MụC LụC
Danh mục các chữ viết tắt
NHTM: Ngân hàng thương mại.
NHNN: Ngân hàng Nhà nước.
NHNo&PTNT: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
CN: Chi nhánh
SXKD: Sản xuất kinh doanh
TCTD: Tổ chức tín dụng
TCKT: Tổ chức kinh tế
TPKT: Thành phần kinh tế
TK: Tiết kiệm
KT: Kế toán
KH Kế hoạch
NQH Nợ quá hạn
DN: Doanh nghiệp
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
D/S: Dân số
Lời nói đầu
1. Sự cần thiết:
Kinh doanh tiền tệ tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mạ
66 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1696 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) tỉnh Hà Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i, hoạt động kinh doanh chứa đựng nguy cơ rủi ro cao nhất. Kinh doanh tín dụng cũng là hoạt động kinh doanh mang lại nguồn lợi nhuận lớn nhất của các ngân hàng thương mại tuy nhiên rủi ro tín dụng cũng gây hậu quả khôn lường.
Cũng như các ngân hàng thương mại khác, trong tổng tài sản có của NHNo&PTNT Việt Nam thì cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản có của NHNo&PTNT Việt Nam. Chính vì vậy nâng cao chất lượng tín dụng không những là điều kiện sống còn để duy trì hoạt động kinh doanh có hiệu quả, đảm bảo đời sống cho toàn thể cán bộ công nhân viên trong toàn hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam mà còn góp phần thực hiện thành công văn hoá doanh nghiệp “ Trung thực, Kỷ cương, Sáng tạo, Chất lượng, Hiệu quả”.
Từ những nhận thức trên, qua thời gian thực tập và nghiên cứu thực tiễn em chọn đề tài “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Nam” làm chuyên đề tốt nghiệp trên cơ sở phân tích thực trạng chất lượng tín dụng của NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam trong những năm gần đây.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác tín dụng tại NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam.
- Đề xuất các giải pháp và kiến nghị về tín dụng ngân hàng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng góp phần thúc đẩy nền kinh tế tỉnh Hà Nam phát triển.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu công tác tín dụng và nghiên cứu chất lượng công tác tín dụng của NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam.
4. Kết cấu của chuyên đề:
Bố cục của chuyên đề ngoài phần mở đầu và phần kết luận
gồm 3 chương
Chương 1: Tổng quan về chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nam
Chương 1: Tổng quan về chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại(NHTM) là một trong những tổ chức trung gian tài chính có vị trí quan trọng nhất trong nền kinh tế. Tổng tài sản có của NHTM luôn có khối lượng lớn nhất trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Mặt khác, khối lượng séc hay tài khoản gửi không kỳ hạn mà nó có thể tạo ra chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng cung tiền tệ của cả nền kinh tế:
ở mỗi nước có một cách định nghĩ riêng về ngân hàng thương mại như:
ở Mỹ: Ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính
ở Pháp: NHTM là những xí nghiệp hay cơ sở nào thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
ở ấn Độ: Ngân hàng thương mại là cơ sở nhận các khoản kí thác để cho vay hay tài trợ và đầu tư
ở Thổ Nhĩ Kỳ : NHTM là một hội trách nhiệm hữu hạn thiết lập nhằm mục đích nhận tiền ký thác và thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, nghiệp vụ hối phiếu, chiết khấu và những hình thức vay mượn hay tín dụng khác.
ở Việt Nam, theo sắc lệnh 018 CT/LDGCQL/SL này 20/10/1969 của chính quyền Sài Gòn cũ cho rằng NHTM là một xí nghiệp công hay tư lập, kể cả chi nhánh hay phân cục Ngân hàng ngoại quốc mà hoạt động thường xuyên là thi hành cho chính mình nghiệp vụ tín dụng, chiết khấu, tài chính, với tiền ký thác của tư nhân hay của xí nghiệp hay cơ quan công quyền.
Còn theo pháp lệnh ngân hàng ngày 23/5/1990 của Hội đồng Nhà nước xác định: NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt dộng chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Qua những khái niệm nêu trên, có thể rút ra một số điểm đặc trưng của NHTM như sau:
thứ nhất, NHTM là một tổ chức được phép nhận ký thác của công chúng với trách nhiệm hoàn trả.
Thứ hai, NHTM là một tổ chức được phép sử dụng ký thác của công chúng để cho vay, chiết khấu và thực hiện các dịch vụ tài chính khác.
1.1.2. Các nghiệp vụ của NHTM
1.1.2.1. Tạo lập vốn (Nghiệp vụ Nợ)
Nghiệp vụ tạo nên nguồn vốn hoạt động của ngân hàng gọi là nghiệp vụ nợ, vì những khoản mục nguồn vốn do nghiệp vụ này tạo nên khi thể hiện trên bảng tổng kết tài sản của NHTM sẽ nằm bên tài sản nợ.
Đây là nghiệp vụ khởi đầu tạo điều kiện cho sự phát triển của ngân hàng. Về sau, khi NHTM đã hình thành ổn định, các nghiệp vụ của nó được xen kẽ lẫn nhau trong suốt quá trình hoạt động.
Huy động của các nguồn vốn khác nhau (tài sản nợ) trong xã hội để hoạt động là lẽ sống quan trọng nhất của các NHTM. ở các nước công nghiệp, với sự phát triển nhanh chóng của thị trường tài chính, đã có rất nhiều loại tài sản có lợi tức ổn định và thanh khoản cao, tài sản nợ rất đa dạng làm cho việc tìm kiếm vốn hoạt động của NHTM trở thành sự cạnh tranh khốc liệt, trước mắt các ngân hàng ở các nước phát triển luôn luôn xuất hiện vấn đề làm thế nào để có đủ vốn đầu tư cho môi trường kinh doanh đầy kịch tính. NHTM phải cạnh tranh với những ngân hàng khác, các tổ chức tài chính khác, với nghiệp vụ thị trường trực tiếp và với bất cứ các tổ chức nào khác muốn thu hút một khối lượng vốn nào đó.
Cho đến thời gian gần đây, tài sản nợ của các NHTM trên khắp thế giới vẫn còn tập trung vào năm nhóm phổ biến:
1/Vốn pháp định hay vốn điều lệ
2/ Tiền gửi không kỳ hạn
3/ Tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm
4/ Các khoản vay trên thị trường tiền tệ
5/ Các khoản vay các ngân hàng khác hay ngân hàng trung ương
Tài sản nợ của NHTM là nguồn vốn chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nói theo ngôn ngữ thị trường thì tài sản nợ diễn tả những khoản nợ mà ngân hàng mắc nợ thị trường, bao gồm những khoản mà nhân dân gửi vào (ký thác) cho nó, hay nó đi vay các đối tượng trong nền kinh tế như ngân hàng trung ương, các ngân hàng hay tổ chức tài chính khác, chính quyền, nước ngoài, các doanh nghiệp, nhân dân…Đứng bên tài sản nợ, NHTM là người đi vay, là con nợ, còn các đối tượng kia là người cho vay, là chủ nợ của NHTM. Như vậy, thuật ngữ “Tài sản nợ” phản ánh rằng đó là tài sản của người khác mà ngân hàng vay.
1.1.2.2. Sử dụng vốn (Nghiệp vụ có)
Những nghiệp vụ sử dụng vốn hình thành nên tài sản của ngân hàng mà khi lên bảng tổng kết tài sản nó nằm bên phía tài sản có. Như vậy, tài sản chủ yếu của ngân hàng là các tài sản tài chính hay còn gọi là các hình thức trái quyền ( như cổ phiếu,trái phiếu và các khoản vay), thay vì tài sản thực như nhà cửa, công cụ và nguyên vật liệu.
Huy động được nhàn rỗi, NHTM phải làm thế nào để hiệu quả hoá những nguồn tài sản này. Hầu như tất cả các khoản mục bên tài sản nợ của ngân hàng đều là vốn vay, nghĩa là ngân hàng phải trả lãi suất cho nó đến từng giờ. Do đó, để khỏi bị thiệt hại, ngân hàng luôn luôn phải cho vay hoặc đầu tư ngay số tài sản ấy vào những dịch vụ sinh lãi. Từ lãi thu được ngân hàng sẽ dùng nó để trả lãi suất cho vốn đã vay thanh toán chi phí cho các hoạt động, phần còn lại sẽ là lợi nhuận của ngân hàng. Nói cách khác, nghiệp vụ của ngân hàng là những nghiệp vụ sử dụng những khoản vốn đã huy động(tập chung vào nghiệp vụ nợ) nhằm mục đích sinh lợi.
Cho vay hay đầu tư để sinh lợi từ tiền đã huy động được sẽ là lẽ sống của NHTM. Cho vay hay đầu tư vào các loại tài sản nào cũng đều là hoạt động kiếm lợi nhuận, chỉ có một ít khác biệt giữa hai khái niệm, do đó đôi khi người tín dụng cũng gọi cả hai hoạt động trên vào một từ là “đầu tư”. Khi ngân hàng đầu tư tiền vốn vào một thương vụ hoặc cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng vay, nó trở thành là chủ nợ, các đối tượng kia là vay nợ. Vì thế các khoản đầu tư trên biến thành tài sản có của ngân hàng. Nó càng đầu tư nhiều, càng sinh lãi nhiều từ vốn đã huy động. Nếu không đầu tư được, nó sẽ bị lỗ vì phải trả lãi cho tài sản nợ. Là một đơn vị kinh doanh tiền tệ bất cứ thành phần nào vay tiền của nó đều trở thành con nợ của ngân hàng. Do vậy con nợ của ngân hàng có thể là mọi thành phần nhân dân trong và ngoài nước.
Tài sản có cho biết những khoản nợ mà thị trường nợ ngân hàng hoặc là những khoản mà ngân hàng cho thị trường vay. Nếu chữ “ Nợ” phản ánh rằng đó là tài sản của người khác mà ngân hàng mượn, thì chữ “ Có” phản ánh những tài sản của ngân hàng đang được các thành phần khác mượn. Đứng trên góc độ tính chất ngân hàng là chủ nợ và các đối tượng vay tiền của nó là con nợ. Vì mục tiêu của ngân hàng là cho vay để kiếm lời nên tài sản có hay các khoản mà ngân hàng cho thị trường vay còn được gọi là đầu tư của ngân hàng (banking investment).
Ngân hàng có rất nhiều cách để đầu tư tiền của nó. Sự khác nhau giữa các loại đầu tư này hình thành nên sự khác nhau trong tài sản có của NHTM hoặc có thể nói ngược lại, sự đa dạng của tài sản có phản ánh sự đa dạng trong các loại đầu tư của ngân hàng. ở các nước trên thế giới tài sản có của mỗi NHTM thường quy về các nhóm sau đây:
1). Dự trữ tiền mặt, bao gồm: tiền mặt tại kho của ngân hàng; tiền mặt ký gửi tại NHTW.
2). Đầu tư vào chứng khoán ( trái phiếu, cổ phiếu, hối phiếu…)
3). Cho vay
4). Đầu tư vào các loại tài sản ( như bất động sản, cơ sở hạ tầng…)
1.1.2.3.Nghiệp vụ trung gian.
Có nhiều loại công cụ ngân hàng. ở đây chỉ đề cập một số thông dụng như tài khoản ngân hàng ngân hàng và các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt.
Nghiệp vụ trung gian gồm rất nhiều loại dịch vụ khác nhau. ở đây chỉ giới hạn vào các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt với một số nội dung sau:
* Dịch vụ chuyển khoản từ tài khoản này sang tài khoản khác cùng ở một ngân hàng hay ở hai ngân hàng khác nhau thông qua các công cụ như Séc, lệnh chi, thẻ chi trả…
* Dịch vụ thu hộ và chi hộ cho khách hàng có tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng. Việc chi hộ ngân hàng chỉ tiến hành khi có lệnh của chủ tài khoản.
* Dịch vụ chi lương cho các doanh nghiệp có nhu cầu. Đến tháng doanh nghiệp chỉ cần gửi bảng lương cho các ngân hàng, sau đó ngân hàng sẽ ghi nợ vào tài khoản doanh nghiệp đó và chi lương cho những người có tên trong danh sách tiền lương.
* Dịch vụ chuyển tiền từ địa phương này sang địa phương khác.
* Dịch vụ khấu trừ tự động cũng là dịch vụ với khách hàng là cá nhân. Theo đó nếu khách hàng cho phép, ngân hàng sẽ tự động ghi nợ tài khoản của khách hàng để thanh toán các hoá đơn đòi tiền cho các đơn vị dịch vụ gửi đến như: trả tiền điện, nước, thuê nhà ,điện thoại…đây là những khoản chi thường xuyên trong tháng nếu không có dịch vụ này khách hàng sẽ tốn nhiều thời gian và phiền toái.
1.2. Lý luận chung về Tín dụng ngân hàng
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm tín dụng ngân hàng
1.2.1.1. Khái niệm
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm) song trong thực tế cuộc sống thuật ngữ này có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau:
Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
Xét một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. Phổ biến hơn cả là giao dịch giữa ngân hàng và các định chế tài chính khác, giữa các doanh nghiệp và cá nhân thể hiện dưới hình thức cho vay, tức là ngân hàng cấp tiền vay cho bên đi vay và sau một thời hạn nhất định người đi vay phải thanh toán gốc và lãi.
Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng.
Theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì tín dụng được hiểu là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính) trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm trả vô điều kiện gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Theo luật NH&TCTD VN (điều 49) Tín dụng bao gồm: cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính.
1.2.1.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng
Là tài sản mang tổng thu lãi cao nhất cho ngân hàng
Tính thanh khoản thấp, phụ thuộc vào thị trường chuyển đổi và khả năng chuyển đổi của khoản tín dụng đó
Tỷ trọng thường lớn nhất trong tổng tài sản của ngân hàng.
1.2.2. Phân loại tín dụng ngân hàng
1.2.2.1. Theo thời gian
Bao gồm tín dụng ngắn hạn, trung hạn, dài hạn:
* Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống, tài trợ cho tài sản lưu động, được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Đây là loại hình tín dụng ít rủi ro cho ngân hàng vì trong một thời gian ngắn ít có những biến động xảy ra và ngân hàng thường luôn dự tính được những biến động đó. Nó bao gồm tín dụng chiết khấu, tín dụng thấu chi , tín dụng ứng trước và tín dụng bổ sung vốn lưu động.
* Tín dụng trung hạn: Từ 1 năm đến 5 năm, loại tín dụng này chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Ngoài ra, tín dụng trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp mới thành lập. Nó bao gồm các hình thức chủ yếu sau: Tín dụng thực hiện theo dự án, tín dụng hợp vốn, tín dụng cho thuê tài chính.
* Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm, được sử dụng để cấp vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng (đường xá, cầu cống, bến cảng , sân bay…)., cải tiến và mở rộng với quy mô lớn.
Loại tín dụng này thường có mức độ rủi ro lớn do khó lường trước được những biến động có thể xảy ra
Việc xác định thời hạn trên cũng chỉ mang tính chất tương đối vì nhiều khoản cho vay không xác định trước được chính xác thời hạn.
Phân chia tín dụng theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tài sản.
1.2.2.2. Theo hình thức tài trợ
Theo hình thức này thì tín dụng được chia thành cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, chiết khấu giấy tờ có giá...
* Cho vay: Là việc ngân hàng giao cho KH sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi
* Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc thiết bị theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu
* Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình:
Bảo lãnh nằm ở các khoản mục cần ghi nhớ (TS ngoại bảng)
Phần bảo lãnh ngân hàng phải thực hiện chi trả được ghi vào tài sản nội bảng (mục cho vay bắt buộc, tính vào nợ xấu).
1.2.2.3.Theo tài sản đảm bảo
* Tín dụng có đảm bảo bằng tài sản: Là hình thức cấp tín dụng có tài sản hoặc người bảo lãnh đứng ra làm đảm bảo cho khoản nợ vay. Hình thức này áp dụng đối với các khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn phải có đảm bảo. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thu thứ hai bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
Các hình thức tín dụng có đảm bảo bằng tài sản:
• Thế chấp
• Cầm cố
• Đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay
• Đảm bảo bằng tài sản của bên thứ 3
* Tín dụng không đảm bảo bằng tài sản
• Tín chấp
• Bảo lãnh
Khách hàng vay không có bảo đảm sẽ nhận được khoản vay khi hội tụ đầy đủ các yếu tố sau:
• Có tín nhiệm với tổ chức tín dụng cho vay trong việc sử dụng vốn vay và trả nợ đúng hạn, đầy đủ gốc và lãi.
• Có dự án đầu tư, hoặc phương án sản xuất kinh doanh dịch vụ khả thi có khả năng hoàn trả nợ đúng hạn đầy đủ cả gốc và lãi.
• Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
* Về nguyên tắc mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều có đảm bảo
* Tài sản đảm bảo phải có thể bán đi để thu nợ nếu khách hàng không trả nợ
* Là nguồn thu nợ thứ 2, là điều kiện ràng buộc để người vay thực hiện đúng cam kết
* Cam kết đảm bảo là cam kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài sản mà mình đang sở hữu hoặc sử dụng, hoặc khả năng trả nợ của người thứ 3 để trả nợ
* Tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng phải kí hợp đồng đảm bảo.
1.2.2.4. Theo mức độ an toàn
Tín dụng có độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp. Để phân loại theo tiêu thức này, NH nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để chia loại rủi ro.
Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại khoản mục tín dụng, dự trù quỹ cho các khoản tín dụng rủi ro cao
Cụ thể:
• Tín dụng đủ tiêu chuẩn: các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao
• Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch chậm, gặp thiên tai, trì hoãn nộp báo cáo tài chính...
• Tín dụng dưới tiêu chuẩn
• Tín dụng nghi ngờ
• Tín dụng có khả năng mất vốn.
1.2.2.5. Phân loại khác
• Theo ngành nghề kinh tế (công, nông nghiệp...)
• Theo đối tượng tín dụng (tài sản lưu động, tài sản cố định)
• Theo mục đích (sản xuất, tiêu dùng...)
1.2.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng
1.2.3.1. Đối với khách hàng
Trong xã hội hiện nay thì có rất nhiều các thành phần kinh tế, chính các thành phần kinh tế này là nhân tố quyết định cho sự phát triển của đất nước. Họ có thể hoạt động trong bất kỳ lĩnh vực nào nhưng tựu chung một điểm là đều phải cần có vốn để hoạt động. Nguồn vốn này có thể từ nhiều nơi khác nhau, nhiều tổ chức trung gian khác nhau. Và khi vốn của chủ sở hữu không đủ để phục vụ cho nhu cầu của họ bắt buộc họ phải đi vay. Ngân hàng là nơi cung cấp cho họ nguồn vốn một cách thuận tiện nhất và với chi phí thấp nhất. Chính vì vậy mà họ không thể bỏ qua được ngân hàng, ngân hàng sẽ là trợ thủ đắc lực cho các nhà đầu tư và SXKD. Một khi nhu cầu vốn được đáp ứng một cách đầy đủ, đúng như nhu cầu mong muốn của các khách hàng thì sẽ đóng góp rất to lớn cho sự phát triển SXKD, xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp. Từ đấy họ sẽ thu được những nguồn lợi nhuận để phục vụ cho nhu cầu của chính họ, sau đó là sự đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
1.2.3.2. Đối với ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là hoạt động chủ yếu mang lại lợi nhuận cho bản thân các ngân hàng. Trong quá trình sử dụng vốn ngân hàng thường tập trung vào hai loại hình chủ yếu là sử dụng vốn vào tài sản sinh lời và tài sản không sinh lời. Song trên trực tế đại bộ phận vốn của NHTM được đầu tư vào tài sản sinh lời mà lớn nhất là qua kênh tín dụng. Chính hoạt động này đã tạo điều kiện cho sự phát triển ổn định, bền vững của các NHTM từ đó ảnh hưởng đến nền kinh tế.
1.2.3.3. Đối với nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng ngân hàng có vai trò rất quan trọng được thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ có hiệu quả cho nền kinh tế. Trong nền kinh tế các doanh nghiệp hoạt động SXKD dựa trên nguồn vốn là vốn tự có và vốn nhận tài trợ từ bên ngoài như: ngân hàng, doanh nghiệp khác…Song tín dụng ngân hàng vẫn là nguồn tài trợ có hiệu quả hơn cả bởi vì nó thỏa mãn nhu cầu vốn về số lượng và thời hạn đồng thời chi phí sử dụng tín dụng ngân hàng thấp hơn chi phí của các chủ thể khác.
Thứ hai, tín dụng ngân hàng là công cụ để giải quyết mâu thuẫn giữa người thừa vốn và người thiếu vốn vì tín dụng ngân hàng luôn thu hút tập trung mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của tổ chức kinh tế, dân cư, để đầu tư cho quá trình mở rộng sản xuất, tăng trưởng kinh tế, đáp ứng nhu cầu về vốn đầy đủ, thúc đẩy sản xuất mở rộng tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển bền vững. Trong quá trình hoạt động đó, ngân hàng thu được lợi tức cho vay để duy trì phát triển hoạt động của chính bản thân mình. Tuy vậy, trong cơ chế thị trường hiện nay, huy động và cho vay bao nhiêu, có đáp ứng được hay không đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế, thu hồi vốn có đúng hạn hay không là vấn đề được đặt lên hàng đầu trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Do vậy, mỗi ngân hàng phải có nghệ thuật trong kinh doanh, phải tìm mọi biện pháp hữu hiệu nhằm thu hút tối đa tiềm tàng nguồn vốn với chi phí thấp nhất để kinh doanh. Có thể nói, tín dụng ngân hàng góp phần quan trọng vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển tiền tệ trong xã hội.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Tín dụng ngân hàng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Trong mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ để tái sản xuất mở rộng hoạt động, mọi chu kỳ đều phải bắt đầu bằng tiền và kết thúc bằng tiền (T…H…T, T…T). Do đó để tăng nhanh vòng quay vốn, mỗi chủ thể kinh doanh phải tìm kiếm và thực hiện nhiều biện pháp như cải tiến kĩ thuật tìm kiếm thị trường mới. Tất cả những công việc đó đòi hỏi phải có nhiều vốn và kịp thời, tín dụng ngân hàng là nguồn cung ứng vốn cho các nhu cầu đó. Mặt khác, vốn ngân hàng cung ứng cho các nhà kinh doanh bằng việc cho vay với điều kiện phải hoàn trả cả gốc và lãi theo thời hạn quy định. Vì vậy, các nhà quản trị doanh nghiệp phải tìm nhiều biện pháp để sử dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay của vốn, trả nợ đúng hạn nợ gốc và lãi. Chính quá trình này đã góp phần tạo cho nền kinh tế hàng hoá ngày càng phát triển cao.
Thứ tư, tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình mở rộng mối quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, việc phát triển kinh tế của một nước luôn phải gắn liền với sự phát triển kinh tế của thế giới. Trong đó, đầu tư vốn ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá là hai lĩnh vực hợp tác thông dụng và phổ biến giữa các nước.Vốn là nhân tố quyết định đầu tiên cho việc thực hiện quá trình này. Nhưng trên thực tế không phải một tổ chức kinh tế nào, một nhà kinh doanh nào cũng đủ vốn để hoạt động. Ngân hàng với tư cách là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, thông qua hoạt động tín dụng, sẽ là trợ thủ đắc lực về vốn cho các nhà đầu tư kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá.
Thứ năm, TDNH là công cụ để Nhà nước điều tiết khối lượng tiền tệ lưu thông trong nền kinh tế, kiểm soát tiền vào trong kênh lưu thông qua kênh tín dụng. Bởi vì, Ngân hàng là một chủ thể quan trọng tham gia vào quá trình tạo tiền thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán, trong điều kiện cần mở rộng, thu hẹp khả năng cung ứng vốn sẽ tác động đến việc cấp tín dụng của ngân hàng. Khi Nhà nước muốn tăng khối lượng tiền cung ứng thì NHNN có thể tăng hạn mức tín dụng của các NHTM đối với nền kinh tế và ngược lại.
Thứ sáu, TDNH góp phần thoả mãn nhu cầu tiết kiệm và mở rộng đầu tư của nền kinh tế vì qua việc cung ứng vốn sẽ góp phần mở rộng đầu tư bằng việc cấp vốn cho các doanh nghiệp. Đồng thời thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường chế độ hạch toán kinh tế trong hoạt động kinh doanh.
Như vậy, TDNH có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nó giải quyết mâu thuẫn nội tại của nền kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững . Tuy nhiên để TDNH phát huy được hết vai trò của nó thì các nhà quản lý ngân hàng cũng như các cơ quan chức năng phải tạo ra một hành lang pháp lý cũng như các quy định chặt chẽ, tạo điều kiện cho cả người vay và người đi vay trong nền kinh tế.
1.3. Chất lượng tín dụng ngân hàng
1.3.1. Quan niệm về chất lượng tín dụng ngân hàng
Chất lượng tín dụng tại ngân hàng thương mại là chất lượng của các khoản cho vay của ngân hàng thương mại. Các khoản cho vay có chất lượng khi vốn vay được khách hàng sử dụng hiệu quả, đúng mục đích, tạo ra số lượng lớn hơn, thông qua đó ngân hàng thu hồi được gốc và lãi, còn doanh nghiệp có thể trả được nợ, bù đắp chi phí và thu được lợi nhuận. Điều này có nghĩa là ngân hàng vừa tạo ra hiệu quả kinh tế lại vừa tạo ra hiệu quả xã hội.
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
Chất lượng tín dụng là một phạm trù phản ánh mức độ rủi ro trong bảng tổng hợp cho vay của một tổ chức tín dụng. Để phản ánh chất lượng tín dụng có rất nhiều chỉ tiêu và để thuận tiện cho việc nghiên cứu cũng như đánh giá toàn diện về tình hình hoạt động của ngân hàng người ta chia ra làm các chỉ tiêu định tính và chỉ tiêu định lượng.
* Chỉ tiêu định tính
Để đánh giá định tính về chất lượng tín dụng thì cần quan tâm đến tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ, tỷ lệ và cơ cấu tài sản đảm bảo, cơ cấu dư nợ của các khoản vay ngắn và dài hạn trong tương quan cơ cấu nguồn vốn của tổ chức tín dụng
Chỉ tiêu định tính là những chỉ tiêu mang tính tương đối, rất khó xác định thường được đánh giá qua việc chấp hành luật pháp của ngân hàng như luật NHNN, luật TCTD, việc chấp hành văn bản chỉ đạo của Nhà nước, Chính phủ và của ngân hàng, chấp hành các quy chế, quy trình nghiệp vụ, thể lệ tín dụng trong quá trình thực hiện quy trình cho vay. Khi thực hiện nghiệp vụ tín dụng, các ngân hàng phải tuân thủ các điều kiện, các nguyên tắc theo quy định của Nhà nước và của thống đốc NHNN. Các nguyên tắc và điều kiện tín dụng không tách rời nhau do đó coi nhẹ bất kì một nguyên tắc nào, một điều kiện nào cũng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Nói đến chất lượng tín dụng trước hết phải xem xét đến việc thực hiện nghiệp vụ tín dụng có chấp hành tốt pháp luật, các chỉ đạo của Nhà nước, của ngành cũng như tuân thủ quy trình, quy chế nghiệp vụ tín dụng hay không.
Ngoài ra, người ta còn xem đến các yếu tố như khả năng thu hút khách hàng, yếu tố con người ….Trước hết, con người chính là các cán bộ ngân hàng trong nền kinh tế thị trường đặc biệt với cán bộ tín dụng phải khẳng định được rằng “chất lượng tín dụng xuất phát từ chất lượng cán bộ tín dụng” . Việc đào tạo, sử dụng, đánh giá và đề bạt đội ngũ cán bộ tín dụng trước hết phải xem xét về tư cách đạo đức. Tiếp đó là trình độ năng lực của cán bộ tín dụng, phải dựa trên cơ sở của khoản tín dụng đựơc cấp ra để đánh giá đúng mức trình độ đội ngũ cán bộ hiện có, tránh trường hợp đánh giá sai trình độ thực của cán bộ tín dụng. Cao hơn nữa là trình độ quản lý, nhận thức, điều hành của người lãnh đạo vì họ chính là người đề ra các quy định, thể lệ và đưa ra các quyết định.
Khách hàng cũng là một yếu tố quan trọng cần phải xem xét và họ chính là một phần quan hệ tín dụng, góp phần vào sự thành công của ngân hàng. Nhưng đánh giá khách hàng về mặt định tính rất khó, vì nó chính là sự thiện chí trong trả nợ của khách hàng, trách nhiệm của người vay.
Do chỉ tiêu rất khó xác định chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của người cán bộ tín dụng và người quản lý cũng như các mối quan hệ của họ với khách hàng. Do vậy, trên thực tế khi nói đến chất lượng tín dụng thường người ta chỉ chú ý đến các chỉ tiêu mang tính định lượng.
* Chỉ tiêu định lượng:
• Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn vay.
Hiệu suất sử dụng vốn của ngân hàng được tính theo công thức:
Tổng dư nợ cho vay
H= * 100%
Tổng nguồn vốn huy động
trong đó: H là hiệu suất sử dụng vốn
Đây chỉ là chỉ tiêu phản ánh quy mô, khả năng tận dụng nguồn vốn trong cho vay của các NHTM, nó cho ta biết trong một đồng vốn huy động được thì bao nhiêu đồng được sử dụng trong cho vay. Hiệu suất sử dụng càng cao thì hoạt động kinh doanh càng có hiệu quả và ngược lại.
• Chỉ tiêu tổng dư nợ
Tổng dư nợ = dư nợ cho vay ( ngắn hạn, trung hạn, dài hạn). Đây là chỉ tiêu phản ánh khối lượng tiền ngân hàng cấp cho nền kinh tế tại một thời điểm, tổng dư nợ thấp chứng tỏ hoạt động tín dụng của ngân hàng kém, không có khả năng mở rộng khách hàng, mở rộng thị phần. Song chỉ tiêu này cao thì chưa hẳn chất lượng khoản vay tốt vì nó còn phụ thuộc vào khả năng thu hồi vốn của ngân hàng.
• Chỉ tiêu nợ quá hạn.
Nợ quá hạn là những khoản cho vay đến hạn mà khách hàng không trả được số tiền trong hợp đồng tín dụng và tiền lãi của số tiền đó mà không được ngân hàng gia hạn. Số tiền này ngân hàng chuyển thành nợ quá hạn và áp dụng lãi suất quá hạn thường không quá 150% lãi suất trong hạn. Trên thực tế phần lớn là những khoản nợ có độ rủi ro cao và có khả năng mất vốn. Để đánh giá chất lượng tín dụng trên cơ sở nợ quá hạn, người ta thường thông qua tỉ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ đầu tư rủi ro.
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn= * 100%
Tổng dư nợ
Tổng dư nợ món vay có phát sinh nợ quá hạn
Tỷ lệ đầu tư rủi ro = Tổng dư nợ
Hai chỉ tiêu này càng nhỏ thì chất lượng tín dụng càng cao và ngược lại.
Trong nền kinh tế thị trường, rủi ro trong hoạt động kinh doanh là khách quan do đó nợ quá hạn của NHTM là tất yếu, không thể tránh khỏi. Song nếu một ngân hàng có nhiều khoản nợ quá hạn thì sẽ gặp khó khăn trong kinh doanh vì sẽ có nguy cơ mất vốn, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và giảm thu nhập. NHTM nào có tỷ lệ nợ quá hạn cao thì sẽ bị đánh giá là có chất lượng tín dụng thấp và ngược lại. Tuy nhiên để đánh giá một cách chính xác chất lượng tín dụng người ta thường chia nợ quá hạn ra thành nợ quá hạn có khả năng thu hồi và nợ quá hạn không có khả năng thu hồi:
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi
Tỷ lệ nợ quá hạn = * 100%
có khả năng thu hồi. Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi
không có = *100%
khả năng thu hồi Nợ quá hạn
Hai chỉ tiêu này cho ta biết bao nhiêu % trong tổng nợ quá hạn có khả năng thu hồi và không có khả năng thu hồi để từ đó có biện pháp xử lý tương ứng. Đồng thời kết hợp với chỉ tiêu đầu tư rủi ro sẽ giúp cho ngân hàng quản lý rủi ro tốt các khoản cho vay vì chỉ tiêu nợ quá hạn mới chỉ xem xét đến giá trị khoản nợ quá hạn trong khi tỷ lệ đầu tư rủi ro lại đề cập đến món vay mà phát sinh nợ quá hạn. Từ đó, ngân hàng sẽ có chính sách dự phòng tốt cho các khoản có khả năng rủi ro, có những thông báo định kỳ về những món vay không đủ khả năng thu hồi và tránh được tình trạng trong cùng một lúc ngân hàng phải thông báo con số nợ quá hạn quá lớn và giảm tài sản một cách nghiêm trọng.
Ngoài ra, ngân hàng còn xem xét đến tỷ lệ mất vốn để đánh giá và thiết lập quỹ dự phòng mất vốn. Tỷ lệ này được tính bằng công thức sau:
Tổng dư nợ quá hạn được xoá nợ
Tỷ lệ mất vốn = *100%
Tổng dư nợ bình quân
Tỷ lệ này càng nhỏ càng tốt. Nó cho thấy mọi cố gắng của ngân hàng để thu hồi vốn và nỗ lực của khách hàng trong việc hoàn trả món vay đã cam kết đã hết do đó ngân hàng phải thực hiện khoanh nợ và xoá nợ bằng quỹ dự phòng rủi ro.
• Cơ cấu vốn đầu tư.
Việc phân tích cơ cấu vốn đầu tư chính là việc xem xét đánh giá tỷ trọng cho vay đã phù hợp với khả năng đáp ứng của bản thân ngân hàng cũng như đòi hỏi vốn của nền kinh tế chưa. Trên cơ sở đó, cá._.c NHTM có thể quyết định quy mô, tỷ trọng đầu tư vào các lĩnh vực một cách hợp lý để vừa bảo đảm an toàn vốn cho vay vừa có thể mang lại lợi nhuận cao nhất.
• Tỷ lệ thanh toán nợ do bán tài sản của người vay.
Nếu xét về bản thân tín dụng thì nguồn trả nợ cho ngân hàng của người vay vê nguyên tắc được trích ra từ phần thu nhập do hoạt động SXKD của khách hàng, nó bao gồm các chi phí nguyên vật liệu, khấu hao tài sản cố định và phần giá trị mới tạo ra. Tuy vậy, có nhiều tường hợp do sử dụng vốn kém hiệu quả, bị mất vốn, SXKD thua lỗ… nên người đi vay phải bán tài sản để trả nợ ngân hàng. Số tiền bán tài sản có thể đủ để trả nợ món vay, nhưng cũng có thể chỉ đủ trả một phần nợ vay.
Số tiền thu được do khách hàng bán tài sản
Tỷ lệ này được xác định =
Tổng doanh số nợ
Nhưng việc bán tài sản không phải lúc nào cũng thuận tiện vì trên thực tế có những tài sản khó bán hoặc đang trong thời kỳ giảm giá … Do vậy cũng là nguyên nhân gây ra khó khăn cho khoản vay, ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng.
• Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng.
Chỉ tiêu này thường được các NHTM tính toán hàng năm để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, giải quyết hợp lý giữa 3 lợi ích: Nhà nước, khách hàng và ngân hàng.
Vòng quay vốn tín dụng được xác định theo công thức sau:
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân
Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng hàng năm.
Đối với khách hàng, hệ số này càng tăng phản ánh tình hình SXKD của khách hàng càng tốt, có tình hình tài chính vững chắc. Đây là cơ sở để khách hàng thực hiện tốt những cam kết trên hợp đồng tín dụng.
Đối với ngân hàng, thể hiện khả năng thu hồi vốn của ngân hàng cao hay thấp, chất lượng quản lý vốn tín dụng tốt hay xấu. Nếu vòng quay chậm chứng tỏ chất lượng tín dụng không tốt, thu hồi nợ trong kỳ kém, vốn tín dụng bị đóng băng.
• Chỉ tiêu thu nhập từ hoạt động cho vay.
Mục đích kinh doanh của bất cứ một NHTM nào cũng là lợi nhuận do vậy bất kỳ một khoản cho vay mà không đem lại thu nhập cho ngân hàng hoặc làm giảm thu nhập của ngân hàng thì không thể nói khoản vay đó có chất lượng cao. Nguồn thu từ hoạt động tín dụng là nguồn thu chủ yếu để ngân hàng tồn tại và phát triển.
Chỉ tiêu này được xác định bằng công thức:
Lãi từ hoạt động tín dụng
Thu nhập từ hoạt động tín dụng =
Tổng thu nhập
Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hoạt động tín dụng của ngân hàng càng tốt, không những thu được vốn gốc và lãi mà uy tín của ngân hàng càng được khẳng định.
Ngoài ra, NHNN còn quy định chỉ tiêu có tính chất bắt buộc đối với các NHTM như thủ tục, hồ sơ vay vốn, thời gian tối đa để ra quyết định đối với một khoản vay, biên độ tối đa, tối thiểu lãi suất cho vay so với mức lãi suất cơ bản, giới hạn vay tối đa với một khách hàng (< 15% vốn tự có), tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu…
Căn cứ vào các chỉ tiêu hàng quý, hàng năm, các NHTM tự phân tích đánh giá để xác định mức độ an toàn và chất lượng tín dụng của hệ thống qua đó NHNN có cơ sở để chỉ đạo các NHTM nâng cao chất lượng tín dụng trong từng khâu, từng mặt nghiệp vụ hoặc có biện pháp bắt buộc cụ thể đối với ngân hàng trong hoạt động tín dụng. Đồng thời bản thân mỗi ngân hàng cũng thấy mặt được để phát huy và mặt chưa được để hạn chế.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng
NHTM là một chủ thể trong nền kinh tế, hoạt động của nó ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống kinh tế - chính trị - xã hội. Do đó sự phát triển bền vững của hệ thống tài chính - tiền tệ quốc gia là điều kiện kiên quyết cho sự phát triển kinh tế của nước đó. Để nâng cao uy tín của mình thì bản thân mỗi ngân hàng phải quan tâm đến từng mặt nghiệp vụ nhất là vấn đề chất lượng tín dụng, một vấn đề hiện nay đang được quan tâm của nhiều cấp, ngành , nhiều bộ phận. Vì vậy việc xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng là cần thiết. Nó bao gồm nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan.
* Nhân tố khách quan:
• Nhân tố thuộc về chính sách, cơ chế.
Cơ chế, chính sách của Nhà nước, của các ngành chưa đầy đủ, môi trường pháp lý chưa đồng bộ, môi trường xã hội còn nhiều nhức nhối. Số đông khách hàng là hộ sản xuất có trình độ dân trí thấp, ít nắm bắt được thông tin tiếp thu kiến thức về kinh tế thị trường còn hạn chế, do đó việc lựa chọn đối tượng khách hàng đảm bảo cho hoạt động tín dụng gây không ít khó khăn cho hoạt động của các NHTM. Hệ thống pháp luật là cơ sở điều tiết các hoạt động trong nền kinh tế. Đối với ngân hàng thì sự tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh như luật TCTD, Luật NHNN… Việc tuân thủ luật sẽ góp phần làm tốt chất lượng của khoản tín dụng.
• Môi trường kinh tế.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng luôn có quan hệ mật thiết với nền kinh tế. Từng giai đoạn và biến cố kinh tế đều có những tác động đến hoạt động của ngân hàng: lạm phát, suy thoái hay tăng trưởng kinh tế, thay đổi chính sách thuế, tỷ giá … đều ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng.
Chu kỳ kinh tế thay đổi sẽ ảnh hưởng đến tiết kiệm, đầu tư và do đó ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng đặc biệt là hoạt động tín dụng. Khi nền kinh tế vào thời kỳ tăng trưởng, SXKD phát triển từ đó tạo điều kiện cho tích luỹ nhiều hơn và tạo ra môi trường cho việc thu hút vốn của ngân hàng thuận lợi hơn. Đồng thời bản thân doanh nghiệp cũng có nhu cầu mở rộng đầu tư dẫn đến nhu cầu vốn tăng trong khi vốn tự có của doanh nghiệp không đủ bù đắp cho quá trình này, họ phải đi vay vốn từ nhiều nơi trong đó có ngân hàng. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, sản xuất bị kìm hãm, lạm phát tăng làm khả năng thu hồi vốn của ngân hàng bị giảm sút.
Mức độ phù hợp của lãi suất ngân hàng với lợi nhuận cũng tác động tới chất lượng khoản vay. Khi lãi suất ngân hàng có xu hướng tăng khách hàng vay sẽ trả nợ muộn hoặc trì hoãn trả nhằm dùng vốn đó vào kế hoạch SXKD kì tiếp theo gây khó khăn cho việc thu nợ của ngân hàng.
• Môi trường chính trị xã hội .
Tình hình chính trị một quốc gia sẽ tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Sự vững mạnh của một nước sẽ góp phần củng cố sức mua đồng tiền của nước đó, thúc đẩy xuất khẩu và mở rộng giao lưu hợp tác kinh tế quốc tế. Từ đó nhu cầu đầu tư, mở rộng quy mô hoạt động của các chủ thể kinh tế tăng lên và thúc đẩy lưu thông tiền tệ. Chính những hoạt động này đã gián tiếp ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Khi chính trị của một nước bất ổn, chiến tranh công kích sẽ làm hoạt động sản xuất bị trì trệ, kết quả SXKD bị giảm sút, doanh nghiệp phá sản không trả được nợ cho ngân hàng.
Ngoài ra, đạo đức, tập quán thói quen và trình độ nhận thức của khách hàng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng khoản vay. Môi trường xung quanh luôn biến động nếu khách hàng không có khả năng nắm bắt kịp thời để có những điều chỉnh cũng như nắm bắt cơ hội kinh doanh thì sẽ bị thất bại trong cạnh tranh. Mặt khác, thói quen tiêu dùng của người dân, sự thiếu hiểu biết của người dân cũng ảnh hưởng đến chất lượng khoản vay.
• Môi trường tự nhiên.
Những biến động bất khả kháng xảy ra trong môi trường tự nhiên như: thiên tai dịch hoạ … làm ảnh hưởng tới hoạt động SXKD của khách hàng từ đó ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của ngân hàng, có thể làm cho ngân hàng không có khả năng thu hồi vốn.
* Nhân tố chủ quan:
• Chính sách tín dụng: là một hệ thống các biện pháp nhằm để khuếch trương hay hạn chế tín dụng, đảm bảo mục tiêu kinh doanh của mỗi ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn, đầy đủ và linh hoạt sẽ cung cấp cho cán bộ tín dụng và các nhà quản lý ngân hàng đường lối chỉ đạo cụ thể trong việc ra các quyết định cho vay và xây dựng danh mục cho vay hiệu quả, có thể đạt được nhiều mục tiêu đồng thời tránh được những sai lầm trong hoạt động cho vay góp phần cải thiện chất lượng khoản vay.
• Chất lượng cán bộ tín dụng và tổ chức bộ máy: Để đảm bảo chất lượng tín dụng được nâng cao thì đòi hỏi nhiều yếu tố trong đó con người là yếu tố trung tâm, là yếu tố quyết định sự thành bại trong quản lý vốn, tài sản của ngân hàng. Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ thì hoạt động ngân hàng cũng ngày càng tinh vi, phức tạp đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải có đủ phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn để lĩnh hội và ứng dụng trên thực tế. Trình độ của người cán bộ tín dụng, người quản lý điều hành có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng khoản vay. Khi cán bộ thiếu trách nhiệm với công việc được giao, tư duy về tín dụng còn hạn hẹp thì thường có những thiếu sót trong công tác thẩm định dẫn đến thực hiện không đúng quy định do đó dễ gây nên tranh chấp, mất vốn không đáng có làm giảm chất lượng tín dụng.
Chất lượng tín dụng còn được thể hiện ở mô hình tổ chức sao cho phù hợp với khả năng chuyên môn của mỗi người.
• Quy trình tín dụng:
Chất lượng tín dụng có được đảm bảo hay không phụ thuộc rất lớn vào việc có thực hiện tốt các bước trong quy trình tín dụng. Quy trình tín dụng là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của ngân hàng trong việc cấp tín dụng trong đó xây dựng các bước đi cụ thể theo một trình tự nhất định kể từ khi chuẩn bị hồ sơ đề nghị vay cho đến khi chấm dứt quan hệ tín dụng. Việc xây dựng quy trình tín dụng hợp lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động quản trị. Do đó để ra được quyết định đúng đắn, tiết kiệm thời gian, chi phí cho ngân hàng và khách hàng, đảm bảo an toàn vốn trong kinh doanh và nâng cao hiệu quả tín dụng đòi hỏi ngân hàng phải tuân thủ nghiêm ngặt trong quy trình cho vay vốn.
• Kiểm soát nội bộ :
Là việc theo dõi, giám sát các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng để có những thông tin thường xuyên về tình hình tín dụng, qua đó phát hiện các vi phạm pháp luật, quy chế, thể lệ, chính sách, nguyên tắc cho vay và có biện pháp khắc phục kịp thời. Chất lượng tín dụng phụ thuộc vào mức độ phát hiện kịp thời các sai sót phát sinh trong quá trình thức hiện một khoản tín dụng. Kiểm soát nội bộ sẽ giúp cho cán bộ điều hành công việc theo đúng cơ chế, chính sách, đúng pháp luật đồng thời nắm bắt được những lệch lạc góp phần bảo đảm chất lượng của khoản tín dụng.
• Nhân tố thuộc khách hàng.
Khách hàng là người trực tiếp sử dụng khoản vay từ ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nếu năng lực của khách hàng có hạn thì thì không dự đoán đúng những biến động của nhu cầu thị trường, không có kinh nghiệm quản lý … thì phương án SXKD không phù hợp với điều kiện thực tế dẫn đến gục ngã trong cạnh tranh làm mất khả năng trả nợ ngân hàng ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng.
Tóm lại, tuỳ từng điều kiện mà các nhân tố này có ảnh hưởng khác nhau đến chất lượng tín dụng. Song chúng ta cần phải nắm bắt được những yếu tố tác động chủ yếu để có biện pháp điều chỉnh cho phù hợp, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, uy tín của ngân hàng mình giúp cho ngân hàng có thể đứng vững trong cạnh tranh.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT tỉnh hà nam
2.1. Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam.
2.1.1. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam
Hà Nam là một tỉnh mới tái thành lập (năm 1997) theo quyết định của Thủ tướng chỉnh phủ, nằm phía đông nam Hà Nội một tỉnh nhỏ về diện tích 851,7 km2, dân số 817.557 người, có 6 đơn vị hành chính gồm: 5 huyện và một thị xã có hệ thống chính trị ổn định, nhân dân cần cù lao động, hệ thống giao thông khá thuận tiện như quốc lộ 1A, 21, đường sắt Bắc Nam chạy qua, hệ thống sông ngòi nhiều như sông Hồng, sông Đáy, sông Châu Giang, sông Nhuệ...
Nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp thuần nông, sản xuất nhỏ thủ công chủ yếu là nông sản chế biến thô nên khả năng cạnh tranh thấp.
Công nghiệp chủ yếu là khai thác đá và sản xuất vật liệu xây dựng như xi măng, gạch, ngói....với sản lượng lớn cung cấp cho khu vực phía Bắc cũng như cả nước.
Hà nam còn là một tỉnh thuộc vùng bán sơn địa nên rất phù hợp cho việc phát triển ngành nông, lâm, thuỷ sản, phát triển kinh tế trang trại, đồi rừng cũng đóng vai trò quan trọng quyết định đến bố trí cơ cấu và quy mô sản xuất. Có nhiều làng nghề truyền thống nhưng qui mô nhỏ như: nghề mộc (Kim Bảng), bánh đa, dâu tằm ( Lý nhân), sừng mỹ nghệ (Bình lục), mây giang đan, bọc trống (Duy Tiên), nghề thêu (Thanh liêm).
Trong thời gian qua tỉnh Hà Nam đã giành 110 ha xây dựng khu công nghiệp Đồng văn, 200 ha khu công nghiệp Châu Sơn, 150 ha khu công nghiệp Hoàng Đông và các khu khác như khu công nghiệp Thanh Châu, khu công nghiệp Kim Bảng... Các khu công nghiệp trên tiếp tục kêu gọi đầu tư. Nếu các khu công nghiệp này đi vào hoạt động sẽ giải quyết được công ăn việc làm cho hàng vạn lao động, mang lại nguồn thu ngân sách hàng năm cho tỉnh vài trăm tỷ đồng.
Dựa vào những điều kiện thuận lợi và những tiềm năng của địa bàn, Chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam đã và đang tìm mọi biện pháp nhằm thực hiện các chức năng của mình: trung gian tín dụng, trung gian thanh toán, tạo ra tiền tệ trong hệ thống ngân hàng. Với mục tiêu hoạt động kinh doanh "Tăng trưởng - An toàn - Hiệu quả" thể hiện trên mọi lĩnh vực, Chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội địa phương, thực thi chính sách tiền tệ và hoạt động điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy và lĩnh vực hoạt động chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam
Chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam là một doanh nghiệp Nhà nước được thành lập vào ngày 26/03/1997 trực thuộc NHNo&PTNT Việt Nam có trụ sở tại số 52, đường Trần Phú, thị xã Phủ lý tỉnh Hà Nam
NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam có 358 cán bộ công nhân viên chức. Về cơ cấu tổ chức quản lý và điều hành như sau:
Chi nhánh loại 1: Tại Hội sở chính gồm 7 phòng chức năng và các phòng giao dịch trực thuộc gồm phòng giao dịch số 1 và phòng giao dịch số 2 theo mô hình vừa chỉ đạo điều hành vừa trực tiếp hoạt động kinh doanh.
Chi nhánh ngân hàng cấp 2 loại 5 có 1 CN là CN Biên Hoà trực thuộc Hội sở NHNo&PTNT tỉnh. Về cơ cấu tổ chức: gồm 2 tổ Tín dụng và Kế toán.
Chi nhánh loại 3: Gồm 12 chi nhánh
1. Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Duy Tiên
2. Chi nhánh NHNo&PTNT Đồng Văn
3. Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Lý Nhân
4. Chi nhánh NHNo&PTNT Chợ Cầu
5. Chi nhánh NHNo&PTNT Chợ Chanh
6. Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kim Bảng
7. Chi nhánh NHNo&PTNT Nhật Tân
8. Chi nhánh NHNo&PTNT Tân Sơn
9. Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Bình Lục
+ Phòng Giao dịch Tiêu Động
10. Chi nhánh NHNo&PTNT Ngọc Lũ
11. Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Thanh Liêm
12. Chi nhánh NHNo&PTNT Non
13. Chi nhánh NHNo&PTNT Phố Cà
Cụ thể cơ cấu Chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam được sắp xếp theo sơ đồ sau:
CN HuyệnBình Lục
CN Biên Hòa
Hội sở
CN Huyện Duy Tiên
CN Huyện Thanh Liêm
CN Huyện Kim Bảng
Phòng Thanh toán Quốc tế
Phòng Kế toán - Ngân quỹ
Phòng Thẩm định
Phòng nguồn vốn - KH tổng hợp
Ban Giám Đốc
Phòng tín dụng
Ngân hàng No&PTNT chi nhánh tỉnh Hà Nam
CN Huyện Lý Nhân
Phòng KT – Kiểm toán nội bộ
Phòng hành chính - Nhân sự
2.1.3. Tình hình về hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT tỉnh Hà nam trong 3 năm qua 2007 đến năm 2009.
2.1.3.1. Tình hình về huy động vốn.
Mở rộng tín dụng là nhiệm vụ trước mắt và cũng là nhiệm vụ có tính chất chiến lược của NHNo&PTNT chiến lược. Để thực hiện được những nhiệm vụ trên NHNo&PTNT Hà Nam xác định được tầm quan trọng của công tác huy động nguồn vốn. Với chính sách linh hoạt trong việc áp dụng lãi suất cho từng giai đoạn phù hợp và tương xứng với các Ngân hàng thương mại trên địa bàn, cải tiến phương pháp, phong cách phục vụ, chú trọng việc huy động vốn trong dân cư và hết sức tranh thủ nguồn vốn nhàn rỗi từ bên ngoài thông qua các hoạt động. Hoạt động huy động vốn nhất là huy động vốn tại chỗ từ các tầng lớp dân cư, kết quả huy động vốn được thể hiện như sau:
Biểu 01: Cơ cấu nguồn vốn các năm 2007 - 2009
Đơn vị : Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Tổng cộng :
648.695
100
555.379
100
794.096
100
1. Tiền gửi kho bạc
176.480
27,02
145.510
26,02
209.362
26,36
2. Tiền gửi các TCKT
65.316
10,07
59.348
10,69
101.490
12,78
3. Tiền gửi TK<12 T
97.159
14,98
114.340
20,59
159.792
20,12
4. T. gửi TK > = 12 T
141.962
21,89
157.220
28,3
249.863
31,48
5. Kỳ phiếu
15.466
23,48
11.317
2,04
18.599
2,34
6. Tiền gửi TCTD
152.312
23,48
67.644
12,18
54.990
6,92
(Nguồn: Theo báo cáo Tổng kết hoạt động KD từ năm 2007-2009 của NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam)
Biểu trên cho ta thấy qua các năm từ 2007-2009, tổng nguồn vốn của NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam đều tăng, năm sau đạt cao hơn năm trước.
Cụ thể: năm 2009 so với năm 2008 tăng 42,98%, tăng so với năm 2007 là 22,41%, trong đó tăng chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm từ 12 tháng trở lên năm 2007 chiếm một tỷ trọng tương đối lớn 21,89%, năm 2008 chiếm tỷ trọng 28,30%, Năm 2009 chiếm tỷ trọng 31,48%.
Năm 2008 nguồn vốn huy động có giảm 93.316 triệu đồng năm 2007 do nguồn tiền gửi kho bạc, nguồn tiền gửi các TCTD và nguồn tiền gửi các TCKT giảm 121.606 triệu đồng.
Còn nguồn tiền gửi huy động từ dân cư vẫn tăng và tăng 28.290 triệu đồng, nếu xét loại nguồn vốn này thì năm 2008 nguồn huy động vẫn tăng.
Cũng qua đó ta thấy được tiềm năng huy động vốn từ dân cư của NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam rất lớn đồng thời cũng chứng tỏ uy tín của ngân hàng NHNo&PTNT Hà Nam trên địa bàn này càng được nâng lên. Để đạt được kết quả như trên NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam đã thực hiện mở rộng màng lưới, giao khoán huy động vốn đến từng cán bộ công nhân viên kể cả cán bộ tín dụng, nâng cao chất lượng phục vụ, đa dạng hoá các hình thức huy động tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, huy động tiết kiệm dự thưởng, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi...
Do nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của công tác huy động nguồn vốn tại địa phương là chủ yếu nên NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam đã tìm mọi biện pháp huy động vốn tại địa phương, dùng nguồn huy động tại địa phương để cho vay các thành phần kinh tế và hộ sản xuất đồng thời cũng tận dụng hết nguồn vốn uỷ thác đầu tư.
Kết quả của hoạt động huy động vốn không những đáp ứng đầy đủ nhu cầu tăng trưởng tín dụng trên địa bàn tỉnh Hà Nam mà còn mang lại thu nhập đáng kể trong tổng thu nhập của ngân NHNo&PTNT Hà Nam.
2.1.3.2. Tình hình về sử dụng vốn.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, với phương châm: “Giữ vững thị phần nông nghiệp nông thôn là thị phần chủ yếu vừa cơ bản vừa lâu dài, từng bước mở rộng thị phần ra các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh” hoạt động tín dụng NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam đã có sự chuyển biến rõ rệt thể hiện qua biểu số liệu sau:
Biểu 02: Cơ cấu dư nợ qua các năm 2007 - 2009
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
1. Dư nợ phân theo TPKT
658.472
100
722.324
100
793.921
100
- DNNN
125.490
19,06
136.400
18,88
93.711
11,8
- DN ngoài quốc doanh
52.304
7,94
75.905
10,51
105.201
13,25
- Hộ gia đình cá thể
480.678
73
510.019
70,61
595.009
74,95
2. Dư nợ phân theo loại cho vay
658.472
100
722.324
100
793.921
100
- Ngắn hạn
406.792
61,78
444.198
61,5
460.581
58
- Trung hạn
251.680
38,22
278.126
38,5
333.340
42
3. Dư nợ phân theo hình thức Đ. tư
658.472
100
722.324
100
793.921
100
- Trực tiếp
470.607
71.47
517.184
71,6
569.105
71,68
- Qua tổ nhóm
187.865
28.53
205.140
28,4
224.816
28,32
4. Dư nợ phân theo ngành kinh tế
658.472
100
722.324
100
793.921
100
-Ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản
298.551
45,34
259.376
49,75
464.715
58,53
- Ngành công nghiệp,TCN
122.212
18,56
140.112
19,40
172.239
21,69
- Ngành thương nghiệp dịch vụ
134.548
20,43
106.615
14,76
109.986
13,86
- Ngành khác
103.161
15,67
116.221
16,09
46.980
5,92
(Nguồn: Theo báo cáo Tổng kết hoạt động KD từ năm 2007-2009 của NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam)
Quyết định 67 của thủ tướng Chính phủ đã hướng cho phát triển nông nghiệp và nông thôn. Cho vay đến 10 triệu đồng không phải áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay, NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam đã cùng với các tổ chức chính trị như Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh thành lập được tổ vay vốn ngân hàng nông nghiệp. Số liệu biểu trên cho thấy dư nợ cho vay thông qua tổ vay vốn: 224.816 triệu đồng góp phần giảm bớt được quá tải trong công việc của cán bộ tín dụng vì vậy dư nợ cho vay ngày càng tăng. Cùng với việc áp dụng nhiều hình thức chuyển tải vốn đến các thành phần kinh tế trong các năm (2007-2009) NHNo&PTNT Hà Nam đã chú trọng mở rộng cho vay các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Bình quân dư nợ trong các năm đạt 724.260 triệu đồng, dư nợ qua các năm đều tăng, năm sau tăng cao hơn so với năm trước. Cụ thể năm 2009 so với năm 2008 tăng 71.597 triệu, bằng 9,91%, so với năm 2007 tăng 135.449 triệu đồng, bằng 20,57%. Bình quân các năm 2007 - 2009 tỷ trọng dư nợ cho vay doanh nghiệp Nhà nước là 17,15%, trong khi đó tỷ trọng dư nợ hộ sản xuất là 72,29%.
Trong các ngành nghề thuộc lĩnh vực nông nghiệp thì việc đầu tư tập trung vào ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản vẫn là chủ yếu, bình quân các năm đạt 370.504 triệu đồng bằng 50,84 % tổng dư nợ với 140 nghìn lượt hộ được vay. Riêng năm 2009 đầu tư cho ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản đạt 464.715 triệu đồng, bằng 58,53% tổng dư nợ.
Trong hoạt động tín dụng của mình NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam đã thực hiện đầu tư vào tất cả các ngành nghề. Tuy tỷ trọng và mức độ đầu tư chưa tạo ra sự cân đối trong phát triển nông nghiệp, song bước đầu tạo sự phát triển của các ngành nghề phi nông nghiệp. Trong lĩnh vực ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp dư nợ bình quân các năm là 143.668 triệu đồng bằng 18,76% tổng dư nợ.
Bên cạnh việc đầu cho các ngành trên, NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam còn đầu tư cho ngành thương nghiệp dịch vụ và đạt bình quân 114.441 triệu đồng bằng 15,95% tổng dư nợ.
Từ kết quả hoạt động tín dụng những năm qua cũng như các thành phần kinh tế khác, hộ sản xuất được đáp ứng vốn tín dụng trên cả 2 kênh: ngắn hạn và trung dài hạn. Bình quân trong các năm 2007-2009 NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam đã đầu tư qua kênh ngắn hạn là 438.942 triệu đồng, bằng 60,69% tổng dư nợ, đầu tư trung đạt 285.318 triệu đồng, bằng 39,31% tổng dư nợ.
2.1.3.3. Hoạt động kinh doanh khác
Thu về dịch vụ thanh toán chuyển tiền và dịch vụ bảo lãnh, toàn ngân hàng có rất nhiều tài khoản của các thành phần kinh tế và cá nhân có quan hệ giao dịch thanh toán và hàng vài chục ngàn người giao dịch thanh toán bằng chứng minh nhân dân. Dịch vụ này đã làm tăng thu nhập ngoài hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam trong các năm là 2.831 triệu đồng thể hiện như trong năm 2007, thu dịch vụ 513 triệu đồng, năm 2008 thu dịch vụ 775 triệu đồng năm 2009 thu dịch vụ lên tới 1.543 triệu đồng. Điều này chứng tỏ chất lượng và số lượng của công tác dịch vụ thanh toán của NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam ngày càng được nâng lên.
Chi nhỏnh đó tổ chức kớ kết hợp đồng làm ngõn hàng đầu mối thanh toỏn cho trung tõm chuyển tiền bưu điện - tổng cụng ty bưu chớnh viễn thụng, hợp đồng được bắt đầu được triển khai, khụng chỉ gúp phần tăng nguồn vốn, thu dịch vụ cho chi nhỏnh mà cũn đem lại hiệu quả cho cỏc chi nhỏnh toàn hệ thống
Thu từ hoạt động kinh doanh khác như thu từ kinh doanh ngoại tệ ngày càng tăng cụ thể như trong năm 2007 thu 56 triệu đồng; năm 2008 thu 179 triệu đồng tăng 117 triệu đồng so với năm 2007, năm 2009 thu từ kinh doanh ngoại tệ đạt 1.006 triệu đồng tăng 827 triệu đồng so với năm 2007. Điều này chứng tỏ rằng dịch vụ xuất khẩu lao động của tỉnh Hà Nam ngày càng phát triển, số lượng tài khoản ngoại tệ mở tại ngân hàng tăng do vậy lượng kiều hối chuyển về nước ngày càng nhiều.
Do đặc điểm hoạt động ngân hàng trên địa bàn nông thôn, người dân chưa quen với các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt nên phần lớn thu chi tại NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam đều dùng tiền mặt. Doanh số thu chi hàng năm lên tới hàng nghìn ngàn tỷ đồng năm sau cao hơn năm trước, năm 2009 doanh số thu tiền mặt là 3.339.117 triệu đồng tăng 79,67% so với năm 2008 và 63,27% so với năm 2007.
Tổng chi tiền mặt cũng tăng rất nhiều năm 2009 là 3.340.424 triệu đồng tăng so với 2008 tăng 25,47% và so với 2007 tăng 63,87%
Trong công tác ngân quỹ, với ngân hàng hoạt động trên địa bàn nông thôn số khách hàng giao dịch với những món tiền có giá trị lớn rất ít, số món nhỏ lẻ nhiều trong khi đó số lượng cán bộ kiểm ngân ít để có doanh số thu chi hàng năm như trên cán bộ kiểm ngân không những phải tăng cường độ lao động mà còn phải thường xuyên trau dồi nghiệp vụ và tu dưỡng đạo đức của người cán bộ kiểm ngân.
Dịch vụ phỏt hành thẻ và mỏy ATM:
Năm 2005 là năm đầu tiờn chi nhỏnh cú triển khai mỏy ATM, hiện nay chi nhỏnh đó cú 8 mỏy, đó phỏt hành 8.043 thẻ với số dư hơn 7 tỷ đồng.
2.1.4.Kết quả tài chính
* Tổng thu, chi qua các năm 2007-2008-2009
Năm 2007: Tổng thu trên cân đối: 58.696 triệu đồng.
Tổng chi trên cân đối: 47.766 triệu đồng
Năm 2008: Tổng thu trên cân đối là: 73.436 triệu đồng, tăng 14.740 triệu đồng, tăng 25,11 % so với năm 2007,.
Tổng chi trên cân đối là : 58.130 triệu đồng, tăng 10.364 triệu đồng, tăng 21.69% so với năm 2007.
Năm 2009: Tổng thu trên cân đối là: 103.201 triệu đồng, tăng 29.765 triệu đồng, tăng 40,53 % so với năm 2008.
Tổng chi trên cân đối là: 88.567 triệu đồng, tăng 30.437 triệu đồng, tăng 52,36% so với năm 2008.
(Năm 2009 phí sử dụng vốn của Ngân hàng cấp trên được hạch toán nội bảng do vậy thu nhập và chi phí đều tăng nhiều so với năm 2008)
Đánh giá chung về kết quả hoạt động kinh doanh NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam đã đạt được với tốc độ tăng trưởng bền vững về nguồn vốn và dư nợ năm sau so với năm trước. Có nhiều hình thức huy động vốn với các mức lãi xuất linh hoạt phù hợp với thực tế tại địa phương.
Thị trường, thị phần tín dụng ngày càng được mở rộng, nhiều khách hàng đã có quan hệ tiền gửi, tiền vay với NHNo&PTNT. Chất lượng tín dụng ngày càng được đảm bảo và từng bước nâng cao, tỉ lệ nợ quá hạn duy trì dưới mức 1%, thấp hơn mức bình quân toàn hệ thống đúng theo định hướng NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam đã đề ra.
Dịch vụ sản phẩm mới được phát triển, đã thực hiện mua bán, kinh doanh ngoại tệ với các doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu, thu dịch vụ cao hơn năm trước.
Quản trị điều hành tốt, sát với tình hình, phù hợp với thực tế, kỷ cương, kỷ luật trong điều hành được nâng cao; công tác thông tin tiếp thị, quảng bá thương hiệu NHNo&PTNT Việt Nam có bước phát triển tốt.
2.2. Thực trạng chất lượng tín dụng của NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam các năm gần đây
2.2.1.Tình hình cho vay
Biểu 03: Doanh số cho vay các năm 2007 - 2009
Đơn vị : Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Doanh số cho vay
695.851
100
780.546
100
966.908
100
1. Doanh nghiệp Nhà nước
86.077
12,37
115.167
14,75
78.979
8,17
2. Công ty TNHH,CTTN, HTX
85.589
12,37
103.727
14,75
147.840
15,29
3. Hộ gia đình, cá thể
524.185
75,33
561.652
71,96
740.089
76,54
+ Cho vay qua tổ nhóm
207.577
29,83
226.358
29
383.510
39,66
(Nguồn: Theo báo cáo cho vay thu nợ năm 2007-2008-2009 của NHNo&PTNT Hà Nam )
Biểu 03 cho thấy hoạt động cho vay của NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam bước tăng trưởng rõ rệt, doanh số cho vay hàng năm tăng hàng trăm tỷ đồng, năm 2008 tăng so với 2007: 84.695 triệu đồng bằng 12,17%.
Năm 2009 thực hiện văn bản chỉ đạo của NHNo&PTNT Việt Nam: Tăng trưởng tín dụng trên cơ sở tăng trưởng nguồn vốn huy động tại chỗ, hệ thống NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam cho vay năm 2009 tăng 186.362 triệu đồng bằng 23,87% so với năm 2008
Cũng nhìn vào biểu doanh số cho vay trên cho thấy đầu tư tín dụng hộ gia đình và cá thể của NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam chiếm tỷ trọng rất lớn theo đúng phương hướng mở rộng thị phần tín dụng mà NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam đã đề ra trong các báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh hàng năm, năm 2007 chiếm 75,33% trong tổng doanh số cho vay, Năm 2008 chiếm 71,96%, năm 2009 chiếm 76,54%.
Cũng từ số liệu của biểu 03 ta thấy được rõ kết quả của sự kết hợp chặt chẽ giữa NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam và các tổ chức đoàn thể như Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh trong việc truyền tải vốn cho hộ gia đình, cá nhân vay vốn phát triển nông nghiệp - nông thôn thông qua hình thức cho vay thông qua tổ vay vốn. Bằng hình thức cho vay này đã giảm được sự quá tải của cán bộ tín dụng trong khâu thẩm định, đôn đốc nợ đồng thời cũng tạo điều kiện thuận tiện cho hộ gia đình cần vốn phát triển sản xuất kinh doanh. Doanh số cho vay thông qua tổ vay vốn năm sau cao hơn năm trước về cả doanh số và tỷ trọng so với tổng doanh số cho vay:
Năm 2007 chiếm 29,831% so với tổng doanh số cho vay
Năm 2008 chiếm 29% so với tổng doanh số cho vay
Năm 2009 chiếm 39,66% so với doanh số cho vay
Tỷ trọng đầu tư tín dụng cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh năm 2007 chiếm 12,3%, năm 2008 chiếm 13,29%, năm 2009 chiếm 15,29% .
Tỉ trọng đầu tư tín dụng cho thành phần kinh tế quốc doanh năm 2007 chiếm 12,37%; năm 2008 chiếm 14,75%; năm 2009 chiếm 8,17%, dự kiến năm 2010 NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam cho vay đồng tài trợ dây truyền 2 Nhà máy xi măng Bút Sơn thì doanh số cho vay khối kinh tế quốc doanh tăng.
2.2.2. Tình hình thu nợ:
Biểu 04: Doanh số thu nợ từ năm 2007 - 2009
Đơn vị : Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Doanh số thu nợ
433.573
100
716.694
100
895.311
100
1.Doanh nghiệp Nhà nước
75.102
17,32
104.257
14,55
121.668
13,59
2. Công ty TNHH, CP, HTX
45.872
10,58
80.126
11,18
148.544
13,24
3. Hộ gia đình, cá thể
312.599
72,0
532.311
74,27
655.099
73,17
(Nguồn: Theo báo cáo cho vay thu nợ năm 2007-2008-2009 của NHNo&PTNT Hà Nam )
2.2.3. Đánh giá chất lượng tín dụng ở NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam
Biểu 05 : Tình hình nợ quá hạn tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam Đơn vị : Triệu đồng
Chỉ tiêu
2007
2008
2009
Số tiền
%
Số tiền
%
+/- 2008/2007
Số tiền
%
+/- 2009/2008
Số tiền
%
%
Nợ quá hạn
2.466
100
4.683
100
2.217
89,9
3.160
100
-1.523
- 32,5
DNNN
0
0
0
CT TNHH, CP, HTX
0
238
5,08
238
100
38
1,2
-200
- 84
Hộ gia đình,Cá thể
2.466
100
4.445
94,92
1.979
38
3.122
98,8
- 1.323
-29,76
%NQH/Tổng dư nợ
0,37
0,65
0,28
0,4
- 0,25
(Nguồn: Báo cáo NQH phân theo thành phần kinh tế quí IV năm 2007,2008,2009 NHNo&PTNT tỉnh Hà Nam )
Nhìn biểu 05 ta thấy trong các năm 2007-2009 tỷ lệ nợ quá hạn ở NHN._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25832.doc