mở đầu
Một nền kinh tế phát triển là mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài của đất nước. Trong điều kiện nền kinh tế các nước đang hội nhập một cách nhanh chóng trên mọi phương diện, nền kinh tế nước ta còn nhiều yếu kém do đó chúng ta cần thiết phải xây dựng những ngành mang tính chất chiến lược như thông tin, năng lượng, ngân hàng…
Ngân hàng là ngành đòi hỏi phải có sự phát triển nhanh hơn một bước so với các ngành kinh tế khác. Hoạt động ngân hàng là một trong những mắt xích quan trọng cấu th
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1365 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa & nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ành sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế. Bởi vì, ngân hàng là một ngành kinh doanh tiền tệ mà tiền là một “hàng hoá” đặc biệt cho nên một sự biến động nhỏ trên thị trường cũng tác động đến nền kinh tế… Cùng với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế của đất nước, hệ thống ngân hàng cũng có những bước chuyển mình cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh kinh tế mới. Đồng thời với sự phát triển của nền kinh tế, nhiều mô hình kinh tế khác nhau đã được thử nghiệm và mang lại những thành công đáng ghi nhận. Trong đó phải kể đến sự đóng góp to lớn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.Việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo điều kiện khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các nguồn vốn, công nghệ và ngoài ra nó còn là một bộ phận rất linh hoạt giúp nền kinh tế ổn định đứng vững khi mà chu kỳ suy thoái, khủng hoảng trên thế giới đang ngày càng có xu hướng rút ngắn lại. Đường lối đổi mới kinh tế và định hướng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã tạo ra rất nhiều thuận lợi và cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. Tuy nhiên do xuất phát điểm của nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, chịu nhiều thiệt hại do chiến tranh gây ra, thị trường vốn lại chưa phát triển nên đã gây ra nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp đặc biệt là trong việc tìm kiếm các nguồn vốn để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Ngoài ra khó khăn đó còn do các doanh nghiệp chưa có đủ uy tín để vay vốn, thêm vào đó lại chưa có chính sách hỗ trợ hợp lý cho các doanh nghiệp này. Chính vì thế, một nhiệm vụ trọng tâm đặt ra đối với Đảng và Nhà nước ta và bản thân các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng nước ta là phải tìm ra những giải pháp thích hợp để đẩy lùi khó khăn giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát huy thế mạnh để có thể rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển trên thế giới.
Thực tế hiện nay cho thấy nguồn vốn tín dụng NH đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn chưa nhiều. Một phần là do khách hàng truyền thống và do mục tiêu của các NHTM chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, mặt khác do doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta sử dụng vốn tín dụng còn chưa hợp lý và hiệu quả. Chính vì vậy, việc tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang là mối quan tâm đặc biệt của các NHTM. Xuất phát từ quan điểm đó và thực trạng hoạt động tín dụng tại Chi nhánh NHCT Ba Đình, em đã chọn đề tài “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh NHCT Ba Đình” làm đề tài nghiên cứu.
Kết cấu chuyên đề :
Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương 1: Tín dụng NH đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh NHCT Ba Đình
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh NHCT Ba Đình
Phần kết luậnChương 1 : Tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1. Lý luận chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Hiện nay có rất nhiều ý kiến khác nhau khi đưa ra khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhưng nhìn chung có thể hiểu doanh nghiệp vừa và nhỏ theo nghĩa thông thường là những cơ sở sản xuất kinh doanh tương đối nhỏ với quy mô không lớn lắm, có tư cách pháp lý, không có vị thế độc quyền, chuyên môn hoá thấp, quy mô về vốn thấp, số lượng lao động và doanh thu hàng năm thấp. Tuy nhiên để có thể nói chính xác thế nào là quy mô nhỏ, không lớn lắm thì mỗi nước khác nhau lại có những quan điểm khác nhau nhưng thông thường người ta căn cứ vào các tiêu thức như tổng vốn đầu tư được huy động cho sản xuất kinh doanh, giá trị tài sản cố định, số lao động được sử dụng thường xuyên…Trên cơ sở đó mỗi nước có sự lựa chọn tiêu thức khác nhau để đưa ra quan điểm về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
ở Việt Nam những năm gần đây, khi vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng được khẳng định thì những quan điểm về tiêu thức xác định loại hình doanh nghiệp này cũng không thống nhất. Có quan điểm thì cho rằng doanh nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp có lao động thường xuyên dưới 500 người, giá trị tài sản cố định dưới 1 tỷ, giá trị vốn lưu động dưới 8 tỷ và doanh thu dưới 20 tỷ. Bên cạnh đó lại có quan điểm cho rằng trong lĩnh vực sản xuất và xây dựng, doanh nghiệp nào có vốn nhỏ hơn 1 tỷ và dưới 100 lao động là doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp nào có vốn từ 1 tỷ đến 10 tỷ với số lượng lao động từ 100 đến 500 là doanh nghiệp vừa.
Ngày 20/06/1998 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành công văn số 681/CP-KNT quy định tiêu chí tạm thời xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và số lao động bình quân dưới 200 người.
Theo nghị định 90/NĐ-CP/2001 của Chính phủ ban hành ngày 23/11/2001 thì doanh nghiệp vừa và nhỏ được định nghĩa như sau: “doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động bình quân hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội của từng ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng cả hai tiêu chí vốn và lao động hoặc một trong hai tiêu chí nói trên”.
Như vậy, có thể thấy rằng trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm hơn đến loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ thể hiện qua các quy định, quy chế đã phù hợp hơn, tạo ra nhiều cơ hội hơn cho các doanh nghiệp này phát triển hơn cả về vốn và lao động nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư làm ăn lớn và khuyến khích việc thu hút thêm nhiều lao động đang thiếu việc làm.
Theo nghị định 90/CP thì doanh nghiệp vừa và nhỏ bao gồm các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp, các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước, các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo luật hợp tác xã, các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo nghị định 20/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh bao gồm các loại hình doanh nghiệp cơ bản như: Doanh nghiệp Nhà nước, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh và hộ kinh doanh cá thể.
1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Nhìn chung các doanh nghiệp vừa và nhỏ dù theo loại hình nào thì cũng mang những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất: Vốn đầu tư ban đầu thấp, những sản phẩm mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ kinh doanh là những sản phẩm không có tính ổn định trong sản xuất kinh doanh vì hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có định hướng lâu dài trong hoạt động kinh doanh mà thường xuyên thay đổi ngành nghề, cơ cấu mặt hàng, các mặt hàng sản phẩm dịch vụ nhiều về chủng loại nhưng không lớn về số lượng.
Thứ hai: Tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh gọn nhẹ, các mối quan hệ nội bộ dễ điều chỉnh vì thế có tính linh hoạt cao, dễ thích ứng với sự biến động của nền kinh tế thị trường. Công tác điều hành mang tính trực tiếp và quan hệ giữa người quản lý và người lao động khá chặt chẽ.
Thứ ba: Lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất đa dạng và phong phú nhờ vậy việc mở rộng tín dụng cho các doanh nghiệp này sẽ giúp các Ngân hàng phấn tán được rủi ro hoặc rủi ro gây biến động không lớn đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Thứ tư: Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp này còn thấp do hạn chế về vốn, về trình độ, công nghệ, phương thức quản lý, khả năng tiếp cận thông tin và khả năng tiếp cận thị trường thấp. Đặc điểm này của doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là yếu tố tiềm ẩn gây rủi ro cho Ngân hàng khi cho vay.
1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với sự phát triển kinh tế
Qua số liệu thống kê trong và ngoài nước chúng ta thấy các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò rất lớn trong nền kinh tế quốc dân với nhiều hình thức đa dạng phong phú, hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế. Cùng với những lợi thế và không đòi hỏi nhiều vốn đầu tư, quản lý đơn giản, dễ thay đổi linh hoạt theo thị trường, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã và đang phát huy những mặt tích cực và khẳng định vị thế của mình trong nền kinh tế. ở nước ta với đường lối kinh tế đúng đắn, các doanh nghiệp này đã và đang phát triển một cách mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng.
1.1.3.1. Tạo công ăn việc làm
Việc làm là vấn đề cấp bách hiện nay của Việt Nam, với tốc độ tăng dân số hàng năm mặc dù đã giảm nhưng so với khu vực và trên thế giới vẫn cao, hàng năm đã tạo ra khoảng 1 triệu người đến tuổi lao động cộng với số người thất nghiệp là 6%/năm và bán thất nghiệp hiện nay do cơ cấu kinh tế như sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, số quân nhân giải ngũ…Theo dự báo từ nay đến năm 2010 mặc dù dân số tăng chậm lại nhưng nguồn lao động của nước ta vẫn tăng nhanh liên tục đòi hỏi việc làm hết sức khẩn trương. Sức ép của dân số lao động lên đất đai, việc làm ở nông thôn chính là nguyên nhân của dòng di dân từ nông thông ra thành phố, gây ra nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Thực tế cho thấy toàn bộ các doanh nghiệp Nhà nước thời gian qua, năm cao nhất cũng chỉ thu hút đươc khoảng 1.6 triệu lao động. Trong khi đó theo số liệu hàng năm doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng tạo ra việc làm cho khoảng 50-80% lao động trong các ngành nghề công nghiệp, dịch vụ. Đặc biệt trong nhiều thời kỳ, khi các doanh nghiệp lớn sa thải số lượng lớn công nhân thì khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ lại là nơi tái tạo lại công việc cho họ. Mặt khác đây chính là khu vực thu hút lao động là sinh viên mới ra trường và điều này đã góp phần giải quyết một trong những bức xúc của chúng ta. Như vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là một trong những phương tiện rất hiệu quả để giải quyết vấn đề lao động.
1.1.3.2. Khai thác, tận dụng các nguồn lực xã hội
Hiện nay còn rất nhiều tiềm năng trong dân chưa được khai thác như tiềm năng về trí tuệ, tay nghề cao, lao động, vốn, điều kiện thực hiện, bí quyết sản xuất… Do đó việc phát triển doanh nghiệp sản xuất, các ngành nghề trong nông thôn hiện nay là một hướng quan trọng để khai thác nguồn lực nói trên, thu hút lao động nông thôn, phát huy lợi thế của từng vùng nhằm phát triển kinh tế.
Về thu hút vốn trong dân: Khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ thu hút được phần lớn nguồn vốn trong dân do tính chất nhỏ lẻ dễ phân tán, đi sâu vào các ngõ ngách bản làng. Do yêu cầu số lượng vốn ban đầu không nhiều nên có thể tận dụng từ số vốn của bản thân, vay gia đình, bạn bè thậm chí còn vay của các tổ chức tín dụng. Do dễ khởi sự và nguồn vốn ít nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò, tác dụng rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn nhỏ lẻ nhàn dỗi trong dân để đầu tư sản xuất kinh doanh.
Về thu hút lao động: Sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn sẽ thu hút nhiều lao động chưa có việc làm hoặc lực lượng lao động tạm thời nhàn rỗi theo mùa vụ vào hoạt động sản xuất kinh doanh, rút dần lực lượng lao động trong nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ nhưng vẫn sống tại quê hương không phải di chuyển đi nơi khác thực hiện phương châm “ li nông bất li hương”. Đây là yếu tố chủ đạo góp phần phát huy các ngành nghề truyền thống đã bị mai một, một phần nhằm khôi phục lại nền văn hoá dân gian mặt khác làm thay đổi bộ mặt nông thôn, từng bước hiện đại hoá nông thôn và nâng cao đời sống nông dân. Ngoài ra, lực lượng lao động ở khu vực này không những rất dồi dào mà còn rất dẻ do đó sẽ giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ giảm chi phí sản xuất từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Về kỹ thuật: Doanh nghiệp vừa và nhỏ thường chọn kỹ thuật phù hợp với kỹ thuật thủ công và kỹ thuật phổ biến để nhanh chóng tiếp thu và làm chủ, ít sử dụng kỹ thuật tiên tiến đòi hỏi vốn lớn vì vậy tận dụng được kỹ thuật trong nước, thúc đẩy công nghệ cải tiến kỹ thuật.
Như vậy có thể nhận thấy rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ là một bộ phận sử dụng rất có hiệu quả và tiết kiệm nguồn lực sẵn có của đất nước. Đồng thời các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất kinh doanh các mặt hàng tiểu thủ công nghiệp trong các làng nghề truyền thống còn tạo ra một nguồn thu ngoại tệ đáng kể, học hỏi kinh nghiệm kinh doanh hoặc các doanh nghiệp cũng có thể sản xuất có hiệu quả các mặt hàng thay thế nhập khẩu, tiết kiệm ngoại tệ, khai thác tiềm năng và giải quyết việc làm.
1.1.4. Khó khăn của doanh nghiệp vừa và nhỏ khi tiếp cận vốn NH
Hiện này khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước nói chung và ở Việt Nam nói riêng là tình trạng thiếu vốn để sản xuất. Trước hết là do nguồn vốn chủ sở hữu thấp. Doanh nghiệp vừa và nhỏ hầu như không đáp ứng được điều kiện để có mặt trên thị trường chứng khoán. Vì vậy doanh nghiệp vừa và nhỏ đang huy động vốn chủ yếu từ hai nguồn: nguồn thứ nhất là vốn vay NH chiếm tỷ trọng lớn, nguồn thứ hai từ nguồn vốn của bản thân chủ doanh nghiệp, từ gia đình, bạn bè.
Do hạn chế về trình độ và kinh nghiệm trong việc xây dựng kế hoạch tài chính, phương án, dự án đầu tư nên bản thân các doanh nghiệp cũng ít đưa ra được các dự án có tính khả thi, có hiệu quả kinh tế đủ sức thuyết phục nhà đầu tư, đủ điều kiện xin vay vốn NH.
Hầu hết các cơ sở sản xuất manh mún, phân tán, trình độ công nghệ, thiết bị quá lạc hậu, lao động thủ công nên sản phẩm khó cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn, đó là chưa kể đến hàng nhập khẩu từ nước ngoài.
Nhiều doanh nghiệp không thực hiện đúng chế độ thống kê, kế toán. Số liệu phản ánh không chính xác tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp.
Trình độ cán bộ quản lý và lao động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn nhiều hạn chế. Phần lớn những người kinh doanh chưa được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ, chưa hiểu biết nhiều về pháp luật, khả năng quản trị điều hành thấp. Hoạt động kinh doanh chủ yếu theo thương vụ, chạy theo phong trào mà không có chiến lược phát triển nên dễ phá sản.
Chính vì những khó khăn trên, các doanh nghiệp vừa và nhỏ hầu như không đáp ứng được điều kiện vay vốn của NH. Nên hiện nay không ít doanh nghiệp vừa và nhỏ lâm vào tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau, tức là sản xuất kinh doanh dựa trên một phần vốn của người khác. Nguy cơ thiếu khả năng thanh toán, vỡ nợ đã xảy ra.
1.2.Tín dụng Ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người chủ sở hữu sang người sử dụng vốn, sau một thời gian nhất định người sử dụng có trách nhiệm hoàn trả cho người sở hữu một lượng lớn hơn giá trị ban đầu.
Tín dụng NH là quan hệ tín dụng giữa một bên là NH với một bên là các tổ chức kinh tế, cá nhân, hộ gia đình trong xã hội trong đó NH giữ vai trò người thủ quỹ cho toàn xã hội. Tín dụng NH ra đời với nhiệm vụ huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn dỗi tron xã hội để tạo thành một quỹ cho vay, đáp ứng nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế khác.
1.2.2. Các hình thức tín dụng NH
Tín dụng NH được phân chia theo nhiều loại theo những tiêu thức khác nhau tuỳ theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của NH. Sau đây là một số cách phân loại:
Phân loại theo thời hạn tín dụng : Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với NH vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời hạn tín dụng, tín dụng được phân thành:
- Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống
- Tín dụng trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm
- Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm
Phân loại theo tài sản đảm bảo: Tài sản đảm bảo các khoản tín dụng cho phép NH có được nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất (từ quá trình sản xuất kinh doanh) không có hoặc không đủ.
Tín dụng có thể được phân chia thành tín dụng có tài sản đảm bảo bằng uy tín của chính khách hàng, có đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản.
Cam kết đảm bảo là cam kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài sản mà mình đang sở hữu hoặc sử dụng, hoặc khả năng trả nợ của người thứ ba để trả nợ cho NH.
Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho khách hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu, không cần tài sản đảm bảo. Các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn, hoặc những khoản cho vay trong thời gian ngắn mà NH có khả năng giám sát việc bán hàng…cũng có thể không cần tài sản đảm bảo.
Tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu NH và khách hàng phải ký hợp đồng đảm bảo. NH phải kiểm tra, đánh giá được tình trạng của tài sản đảm bảo (quyền sở hữu, giá trị, tính thị trường, khả năng bán, khả năng tài chính của người thứ ba…), có khả năng giám sát việc sử dụng hoặc có khả năng đảm bảo tài sản đảm bảo.
Phân loại tín dụng theo rủi ro: Để phân loại theo tiêu thức này, NH cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để phân loại rủi ro. Một số NH lớn chia tới thang bậc rủi ro theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao cho các khoản mục tài sản, bao gồm cả nội và ngoại bảng, cho vay, bảo lãnh, chứng khoán. Cách phân loại này giúp NH thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời.
- Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao
- Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch chậm, khách hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính…
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời gian ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn…
- Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì…
Phân loại khác:
- Theo ngành kinh tế (công, nông nghiệp)
- Theo đối tượng tín dụng (TSLĐ, TSCĐ)
- Theo mục đích (sản xuất, tiêu dùng…)
Các cách phân loại này cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hoá trong cấp tín dụng của NH. Với xu hướng đa dạng, các NH sẽ mở rộng phạm vi tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà NH có lợi thế.
Tuỳ theo từng đối tượng khách hàng, tuỳ theo từng mục đích sử dụng vốn cũng như khả năng nguồn vốn của mình mà NH và khách hàng có sự thoả thuận về các loại tín dụng cho phù hợp.
Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng chủ yếu đối với NH chính là các doanh nghiệp, do vậy tín dụng cho các doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong tổng khối lượng tín dụng cung ứng cho nền kinh tế. Cũng chính vì thế mà các NHTM hiện nay không ngừng nâng cao chất lượng cũng như đa dạng hoá các hình thức tín dụng đối với các doanh nghiệp để có thể thu hút được nhiều khách hàng, có thể phục vụ tốt nhất và thu được lợi nhuận cao nhất. Nhìn chung các hình thức tín dụng mà các NHTM cung cấp cho các doanh nghiệp bao gồm những hình thức cơ bản sau:
Thứ nhất là tín dụng ngắn hạn: Đây là loại tín dụng có thời hạn không quá một năm, là loại cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất của các NHTM và chủ yếu đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của các doanh nghiệp. Nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp xuất phát từ độ lệch giữa dòng tiền vào và dòng tiền ra cả về quy mô lẫn thời gian. Doanh nghiệp vay ngắn hạn NH để đáp ứng nhu cầu vốn, thời vụ của mình chủ yếu là hàng tồn kho và các khoản phải thu. Tín dụng ngắn hạn của NH bao gồm các hình thức sau:
- Chiết khấu thương phiếu: Là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn trong đó khách hàng chuyển nhượng những loại giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán của mình đến NH để nhận lấy số tiền bằng mệnh giá trừ đi lợi tức chiết khấu và phí hoa hồng. Chiết khấu là một loại nghiệp vụ cổ điển nhưng cho đến ngày nay nó vẫn được sử dụng rộng rãi. Vì nó được coi là đơn giản và dựa trên sự tín nhiệm giữa NH với những người ký tên trên thương phiếu. Nhờ có nghiệp vụ này mà các doanh nghiệp có thể tái tạo khả năng vốn tiền tệ của mình khi chưa đến hạn, đồng thời nó là nghiệp vụ ít gặp rủi ro, là loại tài sản có tính thanh khoản cao và không làm đóng băng vốn của NH do tối thiểu có hai người cam kết trả tiền cho NH, hơn nữa NH có thể đem thương phiếu đi tái chiết khấu tại NHTW để đáp ứng nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp.
Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu hàng hoá và dịch vụ giữa khách hàng với nhau. Người bán (hoặc người thụ hưởng) có thể giữ thương phiếu đến hạn để đòi tiền người mua (hoặc người phải trả) hoặc mang đến NH để xin chiết khấu trước hạn. Số tiền NH ứng trước phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu, thời hạn chiết khấu và lệ phí chiết khấu.
- Thấu chi: Là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn trong đó NH cho khách hàng vay bằng cách cho phép khách hàng rút tiền vượt quá số dư trên tài khoản vãng lai trong phạm vi hạn mức tín dụng và thời hạn xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. áp dụng nghiệp vụ này NH căn cứ vào nhu cầu vay, trên cơ sở tài sản đảm bảo và khả năng vốn của NH để quyết định hạn mức cho phù hợp.
Để được thấu chi khách hàng phải làm đơn xin NH hạn mức thấu chi và thời gian thấu chi (có thể phải trả phí cam kết cho NH). Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể ký séc, lập uỷ nhiệm chi vượt quá số dư trên tài khoản tiền gửi để chi trả trong hạn mức thấu chi. Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi NH sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà khách hàng phải trả:
Lãi suất thấu chi Í Thời gian thấu chi Í Số tiền thấu chi
Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này.
Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và quy mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán dựa vào dự đoán ngân quỹ song không chính xác. Do vậy, hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán: chủ động, nhanh, kịp thời.
Doanh số cho vay của NH có thể lớn hơn rất nhiều so với hạn mức và dư nợ luôn biến động nên NH khó xác định được hình thức đảm bảo do vậy nghiệp vụ này NHTM thường chỉ áp dụng với khách hàng có tín nhiệm cao và không cần thế chấp hoặc giá trị tài sản thế chấp rất thấp.
- Cho vay từng lần: Là hình thức tín dụng ngắn hạn, mỗi lần có nhu cầu vay thì khách hàng làm thủ tuc vay vốn và ký kết hợp đồng tín dụng với NH, việc giải ngân có thể theo tiến độ thực hiện kế hoạch của khách hàng hoặc giải ngân một lần nếu khách hàng vay cho từng phương án, từng thương vụ.
Phương thức cho vay này đơn giản phù hợp với trình độ, năng lực quản lý và tổ chức của các doanh nghiệp vừa và nhỏ và cả với những khách hàng lớn nhưng đang trong tình trạng thiếu khả năng thanh toán, mất tín nhiệm trong quan hệ giao dịch hoặc với khách hàng, vay vốn không thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi.
Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, NH sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, NH sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả. Nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, NH sẽ thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi.
NH cấp tín dụng ngắn hạn trong các trường hợp sau:
NH cho Nhà nước vay để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu thường xuyên của Nhà nước. Hình thức phổ biến hiện nay là NH mua trái phiếu do kho bạc phát hành. Khả năng hoàn trả của Nhà nước rất cao, song cũng không loại trừ trường hợp Nhà nước mất khả năng chi trả khi đến hạn.
NH cho vay đối với tổ chức tài chính như các NH, các công ty tài chính, quỹ tín dụng…nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Một số công ty chứng khoán vay vốn ngắn hạn của NHTM trong quá trình bảo lãnh và phân phối chứng khoán cho công ty phát hành. Hình thức cho vay có thể là cho vay trực tiếp (trên thị trường liên NH) hoặc cho vay gián tiếp thông qua nắm giữ chứng khoán. Phần lớn các khoản cho vay này đều dựa trên uy tín của người vay, phần còn lại dựa dựa trên bảo lãnh của người thứ ba, hoặc dựa trên cầm cố chứng khoán thanh khoản cao.
Các doanh nghiệp bán lẻ chế biến thực phẩm, sản xuất hàng theo thời vụ là khách hàng chủ yếu của NH. Họ cần dự trữ cho thời vụ, hoặc tăng chi phí sản xuất. Vào mùa xây dựng các công ty xây dựng là khách hàng vay của NH. Họ cần vốn để xây dựng công trình trước khi chủ đầu tư thanh toán. Nguồn trả nợ chính là tiền thanh toán của chủ đầu tư.
Các doanh nghiệp cần vay NH để xây dựng, mở rộng, cải tiến sửa chữa lại TSCĐ. Các khoản vay này có thời hạn trên 1 năm. Nguồn trả nợ chủ yếu là từ thu nhập của người vay.
NH tài trợ cho các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu, gồm cho vay xuất nhập khẩu và cho vay thanh toán. Xuất khẩu đang trở thành lĩnh vực đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế. Chính phủ nhiều nước đang sử dụng NH làm động lực thúc đẩy xuất khẩu. Cho vay xuất, nhập khẩu rủi ro khá cao, liên quan đến quan hệ mua bán quốc tế.
NH cho vay đối với người tiêu dùng nhằm thoả mãn nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, phương tiện vận chuyển… Cho vay tiêu dùng có thể gồm tín dụng trực tiếp đối với người tiều dùng, hoặc tín dụng gián tiếp thông qua việc NH mua lại các phiếu bán hàng của các nhà bán lẻ hàng hoá. Tín dụng tiêu dùng gián tiếp còn được gọi là tài trợ bán hàng trả góp.
Để được vay vốn trừ trường hợp Nhà nước hoặc các cơ quan Nhà nước, các tổ chức tài chính có uy tín, còn lại các doanh nghiệp, các công ty và hộ sản xuất đều phải làm đơn và trình bầy với NH kế hoạch sử dụng tiền vay. NH thực hiện phân tích tín dụng, xác định hiệu quả sử dụng vốn vay, rủi ro, khả năng và nguồn trả nợ cùng các điều khoản có liên quan.
Thứ hai là tín dụng trung và dài hạn: Đây là hình thức tín dụng có thời hạn trên một năm, là hình thức cho vay vốn cố định cho các doanh nghiệp. Nguồn vốn tín dụng trung và dài hạn của NH là nguồn vốn quan trọng đáp ứng các nhu cầu vốn dài hạn của doanh nghiệp như mua sắm tài sản cố định, tài trợ vốn lưu động thường xuyên, thành lập mới hoặc mua lại doanh nghiệp đang hoạt động. Tín dụng trung và dài hạn của NH cũng có rất nhiều hình thức khác nhau, bao gồm:
- Cho vay theo dự án: Là hình thức cho vay được tiến hành căn cứ vào các dự án để tổ chức thực hiện cung ứng vốn. Một trong những yêu cầu của NH là người vay phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch đầu tư cũng như quá trình thực hiện dự án (sản xuất kinh doanh ). Thẩm định dự án là điều kiện để NH quyết định phần vốn cho vay và xác định khả năng hoàn trả của doanh nghiệp.
Mức cho vay Tổng vốn vốn tự có của các nguồn
của NH = thực hiện dự án - doanh nghiệ - vốn khác
Dự án được xây dựng gồm nhiều mục như phân tích thị trường, nguồn nhân lực, địa điểm, công nghệ, quy trình sản xuất, phân tích tài chính…trong đó phân tích tài chính là mục tiêu quan tâm hàng đầu của NH.
Có nhiều phương pháp phân tích tài chính dự án để đánh giá hiệu quả tài chính của dự án như phân tích thông qua NPV, IRR, thời gian hoàn vốn, tỷ suất thu nhập bình quân… Bên cạnh việc lựa chọn chỉ tiêu đánh giá thích hợp, NH đặc biệt quan tâm tới thời gian và các nguồn có thể dùng để trả nợ NH. Do vậy trong những trường hợp không phải dự án mới - tạo pháp nhân mới - NH luôn phân tích tài chính của người vay kết hợp với phân tích dự án. Một doanh nghiệp có tình hình tài chính mạnh là cơ sở quan trọng để NH quyết định cho vay để thực hiện dự án. Các nguồn thu khác của người vay có thể sẽ trở thành nguồn trả nợ cho NH bên cạnh nguồn thu của dự án.
Đối tượng cho vay là toàn bộ các chi phí của dự án như chi phí xây lắp, chi phí thiết bị và chi phí xây dựng cơ bản khác.
- Cho vay hợp vốn (đồng tài trợ): Là hình thức nhiều tổ chức tín dụng cùng tập hợp vốn để cho các doanh nghiệp vay.
- Cho vay bằng cách mua các trái phiếu
Các NH mua các trái phiếu trung và dài hạn doanh nghiệp nhằm tài trợ cho quá trình hình thành tài sản cố định. Kì hạn và khả năng chuyển đổi của trái phiếu, lãi suất trái phiếu, tình hình tài chính doanh nghiệp, các kế hoạch tương lai…đều được NH tính toán khi mua trái phiếu.
1.2.3. Vai trò của tín dụng NH đối với sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng để có thể tồn tại và phát triển thì phải không ngừng nâng cao quy mô cũng như chất lượng hoạt động kinh doanh của mình. Để có thể làm được điều đó thì các doanh nghiệp cần phải có vốn thậm chí là rất nhiều vốn. Vốn tín dụng NH đã và đang trở thành nguồn vốn vô cùng cần thiết không thể thiếu giúp cho các doanh nghiệp thực hiện được mục tiêu của mình. Vốn của NH đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò rất quan trọng, nó chẳng những thúc đẩy sự phát triển khu vực kinh tế này mà còn tác động trở lại hệ thống NH đổi mới chính sách tiền tệ, hoàn thiện các cơ chế chính sách về tín dụng, thanh toán, ngoại hối…
1.2.3.1. Góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Khi sử dụng vốn tín dụng của NH, các doanh nghiệp phải tôn trọng hợp đồng tín dụng, phải đảm bảo hoàn trả nợ vay một cách đầu đủ, đúng hạn và phải tôn trọng các điều khoản khác của hợp đồng cho dù doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hay không. Ngoài ra các NH chỉ cho vay khi đã thẩm định đầy đủ hồ sơ về doanh nghiệp và các hồ sơ đó phải chứng minh được rằng doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, khả năng tài chính lành mạnh và có khả năng hoàn trả nợ cho NH. Chính vì yêu cầu này của NH mà ngay từ khi thiết lập phương án kinh doanh, các doanh nghiệp cũng đã phải quan tâm tới việc kinh doanh cái gì, bằng cách nào, đầu vào và thị trường đầu ra như thế nào để có thể tăng tính khả thi cho dự án góp phần thuyết phục NH tài trợ vốn cho mình. Không chỉ quan tâm tới việc thu hồi đủ vốn mà các doanh nghiệp còn phải quan tâm tới việc sử dụng vốn như thế nào để có hiện quả, tăng nhanh vòng quay vốn, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận lớn hơn lãi suất cho vay của NH thì mới đảm bảo có lãi sau khi đã trả nợ cho NH. Trong quá trình cho vay, NH thực hiện kiểm soát trước, trong và sau khi doanh nghiệp thực hiện dự án để đảm bảo doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích đồng thời NH còn có thể tư vấn cho các doanh nghiệp phát hiện những mặt yếu kém để từ đó đề ra những biện pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
1.2.3.2. Đảm bảo cho hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ được liên tục
Với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của cơ chế._. thị trường, các doanh nghiệp phải luôn cải tiến kỹ thuật, thay đổi mẫu mã mặt hàng, nghiên cứu sáng tạo những sản phẩm mới, đổi mới công nghệ, thiết bị. Trên thực tế không có một doanh nghiệp nào có đủ 100% vốn đảm bảo cho nhu cầu sản xuất kinh doanh và như đã trình bầy ở trên thì việc phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh chủ yếu phải dựa vào nguồn vốn tài trợ mà phần lớn là của hệ thống NH. Vốn tín dụng NH tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị và trang trải những chi phí cần thiết phục vụ cho quá trình tái sản xuất và phát triển. Và cũng chính nhờ nguồn vốn này đã góp phần làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn được thực hiện một cách liên tục.
1.3. Chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.3.1. Khái quát chung về chất lượng tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường với nhiều biến động và sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt. Thì một doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường và kinh doanh có lãi thì đòi hỏi doanh nghiệp đó phải đổi mới công nghệ và quy mô sản xuất kinh doanh để nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. Trong đó chất lượng sản phẩm là yếu tố quan trọng nhất và là yếu tố tạo điều kiện nâng cao tỷ lệ chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp. ở đây chất lượng được các nhà kinh tế nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau: “chất lượng là sự phù hợp với mục đích sử dụng”, hay “chất lượng là năng lực của một sản phẩm hoặc dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu của người sử dụng”.
Về phía NH, chất lượng tín dụng NH có thể được xem xét thông qua chất lượng của các khoản tín dụng NH. Chất lượng của các khoản tín dụng NH là lợi ích kinh tế mà các khoản tín dụng đó có thể mang lại cho cả người đi vay (khách hàng) và người cho vay (NH). Tức là vốn vay được người đi vay sử dụng một cách hiệu quả đúng mục đích để tạo ra một số tiền lớn hơn vừa để hoàn trả cả vốn gốc và lãi vay vừa đảm bảo trang trải các chi phí khác và có lợi nhuận qua đó góp phần vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế. Đối với NH vừa tạo ra hiệu quả kinh tế vừa mang lại hiệu quả xã hội.
Như vậy khái quát chúng ta có thể hiểu: Chất lượng tín dụng NH là sự đáp ứng đầy đủ kịp thời vốn cho nhu cầu vay vốn hợp lý của khách hàng có sự lựa chọn, đồng thời thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của NH.
Đối với NH: Chất lượng tín dụng được thể hiện ở doanh số và tốc độ doanh số cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ; ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của bản thân NH, đồng thời phải đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Chất lượng tín dụng NH được phản ảnh thông qua một số chỉ tiêu như: tổng dư nợ, nợ quá hạn, chỉ tiêu lợi nhuận và lãi treo.
Đối với khách hàng: Tín dụng phải phù hợp với mục đích sử dụng vốn của khách hàng với lãi suất và kỳ hạn hợp lý, thủ tục đơn giản thuận tiện thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo tuân thủ đúng những nguyên tắc tín dụng, phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế xã hội, góp phần lành mạnh tài chính doanh nghiệp, cải thiện hoạt động sản xuất kinh doanh và duy trì sự phát triển của NH.
Đối với nền kinh tế: Chất lượng tín dụng được nâng cao phản ánh hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và NH có hiệu quả và thu được lợi nhuận góp phần tăng trưởng kinh tế, khai thác tối ưu các nguồn lực kinh tế, tăng thu nhập, giải quyết công ăn việc làm, nâng cao mức sống dân cư.
Qua đó có thể thấy:
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp được đánh giá trên quan điểm của cả ba chủ thể NH, doanh nghiệp và nền kinh tế. Nó phản ánh mức độ thích nghi của NHTM với sự biến động của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh của một NH trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ tiêu tổng dư nợ, nợ quá hạn…) vừa trừu tượng (khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế…). Chính vì vậy khi nói đến chất lượng tín dụng NH chúng ta vừa phải tính toán thông qua các chỉ tiêu định lượng vừa phải kết hợp xem xét về mặt định tính.
Chất lượng tín dụng không tự nhiên mà có, nó là kết quả của một quá trình kết hợp hoạt động giữa thành viên trong một tổ chức, giữa các tổ chức với nhau vì một mục đích chung. Do đó, để đạt được chất lượng cần có sự quản lý một cách chặt chẽ và khoa học.
Để có được chất lượng tín dụng tốt thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở sự tin cậy và uy tín trong hoạt động. Hay nói cách khác, chất lượng tín dụng tỷ lệ thuận với hiệu quả và độ tin cậy. Hiểu đúng bản chất về chất lượng tín dụng, phân tích đánh giá đúng chất lượng tín dụng hiện tại cũng như xác định chính xác các nguyên nhân của những hạn chế của tín dụng sẽ giúp cho NH tìm được biện pháp quản lý thích hợp để có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường sôi động.
1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng
1.3.2.1. Chỉ tiêu nợ quá hạn
Hoạt động kinh doanh của NH cũng như mọi hoạt động kinh doanh khác trong nền kinh tế. Cho nên nó luôn tiềm ẩn những rủi ro có thể gặp phải như: lạm phát, sự biến động của tỷ giá, không thu hồi được nợ…Cho nên xét về mặt bản chất, tín dụng luôn gắn với sự hoàn trả, do đó tính an toàn hay khả năng hoàn trả của người vay là yếu tố quan trọng bậc nhất để cấu thành chất lượng tín dụng. Khi một khoản vay không được hoàn trả đúng hạn như đã ký kết mà không có lý do chính đáng thì nó đã vi phạm nguyên tắc tín dụng của NH và bị chuyển sang nợ quá hạn với lãi suất cao hơn lãi suất bình thường. Trên thực tế phần lớn các khoản nợ quá hạn là nhứng khoản nợ có vấn đề, NH có khả năng mất vốn nghĩa là tính an toàn của các khoản cho vay thấp.
Nợ quá hạn là những khoản nợ mà thời gian tồn tại của nó vượt quá thời gian cho vay theo thoả thuận giữa NH và khách hàng cộng với thời gian đã được gia hạn thêm nếu khách hàng có yêu cầu. Nợ quá hạn có thể do nhiều nguyên nhân khách nhau do chủ quan hay khách quan từ phía doanh nghiệp … các NH luôn mong muốn giảm tỷ lệ nợ quá hạn đến mức thấp nhất bởi nó làm giảm lợi nhuận của NH.
Có hai loại nợ quá hạn:
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: là những khoản nợ mà người vay vẫn có thể trả được cho NH. Lý do của các khoản chậm trả này là khách hàng đã bán được hàng nhưng chưa thu được tiền do gặp tình trạng đột xuất với những lý do chính đáng. Trong trường hợp này NH có thể xem xét tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong việc trả nợ cho NH như: gia hạn thêm thời gian, cùng doanh nghiệp xúc tiến việc đòi nợ.
- Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi: khi nợ quá hạn tồn tại đến một thời điểm nào đó và khả năng không thu hồi được nợ cao thì khoản nợ này được coi là nợ khó đòi hay nói cách khác nợ quá hạn không có khả năng thu hồi được là những khoản nợ mà người vay rất ít có khả năng trả nợ cho NH do nhiều nguyên nhân như: doanh nghiệp làm ăn thua lỗ dẫn đến phá sản hay người vay cố tình lừa đảo NH. Tỷ lệ nợ quá hạn không có khả năng thu hồi cao phản ánh hoạt động cho vay của NH kém hiệu quả và chất lượng của khoản vay là thấp hay nói cách khác chất lượng tín dụng NH thấp.
Khi phân tích đánh giá về nợ quá hạn, thường xem xét trên các chỉ tiêu:
- Tổng dư nợ quá hạn, nợ khó đòi trong kỳ và tích luỹ qua các năm
- Cơ cấu nợ quá hạn theo thời gian ( dưới 6 tháng, từ 6 đến 12 tháng, trên 12 tháng). Nợ quá hạn trên 12 tháng thường được coi là nợ khó đòi.
Tổng dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = ´ 100%
Tổng dư nợ
Trong nền kinh tế thị trường rủi ro trong hoạt động kinh doanh là khách quan. Nợ quá hạn của NH là tất yếu, khó tránh khỏi. Song một NH có nhiều khoản nợ quá hạn sẽ gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh vì nguy cơ mất vốn lớn dẫn đến mất khả năng thanh toán, giảm thu nhập. Do vậy, NHTM nào có tỷ lện nợ quá hạn cao sẽ bị đánh giá là chất lượng tín dụng thấp.
Theo chỉ tiêu thống kê của NHNNVN, tỷ lệ nợ quá hạn dưới 5% là chấp nhận được. Tuy nhiên, để đối phó các NHTM luôn tìm mọi cách giảm hoặc hạn chế nợ quá hạn bằng nhiều cách khác nhau bằng những phương pháp rất nguy hiểm như: giả thu chi hay cho vay đảo nợ tạo ra một doanh số thu nợ giả tạo để không có hoặc ít nợ quá hạn. Do đó, việc đánh giá chất lượng tín dụng NH cần phải kết hợp với các chỉ tiêu khác.
1.3.2.2. Chỉ tiêu tổng dư nợ
Tổng dư nợ phản ánh lượng vốn mà NH đã giải ngân. Con số và tốc độ tăng của doanh số cho vay qua các thời kỳ, các năm phản ánh quy mô và xu hướng của việc đầu tư của NH là mở rông hay thu hẹp. Tổng dư nợ khi được đề cập để đánh giá chất lượng tín dụng bao gồm: cho vay ngắn hạn, trung dài hạn và cho vay khác. Chỉ tiêu này được đo bằng số tuyệt đối, nó phản ánh doanh số cho vay của NH trong một thời gian lựa chọn (thường là 1 năm) là bao nhiêu. Tổng dư nợ thấp phản ánh chất lượng tín dụng thấp vì nó chỉ ra NH không có khả năng mở rộng hoạt động cho vay, khả năng tiếp thị khách hàng kém, thị phần thấp…Tuy nhiên khi xem chỉ tiêu này chúng ta không nên xem xét chúng theo thời kỳ riêng rẽ mà phải xem xét chúng trong cả quá trình trên cơ sở phân tích các yếu tố bên ngoài để chỉ số này phản ánh tốt nhất. Tuy nhiên không phải ở bất cứ thời điểm nào tổng dư nợ cao đều phản ánh chất lượng tín dụng NH cao. Cho nên chỉ tiêu này không phải là quan trọng nhất mà chỉ tiêu này thường được sử dụng để tính tỷ lệ cho vay trên tổng nguồn vốn huy động.
Tỷ lệ cho vay trên tổng Tổng dư nợ
nguồn vốn huy đồng =
Tổng nguồn vốn huy động
Tỷ lệ này phản ánh kết quả sử dụng nguồn vốn để đầu tư của NHTM. Tỷ lệ này luôn nhỏ hơn 1. Nếu tỷ lệ cho vay trên tổng nguồn vốn gần bằng 1 thì NHTM phải chú ý tăng trưởng nguồn vốn để đề phòng mất khả năng thanh toán. Nếu tỷ lệ này thấp cần phải tăng trưởng dư nợ hoặc giàm nguồn vốn huy động hạn chế rủi ro nguồn vốn tác động đến chất lượng tín dụng. Do vậy, mỗi NH cần nhậy bén nắm bắt để đầu tư có hiệu quả.
1.3.2.3. Chỉ tiêu lợi nhuận
NHTM là một tổ chức kinh doanh do đó mà mục tiêu NH hướng tới là lợi nhuận. Lợi nhuận chủ yếu mà một NHTM có được là từ hoạt động tín dụng. Không thể đánh giá chất lượng tín dụng là cao khi mà lợi nhuận do nó đem lại bằng không hoặc nhỏ hơn không. Do đó các chỉ tiêu về thu nhập và khả năng sinh lời cũng là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng. Tuy nhiện việc đánh giá chất lượng tín dụng qua chỉ tiêu này gặp phải khó khăn là việc xác định chính xác lợi nhuận do hoạt động tín dụng đem lại là rất khó vì nó liên quan đến chi phí vốn, chi phí cho vay…
Với chỉ tiêu lợi nhuận, chất lượng tín dụng có thể được xem xét qua hai chỉ tiêu đo lường khả năng sinh lời của NH sau:
Thu nhập sau thuế
ROE =
Vốn chủ sở hữu
Thu nhập sau thuế
ROA =
Tổng tài sản
Hai chỉ tiêu trên phản ánh khả năng sinh lời của NH trên một đơn vị vốn chủ sở hữu, trên một đơn vị tài sản. Hai chỉ tiêu này càng lớn cho thấy khả năng sinh lời của NH càng cao hay NH hoạt động có hiệu quả.
1.3.2.4. Chỉ tiêu lãi treo
Lãi treo cũng là một trong những chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng. Lãi treo phản ánh mặt trái của chất lượng tín dụng. Đây là số tiền mà lẽ ra là nguồn thu của NH nhưng trên thực tế doanh nghiệp chưa trả. Số lượng và tốc độ tăng của lãi treo là một trong những dấu hiệu tiềm ẩn của chất lượng tín dụng không tốt. Ngược lại nếu tỷ lệ lãi treo của NH thấp nó thể hiện một dấu hiệu tốt trong hoạt động tín dụng của NH, chứng tỏ NH thu được lãi hầu hết ở các khoản tín dụng tức là chất lượng tín dụng NH tốt.
Tổng lãi treo
Tỷ lệ lãi treo =
Tổng dư nợ
Thường chỉ tiêu này tính cho từng tháng quý năm tuỳ theo yêu cầu quản lý. Xét cho cùng mục tiêu cho vay của NH không chỉ đơn thuần là để thu lãi mà thông qua đó NH kích thích được hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tạo cơ sở cho sự phát triển kinh tế. Khi doanh nghiệp làm ăn có lãi có hiệu quả lại muốn đầu tư vào dự án mới dẫn đến xuất hiện nhu cầu tín dụng mới.
Ngoài các chỉ tiêu định lượng như trên, chất lượng tín dụng còn được thể hiện qua một số chỉ tiêu định tính như: việc tổ chức thực hiện các quy chế, cơ chế tín dụng, công tác thẩm định các khoản cho vay. Mỗi tiêu thức dù là định tính hay định lượng đều có ý nghĩa riêng. Bởi vậy khi xem xét đánh giá chất lượng tín dụng không thể căn cứ vào một chỉ tiêu cụ thể nào mà phải sử dụng tổng hợp các chỉ tiêu trên.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
1.3.3.1. Về phía Ngân hàng
Hoạt động huy động vốn: Nguồn vốn huy động đóng vai trò rất quan trọng để nâng cao chất lượng tín dụng. Một nguồn vốn ổn định lãi suất hợp lý sẽ đảm bảo bù đắp những chi phí và những biến động của thị trường, đồng thời cạnh tranh được với các NH khác.
Chất lượng cán bộ: Con người ở đâu và bao giờ cũng là yếu tố quyết định sự thành bại của công việc nói chung và trong hoạt động tín dụng nói riêng. Với nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì hoạt động của NH cũng cần phải đổi mới để bắt kịp với thời đại. Để làm được như vậy, đòi hỏi chất lượng cán bộ ngày càng cao, phải có trình độ nghiệp vụ vững vàng, giầu kinh nghiệm và đặc biệt phải có sự nhạy cảm về nghề nghiệp để có thể sử dụng các phương tiện làm việc hiện đại, nắm bắt kịp thời các thông tin về kinh tế, chính trị phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình phù hợp với sự phát triển không ngừng của hệ thống NH và của nền kinh tế. Vì vậy, việc tuyển chọn cán bộ phải đảm bảo cả về mặt đạo đức lẫn chuyên môn. Có như vậy thì hoạt động tín dụng của NH mới có hiệu quả, chất lượng tín dụng của NH mới được nâng cao.
Công tác tổ chức bộ máy hoạt động của NH: Công tác sắp xếp cán bộ và các phòng ban một cách khoa học có tính linh hoạt, có sự phối hợp chặt chẽ nhịp nhàng giữa các phòng ban, các bộ phận trong NH nhằm phát huy tối đa năng lực của mỗi cá nhân trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tín dụng đã quy định sẽ tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng của NH phát triển hơn, phát hiện và giải quyết kịp thời các khoản tín dụng có vấn đề vì hoạt động tín dụng có khả năng rủi ro lớn hơn tất cả các hoạt động kinh doanh khác. Ngược lại sự bố trí công việc thiếu hợp lý và khoa học sẽ dẫn đến sự không rõ ràng, chồng chéo tạo thói quen ỷ lại, thiếu trách nhiệm trong công việc của các cán bộ.
Quy trình nghiệp vụ cho vay: Quy trình bắt đầu tư khi khai thác khách hàng tìm kiếm dự án, phân tích thẩm định khách hàng và phương án vay vốn, ký kết hợp đồng tín dụng đến giải ngân và quản lý trong khi cho vay và cuối cùng là thu hồi nợ, giải quyết nợ quá hạn, tất cả đều phải được thực hiện nghiêm túc đúng quy định. Làm tốt các khâu này sẽ tạo điều kiện cho việc thu hồi gốc và lãi khi đến hạn thanh toán, tạo điều kiện cho vốn của NH được sử dụng đúng mục đích và luân chuyển nhanh góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.
Thông tin tín dụng : Thông tin tín dụng là yếu tố cơ bản trong quản lý tín dụng. Nhờ thông tin tín dụng, người quản lý có thể đưa ra những quyết định cần thiết về cho vay, theo dõi và quản lý khoản vay của doanh nghiệp. Thông tin tín dụng càng nhanh càng chính xác và toàn diện thì khả năng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng càng tốt. Ngược lại khi thông tin tín dụng không được cung cấp một cách đầy đủ và kịp thời thì sẽ dẫn đến quyết định cho vay của cán bộ tín dụng là sai lầm, việc đầu tư vốn của NH không có hiệu quả. Trong nhiều trường hợp có thể dẫn đến việc mất vốn. Chính vì vậy, việc thu thập đầy đủ chính xác thông tin về đối tượng cho vay là hết sức quan trọng.
Kiểm soạt nội bộ: Các quy chế thể lệ cho vay và các nguyên tắc cho vay nếu cán bộ NH không nắm vững sẽ gây nên tổn thất, ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Do đó, công tác này giúp cán bộ điều hành công việc theo đúng cơ chế, đúng pháp luật, mặt khác, nắm được những sai sót lệch lạc trong hoạt động tín dụng để có biện pháp khặc phục kịp thời. Thông qua kiểm tra, kiểm soát đảm bảo cho hoạt động NH thông suốt hiệu quả, đảm bảo lợi ích của NH. Nâng cao chất lượng công tác này sẽ góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng tín dụng.
1.3.3.2. Về phía khách hàng
Năng lực quản lý kinh doanh của doanh nghiệp: Sự thành bại của doanh nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào khả năng thích nghi với môi trường kinh doanh và bộ máy quản lý. Nếu bộ máy quản lý kinh doanh của doanh nghiệp có năng lực kinh doanh tốt, có trình độ học vấn, có khả năng xoay xở trong mọi tình huống thì tính khả thi của dự án xin vay sẽ cao hơn. Chính vì vậy, NH không thể bỏ qua việc xem xét đánh giá từng người cụ thể trong bộ máy quản lý.
Năng lực tài chính của doanh nghiệp: Thể hiện ở khối lượng vốn tự có và tỷ lệ vốn tự có trên tổng nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng. Điều kiện tín dụng quy định một tỷ lệ cụ thể tối thiểu của vốn tự có trên tổng nguồn vốn để xác định lượng vốn tối đa mà doanh nghiệp có thể vay ở NH. Nếu doanh nghiệp sử dụng vốn kinh doanh vượt quá khả năng về vốn tự có thị hiện tượng chiếm dụng vốn lẫn nhau sẽ xảy ra, nhiều trường hợp doanh nghiệp làm ăn thua lỗ nảy sinh ý định chiếm dụng vốn thậm chí lừa đảo. Vì vậy, khả năng trả nợ cho NH sẽ bị ảnh hưởng. Năng lực tài chính của doanh nghiệp còn thể hiện ở khả năng thanh toán là sự so sánh giữa số tiền doanh nghiệp có thể thanh toán và các khoản nợ phải thanh toán. Việc đáp ứng nhu cầu thanh toán còn phụ thuộc khá lớn vào cơ cấu tài sản của doanh nghiệp xếp theo tính lỏng. Năng lực tài chính càng cao, khả năng đáp ứng các điều kiện tín dụng càng lớn, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.
Việc sử dụng vốn vay của doanh nghiệp: Nếu doanh nghiệp sử dụng tiền vay đúng đối tượng mục đích xin vay thì hồ sơ xin vay mà khách hàng gửi đến NH mới có giá trị thực tiễn. Nếu khách hàng sử dụng tiền vay không đúng đối tượng và mục đích xin vay sẽ gây khó khăn cho NH trong quá trình quản lý sự vận động của đồng vốn, ảnh hưởng tới công tác kiểm tra kiểm soát của NH đối với doanh nghiệp trong quá trình cho vay, từ đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng.
Tài sản đảm bảo: Mặc dù hoàn trả tín dụng không phải là mục đích kinh doanh của NH nhưng nó là cơ sở quan trọng nhất để thực hiện mục tiêu kinh doanh. Để đảm bảo thu hồi được nợ NH phải xem xét một cách thận trọng từ uy tín đên năng lực khách hàng, từ đó áp dụng phương pháp cho vay thích hợp. Nếu khách hàng được đánh giá là tốt trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, chấp hành tốt các hợp đồng tín dụng trong qua khứ và có triển vọng trong tương lai thì NH có thể cho vay không cần bảo đảm. Tài sản thế chấp được coi là tiêu chuẩn khi xét duyệt cho vay, nhưng phải thấy rằng đây không phải là tiêu chuẩn quan trọng nhất hay nói cách khác không phải là tiêu chuẩn mang tính nguyên tắc. Tuy nhiên thực tế hiện nay ở Việt Nam, các NH xếp tiêu chuẩn đảm bảo vào vị trí số một và thậm trí nhiều trường hợp còn coi nó là tiêu chuẩn duy nhất.
1.3.3.3. Các nhân tố khác
Có thể nói các yếu tố ngoại lai có những tác động hết sức lớn đối với hoạt động NH. NH có mối quan hệ hết sức phức tạp với các thành phần kinh tế khác, do đó mọi hành vi diễn ra trong nền kinh tế đều có ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp ở các cấp độ khác nhau tới NH. Trong đó có môi trường pháp lý, môi trường kinh tế, môi trường chính trị xã hội…
Mội trường pháp lý: Mọi thành phần kinh tế đều có quyền tự chủ về mọi hoạt độn sản xuất kinh doanh nhưng phải đảm bảo trong khuôn khổ pháp luật. Hoạt động tín dụng NH cũng vậy, phải tuân theo những quy định của NH nhà nươc, luật các tổ chức tín dụng, luật dân sự và các quy định khác. Nếu những quy định của luật pháp không rõ ràng, đồng bộ, kịp thời thì rất khó khăn cho NH trong hoạt động tín dụng, đồng thời cũng tạo ra những khó khăn trong hoạt động của doanh nghiệp, họ sẽ không yên tâm hoạt động trong môi trường pháp lý như vậy điều này ảnh hưởng tới chất lượng của hoạt động tín dụng. Ngược lại, những văn bản pháp luật rõ ràng, đầy đủ và đồng bộ, ổn đinh sẽ là một hành lang pháp lý vững chắc góp phần vào sự cạnh tranh lành mạnh giữa các NH trong hoạt động tín dụng. Và đó cũng là cơ sở pháp lý để NH giải quyết các khiếu nại, tố cáo khi có tranh chấp xẩy ra trong hoạt động tín dụng. Điều đó giúp chất lượng tín dụng NH được nâng cao.
Môi trường kinh tế: Môi trường kinh tế luôn ảnh hưởng đến sức mạnh tài chính của các doanh nghiệp, vì vậy cũng ảnh hưởng gián tiếp đến hoạt động tín dụng của NH. Môi trường kinh tế thuận lợi sẽ tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng phát triển. Khi chu kỳ kinh doanh thuận lợi, các doanh nghiệp làm ăn có lãi, họ sẽ có nhu cầu vốn nhiều và do vậy làm tăng hoạt động cho vay của NH. Các yếu tố của môi trường kinh tế như lạm phát, các biến động về tỷ giá lãi suất, về thị trường tiêu thụ sản phẩm có ảnh hưởng lớn đến hoạt động cho vay của NH. Như trường hợp lạm phát cao lãi suất thực sẽ giảm xuống từ đó làm giảm lợi nhuận của NH. Lãi suất luôn biến động trong nền kinh tế thị trường, và sự biến động này ảnh hưởng đến công tác tín dụng. Lãi đang ở mực thấp được điều chỉnh lên cao hơn làm cho các doanh nghiệp cố tình đưa ra các lý do trì hoãn không trả nợ ngay để quay vòng vốn ngoài NH. Vì nếu trả ngay sẽ phải vay với lãi suất cao hơn. Mặt khác lãi suất cao cũng tạo nên gánh nặng về chi phí tài chính cho các doanh nghiệp vay vốn NH ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của NH.
Môi trường xã hội: Các nhân tố xã hội như tình hình trật tự an ninh và an toàn xã hội, trình độ dân trí… ảnh hưởng trực tiếp đến các tác nhân chính tham gia vào quan hệ tín dụng NH đó là NH và khách hàng. Thật vậy, nếu một địa bàn mà trật tự an ninh không tốt, an toàn xã hội kém sẽ gây ra tâm lý không yên tâm cho các nhà đầu tư nên họ sẽ không đầu tư vào nơi đó, do đó nhu cầu vay vốn sẽ hạn chế, ảnh hướng đến việc mở rông tín dụng của NH.
Tóm lại, việc nâng cao chất lượng tín dụng chịu tác động của rất nhiều nhân tố ảnh hưởng: như điều kiện của nền kinh tế xã hội, môi trường pháp lý cùng với các nhân tố về khả năng quản lý, cơ sở vật chất, trình độ của đội ngũ nhân viên. Để có thể thực hiện việc nâng cao chất lượng tín dụng NH thì cần phải nắm vững các nhân tố ảnh hưởng tới nó để từ đó tìm ra các biện pháp tạo cơ sở cho sự thành công của hoạt động tín dụng đóng góp vào sự ổn định chung của NH.
chương 2: thực trạng chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng công thương ba đình
2.1. Khái quát hoạt động kinh doanh tại chi nhánh NHCT Ba Đình
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh
Chi nhánh Ngân hàng công thương khu vực Ba Đình - tiền thân là Ngân hàng Đội cấn được thành lập từ năm 1958, là một trong những đơn vị ngân hàng được thành lập đầu tiên trên địa bàn thủ đô Hà Nội, có trụ sở chính tại số nhà 126 phố Đội Cấn, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Trải qua 45 năm ra đời và hoạt động, với biết bao biến động thăng trầm của nền kinh tế đất nước, Chi nhánh NHCT Ba Đình cũng đã đạt được nhiều thành tựu.
Khi mới được thành lập, cơ sở vật chất của ngân hàng còn nhiều thiếu thốn. Biên chế cán bộ làm việc có 18 người, trong đó có 2 đồng chí lãnh đạo, còn lại là cán bộ nghiệp vụ hành chính. Bộ máy hoạt động gồm có ban lãnh đạo, phòng tín dụng, phòng kế toán giao dịch (bao gồm cả bộ phận quỹ nghiệp vụ) phòng hành chính và 2 đại lý quỹ tiết kiệm (số 6 và số 9) đặt tại phố Quán Thánh và phố Đội Cấn.
Bước sang những năm đầu của thập kỷ 90, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đã dần rõ nét hơn do hoạt động thu chi ngân sách được chuyển giao về Ngân hàng Nhà nước thông qua việc hình thành phòng đại diện Ngân hàng Nhà nước tại các quận huyện. Cũng trong thời gian này NH tiến hành đổi mới hoạt động để đáp ứng được với yêu cầu của thị trường và phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên chi nhánh cũng gặp phải nhiều khó khăn: tổ chức bộ máy cồng kềnh, biên chế lao động quá đông, trình độ cán bộ còn nhiều yếu kém không đủ sức đáp ứng nhu cầu đổi mới của nền kinh tế và đổi mới hoạt động Ngân hàng. Hoạt động tín dụng cũng vấp phải những sai lầm nghiệm trọng trong bước đầu trải nghiệm cơ chế thị trường, do nôn nóng đổi mới, do hệ thống luật pháp chưa đầu đủ, chưa thích ứng được với yêu cầu đổi mới, do trình độ cán bộ còn non kém, không có kiến thức về lĩnh vực kinh tế thị trường. Những yếu kém, bất cập trong hoạt động kinh doanh tiền tệ tín dụng tại chi nhánh NHCT Ba Đình trong những năm đầu tiến hành đới mới hoạt động NH đã cho chúng ta một bài học kinh nghiệm về công tác tổ chức, công tác quản lý điều hành, đó phải là kết hợp giữa đổi mới tổ chức với đổi mới phương thức quản trị điều hành, đổi mới với từng bước đi thận trọng và lộ trình thích hợp, đổi mới để bảo toàn và phát triển hoạt động kinh doanh, kinh doanh an toàn, hiệu quả, đúng định hướng, đúng pháp luật.
Với quyết tâm đổi mới, hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHCT Ba Đình trong 10 năm qua (1994-2003) đã thành đạt, trở thành một trong những chi nhánh dẫn đầu của hệ thống NHCT Việt Nam, có nhiều đóng góp cho hệ thống NHCT. Uy tín của chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình với xã hội, với Ngành và với địa phương luôn luôn được trân trọng, là địa chỉ tin cậy của khách hàng.
Chi nhánh NHCT Ba Đình với cơ cấu tổ chức:
NHCT khu vực Ba Đình có tổng số 283 cán bộ công nhân viên chức làm việc tại chi nhánh, phòng giao dịch và 11 quỹ tiết kiệm được đặt rải rác trên khắp địa bàn của quận. Ngân hàng hoạt động dưới sự điều hành của ban lãnh đạo gồm một giám đốc và bốn phó giám đốc phụ trách bốn mảng công việc khác nhau.
Căn cứ quyết định 151/QĐ-HĐQT-NHCT1 ngày 20/10/2003 của hội đồng quản trị NHCT Việt Nam về việc phê duyệt mô hình tổ chức của chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình theo dự án hiện đại hóa Ngân hàng. Căn cứ vào thực tế hoạt động kinh doanh tại chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình. Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình xây dựng chức năng và nhiệm vụ của 11 phòng ban tại chi nhánh theo mô hình hiện đại hóa như sau:
Giám đốc
Phó giám đốc
Phó giám đốc
Phó giám đốc
Phó giám đốc
Phòng khách hàng 1
Phòng khách hàng 2
Phòng khách hàng cá nhân
Phòng kế toán giao dịch
Phòng kế toán tài chính
Phòng thông tin điện toán
Phòng tài trợ thương mại
Phòng tổng hợp thiết bị
Phòng kiẻm tra nội bộ
Phòng tổ chức hành chính
Phòng tiền tệ kho quỹ
11 quỹ tiết kiệm
Với cơ cấu tổ chức như trên Chi nhánh thực hiện các chức năng nhiệm vụ:
Nhiệm vụ:
1. Huy động vốn từ các thành phần kinh tế như: Tiền gửi tiết kiệm, trái phiếu với nhiều loại thời hạn: không kỳ hạn, có kỳ hạn.
2. Đầu tư tín dụng với mọi thành phần kinh tế cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, cho vay đồng tài trợ, cho vay xuất khẩu.
3. Các dịch vụ thanh toán qua NH trong nước và ngoài nước, chiết khấu chứng từ xuất khẩu, phiếu dịch vụ khác.
4. Dịch vụ ngân quỹ, mua, bán ngoại tệ, chi trả kiều hối, cất giữ vật quý, tài sản giá trị cũng như dịch vụ liên quan đến hoạt động NH.
Chức năng
1. Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình là một NH hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ tín dung, dịch vụ NH, thông qua hoạt động này chi nhánh tăng cường tích luỹ vốn để mở rộng đầu tư cùng các đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần, tích luỹ sản xuất lưu thông hàng hoá, tạo công ăn việc làm góp phần ổn định lưu thông tiền tệ và thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
2. Đồng thời chi nhánh còn có nhiệm vụ làm tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, mở rộng sản xuất kinh doanh nhiều ngành nghề phù hợp. Mặt khác chi nhánh còn thực hiện tiếp nhận và triển khai có hiệu quả các nguồn vốn tài trợ của cộng đồng quốc tế để tạo thêm công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ, đào tạo, cho vay, giúp người hồi hương ổn định cuộc sống.
2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của Chi nhánh
2.1.2.1. Kết quả hoạt động kinh doanh năm 2003
Với việc nghiên cứu các biện pháp khặc phục các khó khăn và phát huy tối đa những thế mạnh của NH trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều khó khăn và thị trường tại chính tiền tệ có sự canh tranh gay gắt, để hoàn thành tốt các mục tiều đã đề ra trong năm 2003, toàn thể CBCNV của chi nhánh NHCT Ba Đình đã có sự nỗ lực và quyết tâm lớn ngay từ đầu năm nên đã đạt được kết quả như sau:
Công tác huy động vốn
Hoạt động huy động vốn của chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình luôn là một trong những đơn vị dẫn đầu toàn hệ thống NHCT về huy động vốn, chi nhánh thường xuyên có số dư trên 1500 tỷ đồng điều chuyển vốn về NHCT VN.
Đến ngày 31/12/2003 tổng nguồn vốn huy động đạt 3192 tỷ VNĐ (bao gồm cả ngoại tệ quy đổi ra VNĐ), so với cùng kỳ năm trước tăng 217 tỷ VNĐ, tương đương với 7.3%. Trong đó:
Tiền gửi VNĐ đạt 2718 tỷ , tăng hơn so với cùng kỳ năm trước là 365 tỷ VNĐ, tốc độ tăng 15.5%
Tiền gửi ngoại tệ (quy ra VNĐ) đạt 474 tỷ VNĐ giảm 148 tỷ VNĐ (-3.8%)
Cơ cấu vốn huy động
Tiền gửi TCKT: đạt 1408 tỷ VNĐ tăng 2 tỷ VNĐ so với cùng kỳ năm trước
Tiền gửi tiết kiệm đến ngày 31/12/2003 đạt 1495 tỷ VNĐ, tăng 180 tỷ VNĐ, tốc độ tăng 13.7% so với cùng kỳ năm trước. Mức tăng này chủ yếu là tăng vốn huy động VNĐ.
Trong đó:
Huy động vốn VNĐ đạt 1062 tỷ VNĐ, tăng hơn so với cùng kỳ năm trước
249 tỷ VNĐ, tốc độ tăng 30.6%
Huy động vốn bằng ngoại tệ đạt 433 tỷ VNĐ, so với năm trước giảm 69 tỷ VNĐ (-13.7%)
Những biện pháp thực hiện huy động vốn
- Chuẩn bị tốt cơ sở vật chất kỹ thuật
- Khai trương thêm quỹ tiết kiệm số 22 tại 142 Thụy Khuê
Công tác tín dụng
Sau 15 năm thực hiện đổi mới, hoạt động tín của chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình đã có những bước phát triển vượt bậc. Chất lượng tín dụng ngày càng được nâng cao, nợ quá hạn dưới 1% tổng dư nợ
Tiếp tục thực hiện phương châm “ phát triển - an toàn - hiệu quả” năm 2003 NHCT Ba Đình với mục tiêu kiểm soát và cho vay chọn lọc, nâng cao chất lượng thẩm định dự án, coi trọng hiệu quả kinh tế và thực hiện mục tiêu từ các quy chế về tín dụng hiện hành. Chi nhánh đã đạt được các kết quả sau:
Cho vay và đầu tư kinh doanh khác:
Tính đến 31/12/2003 đạt 1717 tỷ, so với năm trước tăng 85 tỷ VNĐ (+5.2%). Trong đó dư nợ cho vay nền kinh tế đạt 1703 tỷ, tăng so với năm 2002 81 tỷ VNĐ tốc độ tăng 5%. Cho vay ngắn hạn đạt 1112 tỷ, so với năm trước giảm 122 tỷ (-11%), cho vay trung dài hạn đạt 591 tỷ tăng 203 tỷ tốc độ tăng 52.3%.
Về dư nợ có tài sản đảm bảo: Tài sản đảm bảo và được Bộ tài chính bảo lãnh: 438 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 26% trên tổng dư nợ, đạt chỉ tiêu kế hoạch nợ có tài sản đảm bảo NHCT VN giao.
Về nợ tồn đọng: tổng số nợ tồn đọng thu được trong năm 2003 là 17.406 tỷ VNĐ bằng 71.5% nợ tồn đọng
Nợ tồn đọng nhóm I: cuối năm 2002 chuyển sang 3.983 triệu đồng thu được 1771 tr._. thập thông tin từ phía khách hàng thì không có độ tin cậy cao vì chúng ta biết rằng khách hàng luôn muốn vay NH một cách nhanh chóng nhất nên thường xuyên xảy ra hiện tượng thiếu trung thực khi đưa ra những thông tin về mình. Vì vậy, Chi nhánh cần mở rộng phạm vi thu thập thông tin từ các nguồn khác nhau đồng thời phải biết chọn lọc các nguồn thông tin để tránh loãng thông tin. Chi nhánh cần quan tâm tới những nguồn sau:
Thứ nhất: Cần chú trọng tới việc cử cán bộ có kiến thức nghiệp vụ NH đồng thời có kiến thức, chuyên môn của ngành nghề, lĩnh vực mà khách hàng đang kinh doanh, đến tận địa bàn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Kết hợp với những thông tin do khách hàng cung cấp…để có kết luận chính xác về tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tránh trường hợp quá tin cậy vào một nguồn thông tin.
Thứ hai: Chi nhánh phải thường xuyên theo dõi các thông tin được cung cấp từ hệ thống thông tin tín dụng của NHVN (gồm thông tin tín dụng của NHNN và phòng thông tin tín dụng của các NHTM ). Hệ thống thông tin này được đánh giá là đáng tin cậy vì do Nhà nước quản lý. Tuy nhiện, hệ thống này mới thành lập nên chưa hoàn thiện và đẩy đủ cả về mặt chất lượng và số lượng.
Thứ ba: Chi nhánh cần có bộ phận riêng quản lý các hồ sơ, giấy tờ của khách hàng trên máy, kể cả những khách hàng tạm thời chưa có quan hệ tín dụng đối với NH. Đây cũng là nguồn thông tin quan trọng trong nhiều trường hợp cần thiết.
Thứ tư: Chi nhánh cũng cần chú trọng đến nguồn thông tin đại chúng vì đây là nguồn khách quan nhất. Cần có sự hợp tác và trao đổi thông tin thường xuyên với các tổ chức tín dụng khác, các cơ quan tổ chức chính quyền địa phương và giữ tốt mối quan hệ với khách hàng vì đôi khi họ có thể cung cấp cho Chi nhánh những thông tin quý báu.
Như vây, công việc thu thập thông tin rất phức tạp, do đó Chi nhánh nên thiết lập một bộ phận thông tin tín dụng cho riêng mình. Điều này không chỉ làm tốt cho khâu thẩm định mà còn giúp ích cho cả quá trình cho vay của Chi nhánh trong việc hạn chế rủi ro tín dụng, nâng cao chất lượng tín dụng.
Phân tích thông tin tín dụng
Khi có được các thông tin cần thiết thì việc chọn lựa khách hàng là rất quan trọng. Lâu nay trong thực tế thường chỉ có khách hàng lựa chọn NH, NH thực hiện tín dụng đối với hầu hết các khách hàng đến với mình. Thực ra ở đây phải có quan hệ hai chiều: khách hàng lựa chọn NH và NH lựa chọn khách hàng. Điều này rất quan trọng vì nó hạn chế rủi ro của NH, đảm bảo vốn cho vay ra thu hồi đầy đủ cả vốn lẫn lãi, góp phần nâng cao hiệu quả tín dụng của NH. Khi lựa chọn khách hàng, NH cần chú ý lựa chọn những khách hàng có hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có uy tín. Việc lựa chọn khách hàng phải áp dụng cho mọi thành phần kinh tế, tránh tình trạng đối với thành phần kinh tế quốc doanh, NH cho vay mà không xem xét đơn vị đó kinh doanh có hiệu quả hay không trong khi lại rất khắt khe với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Để lựa chọn khách hàng được khoa học, chi nhánh nên tiến hành phân tích và xếp loại các doanh nghiệp theo bốn nhóm tiêu thức: quy mô doanh nghiệp, khả năng thanh toán, quan hệ tín dụng và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định cần có sự phối hợp của chuyên gia, những cán bộ tư vấn về lĩnh vực như giá cả, kỹ thuật kiểm tra chất lượng sản phẩm…với nhau. Chi nhánh nên thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo cán bộ chuyên sâu về công tác thẩm định. Bên cạnh đó Chi nhánh nên giao cho cán bộ tín dụng quyền tự quyết trong quá trình xét duyệt cho vay, phát tiền vay và thu hồi nợ để đảm bảo tính chủ động và thống nhất trong công việc. Tuy nhiên, để chánh tiêu cực từ phía cán bộ tín dụng, Chi nhánh phải đồng thời quy định rõ trách nhiệm của từng người trong phạm vi cho phép.
3.2.2. Đổi mới cơ chế cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong cho vay là “an toàn và hiệu quả”. Thực tế trong công tác cho vay đã xảy ra một số mâu thuẫn cần giải quyết hài hoà là tăng cường doanh số cho vay, tăng dư nợ nhưng phải giảm tỷ lệ nợ quá hạn. Hơn nữa trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh giữa các NH ngày càng gia tăng cùng với sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu, ngành nghề kinh doanh phong phú của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, vì vậy nên việc thường xuyên đổi mới, hoàn thiện cơ chế cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất cần thiết. Yêu cầu đặt ra đối với cơ chế cho vay là phải gọn nhẹ, linh hoạt phù hợp với từng thành phần kinh tế, từng loại hình doanh nghiệp, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động cho vay trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật, đường lối chính sách của Nhà nước.
Về thủ tục cho vay
Trên thực tế, khách hàng vay vốn luôn mong muốn được vay nhanh chóng vì vậy thủ tục xin vay cần đơn giản, gọn nhẹ, cán bộ tín dụng cần hoàn tất hồ sơ vay vốn trong thời gian ngắn nhất nhưng phải đảm bảo đúng và đủ nguyên tắc tín dụng. Cán bộ tín dụng cần hướng dẫn khách hàng về những giấy tờ cần thiết một cách rõ ràng, để họ hiểu và thông cảm với những khó khăn của NH. Tuy nhiên, cũng không thể vì đơn giản hoá mà bỏ qua những thủ tục cần thiết.
Kỳ hạn cho vay
Hiện nay Chi nhánh cho vay ngắn hạn với các thời hạn như 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng và 12 tháng. Như vậy thời hạn cho vay còn cứng nhắc, chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn của doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất kinh doanh đơn lẻ, họ chỉ trả nợ được NH khi thu được tiền hàng. Vì vậy, Chi nhánh cần điều chỉnh thời hạn cho vay linh hoạt hơn đối với từng loại hình doanh nghiệp. Việc xác định kỳ hạn nợ không chỉ đơn thuần căn cứ vào bảng tổng kết tài sản, kế hoạch sản xuất mà còn phải dựa trên kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, các hợp đồng mua bán tiêu thụ sản phẩm, từ đó NH xác định kỳ hạn nợ một cách chính xác.
Đối với cho vay trung và dài hạn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhu cầu vốn trung và dài hạn lớn do phải đổi mới trang thiết bị, công nghệ, do đó Chi nhánh cần lưu ý trong việc xác định kỳ hạn cho vay phù hợp với khả năng sinh lời và tuổi thọ máy móc, thiết bị.
Lãi suất cho vay
Lãi suất cho vay là vấn đề không chỉ NH quan tâm mà các chủ thể kinh doanh luôn chú ý, là điểm hội tụ của nhiều mối quan hệ, liên quan trực tiếp đến lợi ích vật chất của các bên. Lãi suất cho vay phụ thuộc vào nhiều yếu tố kinh tế khác nhau nên để đưa ra mức lãi suất mới cần phải thay đổi nhiều yếu tố khác. Hiện nay Chi nhánh thực thi mức lãi suất dựa trên khung lãi suất do NHCTVN quy định. Để đảm bảo tính công bằng trong cho vay, Chi nhánh chỉ áp dụng một mức lãi suất chung cho tất cả các thành phần kinh tế. Tuy nhiên, với sự non yếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của ta hiện nay thì cần thiết có mức lãi suất ưu đãi để hỗ trợ họ phát triển. Thêm vào đó, Chi nhánh cần áp dụng mức lãi suất linh hoạt theo lượng vốn vay của khách hàng. Để tiến tới giảm lãi suất cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Chi nhánh cần có chi phí đầu vào thấp. Tăng cường nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế cũng là một giải pháp hạn chế chi phí đầu vào. Ngoài ra, Chi nhánh nên hạn chế tối đa các chi phí không cần thiết khác để hạ lãi suất đầu ra nhằm tăng cường tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, tăng lợi nhuận cho Chi nhánh.
Cơ chế bảo đảm
Theo tinh thần của luật các tổ chức tín dụng, điều 52 về bảo đảm tiền vay thì các tổ chức tín dụng tiến hành cho vay trên cơ sở có đảm bảo bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay hay có sự bảo lãnh của bên thứ ba… việc cho vay có đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay và việc cho vay không có đảm bảo về tài sản đối với khách hàng được thực hiện theo quy định của chính phủ. Như vậy có các hình thức đảm bảo sau:
- Không phải cầm cố, thế chấp: áp dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước hay còn được gọi là tín chấp. Hình thức cho vay này đang dần thu hẹp tại Chi nhánh.
- Cầm cố: động sản, chứng từ có giá, hiện kim, ký quỹ…
- Thế chấp: bằng tài sản bất động sản, tài sản hình thành từ vốn vay
- Bảo lãnh: bằng tài sản (cầm cố, thế chấp) của bên thứ ba hay tín chấp của bên thứ ba mà Nhà nước cho phép như các tổ chức công đoàn, các tổ chức chính trị…
Tuy nhiên không phải bất cứ khoản vay nào người vay cũng có đầy đủ tài sản thế chấp cho nên việc cho vay đảm bảo bằng các hình thức khác cũng là điều kiện cần thiết. Nếu NH không thực hiện thì sẽ mất cơ hội tìm kiếm lợi nhuận. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có tài sản thế chấp thì thường có giá trị thấp hoặc không có tài sản thế chấp do đó rất khó tiếp cận với nguồn vốn NH. Vì vậy, NH có thể linh hoạt hơn trong vấn đề này thông qua uy tín, kết quả sản xuất kinh doanh hay dự án khả thi của các doanh nghiệp này. Như vậy để tìm biện pháp khắc phục tình trạng thiếu tài sản thế chấp vay vốn NH có thể nâng cao năng lực thẩm định dự án, phương án vay vốn, bên cạnh đó còn có một số biện pháp khác:
- Đối với doanh nghiệp được bảo lãnh tín dụng một phần và đủ tài sản thế chấp cho phần còn lại thì yêu cầu doanh nghiệp thực hiện đảm bảo nợ vay đủ theo yêu cầu.
- Đối với các doanh nghiệp được bảo lãnh tín dụng một phần và tài sản thế chấp không đủ bảo đảm cho phần còn lại thì yêu cầu dùng tài sản hình thành từ vốn vay tiếp tục đảm bảo cho nợ vay còn lại.
- Đối với doanh nghiệp không đủ điều kiện thực hiện ở hai dạng trên thì NHTM phải tiến hành thẩm định dự án, phương án vay vốn thông qua hội đồng tín dụng, trong đó có các chuyên gia tư vấn theo chuyên môn yêu cầu để quyết định đầu tư hay không và nếu đầu tư thì mức đầu tư là bao nhiêu.
Ngoài ra NH nên phát triển hình thức bảo đảm bằng các chứng từ có giá như việc chiết khấu thương phiếu. Muốn vậy, cần phải phát triển thị trường chứng khoán hơn nữa để chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, thương phiếu…có thể mua bán trên thị trường chứng khoán dễ dàng. Khi cần các NH có thể xin tái chiết khấu các thương phiếu đó tại NHNN để bổ sung nguồn vốn kinh doanh, nguồn vốn thanh toán.
3.2.3. Nâng cao hoạt động kiểm tra, kiểm soát trước và sau khi cho vay
Nâng cao vai trò công tác thanh tra, kiểm soát là công việc rất quan trọng để bảo đảm chất lượng cho vay, do đó khi Chi nhánh mở rộng quy mô cho vay thì vai trò của công tác này phải được nâng lên ở mức tương xứng. Trong công tác kiểm tra, giám sát vốn vay, Chi nhánh phải thường xuyên đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng. Nếu phát hiện khách hàng đưa thông tin sai sự thật hay vi phạm hợp đồng…thì Chi nhánh thực hiện xử lý theo quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
Trong thực tế việc giám sát vốn vay của khách hàng lại hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng trình độ và từng điều kiện cụ thể của từng cán bộ tín dụng. Vì vậy, Chi nhánh phải tăng cường hiệu quả của giám sát vốn vay trong hoạt động của Chi nhánh với yêu cầu phải có chương trình giám sát riêng, cán bộ của bộ phận này phải có năng lực về đánh giá hoạt động tín dụng ở cả hai phía khách hàng và Chi nhánh, những người làm công tác này không liên quan đến hoạt động cho vay và thu nợ. Ngoài ra, Chi nhánh cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát nội bộ Chi nhánh nhằm thanh lọc những cán bộ tín dụng mất phẩm chất tiêu cực, gây thất thoát tài sản và làm mất uy tín của Chi nhánh
3.2.4. Phân bổ trách nhiệm trong quan hệ cho vay
Trong hoạt động cho vay, nếu vấn đề trách nhiệm được quy định rõ ràng cụ thể sẽ nâng cao hiệu quả cho vay. Trách nhiệm ở đây thuộc về cả hai phía: đơn vị vay vốn và đơn vị cho vay. Đơn vị vay vốn phải sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả và hoàn trả cả vốn vay và lãi đúng hạn. Đơn vị cho vay phải giám sát việc sử dụng vốn vay đúng mục đích đã đề ra, khi phát hiện tình huống có vấn đề phải có biện pháp tác động kịp thời, hạn chế tới mức thấp nhất thiệt hại có thể xảy ra. Khi đơn vị vay vốn không hoàn trả lãi và vốn đúng hạn, NH có quyền áp dụng các chế tài để thu lại vốn cho vay (ví dụ như phát mại tài sản thế chấp). Điều này đòi hỏi hệ thống pháp luật phải đồng bộ và chặt chẽ. Trong trường hợp cho vay nhưng không đòi được nợ thì cán bộ tín dụng phải có trách nhiệm với NH, ở đây chỉ nên áp dụng trách nhiệm hành chính, tuỳ trường hợp cụ thể mà NH quy định trách nhiệm cụ thể đối với cán bộ NH. Không nên quy trách nhiệm hình sự trong trường hợp này sẽ dẫn đến tình trạng nhiều cán bộ NH sợ việc xét duyệt cho vay dẫn đến hoạt động cho vay bị thu lại, ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay. Điều này có thể tạo môi trường cho nhiều NH khác tranh thủ thị trường khách hàng, lôi kéo khách hàng của NH mình.
3.2.5. Coi trọng công tác cán bộ và bồi dưỡng cán bộ
Con người luôn là nhân tố quyết định trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội, chính trị và trong hoạt động tín dụng nói riêng, yếu tố này cũng không nằm ngoài quy luật đó. Toàn bộ những quyết định cho vay, tiến trình thực hiện cho vay và thu nợ…không có một máy móc hay công cụ nào khác ngoài cán bộ tín dụng đảm nhiệm. Vì vậy, kết quả hoạt động cho vay phụ thuộc rất lớn vào trình độ nghiệp vụ, tính năng động sáng tạo và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng. Chi nhánh NHCT Ba Đình là NH có đội ngũ cán bộ đại đa số có trình độ đại học và trên đại học đã được đào tạo qua các trường cả chính quy và tại chức về ngành NH. Tuy nhiên trong thực tế do tính phức tạp của nền kinh tế thị trường, sự phức tạp và đầy khó khăn trong công tác cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ đòi hỏi cán bộ tín dụng luôn phải học hỏi trau dồi kiến thức nghiệp vụ và cả kiến thức tổng hợp khác một cách thường xuyên để đáp ứng tính cập nhật của những vấn đề kinh tế hiện đại. Khả năng của mỗi người có hạn nên không thể một lúc tiếp thu được tất cả các kiến thức tổng hợp nên chi nhánh cần có kế hoạch đào tạo từng bước, mang tính chuyên sâu. Trong công tác tổ chức cán bộ cần tính chuyên sâu trong công việc, mỗi người phụ trách một vài công việc cụ thể và phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả công việc của mình. Ví dụ như có cán bộ chuyên thẩm định, cán bộ giám sát…như vậy hoạt động cho vay mới có tính chuyên nghiệp cao. Bên cạnh đó cần có hình thức thưởng phạt xứng đáng để bản thân mỗi cán bộ có trách nhiệm và hào hứng với công việc. Ngoài ra, chi nhánh nên thường xuyên tổ chức các buổi thảo luận, trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp. Tổ chức các cuộc thi đua cán bộ có chuyên môn giỏi nhằm khuyến khích không khí làm việc hiệu quả trong chi nhánh.
3.2.6. Đẩy mạnh hoạt động Marketing trong cho vay
Tăng cường hoạt động trên các phương tiện thông tin đại chúng để chi nhánh tự giới thiệu về mình với khách hàng. Cho đến nay, trong suy nghĩ của nhiều người còn chưa hiểu đầy đủ về ngành NH. Đối với họ, dù đã đủ điều kiện vay vốn NH nhưng họ còn e ngại khi tiếp cận với vốn NH do thông tin họ nhận được còn hạn chế. Nguyên nhân của vấn đề nay một phần là do ấn tượng về cán bộ tín dụng thời bao cấp còn để lại trong tâm trí họ như hách dịch, cửa quyền… Vì vậy, chi nhánh sử dụng phương tiện thông tin đại chúng để cho khách hàng đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiểu rõ về mình là cần thiết.
Không chỉ tuyên truyền về mình qua các phương tiện thông tin đại chúng mà có một phương pháp khác hiệu quả hơn đó chính là thái độ phục vụ, giao tiếp của nhân viên NH đối với khách hàng vì dưới con mắt của khách hàng thì nhân viên NH chính là hình ảnh của NH. Cán bộ giao dịch đòi hỏi phải giỏi về trình độ nghiệp vụ nhằm tạo tâm lý tin tưởng, yên tâm cho khách hàng. Sự lịch thiệp và thái độ vui vẻ đúng mực sẽ tạo nên sự hài lòng đối với khách hàng.
Đồng thời cần đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng. Nhưng trong hoạt động ngân hàng khó có thể đưa ra sản phẩm mới, mà phần lớn chỉ là các cải tiến, tạo sự khác biệt, hấp dẫn trong sản phẩm truyền thống của ngân hàng. Do đó, NHCT Ba Đình nên đa dạng hóa các hình thức tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Trong tương lai không xa, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh sẽ là khu vực kinh tế đa dạng về quy mô, ngành nghề sản xuất kinh doanh. Vì vậy, nhu cầu về khối lượng vốn vay, thời hạn vay, phương thức trả vốn và lãi vay không giống nhau. Như vậy, để thỏa mãn nhu cầu của khách hàng thì ngân hàng phải đưa ra các hình thức tín dụng phù hợp với nhu cầu của khách hàng như:
- NH tìm đến các doanh nghiệp ngoài quốc doanh làm ăn có hiệu qủa, triển vọng, ký thỏa thuận liên doanh, liên kết hoặc mua cổ phần của công ty để có thể vừa tham gia sản xuất kinh doanh, vừa cho vay được, vừa có thể biết trước được doanh nghiệp sẽ làm gì, và thấy rõ được mặt mạnh, mặt yếu của doanh nghiệp để tiến hành cho vay.
- Tiến hành phân loại khách hàng để cho vay: Doanh nghiệp ngoài quốc doanh đến vay ngân hàng chủ yếu là công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty tư nhân, công ty có vốn liên doanh nước ngoài… và tiến tới ngân hàng cần có những cơ chế hợp lý đối với từng loại khách hàng để đảm bảo hẫp dẫn hơn so với các ngân hàng khác trên cùng địa bàn.
Ngoài ra chi nhánh cần thành lập một bộ phận chuyên nghiên cứu thị trường để nắm bắt được nhu cầu của khách hàng, thực trạng kinh doanh và sử dụng vốn vay của các doanh nghiệp. Có như vậy, chi nhánh mới có khả năng “chớp thời cơ”, cạnh tranh với hàng loạt các NHTM cổ phần, NHTM liên doanh với nước ngoài… đang ngày càng phát triển ồ ạt. Thị trường tín dụng ngoài quốc doanh biến động phức tạp do lượng khách hàng lớn, lại kinh doanh trong nhiều lĩnh vực với quy mô khác nhau, nhu cầu vốn thường xuyên biến động không ngừng, thêm vào đó là việc tổ chức theo dõi, ghi chép sổ sách của họ lại dựa trên thói quen, kinh nghiệp của mỗi người nên việc nắm bắt khách hàng là rất khó. Hơn nữa, hoạt động tín dụng dựa trên sự tin tưởng nên cần nắm vững một cách chi tiết, đầy đủ về khách hàng để có cơ sở đặt niềm tin vào khách hàng. Vì vậy, chi nhánh cần xây dựng một bộ phận chuyên nghiên cứu thị trường để hoạt động tín dụng của chi nhánh đạt hiệu quả cao hơn, vững mạnh hơn.
Ngoài ra, NH nên thường xuyên cung cấp thông tin về tình hình tài chính, tiền tệ trên thị trường. Giới thiệu đến các doanh nghiệp các sản phẩm của mình, đặc biệt là tư vấn các thủ tục, điều kiện vay vốn để các doanh nghiệp chủ động trong việc tiếp cận với nguồn vốn từ NH. Tổ chức những buổi đối thoại trực tiếp để nắm bắt những phản hồi, trao đổi, tháo gỡ khó khăn cùng doanh nghiệp. Phối hợp cùng các tổ chức khác thường xuyên đào tạo những nhà quản lý doanh nghiệp. Thành lập các trung tâm tư vấn giúp các doanh nghiệp có cách nhìn trung thực, khách quan về hoạt động NH. NH không chỉ cho vay mà còn giúp các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, mang lại lợi ích hài hoà cho các bên. Thực hiện sự bình đẳng trong việc xem xét, cho vay đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Phát triển các dịch vụ cho vay và sản phẩm NH phù hợp với mô hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Kiến nghị với NHNN xem xét các điều kiện cho vay vốn, đảm bảo tiền vay cho phù hợp với quy mô và khả năng tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ như tỷ lệ vốn tự có của các doanh nghiệp tham gia vào phương án vay vốn, tăng tỷ lệ cho vay trên cơ sở giá trị tài sản đảm bảo, cho vay thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay…Tranh thủ sự giúp đỡ và khai thác các nguồn vốn hỗ trợ của các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế để cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ với lãi suất ưu đãi. Đồng thời cải tiến phương thức huy động vốn mà chủ yếu là nguồn vốn trung dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư trang thiết bị, đổi mới công nghệ.
3.3. Kiến nghị
3.3.1. Đối với Nhà nước
Để góp phần cùng các NH hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ không ngừng phát triển, Nhà nước ta cần quan tâm thực hiện:
Thứ nhất: Nhà nước nên có những biện pháp nhằm cải thiện nhận thức của các cơ quan quản lý Nhà nước, các cán bộ nhà nước cũng như mọi tầng lớp nhân dân nói chung về vai trò quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội Việt Nam. Thông qua tuyên truyền bằng các phương tiện thông tin đại chúng và để cải thiện nhận thức, có thể chính phủ ban hành một văn bản pháp quy như Nghị định của Chính phủ về cơ chế chính sách xúc tiến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ hai: Nhà nước nên tạo điều kiện thuận lợi tạo môi trường chính sách đồng bộ và rõ ràng, cải cách thủ tục hành chính… để phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều này có nghĩa là tất cả các cơ quan hành chính các cấp cần đóng vai trò hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Chính phủ cần giao nhiệm vụ cho một cơ quan hoặc thành lập cơ quan làm nhiệm vụ quản lý Nhà nước xây dựng chính sách, xây dựng kế hoạch và chương trình, điều phối các hoạt động phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ ba: Trong lúc nguồn ngân sách còn hạn chế, cần tăng cường hợp tác đối ngoại, tranh thủ các tổ chức quốc tế và cá nhân ở nước ngoài trợ giúp về kinh phí cũng như kinh nghiệm trong việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ tư: Nhà nước cần có biện pháp để đơn giản hoá các thủ tục hành chính quy định việc đăng ký và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ năm: Nhanh chóng đưa quỹ bảo lãnh doanh nghiệp vừa và nhỏ đi vào hoạt động. Hình thành quỹ tín dụng hỗ trợ xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tách riêng hoạt động tín dụng ưu đãi, tín dụng chính sách ra khỏi hoạt động NHTM, thành lập NH chính sách.
Thứ sáu: Chính phủ cần sớm thành lập quỹ hỗ trợ và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ từ các nguồn vốn có lãi suất đầu vào thấp hoặc không lãi để tài trợ ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần nâng cao năng lực tài chính của các doanh nghiệp này (như các chương trình của Chính phủ hỗ trợ nhàng cơ khí, ngành đóng tàu trong nước…). Việc sử dụng tín dụng ưu đãi và trợ cấp đặc biệt trong giai đoạn khởi sự lập nghiệp sẽ góp phần quan trọng giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ có được chỗ đứng trên thị trường.
Thứ bẩy: Dành một tỷ lệ vốn nhất định của quỹ hộ trợ đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thực tế cho thấy cơ cấu vốn cho vay vốn tín dụng từ quỹ hỗ trợ đâu tư chỉ dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên 10%, còn lại là doanh nghiệp lớn.
Thứ tám: Thúc đẩy việc hình thành hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ toàn quốc có cơ hội giao lưu, trao đổi kinh nghiệm và hợp tác với nhau. Đồng thời hiệp hội sẽ trở thành một kênh chính thức truyền tải các ý kiến, nguyện vọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam với Đảng, Nhà nước, các tổ chức trong nước và quốc tế.
Thứ chín: Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ mặt bằng sản xuất bằng cách thành lập các khu công nghiệp danh riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhà nước cần có chính sách giảm tiền thuê đất trong một vài năm đầu hoặc có nhiều phương thức nộp tiền thuê đất, hỗ trợ một phần chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng.
Thứ mười: Chính phủ khuyến khích phát triển các hình thức nhằm tăng cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ với các doanh nghiệp khác về hợp tác sản xuất sản phẩm, sản xuất linh kiện, phụ kiện, phụ tùng, tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Thư mười một: Cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ đòi hỏi phải có tài sản thế chấp, có giấy tờ hợp pháp của các cấp có thẩm quyền ra quyết định. Nhưng hiện nay luật về sở hữu tài sản chưa rõ ràng, đầy đủ. Phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang xây dựng bằng vốn tự có và chỉ chuyển nhượng bằng giấy tờ viết tay do chính quyền sở tại xác nhận. Mặt khác theo quy định số 217/QĐ-NH yêu cầu tài sản thể chấp phải có giấy tờ hợp pháp, hợp lệ. Do đó uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và các cấp cần phải xác nhận quyền sở hữu tài sản để người sở hữu có đủ bộ giấy tờ hợp pháp khi đi vay.
Thứ mười hai: Cần sớm thiết lập các định chế độ hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ như thành lập quỹ hỗ trợ, hiệp hội các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khuyến khích đầu tư công nghệ hiện đại bằng chính sách ưu đãi…
Thư mười ba: Các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần phối hợp với toà án để thiết lập một hội đồng xử lý tranh chấp trong tín dụng như xử lý tài sản thanh lý, tài sản thế chấp…
Thứ mười bốn: Các cơ quan quản lý Nhà nước cần tăng cường kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đảm bảo cho các doanh nghiệp này hoạt động đúng pháp luật, thực hiện đúng chế độ kiểm toán thống kê. Yêu cầu các doanh nghiệp có vốn điều lệ từ 5 đến 10 tỷ hàng năm phải thực hiện kiểm toán.
Thứ mười lăm: Các bộ, Ngành cung cấp thông tin tạo và điều kiện cho cá doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận, mở rộng thị trường trong nước và quốc tế đặc biệt là việc quảng cáo, giới thiệu sản phẩm có tiềm năng ra thị trường quốc tế.
3.3.3. Đối với NHCTVN
Ban hành, hoàn thiện đồng bộ hoá các văn bản về hoạt động kinh doanh tín dụng của các chi nhánh trong hệ thống, tạo điều kiện thuận lợi cho các chi nhánh mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng đối với khách hàng cũng như đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Có chính sách hỗ trợ tài chính và xử lý nợ đọng, nợ khó đòi của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Kiến nghị với chính phủ về việc tăng cường hiệu lực của các trung tâm bán đấu giá để hỗ trợ cho chi nhánh trong việc xử lý nợ và lành mạnh hoá các khoản vay.
Thu hút các dự án, chương trình của quốc tế, các nước khác, hỗ trợ cho NHCT trong việc đào tạo cán bộ quản lý, nâng cao trình độ quản lý điều hành hoạt động NH theo tiêu chuẩn quốc tế. Đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ, thẩm định đánh giá dự án, phân tích và đánh giá rủi ro cho cán bộ tín dụng, trang bị công nghệ NH hiện đại. Khai thác các nguồn tín dụng ưu đãi uỷ thác, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có cơ hội nhiều nhất trong việc tiếp cận vốn tín dụng. Thành lập riêng một quỹ cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ và phân bổ cho các chi nhánh để các doanh nghiệp này dễ dàng tiếp cận được các nguồn tín dụng.
Kết luận
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là loại hình doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của các nước nói chung và của Việt Nam nói riêng hiện nay. Việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp này là chiến lược của các NHTM trong đó có Chi nhánh NHCT Ba Đình. Vì vậy việc tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh là một vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay. Đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của các cán bộ công nhân viên trong Chi nhánh, cũng như sự nỗ lực đồng bộ của các cấp, các ngành có liên quan cũng như của chính các doanh nghiệp.
Mặc dù với sự cố gắng nỗ lực của bản thân và được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Th.s Phạm Long cùng các cô, chú cán bộ tại Chi nhánh NHCT Ba Đình, xong do còn nhiều hạn chế về năng lực, kiến thức của bản thân và do thời gian có hạn nên chuyên đề thực tập không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được các thầy cô cùng toàn thể các cô chú cán bộ tại Chi nhánh đóng góp ý kiến để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình Ngân hàng thương mại quản trị và nghiệp vụ – ĐH Kinh Tế Quốc Dân.
Giáo trình Tài chính doanh nghiệp - ĐH Kinh Tế Quốc Dân.
Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - ĐH Kinh Tế Quôc Dân.
Tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính – Frederic S. Mishkin – NXB Khoa học kỹ thuật.
Quản trị Ngân hàng thương mại – Peter Rose – NXB Tài chính.
Quy chế cho vay, bảo lãnh , cho thuê do NHNNVN ban hành.
Báo cáo thường niên của Chi nhánh NHCT Ba Đình năm 2001, 2002, 2003.
Mục lục
Trang
Lời cảm ơn
Mở đầu
1
2
Chơng 1:
Tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
4
1.1
Lý luận chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ
4
1.1.1
Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
4
1.1.2
Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
5
1.1.3
Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với sự phát triển kinh tế
6
1.1.3.1
Tạo công ăn việc làm
6
1.1.3.2
Khai thác, tân dụng nguồn lực xã hội
7
1.1.4
Khó khăn của doanh nghiệp vừa và nhỏ khi tiếp cận vốn NH
8
1.2
Tín dụng Ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
9
1.2.1
Khái niệm tín dụng Ngân hàng
9
1.2.2
Các hình thức tín dụng Ngân hàng
10
1.2.3
Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ
17
1.2.3.1
Góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
17
1.2.3.2
Đảm bảo cho hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đợc liên tục
18
1.3
Chất lợng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
19
1.3.1
Khái quát về chất lợng tín dụng
19
1.3.2
Các chỉ tiêu phản ánh chất lợng tín dụng
21
1.3.2.1
Chi tiêu nợ quá hạn
21
1.3.2.2
Chỉ tiêu tổng d nợ
23
1.3.2.3
Chỉ tiêu lợi nhuận
24
1.3.2.4
Chỉ tiêu lãi treo
24
1.3.3
Các nhân tố ảnh hởng đến chất lợng tín dụng
25
1.3.3.1
Về phía Ngân hàng
25
1.3.3.2
Về phía khách hàng
27
1.3.3.3
Nhân tố khác
29
Chơng 2:
Thực trạng chất lợng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh NHCT Ba Đình
31
2.1
Khái quát hoạt động kinh doanh tại Chi nhánh
31
2.1.1
Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh
31
2.1.2
Tình hình hoạt động kinh doanh của Chi nhánh
34
2.2
Thực trạng chất lợng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh NHCT Ba Đình
40
2.2.1
Tình hình cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
40
2.2.2
Tình hình thu nợ đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
44
2.2.3
Tình hình nợ quá hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
45
2.3
Đánh giá thực trạng chất lợng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh
47
2.3.1
Kết quả đạt đợc
47
2.3.2
Hạn chế và nguyên nhân
48
Chơng 3:
Giải pháp nâng cao chất lợng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh NHCT Ba Đình
54
3.1
Định hớng tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thời gian tới
54
3.1.1
Chủ chơng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhà nớc
54
3.1.2
Phơng hớng và mục tiêu tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh NHCT Ba Đình
56
3.2
Giải pháp nâng cao chất lợng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh NHCT Ba Đình
57
3.2.1
Nâng cao công tác thẩm định
58
3.2.2
Đổi mới cơ chế cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
62
3.2.3
Nâng cao hoạt động kiểm tra, kiểm soát trớc, trong và sau cho vay
65
3.2.4
Phân bổ trách nhiện trong quan hệ cho vay
66
3.2.5
Coi trọng công tác cán bộ và bồi dỡng cán bộ
66
3.2.6
Đẩy mạnh hoạt động Marketing trong cho vay
67
3.3
Kiến nghị
70
3.3.1
Đối với Nhà nớc
70
3.3.2
Đối với NHCTVN
73
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
74
75
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0176.doc