Nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh HabuBank Hoàng Quốc Việt

LỜI MỞ ĐẦU Trong công cuộc đổi mới kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Ngân hàng với chức năng kinh doanh tiền tệ của mình đã đóng góp một vai trò rất quan trọng, nhất là trong lĩnh vực tín dụng. Đây là một nghiệp vụ chính của NHTM, nó không chỉ có ý nghĩa với nền kinh tế mà còn có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của một Ngân hàng. Vì vậy, nâng cao chất lượng tín dụng là một vấn đề luôn bất cập mà bất kỳ một Ngân hàng nào cũng quan tâm. Tuy nhiên, không phải một ngân

doc82 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1469 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh HabuBank Hoàng Quốc Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hàng nào cũng đạt được chất lượng tín dụng đạt yêu cầu. Xuất phát từ lý do này và những thực tế trong thời gian thực tập tại Chi nhánh, em đã chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh Habubank Hoàng Quốc Việt” làm chuyên đề tốt nghiệp. Chuyên đề tốt nghiệp gồm ba chương: Chương 1: Chất lượng tín dụng của các NHTM. Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Habubank Hoàng Quốc Việt. Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Habubank Hoàng Quốc Việt. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS. TS Vũ Duy Hào, các anh chị trong phòng ban Chi nhánh đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. CHƯƠNG 1 CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NHTM 1.1 HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHTM 1.1.1 Khái quát về hoạt động của NHTM a/ Khái niệm về ngân hàng thương mại Sự hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Theo quá trình phát triển thế giới, ngân hàng là một tổ chức quan trọng, là động lực phát triển và là thành phần không thể thiếu của nền kinh tế thị trường. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về ngân hàng, tuy nhiên theo Luật các tổ chức tín dụng thì: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác”. Trong đó ngân hàng thương mại được định nghĩa như sau: “Ngân hàng thương mại là một tổ chức chuyên doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên nhất là nhận tiền gửi, cho vay, và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. b/ Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại Hoạt động huy động vốn Bất cứ một ngân hàng nào để thực hiện mục tiêu kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận thì phải thực hiện hoạt động huy động vốn. Bởi lẽ nhu cầu vốn trên thị trường rất lớn trong khi vốn tự có của các ngân hàng thường chiếm tỷ trọng vô cùng nhỏ bé. Ngân hàng thường huy động vốn từ các nguồn chủ yếu sau: + Nguồn vốn tự có và nguồn bổ sung trong quá trình hoạt động Đây là nguồn hình thành ban đầu của mỗi ngân hàng. Tuỳ theo loại hình ngân hàng như ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, ngân hàng cổ phần, ngân hàng tư nhân,... mà nguồn hình thành khác nhau. Trong quá trình hoạt động, ngân hàng sẽ tăng vốn theo nhiều phương thức khác nhau như nguồn từ lợi nhuận, nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, cấp thêm, góp thêm đồng thời quá trình hoạt động của ngân hàng cũng hình thành nên các quỹ như quỹ dự phòng tổn thất, quỹ bảo toàn vốn, quỹ thặng dư và một số quỹ khác. + Nguồn vốn từ huy động tiền gửi Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Nguồn tiền gửi bao gồm tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội, tiền gửi của dân cư, tiền gửi của các ngân hàng khác. + Nguồn đi vay Khi khả năng huy động vốn hạn chế hoặc khi phải chi trả gấp một khoản tiền lớn các ngân hàng thương mại thường đi vay để đáp ứng nhu cầu vốn của mình. Ngân hàng thường vay từ các nguồn như vay ngân hàng nhà nước, vay các tổ chức tín dụng khác, vay trên thị trường vốn. Do chi phí của các khoản vay này khá lớn nên chỉ khi thật cần thiết thì ngân hàng mới phải sử dụng phương thức cho vay này. Hoạt động sử dụng vốn Hoạt động chủ yếu của ngân hàng là tìm kiếm các khoản vốn để sử dụng nhằm thu lợi nhuận, tạo ra các tài sản khác nhau của ngân hàng trong đó chủ yếu là dùng trong hoạt động tín dụng và đầu tư. + Hoạt động tín dụng Đây là hoạt động quan trọng nhất và chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản và cũng mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng, phản ánh đặc trưng của ngân hàng là cho vay. + Hoạt động đầu tư Ngân hàng thường đầu tư nhằm tăng thêm lợi nhuận như góp vốn vào các doanh nghiệp hay mua bán chứng khoán trên thị trường. Cho vay trên thị trường liên ngân hàng cũng là một cách để tận dụng nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời. Trung gian thanh toán Đây là một trong ba hoạt động cơ bản của ngân hàng. Thông qua dịch vụ thanh toán ngân hàng thu được một khoản phí và hoa hồng. Các dịch vụ của ngân hàng cũng ngày càng phong phú, tiện lợi và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của ngân hàng, trong đó việc thanh toán cũng ngày càng nhanh chóng thuận tiện, tiết kiệm chi phí như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ... kết nối quỹ, cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. 1.1.2 Khái niệm tín dụng Ngân hàng Trong nền kinh tế hàng hóa, trong cùng một thế giới luôn có một số người có vốn dư thừa ta thời và có nhu cầu cho vay. Bên cạnh đó, luôn có một số người tạm thời thiếu vốn, có nhu cầu đi vay. Từ đó đã làm phát sinh một mối quan hệ kinh tế mà nội dung của nó là vốn được dịch chuyển từ nơi tạm thời dư thừa sang nơi thiếu vốn với điều kiện hoàn trả vốn và thu được một khoản lợi nhuận do việc sử dụng vốn vay. Quan hệ tín dụng được hình thành và ra đời rất lâu. Thuật ngữ “tín dụng” xuất phát từ chữ Latinh: “Creditium” có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm. Theo K.Mác: “Tín dụng là quá trình chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng sau một thời gian nhất định thu hồi một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu”. Theo quan điểm hiện đại, tín dụng là quan hệ vay mượn gồm cả đi vay và cho vay. Các quan hệ tín dụng cũng được hình thành và ra đời rất lâu. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các hình thức tín dụng mới ngày càng có trình độ hơn. Trong thực tiễn đã có những hình thức sau: Tín dụng nặng lãi, tín dụng Ngân hàng, tín dụng nông nghiệp và tín dụng tiêu dùng. Ngày nay, các hình thức tín dụng trên đều tồn tại và bổ sung lẫn nhau, đóng góp vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của nền kinh tế. Trong các hình thức trên tín dụng thì tín dụng Ngân hàng là một hình thức vô cùng quan trọng, nó là mối quan hệ chủ yếu, cung cấp phần lớn nhu cầu tín dụng cho các doanh nghiệp và các thể nhân khác trong nền kinh tế. Có thể nói rằng: “Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là Ngân hàng, còn một bên là các pháp nhân và thể nhân khác trong nền kinh tế”.Tín dụng Ngân hàng là mối quan hệ vay mượn giữa các cá nhân, doanh nghiệp và các tổ chức trong xã hội. Nhưng nó là mối quan hệ di chuyển vốn gián tiếp thông qua một tổ chức trung gian, đó là Ngân hàng. Tín dụng Ngân hàng cũng mang bản chất của quan hệ tín dụng, đó là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định. Tuy nhiên tín dụng Ngân hàng cũng có những điểm riêng biệt: - Tín dụng Ngân hàng chủ yếu thực hiện cho vay dưới hình thức tiền tệ. Đây là loại hình tín dụng phổ biến, linh hoạt và đáp ứng nhu cầu cho mọi đối tượng trong nền kinh tế. - Tín dụng Ngân hàng cho vay chủ yếu bằng nguồn vốn huy động từ bên ngoài chứ không phải hoàn toàn là vốn sở hữu của mình như tín dụng nặng lãi hoặc tín dụng thương mại. - Tín dụng Ngân hàng có thời hạn cho vay phong phú. Ngân hàng có thể cho vay đối với các thời hạn tín dụng khác nhau như: cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn, cho vay dài hạn do Ngân hàng có thể điều chỉnh giữa các nguồn vốn với nhau để đáp ứng nhu cầu về thời hạn vay. 1.1.3 Các hình thức tín dụng 1.1.3.1 Căn cứ vào thời hạn tín dụng Theo căn cứ này tín dụng có thể chia làm 3 loại. Tín dụng ngắn hạn Đây là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm. Loại tín dụng này để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời về vốn hoặc mua các tài sản lưu động cho các doanh nghiệp và để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của các cá nhân. Tín dụng trung hạn Đây là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Loại tín dụng này được cấp để mua sắm các loại tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất và xây dựng các công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh. Tín dụng dài hạn Đây là loại tín dụng có thời hạn lớn hơn 5 năm. Loại tín dụng này sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng xí nghiệp mới, công trình thuộc cơ sở hạ tầng đường sá, cầu cảng sân bay… hay nhằm cải tiến và mở rộng sản xuất với qui mô lớn. 1.1.3.2 Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng Theo căn cứ này tín dụng được chia làm hai loại. - Cho vay không đảm bảo là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung. - Cho vay có đảm bảo là loại cho vay được ngân hàng cung ứng, phải có tài sản thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Đối với các khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có đảm bảo. Sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ 2, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn. 1.1.3.3 Căn cứ vào hình thức tài trợ Theo căn cứ này tín dụng chia làm 4 loại.  - Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. - Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nợ). - Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thỏa thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc và lãi cho ngân hàng. Cho thuê tài sản trung và dài hạn (Leasing) được ghi vào khoản mục tài sản theo giá trị tài sản cho thuê trừ đi phần tiền thuê ngân hàng thu được (dư nợ cho thuê). - Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi. Bảo lãnh được ghi vào tài khoản ngoại bảng, đó là giá trị mà ngân hàng cam kết trả thay khách hàng của mình. Phần bảo lãnh ngân hàng phải thực hiện chi trả được ghi vào tài khoản nội bảng. 1.1.3.4 Căn cứ vào mục đích sử dụng Dựa vào căn cứ này cho vay thường được chia làm các loại sau: - Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ. - Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ. - Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu… - Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền, ngày nay ngân hàng còn thực hiện các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng. 1.1.3.5 Căn cứ vào phương thức hoàn trả Theo căn cứ này tín dụng của ngân hàng được chia làm 3 loại. - Cho vay trả góp: Là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ. Loại cho vay này chủ yếu được áp dụng cho vay bất động sản, nhà ở, cho vay tiêu dùng, cho vay đối với những người kinh doanh nhỏ (cho vay chợ), cho vay trang bị kỹ thuật trong nông nghiệp. Thông thường có 4 phương pháp trả góp sau: + Phương pháp cộng thêm. + Phương pháp trả vốn gốc bằng nhau và trả lãi theo số dư vào cuối mỗi định kỳ. + Phương pháp trả vốn gốc và lãi bằng nhau và trả lãi tính trên mức hoàn trả của vốn gốc. + Phương pháp trả vốn gốc và lãi bằng nhau trong tất cả các định kỳ (phương pháp hiện giá). - Cho vay phi trả góp là loại cho vay được thanh toán một lần theo kỳ hạn đã thỏa thuận. - Cho vay hoàn trả theo yêu cầu (áp dụng kỹ thuật thấu chi). 1.1.3.6 Tín dụng phân loại theo rủi ro Tín dụng bao gồm các khoản có độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp. Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại khoản tín dụng, dự trù quỹ cho các khoản tín dụng rủi ro cao, đánh giá chất lượng tín dụng. - Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao. - Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính… - Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá với thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn… - Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn khá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì… 1.1.4 Vai trò của tín dụng ngân hàng a/ Tín dụng góp phần đẩy mạnh quá trình tập trung, tích tụ vốn sản xuất Ngân hàng thông qua vai trò trung gian tài chính đã thực sự là một cầu nối giữa những người có tiền muốn cho vay với những người thiếu vốn cần vay để thoả mãn được nhu cầu sản xuất kinh doanh. Với chức năng là người cho vay, ngân hàng phải có cơ cấu tương đối ổn định với qui mô nhất định. Nguồn vốn này bao gồm nguồn vốn tự có của ngân hàng, nguồn vốn vay từ thị trường vốn trong nước và nước ngoài, và bộ phận chủ yếu có tỷ trọng lớn quyết định đối với hoạt động của một ngân hàng và nguồn vốn huy động. Nguồn vốn này được hình thành từ nguồn tiền gửi của các doanh nghiệp, tiền nhàn rỗi của các cá nhân trong xã hội… Tất cả được tập trung vào thông qua chiến lược tạo vốn của ngân hàng. “Sự khơi dậy và động viên mọi nguồn vốn trong xã hội, thu hút mạnh vốn nước ngoài hình thành thị trường vốn và tiến tới thị trường chứng khoán” là nền tảng cơ bản để tập trung vốn vào NHTM. Như chúng ta đã biết, chiến lược huy động vốn trong nước là một trong những khâu quan trọng trong chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, được coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của ngân hàng trung ương và các NHTM. Mặt khác, sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia luôn luôn phụ thuộc vào phương hướng phát triển kinh tế, vào các nguồn lực và cách thức tạo ra nguồn lực đó, một trong những nhân tố quan trọng cấu thành nguồn lực này là vốn. Do vậy, ngân hàng cần phải có chính sách tài chính, tiền tệ phù hợp tạo động lực thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. b/ Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn để duy trì quá trình sản xuất kinh doanh liên tục, quyết định thời cơ và chủ động trong kinh doanh của doanh nghiệp Xét về nhu cầu vay vốn, thực tế cho thấy: xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn luân chuyển vốn, sự không ăn khớp về thời gian, khối lượng giữa người mua và bán vật tư hàng hoá phục vụ nhu cầu sản xuất với tiêu thụ hàng hoá, một số doanh nghiệp có nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh, mua sắm tài sản bằng nguồn vốn tích luỹ, song nguồn vốn tích luỹ này chưa đủ để thực hiện các mục đích đã định nên cũng tạm thời nhàn rỗi. Ngoài ra các nguồn vốn thuộc dự trữ quốc gia, nguồn vốn tiết kiệm dân cư… đều là các tiềm năng đáng kể để ngân hàng thu hút vốn, tạo nguồn vốn để sẵn sàng đầu tư cho vay. Mặt khác, theo qui luật chung, việc tái sản xuất mở rộng là không ngừng, mối quan hệ tín dụng trực tiếp giữa chủ thể có vốn nhàn rỗi chưa sử dụng và chủ thể thiếu hụt vốn có nhu cầu bù đắp gặp phải nhiều hạn chế. Để giải quyết mâu thuẫn này, đòi hỏi phải có hoạt động của tín dụng ngân hàng. Ngoài việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp duy trì hoạt động kinh doanh, tín dụng ngân hàng còn là một trong những nguồn hình thành vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp. Sự thể hiện vai trò của mình với tư cách là người hỗ trợ, tín dụng ngân hàng được coi như một mắt xích không thể thiếu được đối với hoạt động của các doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế. Các doanh nghiệp sử dụng khoản vốn tín dụng bắt buộc phải trả một khoản lãi suất theo qui định và chịu các cơ chế tín dụng. Do vậy, các doanh nghiệp chỉ sử dụng việc vay vốn tín dụng vào thời điểm mà mình thiếu vốn và không có nguồn tài trợ nào khác để thoả mãn mục đích kinh tế của mình. Như vậy, nếu không có nguồn vốn tín dụng thì doanh nghiệp sẽ được bổ sung kịp thời và mới có cơ hội để khai thác và nắm bắt được thời cơ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. c/ Tín dụng là công cụ tài trợ, đầu tư cho các ngành kinh tế mũi nhọn, then chốt, hỗ trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển Sự phát triển của các ngành kinh tế then chốt chính là yếu tố tạo sự bình ổn, tự chủ về kinh tế của mỗi quốc gia và cũng là nền tảng vững chắc để đẩy mạnh các ngành kinh tế mũi nhọn đạt được những ưu thế nhất định trên thị trường thế giới, tạo thế liên hoàn thúc đẩy, hỗ trợ, lôi cuốn các ngành kinh tế cùng nhau phát triển toàn diện. Nhất là trong bối cảnh kinh tế kém phát triển, khoa học kỹ thuật còn lạc hậu, nguồn vốn đầu tư còn thiếu hụt nghiêm trọng, cơ cấu kinh tế còn mất cân đối nặng nề, hiệu quả thấp lại không ổn định như nước ta hiện nay thì việc sắp xếp lại sản xuất, xác lập từng bước cơ cấu kinh tế hợp lý theo định hướng phát triển kinh tế xã hội và những mục tiêu đã định. Nó đòi hỏi phải có hàng loạt các chính sách, biện pháp đồng thời và hợp lý mà trong đó tín dụng ngân hàng đóng góp phần hết sức quan trọng. Tín dụng ngân hàng là công cụ tập trung vốn để cho vay đầu tư đúng đối tượng, đúng nguyên tắc và có hiệu quả. Nó ưu tiên tập trung vốn cho ngành kinh tế then chốt có tính quyết định trong nền kinh tế và hỗ trợ vốn cho ngành trọng điểm, ngành mũi nhọn để có cơ hội tạo ra các bước nhảy quan trọng. Tín dụng ngân hàng còn vận dụng cơ cấu vốn hợp lý và chính sách lãi suất thích hợp để khuyến khích các ngành kinh tế chậm phát triển. Ngoài ra, thông qua chính sách tiền tệ, tín dụng còn góp phần ổn định giá cả có tác dụng tích cực thúc đẩy nhiều thành phần kinh tế phát triển. d/Tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc cho người lao động Như chúng ta đã biết tín dụng đã góp phần không nhỏ trong việc ổn định tiền tệ, ổn định giá cả, là tiền đề quan trọng để sản xuất lưu thông hàng hoá. Nền kinh tế phát triển trong một môi trường ổn định về tiền tệ là điều kiện nâng cao dần đời sống của các thành viên trong xã hội, là điều kiện thực hiện tốt các chính sách xã hội. Mặt khác, trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức cho vay: tổ chức tín dụng dân cư thành lập các quỹ xoá đói giảm nghèo, cho vay theo chương trình tín dụng EC… vốn tín dụng không chỉ đáp ứng cho nhu cầu của các nhà doanh nghiệp mà còn phục vụ cho các tầng lớp dân cư trong xã hội. Từ đó, tín dụng góp phần ổn định đời sống nhân dân, tạo công ăn việc làm, qua đó góp phần ổn định xã hội. 1.2 CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NHTM 1.2.1 Quan điểm về chất lượng tín dụng Trong quá trình phát triển của các hoạt động kinh tế xã hội, giữa hai mặt lượng và chất luôn luôn có quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Tăng trưởng và chất lượng tín dụng không nằm ngoài qui luật đó. Khái niệm chất lượng tín dụng là một phạm vi rộng bao gồm nhiều nội dung. Ban đầu chất lượng tín dụng chỉ bó hẹp trong khái niệm an toàn tín dụng, nó phản ánh mức tổn thất phát sinh trực tiếp từ rủi ro đối với các khoản cho vay của Ngân hàng. Chất lượng được coi là cao khi có ít các khoản vay xấu, thiệt hại từ các khoản vay đó là nhỏ, và nó được hoàn trả theo đúng hợp đồng. Theo sự phát triển kinh tế, quan điểm chất lượng tín dụng ngày càng thay đổi và yêu cầu khắt khe hơn. Chất lượng tín dụng được xác định bằng tổng thể các tiêu chí cả trừu tượng lẫn cụ thể và việc đánh giá chúng cũng có sự linh động nhất định. Có thể xem rằng chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng (cả người vay tiền và người gửi tiền) phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Khi xét đến chất lượng tín dụng người ta thường xét các khía cạnh: - Đối với NHTM: Chất lượng tín dụng thực hiện phạm vi, mục đích, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của bản thân Ngân hàng và đảm bảo tính cạnh tranh trên nguyên tắc hoàn trả đúng hạn, thu được lãi tiền vay, đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. - Đối với khách hàng: Chất lượng hoạt động tín dụng thể hiện ở chỗ tín dụng phát ra phải phù hợp với nhu cầu sử dụng, đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh với lãi suất và kỳ hạn hợp lý, thủ tục đơn giản, thuận tiện thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng. Đồng thời khách hàng thực hiện thanh toán đầy đủ gốc và lãi đúng thỏa thuận. - Đối với Nhà nước: Chất lượng tín dụng phải đáp ứng được các mục tiêu phát triển chung của Nhà nước về mặt kinh tế xã hội, tín dụng phải phục vụ cho sản xuất và lưu thông hàng hóa, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao cơ sở hạ tầng, tăng phúc lợi xã hội, đồng thời thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt nhất mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế. 1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của NHTM 1.2.2.1 Chỉ tiêu định tính Đối với NHTM, để đánh giá chất lượng tín dụng bao gồm một số chỉ tiêu sau: + Mức độ đáp ứng kịp thời nhu cầu tín dụng cho khách hàng Chất lượng tín dụng của một ngân hàng được coi là tốt khi ngân hàng có khả năng đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu vay vốn hợp lý của khách hàng. Để làm được điều đó ngân hàng cần phải có hệ thống phân tích, đánh giá, dự báo nhu cầu tín dụng của khách hàng chính xác và nhanh chóng. + Sự tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc về tín dụng Các quy định và các nguyên tắc tín dụng được xây dựng nhằm giảm thiểu những rủi ro, đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng ngân hàng, chính vì vậy việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy định và nguyên tắc này phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng càng cao do ngân hàng có thể hạn chế được phần nào rủi ro tín dụng. + Uy tín và thị phần cho vay của ngân hàng trên địa bàn Thông qua uy tín và thị phần cho vay của ngân hàng sẽ phản ánh phần nào chất lượng tín dụng của ngân hàng. Bởi đối với bất kỳ ngân hàng nào, để tăng uy tín của mình trên thị trường đều buộc họ phải tìm cách mở rộng thị phần và không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng mình. 1.2.2.2 Các chỉ tiêu định lượng a/ Các chỉ tiêu tuyệt đối Đây là nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng mở rộng hoạt động tài trợ của ngân hàng, uy tín của ngân hàng trong công tác thu hút khách hàng. Doanh số cho vay Được tính bằng cách cộng dồn các khoản cho vay trong một niên độ kinh tế hay trong cùng một kỳ tính nhất định, chỉ tiêu này phản ánh tồn tại lượng vốn mà ngân hàng đã giải ngân cho khách hàng vay. Con số này phản ánh xu hướng hoạt động tín dụng của ngân hàng trong từng thời kỳ. Đối với từng khách hàng cụ thể các doanh số cho vay khác nhau. Tổng dư nợ tín dụng Được xây dựng bằng tổng dư nợ tại một thời điểm nhất định (thông thường là vào cuối năm kinh tế). Đây là một trong những chỉ tiêu tổng hợp được sử dụng để so sánh, xem xét khả năng mở rộng cho vay của ngân hàng tại các thời điểm khác nhau. Chỉ tiêu tổng dư nợ phản ánh qui mô tín dụng của ngân hàng đồng thời đây là chỉ tiêu phản ánh uy tín của ngân hàng. Nếu chỉ tiêu này thấp và có xu hướng giảm hoặc nếu tăng thì tăng không nhiều và không ổn định thì cũng có nghĩa là chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng đó sẽ không thể đánh giá là cao. Tuy nhiên chỉ tiêu này chưa đủ để ngân hàng có thể đưa ra một đánh giá chính xác về thực trạng chất lượng tín dụng tại ngân hàng mình khi kết hợp xem xét các chỉ tiêu khác liên quan, do còn chịu ảnh hưởng bởi một số nguyên nhân như hoạt động cho vay, đảo nợ, cho vay theo chỉ định, cho vay ưu đãi… Doanh số thu nợ Được tính bằng cách cộng dồn các khoản thu nợ trong một niên độ kinh tế, chỉ tiêu này phản ánh lượng vốn mà ngân hàng đã cho khách hàng vay và đã được hoàn trả trong một thời kỳ. Doanh số cho vay lớn phải đi kèm với doanh số thu nợ cao. Nếu doanh số cho vay lớn nhưng doanh số thu nợ thấp cho thấy dư nợ quá hạn của ngân hàng cao, khả năng thu hồi vốn là lãi thấp, chất lượng hoạt động tín dụng kém. Thu lãi tín dụng Phản ánh nguồn thu từ cho vay của các NHTM là nguồn chia lãi cổ phần và bổ sung vốn hoạt động. Qua chỉ tiêu này cho chúng ta thấy được hiệu quả thực sự mà hoạt động tín dụng mang lại cho ngân hàng. b/ Các chỉ tiêu tương đối Vòng quay vốn tín dụng: Đây là chỉ tiêu thường được các NHTM tính toán hằng năm để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Doanh số thu nợ trong kỳ Vòng quay vốn tín dụng = Dư nợ bình quân Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển tối thiểu của vốn tín dụng. Vòng quay của vốn tín dụng càng cao chứng tỏ nguồn vốn ngân hàng luân chuyển càng nhanh, tham gia càng nhiều vào chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá. Hệ số này cao quản lý càng tốt, chất lượng tín dụng càng cao. Chỉ số này cao trước hết thể hiện khả năng thu nợ tốt. Nó còn thể hiện hiệu quả cho vay của ngân hàng. Một đồng vốn khi cho vay được nhiều lần sẽ đem lại nhiều lợi nhuận hơn. Tuy nhiên, cần xét đến yếu tố quan trọng là “dư nợ bình quân”. Khi dư nợ bình quân thấp sẽ làm cho vòng quay lớn hơn nhưng lại không phản ánh chất lượng khoản tín dụng là cao bởi thực tế nó thể hiện khả năng cho vay kém của ngân hàng. Chỉ tiêu này cần phải được xem xét với chỉ tiêu “hiệu suất sử dụng vốn”. Hiệu suất sử dụng vốn Chỉ tiêu này phản ánh tỉ lệ vốn cho vay trong tổng nguồn huy động. Nó xem xét đánh giá tỷ trọng cho vay đã phù hợp với khả năng đáp ứng về vốn của bản thân ngân hàng cũng như nền kinh tế. Tổng nguồn vốn huy động Hiệu suất sử dụng vốn = Dư nợ bình quân Tỷ lệ này trên thực tế di động từ 30% đến 100%. Thông thưòng vào khoảng 80% là tốt, còn nếu dưới hoặc trên, thậm chí xấp xỉ 100% có thể sẽ gây ảnh hưởng không tốt cho ngân hàng. Lúc đó tính thanh khoản của ngân hàng sẽ bị đe dọa do khối lượng doanh thu không được đảm bảo. Tuy vậy, để xác định một tỷ lệ thế nào là phù hợp còn phụ thuộc vào kết cấu của vốn huy động, lĩnh vực ngân hàng tập trung tài trợ và nhiều nhân tố khác. Thu nhập từ hoạt động tín dụng Một khoản tín dụng có chất lượng cao sẽ đem lại một khoản tín dụng cho ngân hàng. Nguồn thu từ hoạt động tín dụng là nguồn thu chủ yếu để ngân hàng tồn tại và phát triển. Lợi nhuận do hoạt động tín dụng mang lại chứng tỏ khoản vay không những thu hồi được gốc mà còn có lãi, đảm bảo độ an toàn nguồn vốn cho vay. Thu nhập từ hoạt động tín dụng Tỷ trọng TN từ hoạt động tín dụng = Tổng thu nhập Chỉ tiêu này phản ánh tỷ trọng lợi nhuận từ hoạt động tín dụng so với tổng lợi nhuận mà ngân hàng thu được, phản ánh tầm quan trọng hoạt động tín dụng bên cạnh hoạt động thu lợi nhuận khác. Tỷ lệ nợ quá hạn Nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = Tổng dư nợ Đây là chỉ số để đo lường chất lượng tín dụng của NHTM, chỉ số này càng thấp càng thể hiện chất lượng tín dụng là tốt. Chỉ số này thể hiện một cách thực tế hơn về chất lượng tín dụng do nó hạn chế được việc ngân hàng đảo nợ hay giãn nợ đối với các khoản cho vay đến hạn mà không có khả năng thu hồi. Tuy nhiên, đôi khi chỉ tiêu này cũng không phản ánh hết chất lượng tín dụng của một ngân hàng vì bên cạnh những ngân hàng mặc dù có nợ quá hạn thấp khả năng xử lý các khoản nợ có hiệu quả. Do đó, để đánh giá chính xác hơn chất lượng tín dụng có thể dùng kết hợp chỉ tiêu: Dư NQH có khả năng thu hồi Tỷ lệ NQH có khả năng thu hồi = Tổng dư nợ Nợ quá hạn có khả năng thu hồi là khoản nợ mà người vay có thể vẫn tiếp tục trả được cho ngân hàng sau thời hạn ghi trên hợp đồng mà lí do khoản nợ bị chậm là gặp rủi ro về thiên tai hay hoả hoạn. Dư nợ khó đòi Tỷ lệ NQH không có khả năng thu hồi = Tổng dư nợ quá hạn Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi là những khoản nợ mà người vay hầu như không thể trả được cho ngân hàng, nguyên nhân là do khách hàng vay vốn về kinh doanh nhưng bị thua lỗ dẫn đến phá sản và không có khả năng hoàn trả nợ cho ngân hàng hoặc có trường hợp khách hàng lừa đảo ngân hàng. 1.2.3 Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng 1.2.3.1 Nâng cao chất lượng tín dụng quyết định sự tồn tại và phát triển của NHTM Các NHTM hiện nay trong hoạt động của mình luôn hướng tới khách hàng lấy mục tiêu lợi nhuận làm mục tiêu phấn đấu. Hoạt động tín dụng là một hoạt động cơ bản của NHTM. Hoạt động tín dụng phát triển kéo theo các hoạt động khác của Ngân hàng phát triển. Do vậy muốn tăng cường và phát triển hoạt động tín dụng các Ngân hàng cần phải xem xét chất lượng tín dụng. - Đảm bảo chất lượng tín dụng là điều kiện để Ngân hàng làm tốt chức năng thanh toán, trung gian tín dụng, là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. Chất lượng tín dụng được nâng cao sẽ làm lành mạnh hóa quan hệ tín dụng, giảm rủi ro tín dụng, nâng cao hiệu suất sử dụng vốn và vòng quay vốn, góp phần tăng lợi nhuận của hoạt động kinh doanh. - Chất lượng tín dụng tốt tạo điều kiện tăng khả năng sinh lời của sản phẩm dịch vụ do sự chậm trễ, giảm các loại chi phí, do đó cải thiện được tình hình tài chính của Ngân hàng, tạo thế mạnh cạnh tranh. - Giúp cho Ngân hàng có những khách hàng trung thành và khoản lợi nhuận bổ sung vốn đầu tư. Nói cách khác, chất lượng tín dụng củng cố mối quan hệ khách hàng, tạo ra môi trường thuận lợi cho Ngân hàng. 1.2.3.2 Nâng cao chất lượng tín dụng là đòi hỏi bức thiết đối với sự phát triển kinh tế Ra đời trong nền sản xuất hàng hóa, tín dụng có những đóng góp đáng kể cho việc thúc đẩy quá trình tập trung tích tụ vốn thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế xã hội. Lịch sử chứng minh điều này thông qua sự ra đời và phát triển của xã hội loài người qua các hình thái kinh tế xã hội. - Nâng cao chất lượng tín dụng sẽ làm giảm tối thiểu lượng tiền thừa trong lưu thông, điều đó không chỉ giải quyết mối quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế mà còn tạo điều kiện để mở rộng phạm vi thanh toán không dùng tiền mặt, từ đó tiết kiệm chi phí lưu thông cho xã hội, góp phần vào việc ổn định và điều hòa lưu thông tiền tệ. - Chất lượng tín dụng tốt có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế, nó là đòn bẩy để phát triển kinh tế. Nguồn vốn kinh doanh của các doanh nghiệp chủ yếu là nguồn vốn vay. Vì vậy, hiệu quả của các khoản tín dụng gắn liền với hiệu quả hoạt động của nền kinh tế, tức là nền kinh tế có tăng trưởng hay không phụ t._.huộc vào nguồn đầu tư vốn. Do đó để làm tốt chức năng đòn bẩy kinh tế của tín dụng, trước hết cần nâng cao chất lượng tín dụng. - Nâng cao chất lượng tín dụng góp phần lành mạnh hóa quan hệ tín dụng vì hoạt động tín dụng được mở rộng với thủ tục đơn giản, thuận tiện nhưng vẫn đảm bảo được các nguyên tắc tín dụng, sẽ góp phần cho vay đúng đối tượng cần thiết. Mặt khác nâng cao chất lượng tín dụng cũng làm tăng hiệu quả sản xuất xã hội, đảm bảo sự cân đối giữa các ngành vùng, ổn định và phát triển kinh tế. 1.2.3.3 Sự cần thiết của nâng cao chất lượng tín dụng đối với khách hàng Các khách hàng là doanh nghiệp có nguồn vốn để sản xuất kinh doanh chủ yếu là vốn vay. Một doanh nghiệp sử dụng vốn tối ưu khi chi phí vốn đạt ở mức thấp nhất, nghĩa là WACC là thấp nhất. Để đạt được cơ cấu vốn tối ưu thì doanh nghiệp phải sử dụng một cách hợp lý giữa vốn vay và vốn tự có. Chất lượng tín dụng có tốt sẽ làm cho nhu cầu của khách hàng được đáp ứng được nhanh chóng, kịp thời với số lượng lớn. Chất lượng tín dụng tốt thì khách hàng mới vay vốn của ngân hàng với thủ tục đơn giản, hợp lý giúp doanh nghiệp mở rộng kinh doanh, tăng lợi nhuận. 1.3 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NHTM 1.3.1 Các nhân tố từ phía ngân hàng - Chiến lược kinh doanh của ngân hàng Trong nền kinh tế hiện đại, các doanh nghiệp nói chung và các NHTM nói riêng muốn tồn tại và phát triển kinh doanh có lãi phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh hiệu quả, nó sẽ giúp ngân hàng có một phương hướng và khai thác một cách tốt nhất năng lực hiện có của đơn vị đồng thời có thể giúp ngân hàng thích ứng một cách nhanh nhất những biến động của môi trường. Trên cơ sở có chiến lược kinh doanh đúng đắn, NHTM mới có thể có những kế hoạch cho các bộ phận trong từng thời kỳ để đảm bảo thực hiện mục tiêu nêu ra. Đó là các bộ phận ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng như: Kế hoạch phát tiển nguồn nhân lực, kế hoạch Marketing… - Chất lượng thẩm định dự án, thu thập và xử lý thông tin tín dụng Thẩm định dự án là việc xem xét một cách khách quan toàn diện những nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của dự án, hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xảy ra của dự án đầu tư để quyết định cho vay hoặc từ chối. Cũng từ qui trình thẩm định, ngân hàng có thể tham gia để thu hồi vốn, góp ý cho chủ đầu tư đồng thời căn cứ vào đó để xác định số tiền cho vay, thời gian cho vay, mức thu nợ, phương thức thu nợ hợp lý, taọ cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả để ngân hàng có thể thu hồi vốn nhanh chóng, nâng cao chất lượng tín dụng. Thêm vào đó, công tác thẩm định dự án còn giúp ngân hàng thuận tiện hơn trong quá trình kiểm tra, giám sát khoản vay thông qua việc so sánh giữa các chỉ tiêu kế hoạch và các chỉ tiêu bên vay thực hiện. Ngoài ra, thẩm định dự án rất cần tới yếu tố thu thập và xử lý thông tin tín dụng, đây là yếu tố xuyên suốt và cơ bản của qui trình tín dụng. Muốn nâng cao chất lượng tín dụng, ngân hàng cần thu thập thông tin đầy đủ và linh hoạt, nhờ đó cung cấp các thông tín, xử lý và quản lý các khoản vay một cách an toàn, hiệu quả. Thông tin tín dụng có thể thu được từ các nguồn: hồ sơ vay vốn, thông tin giữa các tổ chức tín dụng, thông tin tình hình sản xuất kinh doanh. Thông tin càng đầy đủ chính xác thì khả năng ngăn ngừa rủi ro càng lớn, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. - Trang thiết bị phục vụ thông tin tín dụng Trang thiết bị là một điều kiện tiên quyết và không thể thiếu cho hoạt động ngân hàng cũng như hoạt động tín dụng. Đây là công cụ, phương tiện thực hiện tổ chức quản lý, kiểm tra, kiểm soát nội bộ, kiểm tra qui trình thực hiện vốn vay, thực hiện các nghiệp vụ giao dịch vụ với khách hàng. Đặc biệt với sự phát triển của công nghệ thông tin như hiện nay, các trang thiết bị tin học tiên tiến, nhiều tiện ích, linh hoạt, giúp ngân hàng xử lý những khoản vay có hiệu quả, đảm bảo an toàn tín dụng, xây dựng qui trình cấp tín dụng hợp lý, duy trì quá trình đo lường và quản lý tín dụng, đảm bảo kiểm soát rủi ro tín dụng đầy đủ, cải thiện tình hình tài chính, nâng cao khả năng cạnh tranh cho ngân hàng. - Hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ Kiểm soát nội bộ là một bộ phận cấu thành quản lý và thuộc trách nhiệm của ban điều hành. Hệ thống kiểm soát nội bộ là cơ cấu tổ chức cộng với những biện pháp, thủ tục do ban điều hành của một ngân hàng chấp nhận, nhằm hỗ trợ thực thi mục tiêu của ban điều hành đảm bảo khả năng thực tiễn, tiến hành kinh doanh trong trật tự và hiệu quả. Kiểm toán của cơ quan kiểm toán bên trong và kiểm tra của thanh tra ngân hàng nhà nước là một hoạt động kinh doanh của NHTM. Trong đó, quan trọng nhất là hoạt động kiểm toán nội bộ của các NHTM vì nó là một trong những công cụ quan trọng nhất trong công tác quản lý, điều hành của ban lãnh đạo ngân hàng. Công tác kiểm tra nội bộ trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng thường xuyên, càng chặt chẽ sẽ làm cho hoạt động tín dụng đúng hướng, thực hiện đúng các nguyên tắc, các yêu cầu, thể lệ trong qui chế tín dụng cũng như quy trình, thủ tục tín dụng. Kiểm soát nội bộ là biện pháp mang tính chất phòng ngừa, hạn chế những sai sót của cán bộ tín dụng, giúp cho hoạt động tín dụng kịp thời sửa chữa, giải quyết những khó khăn, vướng mắc, phát huy những thuận lợi, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. - Phẩm chất và trình độ cán bộ Con người là một yếu tố vô cùng quan trọng quyết định tới sự thành bại trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng. Trong thời đại hiện nay, khoa học công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất chính thì yếu tố con người càng khẳng định được vị trí trung tâm của nó. Trong hoạt động tín dụng, muốn nâng cao hiệu quả tín dụng, ngân hàng cần có đội ngũ quản lý, cán bộ tín dụng giỏi, được đào tạo có hệ thống, có năng lực kiến thức chuyên môn, và thường xuyên được bồi dưỡng những kiến thức cần thiết để bắt kịp với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thị trường. Bên cạnh đó, muốn chất lượng tín dụng có hiệu quả, người cán bộ ngân hàng cần có tư cách đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, yêu nghề, chấp hành tốt qui định của pháp luật và ngân hàng, vì nếu cán bộ ngân hàng chạy theo lợi ích riêng trước mắt mà thực hiện không đúng qui định sẽ gây ra những thiệt hại, ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. 1.3.2 Nhóm nhân tố từ phía khách hàng - Năng lực quản lý kinh doanh của người vay Năng lực kinh doanh của khách hàng bao gồm cả năng lực về tài chính, năng lực quản lý doanh nghiệp… là yếu tố quyết định sự thành công của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, có rất nhiều yếu tố kinh doanh vi mô và vĩ mô thường xuyên biến động như nhu cầu thị trường, giá cả nguyên vật liệu, nguồn cung cấp nguyên vật liệu, các máy móc thiết bị nhập về không phát huy được tác dụng như mong muốn… sẽ làm sai lệch những tính toán mang tính khả thi của doanh nghiệp. Muốn khắc phục được những điều này, đòi hỏi doanh nghiệp phải có kiến thức, trình độ, kinh nghiệm để phán đoán được những tình huống biến động có thể gây ra những ảnh hưởng không tốt đến tình hình kinh doanh của khách hàng, có thể làm cho khách hàng bị thua lỗ, dẫn đến không có khả năng trả nợ cho ngân hàng. - Triển vọng kinh doanh của doanh nghiệp Khả năng trả nợ của doanh nghiệp phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai. Nếu một doanh nghiệp đang trong tình trạng thị phần bị thu hẹp, nhà cung cấp không ổn định… thì khả năng trả nợ của ngân hàng sẽ không được đảm bảo. Hơn nữa, khi ngân hàng cho vay theo dự án, nếu dự án đó không có tính khả thi thì ngân hàng cũng có khả năng không thu hồi được vốn và lãi đúng hạn. - Đạo đức, uy tín người vay Là một yếu tố quan trọng của quá trình tín dụng, ảnh hưởng đến chất lượng. Đạo đức, tư cách của người vay không chỉ thể hiện trước khi cấp tín dụng mà còn thể hiện sau khi cấp tín dụng. Có rất nhiều người có những kỳ vọng thu được lợi nhuận cao, vì vậy để đạt được những mục đích của mình họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó với ngân hàng như cung cấp thông tin sai, mua chuộc cán bộ ngân hàng, gian lận giấy tờ số liệu, sử dụng vốn vay không đúng mục đích, không đúng với phương án kinh doanh. Việc khách hàng gian lận sẽ ảnh hưởng rất lớn đến rủi ro tín dụng của ngân hàng. Ngoài yếu tố đạo đức, uy tín của khách hàng cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, khả năng thực hiện những cam kết đối với ngân hàng. Uy tín của khách hàng thể hiện ở nhiều khía cạnh như: chất lượng, giá cả của hàng hoá, dịch vụ, mức độ chiếm lĩnh thị trường, chu kỳ sống sản phẩm, các quan hệ kinh tế tài chính, tình hình vay vốn, trả nợ với khách hàng, bạn hàng và ngân hàng khác. Yếu tố này thể hiện hiệu quả kinh doanh, lợi nhuận của khách hàng là tiêu chí để ngân hàng đánh giá khả năng thực hiện nghĩa vụ của khách hàng. 1.3.3 Các nhân tố thuộc môi trường - Môi trường kinh tế chính trị Sự ổn định hay bất ổn về kinh tế chính trị và chính sách kinh tế của mỗi quốc gia đều ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như ngân hàng. Tính ổn định về kinh tế chính trị mà trước hết là ổn định về tài chính quốc gia, ổn định tiền tê, lãi suất, khống chế lạm phát là những yếu tố có thể gây ra những rối loạn mang tính hệ thống, có thể không trừ một ngân hàng nào. Những yếu tố bất ổn như tăng trưởng kinh tế âm, thâm hụt tài chính lớn không có khả năng chống đỡ, bù đắp, cán cân vốn không tương xứng với sự phát triển kinh tế nội địa, sự tăng, giảm giá đột biến của tài sản có thể là nguyên nhân gây ra rủi ro hệ thống. Đối với khách hàng, trong điều kiện thuận lợi, khách hàng có thể sử dụng vốn vay một cách hiệu quả, khả năng thành công của phương án là lớn, thủ tục vay vốn là dễ dàng hơn, nhanh gọn hơn, do đó nó cũng là những khoản tín dụng có chất lượng. Về phía nhà nước, khi các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tạo công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống nhân dân. Hệ thống ngân hàng đảm bảo được uy tín, vững mạnh về tài chính cũng như mang lại sức mạnh cho nền kinh tế. Ngược lại, khi nền kinh tế biến động, các doanh nghiệp làm ăn thất thường, kém hiệu quả sẽ làm ảnh hưỏng đến lợi nhuận doanh nghiệp, từ đó làm ảnh hưởng đến khả năng thu nợ của ngân hàng. Một môi trường kinh tế ổn đinh và phát triển sẽ tạo điều kiện các hoạt động kinh doanh có hiệu quả, kinh tế đất nước sẽ phát triển và do vậy chất lượng tín dụng mới được đảm bảo. - Môi trường pháp lý Ngân hàng hoạt động không chỉ chịu sự giám sát điều hành của pháp luật, mà còn chịu sự giám sát điều hành của luật ngân hàng và luật các tổ chức tín dụng. Do đó, nếu hệ thống pháp luật không đồng bộ, thống nhất giữa các luật, văn bản dưới luật… sẽ làm cho hoạt động kinh doanh gặp nhiều khó khăn, thiếu tính linh hoạt, rủi ro về vốn cao, gây bất lợi cho ngân hàng. Cùng với nó là sự thay đổi trong chính sách tiền tệ hoặc chính sách tài khoá của chính phủ qua từng thời kỳ cũng gây khó khăn không nhỏ cho ngân hàng trong quá trình hoạt động của nó. Ngược lại, nếu pháp luật phù hợp với thực tế khách quan tạo môi trường pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả cao. - Môi trường cạnh tranh Đối với các NHTM thì các tổ chức trung gian tài chính khác như: công ty bảo hiểm, công ty tài chính, tổ chức tín dụng, các NHTM cùng hệ thống hoặc các ngân hàng cùng hệ thống nhưng khác địa bàn được xem là mối quan hệ tương tác, tác động qua lại lẫn nhau và các tổ chức trên vừa là đối thủ cạnh tranh đồng thời là đối tác kinh doanh của ngân hàng. Chính những đối thủ cạnh tranh sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Do đó các ngân hàng cần nâng cao năng lực cạnh tranh của mình so với các tổ chức tín dụng khác. - Môi trường tự nhiên Môi trường tự nhiên cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh. Những biến động bất khả kháng xảy ra trong môi trường tự nhiên như thiên tai, động đất, hạn hán, lũ lụt, hoả hoạn… đều làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của khách hàng, đặc biệt là các khách hàng trong các ngành nông, lâm ngư nghiệp, là những ngành có hoạt động sản xuất kinh doanh chịu ảnh hưởng rất lớn từ môi trường khí hậu tự nhiên. Vì vậy, môi trường tự nhiên không thuận lợi thì các cá nhân, tổ chức và các doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh và lưu thông hàng hoá, tức là nó gián tiếp tác động tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng, làm giảm chất lượng tín dụng. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH HABUBANK HOÀNG QUỐC VIỆT 2.1 GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CHI NHÁNH HABUBANK HOÀNG QUỐC VIỆT Habubank là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên ở Việt Nam được thành lập từ năm 1989 với mục tiêu ban đầu là hoạt động tín dụng và dịch vụ trong lĩnh vực phát triển nhà. Tiền thân của Habubank là Ngân hàng Đầu tư & phát triển Việt Nam kết hợp với cổ đông bao gồm Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội và một số doanh nghiệp quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, quản lý nhà và du lịch. Ngày 01/2/ 1989 NHTMCP Nhà Hà Nội được thành lập với số vốn điều lệ là 5 tỷ đồng. Tới nay, hơn 17 năm hoạt động, Habubank đã có số vốn điều lệ là 900 tỷ đồng với mạng lưới ngày càng mở rộng, Ngân hàng đã phát triển toàn diện với hoạt động ổn định, an toàn và hiệu quả. Chi nhánh Habubank Hoàng Quốc Việt là một trong số những chi nhánh trực thuộc NHTMCP Nhà Hà Nội. Do đó, lịch sử hình thành và phát triển của Chi nhánh gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của NHTMCP Nhà Hà Nội. Được thành lập vào năm 1997, ban đầu với bộ máy tổ chức, cán bộ hoàn toàn mới, cơ sở vật chất còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Tuy nhiên trải qua gần 10 năm thành lập và hoạt động, Ngân hàng đã vượt qua mọi thử thách, không ngừng phát huy và tăng trưởng, thu được những kết quả đáng khích lệ trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ ngân hàng. Chi nhánh Habubank Hoàng Quốc Việt là một đơn vị thành viên trực thuộc NHTMCP Nhà Hà Nội, trụ sở đóng tại 118 Hoàng Quốc Việt, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Bộ máy tổ chức của Ngân hàng gồm ban giám đốc và 7 phòng chức năng. Giám đốc Phó giám đốc Phòng kiểm tra, kiểm soát Phòng phát triển kinh doanh Phòng nguồn vốn Phòng tiền tệ ngân quỹ Phòng tổ chức hành chính Phòng thanh toán quốc tế Phòng kế toán tài chính - Chức năng nhiệm vụ của các phòng Phòng phát triển kinh doanh. - Giúp giám đốc Chi nhánh thực hiện cho vay ngắn hạn, trung hạn đối với các tổ chức kinh tế và dân cư theo đúng quy trình cho vay của Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội với mức cho vay tối đa của một khách hàng theo quy định của Tổng giám đốc. - Những hồ sơ xin vay vượt mức do Tổng giám đốc quy định cho chi nhánh phòng kinh doanh có trách nhiệm tiếp nhận và chuyển hồ sơ về Hội sở. - Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh hàng ngày của chi nhánh cho Giám đốc chi nhánh, giúp giám đốc chi nhánh định kỳ báo cáo với Tổng giám đốc về tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh. - Quan hệ chặt chẽ với phòng kinh doanh của Hội sở Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội về việc cung cấp thông tin và các vấn đề nghiệp vụ. Phòng nguồn vốn. - Tham mưu cho giám đốc trong việc xây dựng Kế hoạch kinh doanh theo định hướng của Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội và tổ chức thực hiện trong phạm vi của chi nhánh. - Xây dựng Kế hoạch kinh doanh hàng năm, hàng quý trình Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội phê duyệt, phân bổ chỉ tiêu cho các chi nhánh Ngân hàng trực thuộc và tổ chức thực hiện. - Nắm bắt kịp thời diễn biến lãi suất huy động vốn của các tổ chức tín dụng để đề xuất các hình thức giải pháp huy động vốn và xử lý về lãi suất phù hợp với mặt bằng chung của các Ngân hàng thương mại trên địa bàn. - Trực tiếp theo dõi, quản lý các loại nguồn vốn của các đơn vị trực thuộc và trực tiếp chỉ đạo các đơn vị trực thuộc thực hiện triển khai huy động vốn theo chỉ tiêu kế hoạch được giao. - Phối hợp với các phòng liên quan tính toán kết quả kinh doanh của toàn chi nhánh. - Thực hiện các công việc khác do Ban giám đốc giao. Phòng tiền tệ, ngân quỹ - Kết hợp với các phòng ban có liên quan xây dựng kế hoạch tài chính hằng năm, hướng dẫn các chi nhánh Ngân hàng trực thuộc xây dựng kế hoạch tài chính hằng năm và dài hạn, tiến hành giao và theo dõi thực hiện kế hoạch tài chính đã được phê duyệt đến từng chi nhánh. - Thực hiện công tác huy động vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế… thực hiện hạch toán kế toán, hạch toán thống kê và công tác Ngân quỹ tại Hội sở. Chỉ đạo kiểm tra các chi nhánh trực thuộc thực hiện công tác hạch toán kế toán, hạch toán thống kê và công tác Ngân quỹ. - Kết hợp với phòng hành chính lập kế hoạch mua sắm tài sản cố định, công cụ lao động, sửa chữa lớn tài sản cố định. - Chấp hành quy định về an toàn kho quỹ và định mức tồn quỹ theo quy định. - Thực hiện các nhiệm vụ khác do giám đốc giao. Phòng kế toán tài chính - Thực hiện công tác hạch toán kế toán theo đúng quy định, theo dõi chặt chẽ việc sử dụng vốn của chi nhánh. - Bảo quản hồ sơ thế chấp, tài liệu kế toán, hồ sơ chứng sổ sách, tài liệu kế toán theo quy định của pháp luật. - Thực hiện hạch toán các khoản chi tiêu nội bộ, chi trả lương, bảo hiểm xã hội, thanh toán công tác phí… và các khoản chi khác liên quan đến người lao động tại trụ sở chính Ngân hàng Nhà Hà nội. - Tổng hợp và phân tích tài chính đạt được, phân tích kết quả tài chính hàng quý, năm. - Thực hiện chế độ báo cáo định kỳ và đột xuất theo quy định của pháp luật. - Thực hiện kiểm tra chuyên đề Kế toán – Ngân quỹ theo quy định. - Thực hiện các nhiệm vụ khác do giám đốc giao. Phòng thanh toán quốc tế - Tham mưu, đề xuất cho giám đốc trong việc chỉ đạo các hoạt động nghiệp vụ Kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế và các dịch vụ khác có liên quan đến ngoại tệ. - Thực hiện các giao dịch thanh toán quốc tế theo các phương thức L/C, nhờ thu, chuyển tiền. - Kế toán ngoại tệ, thanh toán, chuyển tiền đi và đến điện tử. - Tư vấn cho khách hàng trong các lĩnh vực thanh toán quốc tế, ngoại thương, mua bán ngoại tệ và các nghiệp vụ khác có liên quan đến nhiệm vụ của phòng. - Thực hiện đầy đủ các công tác thống kê, báo cáo lên các cấp lãnh đạo Habubank, Ngân hàng Nhà nước có liên quan và các cấp có liên quan theo đúng các qui định hiện hành. - Theo dõi và làm thủ tục thanh toán L/C khi đến hạn, tham gia nhận hàng, giám định chất lượng cùng khách hàng trong trường hợp cần thiết và lập báo cáo tóm tắt trình Tổng giám đốc về tình hình giao nhận và lưu kho hàng hoá. Phòng kiểm tra, kiểm soát - Xây dựng chương trình kiểm tra, kiểm soát nội bộ chi nhánh. - Kiểm tra công tác điều hành của chi nhánh theo nghị quyết của hội đồng quản trị, chỉ đạo của Tổng giám đốc và giám đốc chi nhánh. - Giám sát việc chấp hành các qui định của Ngân hàng nhà nước về đảm bảo an toàn trong hoạt động tiền tệ, tín dụng và dịch vụ Ngân hàng. - Kiểm tra sự chính xác của các báo cáo tài chính, báo cáo cân đối kế toán việc tuân theo nguyên tắc chế độ về chính sách kế toán theo qui định của Nhà nước, ngành Ngân hàng. - Tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo gửi chi nhánh để thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo theo đúng qui định hiện hành. Kiểm tra, xác minh đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân, thuộc thẩm quyền giải quyết của chi nhánh theo đúng qui định phân cấp của pháp luật. Phòng tổ chức hành chính - Xây dựng và triển khai chương trình giao ban nội bộ giữa các phòng và các chi nhánh. - Lưu giữ các văn bản pháp luật có liên quan đến Ngân hàng và văn bản định chế của Ngân hàng Habubank. - Đầu mối giao tiếp với khách đến làm việc, công tác tại chi nhánh. - Trực tiếp quản lý đến con dấu của chi nhánh, thực hiện công tác hành chính, văn thư, bảo vệ. - Thực hiện các nhiệm vụ khác do Ban giám đốc giao. 2.2 TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA HABUBANK CHI NHÁNH HOÀNG QUỐC VIỆT 2.2.1 Tình hình huy động vốn của Chi nhánh Nguồn vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức hoạt động kinh doanh. Nhận thức được điều này, Habubank Chi nhánh Hoàng Quốc Việt đã tổ chức thực hiện tốt công tác huy động vốn, tích cực thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế xã hội của dân cư trên địa bàn thông qua việc đa dạng hóa các hình thức huy động, kết hợp với hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, hình thức tiếp thị, phát tờ rơi, quảng cáo, khuyến mại, tặng quà, đồng thời sử dụng một cơ chế lãi suất hấp dẫn, linh hoạt nên nguồn vốn qua các năm của ngân hàng luôn tăng trưởng khá. Bảng 2.1. Tình hình huy động vốn qua các năm phân theo loại tiền Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Tốc độ tăng trưởng qua các năm 2005/2004 2006/2005 2006/2004 Tổng nguồn 264.807 337.512 504.169 7,46% 49,38% 90,39% Nội tệ 244.446 304.074 455.667 24,39% 49,85% 86,41% Ngoại tệ 19.861 33.438 48.502 68,36% 45,05% 144,2% (Nguồn : Phòng kế toán) Qua bảng số liệu ta thấy nguồn vốn của Ngân hàng từ năm 2004 đến năm 2006 tăng trưởng mạnh. Năm 2005 tổng nguồn huy động đạt 337.512 triệu đồng, tăng 7,46% so với năm 2004, năm 2006 đạt 504.169 triệu đồng, tăng 49,38% so với năm 2005. Trong đó nguồn nội tệ và ngoại tệ cũng có tỉ lệ tăng trưởng cao tương ứng. Bảng 2.2. Cơ cấu vốn huy động vốn 2004 - 2006 Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) TG của TCKT 15.412 5,82 25.178 7,46 51.627 10,24 TG tiết kiệm 241.345 91,14 303.862 90,03 345.451 86,37 Nguồn khác 8.050 3,04 8.472 2,51 17.091 3,39 Tổng số 264.807 100 337.512 100 504.169 100 (Nguồn: Phòng kế toán) Qua bảng số liệu ta thấy, tình hình huy động vốn theo cơ cấu cũng tăng cao. Vốn huy động chủ yếu là từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư, trong đó tiền gửi từ các tổ chức kinh tế và nguồn khác vẫn chiếm một tỷ lệ nhỏ. Tuy nhiên tỷ lệ vốn huy động từ các tổ chức kinh tế và nguồn khác có xu hướng càng ngày càng tăng, trong đó tiền gửi của các tổ chức kinh tế năm 2004 chiếm tỷ trọng 5,82%, năm 2005 là 7,46% và năm 2006 là 10,24% so với tổng nguồn. Điều này tốt cho việc cân đối cơ cấu nguồn vốn huy động, thể hiện niềm tin của khách hàng đối với ngân hàng. 2.2.2 Tình hình sử dụng vốn của Chi nhánh Bảng 2.3. Tình hình sử dụng vốn Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Doanh số cho vay 243.623 309.498 476.439 Doanh số thu nợ 209.786 264.804 399.625 Dư nợ 214.563 264.914 337.379 Qua bảng số liệu ta thấy doanh số cho vay, doanh số thu nợ, dư nợ qua các năm đều tăng. Doanh số cho vay năm 2005 là 309.498,27 triệu đồng, tăng 27% so với năm 2004, năm 2006 là 476.439,14 triệu đồng, tăng 54% so với năm 2005. Doanh số thu nợ, dư nợ cũng tăng lên với tỉ lệ cao. Điều này chứng tỏ công tác cho vay, thu nợ của chi nhánh đạt được kết quả tốt. 2.2.3 Tình hình thanh toán quốc tế tại Habubank Chi nhánh Hoàng Quốc Việt thời gian qua Tại Habubank Chi nhánh Hoàng Quốc Việt nghiệp vụ thanh toán quốc tế mới đi vào hoạt động chưa lâu nhưng đã đóng góp một phần không nhỏ vào doanh số của ngân hàng, với việc kết hợp nhiều dịch vụ mới đem lại nhiều tiện ích cho khách hàng. Doanh thu (USD) luôn tăng trưởng khá qua các năm, trong đó chủ yếu là L/C nhập và L/C xuất. Bảng 2.4. Doanh số thanh toán quốc tế từ năm 2004 – 2006 Đơn vị: USD Loại dịch vụ Năm 2004 Năm 2005 Năm2006 Doanh thu (USD) Tỷ trọng (%) Doanh thu (USD) Tỷ trọng (%) Doanh thu (USD) Tỷ trọng (%) Chuyển tiền 3.897.961,24 24,34 7.588.245,44 37,03 8.505.539,66 37,83 L/C nhập 11.238.785,41 70,19 10.299.726,75 50,26 13.297.998 59,15 L/C xuất 100.000,00 0,62 102.027,00 0,50 120.517,00 0,54 Nhờ thu 306.330,00 1,91 340.039,23 1,66 381.510,15 1,70 Kiều hối 486.841,38 3,04 2.162.199,44 10,55 176.087,48 0,78 Tổng số 16.011.918,03 100 20.492.237,84 100 22.481.652,29 100 2.2.4.Các công tác khác - Công tác thanh toán, dịch vụ Với khối lượng, thành phần kinh tế thanh toán vốn ngày càng lớn hơn nên công tác vốn ngày càng phức tạp, tuy nhiên Habubank chi nhánh Hoàng Quốc Việt đã tổ chức tốt công tác thanh toán vốn đặc biệt là vào thời điểm cuối năm đối với các doanh nghiệp có nguồn vốn lớn không để chậm trễ kế hoạch sai sót, đảm bảo uy tín của Chi nhánh với khách hàng. Về triển khai dịch vụ và kết quả tài chính: Trong những năm qua, cùng với việc huy động vốn, mở rộng đầu tư vốn, đẩy mạnh công tác thu nợ, thu lãi đến hạn, thu nợ quá hạn, Chi nhánh đã mở rộng các loại hình dịch vụ tiện ích nh ăm tăng tỷ lệ thu dịch vụ trong tổng thu, những dịch vụ triển khai như: chuyển tiền, thu đổi ngoại tệ, chiết khấu giấy tờ có giá, bảo lãnh, bảo hiểm, đầu tư và hỗ trợ đầu tư chứng khoán. Kết quả chi nhánh đã thực hiện được tất cả các loại hình dịch vụ đáp ứng được nhu cầu và đảm bảo an toàn tài sản. - Công tác kiểm tra, kiểm soát Để thực hiện tốt mục tiêu an toàn trong kinh doanh và phát huy tốt vai trò kiểm soát theo tinh thần chỉ đạo của Habubank, công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ của Chi nhánh Habubank Hoàng Quốc Việt luôn được chú trọng và duy trì thường xuyên. Trên cơ sở nhiệm vụ kinh doanh, căn cứ vào chương trình kiểm tra của Habubank, Habubank Chi nhánh Hoàng Quốc Việt đã chủ động lập chương trình và thực hiện kiểm soát trên tất cả các mặt nghiệp vụ: tín dụng, kế toán, kho quỹ…từ đó đôn đốc việc thực hiện chế độ qui định của Ngân hàng. Trong thời gian qua, với hoạt động tín dụng ngày càng tăng trưởng và bền vững do chi nhánh đã tổ chức thực hiện tốt công tác kiểm tra, kiểm soát quy trình cho vay trước, trong và sau khi cho vay luôn đảm bảo đúng qui định của Ngân hàng nhà nước, Ngân hàng Habubank, tổ chức thực hiện nhiều đợt kiểm tra toàn diện các mặt hoạt động của chi nhánh nhằm ngăn ngừa và giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra. - Công tác quản lý, điều hành Nhận thức được những khó khăn và những thách thức trong năm 2007, ban lãnh đạo Habubank chi nhánh Hoàng Quốc Việt đã xác định phương châm hoạt động đúng đắn, đặt mục tiêu an toàn tiết kiệm và hiệu quả lên hàng đầu, tập trung chấn chỉnh các hoạt động Ngân hàng, rà soát lại quá trình nghiệp vụ và bộ máy tổ chức dân sự, công tác chỉ đạo điều hành, luôn theo sát các diễn biến của nguồn vốn, đầu tư vốn để từ đó có sự chỉ đạo kịp thời về lãi suất và đảm bảo khả năng chi trả. - Công tác đào tạo Đào tạo và đào tạo lại cán bộ là một nhiệm vụ quan trọng trong nhiệm vụ kinh doanh của Ngân hàng, nếu làm tốt được công tác đào tạo và đào tạo lại không những đem lại cho Ngân hàng được đội ngũ cán bộ từ cấp quản lý tới cán bộ tác nghiệp giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, mà còn góp phần đạt được những mục tiêu, chiến lược kinh doanh của Ngân hàng. Trong những năm qua Chi nhánh luôn quan tâm đến công tác đào tạo cán bộ đặc biệt chú trọng đào tạo về Thẩm định dự án, phân tích tài chính doanh nghiệp, đào tạo về tin học kế toán, thanh toán quốc tế, ngoại ngữ… Trong năm 2005 và 2006, Habubank Chi nhánh Hoàng Quốc Việt đã tổ chức đào tạo cho cán bộ Ngân hàng về chứng khoán, các nghiệp vụ về kỹ năng cần thiết nhằm nâng cao trình độ cho cán bộ nhân viên Ngân hàng, từ đó phục vụ Ngân hàng ngày một tốt hơn. 2.3 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH HABUBANK HOÀNG QUỐC VIỆT 2.3.1 Tình hình cho vay của Chi nhánh Bảng 2.5. Doanh số cho vay qua các năm 2004 - 2006 Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Số tiền % Số tiền % Số tiền % 1.TheoTP kinh tế - KTQD 338.640 13,9 43.949 14,2 59.555 12,5 - KTNQD 209.759 86,1 265.549 85,8 416.884 87,5 2. Theo kỳ hạn - Ngắn hạn 90.28 37,2 126.275 40,8 149.602 31,4 - Trung dài hạn 152.995 62,8 183.223 59,2 326.837 68,6 3. Theo tiền tệ - VNĐ 171.998 70,6 211.387 68,3 313.020 65,7 -Ngoại tệ qui đổi 71.625 29,4 98.111 31,7 163.419 34,3 Tổng số 234.623 309.498 476.439 (Nguồn: Phòng kinh doanh) Qua bảng trên ta thấy doanh số cho vay của Chi nhánh có xu hướng tăng lên theo các năm. Năm 2004, doanh số cho vay là 234.623 triệu đồng, năm 2005 là 309.498 triệu đồng và đến năm 2006 tăng lên 476.439 triệu đồng. Tuy vậy, tỷ trọng cho vay theo các thành phần kinh tế vẫn chưa cân xứng. Khối lượng cho vay đối với khối ngoài quốc doanh luôn lớn gấp nhiều lần so với khối quốc doanh. Qua 3 năm, doanh số cho vay khối ngoài quốc doanh luôn đạt trên 85%, còn doanh số cho vay thành phần kinh tế quốc doanh luôn dưới 15%. Năm 2004 tỷ lệ này là 81,6%, năm 2005 là 85,8% và năm 2006 là 87,5%. Mặt khác, tỷ trọng doanh số cho vay đối với khối quốc doanh lại có xu hướng giảm dần theo thời gian. Điều này phù hợp với thực tế vì các khoản vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường được các NHTMQD ưa chuộng hơn vì rủi ro thấp và các doanh nghiệp này khi có nhu cầu vay vốn thì thường đến các NHTMQD vay. Mặt khác các doanh nghiệp nhà nước đang có xu hướng giảm dần do chính sách cổ phần hoá, do chuyển sang Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Doanh số cho vay theo kỳ hạn thay đổi theo năm, tuy nhiên trong 3 năm qua thì doanh số cho vay trung và dài hạn luôn lớn hơn cho vay ngắn hạn. Trong các năm từ năm 2004 đến 2006 tín dụng trung dài hạn lần lượt là 62,8%; 59,2%; 68,6%. Mặc dù tỷ lệ này thay đổi theo thời gian nhưng vẫn thấy vai trò chủ đạo của tín dụng trung và dài hạn. Tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn cao đã làm cho ngân hàng tăng thêm lợi nhuận, nâng cao uy tín và sự cạnh tranh trên thị trường. Xét theo tiền tệ, cho vay bằng nội tệ và ngoại tệ đều có xu hướng tăng lên qua các năm, trong đó cho vay bằng ngoại tệ dần dần chiếm một tỷ trọng cao hơn trong hoạt động tín dụng. Năm 2004 - 2006 tỷ lệ cho vay nội tệ lần lượt là 70,6%; 68,3% và 65,7%, trong đó tỷ lệ cho vay ngoại tệ tương ứng là 29,4%; 31,7% và 34,3%. Tỷ lệ này là tương đối lớn mặc dù đây không phải là thế mạnh của Ngân hàng, hơn nữa Ngân hàng lại nằm sát với Chi nhánh ngân hàng Ngoại thương, một Ngân hàng rất có uy tín trong việc huy động và cho vay ngoại tệ. Điều này chứng tỏ Chi nhánh luôn có mối quan hệ không những với doanh nghiệp trong nước mà còn có nhiều quan hệ đối với doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng xuất khẩu. 2.3.2 Thực trạng dư nợ của chi nhánh Cơ cấu dư nợ theo khách hàng Bảng 2.6. Cơ cấu dư nợ theo khách hàng Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Cho vay doanh nghiệp 154.314 71,92 184._.g tin khách hàng cung cấp như báo cáo tài chính, báo cáo sản xuất kinh doanh. + Mua hoặc tìm kiếm các thông tin qua các trung gian như cơ quan quản lý, bạn hàng, chủ nợ của người vay, qua các trung tâm thông tin hoặc tư vấn. Mua hoặc tìm kiếm thông tin qua các trung gian giúp phân tích người vay qua các mối liên hệ của họ, thấy được uy tín, tình trạng rủi ro, phát triển hay suy thoái. Ngân hàng cần chú trọng tới những thông tin được cung cấp từ hệ thống thông tin tín dụng của NHNN Việt Nam (Center infomation credit - CIC). Hệ thống thông tin này được đánh giá là đáng tin cậy vì được Nhà nước quản lý. + Thông qua thông tin có được từ báo cáo người vay bao gồm: Báo cáo tài chính, bảng cân đối kế toán, báo cáo thu nhập, báo cáo bán hàng. Mặt khác, cũng yêu cầu hoặc mua thông tin về giám đốc, đội ngũ nhân sự, công nghệ... của khách hàng. Các báo cáo này nên lấy số liệu của nhiều năm để Ngân hàng có cơ sở dự đoán về tình hình khách hàng trong tương lai gần. - Phân tích thông tin tín dụng + Đối với các dự án, phương án vay vốn ngắn hạn thì cán bộ cần xem xét cẩn thận những vấn đề như: Sự đầy đủ và hợp pháp của hồ sơ vay vốn, mục đích sử dụng vốn hay thông tin sản phẩm của khách hàng hiện tại và tương lai. Ngân hàng cần xem xét các báo cáo tài chính của khách hàng như báo cáo kết quả kinh doanh, bảng cân đối kế toán, thuyết minh tài chính trong nhiều năm, để đánh giá các chỉ tiêu phản ánh năng lực tài chính của khách hàng như khả năng thanh toán ngắn hạn, hệ số tự tài trợ để cán bộ tín dụng có quyết định hợp lý. + Đối với các dự án phương án trung và dài hạn, đây thông thường là những dự án có vốn đầu tư lớn, thời hạn dài nên cán bộ tín dụng phải xem xét các vấn đề sau: Thẩm định tính hợp pháp, tính kỹ thuật của dự án bao gồm sự cần thiết của dự án, qui mô, công nghệ và trang thiết bị. Bên cạnh đó, cần xem xét nguồn nguyên liệu và các yếu tố đặt vào phương án, địa điểm xây dựng, phương án kiến trúc... Thẩm định kinh tế dự án nhằm rà soát lại mục tiêu dự án: Tác động của dự án tới môi trường và tới nhóm đối tượng khác trong xã hội, tính hợp lý và tối ưu của dự án. Cần thẩm định giá kinh tế của hàng hoá và dịch vụ mà dự án đem lại thông qua điều chỉnh giá thị trường, tức là giá phản ánh được giá trị thực của hàng hoá và dịch vụ. Thẩm định tài chính dự án Là một trong những nội dung quan trọng trong thẩm định dự án, thẩm định tài chính dự án gồm có: Xác định tổng dự toán vốn đầu tư và các nguồn tài trợ hay phương thức tài trợ dự án như xác định tổng vốn đầu tư vào tài sản cố định, vốn đầu tư vào tài sản lưu động, từ đó tính toán mức cho vay, kỳ hạn trả nợ. Đánh giá hiệu quả tài chính dự án thông qua các chỉ tiêu như giá trị hiện tại ròng (NPV), tỷ lệ nội hoàn (IRR), tỷ lệ nội hoàn có điều chỉnh, chỉ số doanh lợi (PI), thời gian hoàn vốn (PP). Đánh giá rủi ro trong dự án, khả năng xảy ra biến cố không chắc chắn trong các giai đoạn của dự án, rủi ro tiềm ẩn trong mọi giai đoạn của dự án. Vì vậy, cán bộ tín dụng phải thẩm định đúng rủi ro tạo điều kiện thực hiện dự án. 3.3.4 Tăng cường hoạt động kiểm tra, kiểm soát Công tác kiểm tra, kiểm soát đảm bảo an toàn trong kinh doanh tín dụng cần tiến hành thường xuyên, đồng bộ, thống nhất tạo điều kiện kinh doanh hiệu quả hơn. Cán bộ tín dụng phải chủ động giám sát quá trình sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn vay của khách hàng, triển khai những biện pháp thích hợp khi phát hiện dấu hiệu không bình thường trong hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính của khách hàng. Ngân hàng cần nâng cao công tác kiểm toán nội bộ với chức năng là kiểm tra, xác nhận và đánh giá các hoạt động kinh doanh và hoạt động tài chính nhằm nâng cao tính hiệu quả hoạt động tín dụng. Bên cạnh việc áp dụng phương pháp kiểm toán riêng lẻ, thì nên áp dụng phương pháp kiểm toán hệ thống vì nó có ưu điểm hơn phương pháp kiểm toán riêng lẻ là phát hiện rủi ro tiềm ẩn giữa các bộ phận trong một qui trình. Sau khi phát hiện ra các sai sót kịp thời chấn chỉnh, khắc phục và xử lý những sai phạm trong quá trình kiểm tra, không để sai sót lặp lại nhiều lần. Ngân hàng cần xây dựng phần mềm ứng dụng hỗ trợ cho công tác kiểm toán nội bộ và tập huấn kiểm tra, kiểm soát cho cán bộ tín dụng. 3.2.5 Quản trị rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có qui mô lớn nhất của NHTM là hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, không một nhà kinh doanh ngân hàng tài ba nào có thể dự đoán được chính xác các vấn đề xảy ra. Do đó, để nâng cao chất lượng tín dụng, quản lý rủi ro tín dụng là một vấn đề hết sức quan trọng, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất tổn thất có thể xảy ra. Ngân hàng có thể sử dụng các biện pháp sau trong việc quản trị rủi ro tín dụng: - Nhằm hạn chế sự phát sinh của các khoản tín dụng có vấn đề, nợ quá hạn, nợ khó đòi, Ngân hàng cần thực hiện các qui định về an toàn tín dụng được ghi trong Luật các tổ chức tín dụng và trong các Nghị định của Ngân hàng Nhà nước như tỷ lệ an toàn tối thiểu 8% vốn tự có so với tổng tài sản có rủi ro, dư nợ cho vay đối với một khách hàng không quá 15% vốn tự có hay các tỷ lệ về khả năng chi trả, tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngân hàng được sử dụng để cho vay trung và dài hạn... - Ngân hàng xác định danh mục các khoản tài trợ với mức rủi ro khác nhau như tín dụng thương mại, cho vay đối với người tiêu dùng, cho vay đối với các trung gian tài chính khác như NHTM, tổ chức tài chính phi ngân hàng, cho vay đối với Nhà nước. - Xác định kịp thời dấu hiệu các khoản cho vay có vấn đề, xử lý nợ quá hạn, nợ có vấn đề. + Thành lập các công ty (hoặc phòng ban) quản lý nợ xấu, xây dựng chính sách xử lý nợ xấu thích hợp. Phân công và qui trách nhiệm đòi nợ, liên kết các bên Ngân hàng - Khách hàng - Chính quyền địa phương trong việc xử lý nợ. + Ngân hàng cần phân loại nợ quá hạn như theo qui định: Nợ đủ tiêu chuẩn, nợ cần chú ý, nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ, nợ có khả năng mất vốn để phân tích nguyên nhân thực trạng cho vay, khả năng giải quyết. Trong trường hợp người vay không có khả năng tài chính tạm thời song vẫn có khả năng và ý chí trả nợ, Ngân hàng áp dụng chính sách hỗ trợ cho vay thêm, gia hạn nợ, giảm lãi. Trong trường hợp người vay lừa đảo, chây ỳ, không có khả năng trả, Ngân hàng áp dụng chính sách thanh lý như bán tài sản thế chấp, phong toả tiền gửi trên tài khoản... Trong trường hợp do cán bộ Ngân hàng gây ra, thì chính họ phải chịu trách nhiệm đòi nợ, bồi thường. - Lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng bao gồm dự phòng chung và dự phòng cụ thể để loại trừ nợ xấu không thể thu hồi ra khỏi nội bảng. 3.2.6 Đẩy mạnh công tác huy động vốn Để có một chất lượng tín dụng tốt, trước hết cần phải huy động một lượng vốn rẻ, dồi dào. Bên cạnh nguồn vốn tự có, Ngân hàng phải tiến hành huy động vốn từ bên ngoài bằng việc đa dạng hoá hình thức huy động như huy động từ các tổ chức và cá nhân khác bằng hình thức gửi tiết kiệm, phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá khác, huy động từ việc đi vay các tổ chức tín dụng khác trong nước cũng như nước ngoài, huy động từ việc chiết khấu, cầm cố các giấy tờ có giá trên thị trường tiền tệ và thị trường tài chính, tái chiết khấu các giấy tờ có giá ngắn hạn, đi vay tái cấp vốn tại NHNN. Trên địa bàn nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư rất lớn và mục đích của người gửi tiền là kiếm lời thông qua lãi suất tiết kiệm. Do đó ngoài việc đa dạng hoá hình thức huy động thì cần phải áp dụng mức lãi suất hấp dẫn kèm theo tiết kiệm dự thưởng, khuyến mại, tăng cường tuyên truyền… để thu hút nguồn vốn. Hiện nay, Chi nhánh chủ yếu huy động ngắn hạn nhưng lại chủ yếu cho vay trung và dài hạn. Mặc dù NHNN cho phép sử dụng 40% vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn, tuy nhiên để giảm rủi ro cũng như đáp ứng được nhu cầu vốn dài hạn thì Chi nhánh cần tìm kiếm thêm nguồn trung và dài hạn. Đặc biệt Ngân hàng cần nhanh chóng áp dụng hệ thống Ngân hàng một cửa, tiết kiệm được thời gian và thuận tiện đối với khách hàng. Có được nguồn vốn ổn định và đa dạng sẽ tạo ra một cơ cấu cho vay phù hợp và hiệu quả. 3.2.7 Đa dạng hóa các hình thức tín dụng Các hình thức tín dụng của Chi nhánh tương đối phong phú, tuy nhiên Ngân hàng cũng cần tiếp tục tăng cường đa dạng hoá, mở rộng hơn nữa nhiều loại hình tín dụng hợp lý, tăng sự lựa chọn cho khách hàng. Trong các hình thức cho vay cần đa dạng các hình thức như cho vay thấu chi, cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển. Hiện nay, Chi nhánh đang thực hiện hình thức tín dụng bảo lãnh, đây là hình thức tài trợ thông qua uy tín. Bảo lãnh tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro, giảm bớt thiệt hại tài chính cho bên thứ ba khi tổn thất xảy ra. Trong các năm qua, Chi nhánh đã thực hiện bảo lãnh cho nhiều khách hàng do đó cần phát huy hơn nữa trong tương lai vì đây được xem là hình thức cho vay rất thiết thực cho các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay. Ngân hàng cũng cần tập trung nghiên cứu phát triển các hình thức tín dụng dựa trên cơ sở chiết khấu thương phiếu. Đây là phương thức cho vay không mới, song trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, quan hệ kinh tế, thương mại, trao đổi và mua bán giữa khách hàng phát triển. Việc phát triển hoạt động tín dụng dựa trên cơ sở chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ truyền thống dựa trên cơ sở vững chắc được đảm bảo bởi hoạt động kinh tế, thương mại đi kèm với mở rộng khoản tín dụng được cấp dưới hình thức hối phiếu là điều kiện quan trọng để hoạt động tín dụng tăng trưởng và mở rộng, hiệu quả và bền vững. Ngoài ra, Ngân hàng cũng cần mở rộng dịch vụ bao thanh toán. Đây là dịch vụ tín dụng được thực hiện dựa trên các khoản phải thu trong quan hệ mua bán hàng hoá của khách hàng. Về bản chất giống như chiết khấu thương phiếu. Tuy nhiên thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán nêu rõ việc chuyển nhượng khoản phải thu cho Ngân hàng và có sự cam kết thanh toán từ phía người mua đối với ngân hàng thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán. Đây là sản phẩm tín dụng mà Ngân hàng cần quan tâm mở rộng, bởi tính hiệu quả và khả năng cạnh tranh của dịch vụ này đối với các ngân hàng hiện nay. 3.2.8 Nâng cao chất lượng, trình độ cán bộ Yếu tố con người luôn là một yếu tố rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Trong thời gian tới, Ngân hàng cần tăng cường công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngân hàng cũng như cán bộ tín dụng. Để cải thiện chất lượng nguồn nhân lực, Chi nhánh cần tập trung vào các vấn đề sau: - Đối với chính sách tuyển dụng Để tuyển chọn được những cán bộ thực sự có năng lực vào vị trí làm việc thì Chi nhánh cần đưa ra những tiêu chí nhất định để nhận cán bộ như trình độ đại học đúng chuyên ngành, kiến thức xã hội, tiếng Anh, vi tính cũng như phẩm chất đạo đức tốt... Sau khi đáp ứng được yêu cầu cán bộ trên thì Chi nhánh cũng trực tiếp kiểm tra trình độ thực tế nếu đạt yêu cầu thì mới tuyển dụng. - Đối với chính sách đào tạo và đào tạo lại nhằm mục đích nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng + Tổ chức đào tạo nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ đương nhiệm, tổ chức các cuộc hội thảo về kỹ năng lắng nghe và phỏng vấn khách hàng để cán bộ tín dụng có được những công cụ quý báu nhằm tăng cường khả năng đánh giá, thẩm định sâu sát với món vay. + Nâng cao hiểu biết của cán bộ tín dụng về kiến thức pháp luật như Luật dân sự, Luật đất đai, Luật doanh nghiệp, Luật phá sản... và đặc biệt là Luật Ngân hàng để góp phần tăng hiệu quả xử lý công việc. + Một số cán bộ phải đào tạo lại thì ngoài việc bổ sung những qui trình nghiệp vụ mới về tín dụng, Ngân hàng cần chú ý đến kiến thức về các ngành kinh tế khác. + Đối với đội ngũ cán bộ làm lãnh đạo từ phó phòng trở lên cần phải đầu tư và có chính sách đào tạo riêng, trong thời gian tới cần mời hoặc tham dự các buổi học do các chuyên gia hàng đầu về Ngân hàng - Tài chính trong và ngoài nước có kinh nghiệm giảng dạy. + Định kỳ tổ chức các cuộc họp hội thảo trong nội bộ Chi nhánh nhằm tổng kết thành tích, kết quả đạt được cũng như những sai sót, khuyết điểm của cán bộ tín dụng, từ đó có những định hướng tốt hơn trong tương lai. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng tuyển dụng, đào tạo và đào tạo lại thì Chi nhánh cần có chính sách đãi ngộ hợp lý thông qua hình thức khen thưởng, thăng chức... nếu thực hiện chính sách này đúng thì sẽ thu hút và duy trì được đội ngũ cán bộ nhân viên giỏi và tạo động lực làm việc cho họ, nâng cao hiệu quả trong kinh doanh. 3.2.9 Xây dựng và hoàn thiện chính sách Marketing hỗn hợp Marketing đã trở nên thiết yếu đối với mọi loại hình Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. Marketing đã tham gia vào việc giải quyết những vấn đề kinh tế cơ bản trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, trở thành cầu nối gắn kết hoạt động của ngân hàng với thị trường, góp phần tạo vị thế cạnh tranh. - Chiến lược sản phẩm Do tính vô hình của sản phẩm dịch vụ nên trong kinh doanh ngân hàng phải dựa trên cơ sở lòng tin. Vì vậy một trong những hoạt động quan trọng của chính sách sản phẩm là tạo và củng cố niềm tin đối với khách hàng bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ cung ứng, tăng tính hữu hình của sản phẩm. Nội dung cơ bản của chính sách sản phẩm là phải phát triển và quản lý có hiệu quả danh mục sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Ngân hàng phải dựa vào tiềm năng của mình, nhu cầu của khách hàng và chu kỳ sống của sản phẩm dịch vụ để quyết định giữ hay loại bỏ một sản phẩm dịch vụ nào đó ra khỏi danh mục, chỉ giữ lại những sản phẩm dịch vụ phù hợp với nhu cầu khách hàng, có khả năng phát triển và đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Việc kết hợp tốt giữa sản phẩm dịch vụ cũ và dịch vụ mới, giữa sản phẩm dịch vụ truyền thống và hiện đại sẽ đảm bảo cho sự phát triển bền vững của các ngân hàng trong dài hạn. Ngân hàng cần thường xuyên bổ sung các thuộc tính mới. Việc hoàn thiện dịch vụ sản phẩm có tác động lớn trong cả duy trì khách hàng cũ và thu hút khách hàng mới. Phát triển sản phẩm mới cũng là một nội dung quan trọng nhất của chiến lược sản phẩm ngân hàng, bởi sản phẩm mới sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng - yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Việc phát triển sản phẩm dịch vụ mới trước tiên xuất phát từ nhu cầu của khách hàng, sức ép của các đối thủ cạnh tranh, từ yêu cầu mở rộng danh mục sản phẩm kinh doanh của ngân hàng để tăng lợi nhuận. Phát triển dịch vụ mới cho phép Ngân hàng đa dạng hóa danh mục sản phẩm, mở rộng lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng trên thị trường. - Chiến lược giá Giá của sản phẩm dịch vụ của ngân hàng có tính đa dạng và phức tạp. Do đó, Ngân hàng cần có nhiều cách định giá khác nhau cho những sản phẩm khác nhau. Việc xây dựng và điều hành chính sách giá của ngân hàng linh hoạt phù hợp với tính chất đặc điểm hoạt động kinh doanh ngân hàng cũng như đối với sản phẩm dịch vụ có mức độ rủi ro khác nhau về việc định giá cũng khác nhau. Việc định giá sản phẩm dịch vụ cần chú ý đến sự chi phối bởi nhiều yếu tố sau: + Chi phí các nguồn lực mà ngân hàng phải bỏ ra bao gồm chi phí cố định và chi phí biến đổi để duy trì sự hoạt động và cung cấp sản phẩm dịch vụ. + Rủi ro thực chất là khoản chi phí tiềm ẩn, khi rủi ro phát sinh, nó sẽ trở thành các khoản chi phí thực mà ngân hàng phải bù đắp trong quá trình hoạt động. Do đó, đối với sản phẩm dịch vụ rủi ro cao hơn, Ngân hàng phải định giá cao hơn và ngược lại. + Đặc điểm cầu của khách hàng: Các nhóm khách hàng khác nhau đặc điểm đường cầu khác nhau và có sự phản ứng khác nhau với sự thay đổi của giá. Do đó, để tối ưu hoá lợi nhuận, Ngân hàng phải định giá căn cứ vào sự phản ứng của khách hàng với giá. + Giá của đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Ngoài ra, Chi nhánh cũng cần có một chính sách lãi suất nới rộng và lãi suất ưu đãi một cách linh hoạt dựa trên một nguyên tắc nhất quán là lãi suất cho vay không thấp hơn lãi suất của các NHTM khác cùng địa bàn hoạt động. Việc chủ động dùng lãi suất để cạnh tranh chỉ là biện pháp nhất thời trong một thời điểm nào đó và phải tính toán cẩn thận để không rơi vào tình trạng bất ổn. - Mở rộng và phát triển kênh phân phối Xây dựng chiến lược sản phẩm dịch vụ tốt, chiến lược giá hợp lý vẫn chưa đủ đảm bảo cho sự thành công trong kinh doanh, do đó đòi hỏi Marketing phải hoạch định chiến lược phân phối phù hợp. Kênh phân phối là một công cụ trực tiếp đưa sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng đến với khách hàng. Chiến lược phân phối là một trong những biện pháp quan trọng giúp Ngân hàng thực hiện các chỉ tiêu về doanh số hoạt động như doanh số cho vay, doanh số thu nợ, chỉ tiêu dư nợ, doanh thu, lợi nhuận đồng thời nâng cao cạnh tranh và hạ thấp chi phí. Vấn đề đặt ra là Ngân hàng nên lựa chọn một hỗn hợp gồm nhiều kênh phân phối hay chỉ chọn một loại kênh phân phối duy nhất. Chìa khoá dẫn đến sự thành công trong việc phát huy hiệu quả của hỗn hợp các kênh phân phối chính là sự cân đối giữa chi phí và thu nhập, tiềm năng để tối đa hoá lợi nhuận. Hiện nay Chi nhánh chỉ phát triển loại hình phân phối truyền thống đó là chi nhánh. Do đó Ngân hàng cần phải kết hợp hài hoà giữa phân phối truyền thống và phân phối hiện đại như: Máy rút tiền tự động (ATM), Máy xếp hàng điện tử, chuyển tiền điện tử tại nơi giao dịch (EFTPOS), ngân hàng phục vụ tại nhà (Home banking), ngân hàng điện thoại (Phone banking), ngân hàng qua mạng (Internet banking). Kênh phân phối hiện đại không chỉ khắc phục được những khó khăn về mặt thời gian và không gian giao dịch giữa khách hàng và ngân hàng mà còn giúp ngân hàng tiết kiệm được chi phí, làm tăng thu nhập cho Ngân hàng. Việc lựa chọn các loại kênh phân phối phụ thuộc vào nhiều yếu tố, do đó ngân hàng phải lựa chọn hệ thống cung ứng thích hợp nhất trên cơ sở phân tích mục tiêu ngân hàng, khả năng cung ứng dịch vụ, mức độ cạnh tranh và đặc điểm của khách hàng. - Chiến lược xúc tiến hỗn hợp Hoạt động xúc tiến hỗn hợp là công cụ truyền tin về ngân hàng. Nó góp phần duy trì khách hàng hiện tại, thu hút khách hàng tương lai, tăng uy tín hình ảnh ngân hàng trên thị trường. Ngân hàng cần tiến hành đa dạng hóa các hình thức xúc tiến hỗn hợp như sau: + Quảng cáo Quảng cáo là phương thức truyền thông không trực tiếp nhằm giới thiệu sản phẩm ngân hàng hoặc về ngân hàng thông qua các phương tiện truyền tin và ngân hàng phải trả chi phí. Do vậy, nội dung quảng cáo phù hợp, hấp dẫn sẽ tăng doanh số cả trong ngắn hạn và dài hạn. Để giảm tính vô hình của sản phẩm, Ngân hàng cần tập trung kết hợp hài hoà các chất liệu trong xây dựng thông điệp quảng cáo như hình ảnh, âm thanh, màu sắc, ngôn từ, thông tin chính xác, đặc biệt phải tạo ra được hình ảnh biểu tượng cụ thể và sự khác biệt của nó trong thông điệp quảng cáo. Việc lựa chọn phương tiện quảng cáo qua các phương tiện như báo, tạp chí, ti vi, truyền thanh, panô, áp phích, Internet… chứ không chỉ dừng lại ở một vài phương tiện, làm cho nhiều khách hàng không biết đến Ngân hàng cũng như dịch vụ của Ngân hàng. + Tuyên truyền hoạt động của Ngân hàng trong xã hội Ngân hàng cần phối hợp nhiều công cụ trong tuyên truyền để xây dựng và nâng cao hình ảnh Ngân hàng như: Báo cáo kết quả thường niên Ngân hàng dịch ra nhiều thứ tiếng, các bài diễn thuyết của lãnh đạo Ngân hàng, tham gia hoạt động từ thiện, bài viết đăng trên các tạp chí… Việc tuyên truyền về hình ảnh Ngân hàng cần phải tìm cách truyền tải một cách phù hợp không chỉ trong xã hội mà còn trong toàn bộ cán bộ nhân viên Ngân hàng và hoạt động của Ngân hàng. + Khuyến mại Khuyến mại thúc đẩy việc cung ứng, phân phối, sử dụng dịch vụ và lựa chọn ngân hàng của khách hàng. Ngân hàng cần tiến hành hoạt động khuyến mại song song với chiến dịch quảng cáo để phát huy hiệu quả tổng hợp của chúng. Ngân hàng có thể áp dụng việc khuyến mại như ưu đãi trong tín dụng sinh viên, quà tặng, giảm giá hoặc miễn phí cho những khách hàng lần đầu sử dụng hoặc những khách hàng có quan hệ lâu dài. Mặt khác, cũng nên tổ chức hội chợ, triển lãm, tổ chức các cuộc thi giúp mở rộng thị phần, tăng doanh số. Ngoài các hình thức trên, Ngân hàng cần tham gia các hoạt động tài trợ nhằm thu hút sự chú ý của các phương tiện thông tin đại chúng, tăng mối quan hệ trong cộng đồng xã hội, thu hút nhiều nhân tài cho Ngân hàng. Bên cạnh đó cũng cần thực hiện các hình thức Marketing trực tiếp như gửi thư, tờ rơi đến từng khách hàng, điện thoại, hội nghị khách hàng nhằm thiết lập và mở rộng việc đối thoại trực tiếp giữa Ngân hàng và khách hàng. 3.3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 3.3.1 Kiến nghị với Chính phủ và Ban ngành có liên quan - Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, phân biệt chức năng của NHNN và NHTMNN, đảm bảo quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm với cải cách doanh nghiệp Nhà nước. Sắp xếp các NHTMCP, xử lý ngân hàng kém, thúc đẩy hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các NHTM đặc biệt là giữa các NHTMQD với NHTMCP. - Ban hành, thực hiện và đồng bộ hóa các bộ luật, văn bản luật có liên quan tạo môi trường kinh tế, pháp lý vững chắc cho hoạt động của các doanh nghiệp cũng như ngân hàng. Ngoài Luật các TCTD, Nhà nước cần sửa đổi các Luật như: Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài, Luật phá sản...Nhà nước cần ban hành Luật chống canh tranh không lành mạnh. Đây là hoạt động nhằm bảo hộ cho các NHTM cạnh tranh lành mạnh và bảo vệ lợi ích hợp pháp cho khách hàng. Bên cạnh đó, Nhà nước cần phải có văn bản hướng dẫn về tiêu chuẩn hoá sản phẩm, dịch vụ do TCTD cấp. - Sắp xếp lại các doanh nghiệp, chỉ để tồn tại những doanh nghiệp thực sự làm ăn có hiệu quả đồng thời cần tập trung vào đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước. Đây là biện pháp nhằm phát huy mọi nguồn lực các thành phần kinh tế. - Phát triển thị trường chứng khoán, tạo kênh huy động vốn dài hạn cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho ngân hàng tham gia kinh doanh, tìm kiếm thông tin và hàng hóa trên thị trường chứng khoán. Qui định chế độ công khai thông tin một cách toàn diện, tuyên truyền phổ biến kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán đối với các chủ thể tham gia thị trường. 3.3.2 Kiến nghị với NHNN - NHNN cần thực hiện hệ thống thông tin để có thể hỗ trợ cho các NHTM trong việc thu thập và tìm kiếm thông tin, cụ thể là chấn chỉnh để làm tăng tính hiệu quả của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC). Hiện nay, các số liệu cập nhật không kịp thời, độ tin cậy thấp đã khiến cho các NHTM và các tổ chức tín dụng khác ít sử dụng tài liệu do CIC cung cấp. Do đó, NHNN cần chú trọng tới việc nâng cao tính hiệu quả của trung tâm, từ khâu cập nhật dữ liệu đến việc cung cấp số liệu luôn chính xác kịp thời để tăng khả năng thẩm định, giảm bớt rủi ro trong hoạt động tín dụng, đảm bảo tăng cường lượng thông tin hai chiều giữa Trung tâm và NHTM. - NHNN cần hoàn thiện các văn bản pháp lý của hoạt động tín dụng, tránh sự chồng chéo, thiếu đồng bộ như các qui định về đảo nợ, lãi suất nợ quá hạn, cho vay hợp vốn, các qui định về đảm bảo tiền vay… Mặt khác hệ thống pháp luật kinh tế như Luật thương mại, Luật doanh nghiệp, Luật cạnh tranh,… - Cần thực hiện các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ thận trọng nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo dõi chặt chẽ diễn biến tiền tệ trên thị trường, phát triển hệ thống tiền tệ liên ngân hàng, thị trường ngoại hối liên ngân hàng đồng thời cũng có những chấn chỉnh cần thiết trong điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng, không để những biến động lớn về lãi suất, tỷ giá ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của ngân hàng. - Tăng cường công tác thanh tra hoạt động tín dụng của các NHTM, thường xuyên bám sát hoạt động của các TCTD để sớm phát hiện và ngăn chặn kịp thời những sai phạm, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Đảm bảo thực hiện kiểm soát hoạt động NHTM tại chỗ, từ xa, hạn chế mức thấp nhất rủi ro có thể xảy ra. Bên cạnh đó, đào tạo và tăng cường đội ngũ thanh tra một cách sâu sắc và toàn diện hơn nữa. Nâng cao năng lực điều hành chỉ đạo thống nhất hệ thống thanh tra ngân hàng và chịu trách nhiệm về việc theo dõi tổng hợp, phân tích đánh giá tình hình chất lượng tín dụng, kết quả của việc xử lý nợ xấu, nợ tồn đọng của toàn hệ thống các TCTD để kịp thời đề xuất với thống đốc NHNN biện pháp xử lý, cảnh cáo. - Đẩy nhanh tiến độ hiện đại hoá ngân hàng trên cơ sở tiếp tục đổi mới công nghệ ngân hàng tạo tiền đề cho các NHTM phát triển hoạt động kinh doanh của mình nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM trong điều kiện hội nhập ngân hàng quốc tế. - Xây dựng hệ thống giám sát rủi ro trong hoạt động ngân hàng có khả năng cảnh báo sớm đối với các tổ chức tín dụng, ban hành qui định mới về đánh giá, xếp hạng các TCTD, theo CAMELS. Thiết lập hệ thống các qui định, qui trình và sổ tay thanh tra trên cơ sở rủi ro, đồng thời xúc tiến xem xét áp dụng phương pháp thanh tra, giám sát theo 25 nguyên tắc cơ bản của Uỷ ban Basel. 3.3.3 Kiến nghị với Ngân hàng Habubank - Tăng cường cải cách từ khâu thẩm định đến khâu xét duyệt và giải ngân cho vay. Cần cải tiến qui trình cho vay hợp lý hơn từ khâu thẩm định đến khâu xét duyệt và giải ngân vốn vay, đơn giản hoá thủ tục vốn vay, vừa đảm bảo chặt chẽ, nhanh chóng nhưng vẫn theo qui định cuả Nhà nước đồng thời cần trao quyền chủ động hơn nữa cho các chi nhánh trong việc mở rộng tín dụng. - Thường xuyên có các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho Ngân hàng, tổ chức và tạo điều kiện để họ tham gia vào các khoá học nâng cao trình độ. Ngoài ra cần tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề tín dụng để các cán bộ tín dụng có thể trao đổi kinh nghiệm và tiếp thu những kiến thức mới đồng thời nên tổ chức các cuộc thi cán bộ tín dụng giỏi để tìm ra những cán bộ có trình độ chuyên môn vững chắc. Ngân hàng cũng cần tổ chức thi đua khen thưởng nhằm khuyến khích, tạo điều kiện cho các chi nhánh hoạt động đúng hành lang pháp lý và đảm bảo hiệu quả cao. - Cần tăng cường vai trò kiểm tra, kiểm toán nội bộ đối với từng chi nhánh trực thuộc nhằm chấn chỉnh các hoạt động của chi nhánh và phải tiến hành thường xuyên, toàn diện để phát hiện rủi ro tiềm ẩn trước, trong và sau khi cho vay. Ngoài ra, cũng cần chỉ đạo các chi nhánh có sự phối hợp với nhau, tránh sự cạnh tranh nội bộ không lành mạnh. - Nhanh chóng triển khai công tác hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, tiếp cận với những công nghệ hiện đại nhất ở trong nước cũng như quốc tế nhằm đa dạng hoá hình thức tín dụng, nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh. - Phối hợp chặt chẽ với NHNN để tổ chức có hiệu quả chương trình thông tin tín dụng, nâng cao chất lượng và mở rộng phạm vi thông tin, giúp Ngân hàng phòng ngừa rủi ro một cách tốt nhất. KẾT LUẬN Chất lượng tín dụng đang là một vấn đề cấp thiết, được quan tâm hàng đầu tại các NHTM nói chung và tại Chi nhánh Habubank Hoàng Quốc Việt nói riêng. Việc nghiên cứu và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo an toàn, hiệu quả trong hoạt động tín dụng là một yêu cầu cần thiết đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay với diễn biến phức tạp và sự cạnh tranh quyết liệt giữa các Ngân hàng, đặc biệt là khi Việt Nam đã gia nhập WTO thì sức ép cạnh tranh lại càng gay gắt hơn do sự xuất hiện nhiều hơn của các Ngân hàng nước ngoài và các Ngân hàng cổ phần có năng lực và công nghệ tiên tiến hơn. Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận và thực tế, chuyên đề đã đưa ra những đánh giá cơ bản về thực trạng tín dụng tại Chi nhánh trong thời gian qua đồng thời nêu lên một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát huy thế mạnh của Chi nhánh và từng bước khắc phục những hạn chế, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Trong quá trình nghiên cứu, không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em mong được sự bổ sung, góp ý của các thầy cô và những ai quan tâm đến đề tài này. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS. TS Vũ Duy Hào, các anh chị trong phòng ban Chi nhánh đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại - PGS.TS Nguyễn Văn Tề - NXB Thống kê, 2003. Ngân hàng thương mại - Chủ biên TS. Phạm Thị Thu Hà - NXB Thống kê, 2004. Quản trị Ngân hàng thương mại - GS.TS Lê Văn Tư - NXB Tài chính, 2005. Marketing Ngân hàng - Học viện Ngân hàng - NXB Thống kê, 2004. Thẩm định Tài chính dự án - PGS.TS Lưu Thị Hương - NXB Tài chính, 2004. Tài chính doanh nghiệp - PGS.TS Lưu Thị Hương - NXB Thống kê, 2005. Luật các tổ chức tín dụng số 20/2004/QH 11 ngày 15/06/2004. Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2004, 2005, 2006. Tạp chí Ngân hàng năm 2004, 2005, 2006. Tạp chí Tài chính năm 2004, 2005, 2006. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT NQH : Nợ quá hạn NHTM : Ngân hàng thương mại NH : Ngân hàng NHNN : Ngân hàng Nhà nước NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần NHTMQD : Ngân hàng thương mại quốc doanh TCTD : Tổ chức tín dụng TPKT : Thành phần kinh tế TG : Tiền gửi TCKT : Tổ chức kinh tế KTNQD : Kinh tế ngoài quốc doanh KTQD : Kinh tế quốc doanh Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ----------***---------- NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP ĐỀ TÀI: “NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH HABUBANK HOÀNG QUỐC VIỆT” Họ và tên: Nguyễn Thị Thu Hiền Lớp : Tài chính doanh nghiệp 45C Khoa : Ngân hàng - Tài chính MSSV : CQ 451081 Ý kiến nhận xét ……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… Hà nội, ngày…….tháng……năm 2007 DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Tình hình huy động vốn qua các năm phân theo loại tiền 32 Bảng 2.2. Cơ cấu vốn huy động vốn 2004 - 2006 33 Bảng 2.3. Tình hình sử dụng vốn 34 Bảng 2.4. Doanh số thanh toán quốc tế từ năm 2004 – 2006 35 Bảng 2.5. Doanh số cho vay qua các năm 2004 - 2006 37 Bảng 2.6. Cơ cấu dư nợ theo khách hàng 39 Biểu 2.1. Cơ cấu dư nợ theo thời hạn 40 Bảng 2.7. Tình hình thu nợ của chi nhánh 41 Bảng 2.8. Hiệu suất sử dụng vốn tín dụng của Chi nhánh 42 Bảng 2.9. Vòng quay vốn tín dụng 43 Bảng 2.10. Sự phù hợp giữa nguồn vốn huy động và cơ cấu cho vay 44 Bảng 2.11. Thu nhập từ hoạt động tín dụng 45 Bảng 2.12. Nợ quá hạn phân theo thời gian nợ, thời hạn nợ và tài sản đảm bảo 46 MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0285.doc
Tài liệu liên quan