Tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội: LỜI NÓI ĐẦU
Với nền kinh tế Việt Nam cũng như các nước trên thế giới doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) đang ngày càng khẳng định vai trò và vị trí của mình trong nền kinh tế xã hội. Theo thống kê đội ngũ này chiếm khoảng 85% tổng số các doanh nghiệp trong cả nước, đóng góp khoảng 30% GDP và thu hút được một lực lượng lao động đáng kể, tạo nhiều công ăn việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khai thác những tiềm năng trong dân chúng. Tuy nhiên, các DNVVN vẫn phải đối mặt với rất nhiều khó... Ebook Nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội
86 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1262 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khăn vướng mắc cần giải quyết, và một trong những khó khăn lớn nhất đó là vốn.
Thành lập và đi vào sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng cần có một lượng vốn nhất định. Nguồn vốn này có thể được huy động bằng nhiều nguồn khác nhau: của bạn bè, của gia đình... Nhưng có một nguồn vốn mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng muốn tiếp cận đó là vốn vay từ ngân hàng thương mại. Các NHTM có thể cung cấp cho các doanh nghiệp một lượng vốn lớn, rẻ và quan trọng hơn là họ có thể đáp ứng ngay khi các doanh nghiệp có yêu cầu và có đủ điều kiện để vay vốn. Các NHTM có vai trò hết sức quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu về vốn của các DNVVN. Nhưng bên cạnh việc ngân hàng cho các doanh nghiệp vay ngày càng tăng là việc nâng cao chất lượng tín dụng các khoản vay để công tác tín dụng ngân hàng ngày một hiệu quả.
Nhận thức vai trò quan trọng của tín dụng ngân hàng đối với các DNVVN, sau một thời gian thực tập, khảo sát tình hình thực tế cho vay của Chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội, em đã chọn đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình là “Nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội”.
Chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHTM
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với các DNVVN tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các DNVVN tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội.
Chương I. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1- Tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.1- Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.1.1- Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc gần đây đã khẳng định: Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nhà nước ta khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho DNVVN phát huy tính chủ động sáng tạo vốn có, nâng cao năng lực quản lý, phát triển khoa học công nghệ và nguồn nhân lực, mở rộng các mối liên kết với các loại hình doanh nghiệp khác, tăng hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường, tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động.
Trên thế giới có rất nhiều quan điểm cũng như tiêu thức khác nhau dể định nghĩa và phân biệt DNVVN với các loại hình doanh nghiệp khác. Trong đó có hai tiêu thức được sử dụng phổ biến nhất là: tổng số vốn sản xuất kinh doanh và số lượng lao động của doanh nghiệp (DN).
Đối với Việt Nam, văn bản đầu tiên đưa ra tiêu chí xác định DNVVN là công văn số 681/CP-KTN ban hành ngày 20/06/1998. Theo đó, DNVVN được tạm thời quy định là “Những DN có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao động trung bình hàng năm dưới 200 người”. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước, các DN mới ra đời ngày một nhiều, có không ít DN có số vốn vượt quá 5 tỷ đồng nhưng vẫn chưa đủ mạnh để được coi là một DN lớn. Để đáp ứng được đòi hỏi của thực tế, ngày 23/11/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/NĐ-CP đưa ra tiêu chí mới để xác định DNVVN của Việt Nam. Theo Nghị định:
“Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”.
Vì tình hình kinh tế của mỗi địa phương là khác nhau nên trong khi phân loại các DN có thể áp dụng cả hai chỉ tiêu hoặc chỉ sử dụng một trong hai chỉ tiêu vốn và số lượng lao động để xếp loại và có những định hướng cũng như các chính sách hỗ trợ.
1.1.1.2- Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Theo số liệu của Chi cục Thống kê TP Hà Nội, đến hết năm 2006,về mặt số lượng các DNVVN trên địa bàn chiếm tuyệt đại đa số trong tổng số DN của thủ đô (Số DN có dưới 500 lao động chiếm 86%, số DN có vốn dưới 10 tỷ đồng chiếm 75%). Phần lớn các DNVVN nằm trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực thương mại (khoảng 50%) và công nghiệp (khoảng 22-24%) tiếp theo là xây dựng, kinh doanh khách sạn nhà hàng với số lượng đông đảo như trên, các DNVVN có một số đặc điểm nổi bật như sau:
Chủ doanh nghiệp có trình độ chưa cao nên khả năng quản lý, điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh thấp.
Theo số liệu thống kê, chủ các DNVVN thường có trình độ về một lĩnh vực nhất định. Các chủ doanh nghiệp này có trình độ đại học, trên đại học còn hạn chế, đặc biệt là những kiến thức về thị trường cũng như hiểu biết về các quy luật kinh tế, các quy định của pháp luật. Vì vậy mà các ông chủ này gặp rất nhiều khó khăn trong việc lập kế hoạch sản xuất, phân phối, tiêu thụ hàng hoá cũng như nắm bắt các công nghệ hiện đại và có kế hoạch lâu dài nhằm mang lại lợi nhuận cho DN cũng như sự phát triển ổn định cho nền kinh tế.
DNVVN có quy mô hoạt động nhỏ bé.
Do nguồn vốn tự có ban đầu nhỏ bé lại thêm khó khăn trong việc tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng cũng như các tổ chức tín dụng nên quy mô hoạt động của các DN này ngay từ đầu đã rất hẹp, mang tính tự phát. Hơn nữa, trong quá trình hoạt động, các DNVVN ít khi tiếp cận được những khách hàng lớn và những nguồn vốn rẻ nên cơ hội để mở rộng quy mô sản xuất là rất hiếm hoi. Vì vậy, muốn mở rộng quy mô cho các DNVVN thì nhà nước và đặc biệt là các NHTM có những chính sách ưu đãi đối với họ.
Sức cạnh tranh của các DNVVN thấp, chịu nhiều ảnh hưởng của môi trường kinh doanh bên ngoài.
Do nguồn vốn có hạn, quy mô sản xuất nhỏ, công nghệ lạc hậu nên các sản phẩm làm ra có sức cạnh tranh thấp hơn so với sản phẩm của các DN lớn, doanh nghiệp quốc doanh và đặc biệt là các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài. Thêm nữa, do sức cạnh tranh thấp nên các DNVVN ít có khả năng chống lại những biến động lớn của thị trường, và thường thì các DN này hay gặp rủi ro khi có những biến động bất lợi của thị trường.
1.1.1.3- Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động
Mục đích chính của các nhà doanh nghiệp là lợi ích kinh tế mà họ thu được. Nhưng vô hình chung, sự ra đời của các DN lại giải quyết vấn đề việc làm cho không ít người lao động. Ở Việt Nam hàng năm có khoảng 20 triệu người đến độ tuổi lao động, ngoài ra còn một số lượng lớn những người bán thất nghiệp ở nông thôn và thành thị. Với nhu cầu về việc làm lớn như vậy, chỉ các DN lớn hay các DNNN không thể đáp ứng nổi. Mặt khác, một phần lực lượng lao động này cũng không đáp ứng được những đòi hỏi về tay nghề và trình độ mà các DN lớn trong nước và nước ngoài đòi hỏi. Vì vậy, các DNVVN ra đời đã phần nào giảm bớt gánh nặng thất nghiệp cho xã hội. DNVVN hoạt động trong nhiều lĩnh vực nên các DN này có thể sử dụng người lao động ở mọi trình độ, vì vậy những người có trình độ chuyên môn không cao vẫn có thể tìm được việc làm thích hợp với khả năng của mình. Theo số liệu của bộ lao động thương binh và xã hội, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị đã giảm từ 13% năm 1989 xuống còn 6,2% năm 1994 và hàng năm có khoảng gần 1 triệu lao động tìm được việc làm trong các DNVVN.
Góp phần to lớn vào tốc độ tăng trưởng kinh tế
Từ khi ra đời các DNVVN đã khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực kinh tế tiềm ẩn trong dân cư, hoạt động của các DNVVN thực sự đã góp một phần không nhỏ vào sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Theo số liệu thống kê của Bộ kế hoạch và đầu tư, mỗi năm các DNVVN Việt Nam tạo ra khoảng 25-26% GDP của cả nước, 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 64% tổng khối lượng luân chuyển hàng hoá. Bên cạnh đó, các DNVVN còn giữ một vai trò quan trọng trong việc giữ gìn và phát triển những làng nghề truyền thống nhằm giữ được những nét văn hoá Việt Nam trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Tăng tính năng động và đa dạng cho nền kinh tế
Với đặc trưng về nguồn vốn và quy mô hoạt động, các DNVVN có khả năng nhanh chóng chuyển đổi mặt hàng kinh doanh, chuyển hướng sản xuất và đổi mới công nghệ…cho phù hợp với sự biến động của môi trường kinh doanh. Như vậy, vô hình chung các DNVVN đã làm cho nền kinh tế trở nên năng động hơn. Thực tế cho thấy, tốc độ gia tăng các DNVVN lớn hơn rất nhiều so với các DN lớn và đương nhiên khi có càng nhiều doanh nghiệp ra đời thì tính cạnh tranh của thị trường càng được tăng lên. Một thị trường có tính cạnh tranh cao sẽ thúc đẩy các DN tự hoàn thiện và nâng cao vị thế của mình. Và với vai trò là các đơn vị vệ tinh cho các DN lớn, DN quốc doanh các DNVVN cũng góp phần không nhỏ vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phù hợp với định hướng phát triển của từng giai đoạn.
Góp phần tăng thu cho Ngân sách Nhà nước.
Đóng thuế là trách nhiệm của mọi công dân, mọi tổ chức, và như chúng ta đã biết thuế là nguồn thu chính của ngân sách nhà nước. Đây chính là nguồn chi trả cho lợi ích chung của xã hội. Do đó, sản xuất kinh doanh phát triển tạo ra nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Trong những năm vừa qua, do có sự quan tâm tạo điều kiện của nhà nước và với khả năng sáng tạo của mình các DNVVN đã từng bước khẳng định vị trí của mình. Hàng năm khu vực này đã đóng góp trên 30% ngân sách nhà nước, góp phần giảm sự mất cân đối của cán cân ngân sách, phát huy vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước.
1.1.1.4- Tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Vốn có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh. Ngay từ khi mới thành lập một doanh nghiệp, một công ty hay bất kỳ một loại hình kinh tế nào khác cũng cần phải có một số vốn nhất định. Trong mọi DN, vốn đều bao gồm hai bộ phận: Vốn chủ sở hữu và nợ.Vốn chủ sở hữu của DN bao gồm vốn góp ban đầu, nguồn vốn từ lợi nhuận không chia và phát hành cổ phiếu. Nguồn vốn còn lại được hình thành từ các khoản vay ngân hàng, phát hành trái phiếu công ty.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh thì tình trạng thừa thiếu vốn luôn là điều không thể tránh khỏi đối với một doanh nghiệp. Để giải quyết sự thiếu hụt vốn, trước hết, bản thân doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường thông qua con đường phát hành cổ phiếu, trái phiếu đòi hỏi doanh nghiệp phải có qui mô lớn, sản xuất kinh doanh có hiệu quả và có uy tín trên thị trường, hơn nữa phải có một thị trường vốn hoàn chỉnh với một hệ thống tổ chức tài chính trung gian đủ mạnh có khả năng đảm đương việc bảo lãnh phát hành cổ phiếu, trái phiếu của công ty và nó còn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ dân trí, thói quen kinh doanh và sự sôi động của thị trường vốn thứ cấp.
Ở nước ta hiện nay thị trường chứng khoán đang trên đà phát triển và hoàn thiện. Việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu của các công ty để huy động vốn cũng không phải là một điều gì quá xa lạ và mới mẻ . Tuy nhiên, để đáp ứng được những quy định của việc phát hành các chứng khoán và tham gia niêm yết trên thị trường thì phải thoả mãn các điều kiện như trong quy định của Nghị định 144 và mới đây nhất là Luật Chứng khoán. Theo các văn bản này một chủ thể phát hành phải có số vốn tối thiểu là 10 tỷ đồng. Điều kiện này tuy đơn giản nhưng không phải bất cứ một DNVVN nào cũng đáp ứng được. Do đó, huy động vốn qua thị trường chứng khoán để huy động vốn phát triển sản xuất kinh doanh đối với các DNVVN vẫn chưa thực sự hiệu quả.
Chính vì lẽ đó, đối với các DNVVN tín dụng Ngân hàng luôn được coi là một điểm tựa vững chắc về vốn.
1.1.2- Tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.2.1- Khái niệm tín dụng ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường có nhiều hình thức quan hệ tín dụng, như: Tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước, tín dụng tiêu dùng, tín dụng quốc tế…Trong đó, tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng phổ biến và có vai trò quan trọng nhất trong nền kinh tế. Đồng thời, nó cũng giữ vị trí chủ chốt trong hoạt động của mỗi ngân hàng thương mại.
Chúng ta có thể nói: “Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng - một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ - với một bên là các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng vừa là người đi vay, vừa là người cho vay”
Nói đến tín dụng ngân hàng ta vẫn cho rằng nó bao gồm cả hoạt động “đi vay” và hoạt động “cho vay” của ngân hàng .Tuy nhiên, trên thực tế, do tính chất phức tạp của hoạt động ngân hàng mà các nhà quản lý đã tách riêng hoạt động nhận tiền gửi và hoạt động cho vay, do hai bộ phận chuyên môn độc lập nhau đảm nhận: bộ phận Nguồn vốn và bộ phận Tín dụng. Hoạt động nhận tiền gửi không được gọi là hoạt động tín dụng mà là hoạt động “huy động vốn” do bộ phận Nguồn vốn thực hiện. Bộ phận tín dụng chuyên làm nhiệm vụ cho vay. Như vậy định nghĩa: "Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn bằng tiền tệ, trong đó ngân hàng là người cho vay, còn người đi vay là các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trên nguyên tắc người đi vay sẽ hoàn trả cả vốn lẫn lãi vào một thời điểm xác định trong tương lai như hai bên đã thoả thuận" sẽ phù hợp với hoạt động thực tế của các ngân hàng .
Tuy nhiên, “Bản chất của tín dụng ngân hàng là sự vận động của vốn tiền tệ thông qua các ngân hàng”. Ngân hàng bằng các nghiệp vụ và các hình thức huy động vốn khác nhau huy động lượng tiền nhàn rỗi trong lưu thông, tạo thành nguồn vốn lớn. Đồng thời, ngân hàng sử dụng chính nguồn vốn này để đem cho vay với lãi suất lớn hơn lãi suất tiền gửi. Là trung gian nên ngân hàng là cầu nối giữa người có vốn và người cần vốn, hay nói cách khác việc sử dụng nguồn vốn trong các doanh nghiệp nói riêng và trong nền kinh tế nói chung được ngân hàng điều hoà sao cho phù hợp và đạt hiệu quả cao. Như vậy, ngân hàng bằng hoạt động của mình đã góp phần vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong xã hội, thông qua chức năng tạo tiền ngân hàng có thể nhận nguồn tiền gửi tăng trưởng theo bội số tạo tiền. Qua đó, ngân hàng sẽ được hưởng phần chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động.
1.1.2.2- Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với DNVVN
Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn hợp lý cho DNVVN
Nguồn vốn của một DN luôn bao gồm hai phần: Vốn tự có và vốn vay. Sự kết hợp nhất định giữa hai nguồn này chỉ ra chi phí vốn tối ưu cho doanh nghiệp. Cơ cấu vốn tối ưu là sự kết hợp hợp lý nhất các nguồn tài trợ cho kinh doanh của một doanh nghiệp nhằm mục đích tối đa hoá giá trị thị trường của doanh nghiệp tại mức giá vốn bình quân rẻ nhất. Cơ cấu vốn tối ưu cần đạt được sự cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận. Nếu tỷ lệ vốn của chủ lớn thì mức độ rủi ro của DN thấp nhưng kéo theo mức lợi nhuận thu được cũng thấp do vốn chủ sở hữu thường là nhỏ bé trong khi nhu cầu vốn của DN là rất lớn, vì vậy để đáp ứng được nhu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như mong muốn tăng nguồn lợi thu được, các DN phải tiếp cận với nguồn vốn vay.
Nhưng nếu vốn vay quá lớn thì chi phí vốn sẽ tăng, kéo theo giá thành tăng và đương nhiên lợi nhuận thu được sẽ giảm, đồng thời khả năng thanh toán của DN giảm, rủi ro dẫn tới nguy cơ phá sản tăng. Do đó, tỷ lệ vốn vay càng lớn, doanh nghiệp càng phải chịu sự kiểm soát sát sao và các điều kiện vay vốn chặt chẽ của ngân hàng. Vì thế, các ngân hàng và các DN phải cân nhắc trong việc quyết định tỷ trọng giữa vốn vay và vốn chủ trong cơ cấu vốn sao cho hợp lý để vừa đáp ứng được nhu cầu về vốn, vừa đảm bảo được nguồn thu và mang lại sự an toàn cho hoạt động kinh doanh.
Tín dụng ngân hàng tác động vào xu thế chuyển dịch cơ cấu sản xuất của DNVVN
Nhà nước ta đang có chủ trương chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế theo hướng nâng cao tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ trong tổng thu nhập quốc nội. Như vậy, các DN hoạt động trong các lĩnh vực nãy sẽ được hưởng sự ưu đãi khi muốn vay vốn của các NHTM. Cụ thể, như khi muốn lập hồ sơ vay vốn, các DN này được sự ủng hộ của chính quyền địa phương nên thủ tục giấy tờ được giải quyết nhanh chóng, về phía ngân hàng sẽ có những chính sách ưu đãi về lãi suất, về xét duyệt hạn mức tín dụng, điều kiện cho vay cũng dễ dàng hơn các DN khác…
Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho DNVVN mở rộng sản xuất
Ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động của mình thông qua việc huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong toàn bộ nền kinh tế để tài trợ cho các thành phần kinh tế nói chung và DNVVN nói riêng. Để đảm bảo cho các DNVVN không chỉ duy trì sản xuất mà còn mở rộng tái sản xuất, tín dụng ngân hàng tài trợ vốn cho DN không chỉ với các khoản vay ngắn hạn mà còn có các khoản vay trung và dài hạn. Muốn mở rộng sản xuất kinh doanh, ngoài thị trường tiềm năng trong nước các DN còn phải chú trọng tới thị trường nước ngoài. Tín dụng ngân hàng thông qua nghiệp vụ bảo lãnh, tài trợ cho nghiệp vụ xuất nhập khẩu giúp cho DN đạt được mục đích này. Nói chung với các nghiệp vụ của mình ngân hàng đã giúp các DN nói chung và DNVVN nói riêng mở rộng được thị phần của mình, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tín dụng ngân hàng giúp các DNVVN sử dụng đồng vốn tiết kiệm và có hiệu quả.
Nhằm giảm thiểu rủi ro cho hoạt động của mình, các ngân hàng không chỉ tiến hành thẩm định, phân tích rồi giải ngân mà còn có nhiều biện pháp kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh của DN và tình hình sử dụng vốn vay của họ. Do đó, không chỉ thu hồi vốn là đủ mà các DN còn phải tìm kiếm các biện pháp sử dụng vốn có hiệu quả, tiết kiệm, tăng nhanh vòng quay của vốn đảm bảo tỷ suất lợi nhuận lớn hơn lãi suất của ngân hàng thì DN mới trả được nợ và kinh doanh có lãi.
Hơn nữa, bằng việc kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, giám sát chặt chẽ tiến độ và mục đích sử dụng vốn của DN ngân hàng không chỉ kiểm soát được đồng vốn của mình mà còn đưa ra những tư vấn, giúp đỡ trong phạm vi cho phép giúp DN tháo gỡ khó khăn trước mắt và gây dựng được mối quan hệ lâu dài giữa ngân hàng và khách hàng.
1.1.2.3- Các hình thức tín dụng ngân hàng
Có nhiều tiêu thức để có thể phân loại các hình thức tín dụng ngân hàng, tuy nhiên dưới đây chúng ta chỉ đề cập đến các tiêu thức chính như sau:
Phân loại theo mục đích vay vốn
Dựa vào căn cứ này cho vay thường được chia ra làm các loại:
- Cho vay bất động sản: Là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: Là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc…
- Cho vay các định chế tài chính: bao gồm cấp tín dụng cho các ngân hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định chế tài chính khác.
- Cho vay cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền, và các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
Phân loại theo thời hạn cho vay
Theo căn cứ này cho vay được chia làm 3 loại sau:
- Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn đến 12 tháng và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của các cá nhân
- Cho vay trung hạn: theo quy định hiện nay của ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cho vay trung hạn có thời hạn trên 12 tháng đến 5 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Ngoài ra nguồn vốn trung hạn này còn được các doanh nghiệp dùng để đổi mới sản phẩm.
- Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời gian tối đa có thể lên đến 20-30 năm, một số trường hợp cá biệt có thể lên tới 40 năm. Tín dụng dài hạn được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu về xây dựng cơ bản.
Phân loại theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
Theo căn cứ này, cho vay được chia làm hai loại chính, đó là:
- Cho vay không bảo đảm: Là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, có khả năng tài chính mạnh ngân hàng có thể cung cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
- Cho vay có bảo đảm: Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ hai.
Đối với các khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
Trong những năm 90 các ngân hàng chỉ được phép cho vay có bảo đảm trừ các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh có hiệu quả và cho vay hộ nông dân, từ 5 triệu đồng trở xuống. Ngày 29/12/1999 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 178/1999/ NĐ-CP về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng; theo đó mà việc cho vay không bảo đảm được mở rộng hơn so với trước đây, cho phép các tổ chức tín dụng được lựa chọn khách hàng để cho vay không có bảo đảm, tuy nhiên khách hàng vay không bảo đảm phải hội tụ đầy đủ những điều kiện sau đây:
+ Có tín nhiệm đối với tổ chức cho vay trong việc sử dụng vốn vay và trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi
+ Có dự án đầu tư, hoặc phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi có khả năng hoàn trả nợ; hoặc có dự án phương án phục vụ đời sống khả thi phù hợp với quy định của pháp luật
+ Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ
+ Cam kết thực hiện biện pháp đảm bảo bằng tài chính theo yêu cầu của tổ chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong trường hợp đồng tín dụng; cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện pháp bảo đảm bằng tài sản.
Mức vay tối đa không bảo đảm của mỗi loại hình tổ chức tín dụng do Ngân hàng Nhà nước quy định trong mỗi thời kỳ.
Phân loại theo phương pháp hoàn trả
Cho vay của ngân hàng được chia làm hai loại:
- Cho vay có thời hạn: là loại cho vay có thoả thuận thời hạn trả nợ cụ thể theo hợp đồng. Cho vay có thời hạn bao gồm các loại sau:
+ Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ cụ thể hay còn gọi là cho vay trả góp: Là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãI theo định kỳ. Loại cho vay này chủ yếu được áp dụng trong cho vay bất động sản nhà ở thương mại, cho vay tiêu dùng, cho vay đối với những người kinh doanh nhỏ (cho vay chợ), cho vay để mua sắm thiết bị.
+ Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ (hay còn gọi là phi trả góp): là loại cho vay thanh toán một lần theo thời hạn đã thoả thuận.
+ Cho vay hoàn trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể, mà việc trả nợ phụ thuộc vào khả năng tài chính của người đi vay. Hoặc cho vay này được áp dụng theo kỹ thuật thấu chi.
Đối với loại cho vay có thời hạn, khách hàng có thể trả nợ trước hạn nhưng ngân hàng vẫn có quyền thu lãi toàn bộ kỳ hạn trả nợ theo hợp đồng, trừ trường hợp có những thoả thuận khác.
- Cho vay không có thời hạn: Đối với loại cho vay không có thời hạn thì ngân hàng có thể yêu cầu hoặc người đi vay tự nguyện trả nợ bất kỳ lúc nào, nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý, thời gian này có thể được thoả thuận trong hợp đồng.
Phân loại theo xuất xứ tín dụng
Dựa vào căn cứ này, cho vay được chia làm hai loại:
- Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Các NHTM cho vay gián tiếp theo các loại sau:
- Chiết khấu thương mại (discount): Người hưởng thụ hối phiếu hoặc lệnh phiếu còn trong thời hạn thanh toán có thể nhượng lại cho ngân hàng. Trong trường hợp này ngân hàng cấp cho khách hàng một khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi lãi suất chiết khấu và hoa hồng phí. Khi các chứng từ này đến hạn thanh toán người thụ lệnh hối phiếu hoặc người phát hành lệnh phiếu có trách nhiệm thanh toán cho ngân hàng. Cần lưu ý, trong nghiệp vụ chiết khấu thương mại người được cấp tín dụng và người chịu trách nhiệm thanh toán cho ngân hàng là hai người khác nhau.
- Mua các phiếu bán hàng (dealer paper) tiêu dùng và máy móc nông nghiệp trả góp.
Do sự tác động của phương thức tiêu thụ hàng hoá gắn phương pháp tiếp thị mới đã thúc đẩy các NHTM đưa vào áp dụng loại cho vay gián tiếp. Trong điều kiện hiện nay các DN thương mại đang tìm mọi biện pháp đã cạnh tranh trong việc tiêu thụ hàng hoá, trong đó bán chịu hàn hoá được coi là biện pháp để mở rộng tiêu thụ hàng hoá có hiệu quả nhất. Tuy nhiên nguồn vốn của các DN có hạn, vì vậy cần phải có nguồn tài trợ của ngân hàng thông qua nhượng lại các phiếu bán hàng trả góp.
Một số điểm cần lưu ý trong việc thực hiện cho vay gián tiếp:
- Trước khi thực hiện hợp đồng mua lại các phiếu bán hàng trả góp, ngân hàng phải thoả thuận với người bán các điều kiện bắt buộc khi thực hiện việc bán hàng trả góp và ngân hàng chỉ mua những hồ sơ bán hàng theo đúng các điều kiện đã thoả thuận.
- Ngân hàng phải giữ lại từ 10% - 30% so với số tiền phải thanh toán cho người bán và sẽ hoàn lại cho người bán khi người mua thanh toán hết nợ. Quy định này là cần thiết để nâng cao trách nhiệm của người bán trong việc giám định các hồ sơ bán chịu.
- Hợp đồng mua lại các phiếu bán hàng trả góp là các hợp đồng được phép truy đòi, có nghĩa là khi người mua không thanh toán được nợ thì người bán có trách nhiệm phải thanh toán cho ngân hàng.
- Phần lớn lãi thu được từ khoản tín dụng này ngân hàng được hưởng và chỉ dành cho người bán một mức hoa hồng nhất định.
- Nghiệp vụ bảo lãnh (factoring): là nghiệp vụ mua các khoản nợ thương mại (các khoản phải thu), trong đó bên mua (factor) nhận việc thu nợ và chấp nhận rủi ro tín dụng. Factoring, thực chất là hình thức tài trợ vốn lưu động cho các DN.
1.2- Chất lượng tín đối với các DNVVN của ngân hàng thương mại.
1.2.1- Khái niệm chất lượng tín dụng đối với DNVVN của ngân hàng thương mại.
Tín dụng là hoạt động truyền thống và là tiền thân của hoạt động ngân hàng. Đó là hoạt động mang lại những nguồn thu chính cho các NHTM, tuy nhiên theo những số liệu thống kê đây là lĩnh vực ẩn chứa nhiều rủi ro nhất trng hoạt động của các NHTM. Vậy để đánh giá được hoạt động tín dụng của một ngân hàng có hiệu quả hay không chúng ta phải tìm hiểu thế nào là chất lượng của hoạt động tín dụng đó. Chất lượng tín dụng được hiểu theo đúng nghĩa: Đồng vốn của ngân hàng cho các doanh nghiệp vay phù hợp với khả năng của ngân hàng, phù hợp với chính sách phát triển kinh tế của địa phương, và quan trọng là với đồng vốn đó các DN sẽ tiến hành hoạt động kinh doanh có hiệu quả, thu được lợi nhuận và hoàn trả vốn vay cho ngân hàng cả gốc và lãi đúng thời hạn đã ký trong hợp đồng.
Như vậy, "Chất lượng tín dụng ngân hàng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng (ở đây là các DNVVN) về vốn vay phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của địa phương cũng như của nhà nước, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, và thoả mãn được nhu cầu về vốn của DN cũng như tạo tâm lý thoải mái cho họ trong và sau khi giao dịch với ngân hàng ".
Theo khái niệm nói trên, chúng ta có thể thấy một khoản vay được coi là có chất lượng cao khi thoả mãn cả ba đối tượng: ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế.
Chất lượng tín dụng xét trên giác độ NHTM
Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, giới hạn tín dụng. Lượng tín dụng mà ngân hàng cung cấp phải phù hợp với khả năng, thực lực của bản thân ngân hàng và phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Chất lượng hoạt động tín dụng thể hiện qua các chỉ tiêu: lợi nhuận hợp lý và gia tăng, dư nợ, doanh số cho vay, doanh số thu nợ ngày càng tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn đảm bảo đúng quy định và hợp lý, đảm bảo cơ cấu nguồn vốn giữa ngắn, trung và dài hạn trong nền kinh tế ngân hàng
Như vậy, để có được chất lượng tín dụng tốt, các nhà ngân hàng phải tiến hành phân tích, kiểm tra đánh giá kỹ lưỡng mỗi khách hàng trước khi cho vay, phải tiếp cận với hoạt động các DN để có những cái nhìn đúng đắn về tình hình sản xuất kinh doanh đang diễn ra tại các DN này, từ đó đưa ra hạn mức cho vay, phương thức trả lãi và các điều khoản liên quan nhằm mang lại sự hài lòng cho khách hàng nhưng cũng giảm thiểu rủi ro cho đồng vốn.
Chất lượng tín dụng xét trên giác độ nền kinh tế
Trong bất kỳ giai đoạn nào, sự vận động của nền kinh tế đều đi theo định hướng phát triển của các chính sách mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Hoạt động ngân hàng nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, vì vậy, nó cũng phải nằm trong khuôn khổ những định hướng phát triển chung. Như vậy chúng ta có thể thấy: Chất lượng tín dụng trên giác độ nền kinh tế là sự đáp ứng các nhu cầu về vốn phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của từng vùng, địa phương nhằm xây dựng cơ sở vật chất, giải quyết việc làm, phát triển kinh tế và nâng cao mức sống cho người dân.
Chất lượng tín dụng trên giác độ khách hàng
Tạo nên một khoản vay có chất lượng không chỉ cần có sự nỗ lực của phía ngân hàng mà khách hàng lại là chủ thể quyết định phần lớn vấn đề này. Sau quá trình phân tích, thẩm định kỹ lưỡng, ngân hàng quyết định cho vay, tiếp đó là ký hợp đồng, giải ngân. Nhưng sau khi nhận được tiền, khách hàng lại sử dụng số vốn đó vào một mục đích khác không như trong phương án sản xuất. Như vậy khả năng thu hồi vốn của ngân hàng đã bị đe doạ bởi sự không trung thực của khách hàng.
Mặt khác, thông qua quan hệ lâu dài với khách hàng, ngân hàng sẽ có sự am hiểu nhất định về nhu cầu vốn vay của doanh nghiệp (Ngân hàng nắm được quy luật mùa vụ, chu kỳ sản xuất…của khách hàng). Từ đó, ngân hàng sẽ có kế hoạch chuẩn bị về nguồn để phục vụ nhu cầu của khách hàng. Vậy, chất lượng tín dụng trên giác độ một khách hàng là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý của khách hàng với mức lãi suất hợp lý, thái độ phục vụ tận tình, thủ tục đơn giản, đảm bảo nguyên tắc an toàn của tín dụng.
Sự khác nhau giữa chất lượng tín dụng của DNVVN với chất lượng tín dụng của DN lớn
Xét về khái niệm và những chỉ tiêu phản ánh cũng như những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụ._.ng nói chung, chất lượng tín dụng của DNVVN và DN lớn là không có gì khác nhau. Nhưng trên thực tế, chất lượng tín dụng của các DN lớn thường cao hơn so với các DNVVN. Sở dĩ như vậy là vì các DN này thường có lượng vốn tự có lớn, máy móc thiết bị hiện đại và một thị trường tiêu thụ hàng hoá rộng lớn, vì vậy khả năng trả nợ của họ rất cao do nguồn thu của các DN này mang lại, đó là thuận lợi của các DN lớn trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Còn trên giác độ các NHTM, các DN lớn thường là các DNNN vì vậy mức độ tin cậy là rất lớn, vì vậy chất lượng tín dụng đối với khu vực này thường cao hơn các DNVVN.
1.2.2- Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng ngân hàng đối với DNVVN.
1.2.2.1- Các chỉ tiêu định tính
Chất lượng tín dụng được phản ánh qua khả năng cho vay và thu hồi vốn của ngân hàng, tình hình sử dụng vốn đúng mục đích và khả
năng trả nợ vay của DN, sự phát triển của doanh nghiệp đó có phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của vùng, địa phương hay không. Như vậy, ta có thể thấy được một vài chỉ tiêu định tính cơ bản nói lên chất lượng tín dụng của ngân hàng đối với các DNVVN
Các chỉ tiêu của ngân hàng
- Trước hết là việc chấp hành các bước cụ thể trong quy trình tín dụng, đây là việc làm cơ bản mà về nguyên tắc là không thể bỏ qua bất kỳ một công đoạn nào. Nó là cơ sở pháp lý đảm bảo cho món vay được an toàn, hiệu quả. Hiện nay, một quy trình tín dụng thường gồm năm bước cơ bản: tiếp nhận và lập hồ sơ, phân tích tín dụng, quyết định tín dụng, giải ngân và cuối cùng là giám sát và thanh lý tín dụng.
- Kết cấu nguồn cho vay: một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng đó là dàn trải rủi ro. Như vậy, chúng ta có thể thấy cơ cấu của nguồn cho vay là rất quan trọng trong việc hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Để thực hiện được yêu cầu này, một ngân hàng cần phải đa dạng hoá các đối tượng khách hàng của mình, làm như vậy ngân hàng vừa tránh được rủi ro lại vừa góp phần thúc đẩy sự phát triển của một nền kinh tế đa dạng.
- Quy mô của hoạt động tín dụng: một ngân hàng không chỉ quan hệ với các tổng công ty lớn mà quên đi thị trường tiềm năng các DNVVN, một ngân hàng có chất lượng tín dụng cao là phải có được một đội ngũ khách hàng đông đảo, đa dạng, hơn thế nữa tỉ lệ dư nợ trên một khách hàng cũng không nên quá cao, vì như vây sẽ dẫn đến tốc độ quay vòng vốn của ngân hàng sẽ giảm, rủi ro tiềm ẩn cao.
Các chỉ tiêu về phía khách hàng
- Một món vay có chất lượng cao chỉ khi khách hàng có ý muốn hợp tác và là một khách hàng giữ chữ tín. Ngân hàng chỉ có thể đưa ra quyết định cho vay sau khi đã tiến hành các bước phân tích, thẩm định tín dụng. Tuy nhiên, ngân hàng có thể bị đánh lừa bởi các báo cáo kết quả kinh doanh “giả” nếu các khách hàng không trung thực, và như vậy khoản vay đã gặp rủi ro ngay từ khi giải ngân.
- Bằng những phương án sản xuất kinh doanh hợp lý, khả năng về tài chính đảm bảo, khách hàng sẽ được chấp nhận cho vay từ phía ngân hàng. Nhưng việc sử dụng vốn đúng mục đích mới là yếu tố quyết định đến chất lượng của khoản vay. Một khoản vốn được sử dụng đúng mục đích sẽ mang lại cho khách hàng chữ tín, ngân hàng sẽ có được một khách hàng đáng tin cậy, và như vậy quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng sẽ ngày càng gắn bó.
Về phía nhà nước
Các hợp đồng tín dụng muốn được thành lập nhanh chóng chỉ khi các giấy tờ, thủ tục của cơ quan có thẩm quyền, uỷ ban các cấp được giải quyết kịp thời. Hiện nay ở nước ta, thủ tục, giấy tờ còn khá rườm rà, mất thời gian làm ảnh hưởng tới tốc độ giải ngân, gây thiếu vốn, làm chậm quá trình sản xuất kinh doanh của DN.
1.2.2.2- Các chỉ tiêu định lượng
Doanh số cho vay, doanh số thu nợ, dư nợ và kết cấu dư nợ
- Doanh số cho vay phản ánh lượng vốn mà Ngân hàng đã giải ngân cho DN trong đầu tư cải tiến máy móc thiết bị, ứng dụng công nghệ mới, mở rộng sản xuất kinh doanh. Con số và tốc độ của doanh số cho vay qua các năm phản ánh quy mô và xu hướng của hoạt động tín dụng là mở rộng hay thu hẹp.
- Doanh số thu nợ phản ánh lượng vốn mà ngân hàng đã thu hồi được trong một thời kỳ.
- Dư nợ phản ánh lượng vốn mà khách hàng còn nợ ngân hàng tại một thời điểm cụ thể.
- Kết cấu dư nợ là tỷ lệ phần trăm các khoản mục dư nợ chia theo kỳ hạn khoản vay, thành phần kinh tế, các ngành kinh tế
Các chỉ tiêu về doanh số cho vay, dư nợ tuy có nói lên khả năng của ngân hàng trong hoạt động cho vay, tuy nhiên nó chưa khẳng định được chất lượng tín dụng của ngân hàng có phải là cao hay không, muốn khẳng định được điều đó chúng ta phải thông qua các chỉ tiêu sẽ nói tới dưới đây.
Hệ số sử dụng vốn vay
Công thức:
Tổng dư nợ
Hệ số sử dụng vốn vay = ------------------------------------
Tổng nguồn vốn huy động
- Hệ số này phản ánh kết quả sử dụng nguồn vốn huy động trong hoạt động cho vay của các NHTM. Hệ số này luôn nhỏ hơn 1. Hệ số sử dụng vốn cao là một tín hiệu tốt đối với hoạt động tín dụng, nhưng nếu hệ số này tiến quá gần tới 1 thì ngân hàng cần đề phòng trường hợp mất khả năng thanh toán. Nếu hệ số sử dụng vốn thấp cần tăng trưởng dư nợ hoặc giảm huy động vốn bằng cách hạ lãi suất huy động hạn chế rủi ro nguồn vốn tác động đến hiệu quả kinh doanh.
Tỉ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ
Công thức:
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = --------------------- x 100 %
Tổng dư nợ
Đây là chỉ tiêu phản ánh rõ nhất về chất lượng tín dụng ngân hàng. Nếu tỷ lệ nợ quá hạn cao thì chứng tỏ ngân hàng đó hoạt động kém hiệu quả, chất lượng tín dụng không cao. Ngược lại nếu tỷ lệ nợ quá hạn thấp chứng tỏ chất lượng tín dụng cao, rủi ro đối với ngân hàng thấp.
Nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn thường chia làm hai loại:
* Nguyên nhân thứ nhất: Nợ quá hạn do kỳ hạn trả nợ ngắn hơn chu kỳ sản xuất kinh doanh hoặc vì một lý do nào đó chưa thu được tiền bán hàng nên đến kỳ hạn trả nợ khách hàng chưa có tiền trả, ngân hàng buộc phải chuyển khoản nợ đó sang nợ quá hạn, loại nợ quá hạn này khả năng thu được nợ của ngân hàng cao.
* Nguyên nhân thứ hai: Nợ quá hạn do khách hàng vay vốn kinh doanh thua lỗ, bị phá sản hoặc không còn khả năng trả nợ lúc này ngân hàng phải chuyển các khoản nợ này sang nợ quá hạn chờ xử lý. Loại nợ quá hạn này gọi là “nợ khó đòi”, khả năng thu hồi vốn ít.
Nợ khó đòi
Tỷ lệ nợ khó đòi = ---------------------
Tổng dư nợ
Các ngân hàng thương mại thường dùng quỹ dự phòng rủi ro để xử lý giảm hoặc xoá nợ theo tình hình thực tế từng món vay để giảm tỷ lệ nợ quá hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn phụ thuộc vào tổng dư nợ chuyển sang nợ quá hạn và tổng dư nợ tại một thời điểm, thường là ngày cuối quý hoặc ngày cuối năm. Để giảm tỉ lệ nợ quá hạn các ngân hàng thương mại thường giảm giá trị tuyệt đối nợ quá hạn nếu dư nợ tín dụng tăng không đáng kể hoặc vừa giảm nợ quá hạn vừa tăng tín dụng. Trường hợp không thể giảm được nợ quá hạn hoặc giảm không đáng kể, các ngân hàng thương mại thường tăng tổng dư nợ tín dụng, tức là tăng quy mô dư nợ tín dụng. Theo thông lệ quốc tế, tỷ lệ nợ quá hạn dưới 8% trên tổng dư nợ có thể chấp nhận được. Tỷ lệ này càng thấp chứng tỏ hoạt động tín dụng của các ngân hàng này càng cao.
Tốc độ quay vòng vốn tín dụng
Công thức:
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn tín dụng = ---------------------------
Dư nợ bình quân
Chỉ tiêu này cho ta biết số lần vốn từ ngân hàng đến tay khách hàng rồi quay lại đúng thời hạn trong một thời gian nhất định. Tốc độ luân chuyển vốn cao chứng tỏ đồng vốn của ngân hàng đã tham gia nhiều vào chu kỳ sản xuất kinh doanh của DN. Với số lượng vốn nhất định, nhưng do tốc độ vòng quay vốn tín dụng nhanh nên ngân hàng không những đáp ứng được nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp mà còn thêm nguồn vốn để tiếp tục đầu tư cho các doanh nghiệp khác thực hiện phát triển sản xuất kinh doanh. Vòng quay vốn tín dụng nhanh chứng tỏ tốc độ quay vòng vốn của các DN vay vốn cao, các DN hoạt động có hiệu quả với đồng vốn vay của ngân hàng.
1.3- Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng đối với DNVVN
1.3.1- Các nhân tố chủ quan
Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng là hệ thống các chủ trương, định hướng quy định chi phối hoạt động tín dụng do Hội đồng quản trị của các ngân hàng đưa ra nhằm sử dụng hiệu quả nguồn vốn để tài trợ cho các doanh nghiệp, các hộ gia đình và cá nhân trong phạm vi cho phép của những quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Các ngân hàng lập ra chính sách tín dụng nhằm mục đích:
- Chính sách tín dụng xác định những giới hạn áp dụng cho các hoạt động tín dụng. Đồng thời cũng thiết lập môi trường nhằm giảm bớt rủi ro trong hoạt động tín dụng.
- Chính sách tín dụng được đưa ra nhằm bảo đảm rằng mỗi quyết định tín dụng đều khách quan, tuân thủ quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và phù hợp thông lệ chung của quốc tế. Không một tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào quyền tự chủ trong quá trình cho vay và thu nợ của các NHTM. Chính sách tín dụng xác định:
* Các đối tượng có thể vay vốn của ngân hàng
* Phương thức quản lý các hoạt động tín dụng
* Các loại sản phẩm tín dụng khác nhau do ngân hàng cung cấp
* Những ràng buộc về tài chính
* Nguồn vốn dùng để tài trợ các hoạt động tín dụng
* Phương thức quản lý danh mục cho vay
* Thời hạn và điều kiện áp dụng cho các loại sản phẩm tín dụng khác nhau
Tình hình huy động vốn của ngân hàng
Ngân hàng là tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với hoạt động chủ yếu là “đi vay để cho vay”, bởi vậy nếu không đi vay được tức là ngân hàng không có vốn để đem cho vay. Nguồn vốn huy động được càng lớn và đa dạng về kỳ hạn, về hình thức thì càng tạo điều kiện cho hoạt động cho vay phát triển. Bên cạnh đó, chi phí huy động vốn cũng ảnh hưởng lớn tới lãi suất cho vay, vì lãi suất cho vay phải đủ để trang trải chi phí đầu vào. Nếu chi phí huy động cao thì lãi suất cho vay cũng phải cao. Chất lượng hoạt động huy động cũng phụ thuộc vào chất lượng cho vay, chúng phụ thuộc lẫn nhau. Nếu ngân hàng huy động được nhiều vốn mà không cho vay hết được số đó sẽ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn, chi phí trả lãi vốn gia tăng mà thu nhập không tăng hoặc thấp hơn chi phí vốn, ngân hàng sẽ kinh doanh thua lỗ.
Quy trình cho vay
Quy trình cho vay là quy định về các bước cần thiết phải thực hiện trong quá trình cho vay bắt đầu từ khi phân tích nhu cầu cho đến khi thu hồi đủ nợ vay gồm cả vốn lẫn lãi.
Quá trình cho vay thường gồm 5 bước: Nhận và lập hồ sơ, phân tích tín dụng, quyết định tín dụng, giải ngân, giám sát và thanh lý tín dụng. Trong đó, phân tích các yếu tố tín dụng, ký hợp đồng tín dụng chính là khâu quan trọng nhất ảnh hưởng đến chất lượng của món vay đó. Công việc này cần tính chặt chẽ, chính xác, có thực tế nhưng cũng rất cần linh hoạt, sự nhạy cảm nghề nghiệp để tránh phần nào những quyết định sai lầm. Việc thẩm định mà quá nguyên tắc, cứng rắn, kém linh hoạt có thể dẫn đến ngân hàng bỏ lỡ nhiều cơ hội. Ngân hàng luôn phải cân nhắc giữa tính toán an toàn với tính sinh lời trong mọi công việc.
Chất lượng tín dụng còn phụ thuộc vào công tác kiểm tra, kiểm soát trước trong và sau khi cho vay. Quá trình này giúp ngân hàng có thể nắm bắt được tình hình sản xuất kinh doanh và sử dụng vốn vay của khách hàng. Thông qua kiểm tra, kiểm soát ngân hàng có thể dự đoán mọi tình hình xung quanh khoản vay của mình như: thu nhập khi đến hạn của DN, quan hệ của DN đối với các ngân hàng khác, tình hình sản xuất kinh doanh của DN…
Khâu cuối cùng của một quy trình tín dụng là thu nợ gốc và lãi. Đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNVVN chu kỳ sản xuất kinh doanh thường hay biến động, có thể một lý do nào đó mà khách hàng chưa muốn trả nợ hoặc chưa có nguồn để trả nợ. Vì thế, nếu ngân hàng không thu nợ kịp thời hay việc xác định kỳ hạn trả nợ không hợp lý có thể dẫn tới nợ quá hạn gia tăng, mất khả năng thu nợ của ngân hàng, ảnh hưởng xấu đến chất lượng cho vay
Chất lượng nhân sự
Chất lượng nhân sự thể hiện ở trình độ nghiệp vụ, khả năng giao tiếp, kiến thức tổng hợp như kiến thức marketing, tin học, ngoại ngữ, trách nhiệm với công việc và cả vấn đề đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng. Dưới con mắt khách hàng, các cán bộ tín dụng là hình ảnh của ngân hàng. Vì vậy, phong cánh giao tiếp của cán bộ tín dụng tạo niềm tin và sự hài lòng của khách hàng cũng là một yếu tố quan trọng để thu hút khách hàng đến với ngân hàng. Nhưng trình độ nghiệp vụ là yếu tố quan trọng nhất vì nó đảm bảo quá trình thực thi nhiệm vụ nhanh chóng, chính xác, linh hoạt trong mọi tình huống khi cho vay. Thêm vào đó, những hiểu biết mang tính tổng hợp sẽ tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng thực hiện công việc tốt hơn, đặc biệt là trong khâu thẩm định.
Con người là yếu tố quyết đinh của mọi sự thành công, vì vậy nâng cao chất lượng nhân sự là một vấn đề cần làm trước tiên của các tổ chức nói chung và của các NHTM nói riêng.
Thông tin tín dụng
Để hoạt động tín dụng thực sự có hiệu quả cần nắm bắt được các thông tin tín dụng chính xác, kịp thời. Các thông tin tín dụng bao gồm những thông tin về tài chính, uy tín, trình độ quản lý, năng lực pháp lý của khách hàng, thông tin về kinh tế xã hội. Sự chính xác, kịp thời và đầy đủ của các thông tin sẽ giúp ngân hàng đưa ra quyết định đúng đắn với khách hàng, lựa chọn món cho vay có lợi cho ngân hàng.
Hiện nay, ở nước ta việc tìm kiếm thông tin có chất lượng như trên là rất khó khăn. Có nhiều khoản cho vay gặp rủi ro vì thiếu thông tin chính xác như: một khách hàng dùng một tài sản thế chấp đi vay nhiều ngân hàng, báo cáo kết quả kinh doanh giả, hợp đồng giả... Điều này không những gây tổn thất về mặt tài chính cho ngân hàng mà còn gây mất lòng tin của ngân hàng đối với những khách hàng khác, đặc biệt tình hình này hay xuất hiện ở những khu vực các DNVVN. Như vậy, thông tin tín dụng là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên chất lượng của một khoản tín dụng.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị của ngân hàng
Cơ sở vật chất và trang thiết bị của ngân hàng cũng là yếu tố gây ảnh hưởng tới chất lượng cho vay nói riêng và các hoạt động khác của ngân hàng nói chung. Với trang thiết bị hiện đại có thể giúp ngân hàng thực hiện nghiệp vụ của mình một cách nhanh chóng, chính xác như việc ứng dụng tin học vào việc quản lý, theo dõi khách hàng, cập nhật thông tin.
Với một hệ thống trang thiết bị hiện đại, ngân hàng sẽ tạo cho khách hàng một tâm lý tin tưởng. Đây cũng là yếu tố thu hút khách hàng đến với ngân hàng.
Công tác tổ chức của ngân hàng
Đây là yếu tố không trực tiếp ảnh hưởng tới chất lượng cho vay nhưng nếu công tác tổ chức hoạt động của ngân hàng không khoa học, không có sự phối hợp hoạt động giữa các phòng ban thì hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và của bộ phận tín dụng sẽ không có được kết quả tốt. Đặc biệt cần quan tâm tới sự phối hợp giữa phòng nguồn vốn và phòng tín dụng để chất lượng tín dụng ngày càng được nâng cao.
1.3.2- Các nhân tố khách quan
Về phía khách hàng
- Phương án sản xuất kinh doanh
Ngay từ khi lập hồ sơ vay vốn, DN đã phải lập một phương án sản xuất kinh doanh có tính khả thi, phù hợp với khả năng tài chính, năng lực lãnh đạo của mình. Đây là bước đầu tiên để thiết lập quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, tuy nhiên, chất lượng tín dụng lại được quyết định phần lớn ở việc khách hàng đó sử dụng đồng vốn đó như thế nào, họ có tiến hành sản xuất kinh doanh đúng với phương án đã nêu hay không, hay họ lại sử dụng vốn đó vào việc khác. Muốn quản lý được việc này, các cán bộ tín dụng phải thường xuyên kiểm tra đối với các doanh nghiệp cũng như tư nhân đã nhận các món vay của ngân hàng, làm như vậy mới giảm được rủi ro cho ngân hàng và nâng cao chất lượng tín dụng.
- Uy tín của doanh nghiệp
Chữ tín luôn được đặt lên hàng đầu, đó là phương châm làm việc của các khách hàng muốn có quan hệ lâu dài với ngân hàng, cũng như của hầu hết các DN làm ăn đứng đắn. Tuy nhiên, không phải DN nào cũng như vậy. Vậy uy tín của khách hàng trong quan hệ tín dụng với ngân hàng là gì ? Đó là sự sẵn lòng trả nợ cũng như mong muốn thực hiện những gì đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Tình hình tài chính của doanh nghiệp
Đây là yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng của khoản vay. Một DN đã đến kỳ trả nợ, có thiện chí trả nợ tuy nhiên khả năng về tài chính của họ lại không có thì làm sao thực hiên được những gì đã cam kết trong hợp đồng. Thông thường, ngân hàng quy định số lượng vốn tự có của khách hàng phải tương đương với số vốn mà ngân hàng cho vay. Một yếu tố quan trọng nữa góp phần nâng cao chất lượng tín dụng đó là tính lỏng của tài sản mà khách hàng sở hữu.
- Nhà quản lý doanh nghiệp
Nói đến nhà quản lý DN chúng ta thường quan tâm đến năng lực quản lý, tư cách đạo đức của họ. Một ông chủ nắm bắt được thị trường, có kiến thức về ngành nghề kinh doanh của mình cũng như những ngành liên quan sẽ dẫn dắt DN của mình đi đúng hướng, gặt hái được nhiều thắng lợi. Doanh nghiệp kinh doanh có lãi sẽ góp phần nâng cao chất lượng tín dụng đối với ngân hàng.
- Tài sản đảm bảo
Đây là yếu tố hạn chế rủi ro đối với các ngân hàng. ở đây chúng ta quan tâm tới khía cạnh quyền sở hữu tài sản đảm bảo của khách hàng, giá trị thị thực tế của tài sản đó. Một ngân hàng khi cho vay sẽ không mong muốn phải sử dụng tới tài sản đảm bảo của khách hàng, vì như vậy tốc độ luân chuyển vốn tín dụng của ngân hàng sẽ giảm đi do thời gian để thanh lý tài sản đó là rất dài, thủ tục thanh lý rườm rà.
- Quan hệ của khách hàng và ngân hàng
Một khách hàng có quan hệ tốt với ngân hàng sẽ rút ngắn được thời gian thực hiện các quy trình của hợp đồng. Trong tâm lý của các cán bộ tín dụng, một khách háng có lịch sử không tốt trong quan hệ với ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong những lần vay khác. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng có những khách hàng truyền thống, họ là những khách hàng lớn, số dư nợ thường cao, tốc độ luân chuyển vốn của những khoản vay này thường lớn.
Các nhân tố bên ngoài
- Chủ trương chính sách của nhà nước
Từ khi nhà nước có chính sách cho phép phát triển kinh tế ngoài quốc doanh, ngân hàng có thêm một lượng khách hàng lớn để mở rộng cho vay. Nhưng trên thực tế, chưa có nhiều chủ trương, chính sách ưu đãi thích hợp đối với khu vực DNVVN. Đặc biệt trong mấy năm trở lại đây, sau nhiều vụ lừa đảo chiếm đoạt tín dụng nghiêm trọng, NHNN đã đưa ra nhiều biện pháp thắt chặt điều kiện cho vay. Các DNVVN vốn đã khó tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng nay lại gặp nhiều khó khăn hơn. Như vậy, những chính sách của nhà nước có thể là động lực nhưng cũng có thể lại là cản trở để DNVVN có điều kiện vay vốn, mở rộng sản xuất kinh doanh.
- Môi trường tự nhiên
Trong số những DNVVN quan hệ với ngân hàng có rất nhiều DN kinh doanh, sản xuất trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp, vì vậy yếu tố môi trường ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả sản xuất, kinh doanh của họ. Nhiều năm vừa qua, các ngân hàng thường xuyên phải giãn nợ hoặc gia hạn nợ cho các cá nhân hoặc các DN hoạt động trong lĩnh vực này vì thời tiết có nhiều biến động bất lợi, thiên tai thường xuyên xảy ra. Như vậy ta có thể thấy được môi trường tự nhiên có ảnh hưởng như thế nào đối với chất lượng tín dụng của ngân hàng.
- Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý là cơ sở để cho các thành phần kinh tế hoạt động một cách hợp pháp có hiệu quả. Các NHTM hoạt động trong môi trường các văn bản pháp luật của nhà nước cũng như của NHNN Việt Nam, như vậy, muốn các NHTM hoạt động có hiệu quả thì các văn bản pháp luật này phải đầy đủ, đồng bộ, tránh sự chồng chéo gây cản trở cho hoạt động của các NHTM nói chung và cho hoạt động tín dụng nói riêng.
- Môi trường kinh tế
Mọi thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh trong môi trường kinh tế luôn chịu sự chi phối của các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước hoặc chịu sự chi phối của quy luật cung - cầu, quy luật giá trị trên thị trường. Do vậy, muốn các DN hoạt động tốt phải tạo lập được một môi trường kinh doanh lành mạnh, ổn định. Góp phần xây dựng một môi trường kinh doanh tốt, các nhà ngân hàng phải làm tốt các dự báo và luôn chuẩn bị khả năng thích ứng với các biến động của thị trường.
Chương II. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI
2.1 - Khái quát hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội.
2.1.1 - Tình hình hoạt động kinh doanh của Chi nhánh NHNo& PTNT Hà Nội.
2.1.1.1 - Kết quả hoạt động tài chính.
Hoạt động tài chính trực tiếp
Trong 3 năm gần đây chi nhánh có tình hình hoạt động tài chính luôn ổn định và tăng trưởng bền vững. Lợi nhuận trước thuế của chi nhánh tăng đều trong cả 3 năm.
Bảng 2.1: Kết quả hoạt động tài chính trực tiếp
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
1. Tổng thu nhập
1722
2553
3464
Thu nhập từ lãi tiền gửi, tiền vay
1690
2480
3334
2. Tổng chi phí
1614
2377
3208
Chi phí trả lãi tiền gửi, tiền vay
1416
2094
2995
3. Lợi nhuận trước thuế
108
176
256
(Nguồn: Báo cáo KQKD năm 2005 – 2007, Ngân hàng No&PTNT Hà Nội)
Kết quả hoạt động dịch vụ tài chính
Bảng 2.2: Kết quả hoạt động dịch vụ tài chính
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Dịch vụ thanh toán
7852
9621
12430
Hoạt động KDNT
2017
1990
1406
Dịch vụ khác
2431
5349
12313
Tổng thu dịch vụ ròng
12300
16960
26149
Lợi nhuận trước thuế
107839
176028
255944
Thu dịch vụ ròng/LNTT (%)
11.40%
9.63%
10.22%
(Nguồn: Báo cáo KQKD năm 2005 – 2007, Ngân hàng No&PTNT Hà Nội)
2.1.1.1- Tình hình huy động vốn
Trong 3 năm gần đây vốn huy động của ngân hàng liên tục tăng. Cụ thể, năm 2005 là 11601 tỷ đồng nhưng năm 2006 đã là 12845 tỷ đồng tăng hơn so với năm 2006 là 10.72%. Năm 2007, số vốn huy động được là 15468 tỷ đồng tăng so với năm 2006 là 20.42%.
Biểu đồ 2.1: Số vốn huy động
Đơn vị tính: Tỷ đồng
(Nguồn: Báo cáo KQKD năm 2005 – 2007, Ngân hàng No&PTNT Hà Nội)
Cơ cấu nguồn vốn
Bảng 2.3: Cơ cấu nguồn huy động.
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
1. Tiền gửi của TCTD trong nước
3637
31.40
4359
34
6123
39.6
2. Tiền gửi của khách hàng
7666
66.1
7718
60.1
8595
55.6
Tiền gửi không kì hạn
2934
25.3
3256
25.3
3520
22.8
Tiền gửi có kì hạn
4732
40.8
4462
34.8
5075
32.8
3. Phát hành giấy tờ có giá
298
2.5
768
5.9
750
4.8
Tổng
11601
100
12845
100
15468
100
(Nguồn: Báo cáo KQKD năm 2005 – 2007, Ngân hàng No&PTNT Hà Nội)
Trong cả 3 năm nguồn vốn huy động của chi nhánh liên tục tăng. Tuy nhiên, tiền gửi của khách hàng lại có xu hướng giảm trong tổng nguồn huy động. Năm 2005, tiền gửi của khách hàng là 7666 tỷ đồng chiếm 66.1% tổng nguồn huy động nhưng năm 2006 và 2007 tuy con số tuyệt đối tăng lần lượt là 7718 và 8595 tỷ đồng nhưng lại giảm về số tương đối chỉ còn chiếm 60.1% và 55.6%. Nguyên nhân của sự giảm sút này là do lạm phát trong thời kì này tăng khá cao nên người dân có xu hướng mua vàng và tiêu dùng nhiều hơn là gửi tiết kiệm. Việc tiền gửi có kì hạn giảm dần trong 3 năm vừa qua cũng phù hợp với xu hướng này. Tiền gửi của TCTD tăng trong thời kì này từ 3637 tỷ đồng lên 6123 tỷ đồng vào năm 2007 phản ánh động thái của các TCTD trong nước trong việc dự trữ nhằm đáp ứng nhu cầu bất thường của họ.
2.1.1.2- Tình hình sử dụng vốn
Tổng dư nợ
Tổng dư nợ giảm nhẹ vào năm 2006 từ 2467 tỷ đồng năm 2005 xuống 2457 tỷ đồng nhưng tăng mạnh trở lại vào năm 2007 đạt 3462 tỷ đồng, con số tăng là gần 1000 tỷ đồng.
Biểu đồ 2.2: Tổng dư nợ
Đơn vị tính: Tỷ đồng
(Nguồn: Báo cáo KQKD năm 2005 – 2007, Ngân hàng No&PTNT Hà Nội)
Cơ cấu dư nợ theo thời gian
Bảng 2.4: Cơ cấu dư nợ theo thời gian
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Tổng dư nợ
2467
2457
3462
1. Dư nợ ngắn hạn
1527
1336
2025
Nội tệ
914
1093
1508
Ngoại tệ
613
243
517
2. Dư nợ dài hạn
305
433
492
Nội tệ
262
350
417
Ngoại tệ
43
83
75
3. Dư nợ trung hạn
635
688
945
Nội tệ
573
601
734
Ngoại tệ
62
87
211
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2005 – 2007, Ngân hàng No&PTNT Hà Nội)
Biểu đồ 2.3: Cơ cấu dư nợ theo thời gian
Đơn vị tính: Tỷ đồng
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2005 – 2007, Ngân hàng No&PTNT Hà Nội)
Theo sơ đồ ta thấy trong cơ cấu của tổng dư nợ theo thời gian tăng mạnh nhất là dư nợ trong ngắn hạn trong năm 2007 lên đến 2035 tỷ đồng vượt gần 700 tỷ so với năm 2006. Dư nợ dài hạn cũng tăng lên đáng kể trong năm 2007 đạt 945 tỷ đồng, tăng khoảng 39% so với năm 2006. Chỉ riêng có dư nợ trung hạn là vẫn giữ ở mức bình ổn trong cả 3 năm. Điều này cho thấy chi nhánh đang có xu hướng tăng dần cho vay đầu tư dài hạn vào các công trình xây dựng cơ bản, các dự án lớn có thời gian thực hiện lâu.
Cơ cấu dư nợ theo loại tiền
Theo sơ đồ ta thấy dư nợ nội tệ vẫn chiếm phần lớn trong tổng dư nợ và tăng tương đối ổn định qua các năm từ 1749 tỷ năm 2005 lên 2044 tỷ năm 2006 và năm 2007 là 2659 tỷ năm 2007. Tuy nhiên, dư nợ bằng ngoại tệ lại giảm trong năm 2006 từ 718 tỷ xuống còn 413 tỷ, khoảng 42%. điều này là do đồng USD tăng cao trong năm 2006 khiến nhiều khách hàng bị thiệt khi vay bằng ngoại tệ . Năm 2007, USD giảm mạnh trên thị trường thế giới cũng khiến cho nhiều khách hàng trở lại vay và đầu tư bằng USD khiến cho dư nợ bằng ngoại tệ năm 2007 lại tăng trở lại khiến cho dư nợ ngoại tệ năm 2007 là 803 tỷ đồng, tăng gần 50% so với năm 2006.
Biểu đồ2.4: Cơ cấu dư nợ theo loại tiền
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2005 – 2007, Ngân hàng No&PTNT Hà Nội)
2.1.1.3- Hoạt động thanh toán quốc tế
Bảng 2.5: Kết quả thanh toán quốc tế
Đơn vị tính: Triệu USD
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số món
Số tiền
Số món
Số tiền
Số món
Số tiền
1. Nhập khẩu
2917
179,6
3219
124,7
3883
293,3
L/C
889
107,2
789
62,4
1071
140,4
Nhờ thu
346
16,9
427
19,2
468
28,2
Chuyển tiền
1682
55,5
1994
43,1
2344
70,7
2. Xuất khẩu
514
14,9
755
20,2
1015
52.4
L/C
25
1,3
44
1,8
47
2,5
Nhờ thu
81
1,5
170
4,3
170
7,1
Chuyển tiền
408
12,1
541
14,1
798
42,8
(Nguồn: Báo cáo KQKD năm 2005 – 2007, Ngân hàng No&PTNT Hà Nội)
Bảng2.6: Diễn biến kết quả của hoạt động thanh toán quốc tế
Đơn vị tính: Triệu USD
Chỉ tiêu
Tăng/giảm 2006/2005
Tăng/giảm 2007/2006
%Tăng/giảm 2006/2005
%Tăng/giảm 2007/2006
Số món
Số tiền
Số món
Số tiền
Số món
Số tiền
Số món
Số tiền
1. Nhập khẩu
302
-54.90
664
168.60
10.35
-30.57
20.63
135.20
L/C
-100
-44.80
282
78.00
-11.25
-41.79
35.74
125.00
Nhờ thu
81
2.30
41
9.00
23.41
13.61
9.60
46.88
Chuyển tiền
312
-12.40
350
27.60
18.55
-22.34
17.55
64.04
2. Xuất khẩu
241
5.30
260
32.20
46.89
35.57
34.44
159.41
L/C
19
0.50
3
0.70
76.00
38.46
6.82
38.89
Nhờ thu
89
2.80
0
2.80
109.88
186.67
0.00
65.12
Chuyển tiền
133
2.00
257
28.70
32.60
16.53
47.50
203.55
(Nguồn: Báo cáo KQKD năm 2005 – 2007, Ngân hàng No&PTNT Hà Nội)
Tình hình thanh toán quốc tế trong 3 năm vừa qua của chi nhánh tương đối ổn định. Hoạt động xuất khẩu tăng cao cả về số món và số tiền. Trong năm 2007, hoạt động xuất khẩu tăng đến 260 món tương đương 32.2 triệu USD so với năm 2006. Đặc biệt, số tiền tăng đến gần 160% so với năm 2006. Hoạt động nhập khẩu giảm mạnh trong năm 2006 về số tiền, khoảng 30.57% tương đương 54.9 triệu USD. Nguyên nhân của sự giảm sút này là do nền kinh tế đang trong xu hướng giảm nhập khẩu, đẩy mạnh xuất khẩu ra nước ngoài. Tuy nhiên, hoạt động này lại tăng trở lại vào năm 2007, tăng 20.63% về số món và 135.2% về số tiền. Sự tăng trở lại này là do hoạt động L/C tăng trở lại khoảng 125% về số tiền.
2.1.2- Chất lượng tín dụng đối với DNVVN của Ngân hàng Nông nghiệp &Phát triển nông thôn Hà Nội.
2.1.2.1- Doanh số cho vay, doanh số thu nợ, tổng dư nợ, và kết cấu dư nợ của DNVVN.
Doanh số cho vay, doanh số thu nợ, tổng dư nợ
Bảng 2.7: Doanh số cho vay, doanh số thu nợ, tổng dư nợ.
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số tiền
Tỷ trọng %
Số tiền
Tỷ trọng %
Số tiền
Tỷ trọng %
1. Tổng dư nợ
2467
100%
2457
100%
3462
100%
Dư nợ DNVVN
1131
46%
1127
46%
1832
53%
2. Doanh số cho vay
5896
100%
5825
100%
7502
100%
Doanh số cho vay DNVVN
2016
34%
2256
39%
3305
44%
3. Doanh số thu nợ
6345
100%
6059
100%
8597
100%
Doanh số thu nợ DNVVN
1742
27%
2173
36%
3289
38%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2005 – 2007, phòng Tín dụng - Ngân hàng No&PTNT Hà Nội)
Nhìn chung trong 3 năm vừa qua các chỉ tiêu dư nợ, doanh số cho vay, doanh số thu nợ của DNVVN đều tăng. Tuy nhiên tăng mạnh nhất là doanh số cho vay từ 39% năm 2006 lên 44% năm 2007 báo hiệu sự phát triển ngày càng mạnh mẽ trong hoạt động tín dụng DNVVN. Song song với việc tăng doanh số cho vay thì doanh số thu nợ và tổng dư nợ cũng tăng đáng kể. Dư nợ là 53% năm 2007 tương đương với 1832 tỷ đồng năm 2007. Doanh số thu nợ tăng lên đáng kể từ 2173 tỷ đồng năm 2006 lên 3289 tỷ đồng năm 2007. Như vậy, theo các chỉ tiêu này chất lượng tín dụng đối với các DNVVN của chi nhánh trong 3 năm vừa qua đã có sự nâng lên đáng kể tạo điều kiện cho DNVVN phát triển.
Biểu đồ 2.5: DSCV, DSTN và dư nợ DNVVN
Đơn vị tính: Tỷ đồng
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2005 – 2007, phòng Tín dụng - Ngân hàng No&PTNT Hà Nội)
Nhìn vào biểu đồ ta thấy tình hình cấp tín dụng cho DNVVN của chi nhánh có sự cân đối hợp lý. Dư nợ DNVVN tăng dần qua các năm thể hiên sự phát triển của tín dụng vừa và nhỏ. Đồng thời với sự phát triển về lượng này thì cũng có sự phát triển ngày càng về chất. Cụ thể, doanh số thu nợ ngày càng tiến gần sát đến doanh số cho vay. Tại thời điểm 31/12/2007 thì hai chỉ tiêu này là như nhau. Điều này cho thấy sự chuyển biến rõ rệt trong việc cho vay và thu hồi nợ đối với DNVVN không còn để tình trạng nợ ứ đọng trong DNVVN như một vài năm trước.
Kết cấu dư nợ
Trong năm vừa qua kết cấu dư nợ của chi nhánh có sự thay đổi đáng kế. Để đảm bảo kinh doanh có hiệu quả, an toàn vốn và khả năng sinh lời cao, chi nhánh đã chú trọng đầu tư vào các thành phần kinh tế làm ăn kinh doanh có hiệu quả. Cụ thể, trong năm 2007 chi nhánh đã không tiến hành giải ngân cho vay các ngành nông lâm nghiệp, thuỷ hải sản mà chú trọng tập trung cho vay vào các ngành công nghiệp, thương mại dịch vụ.
Kết cấu dư nợ của các thành phần kinh tế được mô tả theo bảng sau:
Bảng 2.8: Kết cấu dư nợ của các TPKT
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Tổng dư nợ cho vay toàn CN
Dư nợ cho vay DN
Trong đó
Nội tệ
Ng._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12818.doc