LỜI NÓI ĐẦU
Vốn là một vấn đề vô cùng quan trọng để phát triển kinh tế . Có vốn mới có thể đầu tư vào việc đổi mới công nghệ, mua sắm trang thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu sản xuất, đầu tư cho việc đào tạo cán bộ chuyên gia Kinh tế-Kỹ thuật, đầu tư nghiên cứu các đề tài khoa học có giá trị thực tiễn ... Ngoài ra vốn là yêu cầu bắt buộc cho sự khởi đầu của bất kỳ một cuộc đầu tư nào. Tuy nhiên có vốn chưa đủ mà vốn phải được mọi cá nhân, mọi tổ chức kinh tế, xã hội sử dựng hợp lý để đạt được
78 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1288 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Tây Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiệu quả cao nhất.
Với viêc sử dụng vốn một cách có hiệu quả vào hoạt động kinh tế-xã hội .Trong những năm gần đây nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc tăng trưởng và phát triển kinh tế của nước nhà thời kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước, từng bước đưa đất nước hội nhập với khu vực và thế giới, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu đẹp, phồn vinh.
Ngành Ngân hàng là một trong những ngành quan trọng góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế xã hội của nước ta. Là một ngành không thể thiếu trong công cuộc CNH-HĐH đất nước.Vì Ngân hàng chính là nơi cung cấp vốn cho cá nhân, tổ chức kinh tế làm kinh tế giúp nền kinh tế đất nước phát triển. Vì thế ngành ngân hàng có nhiệm vụ to lớn trong việc phát triẻn kinh tế nước nhà. Muốn làm được điều này ngành Ngân hàng cần phải: Tăng cường hiệu quả hoạt động kinh doanh, làm tốt các chức năng và nhiệm vụ của mình để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi ngành, mọi cấp, mọi mặt hoạt động của nền kinh tế trước vận hội mới.
Đặc biệt đối với các Ngân hàng thương mại thì vấn đề chất lượng hoạt động tín dụng đã và đang là vấn đề nổi bật cần phải giải quyết. Bởi vì hoạt động tín dụng luôn là một nghiệp vụ quan trọng nhất, nó mang lại khoảng 90% toàn bộ lợi nhuận kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Trong tình hình hiện nay khi mà cơ chế thị trường vẫn không ngừng gây tác động đối với mọi mặt của đời sống, kinh tế-xã hội, thì những kẽ hở của pháp luật, là sự biến tướng của những thủ đoạn lừa đảo tinh vi khiến cho không ít khách hàng gặp phải khó khăn, làm ăn thua lỗ trong kinh doanh,dẫn đến nợ nần, phá sản và không trả được nợ cho ngân hàng.Điều này làm ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của ngân hàng.
Chính vì vậy, việc đưa ra các cảnh báo, các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng và hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro tín dụng, đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng luôn là vấn đề được đặt lên hàng đầu không thể thiếu trong mọi hoạt động của các ngân hàng.Qua thời gian thực tập tại chi nhánh NHNo&PTNT chi nhánh Tây Hà Nội em đã thấy được những thành tựu cũng như những một số hạn chế của chi nhánh trong hoạt động tín dụng. Nên em đã chọn đề tài nghiên cứu : "Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Tây Hà Nội."
Dựa trên lý luận về chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại và các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng, chuyên đề tập trung phân tích và đánh giá thực trạng công tác tín dụng của Chi nhánh NHNo & PTNT chi nhánh Tây Hà Nội. Qua phân tích và so sánh kết quả hoạt động tín dụng, chuyên đề đề xuất một số giải pháp cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của Chi nhánh NHNo & PTNT chi nhánh Tây Hà Nội.
Vì thời gian và điều kiện hạn chế nên Đề tài chỉ nghiên cứu một số vấn đề liên quan đến công tác tín dụng của Ngân hàng thương mại nói chung và đi sâu nghiên cứu chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHNo & PTNT chi nhánh Tây Hà Nội nói riêng trên cơ sở số liệu ngân hàng trong hai năm 2004 và 2005. Cho nên không tránh được những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và các bạn
NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ GỒM 3 CHƯƠNG :
Chương 1 : Chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2 : Thực trạng chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHNO & PTNT chi nhánh Tây Hà Nội.
Chương 3 : Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHNO & PTNT chi nhánh Tây Hà Nội.CHƯƠNG I
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. 1 NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái niệm.
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực Tiền tệ-Tín dụng. Ngân hàng thương mại còn được định nghĩa như là một trung gian tài chính, đi vay để cho vay.
1.1.2 Chức năng của ngân hàng thương mại:
+ NHTM có chức năng là trung gian tài chính:
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế.
(1). Các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn;
(2). Các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm.
Ngân hàng thương mại (NHTM) một mặt thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội, bao gồm tiền của các doanh nghiệp, các hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan nhà nước. Mặt khác, nó dùng chính số tiền đã huy động được để cho vay đối với các thành phần kinh tế trong xã hội, khi chúng có nhu cầu bổ sung vốn.
Trong nền kinh tế thị trường NHTM là một trung gian tài chính quan trọng để điều chuyển vốn từ người thừa vốn sang người thiếu vốn.
Chính với chức năng này NHTM góp phần quan trọng vào việc điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế lạm phát.
Nhờ thực hiện đi vay và cho vay, NHTM có được nguồn thu chủ lực, không những đủ sức duy trì bộ máy hoạt động, đóng thuế cho Nhà nước mà còn có lãi, đảm bảo sự phát triển không ngừng của bản thân Ngân hàng.
Như vậy chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất và quan trọng nhất của NHTM.
Hầu hết các lý thuyết hiện đại đều giải thích sự tồn tại của ngân hàng bằng cách chỉ ra sự không hoàn hảo trong hệ thống tài chính. Chẳng hạn các khoản tín dụng và chứng khoán không thể chia thành những khoản nhỏ mà mọi người đều có thể mua. Ngân hàng cung cấp một dịch vụ có giá trị trong việc chia chứng khoán đó thành các chứng khoán nhỏ hơn. (Dưới dạng tiền gửi) phục vụ cho hàng triệu người. Trong ví dụ này, hệ thống tài chính kém hoàn hảo tạo ra vai trò cho các ngân hàng trong việc phục vụ những người tiết kiệm.
Một đóng góp khác của ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền. Thực tế các ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro. Ngân hàng cũng thoả mãn nhu cầu thanh khoản của nhiều khách hàng.
Một lý do nữa làm cho ngân hàng phát triển thịnh vượng là khả năng thẩm định thông tin. Sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích thông tin được gọi là tình trạng “thông tin không cân xứng” làm giảm tính hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi cho ngân hàng, nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các công cụ tài chính và có khả năng lựa chọn những công cụ với các yếu tố rủi ro lợi nhuận hấp dẫn nhất.
Chính với chức năng này NHTM góp phần quan trọng vào việc điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế lạm phát.
Nhờ thực hiện đi vay và cho vay, NHTM có được nguồn thu chủ lực, không những đủ sức duy trì bộ máy hoạt động, đóng thuế cho Nhà nước mà còn có lãi, đảm bảo sự phát triển không ngừng của bản thân Ngân hàng.
Như vậy chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất và quan trọng nhất của NHTM.
+ NHTM có chức năng là trung gian thanh toán :
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
Nhờ tập trung công việc thanh toán của xã hội vào ngân hàng, nên việc giao lưu hàng hoá, dịch vụ trở nên thuận tiện, nhanh chóng, an toàn và tiết kiệm hơn.
Không những vậy, do thực hiện chức năng trung gian thanh toán có điều kiện huy động tiền gửi của xã hội, trước hết là của các doanh nghiệp tới mức tối đa, tạo nguồn vốn cho vay và đầu tư đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
+ NHTM có chức năng tạo tiền :
NHTM có khả năng ''Tạo tiền'' bằng cách chuyển khoản hay bút tệ để thay thế cho tiền mặt. Điều này đã đưa NHTM lên vị trí là một nguồn tạo tiền.
Cùng với vai trò độc quyền phát hành giấy bạc của Ngân hàng Trung ương, NHTM góp phần thoả mãn nhu cầu dùng tiền làm phương tiện giao dịch của toàn xã hội.
Quá trình tạo tiền của hệ thống Ngân hàng thương mại dựa trên cơ sở tiền gửi của toàn xã hội. Song số tiền gửi được nhân lên gấp bội khi Ngân hàng cho vay thông qua cơ chế thanh toán chuyển khoản giữa các ngân hàng. Người ta đã chứng minh được sức tạo tiền của Ngân hàng thương mại phụ thuộc vào các yếu tố như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ giữa tiền lưu thông ngoài hệ thống Ngân hàng và tiền gửi của xã hội ở hệ thống ngân hàng.
1.1.3 Các hoạt động kinh doanh cơ bản của ngân hàng thương mại :
1.1.3.1 Tạo lập nguồn vốn.
+ Huy động vốn nhàn rỗi của xã hội :
Huy động vốn nhàn rỗi của xã hội là một trong những hoạt động quan trọng hàng đầu của Ngân hàng thương mại. Nó tạo ra nguồn vốn chủ lực trong kinh doanh của bất kỳ Ngân hàng thương mại nào.
Ngân hàng thương mại thường huy động vốn nhàn rỗi của xã hội qua các hình thức tiền gửi, phát hành trái phiếu và cho vay.
Tiền gửi ở ngân hàng rất đa dạng, có thể là không kỳ hạn và có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi doanh nghiệp và tiền gửi cá nhân.
+ Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi có thể gửi vào và rút ra một cách linh hoạt không có cam kết trước về kỳ hạn. Do vậy đặc trưng của loại nguồn vốn này đối với Ngân hàng thương mại là biến động thường xuyên. Tuy nhiên đây là nguồn vốn quan trọng đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng.
+Tiền gửi có kỳ hạn về nguyên tắc chỉ được rút ra theo kỳ hạn đã cam kết (Trừ trường hợp đặc biệt). Do đó đây là nguồn vốn tương đối ổn định, phù hợp với yêu cầu cho vay trung, dài hạn của Ngân hàng thương mại.
+Trái phiếu cũng là một công cụ quan trọng trong huy động vốn của xã hội. Nó có thể là trái phiếu ngắn hạn hoặc dài hạn với những tên gọi khác nhau, như Trái phiếu ngân hàng, Kỳ phiếu ngân hàng, Tín phiếu ngân hàng vv…
+ Vốn pháp định :
Vốn pháp định là vốn ban đầu theo luật định khi đi vào hoạt động của một ngân hàng. Nó được gia tăng trong quá trình hoạt động nhiều hay ít là do việc trích từ lợi nhuận kinh doanh của Ngân hàng, hoặc bằng cách tăng mức đóng góp của các chủ sở hữu.
Bên cạnh vốn pháp định, các Ngân hàng thương mại còn lập các quỹ dự trữ, bao gồm :
- Quỹ dự trữ thường xuyên là số vốn được trích từ lợi nhuận hàng năm để bổ sung vốn pháp định.
- Quỹ dự trữ đặc biệt trích lập theo mức độ rủi ro của từng nghiệp vụ cho vay và phân bổ vào chi phí nghiệp vụ trong kỳ thực hiện.
1.1.3.2 Sử dụng và khai thác các nguồn vốn:
Sử dụng và khai thác các nguồn vốn là nghiệp vụ chủ yếu nhất quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại, những hướng sử dụng vốn của Ngân hàng thương mại là:
Hướng cơ bản trong sử dụng và khai thác các nguồn vốn của Ngân hàng thương mại là cho vay và đầu tư. Trong đó cho vay là quan trọng nhất. Nếu căn cứ vào thời hạn cho vay thì có thể phân loại thành các hình thức cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
+.Cho vay ngắn hạn là loại cho vay truyền thống sử dụng và khai thác các nguồn vốn của Ngân hàng thương mại, được thực hiện dưới dạng như chiết khấu giấy tờ có giá, thấu chi qua tài khoản vãng lai thuê mua, trả góp...
+.Cho vay trung dài hạn của Ngân hàng thương mại là loại cho vay được thực hiện đối với các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội. Loại vay này ngày càng được các Ngân hàng thương mại quan tâm. Một mặt đáp ứng với yêu cầu vay vốn trung, dài hạn của xã hội để phát triển sản xuất kinh doanh cũng như xây dựng cơ bản mặt khác cũng phù hợp với khả năng hay tổng vốn ngày một nhiều của Ngân hàng thương mại .
Hoạt động đầu tư hay còn gọi là hoạt động chứng khoán giúp cho Ngân hàng thương mại sử dụng và khai thác tối đa các nguồn vốn đã huy động. Đồng thời nó cũng mang lại nguồn thu nhập quan trọng cho Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại có thể đầu tư vốn mua chứng khoán ngắn hạn của Chính phủ. Mà còn được phép đầu tư vốn để mua cổ phiếu và trái phiếu của các doanh nghiệp qua đó những Ngân hàng thương mại lớn tham gia vào việc thành lập và quản lý các doanh nghiệp, tuy nhiên Ngân hàng thương mại chỉ được đầu tư chứng khoán ở một giới hạn nhất định, không để hoạt động này lấn át hoạt động cho vay. Theo Pháp lệnh Ngân hàng-HTX tín dụng và công ty tài chính năm 1990, Ngân hàng thương mại chỉ được dùng vốn tự có và quỹ dự trữ để hùn vốn hoặc mua cổ phần không quá 10% vốn của công ty.
Hoạt động ngân quỹ là hoạt động phục vụ cho việc chi trả đối với khách hàng. Nó bao gồm nghiệp vụ quỹ tiền mặt, tiền gửi ở các ngân hàng khác và ở ngân hàng Trung ương, tiền trong quá trình thu nhập, và cũng có thể gồm cả nghiệp vụ về chứng khoán ngắn hạn.
1.1.3.3 Các hoạt động dịch vụ ngân hàng:
Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doan nghiệp. Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả.
Các nghiệp vụ thanh toán liên hàng dịch vụ, quản lý, quản lý tài sản, phát hành chứng khoán, mua bán, bảo quản chứng khoán, cung cấp thông tin và tư vấn về kinh doanh, đầu tư và quản trị doanh nghiệp... những nghiệp vụ này được thực hiện theo sự uỷ thác của khách hàng, chúng có ý nghĩa quan trọng trong việc mở rộng hoạt động tạo lập nguồn vốn kinh doanh và sử dụng, khai thác các nguồn vốn ấy.
1.2- CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NHTM
1.2.1- Khái niệm chất lượng tín dụng .
Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào mục tiêu hoạt động cũng là tạo ra được chất lượng kinh doanh.Ngân hàng là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ vì vậy Ngân hàng luôn chú trọng tới chất lượng kinh doanh nói chung và chất lượng tín dụng nói riêng. Chất lượng tín dụng của Ngân hàng gắn liền với mục tiêu an toàn sinh lời trong hoạt động tín dụng của các NHTM, tuy vây tín dụng là hoạt động mang tính rủi ro cao nhất dây chuyền đến toàn bộ hệ thống Ngân hàng, kéo theo nền kinh tế lâm vào khủng hoảng. Bởi vậy chất lượng tín dụng phải đảm bao được mục tiêu an toàn.. Rủi ro này không những gây ra khủng hoảng phá sản một Ngân hàng mà còn tạo ra phản ứng dây chuyền ảnh hưởng tới cả hệ thống Ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế.
- Chất lượng tín dụng nói chung :
Chất lượng tín dụng là các khoản thu nhập được tạo ra từ hoạt động tín dụng trên cơ sở đảm bảo sự an toàn cho Ngân hàng. Đối với khách hàng chất lượng tín dụng đạt được khi tín dụng phù hợp với mục đích sử dụng, lãi suất tín dụng, kỳ hạn nợ hợp lí, thủ tục đơn giản, thuận tiện… Từ đó khách hàng có thể tạo ra hiệu quả từ việc sử dụng vốn vay để trả nợ cho Ngân hàng. Đối với nền kinh tế, chất lượng tín dụng đạt được khi tín dụng đáp ứng được yêu cầu về vốn phục vụ cho sản xuất và lưu thông hàng hóa, góp tạo công ăn việc làm, khai thác mọi tiềm năng của nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
Chất lượng tín dụng xét trên giác độ khách hàng :
Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý của khách hàng
Với chính sách hợp lý , thủ tục đơn giản, không phiền hà , đa dạng hoá cá loại hình huy động vốn và cho vay , nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng để thu hút lôi kéo khách hàng , đồng thời vẫn đảm bảo đúng nguyên tắc tín dụng của Ngân hàng và pháp luật hiện hành nhằm đảm bảo khả năng duy trì và mở rộng sản xuất tăng cường hiệu quả kinh doanh của khách hàng .
- Chất lượng tín dụng xét trên giác độ kinh tế – xã hội :
- Tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất kinh doanh tạo công ăn việc làm cho người lao động , xoá đói giảm , nghèo , xây dựng các vùng kinh tế mới tạo điều kiện để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia , tăng sản phẩm cho xã hội góp phần tăng trưởng kinh tế và khai thác khả năng tiềm tàng thu hút tối đa nguồn lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội .
-Chất lượng tín dụng xét trên giác độ Ngân hàng thương mại :
Chất lượng tín dụng thể hiện phạm vi, mức độ gíơi hạn tín dụng phù hợp với năng lực hành chính và khả năng quản lý của bản thân ngân hàng đảm bảo tuân thủ nguyên tắc chung đó là :
+ Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng .
+ Hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng
Chất lượng tín dụng thể hiện chỉ tiêu lợi nhuận hợp lý và gia tăng , đảm bảo nguồn vốn dồi dào , bền vững với giá thành hợp lý , tuân thủ pháp luật hiện hành và thực hiện vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế đảm bảo cân đối cơ cấu nguồn vốn ngắn hạn , trung hạn và dài hạn ,an toàn vốn .
Với cách tiếp cận như trên về dạng tín dụng thì có thể rút ra một số nhận xét như sau:
* Chất lượng tín dụng là một kết quả của một quy trình kết hợp hoạt động giữa những con người trong tổ chức, giữa các tổ chức với nhau.
* Chất lượng tín dụng vừa cụ thể vừa trừu tượng. Nó có quan hệ đến các yếu tố chủ quan như: Năng lực quản lý, trình độ cán bộ, chính sách tín dụng, kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
* Chất lượng tín dụng là chỉ tiêu tổng hợp, nó thể hiện năng lực, vị thế của một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường.
Các yếu tố cấu thành chất lượng tín dụng.
- Mức độ an toàn: Các NHTM trước khi ra quyết định bất kỳ khoản cho vay nào thì câu hỏi được đặt lên hàng đầu là liệu khách hàng có thực hiện hoàn trả nợ gốc và lãi theo đúng cam kết được hay không? người vay có sử dụng vốn vay đúng mục đích không? Vì trong quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng (người vay) thì rủi ro luôn có thể xảy ra như là: kinh doanh thua lỗ, cơ chế chính sách thay đổi,… mà hậu quả nó là người vay không trả được nợ ngân hàng, thậm chí trong nhiều trường hợp ngân hàng phải cần đến sự can thiệp của pháp luật. Đối với một số khách hàng khác đến quan hệ với ngân hàng với mục đích không nghiêm túc, có ý định, hành vi lừa đảo, chiếm dụng vốn thì rủi ro sẽ xảy ra với hậu quả nghiêm trọng hơn.
Thực tế cho thấy, một khi cả hai nguyên tắc tín dụng hoặc một trong hai nguyên tắc bị coi nhẹ, hoặc nhấn mạnh nguyên tắc này, coi nhẹ nguyên tắc kia sẽ dẫn đến phá vỡ quan hệ tín dụng, vai trò tín dụng sẽ mất dần, nó sẽ tác động ngược trở lại, tức là trở thành vật cản kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, cho nên khi nói đến chất lượng tín dụng là nói đến loại hình tín dụng đúng nghĩa mà chất lượng của nó bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ với việc tuân thủ nghiêm ngặt cả hai nguyên tắc tín dụng.
- Hiệu quả kinh tế - xã hội: Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp (DN) kinh doanh tiền tệ. Trong nền kinh tế thị trường, mục đích của bất cứ doanh nghiệp nào cũng là tối đa hóa lợi nhuận, hoạt động tín dụng là một nghiệp vụ chính góp phần hoàn thành mục tiêu ấy. Tuy vậy, thông qua hoạt động tín dụng của mình các NHTM cung cấp những khoản tín dụng cho các doanh nghiệp có đủ vốn để duy trì và mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo thêm công ăn việc làm và của cải cho xã hội, kể cả những khoản tín dụng phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng cần thiết của cá nhân cũng có sự tác động đối với sự phát triển kinh tế-xã hội.
1.2.2.2 Các chỉ tiêu phản ảnh chất lượng tín dụng ngân hàng.
1.2.2.2.1 Chỉ tiêu định tính.
* Bảo đảm nguyên tắc cho vay :
Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất cho ngân hàng thương mại.Rủi ro này có rất nhiều nguyên nhân, đều có thể gây ra tổn thất, làm giảm thu nhập của ngân hàng.Có nhiều khoản tài trợ mà tổn thất có thể chiếm phần lớn vốn của chủ, đẩy ngân hàng đến phá sản.Ngân hàng là một tổ chức kinh tế đặc biệt, hoạt động của nó ảnh hưởng rất lớn đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, do vậy nguyên tắc cho vay là một nguyên tắc quan trọng đối với mỗi Ngân hàng. Để đánh giá chất lượng một khoản cho vay, điều đầu tiên phải xem xét là khoản cho vay đó có đảm bảo nguyên tắc cho vay hay không.
Ngân hàng là một tổ chức kinh tế đặc biệt, hoạt động của nó ảnh hưởng rất lớn đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, do vậy nguyên tắc cho vay là một nguyên tắc quan trọng đối với mỗi Ngân hàng. Để đánh giá chất lượng một khoản cho vay, điều đầu tiên phải xem xét là khoản cho vay đó có đảm bảo nguyên tắc cho vay hay không.
Hai nguyên tắc cơ bản của cho vay là :
- Thứ nhất: Hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Thứ hai: Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
Hai nguyên tắc cho vay trên là nguyên tắc tối thiểu mà bất cứ một khoản cho vay có chất lượng nào cũng phải đảm bảo .
* Bảo đảm các điều kiện vay vốn :
Các điều kiện để một khách hàng được vay tại NH :
- Một là : Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật .
- Hai là : Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
- Ba là: Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
- Bốn là : Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh dịch vụ khả thi và có hiệu quả ,hoặc có dự án đầu tư , phương án phục vụ đời sống khả thi.
- Năm là: Thực hiện các qui định về đảm bảo tiền vay theo qui định của Chính phủ, của NHNN Việt Nam và hướng dẫn của NHNo Việt Nam
* Quá trình thẩm định .
Quá trình thẩm định là chỉ tiêu định tính quan trọng nhất quyết định tới chất lượng khoản cho vay. Quá trình thẩm định là cách tốt nhất để Ngân hàng nắm được thông tin về khách hàng, về năng lực pháp luật, đạo đức của khách hàng, tình hình tài chính của khách hàng, khả năng trả nợ của khách hàng... Đây là khâu không thể thiếu trong quá trình quyết định cho vay và theo dõi khoản vay. Quá trình thẩm định phải tuân theo các quy định về quy trình thẩm định và nội dung thẩm định cho vay của từng Ngân hàng. Một khoản vay có chất lượng là khoản cho vay đã được thẩm định và phải đảm bảo các bước của quá trình thẩm định.
Xác định mô hình dự án
Phân tích và ước lượng số liệu
Lập bảng tính thu nhập và chi phí
Lập báo cáo KQKD và LC tiền tệ
Lập báo cáo cân đối
Việc phân tích và thẩm định dự án đầu tư có thể khái quát qua sơ đồ sau:
1.2.2.2.2 Chỉ tiêu định lượng .
Thực tế cho thấy các doanh nghiệp trong quá trình hoạt đông kinh doanh không thể tránh khỏi những rủi ro kinh doanh gây ra tình trạng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn. Đối với các khoản nợ quá hạn Ngân hàng phải thực hiện phân loại, đánh giá để phục vụ cho công tác quản lý chất lượng và rủi ro tín dụng.
* Doanh số cho vay:
Doanh số cho vay là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền Ngân hàng cho vay trong thời kỳ nhất định thường là một năm .
* Doanh số thu nợ :
Doanh số thu nợ là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền Ngân hàng thu hồi được sau khi đã giải ngân trong một thời kỳ nhất định thường là một năm.
* Dư nợ quá hạn:
Dư nợ quá hạn là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền Ngân hàng chưa thu hồi được sau một thời hạn nhất định, kể từ ngày khoản cho vay đến hạn thanh toán tại thời điểm đang xem xét.
Bên cạnh chỉ tiêu tuyệt đối, Ngân hàng thường xuyên sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn:
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = -------------------- x 100
Tổng dư nợ
Đây là chỉ tiêu tương đối được sử dụng chủ yếu để đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng. Hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng Ngân hàng nói riêng đều chứa đựng nhiều rủi ro tác động đến lợi nhuận và sự an toàn kinh doanh của Ngân hàng. Do vậy, việc đảm bảo thu hồi đủ vốn cho đúng hạn, thể hiện qua tỷ lệ nợ quá hạn thấp là vấn đề quan trọng trong quản lý ngân hàng liên quan đến sự sống còn của Ngân hàng .
Để xem xét chi tiết hơn khả năng không thu hồi được nợ người ta sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ khó đòi.
Tổng nợ khó đòi
Tỷ lệ khó đòi = ---------------------------- x 100
Tổng nợ quá hạn
Tỷ lệ này cho biết các khoản nợ hầu như không có khả năng thu hồi trong các khoản nợ quá hạn là bao nhiêu, các khoản nợ còn có khả năng tu hồi trong nợ quá hạn là bao nhiêu. Tỷ lệ nợ khó đòi cho phép Ngân hàng đánh giá kĩ hơn về độ an toàn tín dụng, từ đó hình thành các quỹ dự phòng đối với những khoản tín dụng này.
Đây cũng là một chỉ tiêu tương đối. Tỷ lệ này ở mức cao là dấu hiệu cho thấy nguy cơ mất vốn cao do các khoản cho vay có vấn đề.
* Vòng quay vốn tín dụng:
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn tín dụng = ----------------------------------
Dư nợ bình quân
Để đơn giản trong tính toán, dư nợ bình quân được tính bằng cách lấy trung bình cộng dư nợ đầu kỳ và dư nợ cuối kỳ. Đây là một chỉ tiêu quan trọng xem xét chất lượng tín dụng, phản ánh tần suất sử dụng vốn. Vòng quay càng nhanh chứng tỏ đồng vốn Ngân hàng bỏ ra đã được sử dụng một cách có hiệu quả, tiết kiệm chi phí, tạo ra lợi nhuận lớn cho Ngân hàng .
Tỷ lệ nợ quá hạn là một chỉ tiêu tương đối quan trọng để đánh giá độ an toàn tín dụng và hiệu quả tín dụng của NHTM. Tỷ lệ nợ quá hạn cao cho biết Ngân hàng đang có nhiều khoản tín dụng có vấn đề, khó có khả năng thu hồi nợ, dễ gây mất vốn. Ngân hàng khó khăn trong việc mở rộng cho vay các khoản mới, đồng thời ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của Ngân hàng, làm khả năng thanh toán các khoản vốn huy động giảm, khách hàng không tiếp tục gửi tiền vào Ngân hàng. Từ đó, hiệu quả tín dụng thấp, hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng, năng lực cạnh tranh giảm sút. Ngân hàng mất đi uy tín và thị trường của mình. Do vậy các Ngân hàng luôn cố gắng duy trì tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ là thấp nhất có thể. Ngân hàng thực hiện mọi biện pháp nhăm xử lí nợ quá hạn.
* Lợi nhuận của Ngân hàng :
Lợi nhuận = Tổng doanh thu - Tổng chi phí - Thuế
Trong tổng thu, lãi thu được từ cho vay là chủ yếu, cho nên lợi nhuận là thước đo hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng cũng như chất lượng cho vay .
* Một số chỉ tiêu khác:
- Chỉ tiêu 1:
Tỷ lệ Dư nợ cho vay trung dài hạn
cho vay = ---------------------------------- x 100
Trung. dài hạn Tổng dư nợ
Đây là chỉ tiêu tương đối phản ánh mức độ đáp ứng nhu cầu cần vốn trung, dài hạn để mở rộng sản xuất kinh doanh theo đánh giá tỷ lệ tối thiểu là 30% tổng dư nợ. Tuy vậy tỷ lệ này có thể cao thấp tuỳ thuộc vào nhu cầu vốn trung dài hạn của địa phương cũng như chính sách tín dụng của từng Ngân hàng thương mại.
- Chỉ tiêu 2 : Tốc độ tăng trưởng dư nợ hàng năm
Đây là dấu hiệu cho thấy kết quả hoạt động tín dụng. Sử dụng kết hợp với chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn có thể biết được chất lượng cũng như hiệu quả của tín dụng ngân hàng. Từ chỉ tiêu này có thể tính ra tốc độ tăng trưởng bình quân một giai đoạn cho việc đánh giá toàn diện hơn chất lượng tín dụng một thời kỳ .
1.2.2.3 - Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Tuy nhiên ta có thể chia làm hai nhóm nhân tố chính sau:
* Nhóm nhân tố khách quan.
- Môi trường kinh tế.
Để Ngân hàng có thể huy động được nhiều vốn mở rộng hoạt động cho vay, phục vụ cho việc phát triển kinh tế thì phải có một nền kinh tế phát triển ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng là điều vô cùng cần thiết. Một nền kinh tế phát triển ổn định sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động của mình, làm giá cả luôn giữ ở mức ổn định, lành mạnh, tránh được tình trạng lạm phát hay giảm phát và tránh cho Ngân hàng khỏi phải chịu những thiệt hại to lớn do sự mất giá của đồng tiền, từ đó cũng tránh được sự giảm thấp của chất lượng tín dụng.
Một trong những nhân tố có tác động lớn tới chất lượng tín dụng đó là chu kỳ phát triển kinh tế. Nếu thời kỳ kinh tế phát triển hưng thịnh, sản xuất kinh doanh sẽ được mở rộng, dẫn đến nhu cầu vốn tăng, từ đó hiệu quả tín dụng cũng được nâng lên, giảm bớt rủi ro tín dụng.
Mặt khác, trong thời kỳ nền kinh tế bị suy thoái, sản xuất bị đình trệ, kinh doanh bị thu hẹp, thua lỗ thì sẽ dẫn đến hoạt động tín dụng gặp nhiều khó khăn do nhu cầu vốn tín dụng của các doanh nghiệp giảm.
Bên cạnh đó, các chính sách, cơ chế về quản lý kinh tế nói chung và quản lý doanh nghiệp nói riêng có liên quan đến vấn đề đầu tư vốn của khách hàng và ngân hàng vừa thiếu, vừa không đồng bộ, thiếu tính ổn định cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng.
Ngoài ra, các chính sách và sự tác động, điều tiết của các cơ quan có thẩm quyền ở mỗi ngành, mỗi vùng đều có ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động tín dụng.
-Môi trường xã hội.
Khách hàng và Ngân hàng thực hiện quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở tín nhiệm giữa hai bên. Vì vậy, sự tín nhiệm là cầu nối mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng. Uy tín của Ngân hàng trên thị trường ngày càng cao thì sẽ thu hút được lượng khách hàng càng lớn. Trong quá trình cạnh tranh giữa các Ngân hàng, các đơn vị này phải không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng tín dụng để chiếm sự uy tín trên thị trường, tạo đà cho sự cạnh tranh và phát triển.
Khách hàng với tư cách vừa là người cung vốn, vừa là người có nhu cầu về vốn. Với tư cách là người đi vay vốn, họ mong muốn Ngân hàng đáp ứng một cách kịp thời và thuận tiện, vốn cho vay với mức lãi suất hợp lý. Làm việc với thủ tục gọn nhẹ, đơn giản, nhanh chóng, một mặt Ngân hàng đã tạo được sự hấp dẫn đối với khách hàng, mặt khác tạo nhiều thuận lợi cho hoạt động tín dụng.
Với tư cách là người cung ứng vốn, khách hàng mong muốn Ngân hàng tạo cho họ những dịch vụ thanh toán tiện lợi từ những khoản tiền gửi và nhận được những khoản tiền lãi hợp lý. Như vậy, Ngân hàng vừa là người đại diện cho bên huy động vốn, đồng thời cũng là người đại diện cho bên cung cấp tín dụng. Mối quan hệ xã hội thể hiện cụ thể giữa Ngân hàng và khách hàng, là nhân tố không kém phần quan trọng quyết định tới quy mô và phạm vi hoạt động của mỗi Ngân hàng, đặc biệt là trong hoạt động tín dụng.
Ngoài ra, chất lượng tín dụng của Ngân hàng còn bị ảnh hưởng một số nguyên nhân khách quan khác như: thiên tai, bão lụt và một số nguyên nhân khác có sự tác động của con người như: lừa đảo, chiếm đoạt…
._.-Nhân tố chính trị.
Một quốc gia không có sự biến động về chính trị, không xảy ra chiến tranh là điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài, bởi các nhà đầu tư không chỉ quan tam đến lợi nhuận mà còn chú trọng đến việc bảo đảm an toàn vốn đầu tư. Tình hình kinh tế chính trị ổn định là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế các nước. Bất cứ sự biến động nào về chính trị cũng dẫn tới sự xáo động lớn về kinh tế. Riêng đối với Ngân hàng, nó có ảnh hưởng trực tiếp đến việc huy động, cho vay và đầu tư vốn của Ngân hàng, điều đó có nghĩa là nó ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
-Nhân tố pháp lý.
Pháp luật có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động Ngân hàng nói chung và chất lượng hoạt động tín dụng nói riêng.
Pháp luật là bộ phận không thể thiếu được ở bất kỳ nền kinh tế nào. Không có pháp luật hoặc các chính sách luật ban hành không phù hợp thì sẽ làm cho nền kinh tế gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, nếu hệ thống pháp luật ban hành không đầy đủ, không đồng bộ, các văn bản dưới luật còn mâu thuẫn chồng chéo, và trong khi thực hiện chưa thật phù hợp với các ban ngành, đơn vị có liên quan đến hoạt động tín dụng thì có ảnh hưởng mạnh đến chất lượng tín dụng.
Pháp luật sẽ tạo môi trường pháp lý lành mạnh cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến triển thuận lợi và đạt hiệu quả cao. Nó còn là cơ sở để giải quyết mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế.
*Nhóm nhân tố chủ quan.
Gồm các nhân tố thuộc về Ngân hàng như chính sách tín dụng, công tác tổ chức, chất lượng cán bộ, quy trình nghiệp vụ tín dụng,…
- Chính sách tín dụng.
Chính sách tín dụng của Ngân hàng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một Ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các nhân viên trong Ngân hàng, tăng cường chuyên môn hóa trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời.Nội dung cơ bản của chính sách tín dụng bao gồm các vấn đề liên quan đến việc cấp tín dụng như: Chính sách khách hàng, chính sách quy mô và giới hạn tín dụng, lãi suất và phí suất tín dụng, thời hạn tín dụng và kỳ hạn trả nợ, chính sách đối với tài sản có vấn đề… Chính sách tín dụng là kim chỉ nam cho mọi hoạt động tín dụng, vậy nên một chính sách tín dụng đúng đắn hợp lí sẽ thu hút khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời của tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro và tuân thủ chính sách pháp luật của nhà nước. NHTM phải xây dựng cho mình chính sách tín dụng rõ ràng thích hợp.Chính sách tín dụng là một hệ thống biện pháp liên quan đến việc khuyếch trương tín dụng hoặc hạn chế tín dụng để đạt được mục tiêu đã hoạch định của NHTM .
Hoạt động tín dụng trong nền kinh tế thị trường chứa đựng rất nhiều rủi ro. Khi Ngân hàng gặp phải những rủi ro thì có thể đi đến phá sản hoặc bị thiệt hại lớn, mất uy tín với khách hàng và cơ quan quản lý Nhà nước. Vì vậy, khi hoạch định chính sách tín dụng, các nhà hoạch định chính sách luôn coi trọng việc đảm bảo như là mục tiêu mà chính sách đó phải đạt được. Do vậy, ta có thể nói rằng chất lượng tín dụng của Ngân hàng có tốt hay không nó còn tùy thuộc vào việc xây dựng một chính sách tín dụng của Ngân hàng có đúng đắn hay không.
- Công tác tổ chức Ngân hàng.
Để tạo điều kiện cho việc quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín dụng thì cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban, có sự đoàn kết thống nhất từ trên xuống dưới, từ ban lãnh đạo đến các cán bộ công nhân viên. Điều đó có nghĩa là công tác tổ chức Ngân hàng được thực hiện tốt chính là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh. Hơn nữa, thực hiện tốt công tác này sẽ làm cho guồng máy ngân hàng hoạt động một cách uyển chuyển linh hoạt. Chính vì vậy, trong quá trình hoạt động, Ngân hàng nên luôn chú trọng công tác tổ chức để ngày càng phát triển và hoàn thiện nó.
Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng phải đảm bảo được có sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban,trong từng ngân hàng và trong toàn hệ thống. Làm tăng thêm hiệu quả làm việc đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng, tién hành theo dõi,quản lý, giám sát chặt chẽ các khoản cho vay. Đây là cơ sở cho việc tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh và quản lý có hiệu quả vốn tín dụng.
Thông tin tín dụng.
Cho vay vốn không phải là một vấn đề đơn giản. Trên thực tế, không phải doanh nghiệp nào cũng sử dụng vốn vay có hiệu quả và đúng mục đích. Đó là chưa nói tới những kẻ mạo danh, mạo nhận là doanh nghiệp để vay trái phép, chiếm dụng vốn bất hợp pháp gây rủi ro và tổn thất cho Ngân hàng. Thông tin tín dụng cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng. Nếu NHTM có thông tin tín dụng tốt, Ngân hàng có thể đánh giá, phân tích một cách chính xác khách hàng, từ đó đưa ra những quyết đinh cần thiết liên quan đến cho vay, theo dõi quản lý nguồn vốn vay của khách hàng. Thông tin tín dụng được lấy từ các nguồn: hồ sơ vay vốn, phân tích của cán bộ tín dụng, từ khách hàng… Thông tin tín dụng càng đầy đủ, nhanh chóng, chính xác và toàn diện thì khả năng phong ngừa rủi ro tín dụng càng lớn, chất lượng và hiệu quả tín dụng càng cao.
Vì vậy, hoạt động tín dụng muốn đạt hiệu quả cao, an toàn cần phải có hệ thống thông tin hữu hiệu phục vụ cho công tác này. Nắm bắt kịp thời và chính xác các nguồn thông tin là điều kiện để xem xét, phân tích, nhằm để tìm ra những cơ hội tốt trong kinh doanh cũng như để phòng những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của mỗi Ngân hàng.
Trên thương trường cùng với nhiều đối thủ cạnh tranh, người nắm bắt được thông tin nhanh nhất, chính xác nhất thì đã nắm được đa phần thắng. Rõ ràng, việc xây dựng và hoàn chỉnh một hệ thống thông tin tín dụng với nhiều kênh, nhiều nguồn cung cấp cùng với việc đào tạo cán bộ có đủ năng lực chọn lọc và sử lí thông tin kịp thời là một trong những điều kiện để quyết định tới sự thành công trong công tác kinh doanh và thực hiện hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
Chất lượng đào tạo cán bộ.
Cán bộ nhân viên Ngân hàng có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động tín dụng. Nếu Ngân hàng có đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm,có trình độ chuyên môn cao, có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp thể hiện ở năng lực phân tích và xử lý đơn xin vay, đánh giá tài sản thế chấp, giám sát tiền vay, hiệu quả phương án cho vay… làm giảm sai phạm khi thực hiện nghiệp vụ tín dụng, nâng cao hiệu quả tín dụng. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là chiến lược lâu dài của toàn bộ hệ thống Ngân hàng.
Một Ngân hàng có đội ngũ cán bộ công nhân viên được đào tạo với chất lượng, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao thì việc quản lý thực hiện các nhiệm vụ của Ngân hàng nói chung và nghiệp vụ tín dụng nói riêng sẽ trở nên qui củ, có hệ thống và đạt hiệu quả cao. Hơn nữa, nó còn giúp cho ngân hàng tránh được những rủi ro có thể xảy ra nhờ đó mà chất lượng tín dụng luôn được đảm bảo.
Vấn đề kiểm tra, kiểm soát, thanh tra.
Mở rộng qui mô hoạt động tín dụng tăng cường cho vay mà không tính đến những rủi ro, bất trắc có thể xảy ra thì sẽ dễ dàng dẫn đến sự sụp đổ giải thể của mỗi ngân hàng.
Một trong những hoạt động nhằm mục đích giúp cho Ngân hàng tránh được rủi ro trên đó là công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm soát. Công tác này không chỉ được thực hiện với các khách hàng (như kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay). Mà còn được thực hiện với bản thân Ngân hàng như kiểm tra quá trình thực hiện cho vay, quá trình quản lý vốn vay, loại trừ những cán bộ mất phẩm chất tiêu cực tham ô, tham nhũng gây thất thoát tài sản và làm mất uy tín của Ngân hàng đối với khách hàng…
Nâng cao chất lượng tín dụng cũng đồng thời là Ngân hàng phải kịp thời ngăn chặn và phát hiện hành vi vi phạm pháp luật, có ảnh hưởng đến hoạt động Ngân hàng cũng như bảo vệ được tài sản và uy tín của Ngân hàng đối với bạn hàng. Muốn vậy, việc đào tạo bố trí những cán bộ có năng lực, trình độ và trách nhiệm cao thực hiện công tác kiểm tra, kiểm soát, thanh tra, giám sát là vấn đề mà không một Ngân hàng nào được coi nhẹ.
1.2.2.4-Sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với NHTM trong nền kinh tế thị trường.
* Đối với ngân hàng:
Chất lượng tín dụng quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng nói riêng và toàn bộ hệ thống Ngân hàng nói chung. Nhờ nâng cao chất lượng tín dụng, tình hình tài chính của ngân hàng được cải thiện, tạo ra nhiều thế mạnh trong quá trình cạnh tranh. Từ đó, cho phép ngân hàng có thêm và thu hút thêm những khách hàng mới và duy trì mối quan hệ tốt với khách hàng truyền thống, làm cho việc kinh doanh đạt hiệu quả và có những khoản lợi nhuận hợp lý để bổ sung vốn đầu tư. Chính vì vậy mà nó quyết định cho sự tồn tại lâu dài của ngân hàng.
Nâng cao chất lượng tín dụng giúp cho ngân hàng tránh được những rủi ro, những tổn thất to lớn có thể xảy ra, góp phần làm lành mạnh hóa các quan hệ tín dụng. Từ đó tạo điều kiện mở rộng các quan hệ tín dụng, hạn chế và dần xóa bỏ đi nạn cho vay nặng lãi, góp phần làm ổn định tình hình tài chính kinh tế xã hội.
* Đối với nền kinh tế xã hội:
Nâng cao chất lượng tín dụng góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển. Với sự phát triển sản xuất và lưu thông hàng hóa ngày càng gia tăng, hoạt động tín dụng cần phải được phát triển tới mức độ nào đó sao cho phù hợp, nhằm đáp ứng được những nhu cầu giao dịch ngày càng tăng trong xã hội. Chính vì thế, việc nâng cao chất lượng tín dụng luôn được đặt lên hàng đầu.
Chất lượng tín dụng ngày càng cao sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng làm tốt chức năng trung gian tín dụng trong nền kinh tế, là cầu nối giữa phần tiết kiệm và đầu tư. Từ đó, góp phần điều hòa nguồn vốn trong xã hội, phân bổ các nguồn lực cho đầu tư được hợp lý, làm xã hội giảm bớt được lãng phí ở những nơi thừa vốn, giảm được khó khăn cho những nơi thiếu vốn, giải quyết mối quan hệ cung cầu về vốn, đẩy mạnh tốc độ luân chuyển hàng hóa tiền tệ.
Như ta đã biết, tín dụng cũng là một trong những công cụ để Đảng và Nhà nước thực hiện các chủ chương, chính sách về phát triển kinh tế-xã hội. Do vậy, chất lượng tín dụng được nâng cao sẽ góp phần làm tăng hiệu quả sản xuất, giúp đầu tư đúng hướng để khai thác tốt khả năng tiềm tàng về tài nguyên, lao động, đảm bảo cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển cân đối giữa các ngành nghề, các khu vực trong cả nước.
Ngoài ra nâng cao chất lượng tín dụng còn góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội.
* Đối với khách hàng.
Việc nâng cao chất lượng tín dụng góp phần phát triển chất lượng sản xuất kinh doanh và làm lành mạnh hóa tình hình tài chính của khách hàng. Chất lượng tín dụng được đảm bảo cũng có nghĩa là ngân hàng đang trên đà phát triển tốt, nhờ vậy có điều kiện cung cấp tín dụng kịp thời, đáp ứng tốt nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh của khách hàng. Mặt khác, để đảm bảo chất lượng tín dụng thì Ngân hàng phải tiến hành việc kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng vốn tín dụng của khách hàng, qua đó cùng với khách hàng uốn nắn kịp thời những thiếu sót trong họat động tài chính và kinh doanh của họ.
Trong điều kiện nền kinh tế mở cùng với sự cạnh tranh gay gắt của các tổ chức tín dụng trên thị trường, khi Ngân hàng thực hiện tốt việc nâng cao chất lượng tín dụng thì chính là Ngân hàng tạo được lòng tin đối với khách hàng. Khách hàng có quyền lựa chọn bất cứ một ngân hàng nào làm đối tác, điều đó có nghĩa là khách hàng chỉ đến làm ăn giao dịch với Ngân hàng nào khi mà Ngân hàng đó thực sự tạo điều kiện và giúp đỡ họ việc kinh doanh đạt hiệu quả thông qua quan hệ tín dụng và các dịch vụ khác. Hơn nữa, nhờ đó mà Ngân hàng cũng làm tăng thêm số lượng khách hàng, thu hút thêm được nguồn vốn và mở rộng quy mô tín dụng. Điều này có lợi cho cả Ngân hàng và khách hàng.
Qua những vấn đề được phân tích ở trên, ta thấy rõ sự cần thiết khách quan của việc củng cố tăng cường nâng cao chất lượng tín dụng đối với các NHTM, vì sự tồn tại cũng như sự phát triển lâu dài của hệ thống NHTM nói riêng và cho nền kinh tế xã hội nói chung. Để thực hiện tốt công việc này, việc đi sâu phân tích, đánh giá để thấy rõ được những nhân tố chủ yếu có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng là điều không thể thiếu và luôn phải được cân nhắc để tìm ra hướng khắc phục.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHI NHÁNH TÂY HÀ NỘI
2.1. TỔNG QUAN VỀ NHNo & PTNT CHI NHÁNH TÂY HÀ NỘI
2.1.1.Tổng quan về NHNo&PTNT chi nhánh Tây Hà Nội.
Để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của cơ chế thị trường hoạt động ngân hàng cũng được đổi mới về cơ bản và toàn diện với hai pháp lệnh nhân hàng ngày 23/5/1990 hệ thống ngân hàng ở nước ta chuyển từ 1 cấp sang 2 cấp tách biệt hai chức năng quản lí và kinh doanh. NHNo&PTNT Hà Nội ra đời vào năm 1988 hoạt động chủ yếu tại các thành phố sau một thời gian cùng với sự phát triển của cơ chế thị trường ngân hàng Hà Nội đã thành lập các chi nhánh ngân hàng ở các Quận để phục vụ các tầng lớp nhân dân và các doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
Do vậy NHNo&PTNT chi nhánh Tây Hà Nội đã được thành lập theo quyết định số 126/QĐ/HĐQĐ_TCCB (quyết định của hội đồng quản trị Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam). Theo đó quyết định:
Mở NHNo&PTNT Tây Hà Nội –chi nhánh cấp 1 phụ thuộc vào NHNo&PTNT Việt Nam có:
Tên gọi: Chi nhánh NHNo&PTNT Tây Hà Nội.
Trụ sở giao dịch: Đặt tại nhà số 335 đuờng Trường Chinh, Quận đống đa, thành phố Hà Nội.
Chi nhánh Tây Hà Nội được chính thức thành lập ngày 21/7/2003 cho tới nay đă gần 3 năm nhưng chi nhánh đã hoạt động tương đối tốt và hiện nay chi nhánh có 3 chi nhánh cấp 2 (chi nhánh Hùng Vương, chi nhánh Nhân Chính, chi nhánh Trường Chinh) và 05 phòng Giao dịch (PGD Hoàng Văn Thái, PGD Hàng Trống, PGD Bùi Thị Xuân, PGD Hàng Lược, PGD Nguyễn Du).
Sau một thời gian hoạt động đã có kết quả góp cho NHNo & PTNT nói riêng và góp phần ổn định nền kinh tế thủ đô Hà Nội nói chung và đã đạt được nhiều thành công.
2.1.2 Hoạt động huy động vốn
NHTM là một trung gian tài chính, một trong những vai trò quan trọng của nó là chuyển tiền từ những người muốn tiết kiệm sang những người có nhu cầu vay vốn. Để hoạt động tín dụng có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu vay vốn của các tổ chức cá nhân ngân hàng phải có đủ vốn, phải không ngừng mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn, mở rộng thị trường, đa dạng hoá các hình thức huy động, phát triển các công cụ nợ mới nhằm thu hút mọi nguồn tiền gửi từ thị trường.
Vốn là nguồn để đảm bảo hoạt động và luôn chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng, nó là tiền đề cho các hoạt động nghiệp vụ của Ngân hàng, cũng như việc mở rộng qui mô hoạt động. Việc thu hút nguồn vốn đầu tư với lãi suất đầu vào rẻ sẽ càng tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng trong hoạt động sử dụng vốn tín dụng, tăng thêm lợi nhuận của Ngân hàng điều đó đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng.
Hoạt động tiền gửi của các tổ chức kinh tế, tiền gửi của các tầng lớp dân cư luôn có các mức lãi suất thay đổi theo từng thời kì nhằm thu hút lượng tiền vào ngân hàng bằng VNĐ và ngoại tệ phục vụ cho việc kinh doanh của mình.
Ngân hàng luôn bám sát định hướng chỉ đạo của ngân hàng cấp trên, chủ động tích cực khai thác nguồn vốn trên cơ sở tăng các nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng và các dịch vụ ngân hàng khác nhằn huy động nhiều nguồn vốn.
NHNo&PTNT chi nhánh Tây HàNội đã triển khai kịp thời, đồng bộ chương trình giao dịch trực tiếp trên máy tính đảm bảo an toàn thuận tiện cho khách hàng gửi và rút tiền tại ngân hàng.
Nhận thức được điều này, NHNo&PTNT Chi nhánh Tây Hà Nội xác định phương châm "Đi vay để cho vay" đã tạo ra chuyển biến căn bản trong suy nghĩ và hành động của mỗi cán bộ. NHNo&PTNT chi nhánh Tây Hà Nội đã áp dụng nhiều biện pháp linh hoạt kết hợp với điều hành lãi suất phù hợp theo diễn biến của thị trường trong từng thời kỳ cụ thể, tăng cường công tác tiếp thị, coi trọng chiến lược khách hàng, vận động khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng. Bên cạnh đó ngân hàng còn trang bị phương tiện làm việc hiện đại, cơ sở vật chất khang trang, lịch sự , hoạt động giao dịch được xử lý tức thời trên máy tính. Tinh thần trách nhiệm của đội ngũ nhân viên cao, thái độ phục vụ tận tình, chu đáo hết lòng vì khách hàng, nên đã thực sự tạo được niềm tin và uy tín của chi nhánh đối với khách hàng gửi tiền tạo niềm tin cho khách hàng. Chính vì vậy số lượng khách hàng đến với ngân hành ngày một tăng. Do đó công tác huy động đã đạt kết quả tương đối khả quan.
Biểu 1: Tình hình huy động vốn
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Số dư đến 31/12/2004
Số dư đến 31/12/2005
Số dư đến 31/12/2006
Tổng nguồn vốn
2150,56
4182,86
6859,72
1, Tiền gửi các TCKT
545,03
2199,13
3536,85
Tiền gửi các TCKT
334,59
2197,5
3306,97
Tiền gửi KBNN
210,44
1,56
15,9
2, Tiền gửi các TCTD
236
156
257
3, Tiền gửi dân cư
1369,53
1827,73
3065,87
Tiền gửi tiết kiệm
153,61
1529,97
2489,45
Tiền gửi kỳ phiếu
654,61
125,43
178,6
Tiền gửi ngoại tệ
201,31
172,33
397,82
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 2005-2006
Tổng nguồn vốn của NHNo&PTNT tính đến 31/12/2005 là 4026,86 tỷ đồng, tăng so với năm 2004 là 2112,30 tỷ đồng.
-Tiền gửi các tổ chức kinh tế đạt 2199,13 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 54,5% trong tổng nguồn vốn, đây là nguồn vốn lãi suất đầu vào thấp có lợi cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng mặc dù nguồn vốn này tính ổn định không cao, nhưng xét ở một chừng mực nào đó thì nó lại có tính ổn định.
- Tiền gửi dân cư năm 2005 đạt 1827,73 tỷ đồng tăng so với năm 2004 là 458,20 tỷ đồng. Điều đó cho thấy đời sống của nhân dân trong vùng ngày càng được nâng cao, tiền nhàn rỗi trong dân cư ngày càng nhiều, và việc ngân hàng có được kết quả như vậy chứng tỏ niềm tin tưởng của nhân dân trong huyện đối với ngân hàng.Hơn thế nữa nó còn khẳng định được công tác huy động vốn của ngân hàng ngày càng được nâng cao.
Tóm lại, qua số liệu trên có thể đánh giá được rằng công tác huy động vốn của NHNo&PTNT Chi nhánh Tây Hà Nội đang từng bước hoàn thiện và tăng trưởng qua mỗi năm. Tổng nguồn vốn huy động ngày một tăng điều này chứng tỏ ngân hàng đã có uy tín lớn trong khu vực,tạo lên niềm tin cho khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng này. Ngoài ra việc tổng nguồn vốn tăng còn quyết định đến quy mô, quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng, nguồn vốn càng dồi dào thì càng tạo điều kiện đảm bảo khả năng thanh toán, từ đó tạo uy tín cho Ngân hàng trên thị trường, đảm bảo khả năng cạnh tranh, nguồn vốn dồi dào tạo điều kiện để thực thi chính sách tiền tệ, từ đó đảm bảo sự ổn định của tiền tệ, giữ vững giá trị đồng tiền góp phần làm ổn định kinh tế, chính trị xã hội.
2.1.3. Hoạt động tín dụng
Bên cạnh việc coi trọng công tác huy động vốn thì việc sử dụng vốn là điều sống còn của Ngân hàng, từ nhận thức đó NHNo&PTNT Chi nhánh Tây Hà Nội xác định chất lượng tín dụng là quyết định sự nghiệp của toàn Chi nhánh. NHNo&PTNT Chi nhánh Tây Hà Nội đã đa dạng hoá các hình thức tín dụng phù hợp với nhiều loại vay như cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn, cho vay ưu đãi hộ nghèo. Quan điểm của NHNo&PTNT Chi nhánh Tây Hà Nội đầu tư theo hướng chọn lọc và phân loại khách hàng. Do đó tạo được hiệu quả rõ rệt thúc đẩy tín dụng phát triển mạnh và vững chắc. Đến 31/12/2004 tổng dư nợ đạt 197,862 tỷ đồng, tăng so với năm 2002 là 1,497 tỷ đồng, tăng so với năm 2003 là 72,522 tỷ đồng. Trong đó vốn đầu tư trung và dài hạn năm 2005 là 41,100 tỷ đồng chiếm tỷ trọng là 32,7%, đến năm 2005 là 59,628 tỷ đồng chiếm tỷ trọng là 30,1% trong tổng dư nợ.
Bên cạnh việc qui mô tín dụng được mở rộng ,thì chất lượng tín dụng cũng ngày càng được nâng cao. Năm 2005 tỷ lệ nợ quá hạn chỉ chiếm tỷ lệ 0,4% trong tổng dư nợ, tỷ lệ nợ quá hạn đã giảm nhiều so với những năm trước.Điều đó chứng tỏ việc quản lý các khoản nợ của cán bộ ngân hàng ngày càng có hiệu quả.Để đạt được những điều đó cán bộ NH No&PTNT Chi nhánh Tây Hà Nội đã không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ, học hỏi để ngày một nâng cao chất lượng tín dụng.
Hoạt động tín dụng của chi nhánh đã có những đóng góp to lớn vào các chương trình phát triển kinh tế xã hội của địa phương, cũng như đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nước nhà theo đường lối đổi mới do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo.
2.1.4 Hoạt động thanh toán – ngân quỹ
Cùng với nghiệp vụ huy động vốn và tín dụng, hoạt động thanh toán của chi nhánh NHNo&PTNT chi nhánh Tây Hà Nội đã đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo toàn, phát triển vốn, nâng cao hiệu quả quay vòng vốn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Để thực hiện tốt nhiệm vụ thanh toán, chu chuyển vốn kịp thời cho nhu cầu phát triển kinh tế, Chi nhánh đã đưa vào khai thác công nghệ thanh toán hiện đại như hệ thống thanh toán chuyển tiền điện tử, từ chỗ một món thanh toán của khách hàng trước đây thời gian luân chuyển vốn giữa các ngân hàng mất từ 3 đến 5 ngày, đến nay được thực hiện tức thời trong khoảng thời gian từ 3 đến 5 phút.
Song song với hoạt động thanh toán, hoạt động ngân quỹ cũng đã có bước phát triển đáng kể. Công tác kho quỹ, điều chuyển vốn được đảm bảo an toàn nghiêm ngặt. Doanh số thu chi tiền mặt bình quân hàng năm đạt 900 tỷ đồng, nhưng không để xảy ra thiếu hụt, nhầm lẫn, kho quỹ luôn trong tình trạng an toàn tuyệt đối, số tiền thừa trả lại cho khách hàng năm 2002 là 11,221 ngàn đồng, năm 2003 là 2,948 ngàn đồng, năm 2004 là 9,084 ngàn đồng, số tiền thừa trả lại cho khách cao nhất là 2 triệu đồng.
2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NHNo & PTNT CHI NHÁNH TÂY HÀ NỘI
2.2.1 Thực trạng hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT Chi nhánh Tây Hà Nội
Nhận thức rõ chính sách tín dụng đối với việc phát triển Nông nghiệp, Nông thôn của Đảng và Nhà nước trong giai đoan đất nước đang trong thời kỳ CNH-HĐH là quan trọng và có ý nghĩa kinh tế chính trị hết sức sâu sắc. Đối với NHNo&PTNT chính sách tín dụng vừa là trách nhiệm chính trị vừa là cơ hội thuận lợi để mở rộng kinh doanh, khắc phục những trở ngại khó khăn do các điều kiện đặc thù của Nông nghiệp , Nông thôn. Trên cơ sở một nền kinh tế thuần nông sản xuất nhỏ, hiệu quả thấp thì đây là cơ hội thuận lợi để mở rộng tín dụng, NHNo&PTNT Chi nhánh Tây Hà Nội đã bám sát các chương trình mục tiêu kinh tế xã hội của thành phố, để đầu tư đúng hướng, nhạy cảm trước những vấn đề mới của nền kinh tế trong thành phố góp phần xây dựng Thủ đô Hà Nội ngày càng giàu mạnh
Nắm bắt được đặc thù về kinh tế của địa bàn. Đối với khách hàng chủ yếu là hộ sản xuất nhỏ, Ngân hàng một mặt đã tiếp tục mở rộng nâng suất đầu tư, mặt khác không ngừng mở rộng tìm kiếm thị trường trong lĩnh vực khác như các doanh nghiệp tư nhân, các công ty TNHH. Số liệu dưới đây cho thấy tình hình sử dụng vốn của NHNo & PTNT Chi nhánh Tây Hà Nội trong thời gian qua.
2.2.1.1 . Doanh số cho vay.
Biểu 2: Doanh số cho vay.
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm2004
Năm 2005
Năm 2006
Số tiền
TL%
Số tiền
TL %
Số tiền
TL %
1.DSCV theo loại vay
1343,23
100%
2087,39
100%
3158,65
100%
1.1 Tại NHNo
1280,28
95,3%
2025,03
97%
3045,52
96,4%
Cho vay NH
868,16
64,6%
1474,51
70,6%
2368,97
75%
Cho vay Trung dài hạn
412,12
30,6%
550,52
26,3%
676,55
21,4%
1.2 Tại NHCSXH
62,95
4,7%
62,36
3%
113,13
3,5%
Cho vay hộ nghèo
62,95
4,7%
62,36
3%
113,13
3,5%
2.DSCV theo TPKT
1343,23
100%
2087,39
100%
3158,65
100%
2.1 Tại NHNo
1280,28
95,3%
2025,03
97%
3067,49
97,1%
DNNN
80,53
5,9%
62,34
2,9%
920,47
3%
DNNQD
316,07
23,5%
578,98
27,7%
8588,72
28%
Hộ SX
883,68
65,7%
1383,71
66,2%
19938,82
65%
2.2 Tại NHCSXH
62,95
4,7%
62,36
3%
91,16
3%
Hộ nghèo
6.295
4,7%
6.236
3%
91,16
3%
(Bảng cân đối tài khoản tổng hợp năm 2004, 2005 )
Qua biểu 2 ta thấy tổng doanh số cho vay năm 2005 đạt 2087,39 tỷ đồng tăng so vối năm 2004 là 1173,18 tỷ đồng:
*/Doanh số cho vay theo loại vay.
Cho vay ngắn hạn năm 2005 đạt 1474,51 tỷ đồng chiếm tỷ trọng là 70,6% trong tổng doanh số cho vay.
Cho vay trung và dài hạn năm 2005 đạt 550,52 tỷ đồng chiếm tỷ trọng là 26,3% trong tổng doanh số cho vay.
Điều đó chứng tỏ NHNo&PTNT chi nhánh Tây Hà Nội đã quan tâm đến cả hai lĩnh vực đầu tư ngắn hạn và đầu tư trung và dài hạn .
*/Doanh số cho vay theo thành phần kinh tế.
Doanh số cho vay theo thành phần kinh tế trong nhưng năm gần đây đang có xu hướng tăng nhanh,đặc biệt là cho vay hộ nông dân có xu hướng phát triển mạnh cụ thể như sau:
Đối với doanh nghiệp nhà nước năm 2005 doanh số cho vay đạt 62,34 tỷ đồng chiếm 2,9% trong tổng doanh số cho vay, năm 2004 doanh số cho vay đạt 80,53 tỷ đồng chiếm 5,9 % trong tổng doanh số cho vay, năm 2004 doanh số cho vay đạt 189,55 tỷ đồng chiếm 20,7 % trong tổng doanh số cho vay. Như vậy năm 2005 doanh số cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước giảm mạnh.So với năm 2004 giảm3%.
Đối với doanh nghiệp ngoài Quốc Doanh năm 2005 doanh số cho vay đạt 578,98 tỷ đồng chiếm 27,7% trong tổng doanh số cho vay, năm 2004 doanh số cho vay đạt 316,07 tỷ đồng, chiếm 23,5% trong tổng doanh số cho vay. Qua đó ta thấy năm 2005 tăng so với năm 2004 là 4,2%=>Như vậy, doanh số cho vay của doanh nghiệp nhà nước xu hướng giảm.Trong khi đó doanh số cho vay của doanh nghiệp tư nhân có xu hướng tăng.
Năm 2005 doanh số cho vay đạt 62,36 tỷ đồng chiếm 3,0% trong tổng doanh số cho vay. Qua đó cho thấy NHNo& PTNT Chi nhánh Tây Hà Nội đã triển khai triệt để và kịp thời vốn ngân hàng giúp người nghèo vượt khó, góp phần tích cực vào việc phát triển sản xuất, ổn định đời sống, giải quyết công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo cho những hộ gia đình gặp khó khăn.
2.2.1.2 Doanh số thu nợ.
Biểu 3 : Doanh số thu nợ.
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Số tiền
%
Số tiền
%
1.DSTN theo loại vay
932,52
100%
1362,17
100%
1.1 Tại NHNo
87,313
93,6%
1310,65
96,2%
Cho vay NH
602,46
65,3%
945,41
69,4%
Cho vay Trung dài hạn
270,67
29%
365,24
26,8%
1.2 Tại NHCSXH
59,39
6,4%
51,52
3,8%
Cho vay hộ nghèo
59,39
6,4%
51,52
3,8%
2.DSTN theo TPKT
932,52
100%
1362,17
100%
2.1 Tại NHNo
873,13
93,6%
1310,65
96,2%
DNNN
46,21
4,9%
80,32
5,8%
DNNQD
219,15
23,5%
281,40
20,6%
Hộ SX
607,77
65,1%
948,93
69,6%
2.2 Tại NHCSXH
59,39
6,4%
51,52
3,8%
Hộ nghèo
59,39
6,4%
51,52
3,8%
(Bảng cân đối tài khoản tổng hợp năm 2004, 2005,2006)
Biểu 3 cho ta thấy doanh số thu nợ năm 2005 đạt 1362,17 tỷ đồng, tăng so với năm 2004 là 429,65 tỷ đồng, trong đó:
+Doanh số thu nợ theo thành phần kinh tế
Qua bảng ta thấy doanh số thu nợ đối với Doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài QD là tốt,không có quá hạn.
Đối với hộ sản xuất doanh số thu nợ năm 2004 đạt 948,93 triệu đồng chiếm tỷ lệ là 69,6% trong tổng doanh số thu nợ.
Qua đó ta thấy NHNo&PTNT Chi nhánh Tây Hà Nội cho vay hộ sản xuất là đúng hướng.
Doanh số thu nợ theo lãi vay
STT
Chỉ tiêu
Tổng số
%
%
đầu năm
BQ lãi suất đầu vào, đầu ra
so KH
1
Tổng thu:
232,206
112,40%
0,30%
- Thu lãi
228,968
113,20%
- Thu dịch vụ
2,159
53,50%
2
Tổng chi
199,262
111,30%
- Chi trả lãi
162,213
107,20%
- Trong đó: Trả phí
- Chi khác
3,332
91,80%
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 2005-2006)
2.2.1.3. Dư nợ cho vay .
Dư nợ là thước đo tầm vóc của một ngân hàng nên các ngân hàng thương mại luôn quan tâm đến mức dư nợ cho vay. Mức tăng trưởng dư nợ cho vay trên tổng tài sản có, một mặt thể hiện khả năng sinh lời của các sản phẩm tín dụng của Ngân hàng thương mại, mặt khác thể hiện khả năng phát sinh tổn thất từ danh mục cho vay đối với khách hàng. Thời gian qua NHNo&PTNT chi nhánh Tây Hà Nội mặc dù còn gặp nhiều khó khăn trên địa bàn kinh doanh nhưng mức dư nợ cho vay vẫn tăng cụ thể dư nợ đến 31/12/2005 đạt 1978,62 tỷ đồng tăng so với năm 2004 là 725,22 tỷ đồng.
Biểu 4: Cơ cấu dư nợ
Đơn vị:tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Dư nợ
%
Dư nợ
%
1. Tổng dư nợ theo loại vay
1253,40
100%
1978,62
100%
1.1 Tại NHNo
1112,90
88.7%
1827,28
92,3%
Dư nợ ngắn hạn
701,90
55,9%
1231,00
62,2%
Dư nợ trung dài hạn
411,00
32,7%
596,28
30,1%
1.2 Tại NHCSXH
140,50
11,3%
151,34
7,7%
Dư nợ hộ nghèo
140,50
11,3%
151,34
7,7%
2. Tổng dư nợ theo TPKT
1253,40
100%
1978,62
100%
2.1 Tại NHNo
1112,90
88.7%
1827,28
92,3%
Dư nợ DNNN
108,53
8,6%
90,55
4,5%
Dự nợ DNNQD
165,39
13,1%
462,97
23,3%
Dư nợ hộ sản xuất
838,98
66,9%
1273,67
64,3%
2.2 Tại NHCSXH
140,50
11,3%
151,34
7,7%
Dư nợ hộ nghèo
140,50
11,3%
151,34
7,7%
(Bảng cân đối tài khoản tổng hợp năm 2004,2005 )
Nhìn vào biểu 4 ta thấy tổng dư nợ năm 2005 đạt 1978,62 tỷ đồng, tăng so với năm 2004 là 725,22 tỷ đồng, cụ thể.
+ Cơ cấu dư nợ theo loại vay.
Năm 2004 đạt 701,90 tỷ đồng chiếm tỷ trọng là 55,9% và năm 2005 đạt 1231,00 tỷ đồng chiếm tỷ trọng là 62,2% trong tổng dư nợ .
Dư nợ trung và dài hạn năm 2004 đạt 411,00 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 32,7% và năm 2005 đạt 596,28 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 30,1% trong tổng dư nợ.
Như vậy qua các năm gần đây NHNo&PTNT Chi nhánh Tây Hà Nội đã điều chỉnh theo hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương một cách hợp lý, có hiệu quả. Nên đã làm cho mức dư nợ trung và dài hạn tăng.Mức tăng trưởng như vậy chứng tỏ HĐKD của ngân hàng là tốt.
+ Cơ cấu dư nợ theo thành phần kinh tế.
Nhìn vào biểu 4 ta thấy trong tổng dư nợ năm 2005, dư nợ hộ sản xuất chiếm tỷ trọng cao nhất là 64,3%, dư nợ này tăng dần đều qua các năm, năm 2004 chiếm tỷ trọng 66,9%, năm 2005 chiếm tỷ trọng 64,3%. Đây là lượng khách hàng lớn ổn định và lâu dài của NHNo&PTNT Chi nhánh Tây Hà Nội .
Còn dư nợ hộ nghèo năm 2004 chiếm tỷ trọng 11,3% và năm 2005 chiếm tỷ trọng 7,7% trong tổng dư nợ.
Dư nợ hộ nghèo tăng, giảm về tỷ trọng là do nguồn vốn nhiều hay ít mà Ngân hàng Người nghèo uỷ thác cho NHNo&PTNT chi nhánh Tây Hà Nội giải ngân. Hơn thế nữa dư nợ hộ nghèo tăng chứng tỏ chính sách đãi ngộ người nghèo của Đảng và nhà nước ngày càng được ưu đãi.Ngân hàng người nghèo giúp vốn cho người nghèo phát triển kinh tế, tăng thu nhập cho các hộ và làm giảm tỷ lệ hộ nghèo trong thành phố.
Số hộ còn dư nợ ngân hàng đến 31/12/ 2005 là 15.668 hộ.Điều đó cho thấy nhu cầu về vốn của các hộ trong thành phố vẫn cao. Mặt khác do đặc thù của thành phố là thành phố thuần nông cho nên cho vay hộ sản xuất._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5592.doc