Nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Thái Bình

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của riêng tôi. Tôi đã xây dựng chuyên đề này trên cơ sở những số liệu trung thực có nguồn gốc rõ ràng, được lấy từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thái Bình./. DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ Sơ đồ 2.1 Cơ cấu tổ chức Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thái Bình Bảng 01 Tình hình cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ Bảng 02 Tỷ lệ nợ xấu và nợ quá hạn Bảng 03 Cơ cấu dư nợ tín dụng theo quy mô doanh nghiệp Bảng 04 Số lượng DNV&N có quan hệ

doc69 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1279 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vay vốn Biểu đồ 01 Tỷ trọng về số lượng DNV&N với tổng số DN có quan hệ vay vốn Biểu đồ 02 Tốc độ tăng trưởng số lượng DNV&N DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT NH Ngân hàng NHTM Ngân hàng Thương mại BIDV Ngân hàng Đầu tư và Phát triển CN Chi Nhánh TW Trung ương DNV&N Doanh nghiệp vừa và nhỏ DN Doanh nghiệp DA Dự án LỜI NÓI ĐẦU Tín dụng là chức năng quan trọng nhất của các tổ chức trung gian tài chính là dịch vụ sinh lời chủ yếu, đồng thời cũng là lĩnh vực chưa đựng nhiều rủi ro nhất của các NHTM và các định chế tài chính khác. Trong bối cảnh sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá ngày càng tăng, hoạt động tín dụng cần phải được phát triển sao cho phù hợp nhằm đáp ứng được những nhu cầu ngày càng tăng trong xã hội. Nhưng vấn đề là phải đảm bảo chất lượng tín dụng như thế nào để NHTM hoạt động an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững. Nâng cao chất lượng tín dụng sẽ tạo điều kiện cho NHTM làm tốt chức năng trung gian tín dụng trong nền kinh tế và sẽ là cầu nối giữa phần tiết kiệm và đầu tư. Từ đó góp phần điều hoà nguồn vốn trong xã hội, phân bố các nguồn vốn cho đầu tư một cách hợp lý, giảm lãng phí ở những nơi thừa vốn trong xã hội, giảm khó khăn ở những nơi thiếu vốn, tạo quan hệ tốt giữa cung và cầu vốn, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển hàng hoá và tiền tệ. Như chúng ta đã biết, tín dụng cũng là một trong những công cụ để Đảng và Nhà nước thực hiện các chủ trương chính sách về phát triển kinh tế. Do vậy, chất lượng tín dụng sẽ góp phần làm tăng hiệu quả sản xuất xã hội, giúp đầu tư đúng hướng để khai thác khả năng tiềm tàng về tài nguyên lao động, đảm bảo cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển cân đối giữa các ngành nghề, các khu vực trong cả nước. Ngoài ra, tín dụng có chất lượng còn góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước. Tín dụng có chất lượng sẽ góp phần tăng chất lượng sản xuất kinh doanh và tạo một thị trường tài chính lành mạnh. Chất lượng tín dụng được đảm bảo cũng có nghĩa là NH đang trên đà phát triển tốt, nhờ vậy mà có điều kiện đáp ứng yêu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh của khách hàng. Trong điều kiện nền kinh tế mở kéo theo sự cạnh tranh gay gắt của các tổ chức tín dụng trên thị trường, nếu NHTM nâng cao được chất lượng tín dụng thì cũng chính là đã tạo được lòng tin ở khách hàng của mình. Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng được coi là “thượng đế” nên họ có quyền lựa chọn bất kỳ một NH nào đó làm đối tác. Hay nói cách khác, khách hàng tìm đến NH nào mà ở đó thực sự tạo điều kiện và giúp đỡ họ thực hiện việc kinh doanh đạt hiệu quả thông qua quan hệ tín dụng và các dịch vụ khác. Hơn nữa, về phía NH sẽ có cơ hội tăng số lượng khách hàng, thu hút được thêm nhiều nguồn vốn, tạo điều kiện mở rộng tín dụng. Nâng cao chất lượng tín dụng, tình hình tài chính của NHTM được cải thiện, tạo ra những thế mạnh trong quá trình cạnh tranh, giúp cho NH tránh và hạn chế được những rủi ro, những tổn thất to lớn có thể xảy ra, góp phần làm lành mạnh hoá các quan hệ tín dụng và tạo điều kiện để mở rộng các quan hệ tín dụng. Chất lượng tín dụng quyết định cho sự tồn tại và phát triển của từng NHTM nói riêng và toàn bộ hệ thống NH nói chung. Qua những vấn đề được phân tích ở trên ta thấy rõ sự cần thiết khách quan của việc củng cố tăng cường nâng cao chất lượng tín dụng của các NHTM. Từ thực tế ở Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thái Bình, và sau thời gian học tập nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận, tôi chọn đề tài: "Nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Đầu và Phát triển Thái Bình" để làm chuyên đề nghiên cứu của mình. Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm có 3 chương: Chương I: Các vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thái Bình Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thái Bình Thông qua việc phân tích thực trạng chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ để đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với thành phần kinh tế này tại BIDV CN Thái Bình. Từ đó, tôi mong muốn góp một phần nhỏ bé của bản thân mình vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả trong hoạt động tín dụng, phòng ngừa và hạn chế những rủi ro do nguyên nhân chủ quan. Xét về khía cạnh nào đó, tôi hy vọng BIDV CN Thái Bình nói riêng và hệ thống NH nói chung luôn luôn phát triển an toàn, hiệu quả và bền vững, góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước theo định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là doanh nghiệp vừa và nhỏ tại BIDV CN Thái Bình, thời gian trong phạm vi 03 năm, từ năm 2006 đến 30/6/2008. Do khả năng và trình độ của bản thân có hạn, nên chắc rằng đề tài này sẽ không thể tránh khỏi có những khiếm khuyết nhất định, vì thế tôi rất mong muốn nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo và đặc biệt là các thầy, cô trong bộ môn hướng dẫn để đề tài được hoàn chỉnh, mang tính thực tiễn và khả thi cao hơn./. CHƯƠNG I CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 1.1. Hoạt động tín dụng đối với Doanh nghiệp Vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của của Doanh nghiệp Vừa và nhỏ Khái niệm Doanh nghiệp Vừa và nhỏ DNV&N là những DN có quy mô nhỏ bé về mặt vốn, lao động hay doanh thu. DNV&N có thể chia thành ba loại cũng căn cứ vào quy mô đó là DN siêu nhỏ (micro), DN nhỏ và DN vừa. Theo tiêu chí của Nhóm NH Thế giới, DN siêu nhỏ là DN có số lượng lao động dưới 10 người, DN nhỏ có số lượng lao động từ 10 đến dưới 50 người, còn DN vừa có từ 50 đến 300 lao động. Ở mỗi nước, người ta có tiêu chí riêng để xác định DN nhỏ và vừa ở nước mình. Ở , không phân biệt lĩnh vực kinh doanh, các DN có số vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng hoặc số lượng lao động trung bình hàng năm dưới 300 người được coi là Doanh nghiệp Vừa và nhỏ (không có tiêu chí xác định cụ thể đâu là DN siêu nhỏ, đâu là nhỏ, và đâu là vừa). 1.1.1.2. Vai trò, đặc điểm của Doanh nghiệp Vừa và nhỏ Trong nền kinh tế, chúng ta thường nói tới "Doanh nghiệp" và được chúng ta hiểu một cách thông thường là những đơn vị kinh tế được thành lập bởi một cá nhân hay bởi các tổ chức, được nhà nước cho hoạt động nhằm thực hiện hoạt động kinh doanh trong những lĩnh vực nhất định vì mục đích công ích hay lợi nhuận. Sự vận động của nền kinh tế nhất thiết phải có một yếu tố quan trọng đó là DN, không có hoạt động của các DN thì nền kinh tế không thể lưu thông và hoạt động. DNV&N có vai trò lớn trong sự tăng trưởng kinh tế của rất nhiều quốc gia, kể cả các nước phát triển và đang phát triển. Trong bối cảnh đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới, DNV&N đã và đang đóng vai trò quan trọng về nhiều mặt: Đảm bảo nền tảng ổn định và bền vững của nền kinh tế; huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư phát triển; đáp ứng một cách linh hoạt nhu cầu của các ngành kinh tế quốc dân; cải thiện thu nhập và giải quyết việc làm cho một bộ phận đông đảo dân cư; góp phần xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng đất nước. Các hoạt động của các DNV&N đã và đang góp một phần không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Các DN này đã tạo ra một mạng lưới liên kết giữa các thành phần kinh tế với nhau, thúc đẩy và lưu thông các nguồn lực sẵn có trong xã hội như: vốn, nhân lực... Rõ ràng sự thành công của những cải cách trước đây trong thập niên 80 phần lớn nhờ vào sự đáp ứng mạnh mẽ từ phía cung của các hộ gia đình nông nghiệp: việc bãi bỏ hình thức nông nghiệp tập thể đã nhanh chóng biến từ chỗ thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới. Trong những năm gần đây, các DNV&N một lần nữa lại trở thành trung tâm của những tranh luận về phát triển. Lần này, sự thảo luận chủ yếu liên quan đến vấn đề tạo việc làm. Vai trò của các DNV&N gần đây cũng đã được nhấn mạnh trong cộng đồng các nhà tài trợ. Cùng với vai trò tạo việc làm của mình, có thể nói các DNV&N cũng là nhân tố chính trong việc giảm nghèo, đặc biệt là tại khu vực nông thôn. Với việc giảm nghèo là mục tiêu phát triển chính yếu hiện được ưu tiên của cộng đồng các nhà tài trợ, đang nhận được nhiều sự khích lệ trong chính sách thúc đẩy sự phát triển DNVVN của mình. Các DN trong quá trình hoạt động và sản xuất của mình đã cung cấp hàng hoá, tạo ra sự lưu thông hàng hoá trong thị trường. Tuy nhiên để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả thì các DN phải có một chiến lược phát triển cụ thể trong quá trình kinh doanh của mình. Ở các DNV&N chủ yếu tập trung vào các ngành thương mại, sửa chữa thủ công nghiệp (chiếm 40,6% DN của cả nước), tiếp đến là các ngành chế biến (20,9%), xây dựng (13,2%) và các ngành còn lại như kinh doanh bất động sản, tư vấn, khách sạn, nhà hàng (25,3%). Có nhiều loại hình DN khác nhau, nếu phân loại DN theo hình thức sở hữu thì có DN tư nhân, DN nhà nước, DN liên doanh, DN cổ phần… Nếu phân loại theo quy mô nguồn vốn thì có DN lớn và DNV&N. Trong đề tài này, tôi muốn đề cập đến DNV&N vì đây là một bộ phận chiếm tỷ trọng lớn trong hệ thống các DN và đây cũng là những DN đóng góp một vai trò không nhỏ trong nền kinh tế. Nếu chúng ta có một định hướng đúng đắn đối với các DNV&N thì sẽ có một sự thúc đẩy phát triển kinh tế to lớn, từ đó làm điểm tựa vững chắc để đưa đất nước phát triển. Hiện nay, các DNV&N tập trung chủ yếu ở thành thị ,chủ yếu ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng ... và các tỉnh thuộc khu vức đồng bằng bắc bộ. Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, số lượng DNV&N ngày càng tăng mạnh. Như tên gọi của mình, DNV&N mang những đặc điểm riêng rất khác biệt so với các DN lớn trên thị trường. DNV&N mang nhưng đặc trưng cơ bản sau: * Các DNV&N chiếm số lượng lớn trên thị trường, và tốc độ gia tăng cao Theo luật DN quy định, việc thành lập DNV&N yêu cầu số vốn thành lập nhỏ, vì vậy số lượng DNV&N chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế. Với ưu điểm là vốn điều lệ thấp, điều này đã tạo một động lực to lớn cho các tổ chức kinh tế tư nhân đứng ra thành lập DN của mình. Mặt khác, từ trước đó đã tồn tại không ít các DN nhà nước có quy mô vốn nhỏ, lao động ít như các hợp tác xã, các DN nhà nước mới thành lập hoặc được tách ra…Với đặc điểm là vốn pháp định nhỏ như vậy, số lượng các DNV&N đã chiếm phần lớn về số lượng trong nền kinh tế và có tốc độ gia tăng cao. * Các DNV&N có quy mô vốn nhỏ, lao động ít Mặc dù tăng nhanh về số lượng nhưng nếu xét về quy mô vốn của các DNV&N trong những năm gần đây thì lại rất thấp, mới ở mức trung bình trên 2 tỷ đồng/DN. Theo quy định của Luật DN, DNV&N là các DN có số vốn pháp định không vượt quá 10 tỷ, có số lao động không vượt quá 300 lao động. Với số vốn nhỏ như vậy, các DN gặp nhiều khó khăn trong việc mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và nhất là khó khăn trong việc cạnh tranh với các DN lớn sản xuất cùng một loại sản phẩm trong thị trường. Nhất là khi nền kinh tế có biến động lớn, ví dụ biến động về đầu vào, DNV&N khó có khả năng chống đỡ và dễ dẫn đến bị phá sản. Đồng thời, với số lao động ít, các DNV&N sẽ gặp nhiều cản trở trong quá trình sản xuất kinh doanh và mở rộng sản xuất kinh doanh. Nhất là với tình trạng ít lao động, DNV&N sẽ khó có được các lao động với tay nghề cao. Với số lao động ít như vậy, sẽ khó mở các lớp đào tạo nâng cao tay nghề nghiệp vụ cho các nhân viên. Mặt khác đa số người lao động, nhất là người lao động có tay nghề nghiệp vụ, trình độ chuyên môn giỏi, khi tìm kiếm việc làm đều có xu hướng muốn vào các DN lớn trên thị trường, điều này khiến các DNV&N gặp khó khăn trong quá trình tuyển dụng lao động và phải đầu tư nhiều hơn cho công tác marketing tuyển dụng lao động. * Đa số các DNV&N là các DN ngoài quốc doanh Các DNV&N chủ yếu là các DN tư nhân (chiếm khoảng 80%) do đặc điểm về quy mô vốn và số lượng lao động nhỏ. Điều này tạo khó khăn cho việc quản lý các DNV&N. Nhất là đối với các DN tư nhân hoạt động linh hoạt nhưng kém hiệu quả. Các DN tư nhân thường khi thành lập và trong quá trình hoạt động chưa có một tầm nhìn chiến lược hoạt động cho DN của mình. Và trong khi vận hành sản xuất kinh doanh, khi că một biến cố xảy ra thì không có kinh nghiệm chống đỡ hoặc không đủ khả năng chống đỡ, dẫn đến thua lỗ hoặc nặng hơn là phá sản. Việc quản lý các DN tư nhân cũng rất khó khăn. Nhiều DN còn cố tình làm ăn phi pháp, cố tình trốn thuế và không thực hiện đúng chế độ kế toán thống kê. Để quản lý tốt các DNV&N, đòi hỏi một sự theo dõi sát sao và thực sự có hiệu quả. Như vậy có thể mới kiểm soát được hoạt động của loại hình DN này. * Kinh nghiệm hoạt động còn chưa nhiều Không kể các DN nhà nước vừa và nhỏ đã thành lập lâu đời và hoạt động ổn định, đa số các DNV&N đều là các DN tư nhân được thành lập trong hoặc sau thời kỳ mở cửa nền kinh tế hoặc là các DN Nhà nước vừa được tách ra. Với những DNV&N thành lập khá lâu mà hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, có hiệu quả, họ sẽ dần dần mở rộng nguồn vốn của mình và đứng vào hàng ngũ những DN lớn. Như vậy, kinh nghiệm hoạt động của loại hình DN này chưa nhiều. Với số vốn ít và bề dày kinh nghiệm hạn chế, các DNV&N gặp khó khăn trong việc duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, chống đỡ với những thay đổi trong quá trình hoạt động của mình. * Trình độ công nghệ và phương pháp quản lý lạc hậu Đây là vấn đề nổi cộm đối với tổng thể các DN của nước ta do đặc điểm nền kinh tế chưa thực sự phát triển. Ở DN hiện nay, một thực trạng phổ biến trong các DNV&N là hệ thống máy móc, thiết bị lạc hậu, khoảng 10-15 năm trong ngành điện tử, 15 năm đối với ngành cơ khí, 70% công nghệ ngành dệt may đã sử dụng được 15 năm. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị trung bình hàng năm của chỉ ở mức 5-7% so với 20% của thế giới. Công nghệ lạc hậu làm tăng chi phí tiêu hao 1,5 lần so với định mức tiêu chuẩn của thế giới. Thực trạng này dẫn đến tăng chi phí đầu vào, cao hơn từ 30 - 50% so với các nước ASEAN, đồng thời dẫn đến chất lượng sản phẩm giảm, giá thành cao và năng suất thấp. Nhiều DNV&N rất yếu kém trong tiếp cận thông tin và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Một phần là do chất lượng nguồn nhân lực thấp, hạn chế về trình độ chuyên môn, tin học, ngoại ngữ của giám đốc và đội ngũ quản lý DN, một phần là do đầu tư cho hệ thống thông tin thấp, chưa có phương tiện kỹ thuật nên chưa theo kịp diễn biến của thị trường. Vì thế, nhiều quyết định kinh doanh được đưa ra chỉ dựa vào kinh nghiệm và phán đoán cảm tính, đây là điểm yếu nhất các DNV&N của trước áp lực cạnh tranh quốc tế. * Các DNV&N hoạt động linh hoạt, năng động Trong nền kinh tế, các DNV&N là những thành phần hoạt động linh hoạt nhất. Với mỗi thay đổi nhỏ nhất của nền kinh tế, các DNV&N đều chịu tác động và phải điều chỉnh hoạt động của mình để phù hợp với mỗi biến đổi đó. Với tính năng động như vậy, các DNV&N đã đạt được hiệu quả trong hoạt động của mình và đóng góp không nhỏ vào nền kinh tế. Sự đa dạng về loại hình hoạt động, phương thức quản lý, sản phẩm của các DNV&N giúp cho họ đứng vững được trong thị trường. 1.1.2. Hoạt động tín dụng đối với Doanh nghiệp Vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại Tín dụng là quan hệ vay mượn, gồm cả đi vay và cho vay. Tuy nhiên tín dụng khi gắn với chủ thể là NH thì tín dụng NH nghĩa là NH cho vay. Tín dụng được xem xét là một chức năng cơ bản của NH, vì vậy trên cở sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của NH thì tín dụng có thể dược hiểu như sau : Tín dụng là một quan hệ về tài sản (tiền hoặc tài sản) giữa bên cho vay (Ngân hàng) và bên đi vay (Doanh nghiệp Vừa và nhỏ), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, đồng thời bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của NH, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất. Ở các nước trên thế giới thì hoạt động tín dụng chiếm 50-60% lợi nhuận, còn ở thì chiếm tới 60-70%. Song song với hoạt động huy động vốn, tín dụng tạo ra nguồn lợi nhuận chính duy trì hoạt động của NH. Hoạt động tín dụng NH được dựa trên quyết định của thống đốc NH nhà nước số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với DN. Theo đó quan hệ tín dụng giữa Doanh nghiệp và NH có thể hiểu như sau: Doanh nghiệp phải cam kết hoàn trả vốn gốc và lãi với thời gian xác định. Các khoản tín dụng của NH chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của DN cùng khách hàng và các khoản vay mượn khác. Bản thân NH cũng có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi cho các khoản mượn nói trên. NH thu lợi nhuận là nhờ thu chênh lệch lãi suất cho vay và đi vay, đồng thời sử dụng vốn vay để thực hiện hoạt động khác như đầu tư, tài trợ… Như vậy, để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, NH phải yêu cầu DN thực hiện đúng cam kết này. Doanh nghiệp phải cam kết sử dụng tín dụng theo mục đích được thoả thuận với NH, không trái với quy định của pháp luật và các quy định khác của NH cấp trên. Luật pháp quy định phạm vi hoạt động cho các NH, và mỗi NH đều có mục đích và phạm vi hoạt động riêng. Do vậy, khi cho cấp tín dụng trong phạm vi hoạt động của mình, NH yêu cầu DN phải sử dụng vốn đúng mục đích như đã thoả thuận với NH. NH tài trợ dựa trên phương án có hiệu quả. Phương án hoạt động của DN đảm bảo khả năng thu hồi vốn và lãi của NH. Mặt khác, để đảm bảo đòi được nợ, các NH thường yêu cầu tài sản đảm bảo với mỗi khoản vay. Các hoạt động tín dụng đối với DNV&N của Ngân hàng thương mại Hoạt động tín dụng NH được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. NH tiến hành phân loại tín dụng để dễ quản lý các khoản tín dụng và nhằm đa dạng hoá tín dụng nhằm thoả mãn nhu cầu của DN. Phân loại tín dụng để NH quyết định lãi suất cho vay, cũng như loại hình cho vay thích hợp với mỗi loại tín dụng khác nhau. Việc xác định phương thức cho vay có một ý nghĩa rất quan trọng của quá trình cấp tín dụng choĐNN. Nếu xác định đúng phương thức cho vay cho từng DN từ đú sẽ tạo ra yếu tố tích cực giúp cho DN thuận lợi trong quá trình giao dịch và chủ động về tài chính trong quá trình sản xuất kinh doanh và thuận lợi để thực hiện phương án sản xuất kinh doanh, khuyến khích được DN về quan hệ vay vốn với NH, Ngân hàng chủ động trong việc cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn. Nếu xác định sai phương thức cho vay sẽ dẫn đến NH không kiểm soát chặt chẽ được số vốn cho vay làm tăng rủi ro tín dụng, không khuyến khích được DN vay vốn. Hiện nay các NH thường áp dụng các phương thức cho vay sau * Cho vay thấu chi Cho vay thấu chi là nghiệp vu cho vay qua đó NH cho phép người vay được chi trội tren số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Để được thấu chi, DN làm đơn xin NH hạn mức thấu chi và thời gian thấu chi (có thể phải trả phí cam kết cho NH ). Trong quá trình hoạt động, DN có thể ký séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ… vượt số dư tiền gửi để chi trả (song trong hạn mức thấu chi). Khi DN có tiền nhập về tài khoản tiền gửi, NH sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà DN phải trả là : Số lãi phải trả = Lãi suất thấu chi x Thời gian thấu chi x Số tiền thấu chi. Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này. Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của DN không phù hợp về thời gian và quy mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán dựa vào dự đoán ngân quỹ song không chính xác. Do vậy, hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho DN trong quá trình thanh toán, chủ động, kịp thời. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả DN lẫn cá nhân vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm, dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng… Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với DN có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn. * Cho vay trực tiếp từng lần Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến của NH đối với các DN không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số DN sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay NH, tức là vốn từ NH chỉ tham gia vào một giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh. Mỗi lần vay, DN phải làm đơn và trình NH phương án sử dụng vốn vay. NH sẽ phân tích DN và ký hợp đồng cho vay, xác định mức cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ (khế ước nhận nợ) khác nhau. Nhu cầu vay Ngân hàng = Chi phí cần thiết cho SXKD - Vốn tự có - Vốn khác Trong đó: Chi phí cần thiết Cho SXKD = Giá trị hợp đồng - Khấu hao cơ bản - Thuế - Lợi nhuận định mức cho SXKD Nếu cho vay dựa trên giá trị tài sản đảm bảo: Mức cho vay= (Giá trị tài sản đảm bảo x Tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản đảm bảo). Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, NH sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình DN sử dụng tiền vay, NH sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả sử dụng, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, NH sẽ thu nợ trước hạn, hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi. Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. NH có thể kiểm soát từng món vay tách biệt. Tiền cho vay dựa trên giá trị tài sản đảm bảo. * Cho vay theo hạn mức Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó NH thoả thuận cấp cho DN hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Mỗi lần vay, DN chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, NH sẽ phát tiền cho DN. Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những DN vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này, NH không ấn định trước ngày trả nợ. Khi DN có thu nhập, NH sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lý ngân quỹ cho DN. Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên NH khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay. NH chỉ có thể phát hiện vấn đề khi DN nộp báo cáo tài chính, hoặc dư nợ lâu không giảm sút. * Cho vay luân chuyển Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá. DN khi mua hàng có thể thiếu vốn. NH có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi DN bán hàng. Đầu năm hoặc đầu quý, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. NH và DN thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thoả thuận trong 1năm hoặc vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn NH xem xét lại mối quan hệ giữa NH và DN cũng như tình hình tài chính của DN. Việc cho vay dựa trên luân chuyển hàng hoá nên cả NH và DN đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới. Khi vay, DN chỉ cần gửi đến NH các chứng từ hoá đơn nhập hàng và số tiền cần vay. NH cho vay và trả tiền cho người bán. Theo hình thức này, giá trị hàng hoá mua vào (có hoá đơn, hợp pháp, hợp lệ, đúng đối tượng) đều là đối tượng được NH cho vay; thu nhập bán hàng đều là nguồn để chi trả cho NH. Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo khối lượng và chất lượng quan hệ nợ nần của người vay. Các khoản phải thu và cả hàng hoá trong kho trở thành vật đảm bảo cho khoản cho vay. Cho vay luân chuyển thường được áp dụng đối với các DN thương nghiệp hoặc DN sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với NH. Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho DN. Thủ tục cho vay chỉ cần thực hiện 1 lần cho nhiều lần vay. DN được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời , vì vậy việc thanh toán cho người cung ứng sẽ nhanh gọn. Nếu DN gặp khó khăn trong tiêu thụ thì NH sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được quy định rõ ràng. * Cho vay trả góp Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó NH cho phép DN trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã theo thoả thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định và tài sản lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ (thường là từ khấu hao và thu nhập sau thuế cuả DA, hoặc từ thu nhập hàng kỳ của người tiêu dùng). NH thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định. NH sẽ thanh toán cho ngưòi bán lẻ về số hàng hoá mà DN đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận tiền ngay sau khi bán hàng từ phía NH và làm đại lý thu tiền cho NH, hoặc DN trả trực tiếp cho NH. Đây là hình thức tín dụng tài trợ người mua (qua đó đến người bán) nhằm khuyến khích tiêu thụ hàng hoá. Cho vay trả góp rủi ro cao do DN thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Nếu người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ của NH cũng bị ảnh hưởng. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là lãi suất cao nhất trong khung lãi suất cho vay của NH. * Cho vay gián tiếp Phần lớn cho vay của NH là cho vay trực tiếp. Bên cạnh đó NH cũng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. NH cho vay qua các tổ, đội, hội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Hội phụ nữ…Các tổ chức này thường liên kết các thành viên theo một mục đích riêng, song chủ yếu đều hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho mỗi thành viên. Vì vậy, việc phát triển kinh tế, làm giàu, xoá đói giảm nghèo luôn được các tổ chức này rất quan tâm. NH có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian, như thu nợ, phát tiền vay… Tổ chức trung gian cũng có thể đứng ra bảo đảm cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong nhóm bảo lãnh cho một thành viên vay. Điều này rất thuận tiện khi người vay không có hoặc không đủ tài sản thế chấp. NH cũng có thể cho vay thông quá người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này sẽ hạn chế người vay sử dụng tiền sai mục đích. Cho vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa NH. Trong trường hợp như vậy, cho vay qua trung gian có thể tiết kiệm chi phí cho vay. Cho vay qua trung gian đều nhằm giảm bớt rủi ro, chi phí của NH. Tuy nhiên nó cũng bộc lộ các khiếm khuyết. Nhiều trung gian đã lợi dụng vị thế của mình, để tăng lãi suất cho vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác cho riêng mình. Các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán hàng kém chất lượng hoặc với giá đắt cho người vay vốn. 1.2. Chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp Vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại 1.2.1. Khái niệm chất lượng tín dụng Đối với các NHTM, cái được biểu hiện ra bên ngoài vừa cụ thể, vừa trừu tượng của hoạt động tín dụng chính là chất lượng tín dụng. Chỉ khi chất lượng tín dụng tốt tức là NH có nhiều khách hàng, uy tín NH được nâng cao tạo điều kiện thúc đẩy cho NH phát triển. Chất lượng tín dụng được hiểu là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của NH. Như vậy khi xem xét chất lượng tín dụng của NH nói chung và đối với DNV&N nói riêng, cần tính đến ba nhân tố là NHTM, khách hàng, và nền kinh tế. Thứ nhất: Chất lượng hoạt động tín dụng xét từ giác độ NHTM Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng, thực lực theo hướng tích cực của bản thân NH và phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Chất lượng hoạt động tín dụng phải thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận hợp lý và gia tăng, dư nợ ngày càng tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn đảm bảo đúng quy định và hợp lý, đảm bảo cơ cấu nguồn vốn giữa ngắn hạn,trung và dài hạn trong nền kinh tế. Thứ hai: Chất lượng hoạt động xét từ giác độ khách hàng Thông qua quan hệ lâu dài với khách hàng, sự am hiểu khách hàng sẽ làm cho NH hiểu rõ nhu cầu tín dụng của NH, đảm bảo thoả mãn nhu cầu hợp lý về vốn cho họ. Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay, chất lượng là yêu cầu hàng đầu, vì vậy chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý của khách hàng, lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản không phiền hà, thu hút được khách hàng nhưng vẫn đảm bảo đúng nguyên tắc và quy định của tín dụng phù hợp với tốc độ phát triển của xã hội, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của NH, góp phần làm lành mạnh tài chính khách hàng. Thứ ba: Chất lượng tín dụng xét từ giác độ nền kinh tế Hoạt động tín dung trong những năm gần đây phản ánh rõ nét sự năng động của nền kinh tế khi chuyển sang cơ chế mới. Nhiều khái niệm mới với những nội dung mới để đạt được sự thống nhất, về nhận thức và tạo điều kiện nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng. Tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động, tăng thêm sản phẩm cho xã hội góp phần tăng trưởng kinh tế và khai thác khả năng tiềm ẩn trong nền kinh tế, thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nước, tranh thủ vay vốn nước ngoài có lợi cho nền kinh tế phát triển. Từ những điều trên, ta có thể rút ra: - Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ thích nghi của NHTM và sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh một NH trong quá trình cạnh tranh để tồn tại. - Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố: thu hút được khách hàng tốt, thủ tục đơn giản, thuận tiện, mức độ an toàn của vốn tín dụng, chi phí tổng thể về sản xuất, chi phí nghiệp vụ… - Chất lượng tín dụng không tự nhiên mà có, nó là kết quả của một quy trình kết hợp hoạt động giữa con người trong một tổ chức, giữa các tổ chức với nhau vì một mục đích chung, do đó để đạt được chất lượng tín dụng cần có sự quản lý. Quản lý chất lượng về cơ bản là những hoạt động và kỹ thuật ._.được sử dụng nhằm đạt được chất lượng tốt. 1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại Có nhiều chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá chất lượng TDNH, trong đó có các chỉ tiêu cơ bản sau: 1.2.2.1. Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu Tỷ lệ nợ xấu là tỷ lệ phần trăm giữa nợ xấu và tổng dư nợ của NHTM ở một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm. Chỉ tiêu này được tính theo công thức (1.1) dưới đây: Tỷ lệ nợ xấu = Nợ xấu Tổng dư nợ x 100% ≤ 5% (1.1) (1.1) * Khái niệm nợ xấu: Nếu chỉ dựa vào chỉ tiêu nợ quá hạn thì chưa đánh giá chính xác về chất lượng tín dụng của các NH. Theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước “ V/v Ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động NH của TCTD” đã đánh giá chính xác hơn chất lượng tín dụng của các TCTD. Theo Quyết định 493 thì nợ xấu là nợ thuộc nhóm 3,4,5 theo cách phân loại nợ dưới đây. Chỉ tiêu này phản ánh nợ xấu của một NH, tỷ lệ này càng thấp càng tốt. Thực tế, rủi ro trong kinh doanh là không tránh khỏi, nên NH thường chấp nhận một tỷ lệ nhất định được coi là giới hạn an toàn. Mức giới hạn này ở mỗi nước là khác nhau, riêng ở hiện nay chấp nhận tỷ lệ là 5%. * Cách phân loại nợ Theo Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/02/2005 (có hiệu lực ngày 17/03/2005) của Thống đốc NHNN VN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001. Trong đó điều chỉnh kỳ hạn nợ là việc NH chấp thuận thay đổi kỳ hạn trả nợ gốc và/hoặc lãi vay trong phạm vi thời hạn cho vay đã thoả thuận tại HĐTD; gia hạn nợ vay là việc NH chấp thuận kéo dài thêm một khoảng thời gian trả nợ gốc và/hoặc lãi vay vượt quá thời hạn cho vay đã thoả thuận trong HĐTD và chất lượng tín dụng được thể hiện là tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ. Việc phân loại nợ quá hạn theo Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN đã có nhiều thay đổi nhưng việc phân loại nợ quá hạn vẫn còn dựa vào tiêu chí thời gian quá hạn của khoản vay chứ chưa tính đến tiêu chí rủi ro của khoản vay nên chưa phản ảnh chính xác chất lượng của hoạt động tín dụng. Theo Quyết định số: 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước “V/v Ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụngdự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động NH của tổ chức tín dụng” và quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước “V/v sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động NH của tổ chức tín dụng ban hành theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005” thì dư nợ của các tổ chức tín dụng được chia làm 05 nhóm, cụ thể: Nợ nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ trong hạn và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn; Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại; Các khoản nợ của DN trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo kỳ hạn đã được cơ cấu lại tối thiểu trong vòng 01 năm đối với các khoản nợ trung và dài hạn, 03 tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn và các kỳ hạn tiếp theo được đánh giá là có khả năng trả đầy đủ nợ gốc, lãi đúng hạn theo thời hạn đã được cơ cấu lại thì phân loại vào nợ nhóm 1. Trường hợp một DN có nợ cơ cấu lại bao gồm nợ ngắn hạn và nợ trung, dài hạn thì chỉ xem xét đưa vào nợ nhóm 01 khi DN đã trả đầy đủ (nợ ngắn hạn và nợ trung, dài hạn) cả gốc và lãi số nợ đã được cơ cấu lại trong thời gian quy định trên, đồng thời các kỳ hạn tiếp theo được đánh giá là có khả năng trả đầy đủ nợ gốc, lãi đúng hạn đã được cơ cấu lại.. Nợ nhóm 2 (nợ cần chú ý) bao gồm Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày; Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là DN, tổ chức thì tổ chức tín dụng phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu). Nợ nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại có thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2; Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng. Nợ nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm Nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai. Nợ nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ đã được cơ cấu lại lần đầu; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn; Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý. Các khoản nợ nếu có đủ cơ sở để đánh giá là khả năng trả nợ của của khách hàng bị suy giảm thì phải phải tính một cách chính xác, minh bạch để phân loại nợ vào các nhóm nợ phù hợp với mức độ rủi ro, cụ thể: Nhóm 2: Các khoản nợ tổn thất tối đa 5% giá trị nợ gốc. Nhóm 3: Các khoản nợ tổn thất từ trên 5%-20 % giá trị nợ gốc. Nhóm 4: Các khoản nợ tổn thất từ trên 20% - 50% giá trị nợ gốc. Nhóm 5: Các khoản nợ tổn thất trên 50% giá trị nợ gốc. Việc phân loại nợ theo Quyết định 493và quyết định 18 của Ngân hàng Nhà nước vừa dựa vào tiêu chí thời gian quá hạn của khoản vay, vừa dựa vào tiêu chí rủi ro của khoản vay đã làm cho các NH phải đánh giá lại thực sự các khoản nợ đã cho khách hàng vay và có thể đánh giá chính xác hơn về chất lượng tín dụng của mình. 1.2.2.2. Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn Chỉ tiêu này được tính theo công thức (1.2) dưới đây: Hiệu suất sử dụng vốn = Tổng dư nợ (1.2) Tổng vốn huy động Chỉ tiêu này giúp các nhà phân tích so sánh khả năng cho vay của NH với khả năng huy động vốn, đồng thời xác định hiệu quả của một đồng vốn huy động. Thông thường theo cách nhìn của nhiều người, chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ NH sử dụng nhiều vốn huy động và hoạt động của NH sẽ hiệu quả hơn, điều này sẽ không đúng. Vậy tỷ lệ này lớn tốt hay nhỏ tốt? Chúng ta chưa thể khẳng định được, bởi nếu tiền gửi ít hơn tiền cho vay thì NH phải tìm kiếm nguồn vốn có chi phí cao hơn, còn nếu tiền gửi nhiều hơn tiền cho vay thì NH sẽ rơi vào tình trạng thừa vốn. Do đó, chỉ tiêu này chỉ mang tính tương đối giúp chúng ta so sánh khả năng cho vay và huy động vốn của một NH. 1.2.2.3. Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng Được xác định bằng doanh số thu nợ trên dư nợ bình quân của một NHTM trong thời gian nhất định, thường là một năm. Chỉ tiêu này được tính theo công thức (1.3): Vòng quay vốn tín dụng = Doanh số thu nợ (1.3) Dư nợ bình quân Đây là chỉ tiêu phản ánh số vòng chu chuyển của vốn vay (thường là 1 năm). Chỉ tiêu này càng tăng thì tính tổ chức, quản lý tín dụng càng tốt, chất lượng cho vay càng cao. Tuy nhiên, chỉ tiêu này chỉ phản ánh một cách tương đối, vì nếu một NHTM này cho vay các DN sản xuất chiếm tỷ trọng lớn dư nợ, thì chỉ tiêu này thấp hơn NHTM khác cho vay các DN thương mại. Như vậy, không vì thế mà chất lượng cho vay của NHTM này kém hơn. Từ thực tế trên, để có nét tương đối chính xác về chất lượng tín dụng thì các tiêu thức tính toán phải thống nhất, vòng quay tín dụng phải tính toán cho từng loại vay, thời hạn vay và từng đối tượng vay cụ thể. 1.2.2.4. Chỉ tiêu lợi nhuận Chỉ tiêu này được tính theo công thức (1.4) dưới đây: Lợi nhuận = Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng (1.4) Tổng dư nợ tín dụng Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng của NHTM chiếm từ 70%-85% tổng lợi nhuận của NHTM. Nếu lợi nhuận của một NH nào đó tăng lên hàng năm, điều đó chứng tỏ chất lượng tín dụng được nâng lên. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng. Lợi nhuận ở đây phản ánh chênh lệch giữa chi phí đầu vào (lãi suất huy động) và thu lãi đầu ra. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn tín dụng , một khoản tín dụng ngắn hạn hay dài hạn không thể xem là có chất lượng cao nếu nó không đem lại lợi nhuận cho NH. Chỉ tiêu này cao chứng tỏ các khoản cho vay của NH sinh lời và ngược lại chỉ tiêu này thấp chứng tỏ các khoản vay không sinh lời, đồng nghĩa với chất lượng tín dụng chưa tốt. Đánh giá chất lượng khoản tín dụng trên cơ sở căn cứ vào lợi nhuận thu được của các NHTM, đây cũng là chỉ tiêu tương đối vì nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: chính sách lãi suất, chính sách khách hàng v.v. Thông thường trong hoạt động NH, nếu chấtlượng tín dụng NHTM tốt, tỷ lệ nợ xấu thấp thì lợi nhuận từ hoạt động tín dụng sẽ cao hơn khi cùng một mức dư nợ so với các NH khác. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp Vừa và nhỏ Như ta đã biết, chất lượng tín dụng là chỉ tiêu để đánh giá tình hình hoạt động tín dụng của một NH và có ý nghĩa lớn đến sự tồn tại và phát triển của NH. Chất lượng tín dụng được thể hiện ở sự thoả mãn nhu cầu vay vốn của khách hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, đồng thời đảm bảo sự tồn tại và phát triển của NH. Để có thể thực hiện được mục tiêu hoạt động của mình là tìm kiếm lợi nhuận dựa trên chức năng nhiệm vụ của NH, cụ thể ở đây là hoạt động tín dụng, mỗi NH phải làm sao để nâng cao được chất lượng tín dụng. Để thực hiện được điều này ta cần nghiên cứu tác động của các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng, đó là 3 nhóm nhân tố sau đây: 1.3.1. Các nhân tố chủ quan Đối với NHTM: chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp khả năng thực lực của bản thân NH và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Bao gồm các nhân tố như: Chính sách tín dụng, công tác tổ chức, chất lượng cán bộ, quy mô vốn của NH, thông tin tín dụng, quy trình nghiệp vụ tín dụng... * Chính sách tín dụng Chính sách tín dụng là một hệ thống biện pháp có liên quan đến việc khuyếch trương tín dụng hoặc hạn chế tín dụng để đạt được mục tiêu đã hoạch định của NHTM đó. Do đó, việc hoạch định chính sách tín dụng có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của mỗi NH. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng dựa trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ chấp hành đúng luật pháp và đường lối của NH nhà nước, đảm bảo công bằng xã hội. Bất kỳ một NH nào muốn nâng cao hiệu quả hoạt động của mình thì phải có chính sách tín dụng phù hợp với điều kiện cụ thể của NH. Hoạt động tín dụng trong nền kinh tế thị trường chứa đựng nhiều rủi ro. Khi NH gặp những rủi ro thì có thể đi đến phá sản hoặc bị thiệt hại lớn, mất uy tín với khách hàng và cơ quan quản lý Nhà nước. Vì vậy khi hoạch định chính sách tín dụng, các nhà hoạch định luôn coi trọng việc đảm bảo mục tiêu phải đạt được, nên ta có thể nói rằng: Chất lượng tín dụng của một NH có tốt hay không còn phụ thuộc vào việc xây dựng một chính sách tín dụng NH có đúng đắn, phù hợp không. * Công tác tổ chức NH Để tạo điều kiện cho việc quản lý có hiệu quả các nguồn vốn tín dụng thì cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban, có sự thống nhất đoàn kết từ trên xuống, từ ban lãnh đạo đến cán bộ công nhân viên. Điều đó có ý nghĩa là công tác tổ chức NH được thực hiện tốt chính là cơ sở tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh. Hơn nữa thực hiện tốt công tác này, NH đã làm cho guồng máy của mình hoạt động một cách uyển chuyển linh hoạt. Chính vì vậy, trong quá trình hoạt động NH nên luôn chú trọng công tác này để ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn. * Thông tin tín dụng Cho vay không phải là một vấn đề đơn giản. Trên thực tế không phải DN nào cũng sử dụng vốn vay có hiệu quả và đúng mục đích. Đó là chưa nói tới những kẻ mạo danh, mạo nhận là DN để cho vay trái phép, chiếm dụng vốn bất hợp pháp, gây rủi ro và tổn thất cho NH. Vì vậy, hoạt động tín dụng muốn đạt hiệu quả cao, an toàn cần phải có hệ thống thông tin hữu hiệu phục vụ cho công tác này. Nắm bắt kịp thời và chính xác luồng thông tin là điều kiện để xem xét, phân tích, nhằm tìm ra cơ hội tốt nhất trong kinh doanh cũng như đề phòng những rủi ro có thể xẩy ra trong các hoạt động của NH. * Chất lượng đào tạo cán bộ NH Chất lượng cán bộ là "cơ sở vật chất" để thực hiện những kế hoạch kinh doanh trong cơ chế thị trường thường xuyên thay đổi và có nhiều biến động như hiện nay. Do vậy trong quá trình tuyển chọn cán bộ NH cần phải ưu đãi những người có tư cách đạo đức tốt, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, năng động sáng tạo. Trong quá trình hoạt động thường xuyên tiến hành đào tạo và đào tạo lại cán bộ để nâng cao chất lượng cán bộ, đảm bảo quá trình thực thi nhiệm vụ được nhanh chóng, chính xác, linh hoạt trong xử lý những sai sót có thể xẩy ra. Một NH có đội ngũ cán bộ được đào tạo với chất lượng, trình độ chuyên môn giỏi thì việc quản lý thực hiện các nghiệp vụ tín dụng NH nói riêng và các nghiệp vụ NH nói chung sẽ trở nên quy củ, có hệ thống và đạt hiệu quả cao hơn. Ngoài ra, nó còn giúp cho NH tránh được các rủi ro có thể xẩy ra. * Những vấn đề thuộc về kiểm tra, thanh tra, kiểm soát Mở rộng quy mô hoạt động tín dụng, tăng cường cho vay mà không tính đến rủi ro, bất chắc có thể xẩy ra thì sẽ dễ dàng dẫn đến sự sụp đổ giải thể của mỗi NH. Một trong những hoạt động có mục đích cho NH tránh được những rủi ro đó là công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm soát. Công tác này không chỉ được thực hiện đối với khách hàng (như kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay) mà còn được thực hiện đối với bản thân NH (như quy trình thực hiện cho vay, quá trình quản lý vốn vay, loại trừ cán bộ mất phẩm chất có hiện tượng tham ô, tham nhũng gây thất thoát tài sản làm mất uy tín của NH đối với khách hàng. Nâng cao chất lượng tín dụng cũng đồng thời là NH phải kịp phát hiện và ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật có ảnh hưởng đến hoạt động của NH. Muốn vậy, việc đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực trình độ và trách nhiệm thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm soát là một vấn đề mà không NH nào coi nhẹ. 1.3.2. Nhân tố khách quan Đối với khách hàng: do nhu cầu vay vốn tín dụng của khách hàng là để đầu tư cho các hoạt động sản xuất kinh doanh nên chất lượng tín dụng được đánh giá theo tính chất phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng với mức lãi suất và kỳ hạn hợp lý. Thêm vào đó là thủ tục vay đơn giản, thuận lợi, thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn bảo đảm nguyên tắc tín dụng. Khách hàng vừa là đại diện cho bên cung ứng vốn tín dụng, vừa là đại diện cho bên cầu vốn tín dụng. Với tư cách là người cung ứng vốn tín dụng, họ mong muốn nhận được từ NH một khoản lãi vay từ tiền gửi hay các dịch vụ thanh toán tiện lợi, do đó sự tín nhiệm của NH đối với khách hàng sẽ tăng thêm tính ổn định của nguồn vốn huy động. Với tư cách là người vay, họ mong muốn được đáp ứng đầy đủ vốn phù hợp với yêu cầu kinh doanh có thời hạn vay và lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản nhanh chóng. * Yếu tố con người Nhân tố con người: bao gồm đạo đức của khách hàng, mục tiêu kinh doanh, nhiệm vụ, động cơ của người vay... Những thông tin sai trái về người vay là một dấu hiệu nguy hiểm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, ảnh hưởng đến hiệu quả của người vay. Một nhân tố khác không kém phần quan trọng là tính quyết tâm trong kinh doanh của khách hàng. Một người vay có tính quyết tâm cao sẽ là một điều kiện giúp cho phương án kinh doanh có thể thắng lợi từ đó có nguồn trả nợ cho NH đúng hạn và đầy đủ, chất lượng tín dụng của NH sẽ được đảm bảo và uy tín của NH được nâng cao. Năng lực quản lý kinh doanh của khách hàng cũng là một dấu hiệu cho khả năng đảm bảo chất lượng tín dụng của NH. Một nhà quản trị kinh doanh tốt là một người quản lý tốt đồng tiền vào ra của DN, kiểm soát được các chi phí, nhận biết các cơ hội kiếm lời và đưa ra các quyết định kinh doanh chính xác, từ đó kiếm được lợi nhuận, có nguồn để trả nợ cho NH. * Uy tín và khả năng tài chính, khả năng trả nợ của khách hàng NH sẽ chỉ đồng ý cho vay nếu khách hàng chứng tỏ được khả năng tài chính và khả năng trả nợ của mình đối với NH. Ngân hàng không dám mạo hiểm cho vay đối với khách hàng nào mà uy tín bị giảm sút, khả năng tài chính đang có vấn đề. Vì vậy tài sản đảm bảo là một đòi hỏi của NH để đáp ứng cho nguồn trả nợ thứ hai bổ sung cho món vay. Giá trị tài sản ảnh hưởng trực tiếp đến số tiền mà khách hàng được vay, vì NH căn cứ vào giá trị tài sản đảm bảo để xác định số tiền cho vay tối đa chỉ được 70% giá trị tài sản đảm bảo (nếu như không có quy định khác). * Tính khả thi của dự án vay vốn Khi DA có khả thi thì các cán bộ sẽ dựa vào đó để quyết định cho vay, quy mô tín dụng sẽ được mở rộng. Đây còn là yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng món vay, ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của NH. Mặt khác, nếu DN sử dụng vốn vay sai mục đích hoặc sử dụng vốn vay ngắn hạn cho đầu tư sản xuất cố định hoặc kinh doanh bất động sản thì sẽ không thu hồi kịp vốn để hoàn trả đúng hạn, ảnh hưởng nhiều đến hoạt động tín dụng. 1.3.3. Những nhân tố khác * Môi trường kinh tế Để NH có thể huy động được nhiều vốn mở rộng hoạt động tín dụng phục vụ cho việc phát triển kinh tế thì cần có một nền kinh tế ổn định. Một nền kinh tế phát triển ổn định, sẽ giúp cho NH mở rộng quy mô hoạt động của mình, làm giá cả luôn giữ ở mức ổn định, tránh được tình trạng lạm phát hoặc giảm phát... NH sẽ khó tránh khỏi rủi ro nếu nền kinh tế không ổn định, chu kỳ kinh tế có tác động không nhỏ đến hoạt động cho vay của NH. Trong thời kỳ nền kinh tế thị trường bị suy thoái, sản xuất bị đình trệ, kinh doanh bị thu hẹp thì nhu cầu vốn tín dụng giảm và nếu vốn tín dụng đã được thực hiện thì cũng khó có thể sử dụng có hiệu quả hay khó có thể trả nợ đúng hạn cho NH. Ngược lại, thời kỳ nền kinh tế hưng thịnh SXKD được mở rộng dẫn đến nhu cầu về vốn tăng, từ đó chất lượng tín dụng được nâng lên, giảm bớt rủi ro tín dụng. Như vậy, chu kỳ kinh tế ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả của các khoản vốn tín dụng NH. Ngoài ra, các chính sách và sự điều tiết của các cơ quan có thẩm quyền ở mỗi ngành, mỗi vùng đều có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. * Môi trường Xã hội - Chính trị Khách hàng và NH thực hiện quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở tín nhiệm giữa hai bên. Vì vậy sự tín nhiệm là cầu nối mỗi quan hệ giữa NH và khách hàng. Uy tín của NH trên thị trường ngày càng cao thì sẽ thu hút được lượng khách hàng ngày càng đông. Mối quan hệ xã hội thể hiện cụ thể giữa NH và khách hàng là nhân tố không kém phần quan trọng quyết định tới quy mô, phạm vi hoạt động của mỗi NH, đặc biệt là trong hoạt động tín dụng. Nhân tố chính trị cũng có ảnh hưởng khá nhiều tới hoạt động tín dụng. Thật vậy, một quốc gia không có sự biến động về chính trị hay không xảy ra chiến tranh là điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài bởi các nhà đầu tư nước ngoài không chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà còn chú trọng tới an toàn của vốn đầu tư. Tình hình kinh tế chính trị ổn định là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế đất nước. Riêng đối với NH, nó có ảnh hưởng tới việc huy động, cho vay và đầu tư vốn của NH. Điều đó có ý nghĩa là nhân tố này ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. * Môi trường pháp lý Pháp luật có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động NH nói chung và chất lượng tín dụng nói riêng. Pháp luật là bộ phận không thể thiếu được ở bất kỳ một nền kinh tế nào. Không có pháp luật hoặc các chính sách ban hành không phù hợp sẽ khiến cho nền kinh tế gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, nếu hệ thống pháp luật ban hành không đầy đủ, không đồng bộ, các văn bản dưới luật còn nhiều mâu thuẫn trong khi thực hiện và chưa thật phù hợp với các ban ngành, các đơn vị có liên quan đến hoạt động tín dụng thì có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Pháp luật sẽ tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh cho mọi hoạt động SXKD của các DN thuộc mọi thành phần kinh tế tiến hành thuận tiện và đạt kết quả cao. Nó còn là cơ sở pháp lý để giải quyết mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế. Các DN cũng như NH phải tuân thủ những quy định nghiêm chỉnh của pháp luật thì hiệu quả và lợi ích sẽ được đảm bảo. Môi trường pháp luật này luôn được điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện hơn để nó ngày càng phù hợp hơn với sự phát triển chung của nền kinh tế, trong đó có hệ thống NH. * Các nhân tố khác Ngoài những nhân tố nêu trên, hiệu quả của công tác cho vay của NH còn chịu ảnh hưởng nhiều của nhân tố chủ quan, khách quan khác như: Thái độ phục vụ khách hàng, đạo đức xã hội, trang thiết bị phục vụ hoạt động hay những yếu tố môi trường như thời tiết, bệnh dịch..., và các biện pháp trong bảo vệ môi trường sinh thái. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN THÁI BÌNH 2.1. Khái quát về Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thái Bình 1.1 Qúa trình hình thành và phát triển Cách đây 53 năm, ngày 25/4/1957 Thủ tướng Chính phủ có Nghị định số 177/TTg thành lập Ngân hàng kiến thiết Việt Nam trực thuộc Bộ tài chính, hoạt động chuyên trách trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản. Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp có vị trí quan trọng trong công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật trên con đường tiến lên CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất Tổ quốc. Ngày 07/08/1957 Bộ trưởng Bộ Tài chính ra Quyết định số 22TC/TT thành lập Phòng Kiến thiết cơ bản trực thuộc Ty Tài chính Thái Bình - Tổ chức đầu tiên, là tiền thân của Ngân hàng Kiến thiết Thái Bình những năm sau này. Ngày 25/06/1965 Chi nhánh Ngân hàng kiến thiết Thái Bình được thành lập trực thuộc Ngân hàng Kiến thiết Việt nam. Ngày 24/06/1981 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 259/CP chuyển Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam trực thuộc Bộ tài chính sang trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt nam, thành lập Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt nam. Quyết định số 75/NH/QĐ ngày 17/07/1981 của Tổng giám đốc (nay là Thống đốc) Ngân hàng Nhà nước Việt nam, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Thái Bình được thành lập và hoạt động theo mô hình tổ chức mới từ 01/01/1982. Do yêu cầu đổi mới kinh tế đất nước, đổi mới hoạt động Ngân hàng và thực hiện Pháp lệnh Ngân hàng, HTX tín dụng và Công ty Tài chính . Ngày 14/11/1990 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định số 401/CT chuyển Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam thành Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Thái Bình tiếp tục tồn tại và được đổi tên thành Chi nhánh BIDV Thái Bình trực thuộc BIDV Việt Nam. Chi nhánh BIDV Thái Bình có: - Tên giao dịch tiếng Anh: Bank for Investment and Development of Vietnam. - Tên điện tín là: BIDV Thái Bình. - Trụ sở hoạt động chính: Số 80B- đường Lý Thường Kiệt - thành phố Thái Bình- tỉnh Thái Bình. Trong 53 năm qua Chi nhánh BIDV Thái Bình luôn tồn tại và phát triển. Từ năm 1957 đến năm 1994 với trách nhiệm Nhà nước giao cấp vốn đầu tư xây dựng cơ bản, cho vay đầu tư theo KHNN, trải qua nhiều thế hệ nối tiếp nhau, đồng vốn qua BIDV Thái Bình luôn giữ vững kỷ cương phép nước, vốn đầu tư xây dựng cơ bản mang lại hiệu quả kinh tế xã hội, đã đưa hàng ngàn công trình lớn nhỏ vào sản xuất, sử dụng. Bằng kết quả của công tác đầu tư xây dựng cơ bản hàng trăm công trình đê, kè, cống năm sau nối tiếp năm trước đã được tu bổ nâng cấp, chủ động phòng chống lũ bão, bảo vệ mùa màng trong điều kiện một tỉnh có 4 mặt sông, biển bao quanh, hàng trăm trạm bơm cỡ lớn cùng với hàng ngàn Km kênh mương quy hoạch hoàn chỉnh thuỷ nông đã chủ động tưới tiêu chấm dứt cảnh chiêm khê, mùa úng góp phần trở thành một tỉnh đạt năng suất lúa 5 tấn thóc đầu tiên trong khói bom ác liệt của cuộc chiến tranh cứu nước năm xưa và cứ thế đi lên ghi thêm những kỷ lục mới 12 tấn/ha. Khi bước vào thời kỳ đổi mới, sau khi có Pháp lệnh Ngân hàng từ năm 1990 đến 1994, Chính phủ giao cho BIDV Thái Bình thử nghiệm một cơ chế mới: Thực hiện tín dụng bằng nguồn vốn Ngân sách Nhà nước chuyển sang đầu tư ưu đãi đối với các công trình SXKD, tính toán được hiệu quả kinh tế trực tiếp, có thu hồi vốn. Qua 5 năm thực hiện nhiệm vụ này, Chi nhánh BIDV Thái Bình đã hoàn thành trọng trách Nhà nước giao cho. * Về tổng tài sản Đến 31/3/2008 thực hiện: 516 tỷ đồng, tăng vượt bậc so với thời điểm thành lập 30/9/2006 đạt 208%. So với định hướng sau 03 năm đạt 115%, so với cuối năm 2007 tăng 11%. * Về huy động vốn Xác định nguồn vốn là một yếu tố quan trọng cho công việc mở rộng hoạt động tín dụng đem lại lợi nhuận cho. Chính vì vậy ngay từ khi nâng cấp lên cấp I, đã xin BIDV cho phép thành lập 01 phòng giao dịch ở cụm công nghiệp Tiền hải, để mở rộng huy động vốn cho vay và phát triển dịch vụ (được BIDV chấp thuận tháng 3/2007 phòng giao dịch Quang trung đã được khai trương và đi vào hoạt động) Tính đến 31/3/2008 đã thực hiện được: 384 tỷ đồng, không tính tiền gửi của KBNN, tăng so với 30/9/2006 là 179% chiếm 20% thị phần huy động vốn trên địa bàn thành phố Thái Bình. Tuy nhiên trên địa bàn Thái Bình chỉ chiếm 3% nên việc huy động vốn cũng hạn chế. * Về tín dụng Dư nợ đến 31/3/2008 đạt: 498 tỷ đồng tăng so với 30/9/2006 là 600%, so với 31/12/2006 tăng 400%, so với 31/12/2007 tăng 124% chiếm 17% thị phần trên địa bàn trú đóng. Tuy nhiên chỉ chiếm 4% thị phần tỉnh Thái Bình. * Chỉ tiêu KHKD về chất lượng, cơ cấu tín dụng đến 31/3/2008 Nợ xấu: 0 – Không có nợ xấu (TW giao <0.8%) Tỷ lệ giảm lãi treo so với năm trước: 100% lãi treo =0 (TW giao 100%) Trích DPRR trong quý I/2008 là 1,55 tỷ đồng, số dư DPRR là 05 tỷ đồng * Chỉ tiêu KHKD về hiệu quả luôn chú trọng khâu điều hành nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong kinh doanh tài sản nợ, tài sản có và các hoạt động tại nguồn cho NH (chênh lệch lãi suất bình quân là 3,9% năm 2007). Năm 2007 chênh lệch thu chi đạt 11 tỷ đồng vượt kế hoạch giao và vượt so với năm 2006 là 139%. Đến thời điểm 31/3/2008 đã đạt: + Chênh lệch thu chi (trích trước DPRR): 08 tỷ đồng, đạt 48% KH 2008 + Thu nợ ngoại bảng (gồm cả gốc và lãi): 300 triệu đồng, đạt 150% kế hoạch 2008. * Chỉ tiêu thu dịch vụ bảo hiểm BIC Ban lãnh đạo xác định dịch vụ là khâu đột phá để phát triển đối với NH hiện đại, vì tiềm năng phát triển dịch vụ là rất lớn, hoạt động dịch vụ mang lại lợi nhuận cao và ít có rủi ro. Kết quả hoạt động dịch vụ mang lại không chỉ đơn thuần là thu phí mà còn góp phần khuyếch trương hình ảnh, thương hiệu vị thế, uy tín của một NH, tăng sức mạnh cạnh tranh, tăng thị phần thị trường, tạo tiền đề để phát triển mạng lưới và kênh phân phối, trở thành hoạt động kinh doanh chính trong tương lai của NH. Năm 2007 thu DVR 02 tỷ đồng đạt 167% kế hoạch. So với năm 2006 tăng trưởng 308%. Chủ động tiếp cận các khách hàng để triển khai các sản phẩm của BIC kết quả phí bảo hiểm thu được là 600 triệu đồng đạt 167% kế hoạch 2007. Đến 31/3/2008 thu DV ròng là 1,33 tỷ đồng đath 38% kế hoạch 2008 Doanh thu khai thác phí bảo hiểm là 145 triệu đồng đạt 12% KH 2008 So với NH trên địa bàn, hoạt động dịch vụ của BIDV Thái Bình là hiện đại, thuận lợi và đa dạng, đáp ứng được đa số nhu cầu của hiện tại trên địa bàn thành phố và 06 huyện thị của tỉnh Thái Bình. Tuy tiêu chí DV hơn hẳn các năm trước, nhưng tỷ trọng thu DV ròng/ lợi nhuận còn nhỏ, chỉ đạt 17%. * Về công tác sử lý nợ xấu, lãi treo, thu nợ ngoại bảng Khi thực hiện bàn giao từ cấp 2 cũ còn 08 khách hàng có dư nợ ngoại bảng, vẫn còn nợ xấu và lãi treo. Trong năm 2007 đã tập trung và kiên quyết sử lý triệt để nợ xấu, thu hết nợ xấu và lãi treo, không để phát sinh nợ xấu, lãi treo, kết quả là nợ xấu = 0, lãi treo = 0. Năm 2007 thu nợ ngoại bảng 1 tỷ đồng đạt 200% kế hoạch. Đến 31/3/2008 được 300 triệu đạt 150% kế hoạch giao. 2.2. Thực trạng chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp Vừa và nhỏ của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thái Bình 2.2.1. Hoạt động tín dụng đối với Doanh nghiệp Vừa và nhỏ của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thái Bình 2.2.1.1. Các hình thức cho vay Hiện nay các hình thức cho vay chủ yếu ở BIDV CN Thái Bình là * Cho vay theo món Là phương thức cho vay mà BIDV CN Thái Bình và khách hàng thoả thuận các khoản vay cụ thể dựa trên nhu cầu vốn của từng phương án kinh doanh của khách hàng, trong đó xác định rõ mục đích sử dụng vốn vay, thời hạn cho vay, ngày trả nợ. Mỗi mỗi phương án, mỗi nhu cầu vay vốn của khách hàng là một món vay, thời hạn cho vay là đến ngày kết thúc phương án kinh doanh, lãi được thu hồi hàng tấng, vốn vay được thu hồi cuối kỳ khi kết thúc kỳ hạn vay. Mỗi món vay (lần vay) khách hàng phải gửi Giấy đề nghị vay vốn, phương án sản xuất kinh doanh và các giấy tờ khác có liên quan đến khoản cho vay cho Ngân hàng xét duyệt, hai bên sẽ phải ký một hợp đồng tín dụng cho khoản vay đó. Phương thức theo món thường áp dụng cho các doanh nghiệp nhỏ, kinh doanh theo mùa vụ, nhu cầu vay vốn không thường xuyên hoặc các khách hàng mới quan hệ vay vốn với BIDV CN Thái Bình, do vậy cần có thời gian theo dõi để đánh giá về uy tín tín dụng cũng như khả năng kinh doanh. * Cho vay theo hạn mức Là phương thức cho vay mà BIDV CN Thái Bình căn cứ vào kế hoạch kinh doanh của khách hàng trong một giai đoạn nhất định để xác định mức dư nợ tối đa khách hàng được phép vay (hạn mức tín dụng) và duy trì hạn mức đó trong thời hạn nhất định để phục vụ cho kế hoạch kinh doanh của khách hàng. Hai bên ký một hợp đồng tín dụng hạn mức quy định về giá trị hạn mức, thời gian hiệu lực của hạn mức, phương thức giải ngân từng khoản vay. Căn cứ vào hạn mức tín dụng đã được duyệt, mỗi lần giải ngân khách hàng chỉ cần lập phương án kinh doanh, Giấy nhận nợ và gửi các chứng từ liên quan đến khoản vay (như hợp đồng đầu vào, đầu ra, hoá đơn mua bán...) cho Ngân hàng xem, nếu được NH đồng ý thì lập Hội đồng tín dụng cụ thể và tờ trình giải ngân. Mục đích cấp hạn mức tín dụng là Ngân hàng cho những doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn thường xuyên đảm bảo được nguồn tài chính phục vụ sản xuất kinh doanh và đơn giản hoá một phần thủ tục vay vốn gãp phần khuyến khích khách hàng đến vay vốn. Để được cấp hạn mức tín dụng, khách hàng cần có: Kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng quý, hàng năm khả thi và có hiệu quả; Có uy tín trong việc vay và trả nợ với BIDV CN Thái ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26079.doc
Tài liệu liên quan