LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của khóa luận.
Trong nền kinh tế quốc dân, hệ thống ngân hàng luôn chiếm vị trí rất quan trọng, nó điều tiết lượng tiền tệ từ nơi thừa đến nơi thiếu nhằm thu được lời từ việc kinh doanh tiền tệ, đồng thời cũng thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động chính của các ngân hàng,
nó là một hoạt động phức tạp và đòi hỏi phải có trình độ quản lý cao.Với nền kinh tế thị trường, sự phát triển và cạnh tranh giữa các thành phần kinh t
81 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1391 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế đã tạo điều kiện cho các Doanh Nghiệp hoạt động bình đẳng nhau trước pháp luật, cạnh tranh nhau để phát triển, do đó việc quản lý tín dung, phương thức hoạt động kinh doanh là rất quan trọng. Với tư cách là doanh nghiệp kinh doanh đặc biệt trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng, các Ngân hàng thương mại cũng không phải là trường hợp ngoại lệ.Để thu hút được khách hàng, ngân hàng luôn phải đổi mới chiến lược kinh doanh, đó cũng là nhiệm vụ cần thiết của tín dụng ngân hàng.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn ( NHNo&PTNT ) huyện Võ Nhai thuộc Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Thái Nguyên là đơn vị thành viên của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam thành lập và đi vào hoạt động từ ngày 26/3/1988 theo nghị định 53 của Chính phủ. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam là Doanh nghiệp Nhà nước dạng đặc biệt, tổ chức theo mô hình tổng Công ty Nhà nước và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh, bảo toàn và phát triển vốn đầu tư.Huyện Võ Nhai là một huyện miền núi, cả huyện có 15 xã và 1 thị trấn thì có 14 xã vùng cao, có nhiều xã thuộc diện 135 nên huyên còn nghèo và còn gặp rất nhiều khó khăn trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, do vậy Ngay từ đầu thành lập đã phải đối mặt với vô vàn những khó khăn chồng chất, như nguồn vốn kinh doanh nhỏ, quy mô khách hàng hẹp chủ yếu là các hộ sản xuất làm nông nghiệp, trình độ nhận thức của các đối tác khách hàng này còn rất hạn chế, vì vậy việc đầu tư tín dụng của Ngân hàng chứa đựng không ít rủi ro, nợ quá hạn ngày càng gia tăng. Tuy nhiên để tạo được bước chuyển biến mới cho nền kinh tế, tín dụng hộ sản xuất của các ngân hàng đang đứng trước những thách thức mới, cùng với sự phát triển đi lên là những rủi ro có thể xảy ra, để đạt được kết quả cao hơn đòi hỏi các nhà quản lý nỗ lực đưa ra những giải pháp tốt trong quản lý tín dụng đối với hộ sản xuất.Vậy phải làm gì để nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại NHNo&PTNT huyện Võ Nhai??Đó luôn là vấn đề nóng hổi trong công tác quản lý tín dụng.
Trên cơ sở lý luận học tập tại trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân-Hà Nội và trong thời gian thực tập tại NHNo&PTNT huyện Võ Nhai, em đã mạnh dạn nghiên cứu cho đề tài “Nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên” để làm khoá luận tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu của khoá luận.
Khoá luận nghiên cứu nhằm hướng tới các mục đích sau :
- Hệ thống hoá và làm sáng tỏ thêm lí luận, góp phần rút ngắn khoảng cách giữa lí luận và thực tiễn về tín dụng hộ sản xuất.
- Phân tích và đánh giá thực trạng về Nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên từ năm 2006 đến năm 2008
- Tìm kiếm các giải pháp và đề xuất một số kiến nghị nhằm về Nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên
Phương pháp nghiên cứu.
Đây là đề tài thuộc lĩnh vực kinh tế – quản lí, do đó quá trình nghiên cứu và thể hiện phải quán triệt phương pháp luận phổ biến chung thông qua việc sử dụng tổng hợp các biện pháp như :
Phương pháp tổng hợp kết hợp với phân tích
Phương pháp thống kê
Phương pháp so sánh
Phương pháp duy vật biện chứng.
4. Nội dung khoá luận.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận được chia ra thành 3 chương:
chương I : Lý luận cơ bản về nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông Thôn.
Chương II : Thực trạng về nâng cao Chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên.
Chương III: Giải pháp nâng cao Chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên.
CHƯƠNG I:LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG HỘ SẢN XUẤT TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN.
1.1.Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (NHNo&PTNT).
1.1.1.Khái niệm về NHNo&PTNT.
1.1.1.1. ý nghĩa về NHNo&PTNT(AGRIBANK)
NHNo&PTNT là một Ngân hàng thương mại nhà nước nên về cơ bản nó giống như NHTM, nó có nhiều lợi thế so sánh:qui mô vốn lớn mạng lưới rộng khắp trên địa bàn toàn quốc, có được mối quan hệ truyền thống với khách hàng....
1.1.1.2.khái niệm về Ngân hàng thương mại (NHTM).
Ngân hàng thương mại được quy định bởi luật tín dụng. “Ngân hàng thương mại là 1 tổ chức kinh doanh tiền tệ với nhiệm vụ chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng dưới các hình thức khác nhau với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để triết khấu, cho vay và làm phương tiện thanh toán”.
1.1.3.Vai trò và chức năng của NHTM.
1.1.3.1.Chức năng của NHTM.
Trong nền kinh tế thị trường, các NHTM đảm nhận một số chức năng sau:
Chức năng trung gian tín dụng:
Là chức năng chủ yếu và quan trọng của ngân hàng. Ngân hàng làm trung gian tín dụng khi nó là “ cầu nối’’ giữa người có vốn dư thừa và người có nhu cầu về vốn. Thông qua việc huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế ngân hàng hình thành nên quỹ cho vay của nó rồi cung ứng số vốn này cho nền kinh tế. Với chức năng này ngân hàng vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay.
Chức năng trung gian tín dụng xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình tái sản xuất xã hội.Sở dĩ ngân hàng làm được chức năng này vì nó là một tổ chức chuyên kinh doanh về tiền tệ, tín dụng, có khả năng nhận biết được tình hình cung- cầu về tín dụng. Thông qua thu hút tiền gửi với một khối lượng lớn, ngân hàng có thể giải quyết được mối quan hệ giữa cung và cầu tín dụng kể cả khối lượng vốn cho vay và thời gian cho vay.
Qua chức năng này, các NHTM đã góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên trong quan hệ: người gửi tiền, Ngân hàng, người đi vay, nền kinh tế.Người gửi tiền thu được lợi từ số vốn tạm thời nhàn rỗi của mình thông qua khoản lãi tiền gửi đồng thời được hưởng các dịch vụ thanh toán và các tiện ích khác do ngân hàng cung cấp. Người đi vay thoả mãn được nhu cầu về vốn sản xuất kinh doanh, chi tiêu, thanh toán, đây là nơi cung ứng vốn tiện lợi, chắc chắn và hợp pháp. Bản thân ngân hàng thương mại tìm kiếm được lợi nhuận. Thực hiện chức năng này đối với nền kinh tế ngân hàng đã và đang thực hiện chức năng xã hội của mình làm cho sản phẩm xã hội tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng tài trợ vốn cho các ngành, các thành phần kinh tế của đất nước làm ăn có hiệu quả, từ đó góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Chức năng trung gian thanh toán:
Ngân hàng làm trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ.
NHTM thực hiện chức năng trung gian thanh toán trên cơ sở thực hiện chức năng làm thủ quỹ cho xã hội. Đây là một chức năng quan trọng để ngân hàng thực hiện một số hoạt động của mình và có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh tế. Trước hết thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt và đảm bảo thanh toán an toàn. Khả năng lựa chọn hình thức này góp phấn tăng nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá, tốc độ luân chuyển vốn và hiệu quả quá trình tái sản xuất xã hội. Thứ hai việc cung ứng dịch vụ thanh toán là điều kiện để thu hút nguồn vốn tiền gửi. Chu chuyển tiền tệ hệ nay chủ yếu thông qua hệ thống NHTM và do vậy khi chức năng trung gian thanh toán được hoàn thiện thì vai trò của NHTM sẽ được nâng cao.
Ở các nước đang phát triển, công tác thanh toán ở trong nước được thực hiện bằng phương pháp thanh toán bù trừ thông qua NHTM. Việc phát hành séc để rút tiền từ tài khoản tiền gửi và ký thác trong cùng một ngân hàng đơn thuần chỉ là sự chuyển vốn từ tài khoản này sang một tài khoản khác ở tại ngân hàng đó. Đương nhiên quá trình này sẽ trở nên phức tạp, tốn thời gian, tăng chi phí giao dịch khi việc thanh toán bù trừ lại diễn ra giữa các ngân hàng thuộc điạ bàn khác nhau, khác hệ thống.
Hiện nay, các NHTM trên thế giới thực hiện hiện đại hoá các công nghệ đầu tư trang thiết bị đầy đủ các máy vi tính và các phương tiện kỹ thuật hiện đại khác. Hoạt động ngân hàng hiện nay không dùng séc, mà dùng thanh toán chuyển tiền qua máy tính, chuyển tiền điện tử. Một số nước sử dụng thẻ tín dụng, các máy giao dịch tự động ATM, thẻ thanh toán... Họ tiến hành nối mạng các máy vi tính của các ngân hàng trong nước nhằm thực hiện chuyển vốn từ tài khoản người mua sang tài khoản người bán một cách dễ dàng, nhanh chóng. Thẻ tín dụng, thẻ ATM giúp người ta có thể rút tiền từ một tài khoản nhất định thực hiện ký thác, thanh toán công nợ. Việc sử dụng những phương tiện này sẽ không phải sử dụng nhiều tiền mặt, từ đó vốn đầu tư được sử dụng rộng rãi.
Chức năng tạo tiền:
Với chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán NHTM có khả năng tạo ra tiền ghi sổ thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại NHTM. Sự kết hợp giữa chức năng trung gian tín dụng và chức năng trung gian thanh toán làm cho hệ thống NHTM có khả năng tạo tiền gửi thanh toán.Thông qua chức năng làm trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận tiền giao dịch và được họ sử dụng để mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ... Khi ngân hàng chỉ thực hiện chức năng nhận tiền gửi mà chưa cho vay, ngân hàng chưa hề tạo tiền. Chỉ khi thực hiện cho vay ngân hàng mới bắt đầu tạo tiền.
Chức năng này được thực hiện thông qua các hoạt động tín dụng, đầu tư trong mối liên hệ chặt chẽ với ngân hàng trung ương của mỗi nước. Để có thể hoạt động và đặc biệt cho sự phát triển hoạt động tín dụng, đầu tư của mình, các ngân hàng bằng các nghiệp vụ kinh doanh truyền thống phải tạo điều kiện cho việc tăng trưởng nguồn vốn phù hợp với yêu cầu tăng trưởng kinh tế. Hơn thế nữa, năng lực của hệ thống NHTM trong việc tạo tiền không chỉ đáp ứng đúng nhu cầu tồn tại và phát triển của bản thân ngân hàng mà còn mang ý nghĩa kinh tế to lớn, với một hệ thống tín dụng năng động có vai trò cực kỳ quan trọng như là người mở đầu, người tham gia và có khi như là người nâng đỡ và quyết định đối với mọi quá trình sản xuất.
Chức năng thủ quỹ cho xã hội: Thực hiện chức năng này, NHTM nhận tiền gửi của công chúng, các doanh nghiệp và các tổ chức, giữ tiền cho khách hàng của mình, đáp ứng nhu cầu rút tiền và chi tiền của họ.
Ngày nay khi nền kinh tế ngày càng phát triển, thu nhập ngày càng cao, tích luỹ của doanh nghiệp và các cá nhân ngày càng lớn cộng thêm nhu cầu bảo vệ tài sản và mong muốn sinh lời từ khoản tiền có được của các chủ thể kinh tế làm cho chức năng này càng được thể hiện rõ. Nó đem lại lợi ích cho cả khách hàng và ngân hàng.
Đối với khách hàng, thông qua việc gửi tiền vào ngân hàng, họ không những được đảm bảo an toàn về tài sản mà còn thu được một khoản lợi tức từ ngân hàng.
Đối với ngân hàng, chức năng này là cơ sở để ngân hàng thực hiện chức năng trung gian thanh toán, đồng thời tạo ra nguồn vốn chủ yếu cho NHTM để thực hiện chức năng trung gian tín dụng.
Ngoài ra các NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện những mục tiêu của chính sách tiền tệ: đó là việc cung ứng tiền tệ phải vừa đủ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, ngân hàng trung ương có thể cung ứng tăng tiền hoặc giảm lượng tiền trong lưu thông cho phù hợp với chính sách tiền tệ quốc gia.
1.1.3. Vai trò của ngân hàng thương mại:
- Ngân hàng là nơi huy động tập trung vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để cung cấp cho nhu cầu cuả nền kinh tế.
Như chúng ta đã biết trong xã hội luôn luôn tồn tại sự mâu thuẫn thừa và thiếu vốn một cách tạm thời tức là tình trạng người thì thừa tiền, người thì thiếu tiền.
Đối với những người, những tổ chức kinh tế có tiền tạm thời nhàn rỗi, thì vấn đề đối với họ là làm sao bảo quản số tiền đó được an toàn, tránh rủi ro và sinh lời. Nhưng để thực hiện được điều này, nó còn phụ thuộc vào khả năng và mối quan hệ của từng người. Thông thường những người có tiền tạm thời nhàn rỗi luôn luôn tìm cách cho những người hoặc những tổ chức có nhu cầu về vốn vay trong 1 thời hạn nhất định chứ không trực tiếp đầu tư vào sản xuất, do sự giới hạn và khả năng thu hồi tiền mặt. Tuy nhiên điều này rất khó có thể thực hiện được. Do vậy trong xã hội luôn luôn tồn tại mâu thuẫn này. Xét về mặt kinh tế thì lượng tiền này nếu được tập trung lại để cho vay với những người có nhu cầu vay sẽ đem lại lợi ích cho cả người có tiền nhàn rỗi và những người có nhu cầu về vốn và đem lại hiệu quả cho nền kinh tế nói chung. Ngân hàng chính là người thực hiện chức năng cầu nối này.
-Ngân hàng với hoạt động của mình góp phần tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung.
Đặc trưng cơ bản của ngân hàng là cho vay có hoàn trả với mức lãi suất nhất định. Chính điều này đã bắt buộc mọi cá nhân và tổ chức khi vay vốn của Ngân hàng phải cần nhắc và sử dụng vốn đó 1 cách có hiệu quả. Đây chính là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường công tác hạch toán, giảm chi phí sản xuất nhưng phải tăng cường chất lượng sản phẩm và tăng vòng quay của vốn. Qua đó tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mặt khác khi quyết định một món vay ngân hàng thường thẩm định tín dụng, chỉ thực hiện cho vay đối với những cá nhân doanh nghiệp phải có sự sắp xếp bố trí sản xuất phù hợp để có cơ hội vay vốn của ngân hàng. Đây chính là cơ sở giúp cho việc tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Qua đó tăng hiệu quả của nền kinh tế.
- Ngân hàng là tổ chức thực hiện phân bổ vốn giữa các vùng, miền. Qua đó tạo điều kiện cho việc phát triển đồng đều giữa các vùng miền khác nhau trong cùng một quốc gia.
Trong quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia. Đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, thì việc thừa và thiếu vốn qua các vùng, miền diễn ra thường xuyên, cho nên một vấn đề cần giải quyết được đặt ra là làm sao thực hiện việc tập trung vốn từ vùng có nhu cầu vốn mà không có nguồn vốn sẽ có đủ nguồn vốn để phát triển kinh tế. Chính ngân hàng đã thực hiện hoạt động này thông qua hoạt động điều chuyển vốn của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thông qua hoạt động của mình góp phần quan trọng vào việc chống lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền, ổn định nền kinh tế vĩ mô.
Trong hoạt động của mình, ngân hàng có thể giảm bớt lượng tiền mặt lưu thông ngoài thị trường bằng cách tăng lãi suất đầu ra ( Nâng lãi suất cho vay) làm hạn chế đồng tiền ra và nâng lãi suất huy động để thu hút đồng tiền chảy về ngân hàng trong thời kỳ nền kinh tế có lạm phát hoặc nền kinh tế phát triển quá nóng hoặc ngân hàng có thể hoạt động ngược lại khi nền kinh tế phát triển chậm, sa sút thì ngân hàng lại có thể giảm lãi suất, kích thích đầu tư ra tăng lượng tiền trong lưu thông… Qua việc thay đổi chính sách huy động cho vay như trên. Ngân hàng góp phần ổn định sức mua, hạn chế lạm phát, ngăn chặn sự tăng gia đột ngột góp phần ổn định nền kinh tế vĩ mô.
-Ngân hàng là cầu nối nền kinh tế giữa quốc gia này với quốc gia khác, tạo điều kiện hòa nhập qua nền kinh tế trong nước với nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới.
Ngân hàng có phạm vi hoạt động và quan hệ rộng rãi với nhiều tổ chức kinh tế. Ngân hàng có khả năng huy động được vốn từ cá nhân, các tổ chức trong nước hay tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế. Qua đó đảm bảo được vốn cho nền kinh tế trong nước, tạo điều kiện cho các tổ chức trong nước và nước ngoài thanh toán xuất nhập khẩu hàng hóa (thanh toán quốc tế). Ngân hàng còn là đại lý cho các tổ chức tài chính tín dụng nước ngoài. Qua đó giúp các tổ chức trong nước có thể vay vốn các tổ chức này.
1.1.4.Các hoạt động chung của NHTM.
1.1.4.1.Hoạt động huy động vốn.
Huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội là một hoạt động quan trọng hàng đầu của ngân hàng. Ngân hàng huy động từ các tổ chức xã hội, dân cư để đáp ứng nhu cầu vay vốn cho nền kinh tế. Trên cơ sở đó ngân hàng quy định lãi xuất đầu ra để thu lợi nhuận.
Để đảm bảo cho công tác huy động vốn có hiệu quả trong quá trình thực hiện các ngân hàng phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
*Nguyên tắc 1 : Việc huy động phải căn cứ vào nhu cầu của nền kinh tế quốc dân.
Ngân hàng với chắc năng là cơ quan tập trung nguồn vốn nhàn rỗi nhằm phục vụ cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh. Do đó ngân hàng phải luôn có biện pháp để tăng cường nguồn vốn đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Mặt khác ngân hàng cũng là 1 đơn vị hạch toán kinh doanh. Do vậy ngân hàng cũng phải huy động vốn sao cho không bị ứ đọng vốn tại ngân hàng, làm ảnh hưởng tới lợi nhuận và hoạt động của đơn vị. Muốn vậy ngân hàng phải nắm được các chính sách kinh tế của cả địa phương, của đơn vị và của dân cư. Từ đó đề ra chính sách và biện pháp huy động vốn hợp lý để đảm bảo sử dụng vốn huy động có hiệu quả.
*Nguyên tắc 2 : Ngân hàng có trách nhiệm hoàn trả tiền gửi đúng hạn cả gốc lẫn lãi cho khách hàng.
Để huy động vốn có hiệu quả các ngân hàng phải quán triệt nguyên tắc này, phải đáp ứng được lợi ích mà khách hàng đòi hỏi khi có quan hệ với khách hàng đối với ngân hàng. Để thực hiện các nguyên tắc này. Ngân hàng không ngừng đổi mới công nghệ ngân hàng, các thủ tục trong sự nghiệp huy động vốn cũng như các nghiệp vụ khác có liên quan. Ngoài ra ngân hàng nhà nước phải có những quy định thiết thực hữu hiệu giúp NHTM thực hiện tốt các nguyên tắc này như việc quy định lãi xuất cơ bản, phát hành trái phiếu, quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc… Đây cũng là cơ sở giúp NHTM đảm bảo khả năng thanh toán với khách hàng, giữ uy tín cho ngân hàng.
*Nguyên tắc 3 : Các ngân hàng không được huy động vốn vượt quá khả năng cho phép so với vốn tự có của 1 ngân hàng.
Để tránh rủi ro xảy ra trong quá trình thanh toán tiền gốc và lãi cho khách hàng. NHTM thường đưa ra các quy định theo đó các ngân hàng chỉ hoạt động trong phạm vi đã được nhà nước cho phép để đảm bảo khả năng về vốn của đơn vị.
Để đứng vững trong cơ chế thị trường. Các hoạt động của ngân hàng nói chung và đặc biệt là hoạt động huy động vốn phải có thủ tục đơn giản, ngắn gọn, nhanh chóng, chính xác, có như vậy mới thu hút được lượng vốn tối đa và nhanh nhất đáp ứng kịp thời cho nhu cầu phát triển nền kinh tế. Quy trình hoạt động vốn tại ngân hàng diễn ra theo su thế ngày càng đơn giản càng tốt. Cụ thể trước khi đưa ra quyết định huy động vốn thì ngân hàng phải tính toán được số lượng cần thiết phải huy động tại ngân hàng để tránh tình trạng ứ đọng vốn. Sau đó ngân hàng quyết định xem xét lựa chọn hình thức huy động vốn cho phù hợp với điều kiện của ngân hàng của địa phương. Trên cơ sở lãi suất cơ bản, lãi suất cho vay tại ngân hàng, lãi suất huy động vốn của ngân hàng khác trên địa bàn, tốc độ tăng trưởng kinh tế trên địa bàn-Ngân hàng tính toán được lãi suất huy động vốn của ngân hàng mình cho phù hợp.
Để thu hút được lượng vốn tối đa, ngân hàng cần có các chiến lược marketing phù hợp và thông tin rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng về các hình thức huy động vốn, cách thức trả lãi.
Như vậy trong quá trình hoạt động của mỗi ngân hàng phải thực hiện tốt các nghiệp vụ huy động vốn, từ đó mới tạo ra được nguồn vốn để thực hiện các hoạt động kinh doanh khác.
Từ các nguyên tắc trên mà hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại được thực hiện dưới các hình thức sau :
*Hoạt động huy động vốn qua đi vay tiền gửi của khách hàng :
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại. Khi một Ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó Ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của Ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao các ngân hàng đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau.
+Tiền ký gửi và tiền tiết kiệm:
Tiền ký gửi gồm các khoản tiền gửi vào ngân hàng có kỳ hạn và không kỳ hạn. Hiện nay có rất nhiều loại ký gửi. Đó là nguồn tạm thời nhàn rỗi trong tài khoản của các cơ quan, xí nghiệp. Để có được thuận lợi trong sản xuất kinh doanh các cơ sở kinh tế có quyền lựa chọn một hay nhiều ngân hàng để giao dịch nhằm giải quyết việc thu chi chuyển tiền thanh toán và các dịch vụ khác.
+Tiền gửi không kỳ hạn: Tiền này của khách hàng nhằm mục đích giao dịch, thanh toán trong quá trình mua bán hàng hóa, dịch vụ. Việc thanh toán có thể tiến hành dưới dạng: Tiền mặt, séc hoặc ủy nhiệm chi. Sau khi mở tài khoản thanh toán tại Ngân hàng, chủ tài khoản phải giao cho ngân hàng quyền theo dõi, ghi chép các nghiệp vụ phát sinh trên tài khoản của họ ở Ngân hàng. Chi phí hoạt động này khá lớn nhưng trên thực tế ngân hàng có thể bù đắp chi phí này thông qua việc sử dụng số dư tài khoản để cho vay lại và đây chính là việc mang lại lợi ích lớn cho ngân hàng. Loại tiền gửi này gồm 2 loại:
* Tiền gửi thanh toán (Tiền gửi giao dịch): Là loại tài khoản tiền gửi mà chủ tài khoản có toàn quyền sử dụng số tiền trên tài khoản chỉ trong số dư tiền gửi, họ có thể rút ra sử dụng hoặc thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Loại tài khoản này luôn chỉ có số dư có chủ tài khoản phải luôn tuân thủ những quy định và hướng dẫn của Ngân hàng khi thực hiện thanh toán. Loại tài khoản này thuận lợi an toàn, tuy có lãi suất thấp nhưng thuận tiền trong thanh toán nên đây là loại tài khoản rất hấp dẫn khách hàng tạo ra một lượng vốn lớn phục vụ hoạt động tín dụng của ngân hàng.
* Tài khoản tiền gửi vãng lãi: Là loại tài khoản có thể dư Có hoặc có thể dư Nợ. Số dư Có thể hiện tiền gửi của khách hàng, số dư nợ thể hiện tiền vay của khách hàng (do vay thấu chi ). Lãi suất mỗi bên dư nợ hay dư có là do 2 bên thỏa thuận. Nếu ở tài khoản vãng lai thì chủ tài khoản có thể rút ra bất cứ lúc nào hoặc tạm vay trong thời hạn nhất định vì tài khoản có thể dư nợ hoặc dư có. Trong thực tế tài khoản tiền gửi cũng có thể dư nợ nếu có thỏa thuận trước giữa ngân hàng với khách hàng. Đối với tài khoản vãng lai có hai loại lãi suất được áp dụng đồng thời bằng lãi suất mà khách hàng trả cho ngân hàng (nếu tài khoản dư nợ) và lãi suất ngân hàng phải trả cho chủ tài khoản (nếu tài khoản dư có) lãi suất trả cho số dư nợ luôn lớn hơn lãi xuất trả cho số dư có. Chính vì vậy mà khách hàng luôn tìm cách bỏ tiền vào tài khoản nhằm giảm mức dư nợ đến mức thấp nhất, từ đó làm tăng nguồn vốn của ngân hàng.
Vốn ngân hàng tiền gửi không kỳ hạn có chi phí rất thấp, nếu hấp dẫn được lượng khách hàng lớn, đảm bảo được số dư ổn định ngân hàng có thể cho vay ngắn hạn, hoặc mua chứng khoán có tính khả dụng cao như kỳ phiếu kho bạc.
+Tiền gửi có kỳ hạn : Loại tiền không dùng để thanh toán mà chủ yếu là để kiếm lời cao. Tiền gửi có kỳ hạn là số tiền gửi đến một ngày nhất định mới phải trả lại cho khách hàng. Điều này giúp được cho ngân hàng nắm được vốn trong các kỳ đã có kế hoạch cho vay không phải tồn quỹ cao để phòng sự rút vốn bất thường. Loại này chỉ được rút ra khi đến hạn nhưng không thực tế do sự cạnh tranh của các Ngân hàng trong việc huy động vốn, các ngân hàng vẫn cho phép rút trước thời hạn với lãi suất thấp hơn hoặc dùng sổ để thế chấp vay vốn ngân hàng. Như vậy tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn mang tính ổn định. Vì vậy để khuyến khích các khách hàng gửi tiền. Các ngân hàng thường đưa ra nhiều loại khác nhau như 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng. Với mỗi kỳ hạn áp dụng mức lãi suất tương ứng.
+Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Nghĩa là gửi tiền theo một thời gian dài nhất định mới trả cho người gửi. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng. Với loại tiền gửi này thùy theo pháp luật của từng nước mà sẽ có những quy định cụ thể khác nhau về việc rút tiền. Đối với loại tiền gửi này thì khách hàng và Ngân hàng không phải thỏa thuận trước về thời hạn rút tiền mà hai bên phải tuân thủ những quy định của pháp luật như: Trong một thời hạn nhất định khách hàng chỉ được rút ra một số tiền nhất định, muốn rút số tiền lớn hơn phải báo trước cho ngân hàng trong một khoảng thời gian nhất định được quy định.
Tiền gửi tiết kiệm của khách hàng giúp ngân hàng nắm bắt được những thông tin chính xác về tình hình tài chính của khách hàng làm cơ sở để giải quyết việc cho vay, là cơ sở để cho các tổ chức thanh tra kiểm soát thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ của mình và thông qua việc quản lý nguồn vốn tiền gửi góp phần ổn định lưu thông tiền tệ, ổn định giá trị của đồng tiền.
*Vốn huy động qua việc phát hành kỳ phiếu trái phiếu Ngân hàng:
Đây là hình thức huy động thông qua phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. Loại này thuộc loại chủ động thu gom được huy động theo sáng kiến của từng Ngân hàng, Ngân hàng hoàn toàn tự chủ về mặt thời gian hoàn trả. Do đó có thể sử dụng cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn tùy thuộc vào vốn vay.
+Trái phiếu ngân hàng : Là một chứng chỉ có giá xác nhận khoản nợ của Ngân hàng với người chủ cầm giữ trái phiếu với những cam kết.
*Thanh toán một số tiền nhất định
*Vào một ngày xác định trong tương lai.
*Với mức lãi suất xác định trong thời hạn xác định cho trước.
+Kỳ phiếu Ngân hàng : Thực ra là một trái phiếu nhưng nó linh động hơn, được phát hành thường xuyên hơn so với những loại khác nhau từ 3 tháng, 6 tháng, đến 12 tháng, phù hợp hơn với khách hàng.Đối với từng ngân hàng khác nhau, lãi suất thường xuyên thay đổi. Đây là hình thức huy động thông qua phát hành kỳ phiếu, trái phiếu.
*Hoạt động huy động vốn qua đi vay của các tổ chức tín dụng :
Các khoản vay ngày càng chiếm vị trí trong hoạt động của các ngân hàng không chỉ vì quy mô đơn thuần mà chủ yếu mang ý nghĩa như là một biện pháp quản lý các mục tài sản nợ: các Ngân hàng đi vay từ nhiều nguồn khác nhau đó là:
+ Nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác :
Trong thực tế các ngân hàng luôn không có sự cân đối giữa nguồn vốn huy động và nguồn vốn sử dụng. Vì vậy khi thiếu đột xuất ngân hàng có thể vay của các tổ chức tín dụng khác qua thị trường liên ngân hàng. Do ngân hàng là một doanh nghiệp hạch toán toàn ngành. Vì vậy khi phát sinh tình trạng tạm thời thừa vốn, các chi nhánh ngân hàng thường phải điều chuyển vốn về Ngân hàng cấp trên để tiếp tục điều chuyển vốn cho các ngân hàng khác thiếu vốn vay.
Tỷ trọng của nguồn này trong tổng nguồn vốn phản ánh quan hệ của ngân hàng với các tổ chức tài chính khác và chất lượng thanh toán của ngân hàng bởi tỉ trọng của nguồn này lớn chứng tỏ rằng Ngân hàng càng rất có uy tín trong quan hệ thanh toán cả đối với khách hàng và cả đối với các tổ chức tín dụng khác.
Nhưng nói chung, khi vay vốn của ngân hàng nhà nước(NHNN) hoặc các tổ chức tín dụng khác, các ngân hàng thường phải chịu chi phí lớn, do NHNN cho vay theo lãi suất chiết khấu, các tổ chức tín dụng nguồn vốn này đối với các ngân hàng không cao. Nên trong thực tế nguồn vốn này cũng chỉ chiếm một tỉ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn kinh doanh.
+ Nguồn vốn vay từ Ngân hàng nhà nước :
Là hình thức thường gặp là vay tái chiết khấu với vai trò là người cho vay cuối cùng. NHNN luôn có các ngân hàng vay với mức giá nhất định: Đó là lãi suất tái chiết khấu được NHNN sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô, tùy vào yêu cầu của nền kinh tế mà lãi suất này có thể được nâng cao hoặc hạ thấp. Các ngân hàng có thể vay NHNN khi có nhu cầu, nhưng ở hầu hết các nước NHNN đều không cho phép ngân hàng lạm dụng khả năng đó bằng các công cụ như hạn mức chiết khấu hay lãi xuất tái chiết khấu. Song đây cũng là “Sân hậu” đối với hoạt động vốn của các ngân hàng.
Vốn vay của NHNN là quan hệ trực tiếp giữa các ngân hàng với Ngân hàng nằm trong sự điều tiết của chính sách tiền tệ. Khi Ngân hàng nhà nước sử dụng công cụ thị trường mở, mua bán các trái phiếu kỳ phiếu hệ thống ngân hàng phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ của NHNN.
1.1.4.2. Hoạt động sử dụng vốn:
Hoạt động cho vay của ngân hàng phải quán triệt các nguyên tắc sau:
*Nguyên tắc 1 : Tiền vay phải được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.
*Nguyên tắc 2 : Tiền vay phải được hoàn trả cả gốc lẫn lãi
*Nguyên tắc 3 : Việc đảm bảo tiền vay thực hiện theo đúng quy định của Chính phủ và NHTW đối với các ngân hàng hiện nay. Nghiệp vụ cho vay được thực hiện bằng nhiều hình thức như sau:
*Cho vay ngắn hạn: (Thời hạn cho vay dưới 12tháng)
Là hình thức sử dụng nhiều nhất ở các ngân hàng, trong nền kinh tế thị trường các ngân hàng có thể cho khách hàng vay ngắn hạn dưới các hình thức sau:
-Cho vay bổ xung vốn lưu động thiếu : Là loại cho vay khi trong quá trình sản xuất kinh doanh khách hàng phát sinh nhu cầu bổ xung vốn lưu động thì ngân hàng sẽ giải quyết cho vay. Tiền vay phát sinh theo đúng đối tượng, theo phương án kinh doanh của khách hàng.
-Cho vay bảo lãnh :
Là sự cam kết của người nhận bảo lãnh sẽ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và quyền lợi nếu người được bảo lãnh không thực hiện đúng và đầy đủ những cam kết đối với bên yêu cầu bảo lãnh.
-Cho vay theo hạn mức:Ngân hàng cùng khách hàng xác định hạn mức cho 1 chu kỳ sản xuất kinh doanh.Sau 1 năm xác định lại hạn mức đối với hộ kinh doanh, sản xuất ổn định.
-Nghiệp vụ thấu chi :
Là nghiệp vụ cho vay ngắn hạn bổ xung vốn lưu động nhằm cân đối ngân quỹ hàng tháng trên tài khoản vãng lai của khách hàng.
-Cho vay chiết khấu các chứng từ có giá : Là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn được thực hiện dưới các hình thức chuyển nhượng quyền sở hữu các chứng từ có giá cho ngân hàng để nhận được 1 khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi mức chiết khấu. Cho vay ngắn hạn tạo được nguồn thu nhập đáng kể cho ngân hàng tạo điều kiện để nâng cao được vị thế của mình trong nền kinh tế.
*Cho vay trung và dài hạn: Tài trợ cho các dự án
Đối tượng cho vay chủ yếu là các doanh nghiệp kinh doanh sản xuất, mua sắm trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kỹ thuật, mua công nghệ … với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, để tồn tại và phát triển nhu cầu vốn trung và dài hạn ngày càng cao.
1.1.4.3.Các hoạt động khác :
Để tăng doanh thu, mỗi một ngân hàng ngoài hoạt động chính là cho vay, còn thực hiện các dịch vụ khác. khi thực hiện các hoạt động này, ngoài tăng lợi nhuận còn tăng uy tín của ngân hàng đối với khách hàng. Do vậy ngân hàng cũng phải chú ý đến các hoạt động này. Hoạt._. động dịch vụ bao gồm chuyển tiền, thu hộ- chi hộ, thông tin tư vấn, mua, bán nợ nghiệp vụ ủy thác.
-Hoạt động ngân quỹ: Là việc ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý việc thu và chi cho 1 công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngân hàng cho đến khi khách hàng tiền mặt để thanh toán.
1.2. nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông Thôn.
1.2.1. Chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại NHNo&PTNT.
Đặc trưng của hoạt động kinh doanh Ngân hàng là đi vay để cho vay. Cho nên với số vốn huy động được này Ngân hàng phải làm thế nào để thu được lợi nhuận cao, hay nói cách khác là làm thế nào để số vốn này đạt hiệu quả. Bởi vì như chúng ta đã biết khi huy động số vốn này, Ngân hàng phải chịu một mức lãi suất và đến khi hết hạn thì phải trả lãi cho họ. Do đó để khỏi thiệt hại. Ngân hàng phải tìm mọi cách cho vay hoặc đầu tư ngay số tài sản này vào những dịch vụ sinh lời và số lãi thu được này, Ngân hàng sẽ dùng trả lãi cho số vốn huy động và thanh toán các chi phí trong hoạt động, phần còn lại là lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng chiếm từ 80% đến 90% lợi nhuận của Ngân hàng. Do vậy điều cấp thiết là phải nâng cao hoạt động tín dụng cả về quy mô lẫn chất lượng.
Từ khi được thành lập đến nay ngân hàng luôn cố gắng để thực hiện mục tiêu kinh doanh đề ra và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Theo báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2007, 2008 của ngân hàng thì tổng dư nợ như sau:
Bảng 2: Dư nợ năm 2007, 2008.
(Đơn vị: triệu đồng).
Năm
Chỉ tiêu
31/12/2007
31/12/2008
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
% so với
năm 2007.
A. Dư nợ TCTK
B. Dư nợ TCTK
1. Dư nợ nội tệ thông thường.
2. Dư nợ ngoại tệ
500445
464496
438344
26152
52
48
94
8
492.105
688474
624746
63728
42
58
91
9
- 1, 67
48, 2
42, 5
143, 6
Tổng dư nợ
2049157
100
1180579
100
22, 34
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 2007, 2008.
Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy rằng tổng dư nợ rất nhỏ so với số vốn huy động được, điều này cũng dễ hiểu thôi, bởi vì ngân hàng nghiệp vụ chính là huy động vốn và hoạt động cho vay.Nên tổng dư nợ cũng tăng theo qua các năm đó là từ 964941 triệu đồng năm 2007 lên tời 1180579 năm 2008. Trong đó dư nợ tổ chức tín dụng giảm 1, 67% so với năm 2007. Do vậy dư nợ tổ chức kinh tế tăng 48, 2%. Như vậy là ngân hàng đã tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế vay góp phần vào việc phát triển sản xuất nền hàng hoá. Mặt khác trong tổng dư nợ tổ chức kinh tế thì dư nợ nội tệ chiếm chủ yếu 94% năm 2007 và 91% năm 2008. Còn dư nợ ngoại tệ tuy chiếm tỷ trọng ít nhưng nó lại liên tục tăng qua các năm, năm 2007 mới chỉ là 26152 mà năm 2008 đã lên tới 63728. Điều này chứng tỏ ngân hàng đã tăng cường mở rộng quy mô tín dụng bằng ngoại tệ. Và biện pháp để nâng dư nợ ngoại tệ là phục vụ tốt các dự án có nhu cầu ngoại tệ của các công ty 90, 91, cho vay bằng ngoại tệ.
Để xem xét tình hình sử dụng vốn trong thời gian qua ta xem xét bảng sau:
Bảng 3: Cơ cấu dư nợ theo thời gian trong năm 2007, 2008.
(Đơn vị: triệu đồng).
Năm
Chỉ tiêu
31/12/2007
31/12/2008
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
% so với
năm 2007.
1. Cho vay ngắn hạn.
2. Cho vay dài hạn.
428728
35768
92, 29
7, 71
578398
110076
84, 01
15, 99
34, 91
207, 74
Tổng dư nợ TCKT
2049157
100
688474
100
48, 21
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 2007, 2008)
Qua bảng số liệu trên ta thấy trong tổng dư nợ tổ chức kinh tế thì cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao cụ thể 92, 29% năm 2007. Và 84, 01% năm 2008. Còn cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ, điều này cũng dễ hiểu vì số vốn huy động được từ trung và dài hạn là rất ít, do vậy cho vay ít là điều bình thường. Như vậy là ngân hàng cần chú trọng huy động nhiều vốn trung và dài hạn nhiều hơn nữa để từ đó cho vay đối với các công trình mang tính lâu dài ổn định góp phần mở rộng quy mô cho vay.
Bên cạnh đó thì Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam cũng có những biện pháp thích hợp trong việc cho vay đối với từng thành phần kinh tế. Ngân hàng đã kết hợp hài hoà giữa việc thực hiện chiến lược lợi nhuận của ngân hàng với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới. Cơ cấu cho vay đối với từng thành phần kinh tế được áp dụng một cách linh hoạt tạo động lực phát triển cho kinh tế thủ đô, điều này được thể hiện trong cơ cấu cho vay đối với từng thành phần kinh tế như sau:
Bảng 4: Dự nợ theo thành phần kinh tế trong năm 2007, 2008.
(Đơn vị: triệu đồng).
Năm
Chỉ tiêu
31/12/2007
31/12/2008
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
% so với
năm 2007.
1. Cho vay DNNN
2. Cho vay DN ngoài quốc doanh.
437842
26654
94, 26
5, 74
612785
75689
89
11
39, 95
183, 96
Tổng dư nợ TCKT
464496
100
688474
100
48, 21
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 2007, 2008.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam tập trung đầu tư tín dụng chủ yếu vào các doanh nghiệp Nhà nước sản xuất kinh doanh có hiệu quả trong cơ chế thị trường. Chính vì vậy mà tỷ trọng cho vay đối với doanh nghiệp quốc doanh cao hơn nhiều so với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Do đó khoản lợi nhuận mà ngân hàng thu được từ nghiệp vụ tín dụng cũng phần lớn từ cho vay các doanh nghiệp Nhà nước. Ngoài ra thì ngân hàng cũng đã và đang tăng dần tỷ trọng vốn tín dụng cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nhằm thúc đâỷ loại hình này hoạt động có hiệu quả.
Trong thời gian qua ngân hàng không những chú ý đến mở rộng quy mô tín dụng mà còn đặc biệt quan tâm đến chất lượng tín dụng nhằm ổn định kinh doanh và không ngừng tăng hiệu quả hoạt động. Chất lượng tín dụng thể hiện ở nợ quá hạn và được chứng minh qua bảng sau:
Bảng 5: Dư nợ quá hạn trong năm 2007, 2008.
(Đơn vị: triệu đồng).
Năm
Chỉ tiêu
31/12/2007
31/12/2008
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
% so với
năm 2007.
Dư nợ quá hạn
22676
2, 3%
23916
2, 0
5, 4%
Tổng dư nợ
964941
1180579
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 2007, 2008.
Qua bảng số liệu trên ta thấy được rằng nợ quá hạn giảm dần qua các năm và chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng dư nợ. Cụ thể 2, 3% năm 2007 và 2, 0% năm 2008. Ta có thể nói rằng ngân hàng đã quan tâm đến chất lượng hoạt động tín dụng do vậy nợ quá hạn giảm.
Để đạt được những kết quả như trên không phải tự nhiên mà có mà là có sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, nhà nước đã bổ sung nhiều cơ chế, chính sách có liên quan đến công tác cho vay như: cơ chế bảo đảm tiền vay, chính sách, quy chế cho vay, cơ chế điều hành lãi suất tín dụng, quy chế đồng tài trợ… tạo môi trường pháp lý quan trọng cho việc mở rộng và nâng cao hiệu quả đầu tư. Đặc biệt qua nhiều lần thay đổi cơ chế lãi suất và hiện nay thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận đối với cả bằng đồng Việt Nam và cho vay bằng ngoại tệ đã có tác dụng to lớn đối với hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Ngoài ra ngân hàng đa có nhiều biện pháp tích cực đẩy mạnh cho vay đối với các loại hình doanh nghiệp, chú trọng triển khai các phương thức và đối tượng cho vay: Đồng tài trợ, cho vay tiêu dùng. Thường xuyên phối hợp các ban ngành để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quan hệ vay vốn Ngân hàng và khách hàng. Mở rộng tín dụng đi đôi với đảm bảo an toàn hiệu quả nên hiệu quả vốn tín dụng Ngân hàng có tác dụng tích cực đối với sản xuất kinh doanh, đã chủ động tiếp cận, tư vấn cho các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp xây dựng dự án sản xuất kinh doanh, tạo thuận lợi về thủ tục cho vay và đầu tư để các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với vốn đầu tư Ngân hàng.
Chủ động tìm hiểu và tiếp cận với khách hàng, củng cố khách hàng truyền thống và chủ động thu hút thêm khách hàng mới có chính sách ưu đãi lãi suất đối với khách hàng có tiềm lực tài chính có uy tín trong quan hệ tín dụng và khách hàng vay vốn sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu có nguồn thu ngoại tệ… nhờ đó mà tốc độ tăng dư nợ đạt khá, chất lượng tín dụng ngày một nâng cao được thể hiện trong quá trình thao tác nghiệp vụ.
- Thẩm định hồ sơ, kiểm tra trước, trong, sau khi giải ngân.
- Thực hiện nghiêm túc phân tích, phân loại tín dụng, xử lý nợ.
- Thường xuyên thực hiện việc kiểm tra phân tích nợ quá hạn, đánh giá thực chất nợ xấu để trích dự phòng rủi ro và đảm bảo thực hiện lành mạnh hoá tài chính.
- Bên cạnh công tác thu nợ xấu, hoạt động tín dụng đã phân tích đánh giá và khả năng phát triển kinh doanh và tình hình tài chính của khách hàng, coi trọng việc thẩm định, chú trọng đến phương án vay vốn của khách hàng trên cơ sở đó đưa ra quyết định đầu tư phù hợp với cơ chế tín dụng và khả năng quản lý không chỉ công việc khách hàng vay mà còn đối với cả cán bộ tín dụng.
1.2.2. Đặc điểm Chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại NHNo&PTNT
1.2.2.1.Khái niệm tín dụng.
Thuật ngữ “tín dụng” xuất phát từ gốc Latinh “Creditum” có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm lẫn nhau, hay nói cách khác là lòng tin.
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định lại quay về với một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam thì tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau trên cơ sở có hoàn trả cả gốc và lãi. Nhìn chung, mối quan hệ tín dụng luôn bao gồm hai mặt cơ bản đó là quan hệ cho vay và quan hệ hoàn trả, sự hoàn trả là đặc trưng thuộc về bản chất vận động của tín dụng, là điểm khác biệt để phân biệt sự khác nhau với các phạm trù kinh tế khác. Ngoài ra tín dụng còn có đặc trưng cơ bản đó là lòng tin và tính thời gian.
Một quan hệ tín dụng phải mang các đặc trưng: là quan hệ chuyển nhượng mang tính tạm thời, mang tính hoàn trả. Là quan hệ dựa trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau giữa người đi vay và người cho vay.
1.2.2.2.Đặc điểm chất lượng tín dụng hộ sản xuất.
Tính thời vụ gắn liền với chu kỳ sinh trưởng của động thực vật:
Tính chất thời vụ trong cho vay nông nghiệp có liên quan đến chu kỳ sinh trưởng của động, thực vật trong ngành nông nghiệp nói chung và các ngành nghề cụ thể mà Ngân hàng tham gia cho vay. Thường tính thời vụ được biểu hiện ở những mặt sau:
Tính mùa, vụ trong sản xuất nông nghiệp quyết định thời điểm cho vay và thu nợ của Ngân hàng. Nếu ngân hàng tập trung cho vay vào các chuyên ngành hẹp như cho vay một số cây, con nhất định thì phải tổ chức cho vay tập trung vào một thời gian nhất định của năm, đầu vụ tiến hành cho vay, đến kỳ thu hoạch/ tiêu thụ tiến hành thu nợ.
Chu kỳ sống tự nhiên của cây, con là yếu tố quyết định để Ngân hàng tính toán thời hạn cho vay.
Môi trường tự nhiên có ảnh hưởng đến thu nhập và khả năng trả nợ của khách hàng:
Nguồn trả nợ ngân hàng chủ yếu là tiền thu từ bán nông sản và các sản phẩm chế biến có liên quan đến nông sản. Như vậy sản lượng nông sản thu được là yếu tố quyết định khả năng trả nợ của khách hàng. Mà sản lượng nông sản chịu ảnh hưởng của thiên nhiên rất lớn.
Chi phí tổ chức cho vay cao:
Cho vay hộ sản xuất đặc biệt là cho vay hộ nông dân thường chi phí nghiệp vụ cho một đồng vốn vay thường cao do qui mô từng món vay nhỏ. Số lượng khách hàng đông, phân bố ở khắp mọi nơi nên mở rộng cho vay thường liên quan tới việc mở rộng mạng lưới cho vay và thu nợ: Mở chi nhánh, bàn giao dịch, tổ lưu động cho vay tại xã. Hiện nay mạng lưới của NHNo&PTNT Việt Nam cũng mới chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu vay của nông nghiệp.
Do đặc thù kinh doanh của hộ sản xuất đặc biệt là hộ nông dân có độ rủi ro cao nên chi phí cho dự phòng rủi ro là tương đối lớn so với các ngành khác.
1.2.3. Nâng cao Chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại NHNo&PTNT.
1.2.3.1.Khái niệm về nâng cao.
Trong nền kinh tế thị trường không có doanh nghiệp nào hoạt động lại không muốn mình sản xuất sản phẩm có chất lượng, do vậy bất kỳ một sản phẩm nào sản xuất ra cũng phải có chất lượng, có như vậy doanh nghiệp mới tồn tại và phát triển được.Các nhà kinh tế học đã nhận xét rằng: “Chất lượng phù hợp với mục đích của người sản xuất và người sử dụng về một loại hàng hóa nào đó” hay “chất lượng là một sản phẩm hoặc dịch vụ thỏa mãn nhu cầu của khách hàng”.
Tín dụng chính là một trong những sản phẩm chính của Ngân hàng Thương Mại nói chung, Ngân hàng No&PTNT huyện Võ Nhai nói riêng.Đây là hàng hóa dịch vụ đặc biệt, nó mang hình phi vật chất, sản phẩm này chỉ có khả năng đánh giá được chất lượng sau khi khách hàng đã sử dụng.Do vậy, có thể quan niệm chất lượng tín dụng ngân hàng là việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, đáp ứng nhu cầu phát triển Ngân hàng và mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội.
Chất lượng tín dụng lượng tín dụng hộ sản xuất tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thể hiện qua các quan điểm như sau :
- Đối với khách hàng : Với các doanh nghiệp khách hàng là “Thượng Đế”.Ngân hàng cũng không phải là trường hợp ngoại lệ.Do vậy tín dụng ngân hàng đưa ra phải phù hợp với yêu cầu của khách hàng về lãi xuất(giá cả sản phẩm của mình), kỳ hạn, phương thức thanh toán, thủ tục đơn giản nhưng luôn đảm bảo nguyên tắc tín dụng.Đặc biệt NHNo&PTNT huyện Võ Nhai là một huyện miền núi, đa phần người dân là dân tộc thiểu số dân trí thấp thì các thủ tục càng đơn giản càng tốt.
- Đối với Ngân hàng :Ngân hàng phải đưa các hình thức cho vay phù hợp với phạm vi mức độ, giới hạn của ngân hàng để luôn đảm bảo tính cạnh tranh, an toàn, sinh lời và ít gặp rủi ro.
Vậy Nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại NHNo&PTNT là việc sử dụng các giải pháp, các phương thức nhằm thu hút được nguồn vốn huy động ngày càng lớn đáp được nhu cầu vốn của người dân thông qua hoạt động cho vay đối với hộ sản xuất làm tăng doanh số cho vay, thu nợ, dư nợ và giảm thiểu tỷ lệ nợ quá hạn, giúp ngân hàng tăng khả năng cạnh tranh, hoạt động an toàn và mức sinh lời lớn hơn theo nguyên tắc trả đầy đủ và đúng hạn.
1.2.3.2.Nội dung của nâng cao Chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại
NHNo&PTNT.
Hoàn chỉnh hệ thống chấm điểm và xếp hạng khách hàng
Để nâng cao chất lượng tín dụng và từng bước chuẩn hoá công tác quản trị rủi ro theo thông lệ quốc tế thì việc xây dựng và áp dụng một quy trình chấm điểm tín dụng và phân loại khách hàng khoa học đóng vai trò rất quan trọng. Tham khảo một số mô hình chấm điểm tín dụng đang được áp dụng phổ biến tại các ngân hàng Singapore cho thấy, để phân loại khách hàng là doanh nghiệp, ngân hàng dựa vào 2 nhóm chỉ tiêu là chỉ tiêu tài chính và chỉ tiêu phi tài chính.
Nhóm các chỉ tiêu tài chính gồm: Vốn kinh doanh, doanh thu thuần, nhóm chỉ tiêu thanh khoản (khả năng thanh toán ngắn hạn, khả năng thanh toán nhanh), nhóm chỉ tiêu năng lực hoạt động (vòng quay hàng tồn kho, kỳ thu nợ bình quân...), chỉ tiêu cân nợ (nợ phải trả/tổng tài sản, nợ phải trả/vốn chủ sở hữu..), nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động kinh doanh (lợi nhuận trước thuế/doanh thu, lợi nhuận trước thuế/vốn chủ sở hữu)...
Nhóm các chỉ tiêu phi tài chính gồm: Năng lực điều hành của Ban Giám đốc, môi trường kiểm soát nội bộ, tính khả thi của phương án kinh doanh, triển vọng ngành, giá trị thương hiệu của công ty, vị thế cạnh tranh (thị phần), tác động của môi trường vĩ mô...
Ngoài ra, lịch sử quan hệ tín dụng của khách hàng với ngân hàng cũng là một tiêu chí quan trọng trong việc cho điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng. Nhóm các chỉ tiêu ngân hàng thường xem xét là: tình hình phát sinh nợ quá hạn, số lần khách hàng gia hạn nợ hoặc điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, số lần chậm trả lãi vay, mức độ hoạt động của tài khoản tiền gửi...
Trong việc xây dựng mô hình chấm điểm tín dụng, ngân hàng cần xét đến tính đặc thù và lợi thế của từng ngành kinh tế. Trường hợp doanh nghiệp hoạt động đa ngành nghề thì phân loại theo ngành nghề/lĩnh vực nào đem lại tỷ trọng doanh thu lớn nhất cho doanh nghiệp.
Xây dựng quy trình thẩm định và cho vay hợp lý
Quy trình thẩm định và cho vay ‘một cửa’ đã bộc lộ nhiều hạn chế. Trong đó, hạn chế lớn nhất là cán bộ tín dụng vẫn thực hiện cả ba khâu cơ bản trong quá trình cho vay như đã đề cập ở trên. Để hạn chế nhược điểm, sau khi tham khảo quy trình cho vay ở một số ngân hàng trong khu vực, nên tách quy trình cho vay làm 2 bộ phận:
- Bộ phận quan hệ hệ khách hàng (front ofice): chịu trách nhiệm tiếp thị, chăm sóc, tìm hiểu nhu cầu khách hàng, trực tiếp nhận hồ sơ vay vốn nhưng không có trách nhiệm thẩm định và đề xuất đối với một khoản vay; thực hiện quản lý khoản vay sau khi cho vay;
- Bộ phận thẩm định và phê duyệt khoản vay (back office): Thực hiện phân tích, đánh giá, định lượng rủi ro trước khi đề xuất lãnh đạo phê duyệt đối với một khoản vay.
Hoàn thiện cơ chế bảo đảm tiền vay
Để thực hiện đúng qui định về biện pháp bảo đảm tiền vay, đảm bảo an toàn và hiệu quả, cần thực hiện tốt các giải pháp sau đây:
Một là, các chi nhánh AGRIBANK cần phải tuân thủ các điều kiện qui định của Nhà nước, và của Hội sở chính về biện pháp bảo đảm tiền vay tương ứng. Tuy nhiên để thực hiện tốt yêu cầu trên, các chi nhánh cần phải có biện pháp tích cực nhằm hạn chế tính chủ quan trong quyết định chọn lựa, đặc biệt kiên quyết xử lý đối với những hành vi thông đồng với khách hàng gây thiệt hai cho ngân hàng.
Hai là, để có được một biện pháp bảo đảm tiền vay không những phù hợp với từng loại hình khách hàng cụ thể, mà còn đảm bảo an toàn, hiệu quả, trước hết các chi nhánh AGRIBANK cần phải có sự tính toán đầy đủ, đồng bộ và cân nhắc chính xác các yếu tố như tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính, hiệu quả dự án/phương án, tài sản bảo đảm, mối quan hệ tín dụng trên cơ sở có sự phối hợp kiểm tra, đối chiếu thực tế, sau đó phân ra từng loại khách hàng để có chính sách ưu tiên hợp lý.
Ba là, mặc dù cho vay có tài sản bảo đảm, các khoản vay vẫn hàm chứa rủi ro không thu đủ nợ do nhiều nguyên nhân khác nhau như tài sản hư hỏng, khó bán, giảm giá trị..., vì vậy, việc quyết định lựa chọn đúng đắn biện pháp bảo đảm tiền vay cho từng khoản vay cụ thể đảm bảo an toàn và hiệu quả thì cần phải đánh giá khách hàng một cách toàn diện và chính xác sau đó chọn lấy yếu tố mạnh nhất để quyết định biện pháp bảo đảm tiền vay. Đặc biệt, không được chủ quan cho vay chỉ căn cứ vào mỗi tài sản bảo đảm, xem nhẹ các yếu tố tài chính, dự án/phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng, nhất là đối với các doanh nghiệp ngoài nhà nước.
Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro tín dụng theo chuẩn mực quốc tế
AGRIBANK cần chuyển từ qui trình quản lý rủi ro phi tập trung sang mô hình quản trị rủi ro tập trung, độc lập và toàn diện hơn với các qui trình và thủ tục thống nhất. Triển khai xây dựng một hệ thống quản trị rủi ro tín dụng theo chuẩn mực quốc tế với các bộ phận cấu thành:
- Một mô hình tổ chức quản trị rủi ro thống nhất với sự tham gia của Hội đồng quản trị, các ủy ban, Ban lãnh đạo Ngân hàng;
- Cơ chế báo cáo độc lập với cơ cấu tổ chức kinh doanh;
- Các chính sách, qui trình thủ tục và hệ thống hạn mức thống nhất giúp ngân hàng xác định, đo lường, theo dõi và kiểm soát rủi ro tín dụng phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh một cách hiệu quả nhất;
- Cải tiến phương pháp đo lường, kiểm soát và hệ thống thông tin quản trị rủi ro để hỗ trợ hiệu quả cho các hoạt động kinh doanh và công tác quản trị rủi ro;
- Xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn của từng bộ phận và cá nhân trong công tác quản trị rủi ro tín dụng.
AGRIBANK cũng cần thực hiện đồng bộ các giải pháp hỗ trợ hoạt động tín dụng như phát triển công nghệ thông tin; phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tăng cường công tác marketing và chăm sóc khách hàng; xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 trong toàn hệ thống cho tất cả các mặt nghiệp vụ của ngân hàng. Tin tưởng rằng, những giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện qui trình cho vay và nâng cao chất lượng tín dụng sẽ góp phần đảm bảo sự phát triển bền vững và có hiệu quả của AGRIBANK.
1.2.3.3.Các chỉ tiêu đánh giá nâng cao Chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại NHNo&PTNT.
Hiện nay, tín dụng vẫn chiểm khoảng 60% - 70% trong tổng tài sản có của các Ngân hàng mại. Vì thế sự tồn tại và phát triển của các Ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào tín dụng và chất lượng tín dụng. Việc đánh giá chất lượng tín dung ở các Ngân hàng hiện nay thông qua các chỉ tiêu cơ bản sau:
*Chỉ tiêu định tính
Đảm bảo nguyên tắc cho vay:
Mọi tổ chức kinh tế hoạt động đều dựa trên các nguyên tắc nhất định.
Do đặc thù của Ngân hàng là một tổ chức kinh tế đặc biệt, hoạt động của nó ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, do vậy có các nguyên tắc khác nhau. Trong đó nguyên tắc cho vay là một nguyên tắc quan trọng đối với mỗi Ngân hàng.
1. Để đánh giá chất lượng một khoản cho vay, điều đầu tiên phải xem xét là khoản vay đó có đảm bảo nguyên tắc cho vay hay không ? tức là xem khoản vay đó có được “Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.” theo nguyên tắc 2 của điều 6 dưới đây.Để khách hàng thực hiên đúng nguyên tắc này thì hoạt động sản xuất của khách hàng thu được lợi nhuận.
Trong ‘Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng’ Ban hành theo Quyết định Số:1627/2001/QĐ - NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước.
Tại Điều 6. Nguyên tắc cho vay. Quy định rõ:
“ Khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng phải đảm bảo:
Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.”
Hai nguyên tắc cho vay trên là nguyên tắc tối thiểu mà bất cứ một khoản cho vay nào cũng phải đảm bảo.
Cho vay đảm bảo có điều kiện:
Đây là chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng đó là cho vay có đảm bảo đúng điều kiện hay không?tức là khách hàng mà vay vốn của ngân hàng phải đảm bảo nguyên tắc sử dụng vốn đúng mục đích giống như trong đơn xin vay vốn mà khách hàng đã cam kết từ đầu và hoàn trả nợ gốc, lãi vay đúng thời hạn.khuyến khích đối với những trường hợp trả nợ trước thời hạn theo hình thức hỗ trợ lãi xuất và ưu tiên cho vay lần sau.
Trong ‘Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng’ Ban hành theo Quyết định Số:1627/2001/QĐ - NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước.
Tại Điều 7. Điều kiện vay vốn. Quy định rõ:
“Tổ chức tín dụng xem xét và quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện sau:
1. Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
Với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân Việt Nam.
- Pháp nhân phải có năng lực pháp luật dân sự.
- Cá nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
- Đại diện của hộ gia đình phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
- Đại diện của tổ hợp tác phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
- Thành viên hợp danh của công ty hợp danh phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
b) Đối với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân nước ngoài phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định pháp luật của nước mà pháp nhân đó có quốc tịch hoặc cá nhân đó là công dân, nếu pháp luật nước ngoài đó được Bộ Luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ Nghĩa Việt Nam, các văn bản pháp luật khác của Việt Nam quy định hoặc được điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia quy định.
2. Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
3. Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
4. Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định của pháp luật.
5. Thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng nhà nước Việt Nam.”
Quá trình thẩm định:
Thẩm định cho vay là công việc hết sức quan trọng, là tiền đề quyết định việc cho vay và hiệu quả vốn đầu tư. Thẩm định là quá trình phân tích đánh giá dự án trên cơ sở những chuẩn mực, nhằm rút ra những kết luận làm căn cứ cho đưa ra quyết định cho vay.
Quá trình thẩm định là cách tốt nhất để Ngân hàng nắm được thông tin về năng lực pháp luật, đạo đức, tình hình tài chính, khả năng trả nợ của khách hàng … Đây là khâu không thể thiếu trong quá trình quyết định cho vay và theo dõi khoản vay. Quá trình thẩm định phải tuân theo nguyên tắc, các căn cứ, các quy trình và nội dung thẩm định của từng Ngân hàng. Một khoản vay có chất lượng là khoản vay đã được thẩm định và phải đảm bảo các bước của quá trình thẩm định.Do vậy để nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất thì các khoản vay phải thực hiện theo đúng quy trình thẩm định.
Quá trình thẩm định một khoản vay cho hộ sản xuất rất phức tạp do đặc điểm sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất là kinh doanh tổng hợp. Vì vậy đòi hỏi cán bộ thẩm định, tái thẩm định phải tinh thông nghiệp vụ, hiểu biết pháp luật, nắm bắt kịp thời nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ, các thông tin dự báo, thông tin kinh tế kỹ thuật, thị trường và khả năng phân tích tài chính có như vậy mới có thể giúp lãnh đạo quyết định cho vay một cách có hiệu quả và đảm bảo chất lượng một khoản vay.
*Chỉ tiêu định lượng
Chỉ tiêu định lượng giúp cho Ngân hàng có cách đánh giá cụ thể hơn về mặt chất lượng tín dụng, giúp các Ngân hàng có biện pháp xử lý kịp thời những khoản vay kém chất lượng. Các chỉ tiêu cụ thể mà các Ngân hàng thường dùng là:
Doanh số cho vay hộ sản xuất.
Doanh số cho vay hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng thể số tiền Ngân hàng cho hộ sản xuất vay trong thời kỳ nhất định thường là một năm.
Ngoài ra Ngân hàng còn dùng chỉ tiêu tương đối phản ánh tỷ trọng cho vay hộ sản xuất trong tổng số cho vay của Ngân hàng trong một năm.
Tỷ trọng cho vay hộ sản xuất =
Doanh số cho vay HSX
Tổng doanh số cho vay
x 100%
Doanh số thu nợ hộ sản xuất.
Doanh số thu nợ hộ sản xuất chỉ là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền Ngân hàng đã thu hồi được sau khi đã giải ngân cho hộ sản xuất trong một thời kỳ.
Tỷ lệ thu nợ hộ sản xuất =
Doanh số thu nợ HSX
Tổng dư nợ của HSX
x 100%
Để phản ánh tình hình thu nợ hộ sản xuất, Ngân hàng còn sử dụng chỉ tiêu tương đối phản ánh tỷ trọng thu hồi được trong tổng doanh số cho vay hộ sản xuất của Ngân hàng trong thời kỳ.
Chỉ tiêu này được tính bằng công thức:
Doanh số thu nợ HSX
Doanh số cho vay HSX
x 100%
Dư nợ quá hạn hộ sản xuất.
Dư nợ quá hạn hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng thể số tiền Ngân hàng chưa thu hồi được sau một thời gian nhất định kể từ ngày khoản vay đựoc cho vay đến hạn thanh toán thời điểm đang xem xét.
Bên cạnh chỉ tiêu tuyệt đối Ngân hàng cũng thường xuyên sử dụng các chỉ tiêu như:
Tỷ lệ quá hạn hộ sản xuất =
Dư nợ quá hạn HSX
Tổng dư nợ của HSX
x 100%
Đây là chỉ tiêu là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả tín dụng hộ sản xuất và chất lượng tín dụng đầu tư cho vay đối với hộ sản xuất. Dư nợ quá hạn càng nhỏ, tỷ lệ nợ quá hạn thấp thì chất lượng tín dụng càng cao.
Hoạt động Ngân hàng nói chung và TDNH nói riêng đều chứa đựng nhiều rủi ro tác động đến lợi nhuận và sự an toàn trong kinh doanh của Ngân hàng. Do đó việc đảm bảo thu hồi đủ vốn cho vay đúng hạn, thể hiện qua tỷ lệ nợ quá hạn thấp là vấn đề quan trọng trong quản ký Ngân hàng tác động trực tiếp đến sự tồn tại của các Ngân hàng.
Để đánh giá khả năng không thu hồi được nợ người ta sử dụng chỉ tiêu Tỷ lệ nợ khó đòi:
Tỷ lệ nợ khó đòi =
Tổng nợ khó đòi
Tổng nợ quá hạn
x 100%
Đây là chỉ tiêu tương đối, tỷ lệ này ở mức cao là dấu hiệu của khoản vay có vấn đề và nguy cơ mất vốn là rất cao.
Vòng quay vốn tín dụng hộ sản xuất.
Vòng quay vốn tín dụng HSX =
Doanh số thu nợ HSX
Dư nợ bình quân HSX
Trong đó:
Dư nợ bình quân HSX =
Dư nợ đầu năm + Dư nợ cuối năm
2
Vòng quay càng lớn với số dư nợ luôn tăng, chứng tỏ đồng vốn của Ngân hàng bỏ ra đã được sử dụng một cách có hiệu quả, tiết kiệm chi phí, tạo ra lợi nhuận lớn cho Ngân hàng.
Lợi nhuận của Ngân hàng.
Là một chỉ tiêu quan trọng để xem xét chất lượng tín dụng hộ sản xuất. Chỉ tiêu này phản ánh tần xuất sử dụng vốn đựoc xác định bằng công thức:
Lợi nhuận = Tổng thu - Tổng chi - Thuế
Thông qua chỉ tiêu lợi nhuận ta có thể đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng cũng như hiệu quả của đồng vốn đó mang lại.
Một số chỉ tỉêu khác.
Chỉ tiêu 1.
Doanh số cho vay HSX
Tổng số lượt HSX vay vốn
Chỉ tiêu này phản ánh số tiền vay mỗi lượt của hộ sản xuất. Số tiền vay càng cao chứng tỏ hiệu quả cũng như chất lượng cho vay càng tăng lên. Điều đó thể hiện sức sản xuất cũng như quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất tăng lên cao. Đồng thời thể hiện chất lượng cho vay có xu hướng tăng, bởi thế Ngân hàng cho một lượt hộ sản xuất vay nhiều hơn mà vẫn đảm khả năng thu hồi và có lãi.
Chỉ tiêu 2.
Tỷ lệ cho vay trung và dài hạn HSX
=
Dư nợ cho vay trung và dài hạn HSX
Tổng số dư nợ hộ sản xuất
x 100%
Đây là chỉ tiêu tương đối phản ánh mức độ đáp ứng nhu cầu vốn trung, dài hạn hộ sản xuất để mở rộng sản xuất kinh doanh. Cho vay trung – dài hạn hộ sản xuất phải đạt cao hơn cho vay ngắn hạn thì hộ mới đủ vốn để cải tạo, xây dựng cơ sở vật chất cho sản xuất, từ đó tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngắn hạn. Theo đánh giá thì tỷ lệ này cần phải đạt tối thiểu 30% Tổng dư nợ (mục tiêu của NHNo&PTNT Việt Nam). Tuy vậy, tỷ lệ này có thể cao, thấp tuỳ thuộc vào nhu cầu vốn trung, dài hạn tại địa phương cũng như chính sách tín dụng của từng NHTM.
Hai chỉ tiêu trên phản ánh hiệu quả tín dụng Ngân hàng đối với việc phát triển kinh tế hộ sản xuất qua đó đánh giá được chất lượng tín dụng của Ngân hàng.
Chỉ tiêu 3: Tốc độ tăng trưởng dư nợ hộ sản xuất hàng năm.
Số cán bộ tín dụng quản lý
=
Tổng số hộ vay vốn
Tổng số cán bộ tín dụng
Do năng lực của mỗi con người có hạn, địa bàn nông thôn rộng lớn và tính phức tạp trong cho vay nông nghiệp, nông thôn. Nếu cán bộ tín dụng quản lý quá nhiều hộ vay vốn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng Ở nước ta chỉ tiêu này chưa được coi trọng, thường mỗi cán bộ tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam quản lý khoảng 600 – 800 hộ, trong khi ở các nước khác con số này chỉ là 200 – 300 hộ.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến nâng cao Chất lượng tín dụng hộ sản
xuất tại NHNo&PTN._.i chúng, và các thông tin khác chưa được khai thác nhiều triệt để phục vụ cho quản lý, điều hành của các cấp lãnh đạo cũng như công tác của cán bộ tín dụng.
Trình độ cán bộ tín dụng không đồng đều và bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Việc thẩm định đánh giá dự án, khách hàng còn mang tính chủ quan định tính của cán bộ tín dụng, sự hiểu biết của cán bộ tín dụng về kỹ thuật và những vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong nhiều lĩnh vực đầu tư tín dụng còn hạn chế. Cán bộ tín dụng thường sử dụng những kinh nghiệm truyền thống hơn là dựa trên những phân tích tài chính và kỹ thuật để thẩm định dự án. Các phương pháp phân tích dòng lưu chuyển tiền mặt, phân tích về khả năng sinh lời của dự án, phương pháp thẩm định tài chính của dự án… chưa được tiếp cận.
Ngân hàng còn nể nang ngại xử lí những khoản nợ xấu theo chế tài tín dụng : Khởi kiện, Niêm phong tài sản, thu giữ tài sản.....vì vậy đã có những nơi nợ xấu thành dịch “ nan truyền ” rất khó thu hồi.
Do kinh doanh trong môi trường cạnh tranh ( Trên địa bàn huyện có 11 ngân hàng đang hoạt động ) nên có nhiều lúc, nhiều nơi đã thực hiện thiếu quy trình tín dụng.
2.3.3.2.Nguyên nhân khách quan.
Tuy đã giáo dục, được tập huấn nghiệp vụ nhiều lần nhưng bản thân một số cán bộ ý thức trách nhiệm với công việc, với tập thể đơnvị chưa tốt, chuyển biến nhận thức và hành động còn chậm. Chưa tích cực, tự giác học tập, nghiên cứu nghiệp vụ dẫn tới khả năng, xử lý nghiệp vụ hạn chế do vậy chất lượng, hiệu quả công tác không cao, phát sinh tồn tại.
-Có lúc có nơi công tác điều hành chỉ đạo tại các Phòng giao dịch chưa linh hoạt, thiếu kiên quyết do vậy chưa tham mưu cho Ban giám đốc trong công tác điều hành.
-Trình độ nghiệp vụ chuyên môn đối với cán bộ mặc dù đã được tập huấn nhiều lần xong có một số cán bộ chưa chịu khó học tập, tự nghiên cứu khi gặp những món vay phải có đảm bảo tiền vay hay hình thành từ vốn vay cũng như các món vay lớn cán bộ tín dụng còn rất nhiều lúng túng.
-Khi giải quyết cho vay có một số cán bộ tín dụng thực hiện cho vay theo lối mòn.
-Còn một số cán bộ tín dụng chưa xây dựng được mối quan hệ tốt giữa Ngân hàng với cấp uỷ, chính quyền địa phương. Do vậy các công tác nắm bắt thông tin về khách hàng hỗ trợ cho công tác thẩm định và xử lý thu hồi nợ còn rất nhiều hạn chế.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
TÍN DỤNG HỘ SẢN XUẤT TẠI CHI NHÁNH NHNO&PTNT HUYỆN VÕ NHAI TỈNH THÁI NGUYÊN.
3.1. Định hướng nâng cao Chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên.
3.1.1- Chính sách tín dụng đối với hộ sản xuất của Nhà nước:
Với quan điểm khẳng định kinh tế hộ gia đình luôn có vị trí quan trọng, Đảng và Nhà nước ta có rất nhiều chính sách ưu đãi cho nông nghiệp, nông thôn nói chung và hộ sản xuất nói riêng. Các chính sách ưu đãi này được cụ thể hoá trong nhiều lĩnh vực khác nhau, trong lĩnh vực Ngân hàng có chính sách tín dụng nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Chính sách này được quy định tại điều 8 Luật các tổ chức tín dụng "Nhà nước có chính sách tín dụng tạo điều kiện về vốn, lãi suất, điều kiện, kỳ hạn vay vốn đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân nhằm góp phần xây dựng cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển hàng hoá, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn".
Sau đó Thủ tướng Chính phủ đã ban hàng quyết định 67/1999 QĐ-TTg về chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã có văn bản số: 320/NHNN- 14 giao cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam ban hành văn bản số: 791/NHNN-06 cụ thể hoá nội dung thực hiện chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nhằm góp phần cùng các ngành thực hiện chủ trưởng của Đảng và Nhà nước về công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và phát triển kinh tế các hộ sản xuất trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
3.1.2- Định hướng chung của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam:
Tiếp tục thực hiện chiến lược kinh doanh đã xác định giữ vững vai trò chỉ đạo, chủ lực, thực hiện đầu tư có chọn lọc trên thị trường nông nghiệp, nông thôn. Xác lập quan hệ hợp tác, cùng có lợi với Ngân hàng chính sách xã hội, đồng thời củng cố phát triển thêm thị trường, thị phần ở khu vực thành thị, một số ngành nghề kinh tế quan trọng và dịch vụ sản phẩm mới. Đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam có hiệu quả để thích ứng với các chính sách đổi mới hoạt động của Doanh nghiệp Nhà nước. Tăng thêm năng lực hoạt động, năng lực cạnh tranh và hội nhập từng bước mở rộng hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam trực tiếp tại một vài nước trong khu vực và Quốc tế.
Tăng cường năng lực tài chính, nâng cao năng lực quản lý điều hành, tăng cường tự chủ kinh doanh và tự chịu trách nhiệm để thực hiện tốt vai trò chủ lực và chủ đạo trong hệ thống tín dụng nông nghiệp, nông thôn và nâng cao chất lượng kinh doanh, giảm thiểu rủi ro tín dụng, đa dạng hoá và hiện đại hoá các hoạt động dịch vụ Ngân hàng. Đồng thời Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam cho vay các đối tượng chủ yếu sau:
- Ưu tiên cho cây trồng, vật nuôi theo hướng sản phẩm hàng hoá, vùng chuyên canh tập chung. Đối với ngành tiểu thủ công nghiệp truyền thống cho vay theo hướng tập trung có thị trường ổn định trong và ngoài nước.
- Ưu tiên vùng sản xuất hàng hoá tập trung, vùng sinh thái môi trường đặc sản, trong đó đồng bằng Sông hồng là lương thực rau quả, chăn nuôi lợn, gà, trâu, bò.
- Hộ gia đình là khách hàng chủ yếu, khuyến khích phát triển loại hình kinh tế trang trại, kinh tế hợp tác.
3.1.3- Phương hướng nhiệm vụ trong những năm tới:
Huy động vốn:
Nguồn vốn kế hoạch năm 2009 phấn đấu đạt 99 tỷ, tăng 20% so với 2008.
Dư nợ phấn đâu đạt 92 tỷ đồng, với tốc độ tăng trưởng so với năm 2008 là 20%.
Trong đó:
+ Dư nợ ngắn hạn: 28 tỷ
+ Dư nợ trung, dài hạn: 64 tỷ
+ Dư nợ cho vay nông nghiệp, nông dân, nông thôn: 65 tỷ
+ Dư nợ hộ sản xuất và cá nhân: 88 tỷ
+ Dư nợ doanh nghiệp vừa và nhỏ: 4 tỷ
+ Tỷ lệ nợ xấu < 5%
Ngân hàng Nông nghiệp huyện Võ Nhai phải tiếp tục mở rộng đầu tư tín dụng gắn với nâng cao chất lượng tín dụng theo kế hoạch trên thì mới đảm bảo được quỹ thu nhập và trả đủ lương theo chế độ cho cán bộ theo phương hướng cải cách, chế độ tiền lương của Nhà nước.
3.2. Giải pháp nâng cao Chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên.
3.2.1. Nâng cao chất lượng tín dụng.
3.2.1.1.Nâng cao chất lượng huy động vốn.
Đây là nhiệm vụ cơ bản, lâu dài nhằm tạo vốn cho nền kinh tế chung và phục vụ cho địa phương nói riêng. Muốn tồn tại và phát triển phải có nguồn vốn vững chắc, bởi lẽ nguồn vốn nó quyết định khả năng mở rộng kinh doanh của mỗi Ngân hàng thương mại.
Tiếp tục đào tạo lại đội ngũ cán bộ nghiệp vụ, phải tạo ra đội ngũ cán bộ giỏi, năng động thích nghi với môi trường hoạt động kinh doanh mới trong nền kinh tế thị trường. Do người dân có mức thu nhập không thường xuyên, mức sinh hoạt còn thấp. Vậy Ngân hàng Nông nghiệp huyện Võ Nhai cần tuyên truyền rộng rãi mở tài khoản tiền gửi tư nhân để thay thế cho tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, vì hình thức này ít tốn kém cho chi phí gửi tiền cũng như các chi phí khác.
Khi kinh tế phát triển thì việc mua bán hàng hoá và dịch vụ thanh toán đã phát triển ở mức cao hơn, nhanh hơn và yêu cầu chính xác hơn. Để đáp ứng kịp thời cho việc thanh toán của khách hàng thì Ngân hàng cũng cần đặt ra và sử dụng hình thức chuyển tiền nhanh để tạo tiền và tạo nguồn vốn của Ngân hàng, đồng thời tăng thu dịch vụ cho ngân hàng.
Tiếp tục duy trì mối quan hệ chặt chẽ đối với các ngành truyền thống như Bảo hiểm, Kho bạc Nhà nước, Bưu điện... nhằm huy động vốn tạm thời nhàn rỗi từ các tổ chức.
Sử dụng lãi suất một cách mềm dẻo, linh hoạt có sự hấp dẫn đối với khách hàng tạo sự thu hút nguồn tiền gửi từ nơi khác về địa bàn mình để gửi vào Ngân hàng.
Võ Nhai là một huyện miền núi, đường xá giao thông không thuận lợi, phương tiện đi lại còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy để phục vụ được khách hàng tốt hơn, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Võ Nhai cần mở thêm nhiều điểm giao dịch để thuận tiện cho người dân mà cũng tạo nguồn vốn cho Ngân hàng.
3.2.1.2.Nâng cao chất lượng sử dụng vốn.
- Cần tiếp tục tiến hành phân loại khách hàng, xây dựng và quản lý hồ sơ khách hàng, xác định uy tín của hộ đối với Ngân hàng để có định hướng đầu tư.
- Đẩy mạnh triển khai công tác tín dụng hộ sản xuất trang trại và Hợp tác xã theo chỉ đạo của ngành. Mở rộng phạm vi và quy mô tiếp cận đến khách hàng, nắm được nhu cầu vốn tín dụng của người dân, tạo cơ hội đầu tư nhiều hơn, an toàn hơn.
Thực hiện Nghị quyết 03 của Chính phủ về phát triển kinh tế trang trại và Nghị quyết 84 của Chính phủ về quy trình cho vay vốn của Ngân hàng.
Ngân hàng cần có những cán bộ có trình độ về nghiệp vụ và năng lực công tác để tiếp cận đối với Hợp tác xã trong huyện và cùng tháo gỡ những vướng mắc hiện tại, đồng thời chọn ra những Hợp tác xã có đủ điều kiện vay vốn Ngân hàng.
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Võ Nhai đặc biệt là đội ngũ cán bộ tín dụng phải chủ động tìm kiếm khách hàng, các dự án có hiệu quả để đầu tư kinh doanh. Mở rộng đối tượng đầu tư, nghiên cứu nâng mức đầu tư cho vay tiêu dùng đối với cán bộ công nhân viên chức (Mua nhà, mua đất, phương tiện đi lại…).
Tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo và sự hỗ trợ của Cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương và các ban, ngành có liên quan trong việc xác định diện tích sử dụng đất, quản lý tài sản đảm bảo nợ vay, quản lý hộ vay và thu hồi nợ.
Về công tác nâng cao chất lượng tín dụng: Phải luôn coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tổ chức học tập kịp thời các chủ trương đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước và các văn bản chế độ thể lệ của ngành đặc biệt là về pháp luật để cán bộ không ngừng nâng cao kiến thức, trình độ năng lực, từ đó áp dụng vào công tác, thực hiện những nhiệm vụ được giao, vận dụng vào thực tế. Bên cạnh đó cần sự giáo dục đạo đức nghề nghiệp, xây dựng đội ngũ cán bộ tâm huyết với ngành với nghề. Có như vậy mới thu được hiệu quả cao trong kinh doanh.
3.2.2. Phát triển mạnh các hoạt động dịch vụ
Một nguyên nhân dẫn đến khách hàng không có khả năng trả nợ là khách hàng không biết sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và tiêu thụ ở đâu?. Vì vậy nhu cầu tư vấn của khách hàng rất lớn, để giải quyết vấn đề này Ngân hàng cần thực hiện các giải pháp sau:
- Ngân hàng chủ động phối hợp cùng các ngành khác tìm các dự án sản xuất, kinh doanh đưa đến cho khách hàng và trợ giúp vốn cho khách hàng. Ngân hàng giúp khách hàng lập dự án và tính toán khả năng sinh lời của dự án.
- Ngân hàng phối hợp với các cơ quan liên quan, để giúp tư vấn cho khách hàng về khoa học- kỹ thuật sản xuất, về các hoạt động liên quan đến sản xuất kinh doanh, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
- Ngân hàng tổ chức các lớp đào tạo cán bộ tín dụng về khoa học kỹ thuật liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, về pháp luật... để cán bộ tín dụng trực tiếp tư vấn cho khách hàng.
- Ngân hàng tư vấn cho khách hàng về các vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng sản xuất, kinh doanh, hợp đồng thực hiện dự án khi có nhu cầu.
- Ngân hàng chủ động phối hợp cùng các ngành tìm thị trường cung ứng và tiêu thụ sản phẩm cho khách hàng. Đồng thời Ngân hàng cũng thực hiện cho hộ sản xuất vay thông qua các Công ty cung ứng vật tư và tổ chức bao tiêu sản phẩm. Đây là hình thức cho vay gián tiếp đến hộ sản xuất của Ngân hàng, với quy trình có cơ cấu 3 bên là Ngân hàng, Công ty cung ứng vật tư hoặc đơn vị bao tiêu sảm phẩm và hộ sản xuất.
3.2.2.2.Nâng cao chất lượng các dịch vụ:
Các dịch vụ đa dạng sẽ tác động đến quy mô, cơ cấu và sự ổn định của tài sản và các nguồn vốn của Ngân hàng. Trong đó, quy mô, tính ổn định của số dư trên các tài khoản tiền gửi giao dịch chịu ảnh hưởng trực tiếp do đối tượng khách hàng này có nhu cầu chủ yếu khi gửi tiền vào Ngân hàng là được nhận các dịch vụ. Vì vậy nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về chất lượng, đa dạng về loại hình phục vụ của khách hàng. Ngân hàng cần tận dụng một số sản phẩm mới theo quy trình phù hợp yêu cầu quản lý tài sản.
*Tài khoản tiền gửi giao dịch gửi một Ngân hàng có thể lĩnh vực ở Ngân hàng khác trong nội bộ Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh và kết toán qua hệ thống thanh toán liên hàng nội tỉnh và các tài khoản vãng lai giữa các Ngân hàng.
*Phát hành các loại giấy tờ có giá như kỳ phiếu, trái phiếu có mệnh giá ấn định 1 triệu, 5 triệu Trả lãi trước theo đó, khách hàng mua kỳ phiếu với giá thấp hơn mệnh giá của nó chẳng hạn một trái phiếu có số tiền được hưởng khi đến hạn 5 triệu đồng, thời gian 6 tháng ghi rõ lãi suất trả trước 0, 5% /tháng khi đó giá bán là 4.850 ngàn đồng = [15.000.000 (1- 6 x 0, 5%)]
Trên trái phiếu ghi cả lãi suất trả trước :0, 5% lãi suất thực 0, 516% = {5.000-4.850 )/ 4.850)/4.850 *6}. Như vậy Ngân hàng thu được 5 triệu tiền gửi thay vì 4, 85 triệu nhưng lãi suất phải trả tính trên nguồn vốn vẫn là 0, 5%/tháng.
*Cho thuê két sắt để khách hàng có thể bảo quản tài sản an toàn tại Ngân hàng. Thực hiện dịch vụ này một mặt Ngân hàng thu được dịch vụ phí, mặt khác khai thác được những thông tin để vận động khách hàng, đặt khách hàng trước sự lựa chọn giữa tài sản như Vàng, bạc, ngoại tệ, kim khí quí hay gửi tiền vào Ngân hàng lấy lãi.
* Đối với tiền gửi có kỳ hạn trong trường hợp khách hàng rút trước hạn có thể áp dụng mức lãi suất của kỳ hạn mà thời gian gửi tại Ngân hàng của nó vượt quá.
Ví dụ : Khách hàng gửi tiền kỳ hạn 6 tháng vì lý do nào đó sau 100 ngày (Kể từ khi gửi vào ). Khách hàng nhất thiết phải rút ra. Trong trường hợp này nếu khách hàng sử dụng cuốn sổ tiền gửi này để vay cầm cố thời hạn 80 ngày còn lại thì sẽ phải trả phí lãi cao, từ đó giảm thu nhập nên họ sẽ không lựa chọn cách này. Ngược lại nếu áp dụng mức lãi suất không kỳ hạn tuy đúng quy định những sẽ giảm đáng kể thu nhập của người gửi, vậy ngân hàng nên áp dụng trả lãi theo kỳ hạn 3 tháng với số ngày thực gửi tại Ngân hàng. Sở dĩ làm như vậy sẽ thu hút thêm khách hàng mới do không ai quảng cao, thuyết phục cho Ngân hàng hiệu quả bằng chính khách hàng của mình, người quảng cáo cho ngân hàng chính là những khách đã được hưởng sự ưu đãi kể trên. Việc làm này tạo ra sự khác biệt trong dịch vụ của ngân hàng so với các Ngân hàng thương mại khác trên địa bàn về các lĩnh vực cung cấp thông tin của thị trường trong và ngoài nước, tư vấn cho khách hàng trong khâu lập dự án, phân tích dự án, tư vấn tài chính cho khách hàng để giúp khách hàng tháo gỡ khó khăn, tìm ra các cách thức làm ăn có hiệu quả. Nhờ hệ thống màng lưới, hệ thống thông tin và quan hệ đa chiều với đội ngũ cán bộ nhân viên dần trưởng thành trong môi trường kinh doanh sôi động, tính cạnh tranh cao hơn nên Ngân hàng có nhiều lợi thế trong hoạt động này.
*Mở rộng hệ thống quản lý tài chính, thực hiện chi trả thu nhập cho các doanh nghiệp lớn : Bưu điện, Chi nhánh điện, Công ty xăng dầu, … Hiện nay Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Võ Nhai đã và đang thực hiện chi trả cho hộ gia đình công nhân viên một số công ty và thời gian tới sẽ mở rộng dịch vụ này đối với một số doanh nghiệp lớn khác. Từ đó tăng số lượng tài khoản và số lượng tiền gửi khá lớn từ doanh nghiệp và người có thu nhập.
*Làm dịch vụ thu tiền bảo hiểm và thanh toán bảo hiểm cho một số đối tượng như bảo hiểm tài sản, bảo hiểm nhân thọ…
*Tổ chức thực hiện tốt nghiệp vụ kinh doanh công trái, hiện nay ngân hàng nông nghiệp và PTNT Việt nam đã hướng dẫn nghiệp vụ này tại văn bản 2754/NHNN-04 ngày 29/11/1999.Đây là nghiệp vụ mới nên kết quả thu được trong năm 1999 còn rất khiêm tốn, tuy nhiên trong tương lai, việc mua bán công trái, tín phiếu kho bạc trở nên phổ biến hơn, một mặt thu nhập phí lãi suất của Ngân hàng tăng thêm, mặt khác thông qua dịch vụ này Ngân hàng sẽ có điều kiện tiếp cận, mở rộng quan hệ với khách hàng, từ đó tạo thêm động lực và khả năng huy động vốn của Ngân hàng.
Để thực hiện thường xuyên và có hiệu quả giải pháp mua bán công trái, tín phiếu Kho bạc, Ngân hàng giao cho bộ phận chuyên trách, nghiên cứu và ứng dụng song song với cải tiến và dịch vụ sẵn có để thường xuyên tạo ra sự khác biệt tích cực. Nhờ việc mở rộng phạm vi hoạt động cho các Ngân hàng thương mại, sự ra đời và hoàn thiện các thị trường chứng khoán, thị trường hối đoái… Cơ hội để phát triển các dịch vụ mới của các Ngân hàng Việt nam, nói chung và Ngân hàng Nông nghiệp Võ Nhai nói riêng là rất lớn, cần nhanh chóng nghiên cứu và chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc ứng dụng để cung cấp cho thị trường những sản phẩm, dịch vụ đa dạng.
3.2.3. Nâng cao trình độ công nghệ.
Cán bộ tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Võ Nhai thường sử dụng kinh nghiệm truyền thống trong quy trình tín dụng, do đó chất lượng tín dụng không đảm bảo. Để giải quyết vấn đề này Ngân hàng phải thực hiện các biện pháp sau:
- Ngân hàng phải nâng cao chất lượng thẩm định dự án hoặc phương án sản xuất kinh doanh của hộ xin vay vốn, thực hiện nghiêm túc quá trình thẩm định trước khi ra quyết định cho vay. Ngân hàng yêu cầu cán bộ tín dụng sử dụng các phương pháp phân tích tài chính cũng như về kỹ thuật để thẩm định dự án. Cán bộ tín dụng phải thẩm định được khả năng sinh lời của dự án để từ đó ra quyết định cho vay hay không cho vay.
- Đối với những món vay nhỏ cần áp dụng thủ tục riêng để thẩm định làm cho hoạt động phân tích trở nên đơn giản hơn.
- Ngân hàng cải tiến thủ tục thẩm định món vay trung, dài hạn. Ngân hàng nên soạn thảo các mô hình tài chính cho quá trình sản xuất, chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng trọt... để giúp cán bộ tín dụng thẩm định món vay cả về phương diện kỹ thuật và tài chính. Ngân hàng cần triển khai các lớp đào tạo cán bộ tín dụng về các vấn đề này, nhằm nâng cao khả năng cũng như trình độ thẩm định dự án của cán bộ tín dụng.
- Khi quyết định thời hạn cho vay và định kỳ hạn nợ, Ngân hàng yêu cầu cán bộ tín dụng phải sử dụng phương pháp phân tích dòng lưu chuyển tiền tệ và gắn với chu kỳ sản xuất kinh doanh hơn là kinh nghiệm truyền thống. Đồng thời Ngân hàng phải trợ giúp cán bộ tín dụng kiến thức về vấn đề này thông qua các khoá đào tạo.
3.2.4. Nâng cao chất lượng nguồn lực.
Công tác đào tạo và đào tạo lại :
Hiện nay việc khai báo hồ sơ khách hàng 100% cán bộ tín dụng đều đã thực hiện thành thạo.
Trong năm 2007 ngoài việc cán bộ đi tập huấn do NHNo Việt nam, NHNo tỉnh tổ chức NHNo Võ Nhai đã tổ chức 9 buổi tập huấn nghiệp vụ và 1 buổi học luật cho cán bộ trong đơn vị.
3.2.5. Thực hiện công tác thu nợ có hiệu quả, ngăn ngừa nợ quá hạn tiềm ẩn rủi ro và nợ quá hạn mới phát sinh.
* Chất lượng tín dụng còn thể hiện qua công tác thu nợ có hiệu quả. Vì vậy Ngân hàng còn có một chính sách thu nợ phù hợp với người dân để từ đó nhắc nhở những khoản nợ đến hạn của Ngân hàng cũng như đôn đốc trả nợ. Hoạt động của hệ thống này rất quan trọng vì chứng tỏ rằng Ngân hàng:
+ Có hiệu quả trong việc kiểm tra và quản lý tài sản vay.
+ Nghiêm khắc trong hoạt động kinh doanh.
+ Muốn duy trì quan hệ tốt đẹp với khách hàng.
Việc gửi giấy báo nhắc nhở và tiến hành đòi nợ có hệ thống và đúng lúc phải được thực hiện đối với tất cả các tài khoản tiền vay đã đến hạn trong tháng. Trong thông báo lời lẽ phải lịch thiệp, song cũng cần phải nghiêm túc, cương quyết yêu cầu khách hàng thanh toán đủ và đúng hẹn.
* Ngân hàng luôn duy trì tổ chức phân tích tình hình dư nợ đến từng xã, từng cán bộ và từng khách hàng. Qua việc phân tích món vay có vấn đề, nợ quá hạn theo mức độ khác nhau. Xác định xã trọng điểm, khách hàng trọng điểm. Định kỳ hàng tháng Ngân hàng chia hoạt động tín dụng ra 4 phần để phân tích và chỉ đạo cụ thể từng phần như sau:
+ Đối với quá hạn thì tổ chức phân tích từng đối tượng và phân ra 3 loại gồm:
- Loại thu nợ được ngay.
- Loại thu nợ dần một phần
- Loại khó thu
Từ đó xác định rõ nguồn thu, biện pháp thu, thời gian thu cho phù hợp.
+ Đối với nợ sắp đến hạn thì từ ngày 01 đến ngày 10 hàng tháng, tổ chức in ra những món nợ đến hạn của tháng sau rồi thông báo cho cán bộ tín dụng biết. Từ ngày 20 đến ngày 25 cán bộ tín dụng đi thực tế đến thâm nhập khách hàng, xác định khả năng thu của từng khách hàng đến hạn tháng sau. Từ đó có biện pháp cụ thể đến từng khách hàng, nếu có khó khăn phải báo cáo lãnh đạo để có biện pháp giúp đỡ. Làm tốt phần này đã hạn chế nợ quá hạn phát sinh khi đến hạn.
+ Đối với nợ chưa đến hạn thì tổ chức kiểm tra sau, chú ý những món nợ từ 10 triệu đồng trở lên và tập trung kiểm tra vào hai nội dung chính đó là: Vật tư đảm bảo tiền vay và diễn biến của tài sản thế chấp, nếu có vấn đề thì xử lý theo biện pháp tín dụng, giúp đỡ khách hàng sớm khắc phục khó khăn có điều kiện trả nợ Ngân hàng.
+ Đối với các món cho vay mới yêu cầu cho vay đúng quy trình nhằm tạo ra mặt bằng dư nợ mới chất lượng hơn. Một vấn đề quan trọng ngay từ khi thẩm định cho vay cần dựa vào các trưởng xóm, chi hội nông dân, phụ nữ để lắng nghe, nắm bắt các thông tin về khách hàng để quyết định mức cho vay phù hợp với tổ chức sản xuất kinh doanh và khả năng tài chính của khách hàng.
* Để xử lý những khoản nợ quá hạn cần thực hiện các giải pháp sau:
+ Đối với nợ quá hạn phải thu ngay loại nợ quá hạn do định kỳ hạn nợ chưa sát, do thu hoạch vụ mùa chậm, tiêu thụ sản phẩm và thanh toán chậm. Do nguyên nhân khách quan như thiên tai mất mùa, cán bộ tín dụng phải bám sát để theo dõi đôn đốc thu hồi nợ, hoặc cho phép khách hàng được ra hạn nợ. Khi khách hàng có đủ khả năng trả nợ phải thu ngay, thu đủ 100% cả gốc và lãi. Tuy nhiên Ngân hàng cần ngăn chặn việc ra hạn nợ tuỳ tiện, ra hạn nhiều lần để chạy theo chỉ tiêu đề ra khi nhận khoán, dấu diếm khuyết điểm. Cán bộ tín dụng phải xác định được các nguồn hoàn trả của hộ vay, nếu điều này không thể thực hiện được thì không được phép cho ra hạn
+ Đối với nợ quá hạn phải thu dần là loại nợ mà khách hàng thiếu khả năng thanh toán không đủ tiền trả ngay trong một lần, cán bộ tín dụng phải chia ra nhiều kỳ để khách hàng trả dần, mỗi lần ít nhất 20% số nợ ghi trên khế ước.
+ Đối với nợ khó đòi thì tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng số nợ quá hạn của Ngân hàng cao do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, như vậy khách hàng sử dụng sai mục đích vốn vay, kinh doanh kém dẫn đến thua lỗ. Có áp dụng các biện pháp như thu giữ tài sản thế chấp, thu hồi sản phẩm vào mùa vụ
3.2.6. Ngân hàng chủ động tìm các dự án và tư vấn cho khách hàng.
Một nguyên nhân dẫn đến khách hàng không có khả năng trả nợ là khách hàng không biết sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và tiêu thụ ở đâu?. Vì vậy nhu cầu tư vấn của khách hàng rất lớn, để giải quyết vấn đề này Ngân hàng cần thực hiện các giải pháp sau:
- Ngân hàng chủ động phối hợp cùng các ngành khác tìm các dự án sản xuất, kinh doanh đưa đến cho khách hàng và trợ giúp vốn cho khách hàng. Ngân hàng giúp khách hàng lập dự án và tính toán khả năng sinh lời của dự án.
- Ngân hàng phối hợp với các cơ quan liên quan, để giúp tư vấn cho khách hàng về khoa học- kỹ thuật sản xuất, về các hoạt động liên quan đến sản xuất kinh doanh, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
- Ngân hàng tổ chức các lớp đào tạo cán bộ tín dụng về khoa học kỹ thuật liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, về pháp luật... để cán bộ tín dụng trực tiếp tư vấn cho khách hàng.
- Ngân hàng tư vấn cho khách hàng về các vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng sản xuất, kinh doanh, hợp đồng thực hiện dự án khi có nhu cầu.
- Ngân hàng chủ động phối hợp cùng các ngành tìm thị trường cung ứng và tiêu thụ sản phẩm cho khách hàng. Đồng thời Ngân hàng cũng thực hiện cho hộ sản xuất vay thông qua các Công ty cung ứng vật tư và tổ chức bao tiêu sản phẩm. Đây là hình thức cho vay gián tiếp đến hộ sản xuất của Ngân hàng, với quy trình có cơ cấu 3 bên là Ngân hàng, Công ty cung ứng vật tư hoặc đơn vị bao tiêu sảm phẩm và hộ sản xuất.
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao Chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên.
3.3.1. Kiến nghị với cơ quan nhà nước.
Đề nghị Chính phủ sớm có chính sách bảo hộ những sản phẩm chủ yếu cho ngành nông nghiệp, có chính sách đầu tư cho nông nghiệp. Nhà nước cần có một hệ thống chính sách phát triển nông nghiệp ở tầm cỡ Quốc gia.
Chính phủ cần có chính sách bảo hộ cho người sản xuất, sản phẩm nông nghiệp đề phòng có biến động về giá dẫn đến rủi ro trong sản xuất.
Chính phủ phải có chính sách cụ thể về xử lý rủi ro cho các đối tượng cho vay.
Chính phủ cần xem xét miễn thuế trong vài năm tới cho Ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, cấp đủ, kịp thời các khoản nợ khoanh hàng năm đã được xác định.
Có như vậy hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp mới đủ vốn cần thiết để tồn tại và tăng trưởng quy mô hoạt động.
3.3.2. Kiến nghị đối với UBND huyện và tỉnh.
Cần có các biện pháp, giải pháp tiếp tục ưu tiên, ưu dãi về giá đất, chính sách thuế cho và đối tượng đầu tư, vay vốn thuận lợi hơn trong địa bàn
tỉnh.
Cần khẩn chương thống kê lại quỹ đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nông dân mới khai phá, để tạo điều kiện cho hộ sản xuất vay vốn cũng như Ngân hàng cơ sở trong việc mở rộng đầu tư tín dụng.
Uỷ ban nhân dân tỉnh cần xây dựng các vùng kinh tế trên cơ sở quy hoạch kinh tế theo vùng, ngành nghề, cây, con, tỉnh chỉ đạo các ngành chức năng xây dựng các dự án khả thi để giúp Ngân hàng Nông nghiệp tiếp cận và thẩm định để mở rộng cho vay theo dự án phục vụ phát triển kinh tế cho địa phương.
Đầu tư hiện đại hoá cơ sở hạ tầng nông thôn, trước mắt xây dựng các công trình thuỷ lợi phục vụ tưới tiêu cho cây trồng, cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp.
Đối với các hợp tác xã tỉnh có chủ trương củng cố các hợp tác xã tạo điều kiện cho Ngân hàng mở rộng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp.
Uỷ ban nhân dân huyện phải có kế hoạch xin kinh phí của cấp trên và phối hợp với sức dân để nâng cao cơ sở hạ tầng. Tạo thuận lợi cho hoạt động Ngân hàng và khách hàng.
3.3.3. Kiến nghị đối với NHNo&PTNT Việt Nam.
Ngân hàng Nhà nước nên nới lỏng chính sách lãi suất để khách hàng có đủ khả năng trang trải, thực hiện công tác nghĩa vụ trả nợ Ngân hàng được tốt hơn.
Ngân hàng cấp trên cần tổ chức tập huấn cho cán bộ lãnh đạo về các văn bản, thể lệ của Đảng, của Nhà nước và của ngành, nhất là các kiến thức về pháp luật.
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam cần xem xét có chính sách ưu đãi đối với cán bộ tín dụng miền núi cao.
Đề nghị Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam chỉnh sửa một số mẫu biểu
cho phù hợp với thực tế và trình độ của hộ sản xuất nhưng vẫn đảm bảo tính pháp lý.
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam cần nghiên cứu, tổng kết và cải tiến cho phù hợp về cơ chế cho vay qua tổ, nhóm, cơ chế giải ngân, thu nợ mô hình tổ chức cho vay lưu động, tạo hành lang pháp lý rõ ràng, chặt chẽ, thuận lợi cho mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất.
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam nên trao quyền tự chủ cao hơn nữa cho các Chi nhánh tỉnh, huyện trong việc quyết định cơ cấu kỳ hạn nợ, các sản phẩm tiết kiệm và tín dụng mới.
KẾT LUẬN
Các NHTM Việt Nam nói chung, NHNo&PTNT huyện Võ Nhai nói riêng đang phấn đấu trở thành ngân hàng hiện đại, hoạt động đa năng. Song trong giai đoạn trước mắt, hoạt động kinh doanh tín dụng vẫn là hoạt động tạo nguồn thu chủ yếu và sinh lời chính của NHTM. Để ổn định và phát triển vững chắc thì việc nâng cao chất lượng tín dụng luôn luôn phải đặt lên hàng đầu.Đặc biệt NHNo&PTNT huyện Võ Nhai là ngân hàng hoạt động tín dụng trong môi trường nông nghiệp nông thôn, khách hàng chủ yếu là hộ nông dân thì vấn đề này trở nên bức xúc. Chính vì vậy việc nghiên cứu làm thế nào để “nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại chi nhánh NHNo&PTNT huyệnVõ Nhai” là vấn đề cấp thiết trước mắt cũng như lâu dài. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu này đã đề cập đến nội dung cơ bản sau:
1. Lý luận cơ bản về NHTM và tín dụng hộ sản xuất của NHNo&PTNT trong nền kinh tế thị trường.
2.Nêu lên thực trạng về nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại NHNo&PTNT huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên Phân tích đánh giá về sự nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tai ngân hàng.
3. Nêu lên những tồn tại vướng mắc và các giải pháp chủ yếu có thể áp dụng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tai chi nhánh NHNo&PTNT huyện Võ Nhai.
4. Nêu lên ý kiến đề xuất với nhà nước, với ngân hàng nhà nước Việt Nam, NHNo&PTNT Việt Nam, NHNo&PTNT Võ Nhai, UBND huyện Võ Nhai những vấn đề liên quan đến việc nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại NHNo&PTNT huyện Võ Nhai.
5. Bản khoá luận này đề xuất với ban lãnh đạo NHNo&PTNT huyện Võ Nhai nghiên cứu cho áp dụng trong thời gian tới, đồng thời cũng mong muốn được đóng góp một phần nhỏ vào công tác tín dụng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại NHNo&PTNT huyện Võ Nhai, đóng góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT Việt Nam.
Tuy nhiên đây là vấn đề rộng lớn, phức tạp mà điều kiện, khả năng, phạm vi nghiên cứu có hạn, vì vậy những nội dung trong bài viết này không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp quý báu của cô giáo hướng dẫn Nguyễn Thị Minh Huệ và của các thầy giáo trong khoa Ngân Hàng-Tài Chính, của ban lãnh đạo NHNo&PTNT huyện Võ Nhai và mọi người quan tâm đến lĩnh vực này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh Viên
Trần Thị Nhung
MỤC LỤC
Danh mục tài liệu tham khảo
Báo cáo kết quả kinh doanh của NHNo & PTNT huyện Võ Nhai năm 2006, 2007, 2008.
Báo cáo tổng kết hoạt động tín dụng của NHNo & PTNT huyện Võ Nhai năm 2006, 2007, 2008.
PGS.TS.Phan Thị Thu Hà (chủ biên), 2007, Giáo trình Ngân hàng Thương Mại.
FREDERIC S.MISHKIN, 1994, Tiền Tệ, Ngân Hàng và Thị Trường Tài Chính.
Quyết định Số:1627/2001/QĐ - NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam V/v ban hành quy chế cho vay đối với khách hàng.
Các tạp chí thông tin Ngân hàng.
Tình hình kinh tế – xã hội huyện Từ Võ Nhai 2008 của UBND huyện Võ Nhai.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21834.doc