi nhánh đạt ở mức tương đối cao và tạo cơ hội tốt cho chi nhánh trong hoạt động tín dụng và kinh doanh vốn. Chi nhánh có tỷ trọng nguồn vốn không kỳ hạn đạt mức rất cáo là do tận dụng được nguồn huy động chủ yếu từ các khách hàng là: Bộ Tư Lệnh Hải Quân và các đơn vị trực thuộc Bộ Tư Lệnh Hải Quân. - Huy động tiền gửi ngắn hạn: Là nguồn huy động chủ yếu phục vụ cho hoạt động tín dụng ngắn hạn, còn một phần được sử dụng cho vay trung - dài hạn với tỷ trọng nhất định được qui định trong từng thời kỳ khác nhau. Nguồn này không tăng về mặt tương đối qua các năm. Sang năm 2007, nguồn vốn ngắn hạn này tăng đáng kể so với năm 2006. Nguyên nhân như ở phần nguồn vốn không kỳ hạn trên đã trình bày (dịch chuyển tiền gửi không kỳ hạn của các doanh nghiệp sang có kỳ hạn ngắn hạn). - Huy động tiền gửi trung - dài hạn: Là nguồn mà chi nhánh sử dụng cho vay Trung - dài hạn. Nhìn chung nguồn huy động này cũng tăng ở năm 2006 và đến năm 2007 nguồn huy động này giảm xuống nhanh chóng. Lý do năm 2007 nguồn này giảm xuống là do có sự cạnh tranh giữa các ngân hàng về nguồn vốn, lãi suất huy động được điều chỉnh cạnh tranh theo hướng thu hút chủ yếu nguồn vốn ngắn hạn dẫn đến có sự dịch chuyển lớn từ nguồn huy động trung-dài hạn này sang nguồn ngắn hạn đối với người gửi để đảm bảo quyền lợi do xu hướng lãi suất tiền gửi gia tăng tập trung ở các kỳ hạn này. Hoạt động tín dụng: Vì là cấp chi nhánh, nên không có các hoạt động sử dụng vốn đa dạng. Các nghiệp vụ mua - bán vốn trên thị trường liên ngân hàng, đầu tư, kinh doanh ngoại tệ... đều được tập trung về hết cơ quan Hội sở. Ngân hàng TMCP Quân đội qui định việc quản lý vốn tập trung trên toàn hệ thống nhằm nâng cao hiệu quả quản cũng như điều tiết vốn đảm bảo khả năng thanh khoản và hiệu quả kinh doanh vốn. Tất cả toàn bộ nguồn vốn huy động của chi nhánh đều được tính vào vốn của Hội sở sau khi được huy động. Hội sở tái huy động (mua) lại với một lãi suất cùng kỳ huy động của chi nhánh cộng với một biên độ nhất định (tuỳ theo từng thời kỳ) và Dư nợ tín dụng sẽ là vốn đi mua lại của hội sở với mức chênh lệch giữa lãi suất bán và mua được qui định theo từng thời kỳ khác nhau cho từng kỳ hạn cho vay. Do đó dưới góc độ hoạt động của chi nhánh ta chỉ xem xét việc sử dụng vốn chủ yếu là hoạt động tín dụng. Hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng tạo ra thu nhập chủ yếu cho chi nhánh. Tình hình hoạt động tín dụng được thể hiện trong bảng 2.2 dưới đây: Bảng 2.2: Kết quả hoạt động tín dụng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Giá trị Giá trị 2006-2005 2006/2005 Giá trị 2007-2006 2007/2006 Dư nợ 354,363 556,787 202,424 157.1% 750,648 193,861 134.8% LN trước thuế 10,025 9,229 (796) 0.0% 13,941 4,712 151.1% (Nguồn số liệu: Báo cáo tài chính năm 2005 - 2007) Ở đây ta xem xét chủ yếu tổng thể hoạt động tín dụng. chi tiết hoạt động cho vay sẽ được xem xét và phân tích tại mục 2.2. Cũng như một số hoạt động khác năm 2006 hoạt động tín dụng có sự tăng trưởng tốt nhất và đến năm 2007 hoạt động này tuy có tăng trưởng tốt nhưng không được như năm 2006 là do trong năm 2006 chi nhánh tập trung cho vay được lượng vốn lớn vào việc đóng tầu xuất khẩu của một số doanh nghiệp gia tăng trong năm đó. Nhìn chung, hoạt động cho vay của chi nhánh liên tục tăng trưởng với tốc độ tối thiểu 30%/năm là tốc độ trung bình trong giai đoạn vừa qua so với nhiều NHTM khác. Các hoạt động khác: - Thanh toán quốc tế: là một chi nhánh, do đó hoạt động thanh toán quốc tế thông qua Hội sở. Chi nhánh chỉ tiếp nhận hồ sơ, thẩm định và đề xuất Hội sở mở L/C. Trong một số năm qua hoạt động này của chi nhánh tăng khá mạnh, do mở ra hướng xuất khẩu tầu biển sang nước ngoài của các khách hàng là doanh nghiệp đóng tầu trên địa bàn thuộc Vinashin và doanh nghiệp Quân đội. Cụ thể: Bảng 2.3: Kết quả hoạt động thanh toán quốc tế Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Giá trị Giá trị 2006-2005 2006/ 2005 Giá trị 2007-2006 2007/ 2006 Giá trị L/C 9.838 23.740 13.902 241,3% 26.000 2.260 109,5% Số lượng L/C 53 98 45 184,9% 102 4 104,1% (Nguồn số liệu: Sao kê ngoại bảng năm 2005 - 2007) Hoạt._. số chỉ tiêu tăng trưởng knh tế trong năm 2007: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) giá so sánh năm 1994 đạt 17.817,7 tỷ đồng, tăng 12,82%, đạt kế hoạch đề ra (kế hoạch 12¸13%); trong đó: Giá trị sản xuất công nghiệp (giá cố định 1994) thực hiện 30.150,2 tỷ đồng, tăng 18,3% đạt kế hoạch (kế hoạch tăng 18¸19%); Kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn 1,214 tỷ USD, tăng 19,8%, vượt kế hoạch (kế hoạch tăng 18¸19%); Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 17.955,4 tỷ đồng, tăng 21,1%, vượt kế hoạch (kế hoạch 16.000 tỷ đồng). Thu hút vốn đầu tư nước ngoài 340 triệu USD, vượt kế hoạch (kế hoạch 300 triệu USD); Lượng hàng qua các cảng trên địa bàn ước 22,08 triệu tấn, tăng 27,1%, vượt kế hoạch (18,3 triệu tấn); Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn 14.168,4 tỷ đồng; Khách du lịch đến Hải Phòng 3,62 triệu lượt, tăng 22,1%, vượt kế hoạch (kế hoạch 3,45¸3,5 triệu lượt). Trước năm 2000, trên địa bàn Hải Phòng chỉ có 717 Doanh nghiệp đăng ký hoạt động với mức vốn đăng ký bình quân là 800 trđ. Trong năm 2000 đã có tới 300 doanh nghiệp đăng ký hoạt động với mức vốn bình quân là 1.200 trđ/ Doanh nghiệp. Năm 2006 đăng ký mới là 1.809 DN với mức vốn đăng ký bình quân lên tới 2.969 trđ/DN và đến năm 2007 số doanh nghiệp đăng ký mới lên đến khoảng trên 3.000 DN với vốn bình quân 8.300 trđ, nâng tổng số DN đăng ký hoạt động trên địa bàn Hải Phòng lên gần 11.000 DN. Nhưng trên thực tế cho thấy số lượng doanh nghiệp còn tồn tại hoạt động chiếm tỷ trọng nhỏ so với lượng đăng ký thực tế (khoảng 40%) và vốn chủ sở hữu thường nhỏ hơn nhiều so với vốn đăng ký hoạt động. Như vậy qui mô thị trường khá nhỏ bé. Hiện nay trên địa bàn Hải Phòng có tới khoảng 40 chi nhánh Ngân hàng thương mại hoạt động, trong đó Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có tới 14 chi nhánh nằm khắp cả nội và ngoại thành, còn lại các NGân hàng khác nằm tập trung ở nội thành và các khu vực phát triển như Thuỷ nguyên, Kiến An. Trong số đó Ngân hàng Công Thương Việt Nam có 06 chi nhánh, còn lại mỗi ngân hàng có từ 1 đến 3 chi nhánh. Vớí qui mô thị trường như đề cập ở trê và số lượng điểm giao dịch của các Ngân hàng thương mại đã tạo ra sự cạnh tranh tương đối lớn trên địa bàn Hải Phòng. Tính đến 31/12/2007, tình hình hoạt động chung về huy động và sử cho vay trên địa bàn Hải Phòng như sau: TT Tên ngân hàng Năm 2006 Năm 2007 Huy động % H.động Cho vay % C.vay Huy động % H.động Cho vay % C.vay 1 Ngân hàng TMQD 12,032 70.0% 10,847 76.0% 12,700 56.2% 15,194 66.7% 2 Ngân hàng TMCP 5,156 30.0% 3,425 24.0% 9,900 43.8% 7,600 33.3% Trong đó: NHQuân đội-HP 691 4.0% 557 3.9% 777 3.4% 751 3.3% Tổng cộng 17,188 100.0% 14,272 100.0% 22,600 100.0% 22,794 100.0% (Nguồn số liệu: Báo cáo tổng kết 2006 - 2007của chi nhánh NHNN thành phố Hải Phòng) Với số liệu trên cho thấy sự phát triển về thị phần của khối ngân hàng thương mại cổ phần khá tốt, luôn được mở rộng cả về số tuyệt đối và tỷ trọng trên cả hai mặt là huy động và cho vay. Tuy nhiên trong đó chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội Hải Phòng chỉ phát triển về giá trị huy động lẫn cho vay, nhưng thị phần lại bị thu hẹp, năm 2006 huy động chiếm 4% tổng huy động trên toàn địa bàn cũng như cho vay chiếm 3,9%, năm 2007 cả cho vay và huy động đều giảm tương đối xuống còn 3,4% huy động và 3,3% cho vay. Lý giải cho vấn đề này là do một số chi nhánh Ngân hàng TMCP được thành lập trên địa bàn Hải Phòng vào năm 2007 như SacomBank, Sài gòn Công thương, CP Sài gòn... nhưng thị phần của toàn khối Ngân hàng thương mại cổ phần vẫn tăng đáng kể. Với tốc đọ tăng thị phần của khối Ngân hàng Thương mại cổ phần cho thấy, việc phát triển thị phần của chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội Hải Phòng chậm và thị phần thu hẹp lại. Số liệu tại báo cáo sơ kết 06 tháng đầu năm 2008 của NHNN chi nhánh thành phố Hải Phòng cho thấy, thị phần hoạt động tín dụng của chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội giảm xuống chỉ còn là 3,19 % (với dư nợ 901.000 trđ / 28.198.000 trđ). Nếu xét trong khối NH TMCP thì chỉ còn 9% (901.000.000 trđ/10.011.000 trđ) mà đầu năm 2008 là 9,88%. Như vậy càng chứng tỏ sự giảm sút về mặt thị phần của chi nhánh so với tổng thể cũng như trong khối NHTM cổ phần với nhau. 3.1.4. Định hướng hoạt động tín dụng của chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội Hải Phòng: Thực hiện định hướng chung của Ngân hàng TMCP Quân đội về hoạt động tín dụng trong những năm tiếp theo đến 2010, nghiên cứu thực tế thị trường địa bàn Hải Phòng với đặc tính như trên, chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội Hải Phòng xác định định hướng, cụ thể: - Hướng tới khách hàng vừa và nhỏ trên địa bàn Hải Phòng, tập trung vào các ngành thế mạnh của Hải Phòng là Cảng biển, công nghiệp Đóng tầu, Vận tải biển, công nghiệp thép, ... và các ngành dịch vụ cảng biển. - Tập trung phục vụ tốt các khách hàng truyền thống, khai thác tối đa nhu cầu dịch vụ của nhóm khác hàng này. - Mở rộng khách hàng vừa và nhỏ sang các tỉnh lân cận mà Ngân hàng TMCP Quân đội chưa có điểm giao dịch như Hải Dương, Thái Bình, Nam định. - Trú trọng hơn đến các khách hàng cá nhân, nâng tỷ trọng dư nợ cho vay cá nhân lên đến 25% theo định hướng chung của Ngân hàng TMCP Quân đội. - Không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, nhằm nhanh chóng nâng cao tỷ trọng thu nhập phi tín dụng, hướng tới tỷ trọng này đạt được là 20%. - Khống chế tỷ lệ nợ xấu ở mức cho phép <1,5% tổng dư nợ. Thực hiện trích dự phòng rủi ro theo qui định và phấn đấu đến hết năm 2008 sẽ trích lập đầy đủ dự phòng chung theo qui định của NHNN. Tập trung xử lý các khoản nợ xấu và nợ ngoại bảng đã trích DPRR. - Tăng trưởng tín dụng và các dịch vụ kèm theo với tốc độ tối thiểu 20%/năm. 3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG TMCP QUÂN ĐỘI HẢI PHÒNG. 3.2.1. Nâng cao nhận thức của lãnh đạo chi nhánh: Để hạn chế được rủi ro tín dụng mà một phần thể hiện thông qua nợ xấu của chi nhánh như đã trình bày ở chương 2, thì trước hết phải nâng cao nhận thức của lãnh đạo chi nhánh thấy được tầm quan trọng của việc thực hiện tốt các qui định về thẩm định, xét duyệt, kiểm soát, thu hồi nợ vay .... cũng như tránh việc can thiệp, tác động vào quá trình này của CBTD cũng như lãnh đạo tín dụng cấp trung gian làm thiên lệch hướng xét duyệt cho vay theo ý chí chủ quan của lãnh đạo chi nhánh. Lãnh đạo chi nhánh luôn phải là tấm gương mẫu mực trong hoạt động tín dụng để CBTD noi theo, học tập và gây ảnh hưởng lớn đến quá trình, hành vi, nhận thức và ý thức của CBTD, từ đó tạo thành một hệ thống đồng lòng từ trên xuống dưới các cấp trong hoạt động tín dụng cùng nâng cao được chất lượng tín dụng và phòng chống rủi ro hưu hiệu cho hoạt động tín dụng của chi nhánh. 3.2.2. Hoàn thiện mô hình, qui trình tín dụng: - Mô hình tín dụng: như đã trình bày ở chương 2 (nguyên nhân dẫn đến hạn chế) về mô hình quản lý rủi ro tín dụng hiện nay của chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội Hải Phòng và những hạn chế của mô hình này. Nhu cầu thực tiến hoạt động chung của toàn bộ hệ thống tín dụng của Ngân hàng TMCP Quân đội cũng như các chi nhánh đều đòi hỏi phải có sự thay đổi nhanh mô hình bộ máy kiểm soát rủi ro tín dụng để phù hợp với thị trường cạnh tranh hiện nay. Mục đích đặt ra đòi hỏi phải có bộ máy kiểm soát rủi ro đảm bảo phân tách được công việc, tránh chồng chéo công việc lặp lại mà các bộ phận kinh doanh (CBTD) đã làm. Hướng phân tách công việc như sau: + Các bộ phận thẩm định tín dụng trực tiếp: thực hiện việc thẩm định mang tính vi mô và cụ thể vào các công việc: Tài chính, phương án, tài sản thế chấp, Pháp nhân/thể nhân, các quan hệ kinh tế liên quan. + Các bộ phận tái thẩm định (Quản lý tín dụng): xử lý tập trung vào các công việc mang tính vĩ mô hơn như: kinh tế ngành, chính sách của Nhà nước đối với ngành, ảnh hưởng của kinh tế khu vực, thế giới tới nền kinh tế và tới ngành kinh tế, các vấn đề khác mà các bộ phân thẩm định tín dụng trực tiếp chưa thực hiện phân tích, đánh giá. + Việc thẩm định cũng như tái thẩm định phải được tranh luận trên cơ sở có cấp lãnh đạo có đủ thẩm quyền tham dự để quyết định các vấn đề mấu chốt trên cơ sở phân tích, đánh giá khách quan các khía cạnh thẩm định và tái thẩm định gắn với mục tiêu của Ngân hàng TMCP Quân đội, với thực tế thị trường và xu hướng vận động của thị trường. Với yêu cầu bức bách và khách quan đặt ra như vậy, hiện nay nhiều ngân hàng đã tiến hành thành lập Hội đồng tín dụng nhằm thực hiện việc phán quyết với các dự án, phương án vay vốn lớn theo qui định cần phải được thông qua Hội đồng tín dụng. Thành phần Hội đồng tín dụng gồm: Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc, Bộ phận Tái thẩm định Hội sở, Giám đốc chi nhánh, Bộ phận thẩm định cấp chi nhánh, Bộ phận tái thẩm định cấp chi nhánh. Tuỳ theo Hội đồng thẩm định cấp nào thì có các thành phần trong Hội đồng sẽ khác nhau. Đối với Hội đồng tín dụng cấp chi nhánh gồm: Giám đốc / Phó Giám đốc chi nhánh (người phụ trách hoạt động tín dụng của chi nhánh), Trưởng phòng kinh doanh (Khách hàng Doanh nghiệp/khách hàng cá nhân), cán bộ tín dụng KHDN/KHCN, Trưởng phòng Tái thẩm định và cán bộ trực tiếp tái thẩm định. Khi họp Hội đồng tín dụng thì giám đốc/ phó Giám đốc nghe các bên thẩm định và tái thẩm định tranh luận về các vấn đề liên quan đến rủi ro và an toàn của khoản vay cũng như các vấn đề khác liên quan đến đề xuất cho vay hay từ chối đối với khảon vay, từ đó sẽ có được thông tin từ hai chiều để nhận định, đánh giá và ra quyết định cuối cùng đối với khoản vay. - Qui trình tín dụng: Do qui trình nghiệp vụ tín dụng được ban hành đã lâu, mang tính chất chỉ dẫn các bước cho vay cơ bản trong điều kiện kinh tế - xã hội cũng như cạnh tranh tại thời điểm năm 2005 và các năm trước đó, Để phù hợp với hoạt động tín dụng trong giai đoạn hiện nay, trước cuộc cạnh tranh giữa các NHTM đang diễn ra mạnh mẽ không chỉ trong nước mà còn có sự góp mặt của các NHTM nước ngoài, nên Qui trình nghiệp vụ tín dụng phải được thay đổi theo hướng sau: + Qui trình nghiệp vụ tín dụng phải tạo ra được khung chung hướng dẫn trình tự hoạt động tín dụng và cần được sửa đổi, bổ sung hay ban hành lại cho phù hợp với sự thay đổi môi trường tín dụng: Pháp luật, điều kiện cạnh tranh, môi trường kinh tế của doanh nghiệp. + Ngoài qui trình nghiệp vụ tín dung chung, đối với từng nhóm, từng ngành hàng, lĩnh vực .... là thị trường mực tiêu của ngân hàng, cần có chính sách, các văn bản hay qui trình con để hướng dẫn cụ thể hơn cho quá trình thẩm định, đặc biệt là sự khác biệt giữa các ngành, lĩnh vực... về tiềm lực tài chính, về triển vọng phát triển, vị thế tương quan với ngân hàng.... thì cần có những bước thẩm định thích hợp, chuyên sâu hơn và có hiệu quả cao nhất để nâng cao được khả năng cạnh tranh. 3.2.3. Phát triển nguồn nhân lực tín dụng: Do qui mô tăng trưởng tín dụng, sự đòi hỏi chuyên môn hoá sâu hơn trong hoạt động tín dụng, cũng như sự đòi hỏi cấp bách về quản lý rủi ro tín dụng thông qua việc nâng cấp phần mềm công nghệ thông tin T24 nhằm tạo ra một kho dữ liệu thống nhất và đầy đủ trong toàn hệ thống NHTM, sự phân công lại lao động tín dụng cho phù hợp với mô hình với tính chất công việc và sự mở rộng liên tục mạng lưới của các NHTM đã tạo ra nhu cầu CBTD rất lớn. Kết hợp với sự ra đời liên tục của các NHTM trong 03 năm qua cũng tạo ra những “cơn sốt” nguồn nhân lực tín dụng đòi hỏi các NHTM luôn phải tuyển mới bổ sung nguồn nhân lực tín dụng để bù đắp cũng như dành cho phát triển, do đó chất lượng nguồn nhân lực này không đủ đảm bảo cho nhu cầu phát triển. Trước thực trạng đó, tuổi nghề trung bình của CBTD rất thấp, đòi hỏi chi nhánh phải luôn có kế hoạch chủ động trong việc tuyển dụng và đào tạo, cụ thể: - Chính sách tuyển dụng: Tuyển dụng nhân sự được thực hiện qua 02 vòng là thi viết và thi vấn đáp. Việc tuyển dụng hiện nay còn có những hạn chế nhất trong việc kết nối thống nhất giữa vòng thi viết và thi vấn đáp. Sau khi thí sinh đạt được vòng thi viết thì sẽ được phỏng vấn để lựa chọn lần nữa trước khi vào làm việc tại Ngân hàng. Thường ở vòng thi vấn đáp cử nhiều cán bộ hỏi thi không nắm rõ thí sịnh đã thi viết những nội dung gì, do đó việc hỏi thi không được phát triển một cách đầy đủ mà đôi khi còn trùng lặp với đề thi viết, đã hạn chế khai thác khả năng của thí sinh và từ đó đánh giá không đầy đủ và chính xác những mặt mà Ngân hàng cần. - Chính sách đào tạo: Chi nhánh cần chủ động hơn trong việc tự đào tạo trong lĩnh vực tín dụng đối với CBTD mà không cần thiết phải bị động trông chờ ở Hội sở tổ chức. Việc đào tạo CBTD chú trọng và tập trung nhiều hơn vào các kiến thức, kỹ năng thực tế công việc, do đó cần phải chủ động tổ chức nhiều hơn các buổi tự đào tạo dưới hình thức Hội thảo hay phổ biến văn bản tại chỗ nhằm phổ biến và trao đổi được nhiều hơn những kinh nghiệm thiết thực trong hoạt động tín dụng thường này và làm rõ hơn các kiến thưc về pháp luật phát sinh nhằm vận dụng nhanh chóng vào hoạt động tín dụng của chi nhánh. Không chỉ đào tạo mang tính nội bộ như vậy, có thể mời những người có kinh nghiệm chuyên sâu từ các Ngân hàng khác sang trao đổi kinh nghiệm và có thể mời các chuyên gia trong các lĩnh vực kỹ thuật liên quan đến thẩm định tín dụng để phổ biến kiến thức về ngành, chuyên môn bổ sung cho CBTD nhằm tiếp cận các khách hàng, phương án, dự án nhanh chóng, đảm bảo tốt khả năng thẩm định cũng như hạn chế được rủi ro do không nắm vững về lĩnh vực mình thẩm định. - Chính sách đãi ngộ: Kể từ năm 2006, chi nhánh cũng đã có bước tiến mới như trong toàn hệ thống đó là đã tiếp nhận thêm những CBTD, CB lãnh đạo có kinh nghiệm, bỏ qua một số khâu trong quá trình tuyển dụng với mức lương theo thoả thuận, thay cho mức lương theo qui định trước đây được tính trình tự theo thời gian công tác tại Ngân hàng TMCP Quân đội (không quan tâm đến mức lương cũ của CBTD hay CB lãnh đạo). Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động tính đến năm 2007 thì mức lương bình quân cho CBTD của chi nhánh thấp nhất trong hệ thống Ngân hàng TMCP trên địa bàn Hải Phòng và cho đến nay tình trạng này vẫn chưa có thay đổi khác. Hơn thế nữa trong qui định hiện nay, thì việc phân chia lương cho CBTD cũng có hệ số được cào bằng như các bộ phận khác. Để phát huy hơn nữa khả năng của CBTD cũng như hàng ngũ lãnh đạo thì cần phải có hệ thống lương phân biệt trong đó phải chú trọng đến lương của CBTD cũng như các chế độ khác kèm theo mới đảm bảo động viên được đội ngũ này tập trung vào thực hiện tốt công việc,hạn chế tối đa những rủi ro kèm theo. Song song hơn nữa, ngoài chính sách đãi ngộ ra cũng cần có một qui chế, chế tài rõ ràng về trách nhiệm của CBTD đối với công việc mà theo hướng triết giảm quyền lợi cụ thể hay có thể đình chỉ công tác, điều chuyển công tác sang các vị trí thích hợp khi không đáp ứng được yêu cầu công việc (kể cả lãnh đạo chi nhánh nếu gây ra rủi ro lớn trong hoạt động tín dụng do nguyên nhân chủ quan). 3.2.4. Nâng cao chất lượng thẩm định: Tăng cường hơn nữa việc nâng cao chất lượng thẩm định thông qua trước hết là việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tín dụng như ở trên, kết hợp với việc giám sát việc tuân thủ của CBTD cũng như lãnh đạo chi nhánh trong việc thực hiện qui trình nghiệp vụ và các qui định liên quan một cách có ý thức thiết thực nhất về phòng tránh các tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động tín dụng của chi nhánh. Việc nâng cao chất lượng trước hết thể hiện: - Xây dựng kế hoạch tín dụng phải phù hợp với năng lực thực tế (số lượng và chất lượng nhân sự tín dụng) và thị trường cùng các điều kiện khách quan khác. Hạn chế việc chạy theo số lượng để lấy thành tích. Kế hoạch xây dựng quá cao, sẽ vượt quá sức CBTD, dẫn đến tình trạng buông lỏng sự kiểm soát, thu thập và xử lý thông tin cần thiết về khách hàng vay vốn làm cho nguy cơ tiềm ẩn rủi ro có cơ hội phát triển nhanh. - Trước hết là việc nâng cao ý thức phòng chống rủi ro tín dụng cho các cấp lãnh đạo của chi nhánh như mục 3.2.1 trên làm hàng đầu. Hạn chế việc nhận thức chưa đúng đắn về khách hàng, mục tiêu và động cơ cho vay. Cùng từ đó hạn chế việc gây ảnh hưởng, tác động của lãnh đạo chi nhánh đến quá trình và kết quả thẩm định của các cấp thẩm định. - CBTD phải tuân thủ chặt chẽ các qui định, thực hiện việc thẩm định tín dụng, kiểm tra, kiểm soát theo chiều sâu chất lượng. Tránh mang tính hình thức, đối phó. - Nâng cao chất lượng và tính chủ động thường xuyên giám sát, kiểm soát của các cấp lãnh đạo trung gian đối với hoạt động nghiệp vụ của CBTD. - Phân loại các loại khoản vay theo các tiêu thức cụ thể như đối tượng tài trợ, loại hình doanh nghiệp, nguồn trả nợ vay... để từ đó có những biện pháp thích hợp cho mỗi loại khoản vay trong việc quản lý, giám sát khoản vay. Với giai đoạn hiện nay tập trung vào giám sát chặt ché các khoản vay: + Đối tượng tài trợ: cần chú ý đến các khoản vay xây dựng cơ bản, đặc biệt có nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước thì cần phải được kiểm tra chặt chẽ hơn, thực hiện kiểm soát sau thực tế công trình, khối lượng, giá trị thi công, xác nhận các nguồn thanh toán về giá trị, tiến độ, thủ tục... để chủ động đối với các khoản vay này đến hạn. tập trung vào cho vay đối với các công trình xây dựng có nguồn thanh toán chủ yếu là do các NHTM tiến hành đã và đang tiếp tục giải ngân. Hạn chế với các công trình có nguồn vốn từ ngân sách (không thuộc công trình trọng điểm) hay các nguồn từ chủ đầu tư không được xác định rõ ràng nguồn thanh toán... + Theo thời hạn vay: Các khoản vay đầu tư trung - dài hạn cần được xem xét biến động của nguồn trả nợ vay như thu nhập từ kinh doanh của khách hàng, thường xuyên giám sát kiểm tra tài sản bảo đảm được hình thành từ vốn vay và nguồn trả nợ vay, các nguồn thu nhập chuyển về phải được thanh toán nợ vay theo đúng thoả thuận, tránh tình trạng nguồn thu của khoản vay này lấy dùng sang mục đích khác khi chưa đến hạn trả nợ vay. + Với loại hình doanh nghiệp: các khoản cho vay đối với doanh nghiệp Nhà nước, cần kiểm tra chặt chẽ mục đích, tính chất, bàn chất của khoản vay, tránh tình trạng cho vay bán hàng chậm trả cho các doanh nghiệp vệ tinh mà chủ doanh nghiệp thực sự lại là lãnh đạo của các doanh nghiệp Nhà nước nay hay là các khoản nhập khẩu uỷ thác chậm trả. Nói chung là nhiều doanh nghiệp loại này đi vay vốn hộ các doanh nghiệp vệ tinh dưới hình thức trên, do đó khó khăn đánh giá được khả năng tài chính và trả nợ thực sự của các khoản vay này. 3.2.5. Nâng cao tinh thần, trách nhiệm trong việc xử lý nợ xấu: - Chỉ tiêu xử lý nợ xấu phải được được đưa vào chỉ tiêu thực hiện kế hoạch hàng năm, hàng quý đối với chi nhánh. Trên cơ sở đó là kế hoạch tới từng phòng, ban và từng cá nhân trong xử lý nợ xấu. - Nợ xấu phát sinh phải được xác định là trách nhiệm của cả bộ máy hoạt động tín dụng các cấp liên quan, do đó cần phải xây dựng cơ chế xử lý nợ rõ ràng, phân chia trách nhiệm đến từng cá nhân liên quan mà trách nhiệm trước hết thuộc về người lãnh đạo đứng đầu trong hoạt động tín dụng thì mới đảm bảo được người lãnh đạo có trách nhiệm cao và khách quan nhất trong việc xử lý nợ xấu. Việc xử lý nợ xấu phải được công khai, minh bạch có sự chỉ đạo thông suốt từ trên xuống dưới để tạo ra được sức mạnh đoàn kết và đồng bộ trong quá trình xử lý nợ mới mang lại hiệu quả cao. 3.2.6. Phát triển sản phẩm mới: Trong suốt quá trình hoạt động tín dụng gần 10 năm của chi nhánh gần như chưa bao giờ để ý đến việc phát triển sản phẩm mới mà chủ yếu hoàn toàn dựa trên những sản phẩm do Hội sở hay chi nhánh khác đưa ra và thực hiện rập khuôn một cách bị động. Để khắc phục vấn đề này, chi nhánh cần phân công cán bộ chuyên trách trong việc nghiên cứu và đề xuất phát triển sản phẩm mới phù hợp với đặc thù địa bàn Hải Phòng. Do tính chất sản phẩm của NHTM là sản phẩm mang tính dịch vụ và không thể giữ được bí quyết do dễ bị bắt chước, vì thế việc nghiên cứu cần phải trên cơ sở luôn xem xét, tiếp thu, kế thừa các sản phẩm dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh, đặc biệt hơn nữa là nghiên cứu các sản phẩm của Ngân hàng nước ngoài đang áp dụng mà trong nước chưa có để từ đó có thể cải tiến, sáng tạo ra những nét mới trong dich vụ phù hợp với điều kiện thị trường Việt Nam, thậm chí với Hải Phòng nhằm dễ dàng thu hút được tốt hơn đối với khách hàng. Việc sáng tạo ra sản phẩm mới cũng có thể xuất phát từ việc tách các sản phẩm cũ thành nhiều sản phẩm với đặc tính cụ thể hơn hay gộp nhiều sản phẩm thành một sản phẩm mang tính tiện ích cao cho khách hàng với những tên gọi mới mẻ, tin cậy và dễ nghe hơn. 3.2.6. Phát triển và qui hoach mạng lưới: Những hạn chế do việc phát triển và qui hoạch mạng lưới của chi nhánh đã làm hạn chế đáng kể kết quả hoạt động của chi nhánh. Vấn đề trọng tâm là việc qui hoạch chi nhánh phải phù hợp với tình thình thực tiến trên địa bàn Hải Phòng, phù hợp với tâm lý, đặc tính, quan niệm.... của khách hàng mới tạo ra được sức hút đối với khách hàng trong quan hệ giao dịch đối với chi nhánh. Chi nhánh cần phải tổ chức phân bổ lại mạng lưới các điểm giao dịch theo hướng tập trung vào các đường phố lớn ở trung tâm có hoạt động kinh doanh sầm uất như: đường Điện Biên Phủ, Tô Hiệu, Trần Phú, Nguyễn Đức Cảnh, Trần Hưng Đạo, Lạch Tray ... nhằm khai thác tốt lợi thế của các trục đường này trong Huy động vốn cũng như hoạt động tín dụng. 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM THỰC HIỆN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG TMCP QUÂN ĐỘI HẢI PHÒNG. 3.3.1. Đối với chi nhánh: - Sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực tín dụng: Do tính sở hữu đối với Ngân hàng TMCP Quân đội mang nặng Nhà nước, nên việc sắp xếp đội ngũ lạnh đạo cũ chủ yếu là những cán bộ, sĩ quan Quân đội đặc biệt là còn tồn tại một số vị trí giám đốc các chi nhánh, nhưng không phát huy được công việc. Những hạn chế đó dẫn đến việc nhận thức và sử dụng lao động không hợp lý, đặc biệt là trong lĩnh vực tín dụng. Là lĩnh vực hoạt động nhạy cảm, nên đôi khi việc sử dụng lao động chưa hợp lý, chủ yếu dựa trên thân quen, quan hệ mà ít chú ý đén năng lực thực sự của CBTD, do đó dẫn đến nhiều rủi ro trong hoạt động tín dụng của chi nhánh như tại chương 2. Để khắc phục cần phải có cách nhìn nhận, đánh giá và sử dụng đội ngũ CBTD một cách khách quan và hợp lý theo năng lực, ý thức và tư cách đạo đức. - Cần có cách nhìn và đánh giá khách quan hơn, công bằng hơn giữa doanh nghiệp Quân đội và doanh nghiệp ngoài Quân đội, đảm bảo hạn chế được rủi ro tín dụng mang lại do việc cho vay ưu tiên quá mức đối với doanh nghiệp Quân đội mà hiện nay đã gặp phải. - Việc xử lý nợ, đặc biệt là nợ ngoại bảng phải được ưu tiên hơn, được phân công cán bộ chuyên trách có sự hỗ trợ, tạo điều kiện tối đa của Ban lãnh đạo chi nhánh trong việc kết nối với doanh nghiệp, định hướng xử lý nợ và hơn nưa cần có cơ chế khuyến khích bằng vật chất nhằm động viên, khen thưởng những CBNV có thành tích trong thu hồi nợ xấu. 3.3.2. Đối với Ngân hàng TMCP Quân đội: - Cần thực hiện thay đổi lại qui trình nghiệp vụ tín dụng cho phú hợp hơn đối với giai đoạn hoạt động trong bối cảnh hiện nay và phù hợp với sự thay đổi của Ngân hàng TMCP Quân đội về mô hình tổ chức bộ máy hoạt động tín dụng cũng như Hệ thống công nghệ thông tin phần mềm T24 đang áp dụng và phát triển trong giai đoạn tiếp theo. - Đưa hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ vào hoạt động và cần có đánh giá lại theo định kỳ, luôn có sự chỉnh sửa, bổ sung cho kịp thời và phù hợp với hoạt động thực tiễn trong bối cảnh cạnh tranh hiện nay. 3.3.3. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: - Không ngừng nâng cao chất lượng của Cán bộ công chức Ngân hàng Nhà nước các tỉnh, địa phương nhằm thực hiện việc quản lý Nhà nước đối với hoạt động tín dụng theo đúng chức năng, tránh sự can thiệp quá sâu vào hoạt động của tổ chức tín dụng nói chung cũng như NHTM nói riêng, tạo ra quyền chủ động cao cho các NHTM trước sự biến đổi nhanh chóng và quyết liệt của thị trường tín dụng. - Đổi mới việc quản lý Nhà nước trong lĩnh vực Ngân hàng, luôn lấy việc thanh tra, kiểm tra để làm phòng ngừa hơn là thực hiện bắt lỗi các NHTM. Thực hiện phòng và chống tham nhũng trong lĩnh vực quản lý Nhà nước này một cách nghiêm túc và có hiệu quả. 3.3.4. Đối với chính phủ và các Bộ, ngành: - Chỉ đạo các Bộ Ngành xây dựng, chuẩn hoá các văn bản pháp qui liên quan đến việc thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm như: phân công rõ ràng, chi tiết từng loại tài sản, trách nhiệm của các cơ quan tham gia thực hiện tiếp nhận đăng ký giao dịch bảo đảm cho các NHTM, tránh tình trạng có những tài sản không thể phân định đăng ký thuộc về trách nhiệm của cơ quan nào. Thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra đối với các cơ quan này trong quá trình triển khai thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm, nhằm phòng tránh việc gây khó-dễ cho người vay cũng như NHTM khi thực hiện công việc này. Khắc phục ngay tình trạng thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm chậm chễ, chưa có được hệ thống thông tin phản hồi kịp thời đối với các NHTM về tình trạng tài sản được đăng ký giao dịch bảo đảm (có nhiều tài sản sau khi thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm mất một vài tháng mới có thông tin phản hồi lại cho NHTM là tài sản chưa được đăng ký, yêu cầu bổ sung thủ tục, sửa đơn đăng ký,...) và tình trạng thiếu trách nhiệm của các Cán bộ, nhân viên của những cơ quan này khi được các NHTM hỏi thông tin về tài sản được đăng ký hay tình trạng. - Thực hiện hiện đại hoá công nghệ đăng ký giao dịch bảo đảm, để đảm bảo việc tiếp nhận và thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm hiện đại được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau để được nhánh chóng, chính xác thuận tiện hơn cho khách hàng cũng như NHTM. Hơn thế nữa đảm bảo cho NHTM kiểm soát, xử lý nhanh chóng được kết quả đăng ký giao dịch bảo đảm nhằm đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của NHTM đối với bên thứ ba thông qua thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm. - Kiến nghị với Quốc hội để hoàn thiện hệ thống luật liên quan đến quyền sở hữu tài sản tránh sự chồng chéo như kê biên tài sản đang thế chấp, Tuyên huỷ Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà/sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền cấp nhưng lại không đúng trình tự pháp luật hay có giấy chứng nhận quyền sở hữu hợp pháp để thế chấp, nhưng vẫn bị kết luận là không có quyền sở hữu hợp pháp do có nguồn gốc hình thành trái pháp luật làm ví dụ), các cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hướng dẫn không đầy đủ về thông tin, quyền lợi, nghĩa vụ ... dẫn đến tình trạng cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và /quyền sử dụng đất ở sai lệch mục đích của người sử dụng và /sở hữu tài sản. PHẦN KẾT LUẬN Mặc dù với nỗ kiến thức của bản thân tích luỹ được trong suốt khoá học, kinh nghiệm công tác tại chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội - Hải phòng hơn 05 năm và sự tận tình hướng dẫn, chỉ bảo của các thầy, cô trong khoa Ngân hàng - Tài chính của trường Đại học Kinh tế Quốc dân, nhưng bài nghiên cứu không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tuy nhiên, bài nghiên cứu này cũng đã đạt được những thành công nhất định đối với việc nghiên cứu, tổng hợp những kiến thức về mặt lý luận tương đối phong phú đối với hoạt động của NHTM nói chung và hoạt động tín dụng trong NHTM nói riêng trong bối cảnh nền kinh tế hiện đại để có được cách nhìn tổng quan cũng như hiểu được sâu hơn về chất lượng tín dụng của NHTM: về khái niệm, về các nhân tố ảnh hưởng, về các tiêu thức đánh giá… từ đó làm cơ sở để nhìn nhận vào thực tiễn chất lượng tín dụng của chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội Hải Phòng. Trên cơ sở xem xét thực tế hoạt động, với thực trạng tín dụng của một số năm qua làm minh chứng cho cơ sở lý luận, từ đó kết hợp với lý luận để phân tích, đánh giá chỉ ra được những nguyên nhân chủ quan cũng như khách quan làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội Hải Phòng. Đề tài cũng đã làm sáng tỏ lý thuyết gắn với thực tiễn hoạt động tín dụng của NHTM, cụ thể là hoạt động của chi nhánh NHTM cổ phần Quân đội - Hải Phòng và hơn thế nữa là đã đưa ra được một số giải pháp mang tính thực tiễn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cũng như thực trạng tín dụng của chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội Hải Phòng để từ đó giúp cho chi nhánh có thể khắc phục được những tồn tại trong chất lượng tín dụng, không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng thông qua việc cải tiến mô hình tổ chức bộ máy hoạt động tín dụng, qui trình và qui chế, nâng cao chất lượng thẩm định cũng như xử lý nợ xấu tồn tại của chi nhánh trong giai đoạn tới. Cuối cùng, đóng góp lớn hơn cả thông qua chất lượng tín dụng là đảm bảo được tính thanh khoản của chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội -Hải Phòng nói riêng cũng như hệ thống Ngân hàng TMCP Quân đội nói trong đứng trước tình hình nền kinh tế, thị trường tài chính - tín dụng nhạy cảm trong giai đoạn hiện nay ở nước ta. Đồng thời bài viết cũng đưa ra được một số kiến nghị mang tính thời sự tới NHNN Việt nam, Chính phủ, các bộ ngành để giải quyết tạo hành lang pháp lý cho hệ thống NHTM Việt Nam có được những cơ hội tốt hơn nữa, trước hết là trong hoạt động tín dụng, để phát triển khai thác có hiệu quả những tiềm năng, vươn lên trong cạnh tranh với các NHTM nước ngoài đang cùng hội nhập vào thị trường Việt Nam. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TS Phan Thu Hà - Giáo trình Ngân hàng thương mại của NXB Thống kê - năm 2004. PGS-TS Phan Văn Tề, Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại của Nhà xuất bản Thống Kê - năm 2007. PGS-TS Nguyễn Thị Mùi, Quản trị Ngân hàng Thương mại - Nhà xuất bản Tài chính năm 2004. Peter S.Rose, Quản trị Ngân hàng Thương mại - Nhà xuất bản Tài chính năm 2004. Báo cáo tài chính năm 2005, 2006, 2007 của chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội Hải Phòng. Sao kê tín dụng 2005, 2006, 2007 của chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội Hải Phòng. Báo cáo thường niên năm 2005, 2006, 2007 của Ngân hàng TMCP Quân đội. Báo cáo tổng kết năm 2007 và kế hoạch hoạt động năm 2008 của HĐQT Ngân hàngTMCP Quân đội số 260/BC/HĐQT- NHQĐ ngày 29/04/2008. Báo cáo doanh số cho vay, thu nợ phân theo nghành kinh tế năm 2005, 2006, 2007 của chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội Hải Phòng. Báo cáo tổng kết của chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Hải Phòng năm 2006,2007 và sơ kết 06 tháng đầu năm 2008. Bộ Luật Dân sự do NXB Chính trị Quốc gia, năm 2005. Luật các Tổ chức tín dụng (đa được sửa đổi, bổ sung năm 2004), NXB Chính trị Quốc gia, năm 2004. PGS. TS. Lưu Thị Hương, PGS. TS. Vũ Duy Hào, Tài chính doanh nghiệp, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, năm 2007. PGS. TS. Nguyễn Văn Nam, PGS. TS. Vương Trọng Nghĩa, Giáo trình thị trường chứng khoán, NXB Tài chính, Hà Nội, năm 2002. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThS-25.doc
Tài liệu liên quan