Nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank) Hà Nội

Tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank) Hà Nội: ... Ebook Nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank) Hà Nội

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1957 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank) Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Nằm trong khu vực được coi là năng động nhất trên thế giới,Việt Nam có được những thuận lợi để phát triển, hội nhập cùng các nước trong khu vực và trên thế giới. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải rất linh hoạt và năng động để tiêp thu những thành tựu tiên tiến cũng như kinh nghiệm phát triển của các nước trên thế giới.Trong đó Ngân hàng là một trong những ngành kinh tế tài chính quan trọng bậc nhất trong việc phát triển của nền kinh tế.Tuy hoạt động Ngân hàng ở nước ta gặp nhiều khó khăn và còn nhiều vấn đề tồn tại nhất là trong khâu tín dụng của các NHTM.Tín dụng là hoạt động kinh doanh cơ bản của NHTM nhưng chất lượng tín dụng chưa cao đang là mối quan tâm của các cấp lãnh đạo,các cấp quản lí và điêu hành hệ thống Ngân hàng. Là một trong các Ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất hiện nay, Ngân hàng Ngoại thương trong thời gian qua đã có những bước phát triển lớn mạnh không ngừng.Tuy nhiên trong lĩnh vực tín dụng và đặc bịêt là tín dụng ngắn hạn Ngân hàng gặp không ít khó khăn.Bởi vậy chất lượng tín dụng ngắn hạn là vấn đề mà Ngân hàng cần đặc biệt quan tâm. Xuất phát từ lý do trên trong thời gian thực tập tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội em đã chọn đề tài ”Nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội’’ làm chuyên đề tốt nghiệp. Bố cục của chuyên đề ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo gồm 3 phần: Chương 1: cơ sớ lí luận về chất lượng tín dụng ngắn hạn Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội. Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGẮN HẠN 1.1. Tổng quan về tín dụng ngắn hạn Khái niệm và phân loại Khái niệm: Thông thường các khoản mục tín dụng chiếm khoảng 70% tổng tài sản Có của các NHTM, với quy mô như vậy tín dụng có một tầm ảnh hưởng rất lớn đến nhiều chiến lược hoạt động của Ngân hàng như dự trữ, cho vay, đầu tư… Khi đầu tư vào việc gì hay đầu tư vào một lĩnh vực nào đó, nhà đầu tư luôn hi vọng có thể tìm kiếm được những lợi ích từ việc đầu tư đó. Tuy nhiên, chúng ta biết dến một nguyên tắc tài chính đó là lợi nhuận kì vọng càng cao thì rủi ro càng lớn, nên khi ra một quyết đinh đầu tư hoặc tài trợ thì nhà đầu tư luôn luôn phải cân nhắc giữa dầu tư mạo hiểm để có thể thu được lợi nhuận cao, hay dầu tư an toàn và chắc chắn thu được lợi nhuận. NHTM luôn luôn đặt mục tiêu an toàn và sinh lợi lên hàng đầu, điều này lí giài tại sao hiện nay thì việc cung ứng Tín dụng ngắn hạn của Ngân hàng chiếm phần lớn tín dụng của NHTM. NHTM cũng cung cấp Tín dụng trung và dài hạn cho khách hàng tuy nhiên loại hình tín dụng này tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn. Vậy Tín dụng ngắn hạn là gì và tại sao lại cho rằng nó lại có độ an toàn cao hơn các loại hình tín dụng khác. Như ở trên ta đã biết Tín dụng ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn từ dưới 1 năm và được sử dụng chủ yếu để bù đắp sự thiếu hụt về vốn lưu động của doanh nghiệp, các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của các cá nhân. Trước hết, khi phân chia tín dụng thành tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung và dài hạn thì đây là cách phân loại theo thời gian tín dụng. Như vậy nếu trong thời gian ngắn thì biến động về kinh tế, thị trường, chính sách…xảy ra sẽ ít hơn so với thời gian dài do đó khi cung cấp tín dụng ngắn hạn Ngân hàng có thể dự kiến, kiểm soát khoản cho vay của mình dễ dàng hơn so với việc dự kiến, kiểm soát tín dụng trung và dài hạn. Thứ hai, qui mô tín dụng ngắn hạn thường nhỏ hơn rất nhiều so với qui mô tín dụng trung và dài hạn do đó thời gian Ngân hàng thu hôì vốn sẽ nhanh hơn vốn có thể quay vòng nhiều hơn. Và giả sử có xảy ra tổn thất thì với tín dụng ngắn hạn Ngân hàng thường sẽ chịu ít tổn thất hơn do qui mô của tín dụng ngắn hạn thường không lớn như cho vay trung và dài hạn. Thứ ba, thường thì cả tín dụng ngắn hạn hay tín dụng trung và dài hạn đều phải có tài sản đảm bảo, trong thời gian ngắn thì việc quản lí tài sản đảm bảo sẽ dễ dàng hơn trong thời gian dài do biến động của giá cả thị trường, hao mòn của tài sản. Tóm lại, tín dụng ngắn hạn sẽ ít rủi ro hơn và an toàn hơn so với tín dụng trung và dài hạn. Nếu xét về tổng thể tín dụng ngắn hạn là một loại tài sản đem lại cho Ngân hàng một khoản lợi nhuận rất lớn. Phân loại: + Phân chia Tín dụng Ngân hàng theo hình thức tài trợ Cho vay là việc Ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Chiết khấu thương phiếu là việc Ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của Ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nợ). Cho thuê là việc Ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định và sau một thời gian nhất định khách hàng phải trả cả gốc và lãi cho Ngân hàng. Bảo lãnh là việc Ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính với các bên đối tác của khách hàng của mình thay cho khách hàng của mình. + Phân chia Tín dụng Ngân hàng theo đảm bảo Tín dụng có tài sản đảm bảo là loại hình tín dụng mà bên đi vay phải thế chấp, cầm cố tài sản tại Ngân hàng đảm bảo khoản tiền Ngân hàng cho vay có khả năng thu hồi nếu khách hàng không có khả năng trả nợ khi đến hạn. Tín dụng không có tài sản đảm bảo là loại hình tín dụng mà bên đi vay không cần thế chấp hay cầm cố tài sản cho khoản tiền vay Ngân hàng. + Phân chia Tín dụng Ngân hàng theo mức độ rủi ro Gồm có các khoản tín dụng có độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp. + Phân chia Tín dụng Ngân hàng theo ngành nghề kinh tế Có thể gồm Tín dụng nông nghiệp và lâm nghiệp, thuỷ sản hoặc Tín dụng công nghiệp khai thác, chế biến, sản xuất, xây dựng, Tín dụng thương nghiệp, tài chính, vận tải …. + Phân chia theo đối tượng kh ách h àng Gồm có tín dụng tài trợ cho tài sản lưu động , tín dụng tài trợ cho tài sản cố định. + Phân chia theo mục đích sử dụng gồm tín dụng tài trợ cho mục đích phát triển, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tín dụng tài trợ cho mục đích tiêu dùng. 1.1.2 Vai trò của tín dụng ngắn hạn: Tín dụng ngắn hạn có vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế- xã hội . Đây là nguồn vốn khá lớn của nền kinh tế, nguồn vốn vay ngắn hạn đã góp phần làm ổn định, duy trì và mở rộng sản xuất đối với doanh nghiệp, nâng cao đời sống của các cá nhân, là cơ sở cho một nền kinh tế ổn định và phát triển. Tín dụng ngắn hạn có vai trò quan trọng với nền kinh tế nói chung, và đối với Ngân hàng cũng như các doanh nghiệp nói riêng. Đối với nền kinh tế Là một trung gian tài chính NHTM là nơi tập trung, tích tụ ngồn vốn và phân bổ đầu tư có hiệu quả trong nền kinh tế. Cho vay là một hoạt động mang tính chất đầu tư cho nền kinh tế của NHTM. Trong khi thị trường chứng khoán, các tổ chức tài chính trung gian phi Ngân hàng như các công ty bảo hiểm, công ty tài chính,các quỹ đầu tư... có nhiệm vụ trong việc đưa vốn trung và dài hạn vào nền kinh tế, thì đối với vốn ngắn hạn lại phần lớn thuộc về vai trò của NHTM. Thị trường tiền tệ với trung gian tài chính NHTM luôn luôn là nơi cung cấp nguồn vốn rất lớn cho nền kinh tế. Đối với doanh nghiệp Cho vay ngắn hạn là nguồn bổ sung kịp thời cho các nhu cầu về vốn ngắn hạn của doanh nghiệp. Nguồn vốn này giúp các doanh nghiệp tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc giúp các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn tạm thời về tài chính.Có nhiều trường hợp, vay vốn Ngân hàng còn là giải pháp tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp bắt kịp các cơ hội kinh doanh, tận dụng được thời cơ phát triển sản xuất. Cho vay ngắn hạn là yếu tố tác động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các điều kiện trong cho vay ngắn hạn tạo áp lực buộc doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Đối với doanh nghiệp lớn, phần lớn vốn lưu động đều vay của Ngân hàng dưới hình thức cho vay ngắn hạn ứng trước để đáp ứng các cơ hội kinh doanh do tính chất của cho vay ứng trước là doanh nghiệp phải trả lãi trên toàn bộ dư nợ, kể cả dư nợ chưa sử dụng đến, cho nên bắt buộc doanh nghiệp phải quay vòng vốn nhanh. Đối với Ngân hàng Hoạt động tín dụng nói chung và cho vay ngắn hạn nói riêng là nguồn thu chủ yếu cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Cho vay ngắn hạn luôn là hình thức chủ đạo của Ngân hàng, tạo nguồn thu chủ yếu để bù đắp các chi phí (chi phí huy động vốn, chi phí cho hoạt động của Ngân hàng – chi trả lương, chi phí quản lý). Mặt khác cho vay ngắn hạn còn là yếu tố quan trọng để đảm bảo khả năng thanh khoản của Ngân hàng, làm tăng tính thanh khoản. 1.1.3 Các hình thức tín dụng ngắn hạn: Để phục vụ việc quản lý các khoản cho vay ngắn hạn, Ngân hàng thường phân loại tín dụng theo các tiêu chí khác nhau như theo phương thức cho vay, theo mục đích sử dụng vốn vay, tài sản đảm bảo. Theo mục đích sử dụng vốn vay, các khoản vay ngắn hạn được sử dụng với các mục đích: Cho vay mua hàng dự trữ : Đây là một trong những mục đích sử dụng vốn vay đầu tiên khi tín dụng ra đời, các thương nhân trước đây vì chưa thu được tiền bán hàng cho nên họ cần có vốn để mua hàng mới, do đó phải vay vốn Ngân hàng. Kỳ hạn của các khoản vay này thường được tính từ lúc doanh nghiệp cần vốn để mua hàng cho đến khi thu được tiền bán hàng và trả nợ cho Ngân hàng. Đây là các khoản cho vay truyền thống của Ngân hàng, giờ đây những khoản cho vay này chiếm hơn 50% giá trị của doanh mục cho vay của Ngân hàng thương mại. Cho vay vốn lưu động : Những khoản vay ngắn hạn này thường được doanh nghiệp sử dụng để đáp ứng mức sử dụng và nhu cầu tín dụng trong thời kỳ cao điểm của chu kỳ dự trữ, các khoản này cũng thường được dùng để mua hàng dự trữ ngoài ra còn được dùng để trả lương công nhân nộp thuế... Kỳ hạn của những khoản vay này thông thường được tính toán tương đương với chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp, đảm bảo có thể cung cấp vốn cho khách hàng ở thời kỳ cao điểm của chu kỳ kinh doanh Cho vay ngắn hạn các công trình xây dựng: Để tài trợ các công trình xây dựng lớn người vay vốn thường vay vốn trung và dài hạn, tuy nhiên trong quá trình chờ giải ngân vốn, doanh nghiệp thường phải đi vay vốn ngắn hạn để phục vụ các hoạt động xây dựng, thuê nhân công, mua thiết bị xây dựng, nguyên vật liêu. Khi giai đoạn xây dựng kết thúc, doanh nghiệp sử dụng vốn được giải ngân để trả cho các khoản vay ngắn hạn hoặc sử dụng công trình để vay thế chấp dài hạn. Kỳ hạn của những khoản vay này được tính toán theo các giai đoạn thi công khác nhau, có thể dài hơn 1 năm. Cho vay để kinh doanh chứng khoán: Người vay kinh doanh chứng khoán chính phủ và chứng khoán tư nhân thường cần có sự giúp đỡ của vốn ngắn hạn để mua chứng khoán mới và duy trì doanh mục chứng khoán hiện có cho tới khi bán hoặc tới kì hạn phải thanh toán. Những khoản vay kinh doanh chứng khoán chính phủ thường được các Ngân hàng sẵn sàng cho vay bởi đây là khoản cho vay có chất lượng cao, được đảm bảo bằng chính các chứng khoán chính phủ mà các nhà kinh doanh đang nắm giữ. Thời hạn của các khoản vay này rất ngắn hạn có khi chỉ là vay qua đêm hoặc trong vài ngày. Cho vay kinh doanh bán lẻ: Những đối tượng khách hàng của loại vay kinh doanh bán lẻ này là những người kinh doanh hàng hoá lâu bền như ô tô, đồ dùng gia đình... Ngân hàng có thể cho vay thông qua việc hỗ trợ người tiêu dùng mua trả góp hàng hoá các hợp đồng trả góp sẽ được Ngân hàng mua lại. Ngoài ra Ngân hàng cho những người bán lẻ vay để mua hàng và sử dụng ngay những hàng hoá này để làm vật thế chấp, khi những loại hàng hoá này bán thu được tiền sẽ trả lại cho Ngân hàng. Theo phương thức cho vay trong giai đoạn đầu hình thành, Ngân hàng thương mại thực hiện cho vay ngắn hạn dưới hình thức đơn giản như cho vay trực tiếp để mua hàng, do yêu cầu phát triển của nền kinh tế đã hình thành nên các nghiệp vụ khác như chiết khấu thương phiếu, cho vay theo hạn mức... ngày nay các nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn càng trở nên đa dạng và phong phú hơn nhằm đắp ứng mọi nhu cầu của khách hàng tuy vậy tại các Ngân hàng thương mại vẫn luôn duy trì một số phương thức tín dụng ngắn hạn cơ bản: Chiết khấu thương phiếu: Là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn trong đó khách hàng chuyển nhượng lại thương phiếu chưa đáo hạn cho Ngân hàng để đổi lấy một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ lãi chiết khấu và phí hoa hồng, đây là hình thức cho vay gián tiếp trong khâu thanh toán trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, mua bán chịu hàng hoá là hành vi thương mại phổ biến xuất phát từ nhiều mục đích khác nhau như cung cầu tín dụng, mục đích khuyến mại hay để cạnh tranh thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường. Trong mua, bán chịu hàng hoá bên bán giao hàng và chuyển quyền sở hữu cho bên mua nhưng chưa nhận được tiền mà chỉ nhận được một giấy nợ chờ thanh toán. Giấy nợ có thể là một hoá đơn hàng hoá trả chậm hoặc là một thương phiếu, trong trường hợp giấy nợ chưa đến hạn thanh toán nhưng người bán lại cần tiền để đáp ứng nhu cầu kinh doanh của mình họ có thể nhường lại cho các Ngân hàng mà không cần đợi đến lúc đáo hạn. Cho vay trực tiếp: gồm một số nghiệp vụ như cho vay theo hạn mức, thấu chi , cho vay từng lần..... Cho vay theo hạn mức : Ngân hàng sẽ căn cứ vào nhu cầu sử dụng vốn, chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để xác định hạn mức tín dụng. Trong nhiệp vụ này Ngân hàng không xác định trước kỳ hạn nợ và thời hạn tín dụng, doanh nghiệp có thể yêu cầu Ngân hàng chi trả liên tục nhưng cũng luôn phải có tiền vào để đảm bảo cuối quý dự nợ bằng hạn mức tín dụng quy định. Cho vay thấu chi: Ngân hàng cho khách hàng vay để khắc phục khó khăn tạm thời về tài chính trong những trường hợp nhất định như khi doanh nghiệp đã bán hàng nhưng chưa có tiền để trả lương cho nhân viên hoặc nộp thuế..... Ngân hàng cho phép khách hàng có mức chi vượt số dư nợ cuối quý, thu được trong thời gian nhất định. Nghiệp vụ này thường chỉ được thực hiện đối với những khách hàng đặc biệt, đáng tin cậy và có uy tín. Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên quá trình luân chuyển của hàng hoá. Khi mua hàng doanh nghiệp có thể bị thiếu vốn, Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp thu được tiền bán hàng, giữa Ngân hàng và khách hàng có thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, và các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Cho vay luân chuyển thường được áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với Ngân hàng. Cho vay từng lần: Là tiến trình cấp tín dụng dựa trên cơ sở nhu cầu tín dụng của từng đố tượng vay cụ thể. Căn cứ trên cơ sở hợp đồng thực tế đơn đặt hàng, thư tín dụng .... Ngân hàng xác định quy mô, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo khoản vay. Trong nghiệp vụ này thông thường chi có một kỳ hạn trả nợ vào cuối thời hạn cho vay và lãi vay được tính theo phương pháp lãi đơn. 1.2. Chất lượng tín dụng ngắn hạn 1.2.1 Khái niệm: Trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng chất lượng tín dụng vẫn là một nội dung đuợc các nhà quản lý đặc biệt quan tâm hơn cả. Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải nâng cao chất lượng hoạt động của mình. Chất lượng là năng lực của một sản phẩm hoặc một dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu của người sử dụng. Như vậy có thể hiểu chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng là người gửi tiền và vay tiền, phù hợp với sự phát triển kinh tế và xã hội và nó đảm bảo sự tồn tại và phát triển của tổ chức tín dụng. Có thể hiểu chất lượng tín dụng ngắn hạn cũng vậy, thể hiện qua các khía cạnh sau: Đối với công ty tài chính Việc cho vay với khối lượng là bao nhiêu, lãi suất vay, thời hạn vay đều phải được tính toán cẩn thận sao cho phù hợp với năng lực bản thân công ty tài chính, đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường của công ty, phản ánh được sức mạnh của công ty trong quá trình cạnh tranh trên thị trường để tồn tại. Đối với khách hàng Chất lượng tín dụng thể hiện qua việc công ty có đáp ứng được đúng nhu cầu của khách hàng hay không, có tạo điều kiện cho hoạt động đi vay của khách hàng không: về lãi suất kỳ hạn hợp lý, thủ tục vay đơn giản thuận tiện, thu hút được những khách hàng tốt, đảm bảo được nguyên tắc tín dụng. Đối với sự phát triển kinh tế xã hội Tín dụng là mạch máu lưu thông của nền kinh tế, khi tín dụng góp phần làm tăng trưởng kinh tế xã hội góp phần phục vụ qúa trình sản xuất phát triển được thuận tiện hơn, giải quyết công ăn việc làm, khai thác những khả năng phát triển của nền kinh tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế, như vậy nó đã thể hiện đây là một khoản tín dụng tốt. Như vậy, chúng ta có thể hiểu chất lượng tín dụng ngắn hạn vừa là một khái niệm cụ thể được thể hiện qua các chỉ tiêu hoạt động của công ty tài chính như: nợ quá hạn, lãi thu được từ hoạt động tín dụng ngắn hạn… Tuy nhiên nó lại vừa mang tính trừu tượng như: việc hấp dẫn lôi cuốn khách hàng đến với công ty, việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển như thế nào… Chất lượng tín dụng ngắn hạn cũng chịu sự ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan như: trình độ quản lý, quy trình tín dụng của công ty, định hướng phát triển của công ty, trình độ của cán bộ công nhân viên trong công ty… Chịu ảnh hưởng của các nhân tố khách quan như: môi trường pháp lý, môi trường hoạt động kinh doanh, chính sách phát triển của chính phủ, thái độ của khách hàng… Việc thoả mãn nhu cầu của khách hàng, thực hiện tốt mục tiêu phát triển của công ty, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển, dung hoà được 3 yếu tố trên là một sự kết hợp giữa hoạt động của một con người với tổ chức, giữa các tổ chức với nhau. 1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá: 1.2.2.1 Nhóm các chỉ tiêu định tính: Đây là nhóm chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay trên cơ sở pháp lý, việc tuân thủ các quy chế, quy trình nghiệp vụ, việc thực hiện theo đúng cam kết trong hợp đồng cho vay. Trên cơ sở pháp lý hoạt động tín dụng có chất lượng phải chấp hành pháp luật của nhà nước, trực tiếp là luật của các tổ chức tín dụng , các quy chế cho vay, các văn bản chỉ đạo của chính phủ và Ngân hàng nhà nước. Trên cơ sở quy chế cho vay của Ngân hàng thương mại, hoạt động cho vay có chất lượng luôn phải tuân thủ quy chế và quy trình nghiệp vụ tín dụng. Các quy định trong quy trình tín dụng được áp dụng cụ thể cho tùng trường hợp xin vay ở mỗi Ngân hàng thương mại là nhằm thực hiện cho vay có chất lượng. Cho nên việc tuân thủ quy trình này là tiền đề của chất lượng tín dụng. Trên cơ sở hợp đồng tín dụng, hoạt động tín dụng có chất lượng khi nó mang lại khoản vay có chất lượng. Khoản vay có chất lượng phải là khoản vay được thực hiện theo đúng cam kết đã thoả thuận trong hợp đồng. Đó là các cam kết về mục đích sử dụng vốn vay, cam kết về thời hạn, phương thức trả nợ và trả lãi, các điều kiện ràng buộc khác. Nếu một khoản vay mà ngay từ mục đích vay vốn đã không được thực hiện đúng như cam kết thì khoản vay đó không thể có chất lượng. Hoặc khoản vay mà vốn nguồn thu nợ không phải từ doanh thu bán hàng của doanh nghiệp mà từ nguồn vay nợ khác thì cũng không đạt được chất lượng. Trên đây là nhóm các chỉ tiêu đánh giá chất lượng của cho vay trên cơ sở định tính. Có thể nói đây là các chỉ tiêu đầu tiên của một khoản vay cũng như hoạt động cho vay muốn đạt chất lượng phải đáp ứng được. Tuy nhiên để đánh giá cụ thể về chất lượng tín dụng, phải phân tích các chỉ tiêu định lượng 1.2.2.2 Nhóm các chỉ tiêu định lượng: Nhóm các chỉ tiêu định lượng đánh giá chất lượng tín dụng thông qua việc phân tích các chỉ tiêu về lượng, tính toán các tỷ lệ. Nhóm chỉ tiêu định lượng bao gồm các mức sau đây : Dư nợ cho vay năm nay a, Mức tăng trưởng tương đối = Dư nợ cho vay Dư nợ cho vay năm trước Mức tăng trưởng tuyệt đối = Dư nợ cho vay – Dư nợ cho vay dư nợ cho vay năm nay năm trước Chỉ tiêu về tăng trưởng tín dụng tuyệt đối và tương đối phản ánh mức tăng trưởng trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng thể hiện chất lượng hoạt động tín dụng trong năm. b, Chỉ tiêu vòng quay vốn cho vay: Doanh số thu nợ Vòng quay vốn tín dụng = Dư nợ cho vay bình quân Người vay có thường xuyên đúng kỳ hạn và nhanh chóng hay không. Vòng quay vốn cho vay lớn với mức dư nợ bình quân không đổi, doanh số trả nợ lớn chứng tỏ chất lượng tín dụng cao hơn so với vòng quay nhỏ, doanh số trả nợ thấp. Tuy nhiên, vòng quay vốn tín dụng còn tuỳ thuộc vào khách hàng vay vốn. Nếu khách hàng vay vốn là các doanh nghiệp thương mại, dịch vụ, có đặc điểm quay vòng vốn nhanh thì vòng quay vốn cho vay của NHTM cũng lớn. Còn nếu khách hàng là doanh nghiệp sản xuất thị trường, vốn quay vòng chậm hơn, dẫn đến vòng quay vốn cho vay cũng nhỏ hơn c, Chỉ tiêu về nợ quá hạn Tổng dư nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = x100% Tổng dư nợ cho vay Chỉ tiêu này phản ánh tỷ lệ dư nợ quá hạn trong tổng dư nợ. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ số dư nợ quá hạn càng lớn trong tương quan với tổng dư nợ, chất lượng tín dụng càng thấp. Ngoài ra, để đánh giá đầy đủ hơn về chất lượng tín dụng, người ta còn xem xét mức tăng giảm tương đối, tuyệt đối cơ cấu nợ quá hạn qua các năm để thấy mức hiệu quả của công tác và các biện pháp giảm nợ quá hạn nâng cao chất lượng tín dụng. d, Chỉ tiêu tỉ lệ nợ khó đòi: Tổng dư nợ khó đòi Tỉ lệ nợ khó đòi = x 100% Dư nợ quá hạn Tỉ lệ nợ khó đòi trong tổng dư nợ quá hạn càng cao, rủi ro mất vốn càng lớn, thì chất lượng tín dụng càng thấp. Nó cũng thể thể hiện công tác xử lý nợ quá hạn của Ngân hàng còn thiếu hiệu quả việc thu hồi nợ còn yếu kém e, Chỉ tiêu mức sinh lời của tín dụng Thu nhập từ tín dụng Mức sinh lời của tín dụng = x100% Dư nợ cho vay bình quân Chỉ tiêu này đánh giá hoạt động tín dụng ở chổ đó là hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận thu được trên một đồng tín dụng. Mức sinh lời cao cho thấy hoạt động kinh doanh có hiệu quả cao. Nhất là đối với các NHTM ở nước ta hiện nay. Khoảng 60-70% thu thập là từ hoạt động tín dụng, mà phần lớn là tín dụng ngắn hạn, thì chỉ tiêu mức sinh lời này thể hiện phần lớn hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Mức sinh lời cao cũng chứng tỏ hoạt động cho vay có chất lượng. Ngoài ra, người ta còn tính tỉ lệ thu nhập Tỉ lệ thu nhập = Thu nhập từ cho vay/ Tổng thu nhập x 100% Tỉ lệ này cho biết thu nhập từ tín dụng đóng góp bao nhiêu phần trăm vào thu nhập của Ngân hàng. Từ đó, có thể nhận xét được vai trò của hoạt động tín dụng và chất lượng tín dụng đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. 1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngắn hạn Kinh doanh tín dụng Ngân hàng là nghề kinh doanh tiền tệ , liên quan đến hầu hết mọi ngành, mọi lĩnh vực, mọi yếu tố kinh tế xã hội và luôn chứa đựng nhiều rủi ro. Chất lượng và hiệu quả tín dụng ngắn hạn bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố như các nhân tố thuộc về phía Ngân hàng , các nhân tố thuộc về khách hàng, các nhân tố thuộc về môi trường..... a. Các nhân tố thuộc về NHTM Chiến lược kinh doanh của NHTM Bất cứ một doanh nghiệp nào muốn kinh doanh có hiệu qủa thì phải đưa ra được một chiến lược kinh doanh đúng đắn, kinh doanh tín dụng ngắn hạn của Ngân hàng cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trong chiến lược kinh doanh các nhà quản lý đề ra các định hướng, nguyên tắc hoạt động, các mục tiêu cần đạt và phương pháp tiến hành, nó được cụ thể hoá bằng các kế hoạch hoạt động. Nếu không có chiến lược các Ngân hàng sẽ luôn rơi vào tình thế bị động, không biết giải quyết như thế nào với những tình huống bất ngờ xảy ra. Một chiến lược kinh doanh hiệu qủa sẽ giúp Ngân hàng có một phương hướng phát triển nhất quán, giúp cho Ngân hàng khai thác tốt nhất năng lực hiện có của Ngân hàng và đồng thời nó cũng giúp cho Ngân hàng có thể thích ứng một cách nhanh chóng với những biến đổi của môi trường kinh doanh . Trên cơ sở chiến lược kinh doanh đúng đắn, Ngân hàng mới có những kế hoạch đúng đắn cho cá bộ phận trong từng thời kỳ để đảm bảo thực hiện mục tiêu đề ra, trong đó có bộ phận tín dụng . Một chất lượng tín dụng đúng đắn trên cơ sở là một chiến lược kinh doanh phù hợp sẽ góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. Chính sách tín dụng của NHTM Chính sách tín dụng của các NHTM là một hệ thống các chỉ tiêu mà Ngân hàng đặt ra và các biện pháp cụ thể để thực hiện các chỉ tiêu đó. Trong chính sách tín dụng tát cả những vấn đề liên quan đến việc cấp tín dụng cho các khách hàng đều được đưa ra và xem xét hết sức cụ thể . Các nội dung và chính sách tín dụng bao gồm: Quy mô, kỳ hạn, đảm bảo, phạm vi,. Cá khoản tín dụng có vấn đề và các nội dung khác, nó có tác dụng trực tiếp hay gián tiếp tới chất lượng tín dụng ngắn hạn của các NHTM. Chính sách tín dụng sẽ cung cấp cho cán bộ tín dụng và các nhà quản lý Ngân hàng đường lối chỉ đạo cụ thể trong việc ra quyết định tín dụng và xây dựng danh mục tín dụng : Cấu trúc thực tế của danh mục tín dụng sẽ phản ánh những gì mà chính sách tín dụng của Ngân hàng đặt ra. Nó cho biết trong một thời kỳ Ngân hàng chú trọng vào loại hình tín dụng ngắn hạn . Nếu chính sách tín dụng của Ngân hàng trong một thời kỳ nào đó cho thấy quy mô tín dụng ngắn hạn bị thu hẹp, nó có thể là dấu hiệu thể hiện chất lượng tín dụng ngắn hạn của Ngân hàng đó đang có vấn đề hay ít ra là không tốt. Như vậy, việc xây dựng và thực hiện chính sách tín dụng hợp lý, khoa học sẽ giúp cho Ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn, giúp nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Thẩm định tín dụng Để nâng cao hiệu quả và đảm bảo an toàn cho hoạt động của Ngân hàng, một nhiệm vụ cấp thiết đặt ra cho NHTM là phải thực hiện tốt công tác thẩm định dự án đầu tư. Thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức, xem xét một cách khái quát toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến tính khả thi của dự án . Thẩm định dự án đầu tư là khâu cuối cùng trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư nhưng lại là khâu then chốt để quyết định đầu tư và do đó quyết định đến sự thành công hay thất bại của dự án đầu tư. Thẩm định dự án đầu tư giúp Ngân hàng phần nào dự báo được hiệu quả tài chính và tính khả thi của từng dự án để có thể chọn lọc đuợc các cơ hội đầu tư tốt, có hiệu quả , có khả năng thu hồi vốn và do đó có thể hạn chế được rủi ro phát sinh. Cũng từ việc thẩm định, Ngân hàng có thể tham gia góp ý cho chủ đầu tư, đồng thời làm cơ sở để xác định số tiền vay vốn , thời gian cho vay, mức thu lợi hợp lý, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, trái lại, việc thẩm định kém có thể dẫn đến một quyết định cho vay sai lầm, ảnh hưởng rất lớn đến cả Ngân hàng, chủ đầu tư, thậm chí toàn xã hội. Đặc biệt là các khoản tín dụng ngắn hạn thường có quy mô đầu tư lớn, diễn ra trong một thời gian dài luôn chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn không lường trước được, việc thẩm định kém sẽ gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Do vậy, làm tốt công tác thẩm định tín dụng , Ngân hàng sẽ lựa chọn được những khách hàng tốt và dự án đầu tư có hiệu quả cao. Là điều kiện để nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Quy trình tín dụng ngắn hạn Như đã nêu ở trên Nhân tố con người Cũng như trong bất kỳ lĩnh vực nào, con ngừoi trong hoạt động tín dụng ngắn hạn cũng là nhân tố quyết định đến chất lượng của hoạt dộng này Nhân tố con người ở đây bao gồm nhận thức, trình độ, kinh nghiệm, năng lực và tư cách đạo đức của lãnh đạo, nhân viên Ngân hàng. Nhận thức đúng về vai trò của tín dụng ngắn hạn, mới có thể cso chính sách tín dụng phù hợp tạo điều kiện nâng cao chất lượng tín dụng . Con người với trình độ, kiến thức, kinh nghiệm có thể thu nhận các thông tin về khách hàng và dự án đầu tư từ đó mới có thể phẩn tích, đánh giá rồi đưa ra quyết định có cho vay hay không. Nếu trình độ, kinh nghiệm, năng lực của con người hạn chế thì không thể có kết quả phân tích, đánh giá đáng tin cậy, Hơn nữa nhiều dự án đầu tư thất bại không phải do trình độ mà do tư cách đạo đức của cán bộ Ngân hàng, đặc biệt là cán bộ tín dụng . Qua đó có thể thấy được vai trò vô cùng quan trọng của nhân tố con người trong việc nâng cao chất lượng tín dụng. Thông tin tín dụng Trong thời đại ngày nay, với tình hình thị trường , công nghệm kỹ thuật.... biến động nhanh chóng thì thông tin càng trở nên vô cùng quan trọng và là yếu tố không thể thiếu được trong bất kỳ một ngành nào. Người nắm được thông tin chính là người chiến thắng trong mọi cuộc ganh đua. Trong công tác tín dụng , thông tin là cơ sở cho quá trình thẩm định dự án là cơ sở cho quá trình phân tích, đánh giá của cán bộ thẩm định. Bên cạnh các thông tin do chủ đầu tư cung cấp, khả năng tiếp cận, chủ động thu thập các nguồn thông tin khác và khả năng xử lý, sử dụng các thông tin của Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo kết quả đánh giá là khách quan chính xác. Nếu sử dụng một nguồn thông tin không đáng tin đầy đủ toàn diện, chính xác, cập nhật là một nhân tố quan trọng đảm bảo chất lượng hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động ngắn hạn nói riêng. b. Các nhân tố thuộc về khách hàng Khách hàng là người trực tiếp nhận các khoản tín dụng của Ngân hàng, do đó trong các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngắn hạn của Ngân hàng không thể không tính đến các yếu tố thuộc về phía khách hàng . kinh doanh tín dụng Ngân hàng luôn đi liền với hoạt động kinh doanh cuả khách hàng, yếu kém của khách hàng sẽ tác dụng trực tiếp ngay vào chất lượng, hiệu qủa của tín dụng Ngân hàng chất lượng tín dụng ngắn hạn ít nhiều phụ thuộc vào các nhân tố thuộc về phía khách hàng như sau : Năng lực thị trường của doanh nghiệp Năng lực thị trường của doanh nghiệp biểu hiện ở khối lượng sản phẩm tiêu thụ, vị trí của doanh nghiệp trên thị trường, khả năng phát triển của lĩnh vực mà doanh nghiệp đang hoạt động , mối quan hệ với các bạn hàng đối tác.... Năng lực thị truờng cho biết khả năng thích ứng của doanh nghiệp với thị trường, thể hiện mức độ chấp nhận thị trường đối với sản phẩm của doanh nghiệp . Năng lực thị trường của doanh nghiệp càng cao,nhu cầu đầu tư càng lớn, rủi ro của doanh nghiệp càng nhỏ là nhân tố nâng cao chất lượng tín dụng Năng lực tài chính của doanh nghiệp Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở khối lượng vốn tự có và tỷ trọng vốn tự có trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp đang sử dụng. Quy mô và tỷ trọng vốn tự có càng cao cho thấy tiềm lực tài chính của doanh nghiệp càng mạnh. Năng lực tài chính của doanh nghiệp trong tín dụng ngắn hạn đòi hỏi doanh nghiệp phải có số vốn lưu động tối thiểu cho việc duy trì hoạt động thường xuyên của tài sản cố định. Điều kiện tín dụng ngắn hạn thường quy định một tỷ lệ cụ thể, tối thiểu của vốn tự có trong tổng nguồn vốn hoạt động hay tỷ lệ vốn tự có so với khối lượng vốn vay, tỷ lệ vốn tự có tham gia vào dự án vay vốn. Do vậy năng lực tài chính của doanh nghiệp càng cao,. Khả năng đáp ứng các điều kiệ._.n tín dụng càng lớn càng góp phần vào việ nâng cao chất lượng tín dụng. Năng lực quản lý của doanh nghiệp Sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào năng lực quản lý. Năng lực quản lý thể hiện ở việc tổ chức hệ thống hạch toán kế toán và quản lý tài chính phù hợp với những quy định của pháp luật. Một doanh nghiệp có nguồn vốn dồi dào nhưng năng lực quản lý kém có thể gây ra thất thoát vốn, sử dụng vốn không có hiệu quả... tức là khoản tín dụng mà Ngân hàng đã cung cấp cho doanh nghiệp có chất lượng kém. Do vậy khi đưa ra quyết định cho vay Ngân hàng phải xem xét tới năng lực quản lý của doanh nghiệp. Năng lực sản xuất của doanh nghiệp Năng lực sản xuất của doanh nghiệp thể hiện ở quy mô, năng suất, quy trình sản xuất, tổ chức bán hàng.... nghiên cứu năng lực sản xuất của doanh nghiệp giúp Ngân hàng đánh giá được khả năng đáp ứng nhu cầu thị truờng về chất lượng, giá cả, khả năng sinh lời và khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Biểu hiện cụ thể và rõ nét nhất của năng lực sản xuất là doanh nghiệp phải sản xuất ổn định và có lãi điều đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp trả nợ gốc và lãi ngắn hạn cho Ngân hàng theo đúng quy định trong hợp đồng tín dụng, đảm bảo chất lượng tín dụng. Quyền sở hữu tài sản và khả năng đáp úng các biện pháp đảm bảo Khả năng đáp ứng các điều kiện tín dụng của doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Bởi vì nếu khách hàng không đáp ứng được các điều kiện của Ngân hàng thì Ngân hàng không thể cho vay, điều đó làm giảm khối lượng tín dụng ngắn hạn của Ngân hàng nhưng không ảnh hưởng gì tới chất lượng của khoản tín dụng . Mặt khác khi khách hàng gặp rủi ro thì Ngân hàng có thể thu hồi được phần nào vốn nhờ thanh lý tài sản đảm bảo. Tuy nhiên đó chỉ là tình thế bắt buộc, không Ngân hàng nào muốn thu hồi nợ thông qua tài sản đảm bảo. Nhờ có tài sản đảm bảo mà Ngân hàng có thể hạn chế bớt rủi ro nâng cao chất lượng tín dụng. Từ những yếu tố trên đặt ra cho các Ngân hàng thương mại phải lựa chọn khách hàng để đầu tư, phải kiểm tra, thẩm định trước khi cho vay giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn vay, có vậy mới đảm bảo được chất lượng tín dụng. c. Các nhân tố khác Ngoài các nhân tố thuộc về Ngân hàng, khách hàng còn có rất nhiều những nhân tố khác ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngắn hạn của NHTM. * Môi trường kinh tế xã hội Cơ chế, chính sách và đường lối của nhà nước, chính phủ trong phát triển nền kinh tế, tạo môi trường đầu tư, ổn định tiền tệ và lạm phát là những yếu tố tác động trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn của NHTM. Hoạt động tín dụng ngắn hạn đạt hiệu quả cao hay thấp, rủi ro nhiều hay ít đều có quan hệ chặt chẽ với môi trưòng kinh tế xã hội và sự phát triển của nền kinh tế. Một môi trường kinh tế xã hội lành mạnh sẽ thúc đẩy việc mở rộng quy mô tín dụng , chất lượng hoạt động tín dụng cũng sẽ được nâng lên. Không chỉ môi trường kinh tế trong nước thay đổi sẽ tác động đến chất lượng tín dụng mà sự thay đổi của môi trường kinh tế thế giới cũng gây ra những ảnh hưởng không nhỏ, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp hoạt dộng xuất nhập khẩu. Sự thay đổi ấy thể hiện trực tiếp qua sự biến động về nhu cầu thị truờng, sự biến động về tỷ giá khiến cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu bị thua lỗ, ảnh hưởng tới việc trả nợ Ngân hàng Môi trường pháp luật : Nhân tố luật pháp có vị trí hết sức quan trọng đối với hoạt động Ngân hàng cũng như các hoạt động kinh tế khác, nó chi phối các hoạt động kinh tế phải tuân thủ theo pháp luât. Nhân tố luật pháp ở đây bao gồm hệ thống các văn bản pháp luật tạo môi trường, hành lang pháp lý cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Cơ chế chính sách rõ ràng , đồng bộ, nhất quán sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các Ngân hàng chủ động thực hiện hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng ngắn hạn nói riêng trong khuôn khổ quy định của pháp luật. Môi trường luật pháp không ổn định là một bất lợi lớn đối với các doanh nghiệp vì doanh nghiệp không thể dự đoán chính xác được cơ hội kinh doanh , các hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ không diễn ra theo đúng kế hoạch làm doanh nghiệp không có khả năng trả nợ cho Ngân hàng đúng hạn làm chất lượng tín dụng của Ngân hàng giảm. Mặt khác khi môi trường luật pháp không ổn định sẽ làm các nhà đầu tư mất lòng tin vào thị trường. Không dám đầu tư do đó khối lượng tín dụng ngắn hạn của các NHTM sẽ bị giảm sút để đảm bảo cho vịêc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn, đòi hỏi hệ thống luật pháp phải đồng bộ, đầy đủ, hướng dẫn của hệ thống văn bản dưới luật phải thống nhất, đồng thời cũgn phải đảm bảo được tính hiệu lực của luật pháp. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI 2.1 Khái quát về chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng Ngoại thương Được thành lập ngày 01/03/1985, là thành viên trong hệ thống Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và được nhà nước ta công nhận la doanh nghiệp hạng 1. Cùng với sự phát triển của Ngân hàng ngoại thương Viêt Nam.chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội với truyền thống chuyên doanh đối ngoại, thanh toán quốc tế, các dich vụ tài chính, các ngân hàng quốc tế khác. tính đến cuối năm 2005 chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đã phát triển thành một hệ thống vững mạnh bao gồm: -4 chi nhánh cấp 2 -4 phòng giao dịch -quản lý vốn cổ phần tại công ty cổ phần đông xuân Chi nhánh Ngân Hàng Ngoại Thương Hà Nội là một trong những Chi nhánh hàng đầu của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam với hệ thống công nghệ thông tin hiện đại cung cấp các dich vụ tự động hóa cao nhu:VCB ONLINE,thanh toán điện tử liên ngân hàng, hệ thống máy rút tiền tự động ATM, thẻ ATM connect 24…hệ thống thanh toán SWIFT toàn cầu và mạng lưới đại lý trên 1200 Ngân hàng tại 85 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, đảm bảo phục vụ tốt các yêu cầu của khách hang trên phạm vi toàn cầu. Ngân hàng Ngoại thương được coi là ngân hàng có hệ thống công nghệ thông tin hiện đại nhất Việt Nam. Đặc biệt trong chính sách phát triển chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội luôn chú trọng ®µo tạo đội ngủ cán bộ năng động, nhiệt tình và tinh thông nghiệp vụ. Với phương châm luôn mang đến khách hàng sự thành đạt mục tiêu của chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội là duy trì vai trò Ngân hàng thương mại hàng đầu ở Việt Nam và trở thành một Ngân hàng quốc tế trong khu vực trong thập kỷ tới. Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cam kết xây dựng mô hình tổ chức tiên tiến theo các chuẩn mực quôc tế, đa dạng hóa hoạt động đi đầu về ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại nhằm cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng chất lượng cao cho mọi thành phần kinh tế. Ngân hàng Ngoại thương Hà nội sẽ giữ vững niềm tin của đông đảo bạn hàng trong và ngoài nước. Thông tin về Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội Tên đầy đủ: Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam-Chi nhánh thành phố Hà Nội Tên viết tắt: Chi nhánh Ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội Tên giao dịch quốc tế : Bank for Foreign Trade of Viet Nam – Hanoi Branch Viết tắt : Vietcombank Hanoi (VCBHN) Trụ sở chính : 78 Nguyễn Du – Hai Bà Trưng – Hà Nội 2.1.2 Tổ chức bộ máy 2.1.2.1 cơ cấu tổ chức của NHNT Hà Nội hiện nay NHNT Hà Nội có 9 phòng ban chức năng, 06 phòng giao dịch và 01 quầy thu đổi ngoại tệ. Phòng quan hệ khách hàng Thực hiện tất cả nghiệp vụ tín dụng phát sinh trong quá trình hoạt động và làm nhiệm vụ giám sát việc sử dụng vốn vay, thu hồi nợ cho các tổ chức, cá nhân trên địa bàn hà Nội. Phòng quản lý rủi ro Xây dựng chính sách quản lý rủi ro tín dụng trong từng thời kì, quản lý danh mục đầu tư, trực tiếp thẩm định rủi ro đối với từng khoản cấp tín dụng đến khách hàng, tham gia vào quy trình phê duyệt tín dụng, tham gia và giám sát quá trình thựuc hiện các quyết định đã được phê duyệt, tham gia xử lý các khoản tín dụng có vấn đề. Phòng quản lý nợ Lưu giữ hồ sơ tín dụng, thực hiện các thao tác nhập dữ liệu tín dụng trên hệ thống vi tính, thực hiện các báo cáo tín dụng hàng tháng, hang quý, hàng năm, in lãi vay hàng tháng. Phòng kế toán tài chính Hạch toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong hoạt động của ngân hàng cho khách hàng và cho bản thân ngân hàng. Phòng thanh toán Xuất Nhập Khẩu Tiến hành mở L/C và Thanh toán L/C nhập; Thông báo và thanh toán L/C xuất; thông báo, thanh toán D/P, T/T xuất nhập khẩu phục vụ các khách hàng có quan hệ tín dụng và quan hệ tiền gửi của NHNT Hà Nội. Phòng ngân quỹ Thực hiện các hoạt động thu chi diễn ra từ các hoạt động kinh tế phát sinh, điều chuyển tiền giữa các ngân hàng Phòng tổ chức hành chính- nhân lực Phòng này gồm 02 bộ phận : bộ phận tổ chức và bộ phận hành chính, thực hiện mọi hoạt động phục vụ cho công tác kinh doanh diễn ra tốt đẹp Phòng dịch vụ ngân hàng Phục vụ nhu cầu mở tài khoản tiền gửi giao dịch, gửi tiết kiệm, phát hành và thanh toán thẻ ATM, thẻ tín dụng cho các cá nhân có nhu cầu Tổ kiểm soát nội bộ Có nhiệm vụ kiểm tra về tính hợp pháp, hợp lệ trong hoạt động của tất cả các phòng ban của NHNT Hà Nội, đầu mối tiếp các đoàn thanh tra, kiểm toán, an ninh đến làm việc tại NHNT Hà Nội Các phòng giao dịch Hiện tại NHNT Hà Nội co 06 phòng giao dịch và 01 quầy thu đổi ngoại tệ gồm:phòng giao dịch số 1, Phòng giao dịch số 2, phòng giao dịch số 3 tại Quận Hoàn Kiếm, Phòng giao dịch số 4( Quận Đống Đa), Phòng giao dịch số 5 ( Quận Hoàng Mai ), Phòng giao dịch số 6 tại Linh Đàm. Quầy thu đổi ngoại tệ tại sân bay quốc tế Nội Bài. Các phòng giao dịch có chức năng phục vụ các nhu cầu giao dịch tiền gửi, tiền tiết kiệm, thanh toán thẻ, cho vay tư nhân đối với khách hàng có nhu cầu. Tính đến cuối năm 2005 cho tới nay tổng số cán bộ làm việc tị chi nhánh lên 322 cán bộ. Các chi nhánh cấp II: chi nhánh Thành Công, Ba Đình, Chương Dương, Cầu Giấy đã lần lượt được nâng cấp lên chi nhánh cấp I, hoạt động dưới sự điều hành của Ngân Hàng Ngoại Thương Trung ương. 2.1.2.2 Sơ đồ cơ cấu tổ chức chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội Giám đốc Phó Giám đốc Phó Giám đốc Kỉêm tra nội bộ Thẩm định dự án Quản trị rủi ro tín dụng Tín dụng Tổng hợp Quan hệ khách hàng QL vốn KD ngoại tệ Tin học Ngân quỹ Hành chính nhân sự Kế toán tài chính Khách hàng đặc biệt Thẻ Dịch vụ ngân hàng Thanh toán quốc tế Phòng Giao dịch Chi nhánh cấp 2 Số 1 Hàng Bài Số 2 Trần Bình Trọng Số 3 Hàng Đồng Cầu Giấy Chương Dương Ba Đình Quầy thu đổi ngoại tệ sân bay Nội Bài 2.1.3 Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2007 của chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội 2.1.3.1 Đánh giá các mặt hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội * Huy động vốn Công tác huy động vốn của Chi nhánh trong năm 2007 đã duy trì kết quả tốt. Phát huy thế mạnh về uy tín, thương hiệu gần 45 năm của Vietcombank và với các phương pháp huy động hiệu quả, thực hiện công việc đưa các sản phẩm mới về huy động vào thị trường theo chủ trương của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, tổng nguồn vốn của Chi nhánh tính đến 31/12/2007 đạt 7.088 tỷ đồng, tăng 5% so với năm 2006, trong đó nguồn vốn huy động đạt 6.270 tỷ, tăng 12% so với cuối năm 2006, đạt kế hoạch ngân hàng Ngoại thương Việt Nam giao cho Chi nhánh. - Huy động VND đạt 3.433 tỷ đồng, chiếm 54,7% tổng nguồn vốn huy động. - Huy động ngoại tệ đạt 2.837 tỷ quy đồng, chiếm 45,3% tổng nguồn vốn huy động. Cơ cấu nguồn vốn huy động giữa tiền đồng và ngoại tệ đang có chuyển dịch theo hướng vốn huy động ngoại tệ giảm dần, đây cũng là xu hướng chung của các ngân hàng thương mại trong thời gian gần đây. Sở dĩ có sự chuyển dịch đó, một phần là do việc cắt giảm lãi suất cơ bản USD của Cục dữ trữ Liên bang Mỹ (Fed) trong tháng 9/2007 từ 5,25% xuống còn 4,75% và 4,25% vào tháng 12/2007 đã khiến lãi suất huy động USD của các ngân hàng thương mại trong nước giảm theo. Mặt khác là do xu hướng cạnh tranh về huy động vốn giữa các ngân hàng, đặc biệt là sự xuất hiện ngày càng nhiều các ngân hàng thương mại cổ phần mới. - Huy động từ Tổ chức kinh tế đạt: 2.134 tỷ đồng, chiếm 34% nguồn vốn huy động. - Huy động từ dân cư đạt: 4.136 tỷ đồng, chiếm 66% nguồn vốn huy động. Đến 31/12/2007, thị phần huy động VNĐ, USD và huy động Việt Nam đồng của Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trên địa bàn Hà Nội tương ứng là 1,41%; 2,92% và 1,84 so với mạng lưới 209 tổ chức tín dụng hoạt động trên địa bàn. *Tín dụng Công tác tín dụng của Chi nhánh trong năm 2007 tiếp tục thực hiện với phương châm“ Hiệu quả & an toàn „. Với nỗ lực của các cán bộ Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội, dư nợ tính đến 31/12/2007 đạt 2.553 tỷ đồng, tăng 6% so với cuối năm 2006, đạt 88% kế hoạch năm 2007, chiếm 1,49% thị phần trên địa bàn Hà Nội. Số lượng khách hàng là các doanh nghiệp có vay vốn tại Chi nhánh hiện là 133 khách hàng. Đến 31/12/2007, dư nợ quá hạn chiếm 0,78% tổng dư nọ. - Cho vay trung dài hạn: chiếm 22,3% tổng dư nọ - Cho vay ngắn hạn: chiếm 77,7% tổng dư nọ Bên cạnh đội ngũ khách hàng truyền thống về xuất nhập khẩu, mở các chương trình hỗ trợ về vốn khách hàng vừa và nhỏ để phát triển kinh doanh, Chi nhánh đang mở rộng thêm loại hình cho vay thể nhân với nhiều hình thức cho vay ưu đãi, hấp dẫn: mua ôtô mới, sửa chữa nhà, phát triển kinh tế tư nhân – gia đình, du học, mua biệt thự tại khu biệt thự, đầu tư xây dựng văn phòng,.... Đến 31/12/2007, dư nợ tại bộ phận tín dụng thể nhân đạt 145 tỷ đồng, chiếm 5,7% tổng dư nợ. Nhìn chung, các khoản vay cá nhân có chất lượng tốt, đảm bảo khả năng trả nợ ngân hàng. *Dịch vụ * Thanh toán xuất nhập khẩu và bảo lãnh: Từ đầu năm 2007 đến nay, hoạt động xuất nhập khẩu có những thách thức mới do môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, các quy định rào cản về xuất khẩu ngày càng chặt chẽ, giá một số vật tư và dịch vụ đầu vào tăng làm hạn chế sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, tại VCBHN, doanh số thanh toán XNK vẫn đạt cao, có chất lượng tốt với tổng doanh số xuất nhập khẩu đạt 435 triệu USD. - Nhập khẩu đạt 246 triệu USD, vượt 8% kế hoạch đặt ra cho năm 2007, chủ yếu là các mặt hàng nhập khẩu nguyên vật liệu, máy móc. - Xuất khẩu đạt 189 triệu USD, vượt 69% kế hoạch đặt ra từ đầu năm, chủ yếu là các sản phẩm nông, lâm sản. Dư nợ bảo lãnh đến 31/12/2007 đạt 113 tỷ đồng. * Hoạt động thẻ và dịch vụ ngân hàng: Ngân hàng Ngoại thương đã liên minh với các ngân hàng cổ phần để phát triển mạng lưới ngân hàng đại lý, mạng lưới dịch vụ thẻ và thúc đẩy hợp tác dịch vụ thẻ giữa ngân hàng và doanh nghiệp với các chương trình hợp tác như thanh toán cước điện thoại, Internet, phí bảo hiểm,.... Với mạng lưới ATM và các đơn vị chấp nhận thẻ rộng khắp trên toàn quốc, số lượng thẻ do VCB phát hành ngày càng tăng. Số lượng thẻ ATM phát hành mới trong năm 2007 của VCBHN đạt 27.155 thẻ, nâng tổng số thẻ ATM của Chi nhánh lên 73.029 thẻ. Tổng số thẻ debit năm 2007 đạt 31.629 thẻ, vượt 63% kế hoạch năm 2007. Số lượng phát hành thẻ tín dụng mới đạt 728 thẻ, nâng tổng số thẻ tín dụng của Chi nhánh đạt 3.254 thẻ. Thẻ ghi nợ quốc tế MTV phát hành mới trong năm 2007 đạt 2.317 thẻ, nâng tổng số thẻ MTV lên 3.599 thẻ. Thẻ ghi nợ visa đạt 1.399 thẻ, thẻ ghi nợ SGH24 đạt 758 thẻ. Sau khi chuyển một số máy ATM cho các Chi nhánh cấp 2 nâng cấp trực thuộc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Chi nhánh NHNT Hà Nội hiện có 34 máy ATM, 86 đơn vị chấp nhận thẻ. Với chính sách đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng và từng bước đưa các sản phẩm ngân hàng hiện đại vào tiếp cận cuộc sống. Ban giám đốc Chi nhánh đã tạo điều kiện cho công tác khuếch trương các tiện ích dịch vụ ngân hàng, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng nhằm thu hút được đông đảo khách hàng Thủ đô và các tỉnh lân cận đến sử dụng các dịch vụ của ngân hàng Ngoại thương. Công tác dịch vụ ngân hàng phát triển là một trong những yếu tố quan trọng tác động đến tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động của Chi nhánh. Không ngừng mở rộng dịch vụ và nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm nâng cao doanh thu từ dịch vụ là mục tiêu được Chi nhánh đặt lên hàng đầu. - Số lượng tài khoản cá nhân mở mới đạt: 29.291 tài khoản, nâng tổng số tài khoản cá nhân mở tại Chi nhánh là 72.653 tài khoản, đạt 120% kế hoạch năm 2007. - Chuyển tiền trong nước đạt 322,6 tỷ đồng, tăng 26% so với năm 2006. - Chuyển tiền nước ngoài đi đạt 1,3 triệu USD. - Chi trả kiều hối đạt 61,7 triệu USD, tăng 5% so với năm 2006. Trong đó, chuyển tiền qua hệ thống Money Gram đạt hơn 300.000 USD. Mặc dù con số này chưa cao so với lượng tiền nước ngoài chuyển đến qua tài khoản hoặc CMT,... tuy nhiên sự mở rộng dịch vụ chuyển tiền sẽ góp phần nâng cao thương hiệu cho Vietcombank. - Doanh số bán ngoại tệ tại các bàn thu đổi đạt 6,4 triệu USD, tăng 201% so với năm 2006. Với nỗ lực của các cán bộ, Chi nhánh hiện có 40 đơn vị đăng ký tham gia sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử VCB Money và 450 đơn vị, 3.000 lượt đăng ký truy vấn thông tin qua Internet i-b@nking, sử dụng dịch vụ sms-banking... * Kinh doanh ngoại tệ: Doanh số mua bán ngoại tệ của VCB Hà Nội năm 2007 đạt 725 triệu USD, tăng 3% so với năm 2006. Lãi kinh doanh ngoại tệ năm 2007 đạt gần 6 tỷ đồng. Ngoại tệ mua được phần lớn từ nguồn các Tổ chức kinh tế đáp ứng cho nhu cầu thanh toán nhập khẩu và trả nợ tại Chi nhánh. Đồng thời, để tránh rủi ro về tỷ giá cũng như xác định rõ nguồn ngoại tệ đảm bảo thanh toán cho khách hàng, NHNT Hà Nội đã sử dụng công cụ phái sinh là hợp đồng có kỳ hạn đối với các doanh nghiệp có nhu cầu nhập khẩu hàng hóa. Trong thời gian tới NHNT Việt Nam nói chung cũng như NHNT Hà Nội nói riêng cần nghiên cứu, tiếp tục đưa ra các sản phẩm phái sinh mới, tạo sự đa dạng cho lựa chọn của khách hàng. * Ngân quỹ: Năm 2007, khối lượng giao dịch thu chi tiền mặt của VCB Hà Nội tăng nhiều, gồm cả ngoại tệ cũng như Việt Nam đồng: Tổng thu chi VND đạt 28.450 tỷ đồng, tăng 33% so với kế hoạch năm 2007, thu chi ngoại tệ quy USD đạt 790,56 triệu USD, tăng 32% so với kế hoạch năm 2007. Công tác ngân quỹ luôn đảm bảo an toàn. Lãnh đạo và Phòng Kiểm tra nội bộ thường xuyên kiểm tra, đôn đốc thực hiện đúng quy trình thu chi tiền mặt, ngoại tệ, tổ chức tốt công tác thu chi và điều hòa tiền mặt, đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiền mặt cho sản xuất và đời sống, tạo được lòng tin với khách hàng. Bên cạnh đó, cùng với sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Ban giám đốc cũng như sự nỗ lực của từng giao dịch viên (teller) nên mặc dù luôn có sự thay đổi về mặt nhân sự, các nghiệp vụ đa dạng hơn, khối lượng công việc nhiều hơn, nhưng trong giao dịch tiền mặt vẫn luôn đảm bảo chi đủ, đúng, thực hiện trả lại tiền thừa cho khách, thu được nhiều tiều giả đảm bảo giải phóng khách hàng nhanh, thái độ phục vụ nhiệt tình. Tiền giả: 2.100 USD; 20GBP; 186.590.000 VNĐ. Tiền thừa: 281.550.000 VNĐ (28 món) Để đảm bảo lượng tồn quỹ tiền mặt đủ cho các phòng nghiệp vụ và giao dịch viên, từ 01/04/2007, Giám đốc NHNT Hà Nội đã quy định hạn mức tồn quỹ hàng ngày cho các phòng nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu quả điều hành vốn của Chi nhánh. * Kế toán: Công tác thanh toán của ngân hàng luôn đảm bảo chính xác, kịp thời cho các giao dịch chuyển vốn của khách hàng với thời gian ngắn nhất và chất lượng tốt nhất, tạo điều kiện tăng nhanh tốc độ chu chuyển của đồng vốn qua ngân hàng. Doanh số thanh toán điện tử liên ngân hàng và thanh toán IBT ONLINE đạt kết quả cao. Với vai trò đầu mối, VCB Hà Nội luôn đảm bảo thanh toán cho các Chi nhánh NHNT cơ sở thông suốt, kịp thời và chính xác. Tuy nhiên, trong thanh toán bù trừ và giao dịch tiền mặt, do NHNN Thành phố quy định cứng về thời gian giao dịch làm ảnh hưởng tới các Chi nhánh NHNT cơ sở. - Doanh số thanh toán bù trừ đạt 10.973 tỷ đồng, tăng 57% so với năm 2006. - Doanh số thanh toán IBPS đạt 82.540 tỷ đồng, tăng 106% so với năm 2006. - Doanh số thanh toán IBT online đạt 83.673 tỷ đồng, tăng 144% so với năm 2006. Hiện Chi nhánh có 131 đơn vị đăng ký trả lương qua tài khoản với doanh số gần 30 tỷ đồng/tháng, 1.958 đơn vị mở tài khoản tại ngân hàng, tăng 12% so với cuối năm 2006. Kết quả kinh doanh năm 2007: Lợi nhuận đạt 111 tỷ đồng. Thực hiện công điện ngày 08/01/2008 của Tổng giám đốc NHNT Việt Nam về việc trích lập dự phòng rủi ro hộ Chi nhánh Cầu giấy, Chi nhánh Thành công 96 tỷ, nên lợi nhuận của Chi nhánh Hà Nội còn lại đạt 15,4 tỷ. 2.2 Thực trạng chất lượng tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội 2.2.1 Thực trạng chất lượng tín dụng tại chi nhánh Tình hình chung về kinh tế xã hội Năm 2007, nền kinh tế nước ta đang trên đà tăng truởng. GDP năm đạt 8,5%. Các hoạt động kinh tế càng về tháng cuối năm càng sôi động, lãi suất của các ngân hàng sau một thời gian liên tục điều chỉnh hiện đang duy trì ở mức ổn định sau việc cắt giảm lãi suất cua Fed. Gần đây, các Ngân hàng TMCP đang nâng lãi suất huy động để có đủ vốn cho hoạt động cuối năm. Giá vàng tăng đột biến ở mức 1,6 và lên tới 1,7 triệu đồng?chỉ,thị trường chứng khoán với nhiều diễn biến quanh mốc Vn-Index đạt 1.000 điểm,thị trường bất động sản phục hồi với nhiều dấu hiệu mới... Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2007 tăng 12,63% so với tháng 12/2006 tác động mạnh tới nền kinh tế và đời sống, đặc biệt trong mấy tháng cuối năm. Về cơ chế chính sách Có chế chính sách và pháp luật của nhà nước tiếp tục được hoàn thiện tạo môi trương pháp lý hoàn chỉnh đã tác động đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và hoạt động Ngân hàng. Trong đó các luật đất đai luật các tổ chức tín dụng sửa đổi, luật doanh nghiệp, bộ luật dân sự sửa đổi.... có tác động mạnh mẽ. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành QĐ 127 sửa đổi, bổ sung QĐ 1627 nhăm tiếp tục đổi mới chính sách tín dụng theo hướng thông lệ Quốc tế, các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động Ngân hàng QĐ 457, phân loại nợ QĐ 493 chỉ thị về nâng cao chất lượng tín dụng vảo đảm an toàn hoạt động chỉ thị 02... nhằm nâng cao quyền tự chủ tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng. Những qui định trên đây đã và đang tác động rất mạnh đến hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Từ 1 tháng 3 năm 1985 chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đã được triển khai và đi vào hoạt động, có thể nói ngay từ buổi ban đầu chi nhánh đã có một nền tảng tương đối tốt với một đội ngũ cán bộ có trình độ học vấn tương đối đồng đều,sự hăng hái và nhiệt tình của lớp trẻ,sự đoàn kết gắn bó của các cán bộ của chi nhánh.Tuy nhiên Chi nhánh cũng gặp phải không ít khó khăn trong công tác xây dựng thị phần trên địa bàn thủ đô đã có nhiều Ngân hàng cạnh tranh, đội ngũ cán bộ trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm. Phòng tín dụng cũng không nằm ngoài những thuận lợi khó khăn đó, đội ngũ cán bộ phòng tín dụng- chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đã nổ lực phấn đấu, đã cố găng hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch được giao năm 2007. 2.2.2 Qui trình tín dụng của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Để chuẩn hoá quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu nợ đối với các khách hàng các Ngân hàng thường đặt ra quy trình phân tích tín dụng. Khi cho vay thì đều phải tuân thủ theo quy trình phân tích tín dụng này. Quy trình phân tích tín dụng ngắn hạn là các bước (hay nội dung các công việc) mà cán bộ tín dụng, các phòng ban có liên quan trong NHTM phải thực hiện khi cho khách hàng vay vốn ngắn hạn. Quy trình phân tích tín dụng ngắn hạn bao gồm có 4 bước sau: 2.2.2.1 Phân tích trước khi cấp tín dụng ngắn hạn cho khách hàng Đây là bước đầu tiên cũng là bước quan trọng nhất quyết định chất lượng của phân tích tín dụng. Công việc chủ yếu là tìm kiếm, thu thập và xử lý các thông tin liên quan đến khách hàng bao gồm năng lực sử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu các tài sản và các điều kiện kinh tế khác có liên quan đến người vay. Phương pháp chủ yếu để thu thập và xử lý thông tin khách hàng: có thể thông qua việc phỏng vấn trực tiếp khách hàng như tham quan nhà xưởng, máy móc, công trường, văn phòng, gặp gỡ nói chuyện với cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, xem xét tài sản thế chấp.Thu thập thông tin khách hàng thông qua các báo cáo tài chính của họ, trước khi cho vay Ngân hàng sẽ yêu cầu khách hàng cung cấp các thông tin về năng lực sản xuất, kinh doanh và tiềm năng tài chính và điều này được thể hiện qua các bản báo cáo tài chính như báo cáo kết quả kinh doanh, bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Có thể mua hoặc tìm kiếm thông tin qua các trung gian như các cơ quan quản lý, qua các bạn hàng của người vay, qua các trung tâm thông tin. Thông qua những biện pháp thu thập như vậy Ngân hàng sẽ có một cái nhìn chính xác, toàn diện về khách hàng của mình. Sau khi đã thu thập được những thông tin cần thiết về khách hàng Ngân hàng tiến hành tổng hợp phân tích những thông tin đó để đưa ra quyết định cho vay hay không cho vay đối với khách hàng đó. Nội dung phân tích: + Đánh giá tài sản của khách hàng: Nếu khách hàng là pháp nhân như các doanh nghiệp đều có bảng cân đối kế toán trong đó phần tài sản phản ánh số kết dư giá trị tài sản tại một thời điểm, hoặc kết dư trung bình trong kỳ. Nếu khách hàng là thể nhân như hộ kinh doanh hoặc người tiêu dùng Ngân hàng yêu cầu các thông tin về tình hình kinh doanh, tài sản cá nhân, lương và các khoản thu nhập khác. Các thông tin về tài sản cho biết quy mô, chất lượng tài sản, khả năng quản lý của khách hàng rất quan trọng đối với quyết định cho vay. Đánh giá những tài sản có tính thanh khoản cao nhất như ngân quỹ gồm tiền mặt trong két, tiền gửi ngân hàng, các khoản phải thu. Tiền mặt và tiền gửi chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản của khách hàng. Các khoản phải thu chủ yếu là tiền bán hàng hoá và dịch vụ chưa thu được tiền có khả năng chuyển đổi thành tiền mặt. Ngân hàng cần xem xét kỹ các khoản này vì có những khoản bán chịu khó, không thu được tiền.Hoạt động tín dụng ngắn hạn của ngân hàng có liên quan chặt chẽ với tình hình ngân quỹ của khách hàng. Các chứng khoán có giá đây là tài sản chính của doanh nghiệp các tài sản này tăng nguồn thu và có thể mang bán khi cần tiền để chi trả. Rất nhiều món vay ngắn hạn của khách hàng với mục tiêu tăng dự trữ hàng hóa, do đó ngân hàng cần phải quan tâm đến số lượng, chất lượng, mẫu mã, bảo hiểm, rủi ro đối với hàng hóa trong kho.Ngân hàng cũng xem xét đánh giá tài sản cố định của khách hàng như nhà cửa, sân bãi, trang thiết bị, phương tiện vận tải. + Đánh giá các khoản nợ: Ngân hàng phải xem xét các khoản nợ phải trả trong năm và trong năm sau. Nếu khoản cho vay của ngân hàng phải trả trong năm thì các khoản nợ đến hạn và tài sản ngân quỹ trong năm của khách hàng là những yếu tố chính để ngân hàng quyết định cho vay. Ngân hàng cũng quan tâm đến nợ quá hạn và các nguyên nhân, quan tâm tới tất cả các chủ nợ của khách hàng như ngân hàng khác, nhà cung cấp, người lao động và vị trí của ngân hàng trong danh sách chủ nợ của khách hàng.. Ngân hàng cũng xem xét các khoản nợ ưu đãi, nợ có đảm bảo và nợ khác, các tài sản đã làm đảm bảo cho các khoản vay cũ cần được tính lại theo giá thị trường và bị loại trừ nếu chúng được lấy làm tài sản đảm bảo cho khoản vay mới thì cần tính toán giá trị dôi thừa so với tiền vay cũ. + Phân tích luồng tiền: Nhiều khách hàng tạo ra lợi nhuận trong quá khứ và có khả năng tạo ra lợi nhuận trong tương lai. Nhưng việc trả nợ lại liên quan chặt chẽ đến ngân quỹ của khách hàng (ví dụ: cho vay hộ kinh doanh, nguồn trả nợ là các khoản thu của người vay). Trong khi lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng phản ánh khả năng sinh lợi, trên thực tế Tỷ lệ dòng tiền/ Tổng các khoản nợ là chỉ tiêu quan trọng nhất để dự đoán các vấn đề tín dụng trong tương lai. Các luồng tiền trong tương lai -phụ thuộc vào kế hoạch chi tiêu trong tương lai- cần được dự kiến. + Ngân hàng thường quan tâm đến khả năng trả nợ của khách hàng: Thông qua việc theo dõi các tỷ lệ như tỷ lệ thanh khoản, tỷ lệ đo khả năng tạo lợi nhuận, tỷ lệ đo khả năng tài trợ bằng vốn tự có, tỷ lệ đo rủi ro. Nhóm tỷ lệ thanh khoản: Nhóm tỷ lệ này đo khả năng của người vay trong việc đáp ứng trách nhiệm tài chính ngắn hạn. Dựa vào đó Ngân hàng xác định khả năng thanh toán các khoản nợ khi đến hạn của người vay. Nhìn chung, tỷ lệ này càng cao thì khả năng thanh toán của người vay có thể càng tốt. Ngân quỹ của người vay Tỷ lệ thanh toán = nhanh Các khoản nợ hiện hành Tài sản lưu động Tỷ lệ thanh toán = trung bình Nợ hiện hành Tuỳ từng trường hợp mà Ngân hàng phân tích tỷ lệ thích hợp. Nếu cho vay trong thời gian ngắn 2-3 tháng Ngân hàng cần quan tâm tới tỷ lệ thanh toán nhanh, còn cho vay từ 9-12 tháng Ngân hàng cần quan tâm đến thanh khoản trung bình. Nhóm tỷ lệ sinh lời: Nếu khoản vay được trả từ lợi nhuận thì điều quan trọng là phải đánh giá được khả năng của người vay trong kinh doanh nhằm tìm kiếm đủ số lời để trả nợ. Nhóm tỷ lệ này đo khả năng tạo lợi nhuận của người vay, các tỷ lệ này có tử số là thu nhập ròng trước hoặc sau thuế thu nhập hoặc doanh thu và mẫu số là vốn tự có, vốn lưu động hoặc tổng vốn. Khả năng trả nợ của khách hàng thực chất bắt nguồn từ khả năng tạo thu nhập, tức là người vay có khả năng thu về giá trị lớn hơn giá trị đã bỏ ra ban đầu. Nhóm tỷ lệ rủi ro: Rủi ro của người vay có thể do nhiều nguyên nhân, có thể ở khâu sản xuất, tiếp thị hoặc từ phía nhân sự, vấn đề tài chính hay từ phía nhân sự, vấn đề tài chính hay từ những tác động từ cơ chế chính sách. Tuỳ trường hợp cụ thể mà Ngân hàng sẽ đánh giá xem xét rủi ro của khách hàng là nhiều hay ít để ra quyết định có cho vay hay không . Nhóm tỷ lệ đo khả năng tài trợ bằng vốn sở hữu : Thông thường một doanh nghiệp phải có vốn tự có đủ tài trợ cho một phần tài sản cố định hay tài sản lưu động, hiện nay các Ngân hàng thường đầu từ 70% còn 30% còn lại do vốn tự có đầu tư vào tài sản cố định hoặc tài sản lưu động. Khi cấp tín dụng ngắn hạn thì NHTM xem xét vốn lưu động tự có của doanh nghiệp, một khoản xin vay ngắn hạn có thể được Ngân hàng chấp nhận nếu không làm xấu đi tình trạng tài trợ của doanh nghiệp. + Các điều kiện kinh tế: Các điều kiện kinh tế có ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả của người vay nhưng chúng thường vượt quá sự kiểm soát của người vay lẫn người cho vay. Vậy nên nhân viên tín dụng phải trở thành nhà dự đoán kinh tế. 2.2.2.2 Xây dựng và ký kết Hợp đồng Tín dụng Sau khi đã thực hiện xong việc thu th._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28901.doc
Tài liệu liên quan