MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
N
gày nay, nền kinh tế thế giới đã đạt được những bước phát triển vượt bậc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Khoa học kỹ thuật được ứng dụng rộng rãi, đã và đang thay thế dần sức người, tạo ra năng suất cao đáp ứng đủ nhu cầu sinh hoạt và sản xuất, kinh doanh của con người. Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội ngành ngân hàng cũng có những bước phát triển cho riêng mình. Hệ thống ngân hàng ngày càng được trang bị hiện đại với đội ngũ nhân viên
60 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1351 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng đối với khách hàng doanh nghiệp tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn hoàng Quốc Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trình độ cao, các sản phẩm dịch vụ đa dạng và phong phú, rủi ro thấp, đảm bảo tốt nhất lợi ích cho khách hàng đến giao dịch. Niềm tin của khách hàng đối với ngân hàng được nâng cao, các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng luôn được khách hàng đón nhận và sử dụng. Sự phát triển của ngân hàng còn được thể hiện trong các giao dịch khu vực và quốc tế ngày càng lớn và diễn ra thường xuyên góp phần vào sự phát triển chung nền kinh tế các nước trong xu thế hội nhập hiện nay.
Ở nước ta, ngành ngân hàng ra đời tương đối muộn so với các nước trên thế giới nhưng trong những năm gần đây đã thể hiện được vai trò quan trọng của mình đối với sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước, đặc biệt là giai đoạn hiện nay khi chúng ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Hệ thống ngân hàng ngày càng đa dạng về loại hình, bao gồm các ngân hàng quốc doanh, ngân hàng tư nhân, ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh liên kết đặc biệt đã có sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài. Hiện tại trên thị trường Việt Nam có 27 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 04 ngân hàng liên doanh, 03 công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài và 44 văn phòng đại diện. Số lượng này còn tăng nhanh trong thời gian tới khi nền kinh tế nước ta hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, ngày càng có nhiều sự tham gia của các ngân hàng tư nhân, ngân hàng cổ phần mới. Từ đó, chúng ta có thể thấy được sự cạnh tranh quyết liệt giữa các ngân hàng để có thể tồn tại và phát triển. Trong những năm gần đây các ngân hàng đã mạnh mẽ cải cách, nâng cấp và mở rộng hợp tác về dịch vụ như thu hộ tiền mặt, thanh toán, cho vay hợp vốn, tài trợ vốn cho các dự án, tài trợ vốn tiêu dùng, phát hành thẻ ATM… Tuy nhiên, ngân hàng vẫn phụ thuộc chủ yếu vào tín dụng, đặc biệt là các ngân hàng vừa và nhỏ nguồn thu từ tín dụng có thể lên tới 90%. Hoạt động tín dụng hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn, lạm phát ở nước ta luôn ở mức cao nên nguồn vốn huy động được rất thấp. Trong khi đó, để kiềm chế lạm phát NHNN đã áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt, hạn chế tăng trưởng tín dụng, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc… điều này làm tăng chi phí vốn huy động của các ngân hàng.
Tại chi nhánh NHNO&PTNT Hoàng Quốc Việt tình trạng cũng diễn ra tương tự, nguồn vốn huy động được của ngân hàng bị hạn chế buộc ngân hàng phải chọn lọc khách hàng để cho vay điều này ảnh hưởng tới thu nhập của ngân hàng. Mặt khác, chi nhánh mới được chuyển đổi thành chi nhánh cấp 1 (từ tháng 2/2008) nên hoạt động chưa được ổn định và gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình huy động và sử dụng vốn. Giai đoạn trước mắt, chi nhánh hạn chế cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân, tập trung vào khách hàng truyền thống, tăng cường hiệu quả tín dụng đối với các khoản đang thực hiện đặc biệt đối với khách hàng là các doanh nghiệp vì đây là đối tượng được cấp khoản tín dụng lớn và mức độ rủi ro cao.
Để góp phần nâng cao hiệu quả các khoán tín dụng của chi nhánh đối với khách hàng doanh nghiệp tại chi nhánh tôi đã lựa chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng tín dụng đối với khách hàng doanh nghiệp tại chi nhánh NHNO&PTNT Hoàng Quốc Việt”.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1 Nghiên cứu những vấn đề lý luận về tín dụng và chất lượng tín dụng của NHTM.
2.2 Nghiên cứu chất lượng tín dụng khách hàng doanh nghiệp tại chi nhánh NHNO&PTNT Hoàng Quốc Việt.
2.3 Đưa ra một số biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với khách hàng doanh nghiệp tại chi nhánh NHNO&PTNT Hoàng Quốc Việt.
3. Đối tượng nghiên cứu
Chuyên đề tập trung nghiên cứu về chất lượng tín dụng trong NHTM.
4. Phạm vi nghiên cứu
Chuyên đề tập trung nghiên cứu chất lượng tín dụng khách hàng doanh nghiệp tại chi nhánh NHNO&PTNT Hoàng Quốc Việt trong một số năm gần đây.
5. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề chủ yếu sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích tài liệu và đánh giá.
6. Kết cấu chuyên đề:
Bao gồm 03 chương như sau:
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
Chương 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP TẠI CHI NHÁNH NHNO&PTNT HOÀNG QUỐC VIỆT.
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP TẠI CHI NHÁNH NHNO&PTNT HOÀNG QUỐC VIỆT.
Nội dung
Chương 1: Tổng quan về chất lượng tín dụng
của Ngân hàng Thương Mại
1.1 Ngân hàng Thương mại và các dịch vụ chính của ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm về Ngân hàng Thương mại
Ngân hàng là thuật ngữ dùng để chỉ một tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tài chính. Hoạt động ban đầu của ngân hàng bắt nguồn từ một công việc rất đơn giản là giữ các đồ vật quý cho những người sở hữu nó, tránh hư hỏng, mất mát. Đổi lại người chủ sở hữu phải trả cho người giữ hộ một khoản tiền công. Khi nền kinh tế - xã hội phát triển hơn, hoạt động thương mại trở lên quan trọng và không thể thiếu đối với mỗi quốc gia thì nhu cầu về tiền ngày càng lớn, lúc này ngân hàng trở thành nơi giữ tiền cho những người dư tiền và cung cấp cho những người thiếu và có nhu cầu sử dụng thêm tiền. Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, xã hội càng phát triển vai trò của ngân hàng càng được thể hiện rõ.
Ngân hàng bao gồm nhiều loại khác nhau tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng. Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn. Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, thu hút vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm vào nơi khan hiếm. Hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm mục đích kinh doanh một loại hàng hoá đặc biệt đó là “vốn - tiền”, ngân hàng trả lãi suất huy động thấp hơn lãi suất cho vay và phần chênh lệch lãi suất đó đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Trong ngân hàng thương mại, tiền ngân hàng có ban đầu, tiền huy động được từ các tổ chức, cá nhân trong xã hội được gọi là tài sản nợ hay nguồn vốn của ngân hàng. Còn tiền cho các công ty, các cá nhân hay các tổ chức khác trong xã hội vay cũng như tiền gửi tại các ngân hàng, tổ chức tài chính khác gọi là tài sản có hay tài sản của ngân hàng.
1.1.2 Các dịch vụ của ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Cho vay
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của NHTM, nó mang lại nguồn thu chủ yếu cho NHTM. Cho vay bao gồm cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng và tài trợ cho dự án.
Cho vay tiêu dùng là NHTM cung cấp vốn cho đối tượng khách hàng là các cá nhân và các hộ gia đình nhằm thoả mãn nhu cầu mua sắm sinh hoạt hàng ngày. Trong giai đoạn đầu, các ngân hàng rất hạn chế cho vay đối với các cá nhân và hộ gia đình họ cho rằng các khoản cho vay này có độ rủi ro vỡ nợ tương đối cao. Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế - xã hội thu nhập của người tiêu dùng đã ngày càng gia tăng đồng thời do sự cạnh tranh mạnh mẽ trong hệ thống ngân hàng buộc các NHTM phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng. Hiện nay, cho vay tiêu dùng đã và đang đóng vai trò quan trọng, không thể thiếu trong hoạt động cho vay của các ngân hàng.
Cho vay thương mại: Các NHTM cung cấp vốn cho khách hàng doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Cho vay thương mại là hoạt động ra đời tương đối sớm. Ngay thời kỳ đầu các ngân hàng đã tiến hành chiết khấu thương phiếu mà thực chất ở đây là cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó là chuyển từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp để khách hàng có vốn phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như mở rộng quy mô sản xuất.
Tài trợ cho dự án:Với sự phát triển của hệ thống ngân hàng hoạt động cho vay dần được hoàn thiện và phong phú hơn. Ngoài cho vay tiêu dùng, cho vay thương mại các NHTM còn tiến hành tài trợ cho các dự án bằng cách bỏ toàn bộ hoặc một phần vốn vào một dự án thường là các dự án xây dựng nhà máy mới. Hoạt động tài trợ dự án thường đem lại cho ngân hàng nguồn thu nhập tương đối lớn nhờ lãi suất cao nhưng độ rủi ro không hề thấp.
1.1.2.2 Dịch vụ mua, bán ngoại tệ
Mua, bán ngoại tệ là một trong những đầu tiên mà các ngân hàng thực hiện. Ngân hàng đứng ra mua, bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Thị trường tài chính phát triển các NHTM không chỉ mua, bán ngoại tệ ở trong nước mà còn tiến hành kinh doanh mua, bán ngoại tệ trên thị trường quốc tế để hưởng chênh lệch tỷ giá của các loại ngoại tệ trên những thị trường khác nhau tại những thời điểm khác nhau. Nghiệp vụ mua, bán ngoại tệ thường do các ngân hàng lớn thực hiện bởi vì những giao dịch đó có mức độ rủi ro lớn, đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn cao.
1.1.2.3 Dịch vụ nhận tiền gửi
Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn tiền gửi của khách hàng, nguồn đi vay và các nguồn khác (nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán…) trong đó, nguồn tiền gửi là lớn nhất và có vai trò quan trọng trong việc hình thành các khoản cho vay đối với khách hàng. Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền và cam kết hoàn trả đúng hạn hoặc bất cứ lúc nào khách hàng yêu cầu. Các NHTM huy động tiền gửi trong nền kinh tế thông qua cơ chế lãi suất, số tiền lãi được coi như là một khoản chi phí mà ngân hàng phải trả cho khách hàng gửi tiền để có thể được sử dụng khoản tiền đó.
1.1.2.4 Dịch vụ bảo quản vật có giá
Ngân hàng thực hiện lưu giữ, bảo quản vàng và các tài sản có giá khác cho khách hàng trong két của mình (vì vậy còn gọi dịch vụ bảo quản vật có giá là dịch vụ cho thuê két). Ngân hàng giữ lại các vật có giá và giao cho khách hàng giấy biên nhận (giấy chứng nhận do ngân hàng phát hành). Do khả năng chi trả bất cứ lúc nào cho giấy chứng nhận nên các giấy chứng nhận đã được sử dụng như tiền – dùng làm phương tiện thanh toán cho các giao dịch của khách hàng. Với tiện ích nhanh chóng, thuận tiện, độ an toàn cao nên đã khuyến khích khách hàng giao dịch với ngân hàng để sử dụng giấy chứng nhận của ngân hàng trong thanh toán. Với dịch vụ bảo quản vật có giá ngân hàng có thể thu được một khoản phí từ khách hàng.
1.1.2.5 Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, đây là hình thức thanh toán không thể thiếu trong nền kinh tế hiện nay. Thanh toán không dùng tiền mặt chỉ các nghiệp vụ chi trả tiền hàng hoá, dịch vụ và các khoản thanh toán khác trong nền kinh tế được thực hiện bằng cách trích chuyển tài khoản trong hệ thống ngân hàng hoặc bù trừ công nợ mà không dùng tiền mặt. Các doanh nghiệp có các giao dịch với nhau không nhất thiết phải trực tiếp gặp nhau và thanh toán cho nhau, mà ở đây họ đã thông qua một người trung gian đứng ra thanh toán. Việc sử dụng dịch vụ này tiết kiệm rất nhiều về thời gian, chi phí và nâng cao thu nhập cho các doanh nghiệp. Mặt khác, các ngân hàng mở thêm chi nhánh, thanh toán qua ngân hàng được mở rộng phạm vi càng tạo nhiều tiện ích cho khách hàng. Điều này càng khuyến khích các cá nhân, doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này được xem như là một trong những bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng. Hiện nay, với việc ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào lĩnh vực ngân hàng nhiều phương thức thanh toán được phát triển như uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thanh toán qua L/C, thanh toán bằng điện tử, thẻ thanh toán…
1.1.2.6 Dịch vụ quản lý ngân quỹ
Các NHTM mở tài khoản và giữ tiền của các doanh nghiệp và cá nhân nên có điều kiện tìm hiểu và tạo mối quan hệ với các khách hàng đó. Với kinh nghiệm quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân của mình, nhiều NHTM đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ. Thực hiện dịch vụ này, ngân hàng đồng ý quản lý hoạt động thu – chi cho một khách hàng và ngân hàng được sử dụng phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các hoạt động của mình cho đến khi khách hàng cần rút tiền mặt để thanh toán.
1.1.2.7 Tài trợ các hoạt động của Chính phủ
Chính phủ các quốc gia luôn có nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách trong khi thu không đáp ứng đủ nên các khoản cho vay của các NHTM là nguồn vốn mà Chính phủ muốn tiếp cận. Với đặc quyền của mình chính phủ thường tìm cách buộc các ngân hàng phải cam kết thực hiện ở một mức độ nào đó các chính sách của chính phủ ngay từ khi mới thành lập. Các NHTM phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền huy động được hoặc cho vay ưu đãi cho các doanh nghiệp nhà nước…
1.1.2.8 Dịch vụ bảo lãnh
Các ngân hàng lớn thường có uy tín cao nên có khả năng đứng ra bảo lãnh cho một doanh nghiệp trước đối tác của họ. Dịch vụ bảo lãnh tương đối đa dạng bao gồm nhiều loại khác nhau như: Bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm, bảo lãnh đối ứng…
1.1.2.9 Dịch vụ cho thuê thiết bị trung và dài hạn
Các NHTM cho phép khách hàng của mình có thể lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó NHTM là người đứng ra bỏ vốn mua máy móc, thiết bị đó và cho khách hàng thuê lại. Hợp đồng cho thuê thường phải đảm bảo yêu cầu khách hàng phải trả tới hơn 2/3 giá trị của tài sản cho thuê. Do đó, ta có thể thấy dịch vụ cho thuê của ngân hàng cũng có điểm giống như cho vay và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn.
1.1.2.10 Dịch vụ uỷ thác và tư vấn
Do tính chuyên môn hoá cao, đội ngũ cán bộ có trình độ cao và có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính nên các NHTM được các doanh nghiệp nhờ quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính của mình. Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác đầu tư… thậm chí được uỷ thác ngay cả trong di chúc. Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính cho họ
1.1.2.11 Dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
NHTM đứng ra cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ tới những người kinh doanh chứng khoán.
1.1.2.12 Dịch vụ bảo hiểm
NHTM bán bảo hiểm cho khách hàng, đảm bảo hoàn trả cho khách hàng trong trường hợp khách hàng đó bị rủi ro như bị chết, tai nạn, tàn phế …
1.1.2.13 Dịch vụ đại lý
NHTM lớn với chi nhánh rộng khắp cung cấp dịch vụ đại lý cho các ngân hàng nhỏ chưa có điều kiện thiết lập chi nhánh. Khi đó, các NHTM lớn hơn sẽ tiến hành các hoạt động thay các ngân hàng nhỏ như thanh toán hộ, phát hành hộ chứng chỉ tiền gửi, …
1.2 Hoạt động tín dụng của Ngân Hàng Thương Mại
1.2.1 Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế của nền kinh tế hàng hoá, nó phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa người sở hữu vốn với người sử dụng các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế theo nguyên tắc hoàn trả cả vốn và lãi khi đến hạn.
Có thể hiểu một cách đơn giản tín dụng là quan hệ giao dịch giữa các chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia bằng nhiều hình thức như cho vay, bán chịu hàng hoá, chiết khấu, bảo lãnh,… được sử dụng trong một thời gian và theo một số điều kiện nhất định đã thoả thuận.
Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng và bên kia là các tổ chức, cá nhân, các doanh nghiệp trong và ngoài nước, trong đó ngân hàng đóng vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay.
Với tư cách là người đi vay, ngân hàng huy động nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội thông qua các hình thức khác nhau như tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán hoặc phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi…
Với tư cách là người cho vay, sau khi đã huy động được một lượng vốn tương đối ngân hàng tiến hành cung ứng vốn đáp ứng nhu cầu bổ sung vốn cho các cá nhân, tổ chức hay các doanh nghiệp vào quá trình sản xuất kinh doanh và tiêu dùng.
1.2.2 Phân loại tín dụng của Ngân hàng Thương mại
Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau, tuỳ thuộc mục đích nghiên cứu của mỗi tổ chức, cá nhân khác nhau. Thông thường được phân loại dựa theo một số tiêu thức sau:
1.2.2.1 Phân loại theo thời gian (thời hạn tín dụng)
Việc phân chia tín dụng theo thời gian có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan trực tiếp đến tính an toàn hay mức độ rủi ro và khả năng sinh lợi của các khoản tín dụng. Theo thời gian tín dụng ngân hàng bao gồm
- Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm và thường được sử dụng để vay bổ sung thiếu hụt vốn lưu động tạm thời của các doanh nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt của các cá nhân.
- Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, thường được sử dụng để cấp vốn cho các doanh nghiệp phục vụ cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng mới các xí nghiệp, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng quy mô sản xuất.
- Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn nằm giữa 2 loại tín dụng trên, loại tín dụng này được dùng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh.
Có thể có những quy định khác nhau về thời gian của tín dụng trung và dài hạn, có ngân hàng quy định trung hạn là từ 1 – 7 năm và dài hạn là trên 7 năm.
1.2.2.2 Căn cứ vào đối tượng tín dụng
- Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được dùng để hình thành vốn lưu động của các tổ chức kinh tế như dự trữ hàng hoá như mua nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ phục vụ sản xuất. Tín dụng lưu động thường được sử dụng để cho vay bù đắp vốn lưu động thiếu hụt tạm thời.
- Tín dụng vốn cố định: Loại tín dụng được dùng để hình thành vốn để mua tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng quy mô sản xuất, xây dựng các công trình mới phục vụ sản xuất. Thời hạn cho vay đối với loại tín dụng này là trung và dài hạn.
1.2.2.3 Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: loại tín dụng dành cho các doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh khác để tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Tín dụng tiêu dùng: Hình thức tín dụng dành cho cá nhân, hộ gia đình đáp ứng nhu cầu tiêu dùng: mua sắm nhà cửa, xe cộ, vật dụng… phục vụ quá trình sinh hoạt. Tín dụng tiêu dùng được thể hiện bằng hình thức tiền hoặc bán chịu hàng hoá.
1.2.2.4 Phân loại căn cứ theo tài sản đảm bảo
- Tín dụng có đảm bảo: là loại cho vay không cần tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, hoạt động cấp tín dụng chỉ dựa trên uy tín của khách hàng. Đối với khách hàng tốt, trung thực, khả năng tài chính mạnh, khách hàng truyền thống ngân hàng có thể cấp tín dụng mà không cần đòi hỏi nguồn thu nợ bổ sung hay tài sản khác đảm bảo.
- Cho vay có đảm bảo: là loại cho vay được ngân hàng cung cấp cho đối tượng khách hàng cần phải có tài sản đảm bảo hoặc có sự đứng ra bảo lãnh của bên thứ ba. Đây là những khách hàng mới đến giao dịch, khách hàng kinh doanh trên những lĩnh vực có độ rủi ro cao, tài sản đảm bảo sẽ là căn cứ pháp lý ràng buộc trách nhiệm của khách hàng đối với khoản vay của mình, tăng khả năng thu hồi lại được vốn.
1.2.2.5 Phân loại theo hình thức
Tín dụng ngân hàng bao gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê.
- Chiết khấu thương phiếu: là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập mà ngân hàng được hưởng. Phần ngân hàng được hưởng coi như là lãi suất xác định trước mà chủ thương phiếu phải trả, ngân hàng tuy ứng trước tiền cho khách hàng song thực chất là thay thế người mua trả tiền trước cho người bán.
- Cho vay là việc ngân hàng cấp tiền cho khách hàng, đồng thời kèm theo một bản cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong một khoảng thời gian nhất định.
- Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết hoàn thành các nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của mình khi khách hàng không có khả năng thực hiện các nghĩa vụ đó. Ở đây, ngân hàng không phải xuất tiền ra để thực hiện mà ngân hàng cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để sinh lợi.
- Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền ra mua tài sản và cho khách hàng thuê lại theo những thoả thuận nhất định, sau đó khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi cho ngân hàng.
1.2.2.6 Phân loại tín dụng theo rủi ro
- Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao
- Tín dụng có vấn đề: các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch chậm, khách hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính…
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn và khách hàng đã có kế hoạch khắc phục, tài sản đảm bảo có giá trị lớn…
- Nợ quá hạn khó đòi: nợ quá hạn lâu, khả năng trả nợ kém, giá trị tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá.
1.3 Chất lượng tín dụng của Ngân hàng Thương mại
1.3.1 Quan niệm về chất lượng tín dụng
Khái niệm về chất lượng tín dụng là một phạm trù rộng lớn, bao hàm nhiều nội dung khác nhau, nhưng nội dung quan trọng thể hiện ở tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ. Do vậy, trong một số trường hợp khi nói đến chất lượng tín dụng theo nghĩa hẹp người ta chỉ nêu lên tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ, tỷ lệ này càng cao thể hiện chất lượng tín dụng càng thấp và ngược lại.
Theo mức chuẩn quốc tế thì tỷ lệ nợ quá hạn dưới 5% và tỷ lệ nợ khó đòi trong tổng nợ quá hạn thấp thì được coi là tín dụng có chất lượng tốt, tỷ lệ này trên 5% thì được coi là nợ có vấn đề.
1.3.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của Ngân hàng Thương mại
Có nhiều chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá chất lượng tín dụng tại một NHTM, tuy nhiên chủ yếu có một số chỉ tiêu cơ bản sau được dùng:
1.3.2.1 Chỉ tiêu về tỷ lệ nợ quá hạn:
Là tỷ lệ phần trăm giữa tổng các khoản nợ quá hạn so với tổng dư nợ của ngân hàng tại một thời điểm nhất định (thường là cuối tháng, cuối quý hoặc cuối năm).
Chỉ tiêu này được xác định theo công thức:
Tỷ lệ nợ quá hạn
=
Nợ quá hạn
Tổng dư nợ
x 100%
Tỷ lệ nợ quá hạn cho biết với 1 đồng dư nợ có bao nhiêu đồng nợ quá hạn. Tỷ lệ này càng nhỏ thể hiện chất lượng tín dụng của ngân hàng càng tốt.
1.3.2.2 chỉ tiêu về tỷ lệ nợ xấu:
Là tỷ lệ phần trăm giữa nợ xấu với tổng dư nợ của NHTM tại một thời điểm nhất định (thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm).
Chỉ tiêu này được xác định theo công thức:
Tỷ lệ nợ xấu
=
Nợ xấu
Tổng dư nợ
x 100%
Tỷ lệ nợ xấu cho biết cứ 1 đồng dư nợ của ngân hàng có bao nhiêu đồng nợ xấu. Cũng như tỷ lệ nợ khó đòi, tỷ lệ nợ xấu càng nhỏ thì hoạt động tín dụng của ngân hàng là rất tốt.
Theo quyết định số 493/2005/QĐ – NHNN ngày 22/04/2005 của thống đốc NHNN Việt Nam về việc “ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng” có giải thích một số từ ngữ như sau:
Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.
Dự phòng rủi ro tín dụng là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của tổ chức tín dụng không thực hịên nghĩa vụ theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng, nó bao gồm dự phòng cụ thể và dự phòng chung.
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn. Nợ quá hạn là khoản nợ thuộc nhóm 2, 3, 4, 5.
Nợ xấu là khoản nợ đã quá hạn trong thời gian dài, khả năng thu hồi lại rất thấp. Nợ xấu được coi là chi phí khác của ngân hàng nên nó làm giảm thu nhập ròng của ngân hàng.
Nợ của các NHTM được phân làm 5 nhóm:
Nợ nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 1 theo quy định
Nợ nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:
- Các khoản nợ đã quá hạn dưới 90 ngày
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn đã cơ cấu lại
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 2 theo quy định
Nợ nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 3 theo quy định.
Nợ nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 4 theo quy định.
Nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày
- Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
- Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm theo quy định.
1.3.2.3 chỉ tiêu về hiệu suất sử dụng vốn: Là tỷ lệ giữa tổng dư nợ so với tổng vốn huy động.
Chỉ tiêu này được xác định theo công thức:
Hiệu suất sử dụng vốn
=
Tổng dư nợ
Tổng vốn huy động
Chỉ tiêu này giúp chúng ta so sánh, phân tích khả năng cho vay của ngân hàng so với khả năng huy động vốn đồng thời xác định hiệu quả của một đồng vốn huy động được.
1.3.2.4 Chỉ tiêu về vòng quay vốn tín dụng trong năm là tỷ lệ giữa thu nợ trong năm so với dư nợ bình quân năm
Vòng quay vốn tín dụng trong năm
=
Doanh số thu nợ
Dư nợ bình quân năm
Chỉ tiêu này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn vay trong năm tức là một đồng vốn của ngân hàng được cho vay bao nhiêu lần trong năm. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt, nó chứng tỏ ngân hàng thu được nhiều nợ và chứng tỏ rằng nguồn vốn mà ngân hàng đã đầu tư vào hoạt động kinh doanh là có hiệu quả. Tuy nhiên, chỉ tiêu này cũng đánh giá được một cách tương đối vì trong một số trường hợp kết quả chưa hẳn đã là vậy. Ví dụ, NHTM A cho vay doanh nghiệp chiếm tỷ lệ lớn trong dư nợ, các khoản tín dụng này tương đối ổn định, khách hàng trả nợ rất đúng hạn nhưng vòng quay vốn tín dụng lại nhỏ hơn một NHTM B nào đó chủ yếu cho vay tiêu dùng có vòng quay vốn nhanh trong khi rủi ro cao, do đó chưa thể kết luận được về chất lượng tín dụng của ngân hàng nào là cao hơn.
1.3.2.5 chỉ tiêu về tỷ lệ lợi nhuận từ hoạt động tín dụng:
Tỷ lệ lợi nhuận từ
hoạt động tín dụng
=
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Tổng dư nợ tín dụng
Chỉ tiêu này cho chúng ta biết khả năng sinh lời của vốn tín dụng, một khoản tín dụng ngắn hạn hay dài hạn có thể xem là có chất lượng cao nếu nó tạo ra được nhiều lợi nhuận cho khách hàng và ngược lại khoản tín dụng đó sẽ là không đạt được hiệu quả cao nếu lợi nhuận mà nó đem lại ít. Tuy nhiên, đây cũng là một chỉ tiêu tương đối vì nó còn phụ thuộc vào nhiều các yếu tố khác như chính sách về lãi suất, chính sách khách hàng, mục tiêu phát triển của ngân hàng…
1.3.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của Ngân hàng Thương mại.
Trong quá trình cấp tín dụng cho khách hàng, mỗi khoản tín dụng luôn chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau bao gồm cả những yếu tố tích cực góp phần nâng cao chất lượng của khoản tín dụng đó. Bên cạnh đó cũng có những yếu tố có tác động ngược lại, làm giảm chất lượng tín dụng và ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng. Vì vậy, việc phân tích, tìm hiểu các yếu tố đó là hết sức cần thiết đối với mỗi ngân hàng để từ đó phát huy những mặt tích cực đồng thời có những biện pháp làm giảm những mặt tiêu cực ảnh hưởng tới chất lượng của mỗi khoản tín dụng.
Nhìn chung, có các nhân tố chính sau ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng mà chúng ta cần quan tâm bao gồm:
1.3.3.1 Các nhân tố thuộc về phía Ngân hàng Thương mại
a. Chiến lược phát triển của ngân hàng
Đây là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng, một chiến lược phát triển đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của xã hội và năng lực của bản thân ngân hàng sẽ bảo đảm cho việc chọn lựa hướng đi đúng trong quá trình cấp tín dụng cũng như trong các hoạt động khác của ngân hàng.
Điều này càng đặc biệt quan trọng đối với các ngân hàng có quy mô nhỏ, vốn ít, lượng thông tin nắm bắt ở mức độ hạn chế… một chiến lược sai lầm sẽ không còn cơ hội cho ngân hàng có thể khắc phục lại được ngay, nó ảnh hưởng lâu dài tới các hoạt động của ngân hàng trong thời gian tiếp theo.
b. Chính sách tín dụng của ngân hàng thương mại
Hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất trong các hoạt động của ngân hàng, nó mang tính chất sống còn đối với bất kỳ NHTM nào. Chính sách tín dụng đóng vai trò then chốt điều tiết các mặt hoạt động như: huy động vốn và cho vay, lãi suất, sản phẩm tín dụng, kỹ thuật quản lý rủi ro tín dụng và thu hút khách hàng… nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược đề ra trong kinh doanh. Vì vậy, chính sách tín dụng trong mỗi giai đoạn phải phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, có mục tiêu, định hướng cụ thể. Một chính sách tín dụng phù hợp sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng sử dụng tối ưu hoá các nguồn lực của mình một cách an toàn, nâng cao tối đa chất lượng của các khoản tín dụng.
c. Thông tin tín dụng
Trong giai đoạn hiện nay bất kỳ một ngành nghề hay một lĩnh vực kinh doanh nào thông tin luôn chiếm một vị trí quan trọng, đây là phần không thể thiếu được trong quá trình hoạt động của xã hội. Thông tin tín dụng cũng vậy, nó đóng góp một phần không nhỏ cho mọi thành công của bất kỳ một NHTM nào. Nhờ có thông tin tín dụng mà Ngân hàng có thể đưa ra những quyết định cần thiết liên quan đến các khoản cho vay, giảm thiểu được các rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
d. Công tác tổ chức của Ngân hàng Thương mại
Đây cũng là một nhân tố quan trọng thuộc về ngân hàng mà có ảnh hưởng tới chất lượng các khoản tín dụng, thậm chí tới cả các hoạt động khác của ngân hàng. Một ngân hàng có cơ cấu tổ chức được bố trí, sắp xếp một cách khoa học, tận dụng một cách tối đa thế mạnh của từng cá nhân, tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa các bộ phận… sẽ là cơ sở để thực hiện tốt nhiệm vụ đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng, nắm bắt cơ hội kinh doanh, quản lý chặt chẽ và an toàn nguồn vốn của mình.
e. Chất lượng nguồn nhân lực của NHTM
Con người là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của bất cứ một doanh nghiệp nào. Đối với ngân hàng cũng vậy, con người là nhân tố k._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7581.doc