Lời mở đầu
Trong những năm vừa qua, số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ không ngừng tăng lên và đang dần khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế quốc dân. Hàng năm các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp khoảng 26% GDP, 31% tổng sản lượng công nghiệp, thu hút 26% lực lượng lao động. Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 97% tỷ trọng số lượng các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Đây là khu vực được đánh giá là rất có tiểm năng phát triển kinh tế.
Nghị định số 90/NĐ-CP ngày 23-11-2002 của Chính phủ
80 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1505 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Công thương Thanh Xuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ đã nêu :" Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là một nhiệm vụ quan trọng trong Chiến lược phát tiển kinh tế- xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa vả nhỏ phát huy tính chủ động sáng tạo, nâng cao năng lực quản lý, phát triển khoa học-công nghệ và nguồn lực..."
Nhận thức được điều này, trong thời gian qua các ngân hàng thương mại đã chú trọng quan tâm đến các doanh nghiệp này. Nhất là khi môi trường kinh doanh giữa các ngân hàng này càng trở nên khốc liệt thì việc nhắm tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ như là một đối tượng khách hàng đầy tiềm năng là chiến lược phát triển tất yếu của các ngân hàng thương mại.
Nắm được chủ trưởng của Đảng và Nhà nước cũng như để bắt kịp với xu hướng vận động của nền kinh tế, ngân hàng Công Thương Thanh Xuân trong thời gian qua đã đẩy mạnh tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Và hoát động này đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ nhưng cũng bộc lộ nhiều khó khăn, hạn chế đòi hỏi ngân hàng phải nỗ lực tìm cách giải quyết để ngân hàng có thể phát triển hơn nữa và tăng tính cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy sau một thời gian thực tập tại ngân hàng, em đã chọn đề tài :"Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Công thương Thanh Xuân" cho chuyên đề tốt nghiệp.
Ngoài Lời mở đầu, Mục lục, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Chuyên đề được kết cấu thành ba chương như sau:
Chương I: Tín dụng ngân hàng và Chất lượng tín dụng ngân hàng đối với DNV&N
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNV&N tại NHCT Thanh Xuân
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNV&N ở NHCT Thanh Xuân
Chương I-Tín dụng ngân hàng và Chất lượng tín dụng ngân hàng đối với DNV&N
1.1_Khái quát về DNV&N
1.1.1_Khái niệm
Việc đưa ra một khái niệm chính xác về doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất khó khăn. Hiện nay, trên thế giới mỗi nước lại có một khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ riêng của mình. Trong khu vực Đông Nam Á, Inđônêxia phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ dựa trên 3 tiêu thức là số lượng lao động, tổng giá trị tài sản và doanh thu; Singapo thì chỉ dựa vào số lượng lao động và tổng giá trị tài sản. Trong khu vực Châu Á, Hồng Kông xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ dựa trên tiêu thức số lượng lao động, nhưng số lượng lao đông đặt ra cho các ngành là khác nhau, với ngành dịch vụ thì lượng lao động nhỏ hơn so với lượng lao động trong ngành công nghiệp. Cũng như vậy nhưng Hàn Quốc chia theo thành 3 ngành, đó là các ngành: chế tạo máy và khai khoáng, xây dựng, dịch vụ. Trên thế giới, Canada, Úc và Mỹ đều phân loại dựa vào số lượng lao động, nhưng số lượng lao động làm tiêu chí thì ở mỗi nước là khác nhau.
Như vậy, ta thấy cho mặc dù có nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ thì 2 tiêu thức được sử dụng phổ biến nhất là số lượng lao động trung bình và tổng sổ vốn của doanh nghiệp. Tuy nhiên, khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ không chỉ đơn thuần phản ánh qui mô của doanh nghiệp mà nó còn bao chùm nội dung về kinh tế, tổ chức sản xuất, quản lý và tiến bộ khoa hoc công nghiệp. Tuỳ theo thực trạng về quy mô của các doanh nghiệp trong nền kinh tế của mỗi nước khác nhau, trình độ phát triển của mỗi nền kinh tế có tính đến xu hướng phát triển trong thời gian tới mà các nước có tiêu chí xác định riêng của mình. Như vậy việc phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ mang tính tương đối và nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Đối với Việt Nam, sau một thời gian nghiên cứu yêu cầu thực tế và học hỏi kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, ngày 23/11/20011, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/NĐ-CP quy định lại tiêu chí để xác định doang nghiệp vừa và nhỏ, như sau: " Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng kí không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người ".
1.1.2_Đặc điểm
Đặc điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là mối quan tâm của các NHTM vì đây là đối tượng khách hàng ngày càng có vai trò quan trọng trong hoạt động của các ngân hàng. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ bên cạnh những hạn chế còn có những mặt tích cực. Việc tìm hiểu đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ giúp cho hoạt động giữa NHTM và các doanh nghiệp này đạt được hiệu quả cao.
a_Quy mô hoạt động nhỏ
Quy mô hoạt động của một doanh nghiệp thường được đánh giá dựa trên hai tiêu chí cơ bản là số vốn hoạt động và số lượng lao động trung bình. Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, số vốn đăng kí là dưới 10 tỷ đồng và số lượng lao động trung bình không quá 300 người. Do đó, có thể nói quy mô hoạt động của những doanh nghiệp này là không lớn khi so sánh trong tương quan nền kinh tế.
Quy mô vốn nhỏ bé, nên hầu hết các doanh nghiệp này đều gặp khó khăn về vốn. Việc tiếp cận với các nguồn tài chính khác với những doanh nghiệp này cũng là một vấn đề nan giải. Nguồn vốn tự có thấp, khả năng tiếp cận với các nguồn vốn từ những tổ chức tín dụng thấp đã khiến cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp hàng loạt các khó khăn khác trong quá trình sản xuất kinh doanh.
b_Khả năng cạnh tranh thấp
Do đặc điểm lượng vốn hoạt động nhỏ, thêm vào đó khả năng tiếp cận các nguồn tài chính khác là thấp nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường gặp khó khăn trong việc mở rộng quy mô hoạt động, triển khai các dự án lớn, đầu tư sản xuất mới. Bên cạnh đó, do không đủ vốn để đầu tư nâng cấp, đổi mới các máy móc thiết bị, càng không đủ vốn cho hoạt động nghiên cứu khoa học kĩ thuật, các doanh nghiệp này thường sử dụng công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý kém. Chính vì vậy, các sản phẩm sản xuất ra thường có chất lượng thấp mà chi phí bỏ cũng không nhỏ. Điều này làm giảm tính cạnh tranh của sản phẩm. Cũng vì lý do vốn mà các doanh nghiệp này có nhiều hạn chế trong việc marketing, quảng cáo sản phẩm, nắm bắt thông tin thị trường...Những điều này đã hạn chế khả năng chiếm lĩnh thị trường, cũng như việc phát triển doanh nghiệp, do đó mà sức cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường thấp.
c_Chịu ảnh hưởng lớn từ môi trường bên ngoài
Số lượng các doanh nghiệp nhỏ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số các doanh nghiệp, tuy nhiên tổng lượng vốn của các doanh nghiệp này lại không chiếm phần lớn lượng vốn của nền kinh tế. Trong nền kinh tế, các doanh nghiệp lớn là trụ cột và được ví như đầu tàu của nền kinh tế. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường làm vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, hoặc nếu là đối thủ thì cũng luôn tránh phải đối đầu trực tiếp với các doanh nghiệp lớn vì khả năng cạnh tranh thấp. Họ hoạt động không chỉ tuân theo xu thế vận động của nền kinh tế như các doanh nghiệp lớn mà còn chịu ảnh hưởng rất lớn từ các doanh nghiệp này.
d_Tính linh hoạt cao
Bên cạnh những những khuyết điểm kể trên, doanh nghiệp vừa và nhỏ còn có một số ưu điểm nổi bật như bộ máy tổ chức đơn giản, gọn nhẹ, có tính năng động, sự linh hoạt cao và khả năng thích ứng cao hơn các doanh nghiệp lớn trước những biến động của thị trường.
Vì chịu ảnh hưởng lớn từ môi trường bên ngoài nên trong hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tính nhạy cảm cao đối với sự thay đổi không ngừng của thị trường. Họ luôn phải cập nhật các thông tin từ thị trường, từ các doanh nghiệp lớn và từ đối thủ.
Bên cạnh đó, chỉ cần một lượng vốn bổ sung không nhiều, các doanh nghiệp này có thể dễ dàng đổi mới thiết bị và công nghệ hơn so với các doanh nghiệp lớn. Ngoài ra, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể ứng dụng được các kĩ thuật tiên tiến kết hợp tự động hoá, cơ khí hoá với lao động thủ công, trên cơ sở đó từng bước đổi mới công nghệ. Do đó các doanh nghiệp này có thể thay đổi một cách linh hoạt theo xu hướng của thị trường mà không cần quá nhiều vốn đầu tư. Tuy nhiên, vốn lại luôn là vấn đề khó khăn của các doanh nghiệp này, vì vậy nếu được đánh giá đúng khả năng, có dự án khả thi thì việc đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ đem lại lợi nhuận cao cho các NHTM
1.1.3_Vai trò của DNV&N
Khi nói đến sự phát triển kinh tế của một quốc gia, chúng ta thường nghĩ ngay đến các doanh nghiệp khổng lồ quen thuộc. Chẳng hạn như khi nói đến nền kinh tế Nhật Bản thì người ta nghĩ ngay tới Mitsubishi, Toyota; nói đến Hàn Quốc là Samsung...Trong khi đó, trên thực tế thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại đóng một vai trò không nhỏ đối với sự phát triển của nền kinh tế thị trường.
a_Tạo việc làm và thu nhập cho người lao động
Do có lợi thế là chỉ cần một lượng vốn nhỏ cũng có thể thành lập được công ty, nhà xưởng, mở văn phòng... với chi phí thấp, tính năng động và tính linh hoạt cao, có khả năng thích ứng với những nhu cầu thường xuyên thay đổi của thị trường nên ở các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn chiếm khoảng hơn 90% tổng số các doanh nghiệp.
Thêm vào đó, phần lớn các doanh nghiệp này hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến nông sản, xây dựng và giao thông vận tải...., lại thường sử dụng công nghệ lạc hậu, nửa cơ giới nửa thủ công do vậy khả năng thu hút lao động của các doanh nghiệp này là rất lớn. Ở Việt Nam, các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ đóng góp hơn 25% GDP, 26% việc làm thường xuyên và tạo ra 1,2 triệu việc làm mới mỗi năm. Trong khi đó các doanh nghiệp lớn có kĩ thuật sản xuất hiện đại, công nghệ tiên tiến, nhất là đối với các xí nghiệp tự động hoá sản xuất đã làm cho số người thất nghiệp ngày càng tăng, phát sinh nhiều tiêu cực cho xã hội.
Ở Việt Nam, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đóng một vai trò quan trọng trong việc thu hút các lao động nông nghiệp ở nông thôn trong các làng nghề truyền thống. Các doanh nghiệp này đã giúp cho người nông dân có thêm được thu nhập với các nghề truyền thống từ bao đời bằng việc xuất khẩu các mặt hàng thủ công mĩ nghệ. Nhờ đó giảm được lượng lao động ồ ạt đổ lên thành phố trong lúc nông nhàn, hơn thế nữa là giữ gìn được bản sắc văn hoá dân tộc từ bao đời nay của Việt Nam.
b_Thu hút nguồn vốn trong dân
Tiềm lực tài chính trong dân là rất lớn, tuy nhiên lại nằm rải rác, không tập trung thành những khoản lớn đủ để đáp ứng cho những nhu cầu vốn với quy mô lớn. Để thành lập các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì yêu cầu về vốn là không lớn do đó các doanh nghiệp này được thành lập một cách dễ dàng, nằm phân tán trong dân, đi vào tận các làng xóm. Vì vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò quan trọng trọng việc thu hút nguồn vốn từ dân, tận dụng những nguồn vốn nhỏ bé này cho sản xuất kinh doanh không để chúng nhàn rỗi. Mặc dù, số vốn của một doanh nghiệp loại này nhỏ nhưng do số lượng doanh nghiệp là rất lớn nên tổng lượng vốn thu hút được khá lớn.
c_Đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế
Do qui mô vừa và nhỏ nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể đặt văn phòng làm việc, nhà xưởng ở khắp mọi nơi trên lãnh thổ, ở cả những nơi cơ sở hạ tầng chưa phát triển nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, phát triển kinh tế địa phương. Quy mô hoạt động cũng như trình độ công nghệ của các doanh nghiệp này rất thích hợp với những ngành cần nhiều lao động thủ công như ngành chế biến thuỷ-hải sản, may mặc, da giày, mà đây lại là những ngành đem lại nhiều kim ngạch xuất khẩu cho cả nước. Đặc biệt với ngành thủ công mỹ nghệ truyền thống, ngành mà việc sử dụng các công nghệ hiện đại và sản xuất hàng loạt là rất khó khăn, thêm vào đó là việc phân bố rải rác ở khắp các vùng nông thôn, thì doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc thu gom, tiêu thụ sản phẩm không chỉ với thị trường trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài.
Bên cạnh đó, do lợi thế của mình các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thích hợp với khu vực kinh doanh thương mại-dịch vụ bán lẻ. Trong khi đó các doanh nghiệp lớn khó có thể tổ chức được một mạng lưới bán lẻ để tiêu thụ hàng hoá của mình mà phải thông qua mạng lưới bán lẻ của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính vì vậy, doanh nghiệp vừa và nhỏ đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng kể cả ở những nơi xa xôi, cơ sở hạ tầng thấp kém một cách nhanh chóng thuận tiện, do đó mà rút ngắn khoảng cách về kinh tế giữa các vùng, góp phần làm cho nền kinh tế phát triển một cách đồng đều trên toàn lãnh thổ.
Thu hút được một lượng vốn lớn nhàn rỗi trong dân, khai thác tận dụng được các tiềm năng thế mạnh của từng vùng, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Theo số liệu của UNDP thì doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đóng góp 26%GDP. Sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã góp phần đáng kể trong việc huy động vốn đầu tư toàn xã hội, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu cho ngân sách Nhà nước, đóng góp phần lớn trong giá trị GDP mà nền kinh tế tạo ra hàng năm.
d_Tạo sự linh hoạt cho nền kinh tế
Trên thực tế, tỷ trọng số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước luôn chiếm trên 90%. Với ưu thế về yêu cầu vốn không lớn, và linh hoạt trong hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ gia tăng không ngừng. Điều này góp phần quan trọng trong việc thu hút vốn nhàn rỗi từ dân, như vậy sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tăng hiệu quả cho việc sử dụng các nguồn lực tài chính. Đây là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với công cuộc phát triển kinh tế đặc biệt là với Việt Nam- một nước đang phát triển và đang trong lộ trình hội nhập kinh tế thế giới.
Bên cạnh đó, sự phát triển không ngừng các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã thu hút được một lượng lớn lao động nông nghiệp đang gia tăng ở các vùng nông thôn chuyển sang làm việc ở lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ; nâng cao đời sống cho nhiều bộ phận dân cư nông thôn, thúc đẩy quá trình đô thị hoá. Có thể nói, sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã góp phần quan trọng trong quá trình chuyến dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Việc phát triển không ngừng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra sự cạnh tranh không nhỏ giữa các doanh nghiệp kể cả với các doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế. Trong một thị trường cạnh tranh, những sản phẩm được sản xuất ra phải không ngừng nâng cao chất lượng nếu không muốn bị đào thải. Mà doanh nghiệp vừa và nhỏ lại nhạy cảm với sự biến động của thị trường, có tính linh hoạt trong sản xuất, các sản phẩm sản xuất ra luôn bám sát với yêu cầu của thị trường với chi phí thấp. Đây là thách thức rất lớn với những doanh nghiệp lớn, khiến cho các doanh nghiệp này khó có thể lũng đoạn thị trường. Do đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm cho nền kinh tế trở nên năng động, linh hoạt hơn, lộ trình hội nhập với kinh tế thế giới cũng vì thế được rút ngắn hơn.
1.2_Tín dụng ngân hàng
1.2.1_Tín dụng- một hoạt động chủ yếu của các NHTM
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Ngân hàng được ví như mạch máu của nền kinh tế. Sự phát triển kinh tế là điều kiện ra đời ngân hàng, đến lượt mình hệ thống ngân hàng lại thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng.
Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ vàng. Người làm nghề đổi tiền thường là người giàu có. Họ thực hiện cất trữ hộ, việc cất trữ hộ nhiều nghười khác là điều kiện để thực hiện thanh toán hộ. Điều này đã thu hút các thương gia gửi tiền nhiều hơn. Do tính chất vô danh của tiền, nhà buôn tiền có thể sử dụng tạm thời một phần tiền gửi của khách để cho vay. Hoạt động này làm thay đổi cơ bản hoạt động của nhà buôn tiền- kẻ cho vay nặng lãi- thành nhà buôn tiền- Ngân hàng. Hoạt động cho vay dựa trên tiền gửi của khách, tạo nên lợi nhuận lớn nên các ngân hàng đều tìm cách mở rộng thu hút tiền gửi để cho vay bằng cách trả lãi cho người gửi tiền.
Tóm lại: đứng trên góc độ các loại hình mà ngân hàng cung cấp thì ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán- và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Như vậy, ngay từ khi mới được hình thành cho đến nay, hoạt động tín dụng luôn là hoạt động nòng cốt của các ngân hàng thương mại.
Tín dụng được hiểu là quan hệ vay mượn, gồm cả cho vay và đi vay. Tuy nhiên, khi gắn tín dụng với chủ thể nhất định như ngân hàng (hoặc các trung gian khác)- ví dụ như tín dụng ngân hàng- thì chỉ bao hàm nghĩa là ngân hàng cho vay.
Hoạt động tín dụng của NHTM dựa trên một số nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khă năng sinh lời. Các nguyên tắc này được cụ thể hoá trong các qui định của ngân hàng Nhà nước và các NHTM. Ba nguyên tắc cơ bản như sau:
Thứ nhất: khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn (gốc) và lãi với thời gian xác định. Các khoản tín dụng của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn. Ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi như đã cam kết. Do vậy, ngân hàng luôn yêu cầu người nhân tín dụng phải thực hiện đúng cam kết này. Đây là điều kiện để ngân hàng tồn tại và phát triển.
Thứ hai: khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo đúng mục đích được thoả thuận với ngân hàng, không trái với các quy định của pháp luật và các qui định khác của ngân hàng cấp trên. Luật pháp qui định phạm vi hoạt động cho các ngân hàng. Bên cạnh đó, mỗi ngân hàng có thể có mục đích và phạm vi hoạt động riêng. Mục đích tài trợ được ghi trong hợp đồng tín dụng đảm bảo ngân hàng không tài trợ cho các hoạt động trái pháp luật và việc tài trợ đó là phù hợp với cương lĩnh của ngân hàng.
Thứ ba: ngân hàng tài trợ trên phương án (hoặc dự án) có hiệu quả. Thực hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất. Phương án hoạt động có hiệu quả của người vay minh chứng cho khả năng thu hồi được vốn đầu tư và có lãi để trả nợ ngân hàng. Các khoản tài trợ của ngân hàng phải gắn liền với việc hình thành tài sản của người vay. Trong trường hợp xét thấy kém an toàn, ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo khi vay.
1.2.2_Các hình thức tín dụng ngân hàng
Trong một môi trường cạnh tranh gay gắt với đòi hỏi ngày càng cao và đa dạng của hàng triệu khách hàng, các ngân hàng cũng luôn phải đa dạng hoá các loại hình dịch vụ của mình nhằm đáp ứng được nhu cầu của thị trường, từ nhu cầu của quốc gia, các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp, các hộ gia đình cho đến nhu cầu của mỗi các nhân riêng biệt. Bên cạnh đó, phần lớn nguồn vốn đưa và kinh doanh của ngân hàng là lượng vốn nhãn rỗi trong dân cư, của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế..do đó khi cấp tín dụng ngân hàng luôn phải xác định loại hình cấp phát hợp lý nhằm hạn chế được rủi ro ở mức thấp nhất trên cơ sở đó tối đa hoá lợi nhuận.
a_Căn cứ vào thời hạn tín dụng
Căn cứ vào thời hạn tín dụng, người ta chiưa tín dụng thành 3 loại:
Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn tín dụng dưới 12 tháng. Tín dụng ngắn hạn nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất, và phục vụ nhu cầu sinh hoạt của cá nhân.
Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Tín dụng trung hạn nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm trang thiết bị, xây dựng với qui mô nhỏ, cải tiến kĩ thuật, mua công nghệ hay để đầu tư cho các dự án trung hạn. Ngoài ra, ngân hàng còn cấp tín dụng trung hạn cho người tiêu dùng nhằm thoả mãn nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, phương tiện vận chuyển.
Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Loại tín dụng này được sử dụng nhằm cấp vốn cho các dự án lớn, đầu tư xây dựng cơ bản, cải tiến khoa học công nghệ....
Tại các NHTM, tín dụng ngắn hạn thường được ưu tiên hơn và chiếm tỷ trọng cao hơn tín dụng trung, dài hạn do nguồn vốn dành cho tín dụng trung, dài hạn thường đắt và khan hiếm hơn. Hơn thế nữa, tín dụng trung, dài hạn lại thường có rủi ro cao hơn. Việc phân chia các loại hình tín dụng theo thời gian giúp cho ngân hàng có thể tính toán một cách tương đối rủi ro có thẻ xảy ra, khả năng sinh lời của tài sản. Điều này cung liên quan mật thiết đến công tác quản lý thanh khoản của các NHTM.
b_Căn cứ vào đối tượng khách hàng
Căn cứ vào đối tượng khách hàng, tín dụng ngân hàng được chia làm 2 loại như sau:
Tín dụng cho khách hàng là các tổ chức kinh tế- xã hội: các tổ chức kinh tế-xã hội bao gồm các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, các tổ chức tín dụng khác, các hộ sản xuất kinh doanh...
Tín dụng cho khách hàng cá nhân: là loại tín dụng chỉ cấp cho nhu cầu của từng cá nhân nhỏ lẻ.
Hiện nay, các ngân hàng thường phân chia các đối tuong khách hàng thành khách hàng cá nhân, khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng doanh nghiệp lớn. Việc phân chia này giúp cho ngân hàng quản lý khách hàng và các khoản vay tốt hơn do mỗi đối tượng này lai có nhu cầu tín dụng khác nhau. Bên cạnh đó, quy trình nghiệp vụ tín dụng cho khách hàng doanh nghiệp và khách hàng cá nhân rất khác nhau.
c_Căn cứ vào hình thức cấp tín dụng
Căn cứ vào hình thức cấp tín dụng, người ta có những loại tin dụng sau:
Cho vay: đây là tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng và cũng là khoản mục mang lai nhiều lợi nhuận nhất cho ngân hàng. Trong cho vay, người ta lại chia ra thành các loại: cho vay thấu chi, cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển, cho vay gián tiếp, cho vay trả góp...
Cho thuê tài chính: là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê và bên thuê. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tải sản đó tại thời điểm kí hợp đồng.
Bảo lãnh: bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Bảo lãnh của ngân hàng có nghĩa ngân hàng là bên bảo lãnh; khách hàng của ngân hàng là người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh là bên thứ ba.
Tóm lại: hiện nay, các NHTM đều thực hiện đa dạng hoá các hình thức tín dụng từ cho vay ngắn, trung và dài hạn, bảo lãnh cho khách, mua các tài sản để cho thuê...Để mở rộng tín dụng có hiệu quả, các ngân hàng không chỉ xây dựng và thực hiện đúng đắn chính sách tín dụng mà phải luôn đa dạng hoá cá hình thức tín dụng cho phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng. Việc phân loại các hình thức tín dụng theo các tiêu chí khác nhau giúp cho ngân hàng quản lý thanh khoản tốt hơn, tăng khả năng dự báo và phong ngừa rủi ro, trên cơ sở đó thu được lợi nhuận tối đa.
1.3_Chất lượng tín dụng đối với DNV&N
1.3.1__Khái niệm
Trong bất cứ nền kinh tế cạnh tranh nào, doanh nghiệp muốn đứng vững và phát triển thì việc cải thiện chất lượng tín dụng là điều thiết yếu. Trong ba yếu tố chất lượng, giá cả và lượng hàng bán thì yếu tố chất lượng là quan trọng nhất vì chất lượng được nâng lên giá thành sẽ hạ, đảm bảo thoả mãn cho khách hàng cả về chất lượng và giá cả, tạo điều kiện cho doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường.
Có thể hiểu chất lượng tín dụng như sau: chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại , phát triển của ngân hàng.
Như vậy, chất lượng tín dụng được thể hiện trên các phương diện sau:
Đối với khách hàng: tín dụng được cấp phải phù hợp với mục đích sử dụng và đáp ứng được vốn của khách hàng, với lãi suất kì hạn hợp lý, thủ tục đơn giản, thuận tiện, thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng. Khoản tín dụng này phải giúp cho khách hàng tạo ra lợi nhuận đủ để chi trả lãi cho khoản vay và tăng được giá trị tài sản sở hữu cho khách hàng.
Đối NHTM: phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của bản thân ngân hàng và đảm bảo được không chỉ mức độ an toàn của vốn vay mà còn cả tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đầy đủ,đúng hạn và có lãi khi kết thúc hợp đồng tín dụng.
Đối với sự phát triển của kinh tế- xã hội: tín dụng phục vụ sản xuất lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết công ăn, việc làm, khai thác những tiềm năng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, đáp ứng được những mục tiêu chung của Nhà nước về phát triển kinh tế xã hội.
1.3.2_Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
a_Chỉ tiêu định tính
Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể vừa trừu tượng, chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan. Việc quy định tiêu chuẩn cụ thể cho các chỉ tiêu định tính là rất khó khăn, và nó chỉ mang tính tương đối. Căn cứ vào tình hình cụ thể của mỗi ngân hàng trong tương quan của toàn hệ thống ngân hàng của mỗi một nền kinh tế, mỗi ngân hàng sẽ tự xác định tiêu chí cho chỉ tiêu định tính khác nhau.
Các chỉ tiêu định tính có thể được đánh giá trên các khía cạnh sau:
Việc thực hiện luật, các văn bản, chế độ hiện hành của ngành về hoạt động tín dụng.
Chính sách quản trị điều hành đúng đắn, chiến lược phát triển phù hợp với yêu cầu cạnh tranh, phát triển kinh doanh của ngân hàng trong từng giai đoạn cụ thể.
Sự đóng góp của hoạt động tín dụng ngân hàng đến quá trình phát triển kinh tế- xã hội.
Uy tín của ngân hàng, mức độ thoả mãn của khách hàng đối với các khoản tín dụng.
b_Chỉ tiêu định lượng
Đây là các chỉ tiêu có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đánh giá chất lượng tín dụng. Thông qua các chỉ tiêu này, ngân hàng có thể xác định được một cách khá chính xác chất lượng tín dụng của ngân hàng mình thông qua những con số cụ thể. Vì thế, những con số được đưa ra để tính toán các chỉ tiêu này cần phải chính xác và đầy đủ.
Nhóm chỉ tiêu về tăng trưởng tín dụng:
Dư nợ đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ: là số dư cuối kì trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng, chỉ tiêu này phản ảnh lượng vốn tại thời điểm đó mà ngân hàng đã giải ngân cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Doanh số cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ: được tính bằng cách cộng dồn các khoản vay trong một niên độ kế toán. Chỉ tiêu này phản ánh lượng vốn mà các ngân hàng đã giải ngân cho các trong nghiệp vừa và nhỏ trong một thời kì nhất định.
Tỷ lệ dư nợ đối với DNV&N trên tổng dư nợ: phản ánh tỷ trọng dư nợ tín dụng của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tổng dư nợ của ngân hàng.
Tỷ lệ tăng trưởng tín dụng đối với DNV&N: được tính bằng cách lấy dư nợ cuối kì trừ đi dư nợ đầu kì, rồi chia cho dư nợ đầu kì.
Nhóm chỉ tiêu này phản ánh khả năng mở rộng tín dụng của ngân hàng đối với đối tượng khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như uy tín của ngân hàng đối với đối tượng khách hàng này. Các chỉ tiêu trên càng cao càng thể hiện được khả năng của ngân hàng trong việc mở rộng tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tuy nhiên, các chỉ tiêu này không phản ánh hết được chất lượng tín dụng, mà nó chỉ có thể phản ánh được quy mô, tỷ trọng và tốc độ tăng trưởng tín dụng vì đằng sau các khoản tín dụng đó còn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Tín dụng là khoản mục đem lại nhiều lợi nhuận nhất cho ngân hàng nhưng cũng là hoạt động đem lại nhiều rủi ro nhất. Vì vậy, khi đánh giá chất lượng tín dụng không chỉ dựa vào nhóm chỉ tiêu về tăng trưởng mà còn phải sử dụng một số nhóm chỉ tiêu khác nhằm có sự đánh giá toàn diện hơn.
Nhóm chỉ tiêu về nợ có đảm bảo:
Chỉ tiêu này được tính bằng cách lấy tỷ lệ phần trăm giữa nợ có tài sản đảm bảo trên tổng dư nợ của NHTM tại một thời điểm nhất định. Chỉ tiêu này phản ánh tỷ trọng nợ có tài sản đảm bảo là lớn hay nhỏ đối với tổng dư nợ.
Tài sản đảm bảo có thể giúp ngân hàng giảm thiểu được thiệt hại khi rủi ro tín dụng xảy ra. Trong thực tế, các khoản vay cần có tài sản đảm bảo thì giá trị của khoản vay đó không được vượt quá 70% giá trị tài sản đảm bảo. Các ngân hàng đặc biệt là các NHTM Nhà nước đang cố gắng tăng dần tỷ trọng dư nợ có tài sản đảm bảo, bởi đây là nguồn thu hồi nợ có giá trị của ngân hàng.
Bên cạnh đó, tài sản đảm bảo cũng làm tăng trách nhiệm của khách hàng đi vay với khoản tín dụng được cấp, và tạo ra mối ràng buộc về lợi ích giữa khách hàng và ngân hàng. Vì vậy, một tỷ lệ cao hay thấp dư nợ có tài sản đảm bảo trên tổng dư nợ cũng phản ánh được chất lượng tín dụng của ngân hàng là cao hay thấp. Tuy nhiên, chỉ tiêu này mới chỉ phản ánh khả năng thu hồi vốn của ngân hàng khi có rủi ro xảy ra. Để đánh giá chất lượng tín dụng còn phải xét số vốn thực tế chưa thu hồi được khi hết hạn hợp đồng tín dụng.
Nhóm chỉ tiêu về nợ xấu:
Tỷ lệ nợ quá hạn: được tính bằng tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn trên tổng dư nợ của NHTM tại một thời điểm xác định. Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đến hạn thoả thuận trên hợp đồng. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng mất vốn của ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì khả năng mất vốn càng cao, chất lượng tín dụng thấp.
Tỷ lệ nợ khó đòi: là tỷ lệ phần trăm giữa nợ khó đòi trên tổng dư nợ quá hạn của NHTM tại một thời điểm nhất định. Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn đã quá một kì gia hạn nợ. Chỉ tiêu này phản ánh một cách chính xác hơn khả năng mất vốn của ngân hàng. Tỉ lệ này càng cao thì chất lượng tín dụng của ngân hàng càng thấp
Các chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ rủi ro tín dụng khác nhau. Đối với ngân hàng, việc khách hàng không trả đúng hạn có liên quan đến thanh khoản và rủi ro thanh khoản. Nợ khó đòi là một lời cảnh báo cho ngân hàng. Tuy nhiên, khi đánh giá nợ quá hạn cũng cần phải chú ý đến một số nghiệp vụ tín dụng như việc tính toán kì hạn nợ, điều chuyển kì hạn nợ và gia hạn nợ có dựa trên những cơ sở đúng đắn hay không vì nợ gia hạn không phải là nợ quá hạn có nghĩa là nó không nằm trong chỉ tiêu nợ quá hạn. Nhưng chính nợ gia hạn cũng là phản ánh phần nào khả năng mất vốn của ngân hàng. Nếu các ngân hàng gia hạn nợ không chú ý xem xét đến khả năng trả nợ của khách hàng, mà chỉ cố gắng giảm chỉ tiêu nợ quá hạn nhằm tạo ra chất lượng tín dụng giả tạo thì nợ gia hạn chính ._.là nguy cơ lớn đối với ngân hàng, thậm chí nó có thể dẫn ngân hàng đến tình trạng mất khả năng thanh toán.Vì vậy, trong nhóm chỉ tiêu này ta có thể sử dụng cả chỉ tiêu nợ quá hạn như sau:
Tỷ lệ nợ gia hạn: là tỷ lệ phần trăm giữa nợ gia hạn trên tổng dư nợ của ngân hàng tại một thời điểm nhất định. Tỷ lệ này càng thấp thì chất lượng tín dụng của ngân hàng càng cao.
Những chỉ tiêu trên phản ánh mức độ an toàn vốn của ngân hàng. Những chỉ tiêu này càng thấp thì phản ánh chất lượng tín dụng càng cao. Mặc dù mục đích cao nhất của ngân hàng trong kinh doanh là an toàn, nhưng khi nói một ngân hàng có chất lượng tín dụng tốt thì không thể không nói đến khả năng sinh lãi của các khoản tín dụng đó. Vì vậy, để có được sự đánh giá chính xác hơn về chất lượng tín dụng thì không thể bỏ qua chỉ tiêu về lợi nhuận.
Chỉ tiêu về lợi nhuận từ hoạt động tín dụng:
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng là lợi nhuận hàng năm từ hoạt động cho vay của ngân hàng thường được tính tại thời điểm cuối năm. Chỉ tiêu này cao phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng tốt và ngược lại. Vì bên cạnh mục tiêu an toàn thì bất kì ngân hàng nào cũng phải hướng đến mục tiêu lợi nhuận đặc biệt trong một nền kinh tế thị trường cạnh tranh.
Tóm lại: để có thể đánh giá chất lượng tín dụng một cách toán diện nhất thì cần phải đánh giá đồng bộ các chỉ tiêu. Bởi vì mỗi chỉ tiêu chỉ có thể đánh giá được chất lượng tín dụng là tốt hay xấu trên một phương diện nhất định.
1.3.3_Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
a_Nhân tố chủ quan
Chính sách tín dụng:
Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của ngân hàng, đảm bảo hoạt động tín dụng của ngân hàng đi đúng quĩ đạo. Nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của một ngân hàng. Căn cứ vào tình hình cụ thể của mỗi thời kì mà ngân hàng hoạch định cho mình một chính sách tín dụng phù hợp. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ giúp cho ngân hàng thu hút được khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời cho hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, nhờ đó mà phát huy được năng lực của bản thân ngân hàng đồng thời tận dụng được sự thuận lợi và hạn chế tối đa bất lợi từ môi trường kinh doanh. Điều đó cũng có nghĩa là chất lượng tín dụng phụ thuộc vào sự đúng đắn của chính sách tín dụng. Bất cứ ngân hàng nào muốn hoạt động tín dụng có chất lượng đều phải có chính sách tín dụng thích hợp cho ngân hàng của mình.
Quy trình tín dụng
Qui trình tín dụng bao gồm những qui định cần phải thực hiện trong trong từng khâu của công tác tín dụng từ khi thẩm định, chuẩn bị cho vay, giải ngân, giám sát quá trình cho vay đến khi thu hồi được nợ. Chất lượng tín dụng có đảm bảo được hay không tuỳ thuộc vào sự hợp lý của các qui định ở từng bước, sự thống nhất, chặt chẽ nhưng không rườm rà của toàn bộ qui trình.
Trong qui trình tín dụng, bước chuẩn bị cho vay (khách hàng nộp hồ sơ xin vay vốn, ngân hàng xem xét, cân nhắc để quyết định cho vay hay không) là bước quan trọng nhất, có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng vì đây là cơ sở để định lượng rủi ro trong quá trình vay. Giám sát quá trình cho vay giúp ngân hàng nắm được tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng, nhờ đó có thể có những biện pháp xử lí kịp thời nhằm ngăn ngừa rủi ro khi chất lượng khoản cho vay bị đe doạ trong quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng.
Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Các khoản tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn. Việc thanh toán nợ không đúng hạn cho ngân hàng cho thấy các "trục trặc" trong hoạt động của khách hàng. Việc xem xét, tìm nguyên nhân là rất quan trọng để giúp ngân hàng kịp thời đưa ra các quyết định mới liên quan đến tính an toàn của khoản tín dụng.
Công tác thẩm định dự án vay vốn
Thẩm định dự án là việc dùng các phương pháp phân tích, thu thập xử lý thông tin, số liệu liên quan đến khách hàng vay vốn và dự án xin tài trợ để dựa vào đó mà ngân hàng đưa ra quyết định có tài trợ hay không. Đây là công tác có ý nghĩa rất quan trọng, ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng. Nếu kết quả thẩm định không chính xác sẽ dẫn đến thiệt hại cho ngân hàng. Như khi dự án vay vốn có tính khả thi, doanh nghiệp có năng lực sử dụng vốn vay nhưng kết quả thẩm định lại đánh giá không chính xác tính khả thi của dự án, đưa đến quyết định ngân hàng không cho vay; điều này khiến cho ngân hàng mất một khoản lợi nhuận hơn thế nữa là mất một khách hàng tốt. Ngược lại, nếu thẩm định mà không đánh giá hết rủi ro của dự án thì quyết định cho vay sẽ khiến ngân hàng gặp rủi ro khó có thể thu hồi được vốn, giảm chất lượng tín dụng.
Công tác thẩm định phải chính xác, thận trọng nhưng không mất quá nhiều thời gian vì điều này sẽ kéo dài thời gian thực hiện dự án, giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, thông qua quá trình thẩm định dự án, ngân hàng có thể tư vấn cho chủ đầu tư trên cơ sở những kinh nghiệm vốn có của mình, giúp cho dự án hiệu quả hơn, đồng thời thắt chặt hơn mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng.
Thông tin tín dụng
Thông tin tín dụng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Nhờ có thông tin tín dựng, người quản lý có thể đưa ra những quyết địng cần thiết liên quan đến cho vay, theo dõi và quản lý tài khoản cho vay. Thông tin tín dụng có thể thu được từ các nguồn có sẵn ở ngân hàng như hồ sơ vay vốn, thông tin giữa các tổ chức tín dụng, phân tích của cán bộ tín dụng...; thông tin từ phía khách hàng như phỏng vấn trực tiếp, báo cáo định kì, từ các cơ quan, tổ chức chuyên cung cấp thông tin tín dụng; hoặc từ các nguồn thông tin khác như báo chí...Số lượng và chất lượng của thông tin có được liên quan đến mức độ chính xác trong việc phân tích khách hàng, đánh giá thị trường để đưa ra những quyết định phù hợp. Thông tin càng đầy đủ, chính xác, toàn diện và nhanh nhạy thì khả năng nắm bắt cơ hội và phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng càng cao, chất lượng tín dụng từ đó mà được nâng lên.
Công tác tổ chức và trình độ nghiệp vụ của cán bộ
Cán bộ tín dụng đóng vai trò quan trọng nhất đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng như chất lượng tín dụng. Đây là những người trực tiếp thực hiện tất cả các khâu của qui trình tín dụng do đó việc bảo đảm an toàn và tính sinh lời cho mỗi khoản tín dụng phụ thuộc vào trình độ cũng như đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng. Xã hội ngày càng phát triển thì càng đòi hỏi chất lượng nhân sự cao hơn để có thể xử lý kịp thời, linh hoạt và hiệu quả những tình huống có thể xảy ra trong hoạt động tín dụng, giúp ngân hàng ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng.
Tuy nhiên, có một đội ngũ cán bộ có trình độ mới chỉ là điều kiện cần, để có thể đảm bảo được chất lượng tín dụng thì việc tổ chức sắp xếp cán bộ sẽ là điều kiện đủ. Công tác tổ chức cần phải sắp xếp một cách khoa học, đúng người, đúng việc, đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban, giữa các khâu của hoạt động tín dụng. Việc tổ chức một cách chặt chẽ sẽ giúp cho ngân hàng đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng, giảm thiểu rủi ro trong quá trình hoạt động, làm cho bộ máy của ngân hàng hoạt động trôi chảy, nhịp nhàng, nhanh nhạy trước sự biến động không ngừng của môi trường kinh doanh.
Vốn tự có của ngân hàng
Vốn tự có là tiềm lực của ngân hàng, giúp cho ngân hàng có đủ khả năng, điều kiện để mở rộng tín dụng, đáp ứng được nhu cầu về vốn ngày càng lớn của các doannh nghiệp, tổ chức cũng như các cá nhân. Vốn chủ sở hữu của ngân hàng càng lớn thì khả năng đáp ứng nhu cầu vay vốn càng cao. Bên cạnh đó, vốn chủ sở hữu là điều kiện quan trọng để ngân hàng đầu tư đào tạo cán bộ, nâng cấp trang thiết bị cơ sở vật chất nhằm nâng cao chất lượng phục vụ, hiện đại hoá các qui trình kĩ thuật, trên cơ sở đó nâng cao chất lượng tín dụng.
Trang thiết bị, cơ sở vật chất của ngân hàng
Để có thể quản lý và thực hiện hoạt động tín dụng hiệu quả, ngoài việc nâng cao công tác hoạch định chính sách, công tác tổ chức quản lý ngân hàng...thì cần phải chú ý tới các phương tiện vật chất cần thiết phục vụ cho hoạt động tín dụng. Đặc biệt trong tình hình hiện nay khi mà các ngân hàng đang cạnh tranh rất khốc liệt bằng các dịch vụ mang tính hiện đại cao, đem lại nhiều tiện ích cho người sử dụng thì việc hiện đại hoá ngân hàng, trang bị cơ sở vật chất tiên tiến là bước đi tất yếu đối với mỗi ngân hàng nếu muốn tồn tại và phát triển. Việc trang bị đầy đủ trang thiết bị tiên tiến phù hợp với khả năng tài chính, qui mô và phạm vi hoạt động của ngân hàng sẽ giúp cho ngân hàng đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng với chi phí thấp. Ngoài ra, ngân hàng còn có thể nắm bắt kịp thời, chính xác thông tin về tình hình hoạt động tín dụng.
Tóm lại: chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng rất nhiều từ nhiều nhân tố thuộc nội tại của mỗi ngân hàng. Sự ảnh hưởng của các nhân tố này là khác nhau, tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế và tình hình cụ thể của mỗi ngân hàng. Vấn đề cần quan tâm là làm thế nào để có thể phát huy được những ảnh hưởng tích cực, sử dụng một cách linh hoạt các nhân tố này để có thể thực hiện hoạt động tín dụng có chất lượng.
b_Nhân tố khách quan
Khách hàng
Khi một khoản tín dụng đã được cấp thì việc đảm bảo an toàn và tính sinh lời của khoản vốn đó phụ thuộc rất nhiều vào chính khách hàng. Vì lúc đó họ là người nắm giữ khoản tín dụng. Vì vậy, khách hàng là một trong những nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Nếu chỉ có sự nỗ lực từ phía ngân hàng thì khoản tín dụng được cấp cũng không được coi là có chất lượng. Để đảm bảo tính an toàn và hiệu quả cho các khoản tín dụng của ngân hàng thì khách hàng phải có năng lực ( về tài chính, quản lý điều hành, trình độ lao động...), có dự án kinh doanh khả thi và có đạo đức nghề nghiệp, có như vậy thì chất lượng tín dụng mới được nâng cao.
Năng lực tài chính của khách hàng mà cụ thể ở đây là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thể hiện ở khả năng sinh lãi, vốn tự có, tài sản đảm bảo... Năng lực tài chính càng cao thì khả năng trả nợ của doanh nghiệp càng cao, đảm bảo được tính an toàn cho khoản vốn tín dụng.
Năng lực quản lý điều hành và trình độ của lao động trong doanh nghiệp cũng không kém phần quan trọng. Đây là yếu tố mang tính quyết định đến việc sinh lời của khoản tín dụng. Khả năng làm việc, trình độ cũng như năng lực quản lý của doanh nghiệp sẽ làm cho khoản vốn được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp đủ để doanh nghiệp có thể trả lãi cho ngân hàng đầy đủ, đúng hạn và tăng được vốn chủ sở hữu như kế hoạch đã đề ra.
Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế là tiền đề cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế đó. Nền kinh tế phát triển ổn định sẽ làm cho các hoạt động kinh tế diễn ra trôi chảy. Trong nền kinh tế ấy, hoạt động tín dụng sẽ khônh phải chịu ảnh hưởng của lạm phát, khủng hoảng hay những sự biến động bất thường của lãi suất, vì vậy mà chất lượng tín dụng được đảm bảo hơn. Trong trường hợp này thì chất lượng tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào các nhân tố chủ quan tức là các nhân tố thuộc phía NHTM.
Tuy nhiên, để phát triển nền kinh tế thì bất kì quốc gia nào cũng giữ cho mình một mức lạm phát vừa phải phù hợp với sự tăng trưởng kinh tế của chính quốc gia đó. Vì vậy, qui mô tín dụng của các NHTM cấp ra và lãi suất tín dụng phải phù hợp với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Nếu qui mô tín dung mở rộng vượt quá mức tăng của nhu cầu vốn trong nền kinh tế thì rất có thể xảy ra lạm phát, dẫn đến tình trạng đồng tiền mất giá, do đó chất lượng tín dụng bị giảm xuống. Còn nếu lãi suất tín dụng không phù hợp với mức tăng trưởng GDP thì ngân hàng khó có thể mở rộng cho vay. Bên cạnh đó, lãi suất ngân hàng còn phải phù hợp với mức lợi nhuận của từng ngành, để khi cho bất kì một doanh nghiệp trong một ngành cụ thể vay thì lợi nhuận họ thu được từ hoạt động kinh doanh được tài trợ đủ để trả lãi cho ngân hàng và tăng được vốn chủ sở hữu như kế hoạch.
Vì vậy, để nâng cao chất lượng tín dụng thì công tác dự báo và khả năng nắm bắt thông tin thị trường, khả năng ứng phó kịp thời trước những biến động bất thường của nền kinh tế là vô cùng quan trong đỗi với mỗi ngân hàng thương mại.
Môi trường chính trị- xã hội
Môi trường chính trị - xã hội tạo nên sự ổn định trong kinh doanh của tất cả các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế đó. Trong một nền kinh tế dù phát triển đến đâu nhưng không có sự ổn định về chính trị cũng như xã hội thì cũng rất khó có thể thu hút các nhà đầu tư nói chung và các NHTM nói riêng. Vì trong điều kiện như vậy, cho dù lợi nhuận có thể cao nhưng rủi ro cũng rất cao và các nhà đầu tư khó có thể lường trước được những rủi ro, thiệt hại có thể xảy ra. Sự bất ổn về chính trị xã hội còn có thể tác động đến những khoản tín dụng đã cấp phát thông qua sự tác động bất lợi của nó đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đang hoạt động trong môi trường đó.Vì vậy nó làm cho chất lượng tín dụng giảm xuống. Bên cạnh đó, môi trường xã hội còn được phản ánh bằng trình độ dân trí cũng như nhận thức của dân cư đó. Nếu trình độ dân trí thấp, kém hiểu biết thì sẽ giảm hiệu quả sử dụng vốn vay, vì vậy mà hoạt động tín dụng sẽ không đạt được chất lượng.
Môi trường pháp lý
Nhân tố pháp lý bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ, chặt chẽ và thống nhất của các văn bản pháp luật, đồng thời gắn liền với sự thực thi pháp luật một cách nghiêm túc. Thực tiễn kinh tế thị trường đã cho thấy, pháp luật là một bộ phận không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Pháp luật không phù hợp với những yêu cầu phát triển của nền kinh tế thì mọi hoạt động trong nền kinh tế không thể tiến hành trôi chảy được. Việc tạo lập một môi trường pháp lý thuận lợi sẽ giúp cho các NHTM mạnh dạn đầu tư cũng như xây dựng và tiến hành các phương án kinh doanh của mình. Chất lượng tín dụng sẽ được nâng lên nhờ các phương án kinh doanh có hiệu quả giữa ngân hàng và doanh nghiệp, sự hợp tác của họ được pháp luật bảo vệ.
Chương II_Thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNV&N ở NHCT Thanh Xuân
2.1_Khái quát về ngân hàng
2.1.1_Lịch sử hình thành và phát triển
Chi nhánh Ngân hàng Công thương (NHCT) được thành lập tháng 4 năm 1997 trên cơ sở nâng cấp phòng giao dịch Thượng Đình trực thuộc Ngân hàng Công thương Đống Đa. Sau 2 năm hoạt động chi nhánh đã hội đủ các điều kiện, đến ngày 20/2/1999 được tách ra và chính thức trở thành đơn vị thành viên trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam (NHCT VN) sau Quyết định 13/QĐ_HĐQT/NHCT1 của chủ tịch Hội đồng quản trị NHCT VN.
Từ khi được thành lập, NHCT Thanh Xuân luôn bám sát thị trường, nắm bắt kịp thời tình hình biến động. Bên cạnh đó, Ngân hàng cũng luôn chấp hành tốt những chế độ, quy định của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và NHCT VN. Vì vậy, NHCT Thanh Xuân trong quá trình phát triển luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, khẳng định được vị trí của mình, và ngày càng lớn mạnh, góp phần vào sự phát triển chung của toàn bộ hệ thống NHCT VN.
2.1.2_Cơ cấu tổ chức
NHCT Thanh Xuân có 193 cán bộ công nhân viên, trong đó có 132 nữ. Thạc sĩ: 3; Đại học: 137; Cao đẳng: 16; Trung cấp: 19.
NHCT TX có các phòng ban như sau:
1_Kế toán
2_Khách hàng doanh nghiệp
3_Khách hàng cá nhân
4_Tài trợ thương mại
5_Tổng hợp tiếp thị
6_Tổ chức_hành chính
7_Tiền tệ kho quỹ
8_Thông tin điện toán
9_Kiểm tra nội bộ
10_Quĩ tiết kiệm/ Điểm giao dịch
Cơ cấu tổ chức như sau:
GIÁM ĐỐC
Nguyễn Long Hải
PHÓ GIÁM ĐỐC
Đoàn Thị Hồng
PHÓ GIÁM ĐỐC
Hoµng Thị §µn
PHÓ GIÁM ĐỐC
Bùi Hồng Ngọc
Phòng
Kế toán
Phòng
Tài trợ thương mại
Phòng thông tin điện toán
Phòng
Tổ chức - hành chính
Phòng
Khách hàng cá nhân
Phòng Tiền tệ kho quỹ
Phòng
Tổng hợp- tiếp thị
Phòng
Khách hàng doanh nghiệp
Phòng
Tiền tệ kho quỹ
Chức năng , nhiệm vụ của các phòng ban như sau:
a_Phòng khách hàng doanh nghiệp
Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ để khai thác, sử dụng vốn bằng VND và ngoại tệ; xử lý các nghiệp vụ liên quan đến đầu tư, cho vay; quản lý các sản phẩm đầu tư cho vay phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và các hướng dẫn của Nhà nước, của ngành NH và của NHCT VN.
b_Phòng khách hàng cá nhân
Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các cá nhân để huy động vốn bằng VND và ngoại tệ; xử lý các nghiệp vụ liên quan đến cho vay; quản lý các sản phẩm cho vay phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành của NHNN và các hướng dẫn của NHCT VN; quản lý hoạt động của các quỹ tiết kiệm, điểm giao dịch.
c_Phòng Tổ chức_hành chính
Là phòng nghiệp vụ thực hiện công tác tổ chức cán bộ và đào tạo tại chi nhánh theo đúng chủ trương chính sách của Nhà nước và quy định của NHCTVN. Thực hiện công tác quản trị và văn phòng phục vụ hoạt động kinh doanh tại chi nhánh, thực hiện công tác bảo vệ, an ninh an toàn Chi nhánh.
d_Phòng Tổng hợp_tiếp thị
Là phòng nghiệp vụ tham mưu cho GĐ chi nhánh dự kiến kế hoạch kinh doanh, tổng hợp, phân tích đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh, thực hiện báo cáo hoạt động hàng năm của chi nhánh.
e_Phòng Tài trợ thương mại
Là phòng nghiệp vụ tổ chức thực hiện nghiệp vụ về tài trợ thương mại tại chi nhánh theo quy định của NHCTVN. Phòng có nhiệm vụ: thực hiện nghiệp vụ về tài trợ thương mại theo hạn mức được cấp; thực hiện nghiệp vụ về mua bán ngoại tệ; phối hợp với phòng Kế toán thực hiện chuyển tiền nước ngoài...
f_Phòng Kế toán
Là phòng nghiệp vụ thực hiện các giao dịch trực tiếp với khách hàng. Cung cấp các dịch vụ ngân hàng liên quan đến nghiệp vụ kế toán, xử lý hạch toán các giao dịch theo quy định của NH và NHCTVN. Quản lý và chịu trách nhiệm đối với hệ thống giao dịch trên máy; quản lý quỹ tiền mặt đến từng giao dịch viên. Thực hiện nhiệm vụ tư vấn cho khách hàng về sử dụng các sản phẩm của NH. Đồng thời giúp cho GĐ thực hiện đúng qiu định của NH và của NHCTVN.
g_Phòng Tiền tệ kho quỹ
Là phòng nghiệp vụ quản lý an toàn kho quỹ, quản lý quỹ tiền mặt theo quy định của NHNN và NHCT. Ứng và thu tiền cho các Quỹ tiết kiệm, các Điểm giao dịch trong ca ngoài quầy, thu chi tiền mặt cho các doanh nghiệp có thu, chi tiền mặt lớn.
h_ Phòng Thông tin điện toán
Thực hiện công tác quản lý, duy trì hệ thống thông tin điện toán tại chi nhánh. Bảo trì, bảo dưỡng máy tính đảm bảo thông suốt hoạt động của hệ thống mạng, máy tính của chi nhánh.
i_Quĩ tiết kiệm
Các quỹ tiết kiệm thuộc phòng Khách hàng cá nhân, chức năng, nhiệm vụ và quy trình nghiệp vụ thực hiện theo Quyết định số 265/QĐ_NHCT9 ngày 24/6/1999 của Tổng Giám đôc NHCTVN về việc ban hành qiu chế tổ chức và hoạt động của quĩ tiết kiệm (Quĩ tiết kiệm số 31, 40, 44, 45, 47, 66, 67, 68, 78, 79, 80, 82).
2.1.3_Sơ lược về hoạt động kinh doanh
Trong những năm vừa qua, nhằm chuẩn bị cho sự hội nhập nền kinh tế thế giới nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng, Chính phủ đã có nhiều chính sách tạo thuận lợi cho việc phát triển mở rộng hoạt động kinh doanh của các ngân hàng nước ngoài cũng như các Ngân hàng thương mại Cổ phần (NHTM CP). Dẫn đến trong thời gian qua, các ngân hàng nước ngoài và các NHTM CP đồng lạot tăng vốn điều lệ và mở rộng quy mô, mạng lưới hoạt động. Đây là một thách thức rất lớn đối với các NHTM Nhà nước.
Đứng trước những khó khăn thách thức trong bối cảnh nền kinh tế thế giới cũng như trong nước có nhiều biến động. Bám sát sự chỉ đạo của NHNN, của NHCT VN và sự ủng hộ hợp tác của các bạn hàng, Chi nhánh đã nắm bắt cơ hội, vượt qua thử thách, duy trì ổn định hoạt động kinh doanh. Nhờ đó, trong những năm qua Chi nhánh vẫn đạt được những kết quả đáng khích lệ.
a_Hoạt động huy động vốn
Tổng nguồn vốn huy động và đi vay (bao gồm VNĐ và ngoại tệ quy đổi) đến ngày 31/12/2005 đạt 2945 tỷ đồng bằng 106,4% so với năm 2004 và bằng 99% chỉ tiêu kế hoạch năm 2005. Trong đó huy động ngoại tệ quy đổi đạt 370 tỷ đồng, tăng 12% so với cùng kỳ năm trước và bằng 101,3% so với kế hoạch năm 2005.
Năm
Tổng vốn huy động
(triệu đồng)
2002
2003
2004
2005
0
1108.593
2767.958
2945.000
Biểu đồ 1 - Biểu đồ Tồng nguồn vốn huy đồng
2767.958 2740.174
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh từ năm 2002 đến 2005)
Năm 2005 là năm vô cùng khó khăn trong việc huy động vốn với các NHTM nói chung cũng như NHCT Thanh Xuân nói riêng. Trước sức ép về nhu cầu vốn, các NHTM trên địa bàn liên tục mở rộng quy mô cũng như mạng lưới hoạt động cùng với việc tăng lãi suất huy động, kết hợp với nhiều chính sách khuyến mãi khách hàng hấp dẫn nhằm thu hút khách hàng. Bên cạnh đó, chênh lệch lãi suất huy động giữa các NHTMCP và NHTMNN luôn ở mức rất cao từ 0,5% đến 0,9% đã gây ra rất nhiều khó khăn đối với các NHTMNN trong đó có NHCT Thanh Xuân.
Đặc biệt tại địa bàn quận Thanh Xuân, địa bàn hoạt động chính của Chi nhánh, tuy là một quận tập trung chủ yếu là dân lao động có thu nhập thấp và các công ty có quy mô nhỏ, nhưng trong năm qua đã có rất nhiều NHTMNN cũng như NHTMCP mở các điểm giao dịch nhằm khai thác địa bàn. Điều này đã gây ra áp lực rất lớn đối với Chi nhánh trong việc huy động vốn từ khu vực dân cư, cũng như các đơn vị sản xuất trên địa bàn.
Do hoạt động kinh doanh ngày càng khó khăn nên các Doanh nghiệp đã tận dụng tối đa nguồn tài chính của mình đã làm cho nguồn tiền gửi của doanh nghiệp trong thời gian qua giảm đi rõ rệt. Tuy vậy bằng những biện pháp cụ thể, kịp thời, phù hợp với tình hình thực tế, Chi nhánh đã thực hiện tốt công tác huy động trong thời gian qua.
Có được những thành quả trên là do Ban lãnh đạo chi nhánh đã kịp thời đưa ra nhiều biện pháp kịp thời, phù hợp như:
- Quán triệt toàn thể cán bộ nhân viên nâng cao tinh thần trách nhiệm, chấn chỉnh tác phong giao dịch văn minh, lịch sự nhằm nâng cao uy tín, tạo niềm tin cho khách hàng.
- Mở rộng mạng lưới các điểm giao dịch hoạt động rộng khắp.
- Điều chỉnh lại các điểm giao dịch, quỹ tiết kiệm theo hướng tập trung vào những khu vực có tiềm năng, đông dân cư.
- Mở rộng chỉnh trang lại các địa điểm giao dịch, quỹ tiết kiệm, trang bị máy móc thiết bị.
Đặc biệt trong thời gian qua, Chi nhánh đã triển khai chương trình hiện đại hoá tới từng điểm giao dịch, quỹ tiết kiệm tạo ra một nét mới trong hoạt động Ngân hàng, văn minh, hiện đại, nhanh chóng, thuận tiện cho khách hàng, làm tăng khả năng cạnh tranh và uy tín.
Trong năm 2005, Ngân hàng đã mở lại Quỹ tiết kiệm 81, điều chỉnh địa điểm Quỹ tiết kiệm 40 và Quy tiết kiệm 79, và chỉnh trang lại toàn bộ các Quỹ tiết kiệm, điểm giao dịch.
Để đáp ứng nhu cầu chi trả do có sự điều chỉnh tăng lương của Chính phủ, Bảo hiểm xã hội phải rút về 300 tỷ đồng, đã dẫn đến tổng tiền vay của Chi nhánh giảm đi đáng kể. Để bù đắp vào phần giảm sút trên, Chi nhánh đã nỗ lực triển khai nhiều biện pháp cụ thể như tăng cường mối quan hệ với những tổ chức có nguồn tiền nhàn rỗi lớn như: Tổng công ty Xăng dầu, Công ty Tài chính Công nghiệp tàu thuỷ, Cục tần số Việt Nam.
Chi nhánh đã đặc biệt chú trọng khai thác nguồn tiền gửi dân cư. Đây là một kênh huy động có tính chiến lược, ổn định, bền vững đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Với các chính sách lãi suất phù hợp, linh hoạt đồng thời kết hợp với các chương trình khuyến mại hấp dẫn của NHCTVN cũng như của chi nhánh, cùng với sự phục vụ nhiệt tình chu đáo của cán bộ giao dịch. Xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với các ban quản lý dự án, bám sát chặt chẽ tiến trình triển khai các dự án khi thực hiện giải phóng mặt bằng để có kế hoạch nhằm khai thác nguồn tiền gửi.
Bảng1
Bảng tiền gửi dân cư
Năm2002
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Tổng tiền gửi dân cư ( triệu đồng)
776.195
866.714
932.456
1007.000
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh từ năm 2002 đến 2005)
Năm 2005, tổng nguồn vốn huy động tiền gửi dân cư đạt 1007 tỷ đồng tăng 214 tỷ đồng, đạt mức tăng 25,1% so với đầu năm, chiếm 66% tổng nguồn vốn. Năm 2004 bằng 106,3% năm 2003 và năm 2003 bằng 113,1% năm 2002.
Trong những năm qua, đặt biệt là năm 2005, ngoài việc bám sát thị trường để có những điều chỉnh lãi suất phù hợp, các phòng nghiệp vụ đã làm tốt công tác chăm sóc khách hàng. Thực hiện các chương trình tặng quà khuyến mại đối với những khách hàng gửi tiền tiết kiệm...Thực hiện các dịch vụ hỗ trợ nhằm đa dạng hoá các hình thức huy động tạo thuận lợi cho khách hàng và nâng cao khả năng cạnh tranh.
Trong bối cảnh nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, nguồn huy động khan hiếm, cùng với sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng trong việc huy động vốn, những năm qua Chi nhánh NHCT Thanh Xuân luôn thực hiện tốt hoạt động kinh doanh và giữ tỷ trọng cao nộp vốn về Trung ương với số bình quân là 1200 tỷ đồng.
b_Hoạt động đầu tư cho vay
Với mục tiêu tăng trưởng ổn định, đảm bảo an toàn vốn tín dụng, các phòng nghiệp vụ tập trung rà soát, xếp hạng doanh nghiệp, thông qua phân tích tình hình tài chính, tiềm năng của từng doanh nghiệp. Qua đó có kế hoạch xác định hạn mức tín dụng cho từng doanh nghiệp, giảm dần dư nợ đối với những doanh nghiệp có tình hình tài chính yếu. Đồng thời tích cực bám sát thị trường, mở rộng quan hệ đối với những khách hàng có tiềm năng, tình hình tài chính ổn định, có chiến lược kinh doanh tốt như: Tổng công ty Lương thực miền Bắc; Tổng công ty Điện lực Việt Nam. Tập trung khai thac, tiếp cận các dự án có tính khả thi cao, hiệu quả tôt để đầu tư nhằm nâng cao thị phần, hạn chế rủi ro. Bên cạnh đó, Ngân hàng đã chú trọng quan tâm đến các đối tượng khách hàng vừa và nhỏ, nhằm đa dạng hoá các đối tượng khách hàng.
Mặt khác, Chi nhánh luôn bám sát tình hình lãi suất huy động trên thị trường đặt biệt trong thời gian qua để có biện pháp điều chỉnh lãi suất cho vay nhằm đảm bảo kinh doanh có hiệu quả mang lại lợi nhuận cho Chi nhánh.
Tổng các khoản đầu tư cho vay năm 2005 đạt 1602,759 tỷ đồng, năm 2004 là 1250,45 tỷ đồng, năm 2003 là 1099,279 tỷ đồng và năm 2002 là 983,176 tỷ đồng.
Về cơ cấu đầu tư như sau: (bảng2)
Đơn vị: triệu đồng
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Tổng các khoản đầu tư cho vay
983.176
1099.279
1250.450
1602.759
Dư nợ cho vay nền kinh tế
903.684
1088.740
1231.391
1594.100
Dư nợ cho vay ngắn hạn
658.436
593.187
608.912
672.600
Dư nợ cho vay trung, dài hạn
244.741
459.554
622.479
921.500
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh từ năm 2002 đến 2005)
Tuy nhiên, năm 2005 chi nhánh đã phát sinh nợ gia han là 94,9 tỷ, tăng 18 tỷ so với năm 2004 và nợ quá hạn là 53 tỷ đồng.
Đây là một thách thức rất lớn đối với Chi nhánh. Xác định được những khó khăn trên, toàn Chi nhánh đã nỗ lực cùng với các doanh nghiệp tìm mọi biện pháp tháo gỡ khó khăn, đồng thời thường xuyên theo dõi doanh nghiệp, bám sát từng công trình, hạng mục, dự án đầu tư, kiểm soát nguồn tài chính của doanh nghiệp để có biện pháp thu nợ. Bên cạnh đó, Chi nhánh còn thực hiện các biện pháp tăng cường bổ sung tài sản bảo đảm nhằm nâng cao trách nhiệm của Doanh nghiệp đối với khoản vay.
Do đó, năm 2005 tỷ lệ đầu tư cho vay có tài sản bảo đảm đạt 68%, tăng 31% so với cùng kì năm 2004
Ngoài ra, công tác kiểm tra kiểm soát tín dụng trong thời gian qua đã được nâng cao rõ rệt. Các cán bộ đã đi sâu kiểm tra từng công trình, dự án vay vốn, giám sát giải ngân theo tiến độ thi công từng công trình, từng hạng mục đảm bảo doanh nghiệp sử dụng vốn vay đúng mục đích. Công tác bảo lãnh chỉ phát hành khi đã xác định nguồn gốc vốn của chủ đầu tư.
Năm 2005, Chi nhánh đã ký hợp đồng bảo lãnh với số lượng 228 món tăng 69 món tương ứng với số tiền bảo lãnh là 104 tỷ đồng, tăng 20% so với năm 2004, giải toả 251 món với tổng số tiền tương ứng là 993 tỷ đồng. Toàn bộ số dư bảo lãnh trên đều nằm trong tầm kiểm soát của Ngân hàng. Trong năm 2005 chưa có trường hợp nào Ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ trả thay.
c_Hoạt động kinh doanh đối ngoại- Tài trợ thương mại
Việc các NHTMCP tăng cường đẩy mạnh phát triển mạnh các dịch vụ ngân hàng với những chính sách "thông thoáng" đặc biệt trong lĩnh vực tài trợ vốn , mở L/C đã làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh đối ngoại và tài trợ thương mại của Chi nhánh.
Nhu cầu ngoại tệ cung ứng rất lớn, trong khi việc huy động ngoại tệ từ nguồn tiền gửi của các tổ chức, cá nhân gặp nhiều khó khăn. Chi nhánh chủ yếu phải mua lại từ các ngân hàng khác để đáp ứng nhu cầu vốn ngoại tệ của mình. Doanh số mua bán ngoại tệ đến 31/12/2005 đạt 73,8 triệu USD tăng 14% so với năm 2004. Thu lãi từ mua bán ngoại tệ đạt trên 467 triệu đồng.
Trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, 100 giao dịch được thực hiện an oàn chính xác và chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp Quốc gia và thông lệ Quốc tế. Việc chi trả kiều hối, thanh toán Western Union chính xác, an toàn. Năm 2005, Chi nhánh đã thực hiện chi trả kiều hối và thanh toán Western Union là 379 món với giá trị là 1033000 USD. Trong năm 2005, Chi nhánh đã thực hiện phát hành 30 L/C nhập khẩu, giá trị trên 7,5 triệu USD. Thông báo 5 L/C Xuất- Nhập khẩu với tổng giá trị trên 8,7 triệu USD,
Công tác phát hành bảo lãnh cũng được phát triển rất mạnh , đay là dịch vụ đem lại nguồn thu phí dịch vụ rất lớn. Tổng số bảo lãnh phát hành năm 2005 là 228 món với số dư là 104.787 triệu USD.
Các nghiệp vụ khác cũng được Chi nhánh rất quan tâm, chú trọng như nghiệp vụ Nhờ thu đến và đi. Cụ thể là đã thực hiện thông báo 40 món với giá trị trên 1,1 triệu USD, thanh toán 47 món với giá trị cũng trên 1,1 triệu USD.
Công tác về thẻ tín dụng Quốc tế cũng luôn được quan tâm, phát triển, Chi nhánh đã duy trì tốt hoạt động tại các điểm chấp nhận thẻ, đặc biệt là tại Công ty cổ phần Quốc tế Hoàng Gia với doanh thu đạt 333.668 USD, góp phần tăng nguồn thu phí dịch vụ cho Chi nhánh. Tổng thu phí dịch vụ từ dịch vụ kinh doanh đối ngoại đạt 1724 triệu đồng.
d_Kết quả kinh doanh
. Lợi nhuận năm 2004 là 38,4 tỷ đồng; năm 2003 là 19,13 tỷ đồng và năm 2002 10,28 tỷ đồng. Hoạt động tài chính đến ngày 31/12/2005 đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Lợi nhuận (chưa tính dự phòng rủi ro) đạt 40,2 tỷ đồng tăng 1,8 tỷ đồng so với năm 2004, bằng 104,1% kế hoạch Trung ương giao. Như vậy, lợi nhuận năm 2005 gấp 4,62 lần lợi nhuận năm 2002.
Nămmm
Lợi nhuận( Triệu đồng)
40.185
38.417
19.133
10.277
2002
2003
2004
2005
BIỂU ĐỒ 2 - BIỂU ĐỒ LỢI NHUẬN HÀNG NĂM
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh từ năm 2002 đến 2005)
Tuy nhiên, việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro theo sự._.tiện thông tin đại chúng, qua các mối quan hệ của Chi nhánh cũng như của từng cán bộ công nhân viên toàn chi nhánh.
Tập trung nâng cao nghiệp vụ, tác phong phục vụ của từng cán bộ giao dịch.
Khen thưởng thoả đáng với những tập thể, cá nhân có thành tióch trong công tác khai thác huy động vốn.
Về công tác đầu tư tín dụng:
Phấn đấu tăng trưởng dư nợ lành mạnh, an toàn và hiệu quả đối với mọi thành phần kinh tế. Phân tích đánh giá thế mạnh từng khu vực, từng ngành nghề, từng doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, để chủ động tiếp thị.
Phải luôn quan tâm đến chất lượng tín dụng, coi trọng tính an toàn và khả năng thu hồi nợ của các khoản vay.
Tích cực mở rộng quan hệ với những khách hàng tiềm năng, có tình hình tài chính lành mạnh, ổn định, có chiến lược kinh doanh tốt để đầu tư. Làm tốt công tác thẩm định, lựa chọn những dự án có tính khả thi cao để đầu tư.
Xây dựng được chiến lược kinh doanh cụ thể, cũng như xác định được lực lượng khách hàng chiến lược của Chi nhánh.
Mở rộng đa dạng hoá các đối tượng khách hàng đầu tư cho vay nhằm giảm thiểu rủi ro.
Cơ cấu lại khách hàng theo hướng giảm dần dư nợ cho vay đối với những khách hàng có tình hình tài chính yếu kém, phương án kinh doanh không hiệu quả. Đối với những khách hàng có nợ gia hạn, nợ quá hạn, tập trung đôn đốc, theo dõi chặt chẽ các nguồn tài chính của Doanh nghiệp. Bám sát tình hình hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp, theo sát từng công trình, từng hạng mục, từng dự án đầu tư để đề ra biện pháp thu nợ. Tăng cường bổ sung TSBĐ nhằm giảm thiểu rui ro có thể xảy ra.
Tăng cường làm tốt công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động tín dụng. Cải tiến phương pháp, chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, phát hiện và chỉ đạo kiên quyết khắc phục sai sót, tồn tại.
Về công tác phát triển các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng
Quan tâm đến chất lượng các loại hình dịch vụ Ngân hàng để nâng cao sức cạnh tranh, mặt khác nhằm tăng tỷ trọng thu dịch vụ phí ngân hàng trong tổng thu nhập.
Chú trọng tập trung giới thiệu phát triển mạnh các loại hình dịch vụ ngân hàng như dịch vụ chuyển tiền, thu hộ, dịch vụ chi trả kiều hối, dịch vụ bảo lãnh, mở L/C. Đặc biệt phát triển mạnh các dịch vụ cung cấp các sản phẩm thẻ như thẻ ATM. thẻ VISA-MASTER. Mở rộng các điểm chấp nhận thẻ.
Tăng cường đẩy mạnh việc đàm phán ký kết các hợp đồng cung cấp dịch vụ với những khách hàng có quan hệ với Chi nhánh, đặc biệt là những khách hàng có quan hệ tín dụng.
3.2_Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại NHCT Thanh Xuân
Hội nhập quốc tế đã và đang trở thành yêu cầu bức xúc, tất yếu đối với mỗi quốc gia trong điều kiện xu thế toàn cầu hoá mọi hoạt động thương mại, dịch vụ. Làm thế nào để tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt với những đối thủ cạnh tranh đầy tiềm lực và giàu kinh nghiệm đang là một câu hỏi lớn đặt ra cho các doanh nghiệp nói chung và ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam nói riêng. Một câu trả lời khá đơn giản nhưng lại không dễ thực hiện cho tất cả các doanh nghiệp, các NHTM Việt Nam dù là NHTM quốc doanh đến NHTM cổ phần, hay đơn vị sản xuất kinh doanh đó là phải nỗ lực nâng cao sức cạnh tranh, tăng cường hợp tác để có thể hội nhập thắng lợi. Có rất nhiều phương thức khác nhau để nâng cao sức mạnh cạnh tranh. Mà một trong những phương thức hiệu quả nhất đó là nâng cao chất lượng tín dụng.
3.2.1_Xây dựng chính sách tín dụng phù hợp đối với DNV&N
Chính sách tín dụng là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng của NHTM. Hiện nay, các ngân hàng chưa thực sự chú ý xây dựng một chính sách tín dụng dành riêng cho DNV&N mà mới chỉ là chính sách tín dụng áp dụng chung cho các loại hình doanh nghiệp. Vì vậy, để có thể thu hút khách hàng DVV&Nvà nâng cao chất lượng tín dụng cho đối tượng khách hàng này thì ngân hàng cần phải xây dựng một chính sách tín dụng phù hợp với DNV&N.
Hiện nay, các DNV&N rất khó khăn trong vấn đề TSĐB khi vay vốn ngân hàng. Thực tế cho thấy, với các DNV&N lần đầu vay vốn ngân hàng thì buộc phải có TSĐB, giá trị khoản vay không được quá 70% giá trị khoản vay. Mà vốn của DNV&N thấp. Do đó, ngân hàng nên nới lỏng hơn quy định cho vay trên cơ sở đảm bảo các nguyên tắc tín dụng. Như việc áp dụng cho vay có đảm bảo bằng tài tài sản hình thành từ vốn vay, như vậy vừa giải quyết được khó khăn cho DNV&N vừa đảm bảo an toàn tín dụng cho ngân hàng.
Chính sách khách hàng cũng là một phần của chính sách tín dụng. Hiện nay, Ngân hàng đã chú trọng đến DNV&N nhưng đứng trước sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng khác nhất là các ngân hàng ngoài quốc doanh thì Ngân hàng nên linh động hơn. Ngân hàng nên chủ động tìm kiếm khách hàng tiềm năng hoạt động kinh doanh có hiệu quả, trước hết là những doanh nghiệp trên địa bàn quận, sau đó là những doanh nghiệp ở Hà Nội, mở rộng ra các tỉnh lân cận.
Hiện nay, nước ta đang trong quá trình phát triển, vốn đầu tư luôn là vấn đề cấp bách đối với các doanh nghiệp nhất là đối vớí các DNV&N. Việc ngân hàng chủ động tiếp cận tới các doanh nghiệp không chỉ giúp các doanh nghiệp này mạnh dạn hơn trong đầu tư, mà Ngân hàng còn có thể mở rộng tín dụng, thắt chặt thêm quan hệ giữa hai bên. DN làm ăn có hiệu quả từ sự tài trợ của ngân hàng sẽ đem lại lợi nhuận cho ngân hàng, nâng cao chất lượng tín dụng. Để chủ động tiếp cận khách hàng thì ngân hàng nên tham gia các hội nghị của các doanh nghiệp để có thể lựa chọn và tiếp cận được với những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tốt. Các cán bộ tín dụng, cán bộ giao dịch nên tự giới thiệu sản phẩm tín dụng khi có cơ hội tiếp xúc với doanh nghiệp, chủ động đưa ra những lời đề nghị.
3.2.2_Nâng cao công tác thẩm định khách hàng và phương án, dự án vay vốn
Thẩm định phương án, dự án sản xuất kinh doanh là bước đầu tiên trong quy trình tín dụng. Đây là bước quan trọng nhất, quyết định chất lượng của hoạt động tín dụng. Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất nhưng rủi ro cao nhất cho NHTM. Có nhiều khoản tài trợ mà tổn thất có thể chiếm phần lớn vốn của chủ, đẩy ngân hàng tới phá sản. Do vậy, các ngân hàng phải cân nhắc kỹ lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lời khi quyết định tài trợ. Đó là một trong những nhiệm vụ của công tác thẩm định trước khi tài trợ. Nội dung của thẩm định nhằm xác định uy tín, tư cách pháp lý, sức mạng tài chính và khả năng thanh toán của người vay, ... trong quá khứ, hiện tại và tương lai, hiệu quả của dự án, ... .
Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân hàng, khách hàng đòi hỏi ngân hàng phải thực hiện quy trình thẩm định nhanh, gọn và tích kiệm chi phí. Do vậy, toàn bộ quy trình phải nhằm thực hiện theo nguyên tắc tín dụng ngân hàng và thực hiện đúng theo chiến lược tín dụng đã được đề ra, cũng như phải linh hoạt trong với tưng trường hợp cụ thể.
Hiện nay, rất ít các DNV&N có dự án đầu tư trung và dài hạn hoàn chỉnh được tài trợ bởi NHTM mà các DN này mới chỉ vay vốn ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn lưu động ngắn hạn. Khả năng xây dựng một chiến lược đầu tư dài hạn là khá khó khăn bởi năng lực tài chính và khả năng tiếp cận các nguồn vốn của NHTM. Trước tình hình đó, nếu cán bộ ngân hàng nhận thấy dự án có triển vọng thì họ nên tư vấn giúp đỡ DN hoàn chỉnh lại phương án đầu tư. Công việc này yêu cầu cán bộ thẩm định không chỉ thông thạo về nghiệp vụ mà còn phải có hiểu biết sâu và rộng nhiều lĩnh vực khác nhau, những ngành nghề kinh doanh của khách hàng cũng như các quy định pháp luật về lĩnh vực đầu tư đó.
Trong quá trình đánh giá tính khả thi của dự án, cán bộ thẩm định cần phải linh hoạt lựa chọn các chỉ tiêu tài chính đồng thời phải có sự so sánh đối chiếu với ngành nghề tương ứng. Khi đánh giá rủi ro của dự án, cán bộ thẩm định cũng cần có kỹ năng phân tích, dự báo những biến động môi trường kinh doanh của DN để có thể đo lường một cách tốt nhất các yếu tố bên ngoài có thể tác động đến hiệu quả của dự án. Đối với dự án có thời gian dài thì nhất thiết cán bộ tín dụng phải đặt dự án trong xu thế biến động của môi trường để phân tích.
Như vậy để nâng cao chất lượng tín dụng thì công tác thẩm định dự án, khách hàng đòi hỏi phải có quy trình chặt chẽ, thống nhất, khách quan và linh hoạt. Thời gian và chi phí thẩm định cũng là những yếu tố cần được chú ý bên cạnh chất lượng thẩm định. Hiện nay, đứng trước môi trường cạnh tranh các ngân hàng cần phải đảm bảo cả 3 yếu tố: chất lượng, thời gian và chi phí thẩm định.
3.2.3_Nâng cao chất lượng thông tin tín dụng
Trong một nền kinh tế hiện đại, thông tin đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với bất kỳ quyết định nào của DN đặc biệt trong lĩnh vực tiền tệ. Thông tin cũng được coi là nguồn tài nguyên quý giá, vì thế việc khai thác và sử dụng nó tác động rất lớn tới hoạt động của NHTM. Trong hoạt động tín dụng của NHTM, thông tin cần phải đầy đủ, kịp thời và chính xác.
Thông tin có thể được thu thập từ 3 nguồn chủ yếu là: phỏng vấn trực tiếp, thông qua các trung gian mua hoặc tìm kiếm, thông qua các thông tin có được báo cáo từ người vay. Ngân hàng sử dụng các thông tin này nhằm đánh giá khả năng tài chính của khách hàng, khả năng sinh lời của dự án và những rủi ro có thể xảy ra nếu khách hàng không trả hoặc trả không đầy đủ, giá trị tài sản đảm bảo có thể phát mại khi cần thiết.
Để có thể nâng cao chất lượng thông tin tín dụng thì trước hết ngân hàng phải tự xây dựng cho mình một hệ thống thông tin khách hàng, không chỉ là những khách hàng quen thuộc đã có quan hệ tín dụng với ngân hàng mà còn bao gồm cả những khách hàng tiềm năng. Các thông tin về khách hàng cần được phân loại ngay từ khi thu thập. Cần đặc biệt chú ý tới khách hàng mục tiêu. Bên cạnh đó, ngân hàng nên tạo quan hệ chặt chẽ với trung tâm tín dụng NHNNVN CIC và các ngân hàng khác cùng hệ thống. Ngoài việc thu thập các thông tin về khách hàng thì ngân hàng cũng cần phải tìm hiểu thông tin thị trường, thông tin về các chính sách, quy định của NN, những thông tin về các đối thủ cạnh tranh... Sau khi thu thập thông tin thì việc xử lý, phân loại thông tin cũng vô cùng quan trọng. Nó giúp cho người sử dụng có thể khai thác thông tin một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất.
Hiện nay, môi trường kinh doanh không ngừng biến động do nước ta đang trong quá trình phát triển, hội nhập với kinh tế thế giới, tình hình kinh tế cũng như tình hình chính trị của nhiều nước không ổn định, nền kinh tế trong nước lại có lạm phát khá lớn trong 2 năm gần đây. Những điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhất là đối với các DNV&N do đặc thù của loại hình doanh nghiệp này, do vậy chất lượng tín dụng DNV&N của ngân hàng cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ. Điều này càng đòi hỏi công tác thu thập, xử lý thông tin của ngân hàng phải được nâng cao nhằm dự báo trước xu hướng biến động của môi trường kinh doanh trong thời gian tới, trên cơ sở đó giảm thiểu rủi ro tín dụng.
3.2.4_Nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ
Yếu tố con người có tầm quan trọng đặc biệt trong mọi hoạt động xã hội nói chung và hoạt động kinh tế nói riêng. Đặc biệt trong hoạt động ngân hàng thương mại, yếu tố cán bộ có vai trò rất quan trọng bởi vì khác với các hoạt động kinh doanh khác, sự hoạt động của con người phải căn cứ vào đặc điểm khác nhau của đối tượng kinh doanh chủ yếu, còn trong kinh doanh ngân hàng, đối tượng kinh doanh chủ yếu là tiền tệ. Vì vậy, yêu cầu đối với cán bộ ngân hàng không chỉ đề cao ở chuyên môn nghiệp vụ mà còn phải ở cả đạo đức nghề nghiệp.
Trong chiến lược phát triển và đào tạo nhân lực cần đánh giá chính xác thực trạng của đội ngũ cán bộ công nhân viên, phân loại theo nhiều cấp độ khác nhau, theo từng trình độ và từng loại nghiệp vụ. Có những hệ thống gồm nhiều chỉ tiêu đánh giá đúng trình độ năng lực của cán bộ ở mỗi vị trí công tác.
Để nâng cao chất lượng tín dụng thì không chỉ cần nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ tín dụng mà cả đôi ngũ cán bộ của toàn ngân hàng. Vì hoạt động chủ yếu của một NHTM là hoạt động tín dụng, hoạt động này liên quan đến rất nhiều khâu của hệ thống. Do đó để hoạt động tín dụng được tiến hành một cách trôi chảy và nhanh chóng thì cần phải có một lực lượng cán bộ có trình độ chuyên môn cao, tác phong làm việc hiện đại trong toàn ngân hàng.
Trong kế hoạch đào tạo của ngân hàng cần tổ chức các lớp tập huấn ở trong nước, đầu tư hợp lý cho việc đào tạo và nâng cao trình độ của cán bộ. Học tập, khảo sát kinh nghiệm của các ngân hàng khác được đánh giá là có chất lượng tín dụng cao.
Chiến lược phát triển và đào tạo nhân sự phải được đặt trong sự phát triển chung của toàn ngân hàng thông qua chính sách tuyển dụng, đào tạo, lương, thưởng, bố trí sử dụng điều chuyển theo quy định, phù hợp nhằm xây dựng, phát triển nâng cao và hoàn thiện đội ngũ cán bộ phù hợp với yêu cầu phát triển của ngân hàng, và yêu cầu ngày càng cao của khách hàng. Đó phải là đội ngũ cán bộ được bố trí đúng chuyên môn, khả năng, có trình độ nghiệp vụ, có năng lực phẩm chất tốt, có ý thức kỷ luật và trách nhiệm nghề nghiệp cao, có tác phong làm việc khoa học.
3.2.5_Tiếp tục đẩy mạnh công tác hiện đại hoá ngân hàng
Hiện đại hoá ngân hàng là công việc tất yếu của mỗi ngân hàng nhằm tạo cho mình một chỗ đứng trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh gay gắt. Hiện nay, các ngân hàng Việt Nam đang đẩy mạnh hiện đại hoá và ngân hàng Công thương Thanh Xuân không phải là ngoại lệ. Năm 2005, ngân hàng đã nâng cấp toàn bộ hệ thống máy vi tính của ngân hàng. Tuy nhiên, đây mới chỉ là bước đầu tiên của ngân hàng trong quá trình hiện đại hoá.
Việc hiện đại hoá NHCT Thanh Xuân phải đặt trong qui trình hiện đại hoá của toàn hệ thống NHCT VN. Các trang thiết bị nhất là hệ thống máy vi tính, hệ thống máy móc thông tin điện toán phải đồng bộ với nhau trong ngân hàng và trong cả hệ thống NHCT VN để việc trao đổi kết nối được thuận lợi. Các phầm mềm ứng dụng phải hiện đại và có thể kết nối được với các ngân hàng khác không chỉ trong hệ thống NHCT mà còn là các ngân hàng lớn khác như Vietcombank. Đi đôi với việc hiện đại hoá là công tác bảo mật. Công nghệ càng hiện đại và càng kết nối rộng rãi thì công tác bảo mật càng khó khăn. Do vậy, khi hiện đai hoá, nâng cấp trang thiết bị máy móc thì công tác bảo mật cũng phải được nâng lên đi đôi với công tác hiện đại hoá ngân hàng.
Ngoài ra, để có thể bắt kịp với các ngân hàng lớn trong nước, và xa hơn là các ngân hàng trong khu vực, thì NHCT Thanh Xuân không chỉ nâng cấp trang thiết bị máy móc mà còn nên đào tạo cán bộ một cách bài bản để họ có thể tận dụng hết các tính năng của máy. Hiện đại hoá ngân hàng vừa là hiện đại hoá trang thiết bị, cơ sở vật chất của ngân hàng và vừa phải hiện đại hoá cả công tác quản lý, tác phong làm việc của cán bộ công nhân viên đặc biệt là tác phong của những cán bộ thường xuyên tiếp xúc với khách hàng.
Việc hiện đại hoá tác phong làm việc của cán bộ cũng như công tác quản lý của ngân hàng phải thực hiện trong toàn ngân hàng chứ không phải chỉ riêng đối với hoạt động tín dụng. Việc hiện đại hoá giúp cho hoạt động tín dụng diễn ra trôi chảy, nhanh chóng, chính xác, thoả mãn được tốt nhất nhu cầu và mong muốn của khách hàng đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng. Điều này làm cho chất lượng tín dụng được nâng lên.
3.2.6_Đẩy mạnh công tác marketing , quảng cáo
Định hướng thị trường đã trở thành điều kiện tiên quyết trong hoạt động của các NHTM ngày nay. Có gắn với thị trường, hiểu được sự vận động của thị trường, nắm bắt được sự biến đổi liên tục của nhu cầu khách hàng trên thị trường cũng như khả năng tham gia của bản thân ngân hàng mình thì mới có thể có những chính sách hợp lý nhằm phát huy tối đa nội lực, giành lấy thị phần. Như vậy NHTM nào có độ gắn kết với thị trường càng cao, khả năng thành công của ngân hàng đó càng lớn và ngược lại. Bản chất của marketing là quá trình xác định các khả năng tiềm lực của ngân hàng cũng như tìm hiểu nhu cầu của thị trường trên cơ sở đó xác lập và triển khai các giải pháp marketing cụ thể. Nói cách khác, toàn bộ các hoạt động gắn kết giữa ngân hàng và thị trường như đã nêu ở trên đều thuộc phạm vi của hoạt động marketing. Vì vậy, có thể khẳng định marketing là công cụ kết nối hoạt động của NHTM với thị trường.
Đặc điểm của dịch vụ ngân hàng là rất dễ bắt chước và bắt chước một cách hợp pháp do vậy rất khó giữ bản quyền. Mặt khác, so với các ngân hàng thương mại trên thế giới, nhìn chung các dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam hiện nay đều thuộc loại dịch vụ truyền thống và khá giống nhau giữa các NHTM. Nhằm thu hút và giữ chân khách hàng, các NHTM đã chú ý hơn đến việc thiết kế và triển khai dịch vụ mới phù hợp hơn với nhu cầu của khách hàng. Tuy nhiên, kết quả hoạt động của các dịch vụ mới này thường không cao, chủ yếu mới ở mức độ thử nghiệm và thậm chí có một số dịch vụ thất bại không thể triển khai tiếp.
Khắc phục tình trạng này, không còn cách nào khác là các ngân hàng phải xây dựng một chiến lược marketing hợp lí, được chương trình hoá từ khi tìm hiểu nhu cầu khách hàng cho đến khi sản phẩm dịch vụ đến tay khách hàng, thoả mãn tối đa nhu cầu của họ. Chỉ có bằng cách đó ngân hàng mới có thể đưa đến cho khách hàng những dịch vụ phù hợp nhất, nhanh nhất, với giá cả hay mức phí hợp lý nhất, tạo cho khách hàng cảm giác thoải mái nhất và thuận tiện trong giao dịch. Làm được như vậy thì không có lý do nào mà khách hàng lại không đến với ngân hàng. Hơn nữa, sản phẩm của ngân hàng còn có tính công cộng và xã hội hoá cao, tức là những đánh giá của các khách hàng đã sử dụng dịch vụ có ảnh hưởng rất lớn không những đến quyết định của bản thân khách hàng đó về việc có tiếp tục duy trì quan hệ với ngân hàng không, mà còn đến cả quyết định của nhóm khách hàng tiềm năng. Chính vì vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng nhờ có các hoạt động marketing mà ngân hàng mới có thể giữ chân khách hàng cũ và thu hút thêm khách hàng mới một cách hiệu quả nhất.
Với công cụ marketing, ngân hàng có khả năng thu thập những thông tin về khách hàng, cũng như về các khách hàng tiềm năng của ngân hàng. Qua đó, ngân hàng nắm được chính xác những điểm mạnh điểm yếu trong hoạt động tín dụng do ngân hàng cung cấp. Một khi đã nắm được điểm mạnh và điểm yêu cầu mình thì các ngân hàng sẽ dễ dàng hơn trong việc ra những quyết định về mặt chiến lược phát triển trong thời gian sau. Nhờ đó, chất lượng tín dụng của ngân hàng ngày càng được nâng cao, làm tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
3.3_Kiến nghị
3.3.1_Kiến nghị với Chính Phủ
Đưa Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNV&N vào hoạt động một cách hiệu quả
Chính phủ đã quyết định việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho DN nhỏ và vừa nhằm thực hiện các mục tiêu và giải pháp giúp phát triển khối DN này từ đầu năm 2001 bằng Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg về Quy chế hoạt động của Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho DN nhỏ và vừa. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (SBV) cũng đã ban hành Thông tư từ tháng 4/2003 hướng dẫn các tổ chức tín dụng (TCTD) góp vốn thành lập Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho DN nhỏ và vừa. Theo đó, ngoài nguồn vốn điều lệ và quỹ dự trữ, các TCTD được phép sử dụng nguồn vốn huy động dài hạn để góp vốn lập quỹ.Quỹ Bảo lãnh tín dụng là cầu nối để các DN vừa và nhỏ tiếp cận với vốn ngân hàng. Song ba năm trôi qua, việc tiến hành thành lập và đưa Quỹ Bảo lãnh tín dụng vào hoạt động tiến triển rất chậm. Các chuyên gia đều cho rằng, quá trình thai nghén Quỹ Bảo lãnh tín dụng đầy khó khăn bởi hai trở ngại lớn nhất của việc này là nguồn vốn thành lập Quỹ và cách thức tiến hành bảo lãnh cho các DN.
Tuy nhiên, ngoài thành phố Hồ Chí Minh cách đây chưa lâu vừa chính thức thành lập Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, hứa hẹn sẽ hỗ trợ cho khoảng 48.000 doanh nghiệp đang hoạt động tại đây, còn thì phần lớn các địa phương chưa có chuyển động gì đáng nói. Sau nhiều lần thúc giục và kêu gọi từ phía các cơ quan chức năng cũng như giới báo chí, hiện thêm một số tỉnh, thành phố như Hà Nội, Thái Nguyên, Quảng Ngãi, Trà Vinh, Bắc Giang, Thanh Hoá, Bình Phước, Vĩnh Phúc, Lâm Đồng, Bình Định đã thành lập... "Ban trù bị thành lập Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ" tại địa phương.
Trong một văn bản gửi đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư về tình hình thực hiện Nghị định 90 của Chính phủ về trợ giúp phát triển DN nhỏ và vừa, Ngân hàng Nhà nước cho biết, tới đây cơ quan này sẽ... tiếp tục nghiên cứu, xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản về cơ chế cho vay, cơ chế bảo đảm tiền vay, thanh toán quản lý ngoại hối, để tạo điều kiện cho các DN nhỏ và vừa tiếp cận vốn vay và sử dụng các dịch vụ ngân hàng được nhiều hơn.Tuy nhiên, các giải pháp hiện tại để khởi thông luồng vốn vay cho doanh nghiệp vừa và nhỏ được những người trong cuộc cho là "không thay đổi nhiều so với các giải pháp đã nhiều lần nói tới".
Do đó, Chính Phủ cần tiếp tục đẩy mạnh việc thành lập và đưa Quỹ vào hoạt động trong thời gian ngắn nhất dựa trên cơ sở điều kiện kinh tế của từng địa phương. Hoạt động của Quỹ phải được thông báo rỗng rãi đến các DNV&N và phải phù hợp với đặc điểm chung của các DNV&N địa phương cũng như kinh tế của địa phương đó, nhằm phát huy cao nhất hiệu quả của Quỹ.
Giám sát chặt chẽ hơn hoạt động của các DNV&N
Bộ tài chính cũng như các cơ quan quản lý tại các tỉnh thành, địa phương cần tổ chức thực hiện tốt việc kiểm tra, buộc các doanh nghiệp phải hạch toán theo đúng quy định của Bộ, đảm bảo tính xác thực của các báo cáo tài chính. Đây là cơ sở tốt cho ngân hàng có thể mạnh dạn hơn trong việc tài trợ cho các DNV&N. Bên cạnh đó, những DN nào vi phạm các quy định của Nhà nước về công tác hạch toán kế toán thì cần phải bị xử phạt một cách nghiêm túc.
3.3.2_Kiến nghị với NHNN
Hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động của Trung tân thông tin tín dụng (CIC)
Trong điều kiện hiện nay, thông tin tín dụng đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với các NHTM. NHNN cũng có Trung tâm tín dụng CIC tuy nhiên hoạt động chủa Trung tâm này chưa thực sự hiệu quả. Các NHTM thường dựa chủ yếu vào hệ thống thông tin do mình tự thiết lập. Do đó, thông tin thường ít và không bao quát.
Để có thể giúp đỡ các NHTM giải quyết khó khăn này cũng như để phát triển hơn nữa hệ thống NH Việt Nam trong tiến trình hội nhập, NHNN nên hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng. Thông tin được cập nhập không chỉ về tình hình dư nợ của các doanh nghiệp mà còn là tình hình tài chính doanh nghiệp, tình hình thị trường tài chính trong nước và thế giới.
NHNN nên phối hợp với Bộ Tài chính, Sở Tài chính, Chi cục thuế, Sở Kế hoạch và Đầu tư cũng như các cơ quan hành pháp ở các địa phương và chính các NHTM để có thể thể cập nhật thông tin tài chính, các vi phạm về tài chính của DN một cách đầy đủ và chính xác nhất nhằm hỗ trợ cho hoạt động của các NHTM.
Tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát nhằm đảm bảo độ an toàn của hệ thống ngân hàng
Hiện nay, các NHTM đang cạnh tranh khốc liệt bằng nhiều cách. Do vậy, để đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các NHTM thì NHNN nên tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát MHTM. Ngoài ra, điều này còn đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng. Vì bất cứ một ngân hàng chạy đua để cạnh tranh mà lơi lỏng các quy định của NHN dẫn đến mất khả năng thanh toán thì tất cả các NH trong toàn hệ thống sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Công tác thanh tra kiểm soát phải thực hiện một cách nghiêm túc nhưng không làm ảnh hưởng đến hoạt động của NHTM. Các vi phạm phải có một chế tài xử lý rõ ràng, minh bạch và phải được thực thi một cách chính xác, công bằng.
3.3.3_Kiến nghị với NHCT VN
NHCT Việt Nam cần phải có những quyết sách định hướng cho sự hoạt động của toàn hệ thống NHCT nhất là trong môi trường kinh tế cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Bên cạnh đó, NHCT Việt Nam nên xây dựng cho mình một hệ thống thông tin tín dụng giữa các NH thành viên nhằm hỗ trợ nhau phát triển. Sự giám sát của NHCT Việt Nam chỉ nên là sự định hướng chứ không nên bắt buộc để tạo điều kiện cho các NH chi nhánh có thể hoạt động một cách chủ động và sáng tạo để các NH đó có thể tự đứng vững trên "đôi chân" của mình khi nền kinh tế nước ta thực sự bước vào hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Kết luận
Sau 8 năm thành lập và phát triển, NHCT Thanh Xuân luôn nỗ lức hết mình nhằm nâng cao uy tín của ngân hàng trong hệ thống NHCT Việt Nam nói riêng và hệ thống ngân hàng Viêt Nam nói chung. Cùng với sự phát triển và hội nhập của nển kinh tế, Ngân hàng luôn cố gắng làm tốt mọi nhiệm vụ được giao, năng động linh hoạt trong hoạt động kinh doanh. Ngân hàng luôn chủ động đa dạng hoá khách hàng, mở rộng thị trường. Khách hàng của Ngân hàng không chỉ nằm trên địa bàn Hà Nội mà đã vươn xa ra nhiều tỉnh thành trong cả nước.
Trong xu thế phát triển ngày càng nhanh của các DNV&N, ngân hàng đã vạch ra chiến lược nhằm khai thác một cách có hiêu quả đối tượng khách hàng này. Trong thời gian qua, hoạt động tín dụng đối với DNV&N của Ngân hàng đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn. Để giải quyết được những hạn chế này thì rất cần sự nỗ lực của toàn bộ Ngân hàng cùng với sự giúp đỡ, hỗ trợ đồng bộ giữa các cơ quan Nhà nước, Chính phủ, NHNN cũng như sự giúp đỡ của NHCT Việt Nam.
Qua thời gian nghiên cứu đề tài, em đã học hỏi được rất nhiều điều về DNV&N cũng như hoạt động tín dụng của NH đối với DNV&N. Em xin chân cảm ơn thầy giáo hướng dẫn- PGS.TS Lê Đức Lữ và các cán bộ phòng Khách hàng Doanh nghiệp Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình Ngân hàng Thương mại
Chủ biên: TS. Phan Thị Thu Hà
NXB: Thống kê - 2004
Giáo trình tài chính doanh nghiệp
Chủ biên: PGS.TS. Lưu Thị Hương
NXB: Thống kê - 2003
Giáo trình Marketing ngân hàng
Chủ biên: PGS.TS. Nguyễn Thị Minh Hiến
NXB: Thống kê - 2004
Nghiệp vụ ngân hàng Trung ương
Chủ biên: Hoàng Xuân Quế
NXB: Thống kê - 2002
Quản trị Ngân hàng Thương mại
Chủ biên: Lê Văn Tư
Đổi mới cơ chế quản lý DNVVN trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
NXB: Chính trị quốc gia
Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Chủ biên: Nguyễn Đình Hương
NXB: Chính trị quốc gia
Tài chí thị trường tài chính - tiền tệ
Số 9/05, 14+15/04, 5/04
Tạp chí tài chính doanh nghiệp
Số 10/04, 12/03, 9/03
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 1
Chương I-Tín dụng ngân hàng và Chất lượng tín dụng ngân hàng đối với DNV&N 3
1.1_Khái quát về DNV&N 3
1.1.1_Khái niệm 3
1.1.2_Đặc điểm 4
1.1.3_Vai trò của DNV&N 6
1.2_Tín dụng ngân hàng 10
1.2.1_Tín dụng- một hoạt động chủ yếu của các NHTM 10
1.2.2_Các hình thức tín dụng ngân hàng 12
1.3_Chất lượng tín dụng đối với DNV&N 14
1.3.1_Khái niệm 14
1.3.2_Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng 15
1.3.3_Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng 20
Chương II_Thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNV&N ở NHCT Thanh Xuân 27
2.1_Khái quát về ngân hàng 27
2.1.1_Lịch sử hình thành và phát triển 27
2.1.2_Cơ cấu tổ chức 27
2.1.3_Sơ lược về hoạt động kinh doanh 31
2.2_Thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNV&N tại NHCT Thanh Xuân 40
2.2.1_Tình hình cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ 40
2.2.2_Quy mô và chất lượng tín dụng đối với DNV&N tại NHCT TX 42
2.3_Đánh giá về chất lượng tín dụng tại NHCT Thanh Xuân 51
2.3.1_Những kết quả đạt được 51
2.3.2_Hạn chế và nguyên nhân 53
Chương III_Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với NHCT Thanh Xuân 60
3.1. Định hướng phát triển hoạt động tín dụng đối với DNV&N của NHCT Thanh Xuân 60
3.2_Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng
tại NHCT Thanh Xuân 64
3.2.1_Xây dựng chính sách tín dụng phù hợp đối với DNV& 64
3.2.2_Nâng cao công tác thẩm định khách hàng và dự án vay vốn 65
3.2.3_Nâng cao chất lượng thông tin tín dụng 67
3.2.4_Nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ 68
3.2.5_Tiếp tục đẩy mạnh công tác hiện đại hoá ngân hàng 69
3.2.6_Đẩy mạnh công tác marketing, quảng cáo 70
3.3_Kiến nghị 72
3.3.1_Kiến nghị với Chính Phủ 72
3.3.2_Kiến nghị với NHNN 74
3.3.3_Kiến nghị với NHCT VN 75
Kết luận 76
Danh mục tài liệu tham khảo 77
Các bảng số liệu và biểu đồ
Bảng 1 - Bảng tiền gửi dân cư 34
Bảng 2 - Cơ cấu đầu tư 36
Bảng 3 - Tăng trưởng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ 44
Bảng 4 - Nợ có đảm bảo bằng tài sản (ĐBBTS) 45
Bảng 5- Nợ xấu 47
Bảng 6- Lợi nhuận từ HĐTD..........................................................................49
BIỂU ĐỒ 1 - Biểu đồ Tồng nguồn vốn huy đồng 32
BIỂU ĐỒ 2 - Biều đồ lợi nhuận hàng năm 39
BIỂU ĐỒ 3 - Biểu đồ thể hiện tỷ trọng TDDNV&N/ Tổng dư nợ 43
BIỂU ĐỒ 4 - Biểu đồ Nợ có đảm bảo bằng tài sản 46
BIỂU ĐỒ 5_ Biểu đồ Tỷ lệ lợi nhuận từ hoạt động cho vay.........................50
NHẬN XÉT CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG THANH XUÂN
........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
Hà nội, ngày 28 tháng 4 năm 2005
Giám đốc NHCT TX
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5541.doc