MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Nghị Quyết Hội Nghị Trung Ương lần thứ 6 khóa VIII của ĐCSVN khẳng định: “Sự phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH – HĐH có vai trò cực kỳ quan trọng cả trước mắt và lâu dài, làm cơ sở để ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước theo định hướng XHCN”, thực tế cũng cho thấy vai trò vô cùng quan trọng của phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn trong sự nghiệp đổi mới, HĐH đất nước bởi đây là mặt trận hàng đầu có nền tảng cơ sở phát t
63 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1454 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng cho phát triển nông nghiệp trên địa bàn của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) huyện Văn Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
riển.
Hơn 20 năm sau đổi mới nước ta đã đạt được nhiều thành quả to lớn làm thay đổi diện mạo, làm tăng vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Kinh tế nông nghiệp và nông thôn đã có nhiều khởi sắc bước đầu khẳng định vị trí quan trọng của mình trong nền kinh tế, nhưng nhìn chung thì tốc độ phát triển còn khá thấp nhất là so với các nước tư bản, các nước phát triển và chưa tương xứng với tiềm năng của một ngành trọng điểm.
Là một huyện của vùng đồng bằng sông Hồng, lại là một huyện của một tỉnh nông nghiệp (tỉnh Hưng Yên), Văn Giang có nhiều tiềm năng và điều kiện tự nhiên rất thuận lợi song trình độ phát triển kinh tế lại đang ở mức thấp, tỷ lệ thuần nông lớn, lao động dư thừa, đời sống nhân nhân còn nhiều khó khăn. Vấn đề lớn đặt ra là tìm ra hướng đi nào cho sự phát triển đi lên của nông nghiệp – nông thôn huyện, một trong những giải pháp đem lại hiệu quả cao nhất đang được các cấp, các ngành hết sức chú trọng và được triển khai thực hiện ở hầu khắp các địa phương trên toàn quốc đó là: Tín dụng ngân hàng cho phát triển nông nghiệp – nông thôn.
Vì những lý do trên nên em quyết định chọn đề tài: “ Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng cho phát triển nông nghiệp trên địa bàn của NHNo&PTNT huyện Văn Giang”. Do thời gian nghiên cứu có hạn, trình độ còn hạn chế, khả năng nắm bắt tình hình thực tế cũng như suy luận vấn đề chưa sâu nên bài viết của em còn nhiều thiếu xót rất mong thầy cô đóng góp bổ sung ý kiến giúp em hoàn thành đề tài tốt hơn.
1. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng về tín dụng ngân hàng đối với quá trình phát triển nông nghiệp – nông thôn, từ đó tìm ra các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng ngân hàng cho quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn huyện Văn Giang.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: tín dụng ngân hàng đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn huyện Văn Giang.
- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu trong phạm vi tín dụng của chi nhánh NHNo&PTNT huyện Văn Giang cho quá trình phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện Văn Giang.
3. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp khảo sát thực tế để nghiên cứu, từ đó có những kết luận, kiến nghị đề xuất với NHNo & PTNT huyện Văn Giang những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động cho vay để phát triển nông nghiệp huyện.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng đối với phát triển nông nghiệp – nông thôn.
Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng ngân hàng đối với quá trình phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện Văn Giang
Chương III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng ngân hàng nhằm góp phần phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện Văn Giang.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP - NÔNG THÔN
1.1 Khái quát về nông nghiệp – nông thôn
a) Khái niệm về nông nghiệp – nông thôn
Nông nghiệp theo nghĩa hẹp là ngành sản xuất của cải vật chất mà con người phải dựa vào quy luật sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi tạo ra sản phẩm như lương thực, thực phẩm,… để thỏa mãn các nhu cầu của mình
Nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm cả lâm, ngư nghiệp.
Nông nghiệp là ngành sản xuất phụ thuộc nhiều vào tự nhiên như: đất đai, nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa,… các điều kiện tự nhiên này có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi. Nông nghiệp còn là ngành có năng suất lao động thấp, việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ gặp nhiều khó khăn.
Nông thôn là khái niệm dùng để chỉ một địa bàn mà ở đó sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Kinh tế nông thôn là một khu vực của nền kinh tế gắn liền với địa bàn nông thôn.
b) Vai trò của nông nghiệp – nông thôn:
Nông nghiệp có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của một nước, đặc biệt là với một nước đi lên từ nông nghiệp như nước ta, thể hiện:
Nông nghiệp cung cấp lương thực – thực phẩm cho xã hội:
Ăn là nhu cầu cơ bản nhất của con người, giúp con người sống tồn tại, duy trì và phát triển, thỏa mãn nhu cầu về lương thực, thực phẩm trở thành điều quan trọng tất yếu để ổn định xã hội, ổn định kinh tế. Sự phát triển của nông nghiệp có ý nghĩa quyết định đối với việc thỏa mãn nhu cầu này.
Nông nghiệp cung cấp nguyên liệu đầu vào cho phát triển một số ngành công nghiệp nhẹ:
Các ngành công nghiệp nhẹ như: chế biến lương thực, thực phẩm, chế biến hoa quả, công nghiệp dệt, giấy, đường,... phải dựa vào nguồn nguyên liệu đầu vào chủ yếu từ nông nghiệp. Quy mô, tốc độ tăng trưởng của các nguồn nguyên liệu quyết định quy mô, tốc độ tăng trưởng của các ngành công nghiệp này.
Nông nghiệp cung cấp một phần vốn để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa:
Công nghiệp hóa đất nước là nhiệm vụ trung tâm trong cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình công nghiệp hóa chúng ta cần giải quyết rất nhiều vấn đề phải có vốn, nước ta là một nước nông nghiệp xuất khẩu nông sản phẩm, vì vậy nông nghiệp – nông thôn góp phần giải quyết một phần không nhỏ nhu cầu vốn cho nền kinh tế.
Nông nghiệp – nông thôn là thị trường quan trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ
Ở những nước lạc hậu, nông nghiệp – nông thôn tập trung phần lớn lao động và dân cư, vì thế đây là thị trường quan trọng của công nghiệp và dịch vụ trong nước. Nông nghiệp – nông thôn càng phát triển một mặt làm cho nhu cầu về hàng hóa tư liệu sản xuất (máy móc, thiết bị nông nghiệp, phân bón, thuốc trừ sâu…) tăng lên, kèm theo là những dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp (vốn, thông tin tư vấn, giao thông vận tải, …) cũng ngày càng tăng; mặt khác làm cho đời sốn, mức thu nhập của người dân tăng lên đòi hỏi được đáp ứng nhu cầu về những sản phẩm công nghiệp phục vụ cuộc sống (tivi, tủ lạnh, xe máy…) các dịch vụ văn hóa, y tế, giáo dục, thể thao,…cũng ngày càng tăng.
Phát triển nông nghiệp – nông thôn là cơ sở ổn định kinh tế, chính trị, xã hội:
Phát triển nông nghiệp một mặt đảm bảo nhu cầu lương thực, thực phẩm cho xã hội; nguyên liệu cho công nghiệp nhẹ; thị trường của công nghiêp – dịch vụ…đây chính là cơ sở để ổn định, phát triển nền kinh tế. Mặt khác phát triển nông nghiệp trực tiếp nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho cư dân nông thôn, do đó nó là cơ sở ổn định chính trị, xã hội.
Hiện nay nông nghiệp nước ta còn chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, là ngành có tỷ trọng lớn về lực lượng lao động, do đó kinh tế nông nghiệp đã, đang và sẽ còn là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân, có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
1.2 Khái niệm về tín dụng ngân hàng
a) Khái niệm tín dụng ngân hàng
Theo các nhà kinh tế học hiện đại: Tín dụng là trên cơ sở lòng tin, nghĩa là người cho vay tin tưởng vào người đi vay sử dụng vốn vay có hiệu quả và hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng thời hạn theo thỏa bên giữa 2 bên.
Bản chất của tín dụng là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn giữa người có vốn nhàn rỗi và người thiều vốn (người có nhu cầu về vốn).
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền giữa một bên là Ngân hàng – một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả các tổ chức cá nhân trong xã hội, trong đó Ngân hàng giữ vai trò tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế và các tầng lớp dân cư để cho vay.
Quá trình tập trung và sử dụng nguồn vốn cho vay có quan hệ chặt chẽ với nhau giải quyết tốt mối quan hệ này có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng duy trì và phát triển của ngân hàng.
b) Chức năng của tín dụng ngân hàng
Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ trong xã hội theo nguyên tắc hoàn trả và dưới hình thức cho vay:
Ngân hàng huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư để cho vay của các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi trái phiếu để huy động vốn trong xã hội.
Là người cho vay ngân hàng đáp ứng nhu cầu vay của mọi đối tượng khách hàng khi có nhu cầu thiếu vốn cần bổ sung cho hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Do đó ngân hàng thực hiện chức năng phân phối lại vốn tiền tệ để đâp ứng yêu cấu tái sản xuất của xã hội.
Tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông:
Huy động vốn vào ngân hàng và các tổ chức tin dụng giảm bớt lượng tiền mặt trong lưu thông. Mặt khác hoạt động cho vay chủ yếu tiền bút tệ và thanh toán không dùng tiền mặt rút bớt tiền mặt trong lưu thông cùng những chi phí lưu thông tiền mặt.
Kiểm soát các hoạt động kinh tế:
Ngân hàng và tổ chức tín dụng luôn theo sát và phản ánh một cách chính xác, kịp thời tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các đối tượng vay, các hoạt động kinh tế của các ngành nhằm ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật,…
1.3 Các hình thức tín dụng chủ yếu của ngân hàng thương mại
Ngân hàng No&PTNT nằm trong hệ thống ngân hàng thương mại và chịu sự quản lý trực tiếp của NHNN Việt Nam, vì vậy cũng giống như mọi ngân hàng thương mại khác, NHNo&PTNT cũng có các hình thức tín dụng chủ yếu sau:
1.3.1. Căn cứ theo thời hạn tín dụng
Tín dụng ngắn hạn: cho vay có thời hạn dưới 12 tháng, đáp ứng cho đối tượng có chu kỳ sản xuất ngắn, dịch vụ thương mại, áp dụng cho tất cả các ngành, các thành phần kinh tế. Đối với cho vay ngắn hạn khách hàng phải có tối thiếu 20% vốn tự có trong tổng nhu cầu vốn vay ngân hàng. Loại cho vay này chiếm tỷ trọng cao nhất trong ngân hàng (thường chiếm trên 60% trong cơ cấu cho vay).
Tín dụng trung hạn: cho vay có thời hạn từ 1 năm đến 3 năm, tài trợ để mua sắm TSCĐ, cải tiến hoặc đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất mới các chương trình vừa và nhỏ.
Tín dụng dài hạn: cho vay có thời hạn thông thường từ 3 năm đến 5 năm và có thể lâu hơn, chủ yếu đầu tư xây dựng nhà ở, thiết bị sản xuất, xây dựng các xí nghiệp mới các công trình thuộc cơ sở hạ tầng.
Đối với vốn trung hạn và dài hạn, khách hàng vay phải có vốn tự có tối thiểu 30% trong tổng nhu cầu vốn vay ngân hàng.
1.3.2 Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
Theo tiêu thức này tín dụng được chia làm 2 loại
Tín dụng không có đảm bảo: việc cho vay không yêu cầu phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba mà chỉ dựa vào sự tín nhiệm của ngân hàng đối với khách hàng (uy tín của khách hàng), sử dụng cho khách hàng quen thuộc có khả năng tài chính mạnh.
Tín dụng có đảm bảo: Ngân hàng yêu cầu người đi vay phải có các khoản đảm bảo tài sản vật chất như bất động sản, động sản hoặc bảo lãnh của bên thứ ba.
1.3.3 Căn cứ vào xuất xứ của tín dụng
Tín dụng trực tiếp: là phương thức cho vay mà ngân hàng trực tiếp cho người đi vay vay vốn đồng thời người vay trực tiếp trả nợ (gốc và lãi) cho ngân hàng.
Tín dụng gián tiếp: là phương thức cho vay mà ngân hàng thông qua các tổ chức trung gian để chuyển vốn vay đến người vay, hoặc thông qua việc mua lại các khế ước nợ, các chứng chỉ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán (trong thực tế gọi là tín dụng chiết khấu).
Ngoài ra còn có một số hình thức tín dụng khác như:
Tín dụng cầm cố: cho vay bằng cách người đi vay mang đồ vật có giá trị (vàng, bạc, máy móc thiết bị….), các giấy tờ có giá (thẻ tiết kiệm, kỳ phiếu…) để được vay theo một tỷ lệ nhất định, giá trị vật cầm cố định lượng theo giá cả thị trường (thường 70-80%) thời hạn cho vay.
Tín dụng tiêu dùng: áp dụng đối với những khách hàng vay có thu nhập đều đặn (cán bộ, công nhân viên chức) hàng tháng. Ngân hàng cho vay tạo lập vốn ban đầu mua sắm sửa chữa nhà cửa hoặc những tài sản phục vụ đời sống cũng như phương tiện đi lại. Người vay trích một phần thu nhập để trả nợ.
- ….
1.4. Phương pháp cho vay của ngân hàng
1- Cho vay từng lần: Áp dụng cho những khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên, đối tượng chủ yếu là các hộ sản xuất trong nông nghiệp có nhu cầu vốn không quá lớn dao động từ 10 triệu đồng đến 60 triệu đồng.
Số tiền vay của ngân hàng được xác định căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng, căn cứ vào giá trị tài sản bảo đảm, khả năng hoàn trả nợ của khách hàng, khả năng nguồn vốn của ngân hàng, giới hạn cho vay theo quy định của Pháp luật và của ngân hàng.
Nhu cầu vay
=
Nhu cầu vốn lưu động
-
Vốn chủ sở hữu và vốn huy động khác
2- Cho vay theo hạn mức tín dụng: là phương pháp cho vay mà khách hàng và ngân hàng xác định và thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một thời gian nhất định.
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ vay tối đa được duy trì trong một thời hạn nhất định căn cứ vào phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vay vốn của khách hàng, tỷ lệ cho vay tối đa với tài sản bảo đảm, khả năng nguồn vốn của ngân hàng để thanh toán và thỏa thuận một hạn mức tín dụng theo thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vốn vay – trả nợ thường xuyên, có đặc điểm sản xuất kinh doanh luân chuyển vốn không phù hợp với phương thức cho vay từng lần, có uy tín đối với ngân hàng. Đối tượng chủ yếu là các hộ sản xuất kinh doanh các mặt hàng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và phục vụ đời sống.
Nhu cầu vay lớn nhất
=
Chi phí cần thiết
X
Vốn chủ sở hữu
-
Vốn huy động
Vòng quay vốn lưu động
1.5 Chất lượng tín dụng và các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng.
1.5.1 - Quan niệm về chất lượng tín dụng.
Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội, với nhu cầu vay vốn của người vay và đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Từ quan niệm trên có thể thấy chất lượng tín dụng được thể hiện qua ba nhân tố:
Đối với khách hàng: việc cho vay phải đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vốn vay của khách hàng theo đúng mục đích sử dụng, thủ tục vay đơn giản dễ hiểu và đảm bảo nguyên tắc cho vay giúp khách hàng bổ sung vốn thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả.
Đối với ngân hàng: chất lượng tín dụng thể hiện ở thời hạn tín dụng, quy mô, lãi suất phù hợp với nguồn vốn huy động và tiềm lực của ngân hàng. Chất lượng cho vay đạt được nghĩa là khoản vay được hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng thời hạn, giảm thiểu rủi ro mất vốn của ngân hàng.
Đối với phát triển kinh tế xã hội: Tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hóa, góp phần giải quyết việc làm, khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt các mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng với tăng trưởng kinh tế.
Có thể nói chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, phản ánh tổng quát nhất hoạt động tín dụng của ngân hàng. Để đạt được chất lượng tín dụng tốt cần có sự quản lý. Quản lý tín dụng gắn liền với quy trình tín dụng bao gồm một chuỗi các hoạt động từ khâu thẩm định xét duyệt hồ sơ cho vay cho đến khâu cuối cùng thu nợ thanh lý hợp đồng tín dụng, qua đó đánh giá khách hàng vay để có thông tin cho lần vay tiếp theo nếu khách hàng có nhu cầu. Vì vậy có thể đánh giá tín dụng qua hệ thống các chỉ tiêu về chất lượng tín dụng. Để chất lượng tín dụng được đảm bảo trước tiên đòi hỏi ở mỗi thành viên trong tổ chức ngân hàng phải hiểu và thực hiện tốt quá trình quản lý chất lượng, hiểu đúng bản chất sẽ giúp ngân hàng tìm được biện pháp quản lý thích hợp vừa đảm bảo khả năng sinh lời vừa đảm bảo an toàn của đồng vốn cho vay.
1.5.2 - Chỉ tiêu phản ánh chât lượng tín dụng ngân hàng
Chất lượng tín dụng thể hiện sự thỏa mãn nhu cầu về vốn của khách hàng, có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển và bảo đảm hoạt động của ngân hàng ở cả 2 khía cạnh là khả năng sinh lời và giảm thiểu rủi ro về sử dụng vốn. Cho đến nay vẫn chưa có một hệ thống chỉ tiêu mang tính chuẩn mực nào được đưa ra để đánh giá chất lượng tín dụng, do vậy em chỉ đưa ra một vài chỉ tiêu thông dụng được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng trong công tác đánh giá:
a) Các chỉ tiêu định lượng
Là những chỉ tiêu có thể đo lường xác định được. Chỉ tiêu này thường được xác định sau khi cho vay, đánh giá kết quả hoạt động cho vay của ngân hàng, bao gồm: Doanh số cho vay, doanh số thu nợ, dư nợ cho vay, tỷ lệ nợ xấu/ Tổng dư nợ, hệ số sử dụng vốn cho vay, thu nhập từ hoạt động cho vay, dự phòng rủi ro/ tổng dư nợ. Trong đó:
Doanh số cho vay phản ánh lượng vốn mà ngân hàng cho vay trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Con số và tốc độ tăng trưởng của doanh số cho vay qua các năm phản ánh quy mô và xu hướng hoạt động cho vay của ngân hàng là mở rộng hay thu hẹp
Doanh số thu nợ phản ánh lượng vốn mà ngân hàng đã thu hồi trong một thời kỳ nhất định, phản ánh hiệu quả nguồn vốn ngân hàng đã đầu tư cho vay.
Dư nợ cho vay phản ánh lượng vốn mà các khách hàng vay còn nợ lại ngân hàng, phản ánh quy mô cho vay của ngân hàng. Tổng dư nợ thấp phản ánh chất lượng tín dụng thấp, ngân hàng không mở rộng được hoạt động tín dụng. và ngược lại.
Nói chung doanh số cho vay lớn, khả năng thu hồi nợ tốt, khách hàng trả gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn cả thì chất lượng cho vay là tốt.
Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu: Nợ xấu là các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi khi đến kỳ hạn.
Tỷ lệ nợ xấu/ tổng dư nợ: là tỷ lệ % giữa số dư nợ xấu và tổng dư nợ,
Tỷ lệ nợ xấu
=
Số dư nợ xấu
X
100%
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ xấu cao mức độ rủi ro tín dụng lớn gây nguy hiểm cho hoạt động của ngân hàng, lúc này chất lượng tín dụng được đánh giá thấp và ngược lại.
Hiện nay tỷ lệ nợ xấu đang trở thành tiêu thức chủ yếu đánh giá chất lượng tín dụng.
Thu nhập hoạt động cho vay
Thu lãi cho vay / tổng doanh thu là chỉ tiêu để đo lường khả năng sinh lời của ngân hàng do hoạt động tín dụng mang lại. Chỉ tiêu này càng cao, hoạt động tín dụng càng đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng và ngược lại.
b) Các chỉ tiêu định tính
Các chỉ tiêu định tính không đo lường được, không lượng hóa được mà chỉ mang tính chất tương đối về chất lượng cho vay của ngân hàng. Chỉ tiêu định tính thể hiện ở việc đảm bảo tính tuân thủ trong hoạt động tín dụng, ở chất lượng cán bộ tín dụng, ở sự hài lòng của khách hàng đối với các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp
Tính tuân thủ trong hoạt động tín dụng: là việc chấp hành tốt các quy định về đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời của đồng vốn cho vay, thực hiện đầy đủ các quy định của Pháp luật, của ngân hàng có liên quan đến hoạt động tín dụng. Có như vậy hoạt động tín dụng mới nâng cao được cả về số lượng và chất lượng. Hệ thống các quy định, quy chế là cơ sở để cán bộ tín dụng thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình.
Chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng: Hoạt động cho vay là hoạt động chụi nhiều rủi ro vì vậy đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có năng lực chuyên môn đáp ứng được yêu cầu công việc đồng thời năng lực quản lý điều hành của bộ máy lãnh đạo cúng có tấc động quyết định đến hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Sự hài lòng của khách hàng đối với dịch vụ của ngân hàng được thể hiện ở sự hợp lý về lãi suất huy động và lãi suất cho vay, ở sự đáp ứng yêu cầu đo dạng của khách hàng về sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng với thời gian nhanh nhất, thủ tục thuận tiện nhất, thái độ phục vụ tận tình chu đáo,…tất cả đều nhằm tạo dựng củng cố lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng.
Chất lượng tín dụng còn thể hiện ở chỉ tiêu tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập và lợi ích của người lao động từ những dự án vay vốn sản xuất, kinh doanh của ngân hàng.
Tất cả các chỉ tiêu trên dù là định tính hay định lượng và tùy trong từng điều kiện kinh tê – xã hội nhất định sẽ có những đánh giá khác nhau, đánh giá chất lượng tín dụng tạo điều kiện cải tiến và hoàn thiện các sản phẩm tín dụng ngân hàng đáp ứng yêu cầu phát triển của ngân hàng, của nền kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.
1.5.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
a) Các nhân tố khách quan: nhân tố bên ngoài ảnh hưởng, tác động đến hoạt động tín dụng ngân hàng bao gồm:
Môi trường kinh tế - xã hội – pháp lý:
Tình hình kinh tế địa phương có ảnh hưởng đến hoạt động cho vay, kinh tế mà phát triển, thị trường sản phẩm đầu ra đầu vào sôi động tạo nhiều cơ hội mở rộng hoạt động kinh doanh cho các thành phần kinh tế, các phương án kinh doanh mang tính khả thi hơn nên nhu cầu vốn đầu tư vào sản xuất tăng ngân hàng sẽ mở rộng được quy mô cho vay, đồng thời chất lượng các khoản vay cũng được tăng lên. Ngược lại kinh tế địa phương chậm phát triển, không thu hút được các nhà đầu tư vào sản xuất kinh doanh theo đó nhu cầu về vốn bị giảm mạnh ngân hàng không thê mở rộng cho vay.
Tín dụng được hình thành trên cơ sở lòng tin, lòng tin được củng cố bằng hệ thống pháp lý ràng buộc giữa các đối tác với nhau. Nếu thiếu đi các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động ngân hàng sẽ làm tăng tính rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng và làm giảm chât lượng tín dụng. Quản lý xã hội không thế không có pháp luật, để cho mọi hoạt động diễn ra trôi chảy, nhịp nhàng tín dụng cũng không thể không có pháp lý làm nền tảng để các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng được bảo vệ quyền lợi của mình.
Các nhân tố thuộc về khách hàng:
Thứ nhất là nhu cầu đầu tư của khách hàng: hoạt động đầu tư nhằm tìm kiếm lợi nhuận, nếu lợi nhuận thu về càng lớn khát vọng đầu tư càng cao, ngân hàng càng có điều kiện mở rộng tín dụng.
Thứ hai là năng lực của khách hàng: là một trong những điều kiện tín dụng mà ngân hàng đặt ra nhằm tiêu chuẩn hóa khả năng của khách hàng trong quá trình cho vay để đảm bảo khả năng thu hồi vốn của ngân hàng. Năng lực của khách hàng thể hiện ở năng lực thị trường của khách hàng, vị thế của khách hàng trên thị trường, hệ thống mạng lưới phân phối, chất lượng sản phẩm.
Thứ ba là khả năng tài chính của khách hàng: tài chính của khách hàng càng lớn mạnh sẽ càng thuận lợi cho hoạt động sản xuât kinh doanh để mở rộng quy mô hay đầu tư cho phát triển chiều sâu nhằm đem lại lợi nhuận ngày càng nhiều, như vậy lòng tin của ngân hàng với khách hàng càng được củng cố, độ an toàn của các khoản cho vay được đảm bảo hơn. Việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước hay trả lãi và gốc vay ngân hàng đầy đủ, đúng hạn cũng phản ánh được phần nào năng lực tài chính của khách hàng.
Thứ tư là rủi ro về đạo đức từ phía khách hàng vay: là trường hợp khách hàng cố tình vi phạm các cam kết với ngân hàng khi đó nguyên tắc tín nhiệm trong tín dụng bị phá bỏ, nếu đạo đức của khách hàng và các ràng buộc chưa được ngân hàng quan tâm đúng mức dẽ dẫn đến việc phát sinh các khoản nợ xấu cho ngân hàng.
Thứ năm là rủi ro trong hoạt động sản xuất, kinh doanh: hoạt động sản xuất kinh doanh luôn tiềm ẩn những rủi ro do chủ quan hay một số nguyên nhân không thể kiểm soát được đặc biệt là kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp khi mà điều kiện tự nhiên có tác động mạnh tới kết quả hoạt động kinh doanh. Nếu các phương án kinh doanh được ngân hàng tài trợ gặp khó khăn thì khả năng trả nợ vốn vay cho ngân hàng bị đe dọa, khó khăn tạm thời về dòng tiền của khách hàng làm chậm trễ kỳ thanh toán ảnh hưởng đến kế hoạch thanh khoản của ngân hàng. Trầm trọng hơn khi chủ đầu tư bị mất vốn khó có khả năng trả nợ gây ra các khoản nợ khó đòi cho ngân hàng.
b) Các nhân tố chủ quan: là những nhân tố liên quan đến bản thân ngân hàng trên mọi mặt như việc xây dựng chiến lược phát triển ngân hàng, chính sách về tín dụng, xây dựng cơ cấu ngân hàng và quản lý hoạt động cho vay, công tác kiểm tra, kiểm soát, hệ thống thông tin ngân hàng….có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng.
Chiến lược phát triển ngân hàng: ảnh hưởng đến quy mô cho vay. Mỗi ngân hàng đều có những định hướng phát triển, xác định mục tiêu cho riêng mình. Chi nhánh ngân hàng luôn xác định địa bàn nông thôn là thị trường mục tiêu, khách hàng cho vay chủ yếu là các hộ sản xuất kinh doanh trong huyện, thực hiện vai trò kinh doanh phục vụ cho phát triển nông nghiệp – nông thôn, ngân hàng luôn ưu tiên phát triển kinh tế hộ gia đình – tế bào góp phần quan trọng cho sự phát triển kinh tế của đất nước.
Chính sách tín dụng: kim chỉ nam đảm bảo cho hoạt động cho vay đi đúng hướng , có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của mọi ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời của đồng vón cho vay trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật, các quy định của hệ thống ngân hàng, và theo đường lối chính sách của Đảng – Nhà nước, điều đó có nghĩa là chất lượng tín dụng phụ thuộc vào chính sách tín dụng của ngân hàng có đúng đắn hay không.
Quy trình tín dụng: là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của Ngân hàng trong việc cho vay, bao gồm những quyết định cần phải thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng, được bắt đầu từ khi thẩm định hồ sơ, thiết lập hồ sơ, xét duyệt cho vay, phát tiền vay, kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay, thu lãi cho đến khi thu hồi hết nợ. Chất lượng tín dụng có được đảm bảo hay không tùy thuộc vào việc thực hiện tốt hay không các quy định ở từng bước và sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các bước trong quá trình tín dụng.
Hiện nay các NHTM thực hiện cho vay theo quy trình sau:
Bước 1: Tiếp nhận, hướng dẫn khách hàng về hồ sơ vay vốn. Cán bộ tín dụng làm đầu mối hướng dẫn khách hàng về hồ sơ vay vốn, kiểm tra tính đầy đủ, hợp pháp, hợp lệ của hồ sơ tín dụng
Bước 2: Thẩm định các điều kiện tín dụng
Bước 3: Xét duyệt cho vay, ký hợp đồng tín dụng
Bước 4: Giải ngân, theo dõi, giám sát việc sử dụng vốn vay
Bước 5: Thu nợ, lãi và xử lý các phát sinh
Bước 6: Thanh lý hợp đồng tín dụng
Không thể thiếu bất cứ một bước nào trong sáu bước trên bởi quá trình tín dụng là sương sống trong hoạt động cho vay của ngân hàng.
Trong qui trình tín dụng, bước thẩm định cho vay, thiết lập hồ sơ và xét duyệt cho vay rất quan trọng, là cơ sở định lượng rủi ro trong quá trình cho vay. Chất lượng tín dụng phụ thuộc vào công tác thẩm định đối tượng được vay vốn cũng như quy định về điều kiện và thủ tục cho vay.
Kiểm tra quá trình cho vay giúp ngân hàng nắm được tình hình, diễn biến của khoản cho vay đã cung cấp để có những hành động điều chỉnh hoặc can thiệp kịp thời giảm thiểu và ngăn ngừa rủi ro có thể xảy ra. Việc lựa chọn và áp dụng có hiệu quả các hình thức kiểm tra sẽ hình thành nên một hệ thống các giải pháp phòng ngừa hữu hiệu cho hoạt động tín dụng góp phần cải thiện chất lượng tín dụng.
Thu nợ, thu lãi, thanh lý khoản vay có tính quyết đinh đến sự tồn tại của ngân hàng. Thông qua việc thu lãi, thu nợ để phát hiện kịp thời những hiện tượng bất thường đối với mỗi món vay từ đó có những biện pháp xử lý chính xác, đúng lúc làm giảm bớt các khoản nợ xấu, khó đòi tác động tiêu cực đến chất lượng tín dụng.
Sơ đồ1.1: Diễn giải quy trình cho vay của NHTM:
Khách hàng Cán bộ tín dụng Hồ sơ xin vay:
1
cung cấp tiếp xúc khách - Đơn xin vay
tài liệu, hàng, tư vấn - Hồ sơ pháp lý
thông tin hướng dẫn - Dự án, p/án kinh doanh
2
+Thông tin thu thập qua trao đổi,
điều tra
+Cập nhật thông tin: Thẩm định hồ sơ
- thị trường
3
- chính sách
- pháp lý
5b
4
- khách hàng Quyết định cho vay
5a
Thông báo Thực hiện quyết định cho vay
5b
- Cho vay
- Từ chối và lý do
- Thông báo khác
6
Ký hợp đồng tín dụng
Giải ngân
7
Tổ chức giám sát khách hàng
8
9a
9b
Thu nợ
12
Xử lý rủi ro
10c
10a
10b
Thu đủ Thu không đủ Gia hạn nợ, đảo nợ
11b
11b
Xử lý tài sản, khởi kiện
Thanh lý hợp đồng
Sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bước trong quy trình tín dụng tạo điều kiện cho vốn tín dụng được luân chuyển bình thường, theo đúng kế hoạch đã định nhờ đó chất lượng tín dụng được đảm bảo.
Chất lượng nguồn nhân lực và cơ cấu tổ chức bộ máy:
Bộ máy tổ chức ngân hàng được sắp xếp một cách khoa học, có sự phối hợp chặt chẽ nhịp nhàng giữa các phòng ban tạo điều kiện cho các hoạt động tín dụng thực hiện tốt hơn – là cơ sở để hình thành các nghiệp vụ tín dụng một cách lành mạnh và quản lý có hiệu quả nguồn vốn cho vay.
Nguồn nhân lực luôn là yếu tố quan tâm hàng đầu trong một tổ chức, quyết định đến sự tồn tại phát triển hay sự sụp đổ của tổ chức đó. Đối với ngân hàng việc lựa chọn nhân sự có đạo đức nghề nghiệp tốt, có tinh thần trách nhiệm, tâm huyết với công việc của mình, có trình độ chuyên môn sẽ giúp ngân hàng tránh được những sai phạm có thể xảy ra trong quá trình thực hiện cho vay.
Trong môi trường cạnh tranh hiện nay, chất lượng phục vụ của đội ngũ nhân sự có vai trò quyết định đến kết quả thu hút khách hàng, nâng cao uy tín cho ngân hàng.
Kiểm soát nội bộ: giúp ban lãnh đạo có được các thông tin về tình trạng kinh doanh để có những điều chỉnh hợp lý, kịp thời nhằm đem lại hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Kiểm soát viên tiến hành kiểm tra định kỳ các hoạt động tín dụng phát hiện những vi phạm, tìm hiểu nguyên nhân các sai xót xảy ra trong quá trình thực hiện hoạt động cho vay từ đó có những biện pháp khắc phục kịp thời. Ngoài ra hệ thống ngân hàng trong tỉnh còn có sự kiểm
Thông tin tín dụng: là một yếu tố vô cùng quan trọng trong quá trình cho vay, tác động trực tiếp đến quá trình ra quyết định cho vay, thông tin tín dụng giúp ngân hàng nắm bắt được tình hình sử dụng vốn vay của các khách hàng từ đó có những điều chỉnh hợp lý đảm bảo nguồn vốn vay được an toàn.
Ngân hàng luôn gặp phải 2 vấn đề khi cho vay đó là sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Lựa chọn đối nghịch là khi ngân hàng cho vay những trường hợp rủi ro không trả được nợ trong khi đó những người có khả năng trả được nợ lại không được vay. Rủi ro đạo đức là việc người đi vay cố tình thực hiện những hành động không tốt dẫn đến giảm bớt khả năng hoàn trả vốn cho ngân hàng, do đó thông tin tín dụng là rất cần thiết, thông tin tín dụng càng nhanh chóng, đầy đủ, chính xác càng giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh và chất lượng tín dụng càng cao.
Tất cả các nhân tố trên là khách quan hay là chủ quan thì đều có sự tác động đến chất lượng tín dụng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp theo những khía cạnh khác nhau, vì vậy là một nhà quản lý cần phải nắm bắt được những chiều hướng tác động đó để có những giải pháp đề phòng giảm thiểu rủi ro đến mức thấp nhất có thể.
1.6. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự nghiệp sản xuất nông nghiệp
Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, tín ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22298.doc