LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với nhiều thành phần kinh tế khác, kinh tế hộ sản xuất đang trên đà phát triển và thực sự khẳng định được mình, đem lại những thành tựu to lớn đối với sự phát triển chung của nền kinh tế, góp phần nâng cao thu nhập cho các hộ và đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá khu vực nông thôn.
Tuy nhiên, phát triển kinh tế hộ sản xuất vẫn gặp nhiều khó khăn đặc biệt là nguồn vốn đầu tư. Trong khi thị trường vốn còn chưa phát triển, các nguồn vốn uỷ thác, vốn tài trợ từ nước
55 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1365 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Đông Bình - Tỉnh Nam Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngoài còn nhiều hạn chế và ràng buộc thì rõ ràng sự trợ giúp từ tín dụng của các Ngân hàng thương mại có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc phát triển kinh tế hộ sản xuất hiện nay. Những kết quả khả quan mà kinh tế hộ đã đạt được trong thời gian qua có sự đóng góp rất lớn từ các ngân hàng thương mại, đặc biệt là NHNo&PTNT Việt Nam
NHNo&PTNT Đông Bình là một chi nhánh của NHNo&PTNT Việt Nam hoạt động ở vùng đồng bằng ven biển của huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định và phục vụ chủ yếu cho nhu cầu vốn của các hộ sản xuất trên địa bàn. Từ khi thành lập và hoạt động đến nay NHNo&PTNT Đông Bình đã thực sự chứng tỏ được vai trò của mình trong việc phát triển kinh tế hộ trên địa bàn, phối kết hợp với các cấp uỷ chính quyền địa phương giúp nhiều hộ có vốn đầu tư kinh doanh sản xuất, nâng cao thu nhập của các hộ nói riêng và phát triển kinh tế của huyện nói chung. Tuy vậy bên cạnh những thành công đạt được thì hoạt động tín dụng đối với hộ sản xuất tại chi nhánh vẫn bộc lộ một số mặt hạn chế nhất định cần phải có giải pháp khắc phục để ngân hàng phát huy tối đa tiềm năng, phục vụ khách hàng ngày một tốt hơn.
Qua quá trình học tập và nghiên cứu cùng với thời gian thực tập tại NHNo&PTNT Đông Bình, em quyết định chọn đề tài “ Nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo&PTNT Đông Bình - tỉnh Nam Định” để làm chuyên đề tốt nghiệp.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, chuyên đề được trình bày theo 3 chương:
Chương I: Chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất
Chương II: Thực trạng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo&PTNT Đông Bình
Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo&PTNT Đông Bình
Do thời gian nghiên cứu có hạn, trình độ và kiến thức còn hạn chế, nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót; vì vậy em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp nhằm giúp em hiểu rõ hơn vấn đề và hoàn thiện chuyên đề
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Đào Hùng và các thầy cô trong khoa Ngân hàng – Tài chính cùng các cán bộ công nhân viên ở NHNo&PTNT Đông Bình đã giúp em hoàn thành chuyên đề này
Chương I:
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT
1.1. Tín dụng của NHTM
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất lưu thông hàng hoá. Vì vai trò, tầm quan trọng của mình mà NH trở thành một nhân tố không thể thiếu được của mỗi nền kinh tế ở mỗi quốc gia khác nhau dù phát triển hay chưa phát triển. Ngân hàng là một trung gian tài chính quan trọng bậc nhất của nền kinh tế, là mạch máu giúp nền kinh tế hoạt động thông suốt, là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. Điều này đã được chứng minh ở hầu hết mọi quốc gia với sự hiệu quả và những thành tựu to lớn mà ngân hàng đem lại cho sự phát triển kinh tế xã hội
Nói về khái niệm của ngân hàng thì có rất nhiều khái niệm, tuỳ thuộc vào cách tiếp cận mà có những định nghĩa khác nhau qua chức năng, nhiệm vụ , các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp hay qua vai trò của nó trong nền kinh tế.
Ngay bản thân từ “ngân hàng” cũng đã phần nào nói lên khái niệm của chính mình : đó là một doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá, dịch vụ đặc biệt - tiền tệ.
Theo luật các tổ chức tín dụng 1997 thì “ Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng dược thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác”
Cách tiếp cận một cách thận trọng và đầy đủ nhất có lẽ là tiếp cận, xem xét các tổ chức này trên phương diện những loại hình dịch vụ mà nó cung cấp. Theo cách tiếp cận này thì : “ Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và thanh toán, thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào khác trong nền kinh tế”.
1.1.2. Tín dụng của NHTM
1.1.2.1. Khái niệm
Hiểu một cách khái quát nhất thì tín dụng là quan hệ vay mượn phát sinh giữa các chủ thể trong nền kinh tế với nhau.
Tín dụng là quan hệ vay mượn tuy nhiên nếu gắn nó với 1 chủ thể nào đó, ví dụ tín dụng ngân hàng thì nó lại mang ý nghĩa là các khoản cho vay của ngân hàng. Như vậy tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản giữa ngân hàng và khách hàng, trong đó ngân hàng giao tài sản của mình cho khách hàng sử dụng trong một khoảng thời gian xác định, khách hàng có nghĩa vụ phải hoàn trả cả gốc và lãi khi đến hạn phải trả theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng với ngân hàng.
Trong khuôn khổ của chuyên đề này tôi xin được dùng từ tín dụng với ý nghĩa là tín dụng ngân hàng, kể từ bây giờ
1.1.2.2. Đặc điểm
Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại có 3 đặc điểm sau:
- Tin dụng là sự cung cấp cho khách hàng một lượng giá trị trên cơ sở lòng tin, tức là ngân hàng tin tưởng rằng người đi vay sẽ sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả vốn vay, có khả năng trả được nợ gốc và lãi đúng hạn cho ngân hàng. Chi khi ngân hàng tin tưởng vào khách hàng vay vốn thì hoạt động cho vay mới được thực hiện
- Trong hoạt động tín dụng, vốn được cung cấp cho khách hàng sử dụng một cách tạm thời, tức là có thời hạn. Việc xác định thời hạn dựa trên sự thoả thuận của ngân hàng và khách hàng với căn cưa là quá trình luân chuyển vốn của đối tượng vay, tức là sự phù hợp giữa kỳ hạn vay với chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng.
- Tín dụng là tài sản của Ngân hàng. Hoạt động tín dụng được thực hiện dựa trên nguyên tắc hoàn trả đúng thời hạn cả gốc và lãi. Ngân hàng chuyển quyền sử dụng tài sản của mình cho khách hàng trong một thời gian chứ không phải là chuyển quyền sở hữu. Vốn cho vay của Ngân hàng chủ yếu là vốn huy động từ các cá nhân, tổ chức có vốn tạm thời nhàn rỗi, để huy động ngân hàng cần bỏ ra chi phí và phải thanh toán vô điều kiện cho người gửi tiền tại ngân hàng khi có yêu cầu hoặc khi đến hạn. Vì thế cần phải đảm bảo nguyên tắc trả nợ gốc và lãi đúng hạn cho Ngân hàng để đảm bảo khả năng thanh toán và tạo nên lợi nhuận cho ngân hàng.
1.1.2.3. Phân loại
Có nhiều cách để phân loại tín dụng theo nhiều tiêu thức khác nhau, nhưng cách phân loại phổ biến và được sử dụng nhiều nhất có lẽ là phân loại theo thời hạn.Và một tiêu thức không kém phần quan trọng là phân loại theo phương pháp và hình thức cấp tín dụng
a)Căn cứ vào thời hạn có thể phân tín dụng thành 3 loại : Ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Sự phân loại theo thời gian này cũng tuỳ từng nước mà phân loại theo khoảng thời gian khác nhau. Ở Việt Nam thì:
- Tín dụng ngắn hạn: Là loại hình tín dụng mà ngân hàng cấp cho khách hàng với thời gian tối đa là 1 năm, dùng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động và nhu cầu chi tiêu trong ngắn hạn của khách hàng. Tín dụng ngắn hạng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.
- Tín dụng trung hạn: Theo quy định của Ngân hàng nhà nước hiện nay thì tín dụng trung hạn ứng với các khoản cho vay từ trên 1 năm đến 5 năm (trước đây là trên 1 năm đến 3 năm ).Tín dụng trung hạn được sử dụng để tài trợ cho những dự án sản xuất kinh doanh có chu kỳ quay vòng vốn dài. Khoản tín dụng này chủ yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, mua sắm hoặc đổi mới công nghệ, mở rộng kinh doanh…
- Tín dụng dài hạn : Là các khoản cho vay có thời hạn lớn hơn cho vay trung hạn ( lớn hơn 5 năm ), để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như: đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc thiết bị có thời gian khấu hao dài, mua sắm các phương tiện vận tải …
b) Ngoài ra còn 1 tiêu thức khác khá quan trọng để phân loại đó là căn cứ vào phương pháp và hình thức cấp tín dụng. Theo tiêu thức này thì tín dụng gồm 3 loại tương ứng với 3 phương pháp cho vay là cho vay trực tiếp, cho vay gián tiếp và cho vay bán trực tiếp
- Cho vay trực tiếp: người vay trực tiếp nhạn tiền vay và trực tiếp trả nợ cho ngân hàng
- Cho vay gián tiếp: Ngân hàng cấp tín dụng cho người vay qua tổ chức trung gian
Quy trình :
Sơ đồ 1 – Quy trình cho vay gián tiếp
NGÂN
HÀNG
TỔ CHỨC
TRUNG GIAN
NGƯỜI
VAY
1
4
3
2
(1) Ngân hàng ứng vốn cho tổ chức trung gian
(2) Tổ chức trung gian cấp tín dụng cho người vay
(3) Người vay trả nợ và lãi cho tổ chức trung gian
(4) Tổ chức trung gian trả nợ cho ngân hàng
- Cho vay bán trực tiếp : Đây là phương thức thường được biết đến dưới cái tên cho vay theo tổ, nhóm rất phổ biến ở Việt Nam vì phương thức này được dùng chủ yếu để cấp tín dụng cho các hộ sản xuất
Hình thức : Các hộ sản xuất có quan hệ liên đới gần gũi với nhau thành lập một tổ vay vốn, thường là một đội sản xuất ở các địa phương thành lập một tổ vay vốn và người làm tổ trưởng thường là đội trưởng đội sản xuất đó.
Mỗi hộ sản xuất nếu có nhu cầu vay vốn làm đơn đề nghị vay vốn, tổ trưởng sẽ liên hệ với ngân hàng, đồng thời tổ trưởng cũng hướng dẫn các hộ này làm các giấy tờ cần thiết khác. Cán bộ tín dụng sẽ tiếp nhận hồ sơ vay vốn, và thẩm định điều kiện vay của từng hộ, thông báo quyết định đến tổ trưởng. Tổ trưởng báo cho các hộ theo đúng ngày ra ngân hàng lĩnh tiền vay. Sau khi vay vốn, tổ trưởng cũng sẽ có trách nhiệm theo dõi đốc thúc các hộ trả nợ cùng với ngân hàng. Khi tổng kết từng quý, năm, các tổ trưởng sẽ được chia hoa hồng, khoảng 2% tổng lãi suất mà ngân hàng nhận được từ hộ đó.
Quy trình:
Các hộ viết đơn xin vay vốn và thông báo cho tổ trưởng, nhờ tổ trưởng hướng dẫn hoàn tất các giấy tờ cần thiết
Tổ trưởng thông báo và trình hồ sơ vay vốn cho ngân hàng
Ngân hàng thẩm định điều kiện vay của từng hộ
Ngân hàng thông báo cho tổ trưởng về quyết định cho vay của mình
Tổ trưởng thông báo cho các hộ về quyết định cho vay và ngày cho vay của ngân hàng đối với từng hộ
Đúng ngày được tổ trưởng thông báo, Ngân hàng tiến hành giải ngân, phát tiền vay cho hộ
Hộ sản xuất trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng
Hộ sản xuất
1
Hộ sản xuất 2
Hộ sản xuất
n
Tổ trưởng
tổ vay vốn
NGÂN
HÀNG
.
.
.
1
5
2
4
6
7
3
Sơ đồ 2 – Quy trình cho vay theo tổ , nhóm
1.1.3. Chất lượng tín dụng của NHTM
1.1.3.1. Khái niệm
Trong các hoạt động kinh doanh của NHTM thì hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng, luôn giữ tỷ trọng lớn nhất và là hoạt động chủ yếu đem lại thu nhập cho Ngân hàng, chính vì vậy nên chất lượng tín dụng luôn được xem xét và quan tâm một cách thích đáng.
Xét một cách khái quát, một khoản tín dụng được cho là có chất lượng khi nó mang lại lợi ích kinh tế cho cả ngân hàng và khách hàng.Tức là khoản vay đó phải tạo nên hiệu quả tài chính cho khách hàng, được khách hàng sử dụng đúng mục đích và có khả năng hoàn trả đủ gốc và lãi cho ngân hàng, khi đó ngân hàng sẽ có được lợi nhuận. Không những thế sự hiệu quả của những khoản cho vay có chất lượng còn góp phần phát triển nền kinh tế.
Quan hệ tín dụng được lập nên dựa trên 2 chủ thể là ngân hàng và khách hàng và được đặt trong sự vận động chung của nền kinh tế xã hội. Vì thế khi nghiên cứu về chất lượng tín dụng cần phải xem xét từ nhiều góc độ khác nhau:
- Về phía ngân hàng thì chất lượng tín dụng thể hiện ở mức độ an toàn và khả năng sinh lời mà hoạt động tín dụng này mang lại cho ngân hàng. Khi cho vay, điều mà ngân hàng quan tâm là phải thu được cả gốc và lãi khi đến hạn. Để có thể đảm bảo được điều này thì khoản vay đó phải được đảm bảo an toàn, sử dụng vốn đúng mục đích, phù hợp với chính sách tín dụng của Ngân hàng. Nhưng Ngân hàng cũng lưu ý đến chi phí thấp và khả năng cạnh tranh trên thị trường để có thể tối đa hoá lợi nhuận
- Về phía khách hàng:
Một khoản tín dụng được khách hàng cho là có chất lượng khi nó thoả mãn được nhu cầu của họ. Điều đó được thể hiện ở chỗ khoản tín dụng đó được tài trợ một cách đầy đủ kịp thời, đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh, phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng. Các thủ tục vay vốn được tiến hành nhanh gọn hiệu quả, tiết kiệm được thời gian và chi phí.
- Xét từ góc độ nền kinh tế - xã hội:
Chất lượng tín dụng là khả năng đáp ứng được những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong lĩnh vực mà khoản tín dụng ngân hàng tham gia hoạt động. Mục tiêu đó có thể là giải quyết công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế công cộng,…
* Như vậy một khoản tín dụng được xem là có chất lượng tốt khi nó thoả mãn đồng thời cả 3 mục tiêu của Ngân hàng, của khách hàng và mục tiêu kinh tế xã hội. 3 mục tiêu này luôn mâu thuẫn với nhau, vì thế một hoạt động tín dụng có chất lượng tốt là phải dung hoà được lợi ích của cả ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế - xã hội.
1.1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
a, Các chỉ tiêu định tính
- Sự tuân thủ đúng các nguyên tắc tín dụng:
Các nguyên tắc này rất quan trọng, sự tuân thủ đúng các nguyên tắc giúp phòng ngừa rủi ro, là cơ sở để có một khoản cho vay tốt, và cũng là cơ sở bước đầu để đánh giá chất lượng của khoản tín dụng đó.
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại đều phải dựa trên một số nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời. Các nguyên tắc này được cụ thể hoá trong các quy định của Ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại tuỳ theo lĩnh vực hoạt động chủ yếu của mình. Nhìn chung, các nguyên tắc đó gồm một số điểm cụ thể như sau:
+ Khách hàng phải là cá nhân , tổ chức có đủ năng lực hành vi pháp luật dân sự, có khả năng về tài chính. Khoản vay phải có đảm bảo bằng bảo lãnh của bên thứ ba hoặc bằng chính uy tín của khách hàng,hoặc đảm bảo bằng tài sản
+ Khách hàng phải cam kết sử dụng vốn vay đúng mục đích được thoả thuận với ngan hàng, không trái quy định của pháp luật và các quy định khác của ngân hàng nhà nước.
+ Khách hàng phải cam kết hoàn trả gốc và lãi với thời gian xác định
+ Ngân hàng thực hiện tài trợ dựa trên phương án, dự án kinh doanh có hiệu quả và phải liên tục thẩm định kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay.
Đây là những quy định có tính chất bắt buộc, một hợp đồng tín dụng có chất lượng cao trước tiên phải thoả mãn hết các nguyên tắc này, nếu không khả năng xảy ra rủi ro trong quá trình cho vay là rất lớn
- Chính sách cho vay của ngân hàng:
Chính sách cho vay của ngân hàng là tập hợp các quy định, biện pháp liên quan đến việc khuyếch trương hay hạn chế tín dụng do ban lãnh đạo đề ra để đạt được các mục tiêu đã định.Nó bao gồm các yếu tố giới hạn hạn mức cho vay đối với một khách hàng, lãi suất, kỳ hạn của từng khoản vay, sự đảm bảo đối với khoản vay,… Nó ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động cho vay nên cũng ảnh hưởng đến chất lượng của khoản cho vay đó.
- Quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng đảm bảo việc thực hiện các hoạt động tín dụng theo một quy trình thống nhất, chặt chẽ, hiệu quả, nhằm tạo điều kiện cho ngân hàng trong việc quản lý hoạt động tín dụng được an toàn chất lượng. Đó là các bước thực hiện một cách tuần tự theo các bước, từ tiếp nhận hồ sơ, thẩm định, phân tích khách hàng cùng dự án phương án sản xuất kinh doanh, ký kết hợp đồng tín dụng đến giải ngân và kiểm soát hồ sơ, kiểm tra, kiểm định sau khi cho vay và cuối cùng là thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới.
- Mức độ đáp ứng kịp thời nhu cầu tài trợ của khách hàng
Đây là điểm mấu chốt để khoản tín dụng có thể tạo nên hiệu quả tài chính cho khách hàng. Một khoản tín dụng được coi là có chất lượng tốt đối với khách hàng khi khoản tín dụng đó được tài trợ kịp thời đầy đủ cho nhu cầu vay vốn hợp lý của khách hàng.
b, Một số chỉ tiêu định lượng
- Nhóm chỉ tiêu doanh số cho vay, doanh số thu nợ, dư nợ cho vay
Doanh số cho vay là tổng số tiền đã cho vay của ngân hàng trong một thời kỳ. Con số và tốc độ tăng trưởng của doanh số cho vay qua các năm phản ánh quy mô và xu hướng hoạt động cho vay cua ngân hàng là mở rộng hay thu hẹp
Doanh số thu nợ phản ánh số tiền mà ngân hàng đã thu hồi được về từ các khoản cho vay ( gốc + lãi) trong một thời kỳ.
Dư nợ cho vay phản ánh lượng vốn mà khách hàng còn nợ ngân hàng tại thời điểm xác định. Thường là tính dư nợ cuối kỳ : tức là tổng số tiền mà ngân hàng hiện còn cho vay chưa thu hồi tại thời điểm cuối kỳ.
Nhóm chỉ tiêu này phản ánh quy mô tín dụng của ngân hàng, nếu doanh số cho vay lớn, khả năng thu hồi nợ tốt, khách hàng trả gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn thì ngân hàng đó có cả quy mô và chất lượng tín dụng tốt
- Hệ số sử dụng vốn:
Tổng doanh số cho vay
_________________
=
Hệ số
sử dụng vốn
Tổng nguồn vốn huy động
_________________
Hệ số sử dụng vốn phản ánh kết quả của việc sử dụng nguồn vốn huy động của ngân hàng vào việc cho vay. Nếu hệ số này quá cao thì ngân hàng cần phải chú ý đến khả năng thanh toán của mình. Vì nếu ngân hàng cho vay quá nhiều, trong khi các khách hàng có tiền gửi mà ngân hàng huy động được ồ ạt đến rút tiền ở cùng một thời điểm thì ngân hàng sẽ không có đủ tiền để thanh toán. Còn nếu hệ số này quá thấp, chứng tỏ ngân hàng đang lãng phí nguồn vốn huy động được, chưa khai khác được hết vốn
- Tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu
Dư nợ quá hạn
_________________
Tổng dư nợ
_________________
=
Tỷ lệ
nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn là chỉ tiêu phản ánh rõ nhất về chất lượng tín dụng của ngân hàng.Nếu tỷ lệ quá hạn cao chứng tỏ ngân hàng hoạt động kém hiệu quả và không có chất lượng tín dụng tốt. Thông thường chỉ tiêu nợ quá hạn không được vượt quá 5% , nếu chỉ tiêu này vượt quá 5% thì hoạt động của ngân hàng không đảm bảo an toàn
Nợ xấu
_________________
Tổng dư nợ
_________________
=
Tỷ lệ
nợ xấu
Theo quyết định 493 của Ngân hàng nhà nước thì những khoản nợ thuộc nhóm 3,4,5 được xếp vào nợ xấu.
- Chỉ tiêu lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng
Lợi nhuận của ngân hàng chủ yếu có được từ hoạt động tín dụng, chỉ tiêu này được đo bằng lợi nhuận thực tế thu được trên tổng dư nợ. Qua chỉ tiêu này ta sẽ biết được 1 đồng vốn ngân hàng bỏ ra sẽ thu được bao nhiêu đồng tiền lãi. Phản ánh lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng cảu ngân hàng được đo bằng tỷ số giữa tiền lãi thu được và tổng thu nhập của ngân hàng.
1.2. Tín dụng đối với hộ sản xuất
1.2.1. Hộ sản xuất
1.2.1.1. Khái niệm
Kinh tế hộ được ra đời và phát triển song song với sự phát triển của cả nền kinh tế trong các giai đoạn. Đặc biệt là một nước có nền kinh tế nông nghiệp như nước ta thì kinh tế hộ lại càng có vai trò quan trọng. Trong giai đoạn hiện nay, kinh tế hộ vẫn tồn tại và phát triển song song với các loại hình kinh tế khác. Nó vẫn đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước, ổn địn đời sống kinh tế xã hội.
Theo phụ lục 1- văn bản 499A ngày 2/9/1993 của NHNo&PTNT Việt Nam thì hộ sản xuất được quan niệm là một đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của mình.
Theo quyết định 180 của NHNo&PTNT Việt Nam thì hộ sản xuất gồm các đối tượng sau:
- Hộ chuyên sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp có tính chất tự sản, tự tiêu do cá nhân làm chủ hộ, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh của mình
- Hộ cá thể, tư nhân làm kinh tế hộ gia đình theo nghị định 29 ngày 29/03/1998
- Hộ là thành viên nhận khoán của các tổ chức kinh tế hợp tác, các doanh nghiệp nhà nước
- Các cá nhân là nhóm kinh doanh theo nghị định số 66/HĐBT ( nay là Thủ tướng chính phủ) ngày 02/03/1992
- Các doanh nghiệp tư nhân hoạt động theo luật doanh nghiệp tư nhân
1.2.1.2. Đặc điểm:
- Hộ sản xuất là đơn vị kinh tế cá thể mâng tính tự cấp, tự túc. Là đơn vị kinh tế cơ sở, vừa sản xuất vừa tiêu dùng sản phẩm.Quan hệ giữa tiêu dùng và sản xuất hàng hoá biểu hiện trình độ phát triển của hộ, từ cơ chế khép kín, tự cung tự cấp đến sản xuất hàng hóa.
Các thành viên trong hộ có nhu cầu tiêu dùng sản phẩm trong đời sống hàng ngày, nhưng đồng thời hộ là nơi sản xuất ra các sản phẩm để phục vụ cho cả các thành viên trong hộ và cho xã hội. Khi kinh tế hộ phát triển đến mức độ cao sẽ phát triển thành kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ.
- Về ngành nghề: Hộ sản xuất tiến hành sản xuất kinh doanh trên nhiều lĩnh vực phong phú, đa dạng: nông , lâm, ngư , diêm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, các hộ sản xuất hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp là chủ yếu.
- Về nhân lực : Hộ sản xuất chủ yếu sử dụng lao động tự có trong gia đình. Một số hộ sản xuất hàng hoá có quy mô lớn có thể thuê thêm lao động nhưng với số lượng ít.
- Về khả năng cạnh tranh: Hộ là đơn vị kinh tế cơ sở tự hạch toán, kinh doanh ở quy mô nhỏ, trình độ quản lý và kiến thức về thị trường còn hạn chế. Hàng hoá không được đăng ký nhãn hiệu, không được bảo hộ. Vì thế khả năng cạnh tranh trên thị trường kém
- Về nguồn vốn: Vốn để sản xuất kinh doanh của các hộ được cấu thành từ 3 nguồn cơ bản : vốn tự có; vốn được tài trợ từ các dự án ,của các tổ chức phi chính phủ và vốn vay từ các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên thì tỷ lệ vốn tự có để sản xuất kinh doanh còn khá lớn, chưa khai thác hết được hiệu quả và ưu thế nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng.
1.2.1.3. Vai trò của hộ sản xuất trong phát triển kinh tế nông thôn
Việt Nam là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân số sinh sống ở vùng nông thôn. Nông nghiệp phát triển sẽ tạo điều kiện cho phát triển thủ công nghiệp, công nghiệp nhẹ và thương nghiệp, sẽ tạo nền tảng để phát triển kinh tế. Chính vì thế, yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là một vấn đề bức thiết, và vai trò của hộ sản xuất là rất quan trọng vì kinh tế hộ là thành phần chính, giữ vai trò chủ đạo trong kinh tế nông thôn.
Một số vai trò đó là :
- Sản xuất sản phẩm, đặc biệt là các sản phẩm nông sản đáp ứng cho nhu cầu của toàn xã hội.
Ông bà ta thường nói “Có thực mới vực được đạo”, nhu cầu về lương thực luôn là nhu cầu thiết yếu không thể thiếu của con người vì có ăn thì con người mới tồn tại được. Đáp ứng nhu cầu về lương thực thực phẩm là một điều kiện quan trọng để ổn định xã hội, ổn định và phát triển kinh tế. Đặc biệt đối với những nước có thu nhập thấp, giao lưu thương mại kém phát triển thì vai trò của các hộ sản xuất trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp để đáp ứng đủ nhu cầu lương thực thực phẩm cho toàn xã hội lại càng trở nên quan trọng
- Hộ sản xuất đã góp phần quan trọng trong việc khai thác nguồn lực tại chỗ như tài nguyên thiên nhiên ( đất đai, sông nước,…) và nguồn nhân lực.
Thời gian nhàn rỗi của những người sống trong khu vực nông thôn là rất lớn. Nếu không biết sử dụng nguồn thời gian này thì là rất lãng phí. Vì thế việc phát triển kinh tế hộ vừa có thể sử dụng được nguồn nhân lực, tạo công ăn việc làm vừa có thể tăng thu nhập cho người dân
Mặt khác hộ sản xuất sống trên địa bàn có nguồn tài nguyên đất đai và mặt nước phong phú, nên việc phát triển kinh tế hộ cũng đã góp phần sử dụng có hiệu quả hơn những nguồn lực này
- Hộ sản xuất là thành phần chủ yếu ở nông thôn góp phần xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng ở nông thôn theo mô hình nhà nước và nhân dân cùng làm
Nền kinh tế của nước ta còn kém phát triển , ngân sách nhà nước rất hạn hẹp lại phải theo đuổi rất nhiều mục tiêu nên việc đầu tư cho hệ thống hạ tầng ở nông thôn còn rất khó khăn nếu chỉ trông chờ vào ngân sách. Sự chung sức giữa nhà nước và nhân dân góp phần đẩy nhanh việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng, vừa phục vụ nhu cầu của nhân dân vừa thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Ví dụ như hầu hết các đoạn đường bê tông trong thôn xóm đều do các hộ tự đóng góp với chính quyền địa phương để làm.
- Hộ sản xuất cung cấp những nguyên liệu cho các ngành sản xuất, đồng thời cũng là thị trường tiêu thụ sản phẩm rộng lớn của nền kinh tế
Kinh tế hộ là nơi cung cấp các nguyên liệu chủ yếu cho ngành công nghiệp chế biến, cung cấp nguồn lao động nhân công rẻ cho nền kinh tế. Nhiều hộ còn tự phát triển vừa sản xuất vừa chế biến sản phẩm, tạo nên cơ sở để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, phát triển nền sản xuất và lưu thông hàng hoá. Hơn nữa với dân số chiếm khoảng hơn 70% dân số toàn xã hội , có thể thấy đây là một thị trường tiêu thụ tiềm năng cho nền kinh tế cả nước.
- Thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá, tích tụ vốn
Việt Nam hiện đang đứng thứ nhất về xuất khẩu gạo, đứng thứ hai về xuất khẩu cà phê trên toàn thế giới, xuất khẩu các sản phẩm nông sản, thủy hải sản khác đều ở vị trí cao. Tuy nhiên cũng cần nhận thấy là chất lượng của những mặt hàng này còn hạn chế, gạo của chúng ta có chất lượng không thể bằng gạo Thái, hay cà phê thì ở Việt Nam đa số là cà phê Robusta, không thơm ngon bằng cà phê Abrica. Với tiềm năng thực tế, chúng ta hoàn toàn có thể đạt được những thành tựu lớn hơn.
Như vậy vai trò của hộ sản xuất là rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế nông thôn, vừa là cầu nối giữa nông nghiệp và công nghiệp, vừa thúc đẩy phát triển thương mại dịch vụ, tích tụ vốn và là nền tảng của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay.
1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với việc phát triển kinh tế hộ sản xuất
Phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá là một nội dung quan trọng trong mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đã được Đảng và nhà nước đã đề ra. Đảng và nhà nước ta cũng xác định rõ hộ là đơn vị kinh tế cơ sở, là nền tảng để phát triển kinh tế nông thôn trong giai đoạn hiện nay.
Để kinh tế hộ phát triển, nhà nước đã đề ra nhiều chính sách hỗ trợ về khoa học kỹ thuật, vốn, tiêu thụ sản phẩm … nhưng vẫn gặp khó khăn rất nhiều về vốn để thực hiện. Trong bối cảnh ngân sách nhà nước hạn hẹp, các dự án, nguồn viện trợ từ nước ngoài không ổn định còn nhiều ràng buộc về chính trị và các điều kiện khác ; thì tín dụng ngân hàng đóng một vai trò quan trọng nhất trong việc đầu tư để phát triển kinh tế hộ.
Vai trò của tín dụng ngân hàng được thể hiện ở một số khía cạnh sau
- Tín dụng ngân hàng góp phần hỗ trợ cho các hộ sản xuất phát triển sản xuất và kinh doanh là điều kiện để kinh tế nông thôn chuyển dịch sang nền sản xuất hàng hoá
Vốn là điều kiện rất quan trọng nếu muốn tiến hành sản xuất kinh doanh, các hộ sản xuất trước đây đều sử dụng vốn tự có là chủ yếu nên rất hạn chế nếu muốn mở rộng sản xuất, mua máy móc thiết bị và nâng cao khoa học kỹ thuật. Vốn vay từ ngân hàng giúp các hộ sử dụng hiệu quả hơn các nguồn vốn có được, và chủ động hơn trong sản xuất.
Không những trực tiếp tài trợ vốn cho các hộ, tín dụng ngân hàng còn góp phần vào ngân sách để xây dựng hạ tầng, cơ sở vật chất, là điều kiện để phát triển kinh tế nông thôn.
- Tín dụng ngân hàng là động lực để các hộ nâng cao ý thức sản xuất kinh doanh
Do nguồn vốn vay từ ngân hàng là nguồn vốn bắt buộc phải trả, chứ không phải là tài trợ không hoàn lại nên các hộ buộc phải có ý thức trong sản xuất kinh doanh, làm sao có lãi để có thể trả nợ ngân hàng. Họ phải cố gắng tối đa để phương án sản xuất của họ mang lại lợi nhuận để có thể vừa trả nợ ngân hàng, vừa có thu nhập cho chính họ.
Hơn nữa, sau khi cho vay, ngân hàng còn tiếp tục theo dõi, giám sát việc sử dụng vốn của các hộ. Nếu khách hàng không sử dụng đúng mục đích, hoặc sử dụng không hiệu quả thì ngân hàng sẽ tiến hành thu hồi và dùng các biện pháp xử lý thích hợp.
- Tín dụng ngân hàng giúp phát triển kinh tế hộ, đồng thời cũng mang lại hiệu quả xã hội. Do cho các hộ vay vốn để sản xuất kinh doanh nên giải quyết việc làm cho lao động tại chỗ,nâng cao ý thức người dân, làm giảm các tệ nạn xã hội,...
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất
1.2.3.1. Nhóm nhân tố chủ quan
a, Từ phía Ngân hàng
- Chất lượng các thông tin mà ngân hàng có được về khách hàng
Đó là các thông tin về tình hình tài chính, năng lực và các khoản bảo đảm của khách hàng. Thông tin đó có thể khai thác từ nhiều nguồn như trực tiếp từ khách hàng, từ bạn bè,từ chính quyền địa phương… Số lượng và chất lượng thôn gtin thu thập được có liên quan mật thiết đến độ chính xác trong quá trình phân tích tín dụng. Những thông tin này càng đầy đủ chính xác thì phân tích tín dụng càng chính xác và chất lượng tín dụng cũng càng tốt.
- Trình độ của cán bộ tín dụng :
Cán bộ tín dụng là người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng, trực tiếp nhận hồ sơ và tiến hành phân tích thẩm định.
Trình độ của cán bộ tín dụng thể hiện ở trình độ nghiệp vụ và khả năng phân tích. Cán bộ tín dụng có đủ năng lực sẽ giúp cho việc cho vay đạt hiệu quả cao và tạo nên những khoản tín dụng có chất lượng tốt
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị của Ngân hàng
Ngân hàng có mạng lưới hoạt động rộng thì sẽ thuận tiện cho khách hàng giao dịch, giảm chi phí và thời gian đi lại, thu hút nhiều khách hàng hơn
Ngân hàng được trang bị hệ thống thiết bị hiện đại sẽ giúp lưu trữ, quản lý thông tin của khách hàng tốt hơn, đảm bảo cho việc cho vay thu nợ được nhanh chóng, hiệu quả
b, Từ phía các hộ sản xuất
- Năng lực tài chính của các hộ
Năng lực tài chính của các hộ thể hiện ở mức vốn tự có của họ tham gia vào dự án sản xuất kinh doanh, tài sản thế chấp, tài sản đảm bảo. Khách hàng có năng lực tài chính cao thì khả năng thu hồi vốn của ngân hàng cũng dễ dàng hơn.
- Phương án sản xuất kinh doanh :
Ngân hàng chỉ tài trợ cho những hộ có phương án sản xuất kinh doanh mà qua quá trình thẩm định thấy là khả thi và có khả năng đem lại lợi nhuận. Phương án có khả năng thực thi cao, có khả năng tạo lợi nhuận lớn và ít rủi ro thì khả năng trả nợ của khách hàng được đảm bảo. Như vậy, chất lượng của khoản vay sẽ tốt nếu như phương án sản xuất kinh doanh tốt và khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích
- Ý thức tự giác của hộ
Tính tự giác ảnh hưởng lớn đến khả năng thu hồi nợ gốc và lãi cho ngân hàng. Nếu khách hàng không có ý thức tự giác thì dù tình hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhưng họ vẫn chây ì không chịu trả lãi và gốc, ngân hàng gặp khó khăn khi thu hồi nợ. Nhiều trường hợp còn lừa đảo, chiếm dụng vốn của ngân hàng
- Trình độ nhận thức của hộ
Trình độ nhận thức giúp hộ sản xuất nhận thấy được vai trò của tín dụng ngân hàng đối với quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Mặt khác trình độ của hộ cũng quyết định đến hiệu quả sử dụng vốn vay, khả năng quản lý sử dụng có hiệu quả và đúng mục đích.
1.2.3.2. Nhóm nhân tố khách quan :
- Môi trường tự nhiên :
Điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, kinh tế hộ chịu rất nhiều tác động của tự nhiên khí hậu, đặc biệt là những hộ nuôi trồng nông, thuỷ, hải sản. Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ góp phần làm tăng thà._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25085.doc