LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển kinh tế, doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế của một quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Chính vì vậy chính phủ nước ta đã có rất nhiều chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm thúc đẩy thành phần kinh tế này phát triển, nâng cao hiệu quả kinh doanh và cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. Tuy nhiên việc tiếp cận với nguồn vốn để tiến hành các ho
37 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1405 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại nhno chi nhánh Cầu Giấy - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế. Chính vì thế hoạt động tín dụng đối với loại hình doanh nghiệp này của các ngân hàng thương mại cần được cải thiện và chú ý nhằm tăng tính hiệu quả của việc sử dụng vốn và kích thích các doanh nghiệp hoạt động được hiệu quả cao.
Qua quá trình thực tập tại NHNo chi nhánh Cầu Giấy - Hà Nội , sau khi tìm hiểu và biết được khách hàng chủ yếu của ngân hàng chính là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (bao gồm cả các hộ sản xuất kinh doanh) và ngân hàng cũng đang có rất nhiều biện pháp nhằm cải thiện chất lượng tín dụng đối với đối tượng khách hàng này nên em mạnh dạn chọn đề tài để viết luận văn là “Nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHNo chi nhánh Cầu Giấy - Hà Nội” với mong muốn hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHNo chi nhánh Cầu Giấy - Hà Nội hoạt động ngày càng hiệu quả.
Bố cục bài viết được chia làm ba phần chính:
Phần 1: Chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của các NHTM
Phần 2: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNVVN tại NHNo Cầu Giấy - Hà Nội
Phần 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNVVN tại NHNo Cầu Giấy - Hà Nội
Em xin chân thành cảm ơn GS.TS Cao Cự Bội cùng các cán bộ công tác tại NHNo Cầu Giấy - Hà Nội đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
CHƯƠNG 1
HIỆU QUẢ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ - NHỮNG VẤN ĐỀ MANG TÍNH LÝ LUẬN CHUNG
Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ
Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ
Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay ở các nước trên thế giới chỉ mang tính chất tương đối về thời gian lẫn không gian. Quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước thì khác nhau và có thể, quy mô doanh nghiệp nhỏ ở Mỹ, Nhật, Pháp lớn hơn quy mô của doanh nghiệp nhỏ ở Việt Nam, và quy mô của doanh nghiệp vừa và nhỏ của một nước hiện tại có thể lớn hơn quy mô của doanh nghiệp vừa và nhỏ tại nước đó vào thời kì trước.
Ở Việt Nam, một số cơ quan quản lý và tổ chức Nhà nước đã tự đưa ra các tiêu thức để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ như sau:
Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) căn cứ vào hai tiêu thức lao động và vốn của ngành để phân biệt doanh nghiệp vừa và nhỏ với doanh nghiệp lớn như sau:
Ngành
Tiêu thức phân loại
Doanh nghiệp vừa
Doanh nghiệp nhỏ
Vốn
Lao động
Vốn
Lao động
Công nghiệp
5 – 10 tỉ đồng
200 – 500 người
< 5 tỉ đồng
< 200 người
Thương mại
5 – 10 tỉ đồng
50 – 100 người
< 5 tỉ đồng
< 50 người
Mục đích của việc phân loại này nhằm giúp cho phòng thương mại và công nghiệp có căn cứ để hỗ trợ về vốn, tư vấn công nghệ … cho các doanh nghiệp.
Nghị định số 90/2001/NĐ – CP ngày 23/11/2001 nêu rõ: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ là các cơ sở sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật hiện hành, có vốn đăng kí không quá 10 tỉ đồng hoặc có số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội của ngành, địa phương cụ thể; trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp mà có thể áp dụng linh hoạt cả hai tiêu chí vốn và lao động hoặc một trong hai tiêu thức đó.
Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ của chương trình Việt Nam – EU cho rằng doanh nghiệp vừa và nhỏ là các doanh nghiệp có tổng giá trị tài sản không quá 2 triệu USD và có số lao động không quá 500 người.
Tóm lại ở mỗi quốc gia trên thế giới đều có những khái niệm khác nhau và những tiêu chuẩn khác nhau để phân loại như thế nào là một doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhưng nhìn chung những tiêu thức mà các nước thường sử dụng để làm căn cứ phân loại các doanh nghiệp vừa và nhỏ với các doanh nghiệp lớn là các tiêu thức về vốn, lao động hoặc doanh thu. Tùy thuộc vào điều kiện và thời điểm của mỗi nước mà tiêu thức dùng làm phân loại có thể là một hoặc hai trong ba tiêu thức đó.
Đặc trưng của doanh nghiệp vừa và nhỏ
DNVVN có lượng vốn đầu tư ít nên việc thành lập không đòi hỏi cao, bộ máy tổ chức sản suất kinh doanh và quản lý gọn nhẹ, tiết kiệm chi phí. Bên cạnh đó, việc hoạt động của doanh nghiệp khá độc lập tự chủ do có ít công nhân, họ có thể thoả thuận dễ dàng tiền lương và điều chỉnh hoạt động sản xuất.
DNVVN có quy mô nhỏ so với các doanh nghiệp lớn. Đặc điểm này giúp cho DNVVN linh hoạt, thích ứng với biến động của thị trường, có khả năng tiếp cận và đáp ứng được nhu cấu nhỏ lẻ tốt hơn các doanh nghiệp lớn. Đồng thời có thể thường xuyên thay đổi công nghệ mới hiện đại để nâng cao năng lực cạnh tranh cũng như theo kịp nhu cầu của thị trường .
DNVVN có năng lực tài chính hạn chế, bất lợi cho sản xuất kinh doanh. Muốn quá trình sản xuất được thuận lợi thì doanh nghiệp phải tiến hành các hoạt động tín dụng. Nguồn tín dụng chủ yếu là từ Ngân hàng và vay trên thị trường tài chính. Tuy nhiên, do quy mô nhỏ, thiếu tài sản thế chấp, năng lực tài chính chưa cao nên việc vay vốn ngân hàng cũng gặp nhiều khó khăn.
Do quy mô doanh nghiệp nhỏ nên không hấp dẫn các lao động có trình độ. Do đó năng suất lao động tại các DNVVN thấp hơn các doanh nghiệp lớn. Bù lại, bộ phận doanh nghiệp này góp phần giải quyết công ăn việc làm cho một số lượng lớn lao động nhàn rỗi trong xã hội, giải quyết tình trạng thất nghiệp trong nền kinh tế.
Với những đặc điểm nổi bật của các DNVVN ở Việt Nam như trên, cộng với môi trường canh tranh gay gắt như hiện nay thì việc hỗ trợ phát triển DNVVN là nhiệm vụ hết sức cần thiết đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của nền kinh tế.
Vị trí, vai trò của DNVVN
Ở mỗi nền kinh tế quốc gia hay lãnh thổ, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể giữ những vai trò với mức độ khác nhau, song nhìn chung có một số vai trò tương đồng như sau:
Giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế: Các DNVVN thường chiếm tỷ trọng lớn, thậm chí áp đảo trong tổng số doanh nghiệp. Vì thế, đóng góp của họ vào tổng sản lượng và tạo việc làm là rất đáng kể.
Giữ vai trò ổn định nền kinh tế: Ở phần lớn các nền kinh tế, các doanh nghiệp nhỏ và vừa là những nhà thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn. Sự điều chỉnh hợp đồng thầu phụ tại các thời điểm cho phép nền kinh tế có được sự ổn định. Vì thế, DNVVN được ví là thanh giảm sốc cho nền kinh tế.
Làm cho nền kinh tế năng động: vì doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy mô nhỏ, nên dễ điều chỉnh (xét về mặt lý thuyết) hoạt động.
Tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng: doanh nghiệp nhỏ và vừa thường chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết được dùng để lắp ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh.
Là trụ cột của kinh tế địa phương: nếu như doanh nghiệp lớn thường đặt cơ sở ở những trung tâm kinh tế của đất nước, thì doanh nghiệp nhỏ và vừa lại có mặt ở khắp các địa phương và là người đóng góp quan trọng vào thu ngân sách, vào sản lượng và tạo công ăn việc làm ở địa phương.
Ở Việt Nam, DNVVN chiếm 96% trong tổng số doanh nghiệp, đồng thời số lượng các doanh nghiệp được thành lập mới ngày càng tăng nhanh, đóng góp của khu vực DNVVN ngày càng lớn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, vai trò của các DNVVN ngày càng lớn đối với nền kinh tế-xã hội của Việt Nam và được thể hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất: đóng góp quan trọng vào GDP và tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Theo Bộ kế hoạch và Đầu tư, thời gian qua, số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ đăng ký thành lập mới tăng nhanh, hiện cả nước có khoảng 240 ngàn doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm 96% tổng số doanh nghiệp cả nước. Kinh tế tư nhân nói chung và DNVVN nói riêng đã trở thành khu vực kinh tế năng động có vai trò, vị trí quan trọng và đang thật sự là một lực lượng thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam. Các DNVVN đang đóng góp khoảng 30% tổng thu nhập GDP, khoảng 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ….tạo công ăn việc làm cho khoảng 25% lực lượng lao động cả nước, sử dụng trên 90% số lao động có việc làm thường xuyên, đồng thời góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng sản xuất của khu vực DNVVN cũng thường cao hơn so với các khu vực doanh nghiệp khác.
Thứ hai: đóng góp phần không nhỏ vào ngân sách nhà nước và tăng thu hút vốn đầu tư.
Thứ ba: là tiền đề tạo ra những doanh nghiệp lớn, đồng thời làm lành mạnh môi trường đầu tư và kinh doanh với những doanh nghiệp thành công, quy mô của các doanh nghiệp sẽ mở rộng và nhiều doanh nghiệp trong số này dần dần trở thành các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn kinh tế..
Thứ tư: làm tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Hơn nữa, các DNVVN còn là tiền đề để tạo ra một môi trường văn hóa kinh doanh, tạo ra những nhà kinh doanh giỏi.
Nguồn vốn của DNVVN
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để một doanh nghiệp được thành lập và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn của doanh nghiệp chia làm hai bộ phận: vốn chủ sở hữu và nợ.
Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu gồm vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu mới.
ò Vốn góp ban đầu: Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông- chủ sở hữu góp. Xét về hình thức sở hữu của doanh nghiệp thì:
Đối với doanh nghiệp nhà nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của nhà nước. Chủ sở hữu của doanh nghiệp Nhà nước là Nhà nước.
Đối với các doanh nghiệp, theo luật doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp phải có một số vốn ban đầu cần thiết để xin đăng kí thành lập doanh nghiệp.
ò Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia
Nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được sử dụng tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia- nguồn vốn nội bộ là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp, vì doanh nghiệp giảm được chi phí, bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Nhiều doanh nghiệp coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận để lại, nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu như doanh nghiệp đã và đang hoạt động và có lợi nhuận, được phép tiếp tục đầu tư. Nguồn vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ lâu nay chủ yếu dựa vào nguồn vay phi chính thức. Số DN được vay từ nguồn vốn chính thức (ngân hàng) rất hạn chế bởi một phần do bản thân doanh nghiệp và một phần do các định chế từ phía ngân hàng. DNVVN ở Việt Nam có lợi nhuận để lại ít ỏi, nên nguồn vốn chủ sở hữu hình thành từ lợi nhuận không chia rất hạn chế.
ò Phát hành cổ phiếu mới.
Một nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng là phát hành cổ phiếu để huy động vốn cho doanh nghiệp. Phát hành cổ phiếu được gọi là hoạt động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp. Mặc dù phát hành cổ phiếu có nhiều ưu thế so với các phương thức huy động khác, nhưng cũng có hạn chế mà DNVVN gặp không ít khó khăn. Xuất phát từ cán bộ quản lý, phần đông chưa qua đào tạo, việc lập dự án để chứng minh tính khả thi của cơ hội kinh doanh là điều quá sức.
1.1.4.2 Nguồn vay nợ
Để bổ sung vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể sử dụng nợ từ các nguồn: tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại và vay thông qua phát hành trái phiếu.
Vốn tín dụng ngân hàng: Đây là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Ngân hàng đồn vai trò là người cung cấp vốn cho doanh nghiệp từ khi mới thành lập, khi bước vào hoạt động kinh doanh, cung cấp vốn lưu động khi doanh nghiệp có nhu cầu. Trước khi cho vay, ngân hàng luôn phải đòi hỏi người vay hạch toán rõ ràng, minh bạch và định kỳ chuyển cho ngân hàng các tài liệu, báo cáo hoạt động kinh doanh và sử dụng vốn vay.
Vốn tín dụng thương mại: Các DNVVN hầu như không đáp ứng được điều kiện vay vốn của ngân hàng như điều kiện về khả năng tài chính, tính khả thi của dự án hay điều kiện tài sản bảo đảm. Bởi vậy, các DNVVN thường sử dụng phổ biến tín dụng thương mại hay còn được gọi là tín dụng của người cung cấp. Nguồn vốn này được hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu hàng hóa, dịch vụ. Nguồn này có ảnh hưởng trực tiếp to lớn không chỉ với các doanh nghiệp mà còn cả đối với nền kinh tế. Trong một số doanh nghiệp, nguồn vốn này dưới dạng các khoản phải trả có thể chiếm tới 20% tổng vốn, thậm chí có thể chiếm tới 40% tổng vốn.
Ưu điểm của nguồn vốn này là rẻ, tiện dụng và có tính linh hoạt trong kinh doanh. Hơn nữa, nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách một cách lâu bền. Tuy vây, cần nhận thức tính chất rủi ro của quan hệ tín dụng thương mại khi quy mô tài trợ quá lớn.
1.1.4.3 Những khó khăn khi DNVVN tiếp cận với nguồn vốn của các NHTM
- Do tránh việc đóng thuế cao nên các DNVVN thường có hai hệ thống kế toán riêng biệt, một là để khai báo đóng thuế, hai là để khai báo doanh thu thực tế. Khi vay vốn các NHTM thường yêu cầu các báo cáo thuế của các doanh nghiệp, vì thế việc tổng hợp báo cáo thường gặp nhiều khó khăn và sai thực tế. Mặt khác, các báo cáo thuế thấp hơn rất nhiều so với thực tế nên các doanh nghiệp khi nộp báo cáo này để vay vốn thường không đáp ứng đủ điều kiện vay vốn của ngân hàng
- Các DNVVN có hệ thống nhân lực trình độ còn thấp, không có ban chuyên trách về luật pháp nên việc đáp ứng các quy trình và thủ tục vay vốn của NHTM thường khó khăn. Điều này gây tâm lí e ngai cho một số doanh nghiệp khi muốn vay vốn của ngân hàng, từ đó các doanh nghiệp thường huy động nguồn vốn từ các tổ chức kinh tế khác.
- Các DNVVN có nguồn vốn kinh doanh thấp, ít tài sản đảm bảo nên việc thế chấp vay vốn gặp nhiều khó khăn do không đáp ứng được các điều kiện vay vốn của ngân hàng.
1.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng
Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, ngay cả trong quan hệ tài chính tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể, mà thuật ngữ tín dụng có một nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính tín dụng có thể theo các nghĩa sau:
+ Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
+ Trong quan hệ tài chính cụ thể tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể.
+ Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay và các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng.
Nói tóm lại trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì tín dụng được hiểu như sau:
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân doanh nghiệp và các chủ thể khác) trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả về điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.2.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trong nền kinh tế thị trường sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là một tất yếu khách quan và cũng như các loại hình doanh nghiệp khác trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp này cũng sử dụng vốn tín dụng ngân hàng để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn cũng như để tối ưu hoá hiệu quả sử dụng vốn của mình. Vốn tín dụng ngân hàng đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò rất quan trọng,nó chẳng những thúc đẩy sự phát triển khu vực kinh tế này mà thông qua đó tác động trở lại thúc đẩy hệ thống ngân hàng, đổi mới chính sách tiền tệ hoàn thiện các cơ chế chính sách về tín dụng, thanh toán ngoại hối… Để thấy được vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, ta xét một số vai trò sau:
+ Tín dụng ngân hàng góp phần đảm bảo cho hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ được liên tục.
Trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp luôn cần phải cải tiến kỹ thuật thay đổi mẫu mã mặt hàng, đổi mới công nghệ máy móc thiết bị để tồn tại đứng vững và phát triển trong cạnh tranh. Trên thực tế không một doanh nghiệp nào có thể đảm bảo đủ 100% vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Vốn tín dụng của ngân hàng đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc thiết bị cải tiến phương thức kinh doanh. Từ đó góp phần thúc đẩy tạo điều kiện cho quá trình phát triển sản xuất kinh doanh đựơc liên tục.
+ Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Khi sử dụng vốn tín dụng ngân hàng các doanh nghiệp phải tôn trọng hợp đồng tín dụng phải đảm bảo hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn và phải tôn trọng các điều khoản của hợp đồng cho dù doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hay không. Do đó đòi hỏi các doanh nghiệp muốn có vốn tín dụng của ngân hàng phải có phương án sản xuất khả thi. Không chỉ thu hồi đủ vốn mà các doanh nghiệp còn phải tìm cách sử dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh chóng vòng quay vốn, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận phải lớn hơn lãi suất ngân hàng thì mới trả được nợ và kinh doanh có lãi. Trong quá trình cho vay ngân hàng thực hiện kiểm soát trước, trong và sau khi giải ngân buộc doanh nghiệp phải sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả.
+ Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trong nền kinh tế thị trường hiếm doanh nghiệp nào dùng vốn tự có để sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn vay chính là công cụ đòn bẩy để doanh nghiệp tối ưu hoá hiệu quả sử dụng vốn. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ do hạn chế về vốn nên việc sử dụng vốn tự có để sản xuất là khó khăn vì vốn hạn hẹp vì nếu sử dụng thì giá vốn sẽ cao và sản phẩm khó được thị trường chấp nhận. Để hiệu quả thì doanh nghiệp phải có một cơ cấu vốn tối ưu, kết cấu hợp lý nhất là nguồn vốn tự có và vốn vay nhằm tối đa hoá lợi nhuận tại mức giá vốn bình quân rẻ nhất.
+ Tín dụng ngân hàng góp phần tập trung vốn sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ .
Cạnh tranh là một quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường, muốn tồn tại và đứng vững thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, do có một số hạn chế nhất định, việc chiếm lĩnh ưu thế trong cạnh tranh trước các doanh nghiệp lớn trong nước và nước ngoài là một vấn đề khó khăn. Xu hướng hiện nay của các doanh nghiệp này là tăng cường liên doanh, liên kết, tập trung vốn đầu tư và mở rộng sản xuất, trang bị kỹ thuật hiện đại để tăng sức cạnh tranh. Tuy nhiên để có một lượng vốn đủ lớn đầu tư cho sự phát triển trong khi vốn tự có lại hạn hẹp, khả năng tích luỹ thấp thì phải mất nhiều năm mới thực hiện được. Và khi đó cơ hội đầu tư phát triển không còn nữa. Như vậy có thể đáp úng kịp thời, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ có thể tìm đến tín dụng ngân hàng. Chỉ có tín dụng ngân hàng mới có thể giúp doanh nghiệp thưc hiện được mục đích của mình là mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh.
1.3 Hiệu quả của tín dụng
1.3.1 Khái niệm
Hiệu quả tín dụng là một trong những biểu hiện của hiệu quả kinh tế trong lĩnh vực ngân hàng, nó phản ánh chất lượng của các hoạt động tín dụng ngân hàng. Đó là khả năng cung ứng tín dụng phù hợp với yêu cầu phát triển của các mục tiêu kinh tế xã hội và nhu cầu của khách hàng đảm bảo nguyên tắc hoà trả nợ vay đúng hạn, mang lại lợi nhuận cho ngân hàng thương mại từ nguồn tích luỹ do đầu tư tín dụng và do đạt được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Trên cơ sở đó đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững của ngân hàng.
Vì vậy, hiệu quả tín dụng là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh khả năng thích nghi của tín dụng ngân hàng với sự thay đổi của các nhân tố chủ quan (khả năng quản lý, trình độ của cán bộ quản lý ngân hàng …) khách quan mức độ an toàn vốn tín dụng ,lợi nhuận của khách hàng , sự phát triển kinh tế xã hội …). Do đó hiệu quả tín dụng là kết quả của mối quan hệ biện chứng giữa ngân hàng – khách hàng vay vốn-nền kinh tế xã hội, cho nên khi đánh giá hiệu quả tín dụng cần phải xem xét cả ba phía ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế.
1.3.2 Các tiêu thức đánh giá hiệu quả tín dụng
1.3.2.1 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng về phía ngân hàng
Để đánh giá hiệu quả tín dụng trong nội bộ ngân hàng thương mại , người ta sử dụng “Hệ số chênh lệch lãi ròng” (NIM=Net Interest Margin) là tỷ số giữa thu nhập lãi ròng với số tài sản có hoặc tài sản sinh lợi.
Hệ số chênh lệch lãi ròng (%)
=
Thu nhập lãi ròng
x 100
Tài sản sinh lời
Công thức trên đã chỉ rõ các tiêu thức chủ yếu liên quan trực tiếp đến khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng là thu nhập lãi ròng và tài sản sinh lời. Trong đó nhân tố thu nhập lãi ròng của tài sản sinh lời giữ vai trò trọng yếu .
Thêm vào đó, để đánh giá đầy đủ hiệu quả tín dụng trong năm tài chính, người ta còn tính đến hệ số:
Giá trị tín dụng tổn thất thực tế
x 100
Tài sản sinh lời
Tóm lại, khả năng sinh lợi của các khoản cho vay và đầu tư phụ thuộc vào chi phí của các khoản cho vay, đầu tư, tổn thất tín dụng và lãi suất ngân hàng áp dụng .
Ngoài các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng ở năm tài chính nói trên người ta còn sử dụng đến một số chỉ tiêu khác khi xem xét mặt hoạt động này trong một quá trình nhiều năm đến thời điểm nghiên cứu, cụ thể là:
Phân tích tình hình nợ quá hạn để biết thêm chất lượng tín dụng, khả năng rủi ro, hiệu quả kinh doanh của các tổ chức tín dụng, từ đó có biện pháp khắc phục trong tương lai.
Tỷ lệ nợ quá hạn (%)
=
Nợ quá hạn
x 100
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ khó đòi (%)
=
Nợ khó đòi
x 100
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ tổn thất (%)
=
Nợ được xếp loại tổn thất
x 100
Tổng dư nợ
Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi ro với nợ được xếp loại tổn thất (%)
=
Quỹ dự phòng rủi ro
x 100
Nợ được xếp loại tổn thất
Nợ được xếp loại tổn thất = Nợ xoá từ chủ trương của Chính phủ
Trên đây là những chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng ngân hàng về phía ngân hàng. Hiệu quả do hoạt động tín dụng mang lại phải bù đắp chi phí cho vay, rủi ro trong tín dụng, có lợi nhuận không chỉ đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên, không ngừng tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện, làm việc phục vụ khách hàng theo hướng ngày càng hiện đại, làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước mà còn có tích luỹ để tăng vốn tự có.
1.3.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá tín dụng về mặt xã hội
Về khía cạnh kinh tế xã hội trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, hiệu quả tín dụng ngân hàng thường được đánh giá thông qua các chỉ tiêu chủ yếu như: kết quả thực hiện tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá cố định, giá hiện hành phân theo ngành kinh tế …; kết quả đạt được về diện tích, năng suất, sản lượng nông – lâm- ngư –diêm nghiệp đối với từng loại cây trồng, vật nuôi, loại thuỷ, hải sản đánh bắt …; giá trị tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp và xây dựng tại nông thôn… Những chỉ tiêu này được tính hằng năm hoặc trong một gia đoạn nhất định tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Mỗi chỉ tiêu có một ý nghĩa nhất định: từ việc phản ánh sự tăng trưởng của nền kinh tế đến mức độ phát triển của các nghành nông –lâm – ngư – diêm nghiệp, công nghiệp và xây dựng cùng khả năng đáp ứng cho nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và tạo việc làm ở khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Thêm vào đó cần phải xem xét mức độ tập trung, bố trí vốn tín dụng ngân hàng cho các chương trình phát triển kinh tế có hiệu quả, theo đường lối chiến lược kinh tế của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ, góp phần tích cực khai thác mọi nguồn lực, tăng cường giải quyết công ăn việc làm, giảm thời gian nông nhàn, ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn xã hội ở nông thôn.
1.3.2.3 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng đối với khách hàng
Để đánh giá hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với khách hàng, người ta thường sử dụng những chỉ tiêu phản ánh về lợi nhuận, hiệu quả vốn, sử dụng lao động…của khách hàng cụ thể là:
+ Về các chỉ tiêu lợi nhuận:
Hệ số lợi nhuận (%)
=
Lợi nhuận thu được
x 100
Doanh thu
Tỷ suất lợi nhuận (%)
=
Lợi nhuận thu được
x 100
Tổng chi phí sản xuất
Tỷ suất doanh lợi (%)
=
Lợi nhuận thu được
x 100
Vốn sản xuất
Vốn sản xuất = vốn cố định + vốn lưu động
+ Về các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn:
Hiệu quả sử dụng vốn cố định
=
Tổng thu nhập
Vốn cố định
Hiệu quả sử dụng vốn lưu đồng
=
Tổng thu nhập
Vốn lưu động
+ Về các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao đông:
Năng suất lao động
=
Giá trị thực tế tổng giá trị hàng hoá
Số lao động bình quân
Hiệu quả sử dụng lao động
=
Tổng thu nhập
Số lao động bình quân
Vì vậy về phía khách hàng, hiệu quả sử dụng thể hiện ở sự thành đạt qua quá trình sử dụng vốn vay để tổ chức thực hiên các phương án, dự án sản xuất, kinh doanh đã thoả thuận với ngân hàng khi đến quan hệ vay vốn.
1.3.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng.
1.3.3.1 Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
Đường lối, chủ trương, chính sách của đảng, pháp luật của nhà nước, nhất là đường lối phát triển kinh tế đúng đắn sẽ giải phóng lực lượng sản xuất, sử dụng tốt hơn các nguồn lực của đất nước, tranh thủ được nguồn vốn khoa học, kỹ thuật… tất cả điều đó đã tạo thuận lợi nâng cao chất lượng và hiệu quả tín dụng ngân hàng.
1.3.3.2 Hiệu quả sản xuất, kinh doanh của khách hàng vay vốn
Một trong 2 nguyên tắc vay vốn là sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng, điều này khẳng định việc sử dụng vốn vay đúng mục đích có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình hoạt động tín dụng. Rõ ràng hạn chế những rủi ro trong sản xuất. Kinh doanh đồng nghĩa với việc hạn chế rủi ro trong tín dụng, góp phần nâng cao hiệu quả tín dụng.
1.3.3.3 Hiệu quả tín dụng ngân hàng phụ thuộc vào thông tin về khách hàng vay vốn và về khoản vay
+ Quyết định cho vay phải dựa trên thông tin về khách hàng vay vốn.Thẩm định uy tín khách hàng vay vốn là yêu cầu trước tiên và quan trọng nhất trong quan hệ tín dụng.
+ Quyết định cho vay phải dựa trên những thông tin về khoản vay. Bên cạnh những thông tin thu thập từ Ngân Hàng Nhà Nước. Thì các Ngân hàng thương mại phải xem xét bảng cân đối tài khoản nhưng không chỉ dừng lại ở các con số mà còn đưa ra nhiều nhận xét. Đánh giá đối chiếu những giữ liệu liên quan tác động lẫn nhau trong quá khứ, hiện tại, tương lai của khách hàng
1.3.3.4 Tài sản đảm bảo tiền vay phải có tính khả thi cao
Việc đặt ra vấn thế chấp tài sản đối với khoản vay một phần để hạn chế có hiệu quả hiện tượng khách hàng vay ngân hàng lại mang những tài sản này thanh toán cho những tổ chức tín dụng khác. Chính vì vậy đòi hỏi tài sản đảm bảo tiền vay không chỉ có giá trị mà bản thân nó dễ trở thành hàng hoá trên thị trường với giá trị mới thu về sau khi phát mãi phải lớn hơn giá trị khoản vay.
1.3.3.5 Ngân hàng phải được độc lập trong quyết định cho vay và hoàn toàn chịu trách nhiệm về quyết định này
Tuyệt đại bộ phận nguồn vốn cho vay đều xuất phát từ nguồn vố huy động của các thành phần kinh tế và tầng lớp dân cư, do vậy ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả đầy đủ, đúng hạn chính xác lãi và vốn cho khách hàng gữi tiền. Sự độc lập trong các quyết định cho vay của ngân hàng trong phạm vi điều chỉnh của pháp luật sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho những khoản vay đó phát huy tác dụng tích cực. Mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội thiết thực và khi ấy thực tiễn và đạo lý ngân hàng mới chịu trách nhiệm hoàn toàn về các quyết định của mình.
1.3.3.6 Mở rộng quy mô tín dụng gắn liền với nâng cao chất lượng và hiệu quả tín dụng
Ngân hàng thưong mại hoạt động kinh doanh theo phương châm “ Đi vay để cho vay”. Do đó chúng không thể tồn tại và phát triển nếu định hướng kinh doanh, cho vay của nó theo hình thức mạo hiểm, rủi ro.
Các nhân tố ảnh hưởng hiệu quả tín dụng ngày càng được bổ sung để theo kịp những biến đổi của nền kinh tế, đặc biệt là quá trình phát triển của công tác tín dụng. Mặc dù chúng chưa được hoàn hảo, song nếu không được tôn trọng thực hiện nghiêm túc sẽ là một tai hoạ cho hiệu qủa tín dụng và hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG NHNo&PTNT CHI NHÁNH CẦU GIẤY HÀ NỘI
2.1 Khái quát về NHNo&PTNT Cầu Giấy
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của chi nhánh NHNo & PTNT Cầu Giấy
Quận Cầu Giấy - một trong những quận được hình thành từ khá sớm của Thủ đô Hà Nội, và là đầu mối giao thông quan trọng phía Tây thành phố với lưu lượng hàng hóa giao thương rất lớn. Là nơi tập trung rất nhiều trường đại học, cơ quan nhà nước, nhiều khu dân cư tập trung, hiện đại đã và đang được xây dựng, cùng một số lượng lớn các công ty mới hình thành đặt trụ sở làm việc và kinh doanh trên địa bàn.
Với những điều kiện thuận lợi về mặt vị trí địa lý - kinh tế - xã hội, năm 1997 chi nhánh Agribank Cầu Giấy đã được thành lập, tách ra từ chi nhánh Agribank huyện Từ Liêm, Hà Nội chuyển đổi thành chi nhánh cấp 2 trực thuộc Agribank Hà Nội.
Từ những ngày đầu mới thành lập, dù còn bao khó khăn, thiếu thốn về nhân lực và cơ sở vật chất nhưng ban lãnh đạo và cán bộ công nhân viên của chi nhánh vẫn hết sức nỗ lực để đạt được những kết quả tốt nhất, đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển chung của hệ thống ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. Đến năm 2004, một trụ sở mới khá khang trang, bề thế với đầy đủ trang thiết bị đã được xây dựng tại số 99 đường Trần Đăng Ninh, tạo điều kiện mở rộng thêm hoạt động của chi nhánh, tạo đà cho những bước phát triển của chi nhánh nói riêng cũng như toàn bộ hệ thống Agribank nói chung sau này.
Ngày 12/1/2006, Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã ra quyết định số 35, nâng cấp Agribank Cầu Giấy từ chi nhánh cấp 2 thành chi nhánh cấp 1, trực thuộc NHNN&PTNT Việt Nam.
Trên cơ sở đó, ngày 13/1/2006, chủ tịch hội đồng quản trị NHNN&PTNTVN đã ra quyết định số 28, chính thức thành lập chi nhánh cấp I-chi nhánh Agribank Cầu Giấy. Chi nhánh đã tổ chức lễ khai trương và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 20/3/2006.
Tại thời điểm bắt đầu chuyển đổi lên chi nhánh cấp I, chi nhánh chỉ có 31 nhân viên và 4 Phòng giao dịch trực thuộc. Đến cuối năm, chi nhánh đã có 100 nhân viên và 10 Phòng giao dịch trực thuộc. Trong các năm hoạt động, đặc biệt là từ khi chuyển đổi thành chi nhánh cấp I, Agribank Cầu Giấy đều đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận trong hoạt động kinh doanh.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của NHNo&PTNT Cầu Giấy
Để thực hiện tốt nhiệm vụ mà ngân hàng Trung Ương giao ph._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1862.doc