Nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Long Biên

Tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Long Biên: ... Ebook Nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Long Biên

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1341 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Long Biên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I : CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH 1.1. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH: 1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng: Tín dụng: là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định quay về với một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Theo quan điểm này phạm trù tín dụng bao gồm ba nội dung chủ yếu sau, nếu thiếu một trong ba đặc điểm sau thì không còn là phạm trù tín dụng nữa: - Có sự chuyển giao quyền sử dụng một lượng giá trị từ người này sang người khác. - Tính thời hạn: sự chuyển giao chỉ mang tính tạm thời. - Tính hoàn trả: khi hoàn trả lại lượng giá trị ban đầu cho người sở hữu, còn phải kèm theo một lượng giá trị dôi ra gọi là lợi tức. Tín dụng ngân hàng: là quan hệ tín dụng giữa người một bên là ngân hàng – một tổ chức chuyên doanh trên lĩnh vực tiền tệ là người cho vay với một bên là các tổ chức, cá nhân trong xã hội, theo đó ngân hàng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Trong xã hội, luôn tồn tại những người thừa vốn và có nhu cầu đầu tư và những người thiếu vốn, có nhu cầu về vốn để sản xuất, kinh doanh. Nhưng họ rất khó có thể tiếp cận được với nhau bởi mỗi bên lại có những đắc thù riêng, khác nhau như: không phù hợp được với nhau về quy mô, thời gian nhàn rỗi, địa điểm… hoặc nếu có thể phù hợp thì để có thể gặp nhau thì phải tốn kém rất nhiều chi phí. Vì vậy để thoả mãn nhu cầu của cả hai bên ngân hàng đã được ra đời. Ngân hàng trên cơ sở tập trung vốn rồi phân phối cho những người cần vỗn thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng. Và tín dụng ngân hàng đã trở thành hình thức phổ biến có vai trò quan trọng nhất trong nền kinh tế. Đồng thời, nó cũng giữ vị trí chủ chốt trong hoạt động của mỗi ngân hàng. 1.1.2. Phân loại tín dụng ngân hàng: Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các khoản cho vay theo từng nhóm dựa vào một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại tín dụng theo những tiêu thức và dựa trên cơ sở khoa học đã tạo tiền đề giúp cho ngân hàng có thể thiết lập được các quy trình tín dụng phù hợp và từ đó nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Tín dụng ngân hàng có thể phân loại theo một số tiêu thức sau đây: 1.1.2.1. Phân loại theo thời hạn tín dụng: Việc phân chia các khoản vay theo thời hạn có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời hạn của các khoản vay có liên quan trực tiếp đến tính an toàn và khả năng sinh lời của tín dụng ngân hàng, cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo căn cứ này, tín dụng được chia làm ba loại: Tín dụng ngắn hạn: Loại tín dụng này có thời hạn từ 12 tháng trở xuống và được dùng để tài trợ cho tài sản lưu động và các nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Tín dụng trung hạn: Loại tín dụng này có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Loại tín dụng này chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, các phương tiện vận tải, và các thiết bị khác chóng hao mòn có yêu cầu tài trợ từ 1 năm đến 5 năm. Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm và được dùng để tài trợ ?cho các công trình xây dựng như nhà, sân bay, cầu đường, máy móc, thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu, có yêu cầu tài trợ trên 5 năm. Nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng là cho vay ngắn hạn, nhưng từ những năm 1970 trở lại đây các ngân hàng đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp, đổi mới tín dụng nhằm nâng cao tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn trong tổng dư nợ của ngân hàng. 1.1.2.2. Phân loại theo tài sản đảm bảo: Tài sản đảm bảo có vai trò rất lớn trong nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng, nó giúp ngân hàng có thể hạn chế được rủi ro, cho phép ngân hàng có thể có ?được một nguồn thu nợ thứ hai khi khách hàng gặp phải những sự cố ngoài y muốn từ quá trình sản xuất kinh doanh. Theo căn cứ này, tín dụng được chia làm 2 loại: Tín dụng có bảo đảm: là hình thức tín dụng dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp, cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Hình thức này thường được áp dụng đối với những khách hàng chưa có uy tín cao đối với ngân hàng, vì vậy khi vay vốn cần tài sản bảo đảm. Tín dụng không cần tài sản bảo đảm: là hình thức tín dụng không cần tài sản thế chấp, cầm cố hay có sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của khách hàng. Vì vậy, hình thức này thường được áp dụng đối với khách hàng có uy tín, làm ăn thường xuyên có lãi, có tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa,… Ngoài ra, hình thức này còn được áp dụng đối với các khoản vay theo chỉ thị của chính phủ mà chính phủ yêu cầu không cần tài sản bảo đảm. Hoặc các khoản vay đối với tổ chức tài chính lớn, những khoản cho vay ngắn hạn mà ngân hàng có khả năng giám sát … cũng không cần tài sản đảm bảo. Việc phân loại tín dụng theo tiêu thức nay cho phép ngân hàng có thể xác định được giá trị các khoản vay dựa trên giá trị tài sản bảo đảm của khách hàng, và cho phép ngân hàng xác định được những chính sách tín dụng phù hợp với từng khách hàng cụ thể của ngân hàng. 1.1.2.3. Phân loại theo phương thức cấp tín dụng: Theo căn cứ này, tín dụng được chia làm một số loại sau: - Cho vay thấu chi: Thấu chi là nghiệp vụ tín dụng mà ngân hàng cho phép người vay được chi vượt (trội) số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Và giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Khách hàng chỉ cần làm đơn xin ngân hàng về hạn mức thấu chi và thời gian thấu chi. Số lãi ngân hàng thu được từ hình thức tín dụng này được tính dựa trên lãi suất thấu chi, thời gian thấu chi và số tiền thấu chi. Khi có các khoản chi vượt quá hạn mức thì khách hàng sẽ phải chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này. Tình hình thị trường luôn biến động, do đó hình thức tín dụng này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán: chủ động, nhanh chóng, kịp thời. Đây là một hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, các khách hàng phần lớn là không cần tài sản đảm bảo, và hình thức tín dụng này có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân sử dụng để chi trả tiền lương, mua hàng, các chi phí khác… Nhìn chung, hình thức này chỉ sử dụng đối với những khách hàng có độ tin cậy cao, có thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn. - Cho vay từng lần: là hình thức tín dụng mà mỗi lần vay vốn khách hàng và ngân hàng đều làm thủ tục vay vốn cần thiết và k?ý kết hợp đồng tín dụng. Đây là hình thức tín dụng tương đối phổ biến được áp dụng với các khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên, không có đủ điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Khách hàng sử dụng hình thức này chủ yếu là những khách hàng có nhu cầu vay vốn mang tính thời vụ hay nhằm mở rộng sản xuất. Vì thế mà vốn của ngân hàng chỉ tham gia vào một giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh. Theo hình thức này, khách hàng vay phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và kí hợp đồng cho vay. Giá trị món tiền cho vay phụ thuộc vào giá trị của tài sản đảm bảo. Mỗi món vay được tách biệt thành các hồ sơ (khế ước nhận nợ) khác nhau. Theo từng kì hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Và ngân hàng sẽ tiến hành giám sát quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng, kiểm soát mục đích và hiệu quả sử dụng tiền vay, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn, hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi. Nghiệp vụ tín dụng này tương đối đơn giản. Tuy nhiên, phương thức tín dụng này đòi hỏi khách hàng mỗi lần vay phải làm đủ thủ tục vay vốn và hợp đồng cho vay do đó còn phiền hà đối với khách hàng. - Cho vay theo hạn mức: là phương thức tín dụng mà ngân hàng va khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định (có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ). Và hạn mức tín dụng này chính là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Phương thức cho vay theo hạn mức có thể được thực hiện theo hai cách. Cách thứ nhất, ngân hàng sẽ cho khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần trong kỳ, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Cách thứ hai, ngân hàng chỉ quy định một hạn mức tín dụng cuối kỳ, vì thế dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên, đến cuối kỳ khách hàng phải trả nợ để đảm bảo rằng dư nợ cuối kỳ không vượt quá hạn mức. Với phương thức này, mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoá hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Chính vì vậy hình thức tín dụng này rất thuận tiện cho những khách hàng có nhu cầu vay thường xuyên, và vì vậy có thể thấy rằng vốn ngân hàng tham gia trực tiếp vào toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này ngân hàng chỉ thu nợ khi khách hàng có thu nhập chứ không ấn định trước kỳ hạn trả nợ. Do đó giúp khách hàng chủ động hơn trong việc quản lí ngân quỹ. Tuy nhiên, cũng chính do không ấn định kỳ hạn trả nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay. Và ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi xem báo cáo tài chính của khách hàng hoặc nhận thấy dư nợ lâu không giảm sút. - Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ tín dụng dựa trên sự luân chuyển của hàng hoá. Khi doanh nghiệp mua hàng có thể thiếu vốn và ngân hàng lúc này có thể cho khách hàng vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Theo hình thức này, khách hàng phải làm đơn trình lên ngân hàng tại thời điểm đầu năm hoặc qu?ý. Sau khi xem xét, n?gân hàng và khách hàng sẽ thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng và các yếu tố khác như nguồn cung cấp hàng hoá, khả năng tiêu thụ... Ngân hàng sẽ thoả thuận với khách hàng về hạn mức tín dụng trong một năm hoặc vài năm. Khoảng thời gian này không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng và quyết định có duy trì quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng nữa hay không. Theo phương thức tín dụng này, mọi khoản thu bán hàng của người vay đều phải dùng để trả vào tài khoản tiền vay trước khi được trích trả lại tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng. Khi vay, khách hàng phải trình cho ngân hàng các chứng từ hoá đơn nhập hàng và số tiền cần vay. Ngân hàng duyệt cho vay và trả tiền cho người bán theo cam kết giữa người vay và người bán. Số tiền vay sẽ phụ thuộc vào khối lượng và chất lượng quan hệ nợ của người vay. Các khoản phải thu và cả hàng hoá trong kho trở thành vật bảo đảm cho khoản vay. Hình thức này thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kì tiêu thụ ngắn, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng. Cho vay luân chuyển tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng bởi thủ tục vay đơn giản chỉ thực hiện một lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng vốn kịp thời, vì vậy việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn. Nhưng có thể thấy, nếu việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp gặp khó khăn thì việc thu hồi vốn của ngân hàng cũng sẽ gặp phải khó khăn. - Cho vay theo các dự án đầu tư: là hình thức tín dụng cung cấp vốn cho khách hàng để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và phục vụ đời sống. Ngân hàng sau khi phân tích (và thẩm định) dự án sẽ cùng với khách hàng ký hợp đồng tín dụng và các điều khoản thoả thuận mức vốn đầu tư duy trì cho cả thời gian đầu tư trong dự án, phân định rõ các kỳ hạn trả nợ. Ngân hàng sẽ thực hiện giải ngân cho khách hàng theo tiến độ thực hiện dự án. Mỗi lần rút vốn vay doanh nghiệp ký giấy nhận nợ, số tiền vay phải nằm trong phạm vi mức tín dụng đã thoả thuận và phải phù hợp với mục đích sử dụng vốn trong hợp đồng tín dụng. Lãi suất cho vay được căn cứ vào lãi suất của giám đốc ngân hàng hoặc thoả thuận giữa ngân hàng với chủ dự án. - Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng; trong đó, có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. Cho vay hợp vốn thường xảy ra khi: nhu cầu xin vay của khách hàng vượt quá giới hạn cho vay của ngân hàng; khả năng của một ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu vay của một dự án; nhu cầu phân tán rủi ro của các ngân hàng… Theo hình thức tín dụng này, các tổ chức tín dụng sẽ thống nhất với nhau về phương thức thẩm định. Và việc thẩm định phải tiến hành chặt chẽ vì việc này có liên quan đến sự an toàn của rất nhiều tổ chức tín dụng. - Cho vay gián tiếp: là hình thức tín dụng thông qua các tổ chức trung gian, các tổ, đội, hội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Hội Phụ nữ… Các tổ chức này thường liên kết các thành viên với mục đích nhằm hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho mỗi thành viên. Và đặt mục tiêu phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo lên hàng đầu. Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động tín dụng sang các tổ chức trung gian, như thu nợ, phát tiền vay,… Theo phương thức này, những người vay có cơ hội tiếp xúc với nguồn vốn ngân hàng khi không có hoặc có không đủ tài sản thế chấp dựa vào sự bảo đảm của các tổ chức trung gian về thành viên vay, hoặc các thành viên trong nhóm có uy tín cũng có thể bảo lãnh cho một thành viên khác vay. Ngoài ra, ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua những người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này sẽ hạn chế người vay sử dụng tiền sai mục đích. Hình thức tín dụng này thường được áp dụng đối với các thị trường có món vay nhỏ, lẻ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Và vì thế việc cho vay qua các tổ chức trung gian có thể giúp ngân hàng tiết kiệm chi phí cho vay, có thể làm giảm bớt rủi ro của ngân hàng. Tuy nhiên, nhiều trung gian thông qua hoạt động tín dụng này đã lợi dụng vị thế của mình, để tăng lãi suất cho vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác cho riêng mình, khiến cho món tiền vay không phát huy hết hiệu quả như mong muốn. - Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng mà ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận số tiền lãi vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay. Hợp đồng tín dụng phải ghi rõ: các kỳ hạn trả nợ ở mỗi kỳ hạn gồm cả gốc và lãi. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ (thường là từ khấu hao và thu nhập sau thuế của dự án, hoặc từ thu nhập hàng kỳ của người tiêu dùng). Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán số hàng hoá mà khách hàng đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận ngay số tiền sau khi bán hàng từ phía ngân hàng và làm đại lý thu tiền cho ngân hàng, hoặc khách hàng trực tiếp trả cho ngân hàng. Đây chính là hình thức tín dụng tài trợ cho người mua (qua đó đến người bán) nhằm khuyến khích tiêu thụ hàng hoá. Tuy nhiên, hình thức tín dụng này có độ rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp.Vì vậy khách hàng vay theo phương thức này phải là những khách hàng có phương án trả nợ gốc và lãi vay khả thi bằng các khoản thu nhập chắc chắn, ổn định. Chỉ cần người vay gặp bất cứ chuyện gì khiến cho thu nhập giảm sút (như người vay mất việc, ốm đau…) thì khả năng thu nợ của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng. Chính vì vậy, lãi suất cho vay trả góp thường cao nhất trong khung lãi suất của ngân hàng. 1.1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh : 1.1.3.1. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong nền kinh tế: a, Doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Như đã biết, xét về hình thức sở hữu thì doanh nghiệp có thể chia thành hai loại đó là doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Theo Luật của Quốc hội nước công hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam số 14/2003/QH11 ngày 26/11/ 2003 về doanh nghiệp nhà nước: “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn”. Và hình thức sở hữu doanh nghiệp ngoài quốc doanh chính là những doanh nghiệp thuộc dạng hình thức sở hữu phi nhà nước. Luật doanh nghiệp năm 1999 đã đánh dấu một mốc quan trọng trong những nỗ lực của nhà nước nhằm tạo điều kiện khuyến khích khối kinh tế tư nhân nói chung và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng có điều kiện mở rộng, phát triển. Và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bao gồm: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và hợp tác xã. b, Vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh: - Huy động nguồn lực tiềm ẩn trong dân cư vào phát triển sản xuất kinh doanh. - Tạo ra công ăn việc làm cho một lượng lớn người lao động bảo đảm đời sống và do đó góp phần đáng kể cho việc ổn định xã hội và tăng trưởng của GDP. Vai trò này càng có y nghĩa quan trọng hơn trong điều kiện nước ta khi mà khả năng thu hút lao động của khu vực kinh tế Nhà nước còn hạn chế. - Góp phần duy trì và phát triển các làng nghề truyền thống, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh, kinh nghiệm quản lí đã tích luỹ qua nhiều thế hệ; tạo lập sự cân đối và phát triển kinh tế giữa các vùng, góp phần tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn. - Góp phần mạnh mẽ vào thúc đẩy sức cạnh tranh của nền kinh tế. - Tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước . c, Những đặc điểm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Trong những năm gần đây các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang từng bước phát triển và lớn mạnh theo xu hướng của thời đại. Sự phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ thực sự bắt đầu vào ngày 01- 01- 2000 khi Luật doanh nghiệp chính thức được ban hành. Từ đó đến nay, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang có nhưng biến chuyển tốt mặc dù vậy ta có thể thấy một số đặc điểm như sau: - Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng tăng nhanh về số lượng, phân bố không đều cả về địa bàn cũng như ngành nghề kinh doanh: Từ khi Luật Doanh nghiệp được ban hành đã tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển. Ngoài ra, Đảng và Nhà nước cũng có những chính sách như chính sách về tiền tệ, pháp luật đã giúp cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng phát triển về mọi mặt. Chỉ tính riêng trong gần ba năm, từ tháng 1- 2000 đến tháng 10- 2002, gần 50.000 doanh nghiệp mới đăng kí trong đó hầu hết là thuộc sở hữu tư nhân. Số lượng doanh nghiệp mới đăng kí đã nhiều hơn tổng số doanh nghiệp đăng kí trong chín năm, từ 1991 đến 1999 (45.005 doanh nghiệp). Tính đến 31- 12- 2004, tổng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang hoạt động là 74.200 doanh nghiệp, nâng tổng số doanh nghiệp đang hoạt động 82.000 doanh nghiệp. Sự phát triển về số lượng các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng đã cho thấy một tín hiệu đang mừng nhưng nó cũng đặt ra một vấn đề cho các nhà quản lí. Đó là việc thành lập các doanh nghiệp còn mang tính tự phát chưa có quy hoạch định hướng rõ ràng. Theo số liệu của Tổng cục thống kê đã cho thấy số lượng doanh nghiệp đang hoạt động thấp hơn số liệu doanh nghiệp đăng kí của trung tâm thông tin doanh nghiệp khoảng 40%. Và tính đến nay số doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta đã vào khoảng 200.000 doanh nghiệp với tổn số vốn lên đến hàng trăm tỉ đồng. Bảng 1: Số doanh nghiệp hoạt động tính đến cuối năm, thời kì 5 năm 2000-2004 2000 2001 2002 2003 2004 DNNN 5.759 5.355 5.364 4.825 4.580 DNNQD 35.004 44.314 55.236 64.523 74.230 DN khác 1.525 2.011 2.308 2.664 3.290 Tổng số 42.288 51.680 62.908 72.012 82.100 (Số liệu chính thức của Tổng Cục Thống kê) Biểu đồ 1: Số lượng doanh nghiệp trên cả nước. Các doanh nghiệp được thành lập phân bổ trên tất cả các tỉnh thành trên cả nước nhưng tập trung đông nhất vẫn ở các thành phố lớn Thành phố Hồ chí Minh, chiếm khoảng 23%, Hà nội khoảng 15%... còn ở các tỉnh như Bắc cạn số doanh nghiệp chỉ chiếm 0,2%, Lai châu 0,3%, đây là tỷ lệ rất thấp. Về ngành kinh doanh, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tập trung hầu hết trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ, chưa chú ý đến lĩnh vực sản xuất tạo sản phẩm mới. Hiệu quả kinh doanh chưa tương sứng với tiềm năng. Các mặt hàng xuất khẩu mới chỉ dừng lại ở hàng nông sản, thủ công mỹ nghệ, may mặc, chế biến… chi phí xuất khẩu cao nhưng giá trị gia tăng nhỏ. Như vậy, qua những con số trên nó đã cho thấy sự phát triển không ngừng về số lượng của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Chính sự phát triển đó đã góp phần đắc lực vào sự phát triển nền kinh tế, đem lại cho nền kinh tế sự cân bằng hoạt động ổn định và bền vững. Đây là xu hướng phát triển phù hợp với hơi thở của thời đại. - Quy mô vốn và lao động còn nhỏ kèm với công nghệ lạc hậu: qua số liệu đã nêu trên thì có thể thấy số lượng doanh nghiệp thì nhiều nhưng quy mô về vốn và lao động lại nhỏ, đi kèm với đó là thiết bị ở hầu hết các doanh nghiệp đều lạc hậu và ngoài ra các doanh nghiệp này còn thiếu kinh nghiệm quản lí, kinh doanh. Về quy mô vốn và khả năng tài chính còn thấp. Bình quân một doanh nghiệp ngoài quốc doanh có khoảng 4 tỷ đồng tiền vốn. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ thương mại, buôn bán nhỏ, nếu là doanh nghiệp sản xuất thì chỉ là sản xuất những mặt hàng thông dụng kĩ thuật không cao. Hiệu quả kinh doanh chưa tương xứng với tiềm năng, sức cạnh tranh thấp. Về số lượng lao động: sẽ tuỳ theo quy mô doanh nghiệp, hiện nay, doanh nghiệp khác nhau thì số lao động cũng khác nhau có doanh nghiệp lên tới 1000 người. Nhưng theo số liệu thống kê năm 2003 thì bình quân một doanh nghiệp ngoài quốc doanh có khoảng 31 lao động, chỉ bằng 7.4% về lao động ở doanh nghiệp nhà nước và bằng 10.3% về lao động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, mặc dù hiện nay nhà nước có chính sách giáo dục để đào tạo những cán bộ có trình độ chuyên môn cao, nhưng nhìn chung những lao động trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đều có kĩ năng và tay nghề thấp, chưa được đào tạo. Số lượng lao động không nhiều, trình độ lao động chưa cao cũng là một điều khó khăn đối với các doanh nghiệp này. Theo thống kê năm 2004, ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì tỉ lệ lao động không được đào tạo chiếm khoảng 40%. Về trình độ công nghệ: phần lớn các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn kinh doanh lại thấp, vốn cố định lại còn thấp hơn, nên khả năng trang bị kĩ thuật công nghệ tiên tiến là rất hạn chế, mức trang bị tài sản cố định cho một lao động ở mức rất thấp, bình quân khoảng 45 triệu đồng/ 1 lao động. Các thiết bị, công nghệ sử dụng ở các doanh nghiệp này chủ yếu là các thiết bị mua lại thanh lý của các doanh nghiệp lớn đã sử dụng lâu năm dẫn đến hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Nguyên nhân của việc sự dụng các thiết bị cũ đơn giản là vốn ít nên khiến cho các doanh nghiệp không thể đổi mới trang thiết bị, những công nghệ mới không được áp dụng vào sản xuất kinh doanh. Tốc độ đổi mới thiết bị công nghệ chỉ mới đạt 10-11%. Và mức độ đầu tư đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp hiện nay chỉ đạt khoảng 0,3%/năm, chủ yếu là mua thiết bị, cải tiến máy móc phần cứng. Việc thay đổi mua sắm máy móc mới không đồng bộ dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh không cao. Và vì vậy, những sản phẩm làm ra có khả năng cạnh tranh thấp dẫn đến lợi nhuận của doanh nghiệp này nhỏ nên không thể tiến hành đầu tư mở rộng, nâng cao chất lượng hàng hoá. Đây là một thiệt thòi lớn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Như vậy với những đăc điểm về vốn, về lao động còn thấp, bên cạnh đó thiết bị, công nghệ thì lạc hậu, từ đó đã chi phối đến các mặt khác của doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Sức cạnh tranh, hiệu quả kinh doanh không cao và tính ổn định của lao động không bền vững và lâu dài. - Trình độ quản lí kinh doanh còn yếu kém: Trong giai đoạn kinh tế đang phát triển rất mãnh liệt như hiện nay, các doanh nghiệp đang phải đối đầu với sự canh tranh vô cùng quyết liệt để có thể tồn tại và tiếp tục hoạt động trên thị trường. Do đó, vai trò của nhà quản lí kinh doanh ngày càng trở nên vô cùng quan trọng, không những phải có trình độ chuyên môn, mà còn phải có trách nhiệm cao trong công việc mới có thể đưa doanh nghiệp của mình đi lên khẳng định được vị thế trong nền kinh tế. Nhưng hầu hết ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cán bộ quản lý lại có trình độ chuyên môn không cao, chưa được qua đào tạo cơ bản nên đã bộc lộ nhiều lúng túng trong điều hành hoạt động kinh doanh. Do vậy, dù khu vực kinh tế ngoài quốc doanh được coi là những doanh nghiệp linh hoạt, năng động sáng tạo và khả năng thích nghi cao thì với năng lực hiện tại của các nhà quản lí, các doanh nghiệp này cũng rất khó khăn trong việc cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trên thị trường. Ngoài ra, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh này thành lập hầu hết là tự phát và không đủ cơ sở khoa học cho quyết định kinh doanh làm cho hoạt động kinh doanh không ổn định gặp nhiều vướng mắc, hạn chế trong công tác tổ chức nhân sự, tổ chức kinh doanh, nắm bắt được thời cơ trong đầu tư. Việc thực hiện công tác kế toán, kiểm toán, thống kê theo quy định của nhà nước trong các doanh nghiệp này chủ yếu dựa trên kinh nghiệm, chưa hiểu biết nhiều về phương pháp hạch toán kế toán mới và áp dụng không chính xác các phương pháp ở doanh nghiệp mình. Chí vì vậy, các doanh nghiệp này đã và đang gặp phải rất nhiều khó khăn khi tiếp cận với nguồn vốn từ phía các ngân hàng do không chứng thực được khả năng kinh doanh của mình cũng như tình hình tài chính của bản thân một cách rõ ràng. - Nhu cầu vốn rất lớn nhưng khả năng tiếp cận được còn hạn chế: Trong thời gian qua, chính sách hỗ trợ huy động vốn đã góp phần không nhỏ đến sự phát triển thành công của doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nhiều biện pháp khuyến khích đầu tư cho việc phát triển: ban hành, sửa đổi các chính sách về thuế, chính sách tài chính- tín dụng, nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đồng thời, để hỗ trợ cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng Nhà nước đã thành lập và phát triển các định chế tài chính thuộc sở hữu Nhà nước để thực hiện chính sách bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, dù đã có chuyển biến tích cực nhưng trên thực tế việc vay vốn huy động vốn tài chính vẫn đang là vấn đề khó khăn nhất đối với doanh nghiệp, và đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều cho thấy rằng, vay vốn ngân hàng rất khó khăn với nhiều thủ tục như thế chấp, bảo lãnh… Trong khi đó, phần lớn doanh nghiệp ngoài quốc doanh có vốn chủ sở hữu rất thấp chỉ có thể đáp ứng 20%- 30% nhu cầu, ít có tài sản thế chấp, lại thường không có người bảo lãnh, trình độ chuyên môn chưa cao vì vậy việc lập dự án, phương án sản xuất kinh doanh thường thiếu sức thuyết phục, trình độ quản lý hạn chế, còn các báo cáo tài chính thì không đủ độ tin cậy… vì vậy mà việc tiếp cận vốn ngân hàng là rất khó khăn. Thêm vào đó, các ngân hàng lại không muốn gặp phải rủi ro, do đó rất chặt chẽ trong việc xác định tài sản thế chấp và cá thủ tục. Chính vì lí do này đã có rất nhiều dự án đã không thể vay được vốn của ngân hàng. Và vì vậy mà các doanh nghiệp ngoài quốc doanh để có thể hoạt động được họ thường phải tìm đến các tổ chức tài chính phi chính thức, tư nhân, bạn bè, họ hàng và bản thân người lao động trong doanh nghiệp với lãi suất cao gấp 3 đến 6 lần so với lãi suất chính thức. Và nguồn vốn từ rất nhiều nguồn này thường không ổn định do đó đã ảnh hưởng không ít đến kế hoạch mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chưa có đủ các quy định pháp lý đảm bảo cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thể tiếp cận thường xuyên, nhằm tiến tới khả năng vay vốn từ các tổ chức tài chính bên ngoài một các rộng rãi và ổn định hơn. Và vì vậy doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc tạo thuận lợi cho các kênh huy động vốn đặc biệt từ nguồn vốn còn khá dồi dào trong dân cư như: phát hành cổ phiếu, trái phiếu… đây là những nguồn tài trợ mang tính dài hạn của doanh nghiệp. Từ những kênh huy động vốn này, doanh nghiệp có thể ổn định, tự chủ hơn và doanh nghiệp có thể có chiến lược phát triển lâu dài và bền vững. Vậy, doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn tồn tại rất nhiều vần đề: cơ sở sản xuất, trang thiết bị còn yếu kém, đầu tư chủ yếu vào các ngành thương mại, du lịch; sử dụng máy móc trang thiết bị lạc hậu để tiếp tục sản xuất, chất lượng lao động còn thấp, tay nghề chưa cao, trình độ cán bộ quản lí còn yếu chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế nên không thể mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh trên thị trường thấp và hiệu quả sản xuất kinh doanh không cao. Mặt khác còn tồn tại nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động trái pháp luật, làm ăn không đúng đắn: buôn lậu, làm hàng giả, trốn thuế, lừa đảo… và các doanh nghiệp này thường không thực hiện đầy đủ các quy định về an toàn lao động, đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động. Đây cũng là lý do khiến việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trở nên khó khăn. Mặc dù các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn chịu nhiều hạn chế trong việc tiếp cận nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh nhưng doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay đang giữ vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế Việt nam hiện nay và cả trong tương lại. Đây chính là thành phần kinh tế năng động nhất nên khi Việt nam tham gia vào thị trường thế giới, thành phần này sẽ là thành phần chủ chốt trong việc khặng định vị thế của nền kinh tế Việt nam trên trường quốc tế. 1.1.3.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Bất kỳ một tổ chức, một thành phần kinh tế nào đó muốn tiến hành sản xuất kinh doanh, hoạt động trên thị trường thì điều chắc chắn mà tất cả đều phải cần đến đó là vốn. Và ai cũng muốn mình có thể tìm được nguồn vốn ổn định với chi phí thấp, chỉ có như vậy mới có khả năng tồn tại và phát triển lâu dài trên thị trường. Và để thực hiện được mục tiêu đó thì họ phải tìm đến nguồn vốn của ngân hàng. Do đó, có thể nhận thấy rằng vốn vay ngân hàng là một nguồn vốn quan trọng vào bậc nhất không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. C._.ác doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang phát triển rất mạnh như hiện nay thì nhu cầu về vốn là rất lớn và đang mong mỏi có thể tiếp cận được nguồn vốn vay từ phía ngân hàng. Sự phát triển của các doanh nghiệp này gắn liền với các dịch vụ tài chính do Ngân hàng thương mại cung cấp trong đó có việc cung ứng vốn thông qua nghiệp vụ tín dụng. a, Tín dụng Ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Với xu hướng phát triển ngày càng mạnh của nền nền kinh tế nói chung và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng với rất nhiều doanh nghiệp mới được thành lập. Do đó, những doanh nghiệp này cần vốn đầu tư mua sắm máy móc, trang thiêt bị, cơ sở vật chất,…. phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là nhu cầu rất lớn đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào khi mới đi vào hoạt động. Bên cạnh đó, doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ và các doanh nghiệp sản xuất quy mô nhỏ vì vậy mà chu kỳ sản xuất thường ngắn, đòi hỏi thường xuyên phải bổ xung vốn lưu động và điều đó thường vượt qua khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần vốn để đầu tư vào tài sản cố định như máy móc, trang thiết bị áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại. Để giải quyết vấn đề này, ngân hàng qua quan hệ tín dụng, thu hút những nguồn vốn rất lớn đang còn nhàn rỗi trong dân cư, từ đó cho các doanh nghiệp cần vay. Chính nhờ hoạt động này của ngân hàng đã giúp cho các doanh nghiệp mới thành lập bươc đầu hoạt động được suôn sẻ, giúp cho các doanh nghiệp đang hoạt động mở rộng được hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận. b, Tín dụng Ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Khi một doanh nghiệp quyết định xin vay vốn ngân hàng thì doanh nghiệp đó đã phải cân nhắc về việc làm sao có thể hoàn trả gốc và lãi cho ngân hàng theo đúng hợp đồng tín dụng đã ký kết với ngân hàng. Và tất nhiên khi hoạt động sản xuất kinh doanh mọi doanh nghiệp đều muốn có lợi nhuận cho riêng mình. Chính vì vậy, để có thể vừa có lợi nhuận lại có thể thanh toán được khoản tín dụng với ngân hàng thì các doanh nghiệp cần phải tính toàn một cách chính xác về kế hoạch sản xuất kinh doanh, về những biến động kinh tế xã hội… để đưa đồng vốn vào đầu tư có hiệu quả mang lại lợi ích cho bản thân doanh nghiệp mình. Bên cạnh đó, khi cho doanh nghiệp vay vốn, ngân hàng luôn phải kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng, xem mục việc sử dụng vốn vay có đúng mục đích không, có như đã thoả thuận trong hợp đồng không… chỉ có như vậy ngân hàng mới có thể hạn chế rủi ro tới mức thấp nhất. Và chính điều này đã buộc các doanh nghiệp phải tích cực hơn trong việc sử dụng vốn nhằm sinh lời cho bản thân, cho ngân hàng và mang lợi ích cho toàn xã hội. c, Tín dụng Ngân hàng góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế như hiện nay, sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng khốc liệt và gay gắt. Muốn tồn tại và phát triển được thì các doanh nghiệp phải không hoàn thiện bản thân, nâng cao chất lượng sản phẩm với giá thành cạnh tranh. Và để thực hiện điều này thì doanh nghiệp cần tiến hành mở rộng sản xuất kinh doanh, mua sắm may móc trang thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm, đào tạo tay nghề lao động, cho công nhân viên đi học tập… Doanh nghiệp chỉ có thể làm được tất cả những điều trên khi doanh nghiệp có trong tay một lượng vốn lớn. Vì vậy, tín dụng ngân hàng là không thể thiếu được trong thời kỳ kinh tế đang phát triển rất mạnh như hiện nay đặc biệt đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. 1.2. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH: 1.2.1. Khái niệm chất lượng tín dụng ngân hàng: Chất lượng tín dụng được hiểu là lợi ích kinh tế mà khoản vay đó mang lại cả cho người vay và người đi vay. Một khoản tín dụng ngân hàng được coi là có chất lượng tốt khi nó mang lại lợi ích kinh tế cho cả ngân hàng và khách hàng, tức là vốn vay đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra một lượng giá trị lớn hơn để có thể vừa hoàn trả gốc và lãi, ngoài ra vừa đảm bảo các chi phí khác và đảm bảo có lợi nhuận, qua đó góp phấn vào sự tăng trưởng chung của toàn bộ nền kinh tế. Chất lượng tín dụng được thể hiện: - Đối với ngân hàng: Phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của bản thân ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. - Đối với khách hàng: Tín dụng phát ra phải phù hợp với mục đích sử dụng vốn của khách hàng, với lãi suất và kỳ hạn hợp lý, thủ tục đơn giản, thuận tiện, thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng. - Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: Tín dụng phục vụ sản xuất lưu thông hàng hoá; góp phần giải quyết công ăn việc làm, khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế. 1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng: 1.2.2.1. Nhóm các chỉ tiêu định lượng: a, Doanh số cho vay: là tổng các khoản vay trong một niên độ kế toán, chỉ tiêu này phản ánh lượng vốn mà ngân hàng đã giải ngân cho DNNQD (thường tính theo năm), nó là số tuyệt đối phản ánh xu hướng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp này là mở rộng hay thu hẹp. b, Doanh số thu nợ: là tổng các khoản thu nợ trong một niên độ kế toán, phản ánh lượng vốn mà ngân hàng đã thu hồi được trong một thời kỳ. c, Dư nợ: phản ánh lượng vốn ngân hàng còn cho khách hàng vay tại một thời điểm xác định, và đây cũng là khoản mà ngân hàng sẽ phải thu về. d, Hệ số sử dụng vốn vay: phản ánh kết quả sử dụng nguồn vốn huy động của ngân hàng để cho vay. Nếu hệ số này quá cao thì ngân hàng cần chú ý đến khả năng thanh toán vì lúc này ngân hàng cho vay nhiều nên khi khách hàng đến rút tiền, ngân hàng sẽ gặp khó khăn về khả năng thanh toán. Nếu hệ số sử dụng vốn thấp thì ngân hàng cần tăng cường cho vay hoặc giảm lượng vốn huy động. Như vậy ngân hàng mới có khả năng bù đắp chi phí và có được lợi nhuận. Tổng dư nợ Hệ số sử dụng vốn vay = x 100% Tổng nguồn vốn huy động e, Tỷ lệ nợ xấu: là tỷ lệ phần trăm giữa nợ xấu và tổng dư nợ của ngân hàng ở một thời điểm nhất định thường là cuối tháng, cuối năm. Nợ xấu Tỷ lệ nợ xấu = x 100% Tổng dư nợ Nợ xấu là khoản nợ quá hạn đã quá một kỳ gia hạn nợ. Chỉ tiêu này cho biết mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Và tỷ lệ này càng thấp thì càng tốt cho ngân hàng.Khi khách hàng không trả được nợ có ảnh hưởng đến tính thanh khoản và rủi ro thanh toán. Và khi đó chi phí của ngân hàng sẽ gia tăng khi phải tìm nguồn mới để chi trả tiền gửi và cho vay đúng hợp đồng tín dụng. Vì vậy tỷ lệ nợ xấu là một chỉ tiêu cảnh báo cho ngân hàng: phải có biện pháp cải thiện chất lượng tín dụng và phải có những biện pháp hữu hiệu để giải quyết. f, Tốc độ luân chuyển vốn: là chỉ tiêu đánh giá tần suất sử dụng vốn của ngân hàng trong một thời kỳ. Doanh số thu nợ Vòng quay vốn = Dư nợ bình quân Nếu vòng quay vốn cho vay càng lớn chứng tỏ vốn của ngân hàng đã luân chuyển nhanh tham gia vào chu trình sản xuất kinh doanh, vì vậy nó sẽ tạo ra được số tiền lớn cho ngân hàng từ việc thu lãi, tức là đồng vốn được sử dụng có hiệu quả. Vòng quay vốn nhanh thì không những ngân hàng có thể đáp ứng được nhu cầu của một doanh nghiệp mà còn đáp ứng được nhu cầu của rất nhiều doanh nghiệp khác. g, Kết quả kinh doanh: Thể hiện ở lợi nhuận mà ngân hàng thu được từ hoạt động tín dụng. Nguồn thu chủ yếu của ngân hàng hiện nay là từ hoạt động tín dụng, đây là nguồn thu giúp ngân hàng tồn tại và phát triển. Do vậy đây cũng là một chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng. Lợi nhuận tín dụng thu được cho thấy các khoản vay không những thu hồi được mag còn thu được lãi, đảm bảo được an toàn đồng vốn cho vay. Bằng việc so sánh chỉ tiêu này giữa các ngân hàng cùng cấp ta có thể đánh giá, xếp loại chất lượng tín dụng của các ngân hàng. 1.2.2.2. Các chỉ tiêu định tính: Chỉ tiêu định tính thể hiện ở việc đánh giá tình hình quy chế, chế độ thể lệ tín dụng của ngân hàng. Ngân hàng phải đảm bảo tuân thu theo các nguyên tắc: - Người vay vốn phải sử dụng đúng mục đích. - Vốn vay phải được đảm bảo bằng giá trị vât tư hàng hoá tương đương hoặc trên uy tín của khách hàng hay sự đảm bảo của người thứ ba. - Vốn vay đảm bảo trả đủ cả gốc và lãi đùng kỳ hạn cam kết. Trên thực tế nếu một trong ba nguyên tắc này không thực hiện được thì khách hàng mất khả năng trả nợ, ngân hàng khó có thể thu hồi vốn dẫn đến mất khả năng thanh toán. Vì vậy khi nói đến chất lượng tín dụng ngân hàng phải xem xét việc tuân thủ ba nguyên tắc trên. 1.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG TÍN DỤGN NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH. 1.3.1. Các yếu tố chủ quan: 1.3.1.1. Nhóm yếu tố từ phía ngân hàng: a, Chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng là hệ thống chủ trương, định hướng quy định chi phối hoạt động tín dụng do hội đồng quản trị của ngân hàng đưa ra nhằm sử dụng hiệu quả nguồn vốn để tài trợ cho các doanh nghiệp, các hộ gia đình và cá nhân trong phạm vi cho phép của những quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt nam. Chính sách tín dụng đã trở thành hướng dẫn cho cán bộ tín dụng và các nhân viên ngân hàng, tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời. Toàn bộ các vấn đề có liên quan đến cấp tín dụng nói chung đều được xem xét và đưa ra trong chính sách tín dụng như: quy mô, lãi suất cho vay, kỳ hạn của khoản vay, sự đảm bảo và khả năng thanh toán của khách hàng, phạm vi, cá khoản tín dụng có vấn đề… Do đó việc hoạch định chính sách tín dụng có ?ý nghĩa quyết định đến kết quả hoạt động tín dụng nói riêng và sự thành bại của mỗi ngân hàng nói chung. Chính sách tín dụng phù hợp sẽ giúp cho ngân hàng phát huy được tốt nhất nội lực của bản thân, từ đó đạt được chất lượng tín dụng cao nhất. b, Chất lượng thẩm định: Thẩm định là một quy trình thu thập, phân tích, và nghiên cứu mọi mặt tình hình của khách hàng trên cơ sở đó sẽ đưa ra quyết định về việc cho vay của ngân hàng. Thẩm định dự án giúp cho ngân hàng rút ra các kết luận chính xác có nên cho khách hàng đó vay không, dựa vào hiệu quả kinh tế và khả năng trả nợ ngân hàng. Và từ quá trình thẩm định, ngân hàng cũng có thể tham gia tư vấn cho chủ đầu tư, đồng thời xác định số tiền, thời hạn, hình thức trả lãi và gốc hợp l?ý tạo điều kiện cho khách hàng hoạt động một cách có hiệu quả. Và nếu việc thẩm định được tiến hành đúng trình tự, nội dung đầy đủ và chính xác thì sẽ giảm thiểu được rủi ro đối với ngân hàng, từ đó chất lượng tín dụng của ngân hàng được nâng cao và ngược lại. c, Khả năng huy động vốn của ngân hàng: Ngân hàng huy động vốn của khách hàng rồi dùng số tiền để đó mang đi đầu tư sinh lời. Tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng vì vậy nếu ngân hàng huy động được những nguồn vốn với chi phí thấp thì sẽ tạo điều kiện cho hoạt động này phát triển. Bởi chi phí nguồn sẽ ảnh hưởng đến lãi suất cho vay để bù đắp chi phí đầu vào và mang lại thu nhập cho ngân hàng. Chất lượng tín dụng phụ thuộc vào chất lượng huy động động vốn và ngược lại. Trong trường hợp ngân hàng huy động được nhiều vốn mà không cho vay được hoặc nhiều doanh nghiệp có nhu cầu vốn nhưng ngân hàng không thể đáp ứng được thì không thể nói rằng chất lượng tín dụng của ngân hàng là tốt vì khi đó không đem lại nhiều thu nhập, có khi còn gây thiệt hại cho ngân hàng. d, Công tác tổ chức bộ máy ngân hàng: Công tác tổ chức bộ máy tác động một phần không nhỏ đến chất lượng tín dụng cuả ngân hàng. Nếu ngân hàng sắp xếp cán bộ, phòng ban một cách có khoa học có tính linh hoạt sẽ tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban, bộ phận trong ngân hàng, có sự đoàn kết nhất trí từ ban lãnh đạo đến từng cán bộ nhân viên ngân hàng đảm bảo đúng người đúng việc nhằm phát huy hết khả năng, sở trường của từng cán bộ. e, Công tác kiểm tra, kiểm soát: Ngân hàng cần tiến hành kiểm tra, kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay. Chỉ có như thế mới có thể biết được khách hàng sử dụng vốn có đúng mục đích và có mang lại hiệu quả không. Thông qua việc kiểm tra, kiểm soát, ngân hàng có thể dự đoán mọi tình hình xung quanh khoản vay và từ đó có những chính sách và biện pháp thích hợp đối với khoản vay, nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng tín dụng. f, Thông tin tín dụng: Thông tin tín dụng là thông tin tài chính, quan hệ tín dụng, bảo đảm tiền vay, tình hình hoạt động và thông tin pháp l?ý của khách hàng có quan hệ với ngân hàng. Và hoạt động thông tin tín dụng là việc thu thập, tổng hợp, cung cấp, lưu trữ, phân tích xếp, dự báo, trao đổi, khai thác và sử dụng thông tin tín dụng nhằm góp phần bảo đảm an toàn hoạt động tín dụng của ngân hàng thông qua ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng. Thông tin tín dụng đầy đủ, chính xác và có hệ thống về khách hàng sẽ góp phần ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng, rủi ro lựa chọn nghịch do thiều thông tin hay thông tin không đối xứng về khách hàng và đối tượng đầu tư. Mục đích quan trọng nhất của hệ thống thông tin tín dụng là tìm kiếm phát hiện sớm các khoản tín dụng có vấn đề và đánh giá đung mức độ rủi ro của các khoản nợ, đồng thời tiên liệu trước các khả năng một khoản tín dụng có thể chuyển sang nợ xấu. Hệ thống thông tin tín dụng nếu đầy đủ và chính xác sẽ hạn chế thấp nhất rủi ro, chất lượng tín dụng từ đó sẽ được nâng cao. 1.3.1.2. Nhóm yếu tố từ phía khách hàng: a, Phương án sản xuất kinh doanh của dự án vay vốn: Trước khi quyết định cho vay, ngân hàng phải phân tích đánh giá tính khả thi của dự án rồi mới đi đến k?ý kết hợp đồng tín dụng. Chỉ có những phương án kinh doanh khả thi thì trong quá trình thực hiện mới có thể sinh lãi và từ đó mới có khả năng trả nợ cho ngân hàng. Vì vậy, tính khả thi của một dự án vay vốn cũng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của ngân hàng. b, Năng lực tài chính của doanh nghiệp: Năng lực tài chính của một doanh nghiệp nó thể hiện ở khối lượng vốn tự có, khả năng thanh toán, hệ số nợ, khả năng sinh lãi. Từ năng lực tài chính của doanh nghiệp, ngân hàng có thể đánh giá doanh nghiệp đó hoạt động có hiệu quả hay không và có thể trả nợ cho ngân hàng hay không. Nếu năng lực tài chính của doanh nghiệp càng cao thì khả năng trả nợ của doanh nghiệp càng lớn. Tuy nhiên, để có thể đánh giá chính xác khả năng tài chính của doanh nghiệp thì các báo cáo tài chính của doanh nghiệp phải đầy đủ, trung thực và vì vậy tốt nhất là các báo cáo tài chính đó phải được kiểm toán trước khi trình ngân hàng.q c, Trình độ quản l?ý doanh nghiệp: Trình độ quản lý doanh nghiệp sẽ cho thấy được triển vọng của phát triển của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có những người quản lý có trình độ học vấn, năng động trong kinh doanh, cùng với những nhân viên có trình độ… sẽ giúp cho doanh nghiệp đó có thể đạt được kết quả, năng suất cao, đồng thời có thể vượt qua được mọi khó khăn. Vì vậy, với những doanh nghiệp này thì chất lượng khoản vay có thể được đảm bảo. d, Uy tín cuả doanh nghiệp: Uy tín của doanh nghiệp trên thương trường thể hiện doanh nghiệp có mối quan hệ tốt với các doanh nghiệp. Đồng thời, uy tín còn thể hiện ở việc doanh nghiệp vay nợ ngân hàng và doanh nghiệp đã trả nợ đúng hạn cả gốc lẫn lãi, có quan hệ lâu dài với ngân hàng. Với những doanh nghiệp có uy tín trong quan hệ tín dụng với ngân hàng thì chất lượng khoản vay luôn được đảm bảo. 1.3.2. Các yếu tố khách quan: a, Môi trường kinh tế và các chính sách vĩ mô của nhà nước: Tất cả các thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh luôn chịu sự chi phối của các chính sách kinh tế vĩ mô cũng như các quy luật của thị trường như: quy luật cung cầu, quy luật giá trị…Và tất cả các yếu tố đó hợp thành một môi trường kinh tế. Môi trường kinh tế phù hợp và phát triển lành mạnh có thể giúp cho các chủ thể tham gia có cơ hội phát triển, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Và nhờ vậy mà hoạt động tín dụng cũng có điều kiện thuận lợi để phát triển và chất lượng tín dụng cũng được nâng lên không ngừng khi các doanh nghiệp vay vốn đều làm ăn có hiệu quả. Trong điều kiện nước ta hiện nay, các yếu tố môi trường kinh tế như lạm phát, tỷ giá, lãi suất thì luôn biến động, chính phủ thì luôn phải can thiệp, điều tiết môi trường kinh tế vĩ mô. Tất cả các yếu tố trên đều ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng và khả năng trả nợ của khách hàng. Do đó, ngân hàng muốn nâng cao chất lượng tín dụng thì điều bắt buộc các ngân hàng phải thực hiện đó là phải làm tốt công tác dự báo và khả năng thích ứng nhanh trước những biến động hay bất kỳ thay đổi nào. b, Môi trường pháp l?ý : Mọi thành phần kinh tế khi tham gia hoạt động trên thị trường đều phải chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật. Và hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng không phải ngoại lệ, cũng phải thực hiện trên cơ sở các điều khoản của pháp luật quy định. Hệ thống pháp luật đã tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng ngân hàng. Pháp luật đưa ra những quy định về hoạt động tín dụng, bắt buộc mọi chủ thể tham gia trong quan hệ tín dụng phải tuân thủ, phải thực hiện tốt nghĩa vụ và được bảo vệ quyền lợi. Điều này ảnh hưởng lớn đến chất lượng kinh doanh của ngân hàng, và giúp cho ngân hàng có thể dễ dàng hơn trong việc xây dựng kế hoạch kinh doanh, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng. c, Môi trường chính trị xã hội: Bất kỳ một biến động nào về mặt chính trị – xã hội đều có tác động đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nếu chính trị – xã hội ổn định sẽ giúp cho nền kinh tế nước đó có khả năng phát triển bền vững, và thúc đẩy hoạt động đầu tư trong toàn xã hội, khuyến khích nhu cầu vay vốn đầu tư. Chính vì vậy, yếu tố chính trị – xã hội có một ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. d, Môi trường công nghệ: Với sự phát triển khoa học công nghệ như vũ bão hiện nay, những ngân hàng lớn trên thế giới đều áp dụng công nghệ hiện đại vào trong việc quản lý, kinh doanh của mình nhằm đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng ở khắp mọi nơi, và cũng nhằm một mục tiêu quản lý một cách tốt nhất hoạt động kinh doanh của ngân hàng mình. Và các ngân hàng Việt nam hiện nay cũng đang tiền hành hiện đại hoá công nghệ để có thể hoà nhập với thế giới và tăng hiệu quả trong quản lý kinh doanh. Với sự phát triển của công nghệ giúp cho khách hàng có thể tiếp cận với dịch vụ của ngân hàng được tốt hơn, và ngân hàng có thể giám sát được các khoản vay một cách chính xác hơn, từ đó nâng cao chất lượng tín dụng. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN LONG BIÊN 2.1. TỔNG QUAN VỀ NHNo&PTNT LONG BIÊN. 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển: 2.1.1.1. Giới thiệu về Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh Long Biên: Cùng với yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế, đồng thời nhằm mở rộng mạng lưới kinh doanh, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ( NHNo&PTNT ) có một mang lưới chi nhánh rộng khắp trên cả nước nhằm phục vụ cho sự phát triển kinh tế từng vùng, từng địa phương. Và với vị trí trên thương trường trong nước cũng như trên thương trường quốc tế ngày càng cao tạo thuận lợi cho các chi nhánh trong hệ thống phát triển đi lên. Chi nhánh NHNo&PTNT Long Biên được thành lập theo quyết định số 351/QĐ/HĐQT- TCCB ngày 14/09/2004 của Chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt nam về việc “mở chi nhánh NHNo&PTNT Long Biên phụ thuộc NHNo&PTNT Việt nam”. Và vào ngày 01/11/2004 NHNo&PTNT Long Biên đã chính thức đi vào hoạt động. NHNo&PTNT Long Biên là tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ tín dụng mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng và sử dụng số tiền đó cho vay và thực hiện các dịch vụ khác đối với các thành phầnh kinh tế và dân cư. NHNo&PTNT Long Biên có trụ sở chính đặt tại 309 Nguyễn văn Cừ, quận Long Biên, thành phố Hà nội. Ban đầu, ngân hàng chỉ có hai đơn vị trực thuộc là: Chi nhánh cấp 2 Chương Dương và Phòng Giao dịch Nguyễn Sơn. Vào năm 2005, với điều kiện cho phép, ngân hàng đã cân đối mở rộng màng lưới và đã thành lập thêm 2 Phòng Giao dịch: Phòng giao dịch Bắc Long Biên và Phòng Giao dịch Bắc Chương Dương. Ngoài ra, ngân hàng còn mở thêm một số điểm thu đổi ngoại tệ tạo điều kiện phục vụ thật tốt mọi khách hàng. Sau hơn một năm đi vào hoạt động, NHNo&PTNT Long Biên đã khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong qua trình phát triển kinh tế của quận. Hiện nay, chi nhánh có 56 cán bộ viên chức, với tinh thần đoàn kết đồng thuận, NHNo&PTNT Long Biên đã từng bước mở rộng, nâng cao chất lượng dịch vụ, triển khai các chương trình tín dụng trọng điểm, đẩy mạnh cho vay khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh trên địa bàn quận, và những địa bàn lân cận. Vì vậy, NHNo&PTNT Long Biên đã và đang tạo được niềm tin, sự tín nhiệm của đông đảo khách hàng, với mục tiêu phục vụ tốt mọi khách hàng và lấy sự tín nhiệm của khách hàng làm yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của chi nhánh. 2.1.1.2. Vai trò của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Long Biên đối với sự phát triển kinh tế của quận: * Thu hút vốn từ các tổ chức, cá nhân trên địa bàn. Quận Long Biên là một quận mới thành lập, đây là một địa bàn đầy tiềm năng cho hoạt động ngân hàng. Ngân hàng có thể giúp cho các khách hàng có thể sử dụng những đồng tiền nhàn rỗi của mình một cách có hiệu quả hơn. Bất kỳ khách hàng nào giờ đây cũng có thêm sự lựa chọn cho việc sử dụng đồng tiền của mình, không để những đồng tiền đó bị bỏ phí, không tạo ra thêm được giá trị. NHNo&PTNT Long Biên với vai trò là một ngân hàng thương mại, thực hiện huy động những nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư rồi mang đi đầu tư nhằm gia tăng giá trị. * Hỗ trợ vốn cho các thành phần kinh tế. Với xu thế phát triển ngày càng nhanh như hiện nay của nền kinh tế, mọi thành phần kinh tế đều có nhu cầu về vốn phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh còn các cá nhân nhu cầu tiều dùng của họ ngày càng lớn. Với mục tiêu phục vụ tốt và chu đáo, lấy chất lượng làm trọng, NHNo&PTNT Long Biên được thành lập và đã phần nào giúp cho các doanh nghiệp cũng như các cá nhân có thể giải quyết được những nhu cầu bức bách đó. Với các loại hình nghiệp vụ đa dạng ngân hàng có thể phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách hàng và góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của địa bàn nói riêng và sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế nói chung. * NHNo&PTNT Long Biên với vai trò là trung gian trong các nghiệp vụ xuất nhập khẩu. Hiện nay khi nền kinh tế nước ta tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, do đó đã khuyến khích các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phát triển. Hoạt động mua bán xuất nhập khẩu là hoạt động tương đối phức tạp vì giữa hai bên có một khoảng cách lớn về địa l?ý. Vì vậy, để thực hiện các hợp đồng mua bán, xuất nhập khẩu đó thì các doanh nghiệp cần một ngân hàng đứng ra thực hiện các nghiệp vụ đó, giúp cho quá trình mua bán giữa hai bên được diễn ra suôn sẻ. Với các dịch vụ của mình ngân hàng đã đưa các doanh nghiệp trong nước có thể tiếp cận gần hơn với các thị trường lớn trên thế giới và hạn chế rủi ro cho các doanh nghiệp trong quá trình trao đổi mua bán. Chi nh¸nh Long Biªn Chi Nh¸nh Ch­¬ng D­¬ng PGD NguyÔn S¬n PGD B¾c Ch­¬ng D­¬ng PGD B¾c Long Biªn Ban Gi¸m ®èc Phã Gi¸m ®èc Gi¸m ®èc Phã Gi¸m ®èc Phßng tÝn dông Phßng TTQT Phßng Tæ chøc Phßng KH-NV Phßng ThÈm ®Þnh Tæ KTKS néi bé Phßng KT-NQ Phßng Hµnh chÝnh Tæ nghiÖp vô thÎ SĐ: BỘ MÁY TỔ CHỨC CHI NHÁNH NHNo&PTNT LONG BIÊN 2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Long Biên: 2.1.2.1. Những hoạt động cụ thể của NHNo&PTNT Long Biên: - Nhận huy động tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn của tất cả các tổ chức và dân cư trên địa bàn bằng VND, ngoại tệ, và bằng vàng bảo đảm giá trị theo giá vàng. - Huy động từ nguồn tổ chức tín dụng với tỷ lệ nhất định. - Phát hành các giấy tờ có giá như kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn, trung – dài hạn, trái phiếu… - Cho vay ngắn hạn, trung - dài hạn đối với các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế để phục vụ sản xuất kinh doanh, làm dich vụ và tiêu dùng. - Chiết khấu kỳ phiếu, sổ tiết kiệm do NHNo&PTNT phát hành, chiết khấu hối phiếu thương mại. - Bảo lãnh các khoả vay và thanh toán của các pháp nhân, thể nhân trong và ngoài nước. - Nhận chuyển tiền trong và ngoài nứơc. - Kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế. - Cung cấp dịch vụ ATM ( máy rút tiền tự động) 2.1.2.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Long Biên: a, Huy động vốn: Tổng nguồn vốn tính đến ngày 31/12/2005 đã đạt 888,9 tỷ đồng tăng so với thời điểm đầu năm là 626,4 tỷ đồng và đã đạt 96,6% so với kế hoạch được giao trong đó nguồn nội tệ đạt 845,9 tỷ đồng chiếm 95% so với tổng nguồn, trong khi đó nguồn ngoại tệ quy đổi chỉ chiếm 4,8% trong tổng nguồn, tương ứng với 42,9 tỷ đồng. Ta thấy nguồn nội tệ đang chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, vì vậy cần có sự điều chỉnh về cơ cấu nguồn một cách hợp lý hơn. Biểu đồ 2: Tổng nguồn vốn của NHNo&PTNT Long Biên. - Cơ cấu nguồn vốn: Bảng 2 : Bảng tổng hợp nguồn vốn theo kỳ hạn tại Ngân hàng Đơn vị tính: tỷ đồng. Quý I Quý II Quý III Quý IV Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Không kỳ hạn 74.0 28.19 54.0 13.51 51.6 13.35 223.0 25.09 Dưới 12 tháng 35.0 13.33 178.9 44.76 153.0 39.58 122.3 13.76 Từ 12-24 tháng 59.0 22.48 67.0 16.76 66.0 17.07 56.0 6.30 Trên 24 tháng 94.5 36.00 99.8 24.97 116.0 30.00 487.6 54.85 Tổng cộng 262.5 100.0 399.7 100.0 386.6 100.0 888.9 100.0 (Nguồn : Phòng kế hoạch – nguồn vốn) Vào thời điểm cuối năm, các con số đã cho thấy tỷ lệ nguồn vốn trên 24 tháng và nguồn không kỳ hạn tại Ngân hàng đã tăng cả về giá trị tuyệt đối lẫn tỷ trọng trong tổng nguồn vốn. Vào qu?ý III tỷ nguồn không kỳ hạn chỉ có 51,6 tỷ đồng, tương ứng 13,35% trong tổng nguồn vốn thì đến quý IV thì nguồn không kỳ hạn đã đạt 223 tỷ đồng, chiếm 25,09% trong tổng nguồn vốn. Còn tiền gửi trên 24 tháng tăng từ 116 tỷ đồng, và chỉ chiếm 30% trong tổng nguồn vào thời điểm cuối năm nguồn tiền gửi trên 24 tháng đã đạt 487.6 tỷ đồng, chiếm 54,85% trong tổng nguồn vốn. Phần tăng này tập trung chủ yếu vào tiền gửi của các tổ chức kinh tế. - Tính chất nguồn vốn: Bảng 3: Bảng tổng hợp nguồn vốn theo thành phần kinh tế. Đơn vị tính: tỷ đồng. Quý I Quý II Quý III Quý IV Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) 1. TG của các TCTD 0.0 0.00 165.0 41.28 30.0 7.76 100.0 11.25 2. TG của dân cư 129.0 49.14 130.4 32.62 133.6 34.56 140.0 15.75 3. TG tổ chức KT 83.5 31.81 54.3 13.59 173.0 44.75 447.0 50.29 4. TG Khác 50.0 19.05 50.0 12.51 50.0 12.93 201.9 22.71 Tổng 262.5 100.0 399.7 100.0 386.6 100.0 888.9 100.0 (Nguồn : Phòng kế hoạch – nguồn vốn) Nhìn chung, nguồn vốn của ngân hàng có nhiều biến động trong năm, cụ thể: trong ba tháng đầu năm, tổng nguồn vốn của ngân hàng là 262,5 tỷ đồng thì sang quý II đã là 399.7 tỷ đồng tăng; tương ứng tỷ lệ là 52,27 %. Sang quý III, tổng nguồn vốn là 386,6 tỷ đồng; đã có sự sụt giảm so với quý II nhưng không đáng kể, giảm tương ứng tỷ lệ là -3.28%. Bước sang quý IV, tổng nguồn vốn đã tăng đột biến. Tổng nguồn vốn quý IV là 888,9 tỷ đồng; tăng tương ứng tỷ lệ là 129,93%. Trong cơ cấu nguồn vốn, có thể thấy được tiền gửi của các tổ chức kinh tế đã tăng lên rất nhanh. Vào quý II chỉ có 54,3 tỷ đồng chỉ chiếm khoảng 13,59% trong tổng nguồn vốn thì đến quý III đã tăng 218,6%, và đạt 173 tỷ đồng, và đã chiếm đến 44,75% trong tổng nguồn. Và đến cuối năm thì tiền gửi của các tổ chức kinh tế đã tăng rất nhanh, đạt 447 tỷ đồng, tăng 158,3% so với quý III. Và đến cuối năm thì tỉ lệ nguồn huy động từ các tổ chức kinh tế đã chiếm 50,29% trong tổng cơ cấu nguồn vốn ngân hàng. Ngoài ra, việc huy động vốn từ một số nguồn khác cũng đã có tác động đáng kể vào kết quả tăng tổng nguồn cả ngân hàng vào thời điểm cuối năm; vào cuối năm tỉ lệ tiền gửi từ các nguồn khác chiếm 22,71% trong tổng nguồn vốn. Với chính sách lãi suất hấp dẫn, cùng với sử dụng nhiều biện pháp để tiếp cận khách hàng, như: tuyên truyền, quảng cáo qua các phương tiện thông tin đại chúng, … với nội dung ngày một hấp dẫn hơn, Chi nhánh đã tiếp cận và sớm thu hút được nhiều khách hàng đến sử dụng sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng. Chính vì vậy, nguồn vốn đã tăng ngày càng cao trong suốt một năm hoạt động, và sẽ còn tăng cao hơn nữa vào các năm tiếp theo khi công tác tiếp thị, quảng cáo đã đạt được những kết quả của mình, đồng thời với việc Ngân hàng đã chiếm được niềm tin của khách hàng. b, Thanh toán quốc tế: Chi nhánh NHNo&PTNT Long Biên bắt đầu đi vào hoạt động Thanh toán quốc tế từ tháng 8/2005. Tuy mới, song bước đầu đã thu được những kết quả đáng khích lệ: - Mở L/C : 56 món trị giá 22.667.000 USD. - Thanh toán L/C : 54 món trị giá 10.869.000 USD. - Thanh toán D/P, D/A : 34 món trị giá 1.311.000 USD. - Thanh toán TTR : 128 món trị giá 15.897.000 USD. c, Kinh doanh ngoại tê: Kinh doanh ngoại tệ tại chi nhánh NHNo&PTNT Long Biên cũng đã thực hiện khá tốt. Doanh số mua trong năm 2005 là 24.350.000 USD và doanh số bán trong năm là 24.249.000 USD. Ngoài ra phí thanh toán quốc tế Ngân hàng đã thu được 61.000 USD. 2.1.3. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại NHNo&PTNT Long Biên: Doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang phát triển rất mạnh trên cả nước và trở thành một thị trường lớn, nhiều tiềm năng cho hoạt động tín dụng ngân hàng. Với xu hướng phát triển của nền kinh tế cũng như của hoạt động tín dụng ngân hàng, doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang trở thành một động lực mạnh mẽ tạo nên sự tăng trưởng liên tục cho nền kinh tế và là một bộ phận khách hàng quan trọng, chủ yếu của ngân hàng. Bảng 4: Số lượng DNNQD có quan hệ tín dụng với ngân hàng: Đơn vị tính: tỷ đồng Số lượng doanh nghiệp Dư nợ Doanh số cho vay Doanh số thu nợ DNN._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36468.doc
Tài liệu liên quan