Tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Nam Hà Nội: ... Ebook Nâng cao chất lượng tín dụng đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Nam Hà Nội
85 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1348 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Nam Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Với nền kinh tế Việt Nam cũng như nền kinh tế các nước trên thế giới, doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) đang ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế - xã hội. Theo thống kê, đội ngũ này chiếm tới 96% tổng số doanh nghiệp trong cả nước, đóng góp 30% GDP và thu hút được một lực lượng lao động đáng kể, tạo nhiều việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khai thác những tiềm năng trong dân chúng. Tuy nhiên, các DNVVN vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, vướng mắc cần giải quyết. Một trong những khó khăn lớn nhất đó là vốn.
Để thành lập và đi vào sản xuất kinh doanh các DN nói chung, DNVVN nói riêng cần có một lượng vốn nhất định. Nguồn vốn này có thể được hình thành bằng nhiều cách, như: huy động nguồn vốn nhàn rỗi của bạn bè, của gia đình. Nhưng có một nguồn vốn mà bất cứ một DN nào cũng muốn tiếp cận, đó là vốn vay của các NHTM. Các NHTM có thể cung cấp cho các DN một lượng vốn lớn, rẻ và quan trọng là họ có thể đáp ứng ngay khi các DN có nhu cầu và có đủ điều kiện cho vay Các NHTM có vai trò hêt sức quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu về vốn của các DNVVN. Nhưng bên cạnh việc ngân hàng cho các DN vay ngày càng tăng là việc nâng cao chất lượng của các khoản vay để công tác tín dụng tại ngân hàng ngày một hiệu quả.
Nhận thức được vai trò quan trọng của tín dụng đối với các DNVVN và sau một thời gian thực tập, khảo sát thực tế tình hình cho vay của ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội, em đã mạnh dạn chọn đề tài cho chuyên đề của mình là “Nâng cao chất lượng tín dụng đối với các DNVVN tại chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội ”.
* Mục đích nghiên cứu của đề tài:
- Tìm hiểu “Thế nào là chất lượng tín dụng và những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của NHTM” và đặc biệt là “Chất lượng tín dụng khi cho vay đối với DNVVN”.
- Tìm hiểu thực trạng chất lượng tín dụng của DNVVN tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội.
- Đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội.
* Phương pháp nghiên cứu:
- Đề tài sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, so sánh và đặc biệt sử dụng nhiều lý luận và chính sách Marketing, quản trị trong Ngân hàng để rút ra kết luận và những đề xuất chủ yếu.
* Nội dung nghiên cứu:
Ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHTM
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với các DNVVN tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các DNVVN tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội.
Chương I: Chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại
1.1- Doanh nghiệp vừa và nhỏ - Một loại hình doanh nghiệp quan trọng
1.1.1- Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ
Các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc gần đây đã khẳng định: Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nhà nước ta khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho DNVVN phát huy tính chủ động sáng tạo vốn có, nâng cao năng lực quản lý, phát triển khoa học công nghệ và nguồn nhân lực, mở rộng các mối liên kết với các loại hình doanh nghiệp khác, tăng hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường, tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động.
Trên thế giới có rất nhiều quan điểm cũng như tiêu thức khác nhau dể định nghĩa và phân biệt DNVVN với các loại hình doanh nghiệp khác. Trong đó có hai tiêu thức được sử dụng phổ biến nhất là: tổng số vốn sản xuất kinh doanh và số lượng lao động của doanh nghiệp (DN).
Đối với Việt Nam, văn bản đầu tiên đưa ra tiêu chí xác định DNVVN là công văn số 681/CP-KTN ban hành ngày 20/06/1998. Theo đó, DNVVN được tạm thời quy định là “Những DN có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao động trung bình hàng năm dưới 200 người”. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước, các DN mới ra đời ngày một nhiều, có không ít DN có số vốn vượt quá 5 tỷ đồng nhưng vẫn chưa đủ mạnh để được coi là một DN lớn. Để đáp ứng được đòi hỏi của thực tế, ngày 23/11/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/NĐ-CP đưa ra tiêu chí mới để xác định DNVVN của Việt Nam. Theo Nghị đinh:
“Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”.
Vì tình hình kinh tế của mỗi địa phương là khác nhau nên trong khi phân loại các DN có thể áp dụng cả hai chỉ tiêu hoặc chỉ sử dụng một trong hai chỉ tiêu vốn và số lượng lao động để xếp loại và có những định hướng cũng như các chính sách hỗ trợ.
1.1.2- Đặc điểm của DNVVN ở Việt Nam
Theo số liệu của Chi cục Thống kê TP Hà Nội, đến hết năm 2001, về mặt số lượng các DNVVN trên địa bàn chiếm tuyệt đại đa số trong tổng số DN của thủ đô (Số DN có dưới 500 lao động chiếm 96%, số DN có vốn dưới 10 tỷ đồng chiếm 85%). Phần lớn các DNVVN nằm trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực thương mại (khoảng 50%) và công nghiệp (khoảng 22-24%) tiếp theo là xây dựng, kinh doanh khách sạn nhà hàng…Với số lượng đông đảo như trên, các DNVVN có một số đặc điểm nổi bật như sau:
a, Chủ doanh nghiệp có trình độ chưa cao nên khả năng quản lý, điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh thấp.
Theo số liệu thống kê, chủ các DNVVN thường chỉ có trình độ học vấn dưới đại học, rất hiếm người học đại học hoặc trên đại học vì vậy những kiến thức về thị trường cũng như hiểu biết về các quy luật kinh tế, các quy định của pháp luật còn nhiều hạn chế. Do những hạn chế về kiến thức nói trên mà các ông chủ này gặp rất nhiều khó khăn trong việc lập kế hoạch sản xuất, phân phối, tiêu thụ hàng hoá cũng như nắm bắt các công nghệ hiện đại và có kế hoạch lâu dài nhằm mang lại lợi nhuận cho DN cũng như sự phát triển ổn định cho nền kinh tế.
b, DNVVN có quy mô hoạt động nhỏ bé
Do nguồn vốn tự có ban đầu nhỏ bé lại thêm khó khăn trong việc tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng cũng như các tổ chức tín dụng nên quy mô hoạt động của các DN này ngay từ đầu đã rất nhỏ bé, mang tính tự phát. Hơn nữa, trong quá trình hoạt động, các DNVVN ít khi tiếp cận được những khách hàng lớn và những nguồn vốn rẻ nên cơ hội để mở rộng quy mô sản xuất là rất hiếm hoi. Vì vậy, muốn mở rộng quy mô cho các DNVVN nhà nước và đặc biệt là các NHTM có những chính sách ưu đãi đối với họ.
c, Sức cạnh tranh của các DNVVN thấp, chịu nhiều ảnh hưởng của môi trường kinh doanh bên ngoài.
Do nguồn vốn có hạn, quy mô sản xuất nhỏ bé, công nghệ lạc hậu nên các sản phẩm làm ra có sức cạnh tranh thấp hơn so với sản phẩm của các DN lớn, doanh nghiệp quốc doanh và đặc biệt là các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài. Thêm nữa, do sức cạnh tranh thấp nên các DNVVN ít có khả năng chống lại những biến động lớn của thị trường, và thường thì các DN này hay gặp rủi ro khi có những biến động bất lợi của thị trường.
1.1.3- Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế
1.1.3.1- Tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động
Mục đích chính của các nhà doanh nghiệp là lợi ích kinh tế mà họ thu được. Nhưng vô hình chung, sự ra đời của các DN lại giải quyết vấn đề việc làm cho không ít người lao động. ở Việt Nam hàng năm có khoảng 16 triệu người đến độ tuổi lao động, ngoài ra còn một số lượng lớn những người bán thất nghiệp ở nông thôn và thành thị. Với nhu cầu về việc làm lớn như vậy, chỉ các DN lớn hay các DNNN không thể đáp ứng nổi. Các DNVVN ra đời đã phần nào giảm bớt gánh nặng thất nghiệp cho xã hội. Vì hoạt động trong nhiều lĩnh vực nên các DN này có thể sử dụng người lao động ở mọi trình độ, vì vậy những người có trình độ chuyên môn không cao vẫn có thể tìm được việc làm thích hợp với khả năng của mình. Theo số liệu của bộ lao động thương binh và xã hội, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị đã giảm từ 13% năm 1989 xuống còn 6,2% năm 1994 và hàng năm có khoảng gần 1 triệu lao động tìm được việc làm trong các DNVVN.
1.1.3.2- Góp phần to lớn vào tốc độ tăng trưởng kinh tế
Từ khi ra đời các DNVVN đã khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực kinh tế tiềm ẩn trong dân cư, hoạt động của các DNVVN thực sự đã góp một phần không nhỏ vào sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Theo số liệu thống kê của Bộ kế hoạch và đầu tư, mỗi năm các DNVVN Việt Nam tạo ra khoảng 25-26% GDP của cả nước, 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 64% tổng khối lượng luân chuyển hàng hoá. Bên cạnh đó, các DNVVN còn giữ một vai trò quan trọng trong việc giữ gìn và phát triển những làng nghề truyền thống nhằm giữ được những nét văn hoá Việt Nam trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
1.1.3.3- Sự có mặt của các DNVVN làm tăng tính năng động, đa dạng cho nền kinh tế
Với đặc trưng về nguồn vốn và quy mô hoạt động, các DNVVN có khả năng nhanh chóng chuyển đổi mặt hàng kinh doanh, chuyển hướng sản xuất và đổi mới công nghệ…cho phù hợp với sự biến động của môi trường kinh doanh. Như vậy, vô hình chung các DNVVN đã làm cho nền kinh tế trở nên năng động hơn. Thực tế cho thấy, tốc độ gia tăng các DNVVN lớn hơn rất nhiều so với các DN lớn và đương nhiên khi có càng nhiều doanh nghiệp ra đời thì tính cạnh tranh của thị trường càng được tăng lên. Một thị trường có tính cạnh tranh cao sẽ thúc đẩy các DN tự hoàn thiện và nâng cao vị thế của mình. Và với vai trò là các đơn vị vệ tinh cho các DN lớn, DN quốc doanh các DNVVN cũng góp phần không nhỏ vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phù hợp với định hướng phát triển của từng giai đoạn.
1.1.3.4- DNVVN phát triển góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà nước
Đóng thuế là trách nhiệm của mọi công dân, mọi tổ chức, và như chúng ta đã biết thuế là nguồn thu chính của ngân sách nhà nước. Đây chính là nguồn chi trả cho lợi ích chung của xã hội. Do đó, sản xuất kinh doanh phát triển tạo ra nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Trong những năm vừa qua, do có sự quan tâm tạo diều kiện của nhà nước và với khả năng sáng tạo của mình các DNVVN đã từng bước khẳng định vị trí của mình. Hàng năm khu vực này đã đóng góp trên 30% ngân sách nhà nước, góp phần giảm sự mất cân đối của cán cân ngân sách, phát huy vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước.
1.1.4- Nhu cầu về vốn của các DNVVN
Vốn có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh. Ngay từ khi mới thành lập một doanh nghiệp, một công ty hay bất kỳ một loại hình kinh tế nào khác cũng cần phải có một số vốn nhất định. Trong mọi DN, vốn đều bao gồm hai bộ phận: Vốn chủ sở hữu và nợ.Vốn chủ sở hữu của DN bao gồm vốn góp ban đầu, nguồn vốn từ lợi nhuận không chia và phát hành cổ phiếu. Nguồn vốn còn lại được hình thành từ các khoản vay ngân hàng, phát hành trái phiếu công ty.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh thì tình trạng thừa thiếu vốn luôn là điều không thể tránh khỏi đối với một doanh nghiệp. Để giải quyết sự thiếu hụt vốn, trước hết, bản thân doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường thông qua con đường phát hành cổ phiếu, trái phiếu đòi hỏi doanh nghiệp phải có qui mô lớn, sản xuất kinh doanh có hiệu quả và có uy tín trên thị trường, hơn nữa phải có một thị trường vốn hoàn chỉnh với một hệ thống tổ chức tài chính trung gian đủ mạnh có khả năng đảm đương việc bảo lãnh phát hành cổ phiếu, trái phiếu của công ty và nó còn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ dân trí thói quen kinh doanh và sự sôi động của thị trường thứ cấp.
ở nước ta hiện nay, phát hành cổ phiếu, trái phiếu công ty ra ngoài thị trường vẫn là một cái gì đó chưa được nhiều người biết đến, việc phát hành cổ phiếu mới chỉ dừng lại trong nội bộ một số công ty cổ phần. Mặc dù thị trường chứng khoán Việt Nam đã hình thành nhưng hoạt động còn mang tính hình thức, chưa thu hút được đông đảo các công ty tham gia, và quan trọng hơn nhất là hệ thống văn bản pháp luật về vấn đề này còn chưa hoàn chỉnh, gây khó khăn cho các đơn vị muốn tham gia niêm yết. Vì những lý do nói trên mà việc huy động vốn qua phát hành cổ phiếu là rất khó đối với các DN Việt Nam nói chung, DNVVN nói riêng.
Chính vì lẽ đó, đối với các DNVVN tín dụng Ngân hàng luôn được coi là một điểm tựa vững chắc về vốn.
1.2- Tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1- Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Trong cuộc sống có nhiều hình thức quan hệ tín dụng, như: Tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước, tín dụng tiêu dùng, tín dụng quốc tế…Trong đó, tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng phổ biến và có vai trò quan trọng nhất trong nền kinh tế. Đồng thời, nó cũng giữ vị trí chủ chốt trong hoạt động của mỗi ngân hàng.
Chúng ta có thể nói: “Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng - một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ - với một bên là các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng vừa là người đi vay, vừa là người cho vay”
Nói đến tín dụng ngân hàng ta vẫn cho rằng nó bao gồm cả hoạt động “đi vay” và hoạt động “cho vay” của ngân hàng .Tuy nhiên, trên thực tế, do tính chất phức tạp của hoạt động ngân hàng mà các nhà quản lý đã tách riêng hoạt động nhận tiền gửi và hoạt động cho vay, do hai bộ phận chuyên môn độc lập nhau đảm nhận: bộ phận Nguồn vốn và bộ phận Tín dụng. Hoạt động nhận tiền gửi không được gọi là hoạt động tín dụng mà là hoạt động “huy động vốn” do bộ phận Nguồn vốn thực hiện. Bộ phận tín dụng chuyên làm nhiệm vụ cho vay. Như vậy định nghĩa: "Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn bằng tiền tệ, trong đó ngân hàng là người cho vay, còn người đi vay là các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trên nguyên tắc người đi vay sẽ hoàn trả cả vốn lẫn lãi vào một thời điểm xác định trong tương lai như hai bên đã thoả thuận" sẽ phù hợp với hoạt động thực tế của các ngân hàng .
1.2.2- Bản chất của tín dụng ngân hàng
“Bản chất của tín dụng ngân hàng là sự vận động của vốn tiền tệ thông qua các ngân hàng”. Ngân hàng bằng các nghiệp vụ và các hình thức huy động vốn khác nhau huy động lượng tiền nhàn rỗi trong lưu thông, tạo thành nguồn vốn lớn. Đồng thời, ngân hàng sử dụng chính nguồn vốn này để đem cho vay với lãi suất lớn hơn lãi suất tiền gửi. Là trung gian nên ngân hàng là cầu nối giữa người có vốn và người cần vốn hay nói cách khác việc sử dụng nguồn vốn trong các doanh nghiệp nói riêng và trong nền kinh tế nói chung được ngân hàng điều hoà sao cho phù hợp và đạt hiệu quả cao. Như vậy, ngân hàng bằng hoạt động của mình đã góp phần vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong xã hội, thông qua chức năng tạo tiền ngân hàng có thể nhận nguồn tiền gửi tăng trưởng theo bội số tạo tiền. Qua đó, ngân hàng sẽ được hưởng phần chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động.
1.2.3- Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với DNVVN
1.2.3.1- Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn hợp lý cho DNVVN
Nguồn vốn của một DN luôn bao gồm hai phần: Vốn tự có và vốn vay. Sự kết hợp nhất định giữa hai nguồn này chỉ ra chi phí vốn tối ưu cho doanh nghiệp. Cơ cấu vốn tối ưu là sự kết hợp hợp lý nhất các nguồn tài trợ cho kinh doanh của một doanh nghiệp nhằm mục đích tối đa hoá giá trị thị trường của doanh nghiệp tại mức giá vốn bình quân rẻ nhất. Cơ cấu vốn tối ưu cần đạt được sự cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận. Nếu tỷ lệ vốn của chủ lớn thì mức độ rủi ro của DN thấp nhưng kéo theo mức lợi nhuận thu được cũng thấp do vốn chủ sở hữu thường là nhỏ bé trong khi nhu cầu vốn của DN là rất lớn, vì vậy để đáp ứng được nhu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như mong muốn tăng nguồn lợi thu được, các DN phải tiếp cận với nguồn vốn vay.
Nhưng nếu vốn vay quá lớn thì chi phí vốn sẽ tăng, kéo theo giá thành tăng và đương nhiên lợi nhuận thu được sẽ giảm, đồng thời khả năng thanh toán của DN giảm, rủi ro dẫn tới nguy cơ phá sản tăng. Do đó, tỷ lệ vốn vay càng lớn, doanh nghiệp càng phải chịu sự kiểm soát sát sao và các điều kiện vay vốn chặt chẽ của ngân hàng. Vì thế các ngân hàng và các DN phải cân nhắc trong việc quyết định tỷ trọng giữa vốn vay và vốn chủ trong cơ cấu vốn sao cho hợp lý để vừa đáp ứng được nhu cầu về vốn, vừa đảm bảo được nguồn thu và mang lại sự an toàn cho hoạt động kinh doanh.
1.2.3.2- Tín dụng ngân hàng tác động vào xu thế chuyển dịch cơ cấu sản xuất của DNVVN
Nhà nước ta đang có chủ trương chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế theo hướng nâng cao tỉ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ trong tổng thu nhập quốc nội. Như vậy các DN hoạt động trong các lĩnh vực nãy sẽ được hưởng sự ưu đãi khi muốn quan hệ với các NHTM. Cụ thể như khi muốn lập hồ sơ vay vốn, các DN này được sự ủng hộ của chính quyền địa phương nên thủ tục giấy tờ được giải quyết nhanh chóng, về phía ngân hàng sẽ có những chính sách ưu đãi về lãi suất, về xét duyệt hạn mức tín dụng, điều kiện cho vay cũng dễ dàng hơn các DN khác…
1.2.3.3- Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho DNVVN mở rộng sản xuất
Ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động của mình thông qua việc huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong toàn bộ nền kinh tế để tài trợ cho các thành phần kinh tế nói chung và DNVVN nói riêng. Để đảm bảo cho các DNVVN không chỉ duy trì sản xuất mà còn mở rộng tái sản xuất, tín dụng ngân hàng tài trợ vốn cho DN không chỉ với các khoản vay ngắn hạn mà còn có trung và dài hạn. Muốn mở rộng sản xuất kinh doanh, ngoài thị trường tiềm năng trong nước các DN còn phải chú trọng tới thị trường nước ngoài. Tín dụng ngân hàng thông qua nghiệp vụ bảo lãnh, tài trợ cho nghiệp vụ xuất nhập khẩu giúp cho DN đạt được mục đích này. Nói chung với các nghiệp vụ của mình ngân hàng đã giúp các DN nói chung và DNVVN nói riêng mở rộng được thị phần của mình, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.2.3.4- Tín dụng ngân hàng giúp các DNVVN sử dụng đồng vốn tiết kiệm và có hiệu quả
Nhằm giảm thiểu rủi ro cho hoạt động của mình, các ngân hàng không chỉ tiến hành thẩm đinh, phân tích rồi giải ngân mà còn có nhiều biện pháp kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh của DN và tình hình sử dụng vốn vay của họ. Do đó, không chỉ thu hồi vốn là đủ mà các DN còn phải tìm kiếm các biện pháp sử dụng vốn có hiệu quả, tiết kiệm, tăng nhanh vòng quay của vốn đảm bảo tỷ suất lợi nhuận lớn hơn lãi suất của ngân hàng thì DN mới trả được nợ và kinh doanh có lãi.
Hơn nữa, bằng việc kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, giám sát chặt chẽ tiến độ và mục đích sử dụng vốn của DN ngân hàng không chỉ kiểm soát được đồng vốn của mình mà còn đưa ra những tư vấn, giúp đỡ trong phạm vi cho phép giúp DN tháo gỡ khó khăn trước mắt và gây dựng được mối quan hệ lâu dài giữa ngân hàng và khách hàng.
1.2.4- Các hình thức tín dụng ngân hàng
Có nhiều tiêu thức để có thể phân loại các hình thức tín dụng ngân hàng, tuy nhiên dưới đây chúng ta chỉ đề cập đến mấy tiêu thức chính như sau:
1.2.4.1- Phân loại theo mục đích vay vốn
Dựa vào căn cứ này cho vay thường được chia ra làm các loại:
Cho vay bất động sản: Là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dich vụ.
Cho vay công nghiệp và thương mại: Là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc…
Cho vay các định chế tài chính: bao gồm cấp tín dụng cho các ngân hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định chế tài chính khác.
Cho vay cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vât dụng đắt tiền, và các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
1.2.4.2- Phân loại theo thời hạn cho vay
Theo căn cứ này cho vay được chia làm 3 loại sau:
Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn đến 12 tháng và được sủ dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của các cá nhân
Cho vay trung hạn: theo quy định hiện nay của ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cho vay trung hạn có thời hạn trên 12 tháng đến 5 năm.Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Ngoài ra nguồn vốn trung hạn này còn được các doanh nghiệp dùng để đổi mới sản phẩm
Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời gian tối đa có thể lên đến 20-30 năm, một số trường hợp cá biệt có thể lên tới 40 năm. Tín dụng dài hạn được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu về xây dựng cơ bản.
1.2.4.3- Phân loại theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
Theo căn cứ này, cho vay được chia làm hai loại chính, đó là:
Cho vay không bảo đảm: Là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, có khả năng tài chính mạnh ngân hàng có thể cung cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
Cho vay có bảo đảm: Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phảI có sự bảo lãnh của người thứ ba.
Đối với các khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng khi vay vốn đồi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
Trong những năm 90 các ngân hàng chỉ được phép cho vay có bảo đảm trừ các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh có hiệu qủ và cho vay hộ nông dân, từ 5 triệu đồng trở xuống. Ngày 29/12/1999 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 178/1999/ NĐ-CP về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng; theo đó mà việc cho vay không bảo đảm được mở rộng hơn so với trước đây, cho phép các tổ chức tín dụng được lựa chọn khách hàng để cho vay không có bảo đảm, tuy nhiên khách hàng vay không bảo đảm phải hội tụ đầy đủ những diều kiện sau đây:
+ Có tín nhiệm đối với tổ chức cho vay trong việc sử dụng vốn vay và trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi
+ Có dự án đầu tư, hoặ phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi có khả năng hoàn trả nợ; hoặc có dự án phương án phục vụ đới sống khả thi phù hợp với quy định của pháp luật
+ Có khả năng tài chính để thực hịên nghĩa vụ trả nợ
+ Cam kết thực hiện biện pháp đảm bảo bằng tài chính theo yêu cầu của tổ chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong trường hợp đồng tín dụng; cam kết trả nợ trước hạn nếu không thục hiện được các biện phấp bảo đảm bằng tài sản
Mức vay tối đa không bảo đảm của mỗi loại hình tổ chức tín dụng do Ngân hàng Nhà nước quy định trong mỗi thời kỳ.
1.2.4.4- Phân loại theo phương pháp hoàn trả
Cho vay của ngân hàng được chia làm hai loại:
- Cho vay có thời hạn: là loại cho vay có thoả thuận thời hạn trả nợ cụ thể theo hợp đồng. Cho vay có thời hạn bao gồm các loại sau:
ü Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ cụ thể hay còn gọi là cho vay trả góp: Là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãI theo định kỳ. Loại cho vay này chủ yếu được áp dụng trong cho vay bất động sản nhà ở thương mại, cho vay tiêu dùng, cho vay đối với những người kinh doanh nhỏ (cho vay chợ), cho vay để mua sắm thiềt bị.
ü Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ (hay còn gọi là phi trả góp) là loại cho vay thanh toán một lần theo thời hạn đã thoả thuận.
ü Cho vay hoàn trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể, mà việc trả nợ phụ thuộc vào khả năng tài chính của người đi vay. Hoặc cho vay này được áp dụng theo kỹ thuật thấu chi.
Đối với loại cho vay có thời hạn khách hàng có thể trả nợ trước hạn nhưng ngân hàng vẫn có quyền thu lãi toàn bộ kỳ hạn trả nợ theo hợp đồng, trừ trường hợp có những thoả thuận khác.
- Cho vay không có thời hạn: Đối với loại cho vay không có thời hạn thì ngân hàng có thể yêu cầu hoặc người đi vay tự nguyện trả nợ bất kỳ lúc nào, nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý, thời gian này có thể được thoả thuận trong hợp đồng.
1.2.4.5- Phân loại theo xuất xứ tín dụng
Dựa vào căn cứ này, cho vay được chia làm hai loại:
- Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phat sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Các NHTM cho vay gián tiếp theo các loại sau:
ü Chiết khấu thương mại (discount): Người hưởng thụ hối phiếu hoặc lệnh phiếu còn trong thời hạn thanh toán có thể nhượng lại cho ngân hàng. Trong trường hợp này ngân hàng cấp cho khách hàng một khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi lãi suất chiết khấu và hoa hồng phí. Khi các chứng từ này đến hạn thanh toán người thụ lệnh hối phiếu hoặc người phát hành lệnh phiếu có trách nhiệm thanh toán cho ngân hàng. Cần lưu ý, trong nghiệp vụ chiết khấu thương mại người được cấp tín dụng và người chịu trách nhiệm thanh toán cho ngân hàng là hai người khác nhau.
ü Mua các phiếu bán hàng (dealer paper) tiêu dùng và máy móc nông nghiệp trả góp.
Do sự tác động của phương thức tiêu thụ hàng hoá gắn phương pháp tiếp thị mới đã thúc đẩy các NHTM đưa vào áp dụng loại cho vay gián tiếp. Trong điều kiện hiện nay các DN thương mại đang tìm mọi biện pháp đã cạnh tranh trong việc tiêu thụ hàng hoá, trong đó bán chịu hàn hoá được coi là biện pháp để mở rộng tiêu thụ hàng hoá có hiệu quả nhất. Tuy nhiên nguồn vốn của các DN có hạn, vì vậy cần phải có nguồn tài trợ của ngân hàng thông qua nhượng lại các phiếu bán hàng trả góp.
Một số điểm cần lưu ý trong việc thực hiện cho vay gián tiếp:
ª Trước khi thực hiện hợp đồng mua lại các phiếu bán hàng trả góp, ngân hàng phải thoả thuận với người bán các điều kiện bắt buộc khi thực hiện việc bán hàn trả góp và ngân hàng chỉ mua những hồ sơ bán hàng theo đúng các điều kiện đã thoả thuận.
ª Ngân hàng phải giữ lại từ 10% - 30% so với số tiền phải thanh toán cho người bán và sẽ hoàn lại cho người bán khi người mua thanh toán hết nợ. Quy định này là cần thiết để nâng cao trách nhiệm của người bán trong việc giám định các hồ sơ bán chịu.
ª Hợp đồng mua lại các phiếu bán hàng trả góp là các hợp đồng được phép truy đòi, có nghĩa là khi người mua không thanh toán được nợ thì người bán có trách nhiệm phải thanh toán cho ngân hàng.
ª Phần lớn lãi thu được từ khoản tín dụng này ngân hàng được hưởng và chỉ dành cho người bán một mức hoa hồng nhất định.
ü Nghiệp vụ thanh tín (nghiệp vụ factoring): là nghiệp vụ mua các khoản nợ thương mại (các khoản phải thu), trong đó bên mua (factor) nhận việc thu nợ và chấp nhận rủi ro tín dụng. Factoring, thực chất là hình thức tài trợ vốn lưu động cho các DN
1.3- Chất lượng tín dụng ngân hàng đối với các DNVVN
1.3.1- Khái niệm chất lượng tín dụng ngân hàng đối với DNVVN
Tín dụng là hoạt động truyền thống và là tiền thân của hoạt động ngân hàng. Đó là hoạt động mang lại những nguồn thu chính cho các NHTM, tuy nhiên theo những số liệu thống kê đây là lĩnh vực ẩn chứa nhiều rủi ro nhất trng hoạt động của các NHTM. Vậy để đánh giá được hoạt động tín dụng của một ngân hàng có hiệu quả hay không chúng ta phải tìm hiểu thế nào là chất lượng của hoạt động tín dụng đó. Chất lượng tín dụng được hiểu theo đúng nghĩa: Đồng vốn của ngân hàng cho các doanh nghiệp vay phù hợp với khả năng của ngân hàng, phù hợp với chính sách phát triển kinh tế của địa phương, và quan trọng là với đồng vốn đó các DN sẽ tiến hành hoạt động kinh doanh có hiệu quả, thu được lợi nhuận và hoàn trả vốn vay cho ngân hàng cả gốc và lãi đung thời hạn đã ký trong hợp đồng.
Như vậy, "Chất lượng tín dụng ngân hàng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng (ở đây là các DNvvN) về vốn vay phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của địa phương cũng như của nhà nước, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, và thoả mãn được nhu cầu về vốn của DN cũng như tạo tâm lý thoải mái cho họ trong và sau khi giao dịch với ngân hàng ".
Theo khái niệm nói trên, chúng ta có thể thấy một khoản vay được coi là có chất lượng cao khi thoả mãn cả ba đối tượng: ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế.
* Chất lượng tín dụng xét trên giác độ NHTM
Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, giới hạn tín dụng. Lượng tín dụng mà ngân hàng cung cấp phải phù hợp với khả năng, thực lực của bản thân ngân hàng và phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Chất lượng hoạt động tín dụng thể hiện qua các chỉ tiêu: lợi nhuận hợp lý và gia tăng, dư nợ, doanh số cho vay, doanh số thu nợ ngày càng tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn đảm bảo đúng quy định và hợp lý, đảm bảo cơ cấu nguồn vốn giữa ngắn, trung và dài hạn trong nền kinh tếngân hàng
Như vậy, để có được chất lượng tín dụng tốt, các nhà ngân hàng phải tiến hành phân tích, kiểm tra đánh giá kỹ lưỡng mỗi khách hàng trước khi cho vay, phải tiếp cận với hoạt động các DN để có những cái nhìn đúng đắn về tình hình sản xuất kinh doanh đang diễn ra tại các DN này, từ đó đưa ra hạn mức cho vay, phương thức trả lãi và các điều khoản liên quan nhằm mang lại sự hài lòng cho khách hàng nhưng cũng giảm thiểu rủi ro cho đồng vốn.
* Chất lượng tín dụng xét trên giác độ nền kinh tế
Trong bất kỳ giai đoạn nào, sự vận động của nền kinh tế đều đi theo định hướng phát triển của các chính sách mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Hoạt động ngân hàng nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, vì vậy, nó cũng phải nằm trong khuôn khổ những định hướng phát triển chung. Như vậy chúng ta có thể thấy: Chất lượng tín dụng trên giác độ nền kinh tế là sự đáp ứng các nhu cầu về vốn phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của từng vùng, địa phương nhằm xây dựng cơ sở vật chất, giải quyết việc làm, phát triển kinh tế và nâng cao mức sống cho người dân.
* Chất lượng tín dụng trên giác độ khách hàng
Tạo nên một khoản vay có chất lượng không chỉ cần có sự nỗ lực của phía ngân hàng mà khách hàng lại là chủ thể quyết định phần lớn vấn đề này. Sau quá trình phân tích, thẩm định kỹ lưỡng, ngân hàng quyết định cho vay, tiếp đó là ký hợp đồng, giải ngân. Nhưng sau khi nhận được tiền, khách hàng lại sử dụng số vốn đó vào một mục đích khác không như trong phương án sản xuất. Như vậy khả năng thu hồi vốn của ngân hàng đã bị đe doạ bởi sự không trung thực của khách hàng.
Mặt khác, thông qua quan hệ lâu dài với khách hàng, ngân hàng sẽ có sự am hiểu nhất định về nhu cầu vốn vay của doanh nghiệp (Ngân hàng nắm được quy luật mùa vụ, chu kỳ sản xuất…của khách hàng). Từ đó, ngân hàng sẽ có kế hoạch chuẩn bị về nguồn để phục vụ nhu cầu của khách hàng. Vậy,._. chất lượng tín dụng trên giác độ một khách hàng là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý của khách hàng với mức lãi suất hợp lý, thái độ phục vụ tận tình, thủ tục đơn giản, đảm bảo nguyên tắc an toàn của tín dụng.
Sự khác nhau giữa chất lượng tín dụng của DNVVN với chất lượng tín dụng của DN lớn
Xét về khái niệm và những chỉ tiêu phản ánh cũng như những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng nói chung, chất lượng tín dụng của DNVVN và DN lớn là không có gì khác nhau nhưng trên thực tế chất lượng tín dụng của các DN lớn thường cao hơn so với các DNVVN. Sở dĩ như vậy là vì các DN này thường có lượng vốn tự có lớn, máy móc thiết bị hiện đại và một thị trường tiêu thụ hàng hoá rộng lớn, vì vậy khả năng trả nợ của họ là rất cao vì nguồn thu của các DN này, đó là những thuận lợi của các DN lớn trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Còn trên giác độ cácNHTM, các DN lớn thường là các DNNN vì vậy mức độ tin cậy là rất lớn, vì vậy chất lượng tín dụng đối với khu vực này thường cao hơn các DNVVN.
1.3.2- Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng ngân hàng đối với DNVVN
1.3.2.1- Các chỉ tiêu định tính
Chất lượng tín dụng được phản ánh qua khả năng cho vay và thu hồi vốn của ngân hàng, tình hình sử dụng vốn đúng mục đích và khả
năng trả nợ vay của DN, sự phát triển của doanh nghiệp đó có phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của vùng, địa phương hay không. Như vậy, ta có thể thấy được một vài chỉ tiêu định tính cơ bản nói lên chất lượng tín dụng của ngân hàng đối với các DNVVN
* Các chỉ tiêu của ngân hàng
- Trước hết là việc chấp hành các bước cụ thể trong quy trình tín dụng, đây là việc làm cơ bản mà về nguyên tắc là không thể bỏ qua bất kỳ một công đoạn nào. Nó là cơ sở pháp lý đảm bảo cho món vay được an toàn, hiệu quả. Hiện nay, một quy trình tín dụng thường gồm năm bước cơ bản: tiếp nhận và lập hồ sơ, phân tích tín dụng, quyết định tín dụng, giải ngân và cuối cùng là giám sát và thanh lý tín dụng.
- Kết cấu nguồn cho vay: một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng đó là dàn trải rủi ro. Như vậy chúng ta có thể thấy cơ cấu của nguồn cho vay là rất quan trọng trong việc hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Để thực hiện được yêu cầu này, một ngân hàng cần phải đa dạng hoá các đối tượng khách hàng của mình, làm như vậy ngân hàng vừa tránh được rủi ro lại vừa góp phần thúc đẩy sự phát triển của một nền kinh tế đa dạng.
- Quy mô của hoạt động tín dụng: một ngân hàng không chỉ quan hệ với các tổng cồn ty lớn mà quên đi thị trường tiềm năng các DNVVN, một ngân hàng có chất lượng tín dụng cao là phải có được một đội ngũ khách hàng đông đảo, đa dạng, hơn thế nữa tỉ lệ dư nợ trên một khách hàng cũng nên không quá cao, vì như vây sẽ dẫn đến tốc độ quay vòng vốn của ngân hàng sẽ giảm, rủi ro tiềm ẩn cao.
* Các chỉ tiêu về phía khách hàng
- Một món vay có chất lượng cao chỉ khi khách hàng có ý muốn hợp tác và là một khách hàng có chữ tín. Ngân hàng chỉ có thể đưa ra quyết định cho vay sau khi đã tiến hành các bước phân tích, thẩm định tín dụng. Tuy nhiên ngân hàng sẽ rất dễ bị đánh lừa bởi các báo cáo kết quả kinh doanh “giả” nếu các khách hàng không trung thực, và như vậy khoản vay đã gặp rủi ro ngay từ khi giải ngân.
- Bằng những phương án sản xuất kinh doanh hợp lý, khả năng về tài chính đảm bảo, khách hàng sẽ được chấp nhận cho vay từ phía ngân hàng. Nhưng việc sử dụng vốn đúng mục đích mới là yếu tố quyết định đến chất lượng của khoản vay. Một khoản vốn được sử dụng đúng mục đích sẽ mang lại cho khách hàng chữ tín, ngân hàng sẽ có được một khách hàng đáng tin cậy, và như vậy quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng sẽ ngày một gắn bó.
* Về phía nhà nước
Các hợp đồng tín dụng muốn được thành lập nhanh chóng chỉ khi các giấy tờ, thủ tục của cơ quan có thẩm quyền, uỷ ban các cấp được giải quyết kịp thời. Hiện nay ở nước ta, thủ tục, giấy tờ còn rất rườm rà, mất thời gian làm ảnh hưởng tới tốc độ giải ngân, gây thiếu vốn, làm chậm quá trình sản xuất kinh doanh của DN.
1.3.2.2- Các chỉ tiêu định lượng
a, Doanh số cho vay và doanh số thu nợ, dư nợ, kết cấu dư nợ
- Doanh số cho vay phản ánh lượng vốn mà Ngân hàng đã giải ngân cho DN trong đầu tư cải tiến máy móc thiết bị, ứng dụng công nghệ mới, mở rộng sản xuất kinh doanh. Con số và tốc độ của doanh số cho vay qua các năm phản ánh quy mô và xu hướng của hoạt động tín dụng là mở rộng hay thu hẹp.
- Doanh số thu nợ phản ánh lượng vốn mà ngân hàng đã thu hồi được trong một thời kỳ.
- Dư nợ phản ánh lượng vốn mà khách hàng còn nợ ngân hàng tại một thời điểm cụ thể.
- Kết cấu dư nợ là tỷ lệ phần trăm các khoản mục dư nợ chia theo kỳ hạn khoản vay, thành phần kinh tế, các ngành kinh tế
Các chỉ tiêu về doanh số cho vay, dư nợ tuy có nói lên khả năng của ngân hàng trong hoạt động cho vay, tuy nhiên nó chưa khẳng định được chất lượng tín dụng của ngân hàng có phải là cao hay không, muốn khẳng định được điều đó chúng ta phải thông qua các chỉ tiêu sẽ nói tới dưới đây.
b, Hệ số sử dụng vốn vay
` Tổng dư nợ
Hệ số sử dụng vốn vay = ------------------------------------
Tổng nguồn vốn huy động
- Hệ số này phản ánh kết quả sử dụng nguồn vốn huy động trong hoạt động cho vay của các NHTM. Hệ số này luôn nhỏ hơn 1. Hệ số sử dụng vốn cao là một tín hiệu tốt đối với hoạt động tín dụng, nhưng nếu hệ số này tiến quá gần tới 1 thì ngân hàng cần đề phòng trường hợp mất khă năng thanh toán. Nếu hệ số sử dụng vốn thấp cần tăng trưởng dư nợ hoặc giảm huy động vốn bằng cách hạ lãi suất huy động hạn chế rủi ro nguồn vốn tác động đến hiệu quả kinh doanh.
c, Tỉ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ
Công thức:
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = --------------------- x 100 %
Tổng dư nợ
Đây là chỉ tiêu phản ánh rõ nhất về chất lượng tín dụng ngân hàng. Nếu tỷ lệ nợ quá hạn cao thì chứng tỏ ngân hàng đó hoạt động kém hiệu quả§, chất lượng tín dụng không cao. Ngược lại nếu tỷ lệ nợ quá hạn thấp chứng tỏ chất lượng tín dụng cao, rủi ro đối với ngân hàng thấp.
Nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn thường chia làm hai loại:
* Nguyên nhân thứ nhất: Nợ quá hạn do kỳ hạn trả nợ ngắn hơn chu kỳ sản xuất kinh doanh hoặc vì một lý do nào đó chưa thu được tiền bán hàng nên đến kỳ hạn trả nợ khách hàng chưa có tiền trả, ngân hàng buộc phải chuyển khoản nợ đó sang nợ quá hạn, loại nợ quá hạn này khả năng thu được nợ của ngân hàng cao.
* Nguyên nhân thứ hai: Nợ quá hạn do khách hàng vay vốn kinh doanh thua lỗ, bị phá sản hoặc không còn khả năng trả nợ lúc này ngân hàng phải chuyển các khoản nợ này sang nợ quá hạn chờ sử lý. Loại nợ quá hạn này gọi là “nợ khó đòi”, khả năng thu hồi vốn là rất ít.
Nợ khó đòi
Tỷ lệ nợ khó đòi = ---------------------
Tổng dư nợ
Các ngân hàng thương mại thường dùng quỹ dự phòng rủi ro để xử lý giảm hoặc xoá nợ theo tình hình thực tế từng món vay để giảm tỷ lệ nợ quá hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn phụ thuộc vào tổng dư nợ chuyển sang nợ quá hạn và tổng dư nợ tại một thời điểm, thường là ngày cuối quý hoặc ngày cuối năm. Để giảm tỉ lệ nợ quá hạn các ngân hàng thương mại thường giảm giá trị tuyệt đối nợ quá hạn nếu dư nợ tín dụng tăng không đáng kể hoặc vừa giảm nợ quá hạn vừa tăng tín dụng. Trường hợp không thể giảm được nợ quá hạn hoặc giảm không đáng kể, các ngân hàng thương mại thường tăng tổng dư nợ tín dụng, tức là tăng quy mô dư nợ tín dụng. Theo thông lệ quốc tế, tỷ lệ nợ quá hạn dưới 5% trên tổng dư nợ có thể chấp nhận được. Tỷ lệ này càng thấp chứng tỏ hoạt động tín dụng của các ngân hàng này càng cao.
d, Tốc độ quay vòng vốn tín dụng
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn tín dụng = ---------------------------
Dư nợ bình quân
Chỉ tiêu này cho ta biết số lần vốn từ ngân hàng đến tay khách hàng rồi quay lại đúng thời hạn trong một thời gian nhất định. Tốc độ luân chuyển vốn cao chứng tỏ đồng vốn của ngân hàng đã tham gia nhiều vào chu kỳ sản xuất kinh doanh của DN. Với số lượng vốn nhất định, nhưng do tốc độ vòng quay vốn tín dụng nhanh nên ngân hàng không những đáp ứng được nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp mà còn thêm nguồn vốn để tiếp tục đầu tư cho các doanh nghiệp khác thực hiện phát triển sản xuất kinh doanh. Vòng quay vốn tín dụng nhanh chứng tỏ tốc độ quay vòng vốn của các DN vay vốn cao, các DN hoạt động có hiệu quả với đồng vốn vay của ngân hàng.
1.3.3- Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng đối với DNVVN
1.3.3.1- Các nhân tố chủ quan
a, Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng là hệ thống các chỉ trương, định hướng quy định chi phối hoạt động tín dụng do Hội đồng quản trị các ngân hàng đưa ra nhằm sử dụng hiệu quả nguồn vốn để tài trợ cho các doanh nghiệp, các hộ gia đình và cá nhân trong phạm vi cho phép của những quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Các ngân hàng lập ra chính sách tín dụng nhằm mục đích:
- Chính sách tín dụng xác định những giới hạn áp dụng cho các hoạt động tín dụng. Đồng thời cũng thiết lập môi trường nhằm giảm bớt rủi ro trong hoạt động tín dụng.
- Chính sách tín dụng được đưa ra nhằm bảo đảm rằng mỗi quyết định tín dụng đều khách quan, tuân thủ quy định của NHNNVN và phù hợp thông lệ chung của quốc tế. Không một tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào quyền tự chủ trong quá trình cho vay và thu nợ của các NHTM. Chính sách tín dụng xác định:
* Các đối tượng có thể vay vốn của ngân hàng
* Phương thức quản lý các hoạt động tín dụng
* Các loại sản phẩm tín dụng khác nhau do ngân hàng cung cấp
* Những ràng buộc về tài chính
* Nguồn vốn dùng để tài trợ các hoạt động tín dụng
* Phương thức quản lý danh mục cho vay
* Thời hạn và điều kiện áp dụng cho các loại sản phẩm tín dụng khác nhau
b, Tình hình huy động vốn của ngân hàng
Ngân hàng là tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với hoạt động chủ yếu là “đi vay để cho vay”, bởi vậy nếu không đi vay được tức là ngân hàng không có vốn để đem cho vay. Nguồn vốn huy động được càng lớn và đa dạng về kỳ hạn, về hình thức thì càng tạo điều kiện cho hoạt động cho vay phát triển. Bên cạnh đó, chi phí huy động vốn cũng ảnh hưởng lớn tới lãi suất cho vay, vì lãi suất cho vay phải đủ để trang trải chi phí đầu vào. Nếu chi phí huy động cao thì lãi suất cho vay cũng phải cao. Chất lượng hoạt động huy động cũng phụ thuộc vào chất lượng cho vay, chúng phụ thuộc lẫn nhau. Nếu ngân hàng huy động được nhiều vốn mà không cho vay hết được số đó sẽ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn, chi phí trả lãi vốn gia tăng mà thu nhập không tăng hoặc thấp hơn chi phí vốn, ngân hàng sẽ kinh doanh thua lỗ.
c, Quy trình cho vay
Quy trình cho vay là quy định về các bước cần thiết phải thực hiện trong quá trình cho vay bắt đầu từ khi phân tích nhu cầu cho đến khi thu hồi đủ nợ vay gồm cả vốn lẫn lãi.
Quá trình cho vay thường gồm năm bước: Nhận và lập hồ sơ, phân tích tín dụng, quyết định tín dụng, giải ngân, giám sát và thanh lý tín dụng. Trong đó, phân tích các yếu tố tín dụng, ký hợp đồng tín dụng chính là khâu quan trọng nhất ảnh hưởng đến chất lượng của món vay đó. Công việc này cần tính chặt chẽ, chính xác, có thực tế nhưng cũng rất cần linh hoạt, sự nhạy cảm nghề nghiệp để tránh phần nào những quyết định sai lầm. Việc thẩm định mà quá nguyên tắc, cứng rắn, kém linh hoạt có thể dẫn đến ngân hàng bỏ lỡ nhiều cơ hội. Ngân hàng luôn phải cân nhắc giữa tính toán an toàn với tính sinh lời trong mọi công việc.
Chất lượng tín dụng còn phụ thuộc vào công tác kiểm tra, kiểm soát trước trong và sau khi cho vay. Quá trình này giúp ngân hàng có thể nắm bắt được tình hình sản xuất kinh doanh và sử dụng vốn vay của khách hàng. Thông qua kiểm tra, kiểm soát ngân hàng có thể dự đoán mọi tình hình xung quanh khoản vay của mình như: thu nhập khi đến hạn của DN, quan hệ của DN đối với các ngân hàng khác, tình hình sản xuất kinh doanh của DN…
Khâu cuối cùng của một quy trình tín dụng là thu nợ gốc và lãi. Đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNVVN chu kỳ sản xuất kinh doanh thường hay biến động, có thể một lý do nào đó mà khách hàng chưa muốn trả nợ hoặc chưa có nguồn để trả nợ. Vì thế nếu ngân hàng không thu nợ kịp thời hay việc xác định kỳ hạn trả nợ không hợp lý có thể dẫn tới nợ quá hạn gia tăng, mất khả năng thu nợ của ngân hàng, ảnh hưởng xấu đến chất lượng cho vay.
d, Chất lượng nhân sự
Chất lượng nhân sự thể hiện ở trình độ nghiệp vụ, khả năng giao tiếp, kiến thức tổng hợp như kiến thức marketing, tin học, ngoại ngữ, trách nhiệm với công việc và cả vấn đề đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng. Dưới con mắt khách hàng, các cán bộ tín dụng là hình ảnh của ngân hàng. Vì vậy, phong cánh giao tiếp của cán bộ tín dụng tạo niềm tin và sự hài lòng của khách hàng cũng là một yếu tố quan trọng để thu hút khách hàng đến với ngân hàng. Nhưng trình độ nghiệp vụ là yếu tố quan trọng nhất vì nó đảm bảo quá trình thực thi nhiệm vụ nhanh chóng, chính xác, linh hoạt trong mọi tình huống khi cho vay. Thêm vào đó, những hiểu biết mang tính tổng hợp sẽ tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng thực hiện công việc tốt hơn, đặc biệt là trong khâu thẩm định.
Con người là yếu tố quyết đinh của mọi sự thành công, vì vậy nâng cao chât lượng nhân sự là một vấn đề cần làm trước tiên của các tổ chức nói chung và của các NHTM nói riêng.
e, Thông tin tín dụng
Để hoạt động tín dụng thực sự có hiệu quả cần nắm bắt được các thông tin tín dụng chính xác, kịp thời. Các thông tin tín dụng bao gồm những thông tin về tài chính, uy tín, trình độ quản lý, năng lực pháp lý của khách hàng, thông tin về kinh tế xã hội. Sự chính xác, kịp thời và đầy đủ của các thông tin sẽ giúp ngân hàng đưa ra quyết định đúng đắn với khách hàng, lựa chọn món cho vay có lợi cho ngân hàng.
Hiện nay, ở nước ta việc tìm kiếm thông tin có chất lượng như trên là rất khó khăn. Có nhiều khoản cho vay gặp rủi ro vì thiếu thông tin chính xác như: một khách hàng dùng một tài sản thế chấp đi vay nhiều ngân hàng, báo cáo kết quả kinh doanh giả, hợp đồng giả... Điều này không những gây tổn thất về mặt tài chính cho ngân hàng mà còn gây mất lòng tin của ngân hàng đối với những khách hàng khác, đặc biệt tình hình này hay xuất hiện ở những khu vực các DNVVN. Như vậy, thông tin tín dụng là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên chất lượng của một khoản tín dụng.
f, Cơ sở vật chất, trang thiết bị của ngân hàng
Cơ sở vật chất và trang thiết bị của ngân hàng cũng là yếu tố gây ảnh hưởng tới chất lượng cho vay nói riêng và các hoạt động khác của ngân hàng nói chung. Với trang thiết bị hiện đại có thể giúp ngân hàng thực hiện nghiệp vụ của mình một cách nhanh chóng, chính xác như việc ứng dụng tin học vào việc quản lý, theo dõi khách hàng, cập nhật thông tin.
Với một hệ thống trang thiết bị hiện đại, ngân hàng sẽ tạo cho khách hàng một tâm lý tin tưởng. Đây cũng là yếu tố thu hút khách hàng đến với ngân hàng.
g, Công tác tổ chức của ngân hàng
Đây là yếu tố không trực tiếp ảnh hưởng tới chất lượng cho vay nhưng nếu công tác tổ chức hoạt động của ngân hàng không khoa học, không có sự phối hợp hoạt động giữa các phòng ban thì hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và của bộ phận tín dụng sẽ không có được kết quả tốt. Đặc biệt cần quan tâm tới sự phối hợp giữa phòng nguồn vốn và phòng tín dụng để chất lượng tín dụng ngày càng được nâng cao.
1.3.3.2- Các nhân tố khách quan
a, Về phía khách hàng
ü Phương án sản xuất kinh doanh
Ngay từ khi lập hồ sơ vay vốn, DN đã phải lập một phương án sản xuất kinh doanh có tính khả thi, phù hợp với khả năng tài chính, năng lực lãnh đạo của mình. Đây là bước đầu tiên để thiết lập quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, tuy nhiên, chất lượng tín dụng lại được quyết định phần lớn ở việc khách hàng đó sử dụng đồng vốn đó như thế nào, họ có tiến hành sản xuất kinh doanh đúng với phương án đã nêu hay không, hay họ lại sử dụng vốn đó vào việc khác. Muốn quản lý được việc này, các cán bộ tín dụng phải thường xuyên kiểm tra đối với các doanh nghiệp cũng như tư nhân đã nhận các món vay của ngân hàng, làm như vậy mới giảm được rủi ro cho ngân hàng và nâng cao chất lượng tín dụng.
ü Uy tín của doanh nghiệp
Chữ tín luôn được đặt lên hàng đầu, đó là phương châm làm việc của các khách hàng muốn có quan hệ lâu dài với ngân hàng, cũng như của hầu hết các DN làm ăn đứng đắn. Tuy nhiên, không phải DN nào cũng như vậy. Vậy uy tín của khách hàng trong quan hệ tín dụng với ngân hàng là gì ? Đó là sự sẵn lòng trả nợ cũng như mong muốn thực hiện những gì đã thoả thuận trong bản hợp đồng tín dụng.
ü Tình hình tài chính của doanh nghiệp
Đây là yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng của khoản vay. Một DN đã đến kỳ trả nợ, có thiện chí trả nợ tuy nhiên khả năng về tài chính của họ lại không có thì làm sao thực hiên được những gì đã cam kết trong hợp đồng. Thông thường, ngân hàng quy định số lượng vốn tự có của khách hàng phải tương đương với số vốn mà ngân hàng cho vay. Một yếu tố quan trọng nữa góp phần nâng cao chất lượng tín dụng đó là tính lỏng của tài sản mà khách hàng sở hữu.
ü Nhà quản lý doanh nghiệp
Nói đến nhà quản lý DN chúng ta thường quan tâm đến năng lực quản lý, tư cách đạo đức của họ. Một ông chủ nắm bắt được thị trường, có kiến thức về ngành nghề kinh doanh của mình cũng như những ngành liên quan sẽ dẫn dắt DN của mình đi đúng hướng, gặt hái được nhiều thắng lợi. Doanh nghiệp kinh doanh có lãi sẽ góp phần nâng cao chất lượng tín dụng đối với ngân hàng.
ü Tài sản đảm bảo
Đây là yếu tố hạn chế rủi ro đối với các ngân hàng. ở đây chúng ta quan tâm tới khia cạnh quyền sở hữu tài sản đảm bảo của khách hàng, giá trị thị thực tế của tài sản đó. Một ngân hàng khi cho vay sẽ không mong muốn phải sử dụng tới tài sản đảm bảo của khách hàng, vì như vậy tốc độ luân chuyển vốn tín dụng của ngân hàng sẽ giảm đi do thời gian để thanh lý tài sản đó là rất dài, thủ tục thanh lý rườm rà.
ü Quan hệ của khách hàng và ngân hàng
Một khách hàng có quan hệ tốt với ngân hàng sẽ rút ngắn được thời gian thực hiện các quy trình của hợp đồng. Trong tâm lý của các cán bộ tín dụng, một khách háng có lịch sử không tốt trong quan hệ với ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong những lần vay khác. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng có nhừng khách hàng truyền thống, họ là những khách hàng lớn, số dư nợ thường cao, tốc độ luân chuyển vốn của những khoản vay này thường lớn.
b, Các nhân tố bên ngoài
ü Chủ trương chính sách của nhà nước
Từ khi nhà nước có chính sách cho phép phát triển kinh tế ngoài quốc doanh, ngân hàng có thêm một lượng khách hàng lớn để mở rộng cho vay. Nhưng trên thực tế, chưa có nhiều chủ trương, chính sách ưu đãi thích hợp đối với khu vực DNVVN. Đặc biệt trong mấy năm trở lại đây, sau nhiều vụ lừa đảo chiếm đoạt tín dụng nghiêm trọng, NHNN đã đưa ra nhiều biện pháp thắt chặt điều kiện cho vay. Các DNVVN vốn đã khó tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng nay lại gặp nhiều khó khăn hơn. Như vậy, những chính sách của nhà nước có thể là động lực nhưng cũng có thể là cản trở để DNVVN có điều kiện vay vốn, mở rộng sản xuất kinh doanh.
ü Môi trường tự nhiên
Trong số những DNVVN quan hệ với ngân hàng có rất nhiều DN kinh doanh, sản xuất trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp, vì vậy yếu tố môi trường ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả sản xuất, kinh doanh của họ. Nhiều năm vừa qua, các ngân hàng thường xuyên phải giãn nợ hoặc gia hạn nợ cho các cá nhân hoặc các DN hoạt động trong lĩnh vực này vì thời tiết có nhiều biến động bất lợi, thiên tai thường xuyên xảy ra. Như vậy ta có thể thấy được môi trường tự nhiên có ảnh hưởng như thế nào đối với chất lượng tín dụng của ngân hàng.
ü Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý là cơ sở để cho các thành phần kinh tế hoạt động một cách hợp pháp có hiệu quả. Các NHTM hoạt động trong môi trường các văn bản pháp luật của nhà nước cũng như của NHNN Việt Nam, như vậy, muốn các NHTM hoạt động có hiệu quả thì các văn bản pháp luật này phải đầy đủ, đồng bộ, tránh sự chồng chéo gây cản trở cho hoạt động của các NHTM nói chung và cho hoạt động tín dụng nói riêng.
ü Môi trường kinh tế
Mọi thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh trong môi trường kinh tế luôn chịu sự chi phối của các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước hoặc chịu sự chi phối của quy luật cung - cầu, quy luật giá trị trên thị trường. Do vậy, muốn các DN hoạt động tốt phải tạo lập được một môi trường kinh doanh lành mạnh, ổn định. Góp phần xây dựng một môi trường kinh doanh tốt, các nhà ngân hàng phải làm tốt các dự báo và luôn chuẩn bị khả năng thích ứng với các biến động của thị trường.
Chương II : Thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNVVN của ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội
2.1- Khái quát về ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội
2.1.1- Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội
2.1.1.1- Thời kỳ chuẩn bị
Năm 2000, năm cuối cùng của thế kỷ thứ XX, năm có nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Mặc dù nền kinh tế thế giới, đặc biệt là nền kinh tế khu vực còn chưa khắc phục hết hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính, nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục ổn định và tăng trưởng nhanh.
Năm 2000 cũng là năm hệ thống Ngân hàng đang xúc tiến mạnh mẽ chương trình đổi mới hoạt động Ngân hàng theo tiến trình hội nhập quốc tế. Cơ chế chính sách đang được chỉnh sửa theo hướng giành nhiều quyền tự chủ kinh doanh cho các NHTM, tiến trình hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng đang được triển khai nhanh chóng. Đó là cơ hội thuận lợi cho một chi nhánh mới ra đời, phát huy được quyền tự chủ, tiếp cận ngay từ đầu các công nghệ Ngân hàng hiện đại.
Tuy nhiên bối cảnh ra đời của NHNo & PTNT Nam Hà Nội cũng có nhiều khó khăn: Các khách hàng nhất là các đơn vị lớn tại Hà Nội hầu như đã thiết lập các mối quan hệ truyền thống với các Ngân hàng có bề dày kinh nghiệm, có vị trí giao dịch thuận lợi hơn; Chi nhánh ra đời phải hoàn toàn tự lực về khách hàng, về nghiệp vụ kinh doanh, trong khi đội ngũ Cán bộ nhân viên hầu hết là thiếu kinh nghiệm thực tế hoặc chưa quen địa bàn...
Tháng 11 năm 2000, Ban "Trù bị thành lập NHNo & PTNT Nam Hà Nội" đã được thành lập, bao gồm 6 đồng chí, với nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng đề án thành lập NHNo & PTNT Nam Hà Nội, chuẩn bị cơ sở pháp lý và cơ sở vật chất để thành lập Chi nhánh.
Và ngày 12/03/2001, Chủ tịch Hội đồng quản trị đã ra Quyết định số 48/NHNo/QĐHĐQT V /v thành lập Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội trực thuộc NHNo & PTNT Việt Nam. Trụ sở chính tại C3 Phương Liệt - Thanh Xuân - Hà Nội. Biên chế gồm 36 người, trong đó 78% (28 người) có trình độ Đại học và trên Đại học, 19,3% (7 người) có trình độ Cao đẳng và Trung cấp với 5 phòng chuyên môn:
- Phòng kế hoạch kinh doanh: 8 đồng chí, đồng chí Vũ Tú làm trưởng phòng; đồng chí Lê Hữu Phường làm phó phòng.
- Phòng thanh toán quốc tế: 4 đồng chí, đồng chí Đặng Văn Thái làm trưởng phòng, đồng chí Lư Kim Ngân và đồng chí Nguyễn Công Chiến làm phó phòng.
- Phòng kế toán ngân quỹ: 15 đồng chí, đồng chí Vũ Mai Anh làm trưởng phòng.
- Phòng kiểm tra, kiểm toán nội bộ: 3 đồng chí.
- Phòng hành chính nhân sự: 6 đồng chí, đồng chí Nguyễn Danh Vận trưởng phòng, đồng chí Nguyễn Thanh Tâm làm phó phòng.
Nhiệm vụ trọng tâm của giai đoạn này là khẩn trương tổ chức bộ máy, tổ chức tự đào tạo, tập huấn nghiệp vụ và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để khai trương Chi nhánh, cụ thể là:
- Tiếp nhận Cán bộ nhân viên từ các nguồn, tìm hiểu và sắp xếp, bố trí, phân công công việc cho từng người.
- Tổ chức tập huấn nghiệp vụ, thực tập làm việc tại Sở giao dịch.
- Đề xuất, đôn đốc các Ban, Ngành, Trụ sở chính hoàn thiện cơ sở vật chất ban đầu.
- Chuẩn bị các thủ tục, điều kiện vật chất để khai trương hoạt động.
2.1.1.2- Thời kỳ bắt đầu hoạt động và ổn định, phát triển
* Nhiệm vụ chính của giai đoạn này là nhanh chóng ổn định hoạt động của Chi nhánh cả về con người lẫn trang bị cơ sở vật chất; triển khai các hoạt động kinh doanh với phương châm hành động là “ Vì sự thành đạt của Khách hàng và Ngân hàng":
- Tăng cường công tác Marketing thu hút khách hàng.
- Tổ chức các dịch vụ tăng tiện ích cho khách hàng như dịch vụ thu chi tiền mặt tại chỗ... có tác dụng thu hút được rất nhiều khách hàng cho Ngân hàng.
- Xây dựng các nội quy, quy chế điều hành, cơ chế khoán, tổ chức thảo luận trong toàn thể Cán bộ và Nhân viên.
- Thành lập các tổ chức Đảng, Đoàn.
- Tiếp tục hoàn thiện cơ sở vật chất, trang bị đầy đủ phương tiện làm việc cần thiết.
- Tổ chức các hoạt động thể thao, văn nghệ như phong trào bóng bàn, cầu lông, bóng đá...
* NHNo & PTNT Nam Hà Nội cũng là đơn vị được chỉ định thí điểm hệ thống ngân hàng bán lẻ và chương trình giao dịch một cửa, đây là mô hình giao dịch của một Ngân hàng hiện đại, mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng, phù hợp với chủ trương cải tiến, đơn giản hoá thủ tục hành chính của Đảng và Chính phủ.
Từ khi mới đi vào hoạt động, Ban lãnh đạo của Chi nhánh đã xác định đưa công tác huy động vốn lên hàng đầu. Chính vì vậy, hoạt động tiếp thị, tuyên truyền, quảng cáo trên báo chí, trên các phương tiện thông tin đại chúng rất được chú trọng; đồng thời đưa ra các biện pháp tích cực nhằm thu hút các nguồn vốn lớn, rẻ, ít rủi ro từ các đơn vị tổ chức kinh tế trong và ngoài địa bàn, góp phần tăng trưởng nguồn vốn để NHNo & PTNT Việt Nam điều hoà cho các Chi nhánh khác đầu tư thực hiện chỉ tiêu kế hoạch chung toàn ngành và các chương trình đầu tư của Chính phủ. Bên cạnh đó, Chi nhánh cũng rất chú trọng đến việc thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư thông qua việc tổ chức các chương trình khuyến mại như tặng quà cho các khách hàng có số tiền gửi tiết kiệm lớn...
Kể từ khi thành lập đến nay, hoạt động kinh doanh của Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội đã không ngừng phát triển cả về quy mô, tốc độ tăng trưởng, địa bàn hoạt động, cũng như về cơ cấu mạng lưới, tổ chức bộ máy. Cho đến nay, bộ máy hoạt động của Chi nhánh có trên 120 cán bộ - nhân viên (trong đó khoảng 80% có trình độ Đại học và trên Đại học, 17% có trình độ Cao đẳng, Trung cấp, còn lại là lao động giản đơn) với 7 phòng nghiệp vụ, 3 chi nhánh cấp 2 và 3 phòng giao dịch. Từ năm 2001 đến nay, hoạt động kinh doanh của Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội liên tục được NHNo & PTNT Việt Nam công nhận là một trong những Chi nhánh xuất sắc nhất hệ thống, được nhận nhiều Bằng khen của UBND Thành phố HN cho tập thể và những cá nhân tiêu biểu.
2.1.2- Nhiệm vụ chủ yếu của ngân hàng
Thanh Xuân là một quận lớn của thành phố Hà Nội, đây là nơi tập trung nhiều xí nghiệp lớn của trung ương và địa phương, dân cư đông đúc, có nhiều trung tâm thương mại lớn, thuận lợi cho ngân hàng mở rộng các nghiệp vụ của mình.
Chi nhánh NHNo Nam Hà Nội với chức năng chủ yếu là:
- Nhận tiền gửi, thanh toán cho mọi thành phần kinh tế.
- Nhận tiền gửi tài khoản và kỳ phiếu.
- Cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, công ty cổ phần, tổ hợp tư nhân, cho vay ngắn, trung và dài hạn đối với mọi thành phần kinh tế...
Nhiệm vụ của chi nhánh chủ yếu là huy động tiền gửi tạm thời nhàn rỗi trong các tổ chức kinh tế và trong dân cư để cho vay với tất cả các thành phần kinh tế. N
Với quy mô hoạt động kinh doanh tăng lên lên hàng chục lần cùng với sự đa dạng hoá hoạt động và nâng cao chất lượng kinh doanh, chi nhánh đã ổn định và phát triển đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế xã hội của thành phố Hà Nội nói chung và Quận Thanh Xuân nói riêng.
2.1.3- Cơ cấu tổ chức cán bộ, phòng ban của chi nhánh
Thực hiện chỉ thị của Tổng giám đốc về việc mở rộng mạng lưới Ngân hàng tại các đô thị, mặc dù mới ra đời được gần 4 năm nhưng Chi nhánh đã tích cực tìm địa điểm, tự đào tạo CBNV để thành lập được 3 Chi nhánh cấp 2, 4 Phòng giao dịch và 2 bàn giao dịch trực thuộc phòng giao dịch.
Tổng số Cán bộ công nhân viên của Chi nhánh tính đến 31/12/2004 là 112 cán bộ, được sắp xếp cụ thể theo cơ cấu các phòng ban như sau:
- Kế hoạch kinh doanh: 9 cán bộ
- Phòng Kế toán Ngân quỹ 22 cán bộ
- Phòng Thẩm định: 7 cán bộ
- Phòng Nguồn vốn: 5 cán bộ
- Phòng Thanh toán quốc tế: 8 cán bộ
- Phòng Kiểm tra kiểm toán nội bộ: 4 cán bộ
- Phòng Hành chính nhân sự: 11 cán bộ
- Chi nhánh Tây Đô: 7 cán bộ
- Chi nhánh Giảng Võ: 11 cán bộ
- Chi nhánh Nam Đô: 11 cán bộ
- Phòng giao dịch số 4: 5 cán bộ
- Phòng giao dich số 5: 4 cán bộ
- Phòng giao dịch số 6: 4 cán bộ
Về trình độ chuyên môn, Chi nhánh có 3 tiến sỹ, 9 thạc sỹ, 79 cán bộ có trình độ Đại học, 21 cán bộ có trình độ Cao đẳng và Trung cấp.
Sơ đồ 2.1
Sơ đồ bộ máy tổ chức của NHNo & PTNT Nam Hà Nội
GIÁM ĐỐC
Phó GĐ I
Phó GĐ II II
Phó GĐ III
HC-NS
KT-NQ
KH-KD
TĐ
TTQT
KT-KT NB
Chi nhánh cấp II
Phòng giao dịch
NV
2.1.4- Chức năng, nhiệm vụ của các phòng nghiệp vụ
2.1.4.1- Phòng Kế hoạch kinh doanh
- Nghiên cứu xây dựng chiến lược khách hàng, phân loại khách hàng và đề xuất các chính sách ưu đãi đối với từng loại khách hàng, nhằm mở rộng theo hướng đầu tư tín dụng khép kín: sản xuất, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu và gắn tín dụng với sản xuất, lưu thông và tiêu dùng.
- Xây dựng kế hoạch cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ hàng tháng, quý, năm theo định hướng kinh doanh của NHNo & PTNT Việt Nam.
- Thực hiện nghiệp vụ cho vay, thu nợ đối với các khoản cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ đối với khách hàng.
- Thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng...Chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá.
- Tiếp nhận và thực hiện các chương trình, dự án thuộc nguồn vốn trong nước, nước ngoài. Trực tiếp làm dịch vụ uỷ thác nguồn vốn của Chính phủ, Bộ, ngành khác và các tổ chức kinh tế, cá nhân trong cũng như ngoài nước.
- Tổng hợp, theo dõi các chỉ tiêu kế hoạch; phân tích các hoạt động kinh doanh theo quý, năm; quản lý danh mục, phân loại khách hàng có quan hệ tín dụng.
- Tổ chức, thực hiện thông tin phòng ngừa rủi ro và xử lý rủi ro tín dụng.
- Tổng hợp, báo cáo, thống kê, kiểm tra nghiệp vụ theo quy định.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc Chi nhánh giao.
2.1.4.2- Phòng Nguồn vốn
- Xây dựng các đề án, chiến lược kinh doanh ngắn hạn và dài hạn.
- Xây dựng và tham mưu cho Ban giám đốc các biện pháp tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh tháng, quý, năm; tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện các chỉ tiêu, kế hoạch kinh doanh, thông tin báo cáo thường xuyên, kịp thời giúp cho Ban giám đốc chỉ đạo, điều hành hoạt động kinh doanh.
Tham mưu cho Ban giám đốc tr._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 30348.doc