Nâng cao chất lượng tín dụng Doanh nghiệp nhà nước tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hoàn Kiếm

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA NGÂN HÀNG -TÀI CHÍNH CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP §Ò tµi: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS. Lê Đức Lữ Họ và tên sinh viên : Phan Thị Thanh Nga Lớp : Ngân hàng 46 A Khoá : 46 Hệ : Chính quy Hà Nội, tháng 04 năm 2008. LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực, đặc biệt là sự kiện Việt Nam chính thức

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1347 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng Doanh nghiệp nhà nước tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trở thành thành viên của WTO vào tháng 11/2006 và mới đây tháng 10/2007 được bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc đã khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế cũng như tạo thêm sức mạnh lòng tin của các nhà đầu tư trong khu vực và toàn thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng đồng nghĩa với việc mở cửa thị trường tài chính, ngành Ngân hàng tuy có nhiều cơ hội nhưng cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Điều này tạo ra những ảnh hưởng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vì thế ảnh hưởng đến hoạt động của các NHTM nói chung và hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng. Hoạt động tín dụng là một nghiệp vụ truyền thống, chủ yếu và chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu tài sản và thu nhập nhưng cũng là hoạt động phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro lớn cho các NHTM. Tín dụng trong điều kiện nền kinh tế mở, hội nhập và cạnh tranh tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong kinh doanh ngân hàng và đang đặt ra những yêu cầu mới về nâng cao chất lượng tín dụng, đặc biệt là chất lượng tín dụng đối với các DNNN. Qua quá trình học tập ở trường Đại học Kinh tế Quốc dân và thời gian thực tập ở Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm, em đã nghiên cứu, tìm hiểu về hoạt động tín dụng đối với DNNN tại Chi nhánh và đã hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp với đề tài: “Nâng cao chất lượng tín dụng DNNN tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm”. Đề tài thông qua việc tìm hiểu tổng quan về hoạt động tín dụng của NHTM, đánh giá chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm từ đó đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm. Kết cấu của Chuyên đề tốt nghiệp này gồm 3 Chương: Chương 1: Chất lượng tín dụng của NHTM Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNNN tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm. Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNNN tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm. Trong giới hạn về thời gian tìm hiểu tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm, đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu về hoạt động tín dụng tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm trong 3 năm 2005, 2006, 2007. Để có kiến thức và tài liệu hoàn thành tốt Chuyên đề thực tập này là nhờ sự quan tâm của các thầy cô giáo trong Khoa Ngân hàng – Tài chính, đặc biệt là sự chỉ bảo tận tình của PGS.TS Lê Đức Lữ cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của các anh chị cán bộ tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG 1 CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NHTM 1.1. TÍN DỤNG NHTM 1.1.1. Khái niệm tín dụng NHTM Tín dụng, theo khái niệm chung nhất là một phạm trù kinh tế của nền kinh tế hàng hóa, phản ánh quan hệ kinh tế giữa người sở hữu với người sử dụng các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế theo nguyên tắc hoàn trả và sự tin tưởng. Dựa trên nhiều tiêu thức phân chia khác nhau mà chúng ta có các loại hình quan hệ tín dụng khác nhau. Căn cứ vào chủ thể trong quan hệ tín dụng, tín dụng được phân thành: tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước, tín dụng thuê mua, tín dụng tiêu dùng và tín dụng quốc tế. Trong đó tín dụng ngân hàng thương mại là mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các chủ thể còn lại trong nền kinh tế. Ở đây ngân hàng đóng vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Với tư cách là người đi vay, ngân hàng nhận tiền gửi của các doanh nghiệp và cá nhân hoặc phát hành các chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong nền kinh tế. Với tư cách là người cho vay, ngân hàng cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp và cá nhân. Tuy nhiên theo Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 và sửa đổi bổ sung năm 2004, hoạt động tín dụng của NHTM được hiểu một cách hẹp hơn, là việc NHTM sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng; trong đó cấp tín dụng là việc NHTM thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê và các nghiệp vụ khác. Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM. Chính vì thế hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu của NHTM tạo ra phần lớn lợi nhuận cho ngân hàng nhưng nó cũng chứa đựng nhiều rủi ro, đó là việc khách hàng nhận khoản vốn vay mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân hàng (khách hàng không trả, không trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi), gây tổn thất cho ngân hàng. 1.1.2. Các hình thức tín dụng NHTM Có nhiều căn cứ để phân loại tín dụng NHTM như: Căn cứ theo mục đích, tín dụng NHTM được phân thành: tín dụng sản xuất và tín dụng tiêu dùng. Căn cứ theo ngành kinh tế: tín dụng công nghiệp, tín dụng nông nghiệp và tín dụng dịch vụ. Căn cứ theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng: tín dụng có đảm bảo và tín dụng không có đảm bảo Căn cứ theo mức độ rủi ro: tín dụng có độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp. Căn cứ theo thời gian có: tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung và dài hạn. Căn cứ theo hình thức cấp tín dụng có: Cho vay, Chiết khấu, bảo lãnh và cho thuê. Bài viết này chỉ đi sâu phân loại tín dụng theo thời gian và theo hình thức cấp tín dụng qua đó có thể hiểu được những hình thức cơ bản của tín dụng NHTM. 1.1.2.1. Phân loại theo thời gian * Tín dụng ngắn hạn: Đây là loại tín dụng có thời hạn không quá 12 tháng, thường được sử dụng để tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp và hộ sản xuất. Cụ thể: Ngân hàng cho Nhà nước vay để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của Nhà nước dưới hình thức mua trái phiếu do Kho bạc phát hành. Với hình thức này rủi ro tín dụng ở mức thấp nhất. Ngân hàng cũng có thể cung cấp tín dụng ngắn hạn cho các tổ chức tài chính như các ngân hàng, công ty tài chính, các quỹ tín dụng …nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Rủi ro tín dụng trong trường hợp này cao hơn so với việc cho Nhà nước vay. Ngân hàng cấp tín dụng cho các doanh nghiệp, hộ sản xuất nhằm tài trợ nhu cầu vốn tăng thêm cho sản xuất kinh doanh. Do mức độ rủi ro đối với việc cấp tín dụng cho đối tượng này là cao hơn nên thông thường nếu muốn được vay vốn từ NHTM, các doanh nghiệp và hộ sản xuất đều phải làm đơn trình bày với ngân hàng về kế hoạch sử dụng tiền vay. Nếu để ý có thể thấy trên bảng cân đối kế toán của hầu hết các NHTM, khoản tín dụng ngắn hạn thường chiếm tỷ trọng cao hơn so với các khoản mục tài sản khác vì các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của khách hàng. * Tín dụng trung và dài hạn - Tín dụng trung hạn là loại tín dụng có thời hạn từ trên 12 tháng đến 60 tháng, thường được sử dụng để tài trợ cho các tài sản cố định như phương tiện vận tải, cây trồng, vật nuôi, máy móc thiết bị có thời gian sử dụng ngắn. - Tín dụng dài hạn có thời hạn trên 60 tháng, thường tài trợ cho các công trình xây dựng như nhà cửa, cầu đường, máy móc thiết bị có thời gian sử dụng dài và giá trị lớn. Ngân hàng cấp tín dụng trung và dài hạn thông qua việc mua trái phiếu trung và dài hạn do doanh nghiệp phát hành, cho vay theo dự án doanh nghiệp thực hiện, hoặc cho vay đối với người tiêu dùng. Tín dụng trung và dài hạn thường chiếm tỷ trọng thấp hơn so với tín dụng ngắn hạn. 1.1.2.2. Phân loại theo hình thức cấp tín dụng * Cho vay Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó ngân hàng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Tùy theo thỏa thuận với khách hàng mà ngân hàng áp dụng các phương thức cho vay khác nhau: - Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là phương thức cho vay mà ngân hàng thỏa thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của họ đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian nhất định mà vẫn phù hợp với các quy định của Chính phủ và NHNN về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Giới hạn nói trên được gọi là hạn mức thấu chi. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp với nhau về quy mô và thời gian. Do đó phương thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán: chủ động, nhanh, kịp thời, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo. - Cho vay từng lần: Đây là phương thức cho vay mà mỗi lần vay vốn, khách hàng và ngân hàng thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng. Như vậy từng khoản vay là một hợp đồng tín dụng và gắn với một phương án sử dụng vốn. Phương thức cho vay này phù hợp đối với những khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên, nguồn thu không ổn định hoặc không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng chủ yếu sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chính, chỉ khi có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất kinh doanh đặc biệt mới vay vốn từ ngân hàng, nguồn vốn này chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định trong chu kỳ sản xuất kinh doanh. Khi vay vốn theo hình thức này, khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay cho mỗi lần vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, lãi suất, tài sản đảm bảo (nếu cần), thời hạn giải ngân và thời hạn trả nợ. Hình thức cho vay này tương đối đơn giản, ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay vì mỗi món vay được tách biệt thành các hồ sơ khác nhau. - Cho vay theo hạn mức tín dụng: là phương thức cho vay, theo đó ngân hàng và khách hàng xác định và thỏa thuận một hạn mức tín dụng nhất định. Hạn mức này có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ, tương ứng với hạn mức trong kỳ và hạn mức cuối kỳ. Hạn mức tín dụng được cấp dựa trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Đối với hạn mức trong kỳ, khách hàng có thể vay trả nhiều lần trong kỳ nhưng mỗi lần dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Nếu là hạn mức cuối kỳ: trong kỳ, dư nợ có thể lớn hơn hạn mức song đến cuối kỳ khách hàng phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối kỳ không vượt quá hạn mức đã quy định. Hình thức cho vay theo hạn mức tín dụng phù hợp với những khách hàng có nhu cầu vay vốn lưu động thường xuyên, tình hình sản xuất kinh doanh ổn định, vòng quay vốn lưu động nhanh, quan hệ lâu dài và có uy tín với ngân hàng. Khác hẳn với hình thức cho vay từng lần, đối với hình thức này mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng vốn vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng, dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Nếu phương án sử dụng vốn vay hiệu quả và các chứng từ hợp pháp, hợp lệ ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng. - Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng mà ngân hàng và khách hàng thỏa thuận và xác định số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ làm nhiều lần trong thời hạn cho vay. Hình thức này phù hợp với những doanh nghiệp và người tiêu dùng có lợi nhuận và thu nhập đều đặn, ổn định vì đó chính là nguồn trả nợ chủ yếu hàng kỳ cho ngân hàng. Trong cho vay theo hình thức trả góp, khách hàng thường thế chấp bằng chính tài sản hình thành từ vốn vay (máy móc thiết bị, nhà cửa, hàng hóa…), rủi ro là rất lớn, do đó lãi suất cho vay trả góp thường cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng. - Cho vay theo dự án đầu tư: là việc ngân hàng cho khách hàng vay vốn nhằm hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp thực hiện đầu tư vào các dự án mới, các dự án nâng cấp, mở rộng sản xuất kinh doanh, giúp các doanh nghiệp thuận lợi trong việc triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ hoặc mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mình. Các dự án đầu tư thường có thời hạn dài, vì thế đây là hình thức tín dụng trung và dài hạn phù hợp cho các chủ đầu tư trong vay vốn thực hiện dự án. Để được vay vốn, một trong những yêu cầu quan trọng của ngân hàng là chủ đầu tư phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích của dự án, kế hoạch đầu tư cũng như quá trình thực hiện dự án. Từ đó ngân hàng tiến hành phân tích, thẩm định dự án về các yếu tố như: tài chính ,thị trường, nguồn nhân lực, công nghệ, ảnh hưởng của dự án đến các vấn đề xã hội…trong đó vấn đề được chú trọng nhất là phân tích tài chính dự án để đánh giá về mức độ hiệu quả của dự án, thời gian hoàn vốn, tỷ suất thu nhập bình quân… - Cho vay hợp vốn (cho vay đồng tài trợ): Đây là hình thức tín dụng mà nhiều ngân hàng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng. Khoản vay này thường được thu xếp bởi một ngân hàng có uy tín nhất trong tổ hợp các ngân hàng đồng tài trợ. Cho vay hợp vốn thường được các ngân hàng sử dụng trong trường hợp khách hàng vay với số tiền quá lớn vượt quá giới hạn cho vay đối với một khách hàng hoặc ngân hàng cho vay hợp vốn nhằm mục đích chia sẻ rủi ro với các ngân hàng khác. Với hình thức này khách hàng chỉ phải làm việc với ngân hàng thu xếp chính, thủ tục và quá trình vay thuận tiện, hiệu quả. - Cho vay luân chuyển: là hình thức cho vay dựa trên sự luân chuyển của hàng hóa. Khi doanh nghiệp thiếu vốn để mua hàng, ngân hàng có thể cho vay và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán được hàng. Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thỏa thuận trong một hoặc vài năm. Đó không phải là thời hạn hoàn trả như trong cho vay theo hạn mức tín dụng mà là thời hạn để ngân hàng xem xét có tiếp tục cho vay nữa hay không. Hình thức cho vay này phù hợp với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày và có quan hệ vay mượn thường xuyên với ngân hàng. Khi vay theo hình thức luân chuyển, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hóa đơn nhập hàng và yêu cầu số tiền cần vay. Chính giá trị hàng hóa mua vào là đối tượng được ngân hàng cho vay và thu nhập bán hàng là nguồn chi trả cho khoản vay này. - Cho vay gián tiếp: là hình thức cho vay của ngân hàng thông qua các tổ chức trung gian như: Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ…thường xuất phát từ mục đích hỗ trợ nhau phát triển kinh tế, làm giàu và xóa đói giảm nghèo. Trong quá trình cho vay theo hình thức gián tiếp, ngân hàng có thể chuyển một vài khâu sang các tổ chức trung gian như thu nợ, phát tiền vay…Tổ chức trung gian hoặc các thành viên trong nhóm có thể đứng ra bảo lãnh cho các thành viên vay, rất thuận tiện cho người vay khi họ không có hoặc không đủ tài sản thế chấp. Ngân hàng thường áp dụng hình thức cho vay gián tiếp đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, các đối tượng vay phân tán, ở cách xa ngân hàng, ngân hàng khó có thể quản lý, kiểm soát và thu nợ được. Như vậy việc cho vay qua các tổ chức trung gian nhằm giảm bớt rủi ro và tiết kiệm chi phí cho ngân hàng. * Chiết khấu giấy tờ có giá Chiết khấu là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng mua lại các GTCG (thương phiếu, tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc…) với thời hạn thanh toán xác định của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán với số tiền bằng mệnh giá ghi trên GTCG sau khi trừ đi số tiền chiết khấu và lệ phí chiết khấu (nếu có). Đến hạn thanh toán GTCG ngân hàng đòi tiền của chủ thể phát hành GTCG đó. Trường hợp giấy tờ có giá là thương phiếu có kí hậu, nếu người mua không trả ngân hàng có quyền đòi tiền của các bên kí tên trên thương phiếu. Đối với nghiệp vụ chiết khấu, ngân hàng thường kí với khách hàng hợp đồng chiết khấu trong đó quy định về lãi suất chiết khấu, hình thức chiết khấu, hạn mức chiết khấu…Lãi suất chiết khấu là lãi suất áp dụng để tính số tiền thanh toán khi thực hiện chiết khấu GTCG. Số tiền thanh toán = Mệnh giá GTCG – số tiền chiết khấu – lệ phí chiết khấu Trong đó: Số tiền chiết khấu = Mệnh giá GTCG x lãi suất chiết khấu x thời hạn còn lại GTCG Có hai hình thức chiết khấu, đó là: - Chiết khấu toàn bộ thời gian còn lại của GTCG: với hình thức này ngân hàng mua hẳn GTCG của khách hàng theo giá chiết khấu và khách hàng chuyển ngay quyền sở hữu GTCG đó cho ngân hàng. Khi đến hạn thanh toán, ngân hàng xuất trình GTCG để thanh toán với tổ chức phát hành. - Chiết khấu có kỳ hạn: Ngân hàng không mua hẳn GTCG mà yêu cầu khách hàng cam kết mua lại toàn bộ GTCG sau một thời gian nhất định. Nếu hết thời hạn chiết khấu mà khách hàng không thực hiện việc mua lại GTCG đó thì ngân hàng là chủ sở hữu hợp pháp và được hưởng toàn bộ quyền lợi phát sinh từ GTCG đó. * Bảo lãnh Bảo lãnh của NHTM là cam kết bằng văn bản của ngân hàng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ như cam kết với bên nhận bảo lãnh; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho ngân hàng số tiền đã được trả thay. Bảo lãnh là một hình thức tài trợ thông qua uy tín. Ngân hàng không phải xuất tiền ngay khi thực hiện bảo lãnh, do đó bảo lãnh được coi như tài sản ngoại bảng. Tuy nhiên nếu khách hàng không thực hiện đúng cam kết, ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ chi trả cho bên thứ ba. Lúc này khoản chi trả được xếp vào loại tài sản xấu trong nội bảng, cấu thành nợ quá hạn. Để được cấp bảo lãnh khách hàng phải làm đơn xin được bảo lãnh gửi ngân hàng, ghi rõ số tiền và điều kiện bảo lãnh. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng, hợp đồng kinh tế giữa khách hàng và bên thứ ba, yêu cầu bảo lãnh của bên thứ ba. Sau đó ngân hàng và khách hàng sẽ kí kết hợp đồng bảo lãnh thể hiện sự ràng buộc tài chính giữa ngân hàng với bên thứ ba. Hợp đồng này hoàn toàn độc lập với hợp đồng kinh tế. Có các loại bảo lãnh: - Bảo lãnh vay vốn: là cam kết của ngân hàng với bên nhận bảo lãnh, về việc sẽ trả nợ thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả hoặc không trả đầy đủ, đúng hạn nợ vay đối với bên nhận bảo lãnh. - Bảo lãnh thanh toán: là cam kết của ngân hàng với bên nhận bảo lãnh, về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thanh toán của mình khi đến hạn. - Bảo lãnh dự thầu: là cam kết của ngân hàng với bên mời thầu, để bảo đảm nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trường hợp, khách hàng phải nộp phạt do vi phạm quy định đấu thầu mà không nộp hoặc không nộp đầy đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì ngân hàng sẽ thực hiện thay. - Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là cam kết của ngân hàng với bên nhận bảo lãnh, bảo đảm việc thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng và phải bồi thường cho bên nhận bảo lãnh mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì ngân hàng sẽ thực hiện thay. - Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm: là cam kết của ngân hàng với bên nhận bảo lãnh, bảo đảm việc khách hàng thực hiện đúng các thoả thuận về chất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm chất lượng sản phẩm và phải bồi thường cho bên nhận bảo lãnh mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì ngân hàng sẽ thực hiện thay. - Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước: là cam kết của ngân hàng với bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng và phải hoàn trả tiền ứng trước mà không hoàn trả hoặc hoàn trả không đầy đủ thì ngân hàng sẽ thực hiện thay. Bảo lãnh của ngân hàng tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro. Trách nhiệm tài chính trước hết thuộc về khách hàng, sau đó mới đến trách nhiệm của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ đối với bên thứ ba. Do mối liên hệ giữa khách hàng với ngân hàng có khả năng ràng buộc khách hàng phải thực hiện các cam kết nên bảo lãnh cũng góp phần giảm bớt thiệt hại tài chính cho bên thứ ba khi tổn thất xảy ra. * Cho thuê tài sản Cho thuê tài sản là hình thức tín dụng dựa trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê là ngân hàng với khách hàng thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng. Khách hàng thuê thường là các doanh nghiệp sản xuất, đặc biệt các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhu cầu sử dụng máy móc, thiết bị có giá trị lớn với thời gian sử dụng ngắn hơn thời gian khấu hao của tài sản nhưng không đủ tiền mua. Loại này có lợi thế là bên thuê không cần bỏ toàn bộ số tiền ra một lúc để có máy móc thiết bị, đồng thời cũng không cần phải thế chấp tài sản như trong các giao dịch vay vốn khác, bên thuê không phải chịu những rủi ro do sự mất mát của tài sản, hao mòn tự nhiên… Có hai hình thức cho thuê tài sản, đó là: - Cho thuê nghiệp vụ (cho thuê vận hành): là hình thức cho thuê tài sản, theo đó bên thuê sử dụng tài sản cho thuê của bên cho thuê trong một thời gian nhất định và sẽ hoàn trả lại tài sản đó cho bên cho thuê khi kết thúc thời hạn thuê tài sản. Bên cho thuê giữ quyền sở hữu tài sản cho thuê và nhận tiền cho thuê theo hợp đồng. - Cho thuê tài chính (thuê mua): cũng giống như cho thuê nghiệp vụ, bên thuê sử dụng tài sản cho thuê của bên cho thuê trong một thời gian nhất định, nhưng khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê sẽ mua lại tài sản đó. Đối với hình thức cho thuê tài sản, dựa trên yêu cầu thuê tài sản của khách hàng, ngân hàng sẽ tiến hành phân tích dự án và tình hình tài chính của khách hàng, sau đó sẽ xuất tiền để mua tài sản cho khách hàng thuê. Xét dưới hình thức cấp vốn, cho thuê tài sản là một hoạt động tín dụng trung hạn, dài hạn vì tài sản cho thuê thường là tài sản cố định. Thời hạn cho thuê gồm có hai phần: thời hạn cơ bản và thời hạn gia hạn thêm. Trong đó thời hạn cơ bản là thời hạn người đi thuê không được phép hủy hợp đồng, thời hạn gia hạn thêm là thời hạn ngân hàng có thể cho người đi thuê tiếp tục thuê, mua lại hoặc trả lại tài sản đó. Trong quá trình thuê, ngân hàng không chịu trách nhiệm về bảo dưỡng tài sản và những thiệt hại đối với tài sản cho thuê. Cho thuê tài sản là giai đoạn phát triển cao của tín dụng thuê mua. Với những ưu thế nổi bật như hạn chế rủi ro, tiết kiệm chi phí, thủ tục đơn giản, không phải thế chấp…cho thuê tài sản ngày nay đang là một loại hình kinh doanh dịch vụ được ưa chuộng trên thế giới, nhất là ở các nước phát triển. 1.2. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG DNNN 1.2.1. Khái niệm Trong hầu hết các NHTM, tín dụng là hoạt động chủ yếu và mang lại lợi nhuận cao, đặc biệt là tín dụng đối với các DNNN. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng không phải tất cả các ngân hàng đều thực hiện tốt hoạt động tín dụng của mình. Một số ngân hàng gặp khó khăn trong vấn đề quản lý, thu hồi nợ, số khác lại gặp khó khăn trong tìm kiếm dự án thích hợp để cho vay hay gặp phải các rào cản trong các quy định của Ngân hàng Nhà nước…Như vậy chất lượng tín dụng của NHTM là gì và như thế nào mới được coi là hoạt động tín dụng có chất lượng? Chất lượng tín dụng hay hiệu quả tín dụng là thuật ngữ có phần mang tính trừu tượng, nó phản ánh kết quả, lợi ích mà khoản tín dụng mang lại. Chất lượng tín dụng cao hay thấp, tốt hay xấu không chỉ được đánh giá đơn thuần qua lợi ích nó mang lại cho bản thân các NHTM mà còn phải nhìn nhận từ phía các doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Đối với NHTM, chất lượng tín dụng được cấu thành bởi hai yếu tố: mức độ an toàn và khả năng sinh lời của ngân hàng do khoản tín dụng mang lại. Còn đối với doanh nghiệp, cụ thể DNNN, chất lượng tín dụng thể hiện ở việc doanh nghiệp đó sử dụng khoản tín dụng để đầu tư vào dự án, sản xuất kinh doanh và có được một khoản thu nhập giúp doanh nghiệp tái đầu tư, tái sản xuất, mở rộng hoạt động sản xuất. Đối với nền kinh tế, một khoản tín dụng có chất lượng sẽ góp phần thực hiện các mục tiêu của Nhà nước như cân bằng kinh tế giữa các vùng, miền, các thành phần trong xã hội, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người dân… Tóm lại chất lượng tín dụng DNNN là sự đáp ứng nhu cầu tín dụng hợp lý của các DNNN, đồng thời đảm bảo tính an toàn và sinh lợi cho ngân hàng và nhu cầu tín dụng đó phải phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội. 1.2.2. Các chỉ tiêu biểu hiện chất lượng tín dụng DNNN Chất lượng tín dụng là yếu tố tiên quyết đối với sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng. Vì vậy cần đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng để từ đó có các giải pháp thích hợp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng. Tuy nhiên chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu vừa mang tính định lượng, vừa mang tính định tính. Với những chỉ tiêu định lượng việc xác định tương đối dễ, song với chỉ tiêu định tính việc đánh giá là hết sức khó khăn. 1.2.2.1. Chỉ tiêu định tính + Đối với một ngân hàng, khả năng thu hút khách hàng thể hiện qua uy tín, kết quả hoạt động và chất lượng các dịch vụ đi kèm như tư vấn, môi giới…Với việc thu hút được nhiều khách hàng cũng đồng nghĩa với việc ngân hàng đáp ứng được nhiều nhu cầu hợp lý của khách hàng, từ đó nâng cao chất lượng tín dụng. + Việc các ngân hàng tuân thủ các quy định do NHNN đề ra trong lĩnh vực tín dụng cũng chính là sự tuân thủ luật pháp, góp phần ổn định và tăng trưởng kinh tế, tăng chất lượng tín dụng cho ngân hàng. + Hoạt động tín dụng của ngân hàng góp phần vào việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đáp ứng nhu cầu vốn cho các ngành kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Như vậy xét về mặt đóng góp cho xã hội thì đó là chất lượng lượng tín dụng của ngân hàng. 1.2.2.2. Chỉ tiêu định lượng Có nhiều chỉ tiêu định lượng để đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng như: nợ quá hạn, doanh số cho vay, dư nợ cho vay, doanh số thu nợ, vòng quay vốn, tỷ lệ lợi nhuận…Việc phân nhóm các chỉ tiêu sau đây chỉ mang tính chất tương đối. * Nhóm chỉ tiêu về quy mô tín dụng DNNN - Doanh số cho vay DNNN: Đây chính là tổng lượng vốn mà ngân hàng đã cho DNNN vay theo hợp đồng tín dụng đã ký, không kể khoản cho vay đó đã thu hồi về hay chưa. Doanh số cho vay thường được xác định theo tháng, quý, năm. Doanh số cho vay lớn thể hiện quy mô tín dụng lớn. Sự tăng trưởng về doanh số cho vay DNNN thể hiện ở tốc độ tăng doanh số cho vay DNNN của ngân hàng qua các năm và doanh số cho vay DNNN của ngân hàng so với doanh số cho vay DNNN bình quân trong hệ thống các NHTM. - Dư nợ cho vay DNNN: là chỉ tiêu phản ánh tại một thời điểm xác định nào đó ngân hàng hiện còn cho vay đối với các DNNN là bao nhiêu; đây cũng là khoản ngân hàng cần phải thu về. Khác với doanh số cho vay là chỉ tiêu thời kỳ (thường là 1 năm) thì dư nợ cho vay là chỉ tiêu mang tính chất thời điểm (thường tính vào thời điểm cuối năm). - Doanh số thu nợ DNNN: là tổng các món nợ mà ngân hàng đã thu về từ các khoản cho vay của ngân hàng đối với các DNNN kể cả năm nay và những năm trước đó. Có nghĩa là doanh số thu nợ này không chỉ gồm nợ thu được từ các khoản cho vay DNNN trong năm mà còn có các khoản thu nợ quá hạn, nợ khó đòi các DNNN tưởng như khó có thể thu được ở những năm trước đó. Chỉ tiêu này rất được các ngân hàng chú ý bởi nó nói lên lợi nhuận thực mà ngân hàng đã thu được từ các khoản tín dụng đã cấp cho DNNN. Sự tăng trưởng doanh số thu nợ luôn là mục tiêu của mọi ngân hàng. Để phân biệt một cách rõ ràng hơn 3 chỉ tiêu nói trên, ta có ví dụ sau: Dư nợ cho vay Công ty điện lực Hà Nội ngày 31/12/2006 là 200 triệu đồng. Ngày 1/1/2007, Ngân hàng A cho Công ty điện lực Hà Nội vay số tiền 7 tỷ đồng. Đến 20/10/2007, Công ty điện lực Hà Nội trả nợ cho Ngân hàng 2 tỷ đồng và 100 triệu đồng nợ quá hạn năm 2006 của Công ty. Ngày 30/10, Công ty tiếp tục vay Ngân hàng A số tiền 4 tỷ đồng và trả 1 tỷ vào ngày cuối năm 2007. Như vậy ta có: Doanh số cho vay năm 2007 của Ngân hàng A đối với Công ty điện lực Hà Nội : 7 + 4 = 11 tỷ đồng Dư nợ cho vay của Ngân hàng A đối với Công ty điện lực Hà Nội đến thời điểm cuối năm 2007 : 0.2 + 7 – 2 – 0.1 + 4 – 1 = 8.1 tỷ đồng Doanh số thu nợ của Ngân hàng A đối với Công ty điện lực Hà Nội năm 2007 : 2 + 0.1 + 1 = 3.1 tỷ đồng. Xem xét các chỉ tiêu tăng trưởng trên với chính sách tín dụng đối với DNNN của ngân hàng trong từng thời kỳ, ta có thể đánh giá được hoạt động tín dụng đối với các DNNN có theo đúng quy định và mục tiêu mà ngân hàng đề ra hay không. * Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tín dụng DNNN - Tỷ trọng doanh số cho vay DNNN Doanh số cho vay DNNN được so sánh với doanh số cho vay của cả ngân hàng qua các năm tương ứng. Từ chỉ tiêu này ta biết được quy mô tín dụng ngân hàng cấp cho các DNNN so với các DNNQD là bao nhiêu phần trăm. Tỷ trọng doanh số CV DNNN = Doanh số CV DNNN Doanh số cho vay của NH - Tỷ trọng dư nợ cho vay DNNN Chỉ tiêu này phản ánh quy mô tín dụng ngân hàng cấp cho các DNNN, đồng thời phản ánh mức độ ảnh hưởng của hoạt động tín dụng đối với DNNN đến hoạt động tín dụng chung của ngân hàng. Tỷ trọng dư nợ CV DNNN = Dư nợ CV DNNN Dư nợ cho vay của NH - Hệ số thu nợ DNNN: Hệ số thu nợ DNNN = Doanh số thu nợ DNNN Doanh số cho vay DNNN Bên cạnh chỉ tiêu doanh số thu nợ DNNN, cũng cần chú ý đến chỉ tiêu hệ số thu nợ bởi nó phản ánh tình hình thu nợ DNNN trong tổng số đã cho vay. Tuy nhiên chỉ tiêu này cũng mang tính tương đối vì doanh số thu nợ bao gồm cả nợ quá hạn, nợ khó đòi ở những năm trước đó. * Nhóm chỉ tiêu về an toàn sử dụng vốn - Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn DNNN Nợ quá hạn là chỉ tiêu phản ánh các khoản nợ khi đến hạn mà khách hàng không trả được mà không có lý do chính đáng thì ngân hàng sẽ chuyển từ tài khoản dư nợ sang tài khoản quản lý khác gọi là nợ quá hạn. Có nhiều nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn. Đó có thể là do năng lực yếu kém của doanh nghiệp đi vay, sự chiếm dụng vốn và rủi ro gián tiếp, thiếu vốn do đầu tư quá dàn trải, do sự biến động và sức ép của thị trường, bên nợ thua lỗ mất khả năng thanh toán…Dù phát sinh từ bất kỳ nguyên nhân nào cũng đều ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của ngân hàng. Thông thường ngân hàng sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn để đánh giá chất lượng tín dụng. Trên thực tế một ngân hàng có nợ quá hạn năm sau giảm hơn so với năm trước chưa hẳn chất lượng tín dụng đã tốt hơn mà nó còn phụ thuộc vào dư nợ cho vay. Nếu dư nợ cho vay năm sau cũng giảm thì chất lượng tín dụng của ngân hàng chưa hẳn tốt hơn. Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn DNNN cho biết nợ quá hạn DNNN chiếm bao nhiêm phần trăm trong tổng dư nợ cho vay DNNN. Tỷ lệ nợ quá hạn DNNN = Dư nợ quá hạn DNNN cuối kỳ Tổng Dư nợ C._.V DNNN cuối kỳ Trong đó Nợ quá hạn DNNN cuối kỳ được xác định theo phân loại nợ do NHNN quy định (Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN và Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN bổ sung Quyết định 493 về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro), ngoại trừ các khoản nợ khoanh theo quyết định của Chính phủ và nợ tồn đọng cũ được xử lý theo Quyết định số 149/2001/QĐ-TTg ngày 6/5/2001 của Thủ tướng Chính phủ. Theo Thông tư của Bộ Tài chính số 49/2004/TT-BTC hướng dẫn chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tài chính của tổ chức tín dụng, Ngân hàng được xếp loại về an toàn sử dụng vốn như sau: Loại A: Tỷ lệ nợ quá hạn =< 5% Loại B: 5%<= Tỷ lệ nợ quá hạn < 8% Loại C: Tỷ lệ nợ quá hạn >= 8% Như vậy có thể thấy tỷ lệ nợ quá hạn thực sự là chỉ tiêu quan trọng phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng. - Tỷ lệ dư nợ cho vay DNNN có tài sản đảm bảo Tỷ lệ dư nợ CV DNNN có TSĐB = Dư nợ CV DNNN có TSĐB Tổng Dư nợ CV DNNN Chất lượng tín dụng ngân hàng nói chung và chất lượng tín dụng đối với các DNNN nói riêng không chỉ phụ thuộc vào khả năng đảm bảo bằng tài sản mà chủ yếu phụ thuộc vào hiệu quả của dự án. Tuy nhiên tỷ lệ dư nợ cho vay DNNN có tài sản đảm bảo cũng là một chỉ tiêu cần thiết khi đánh giá chất lượng tín dụng của NHTM đối với các DNNN. * Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời - Vòng quay vốn tín dụng đối với DNNN: Vòng quay vốn tín dụng DNNN = Doanh số thu nợ DNNN Tổng Dư nợ CV DNNN Chỉ tiêu này đánh giá tần suất sử dụng vốn của ngân hàng trong một thời kỳ. Vòng quay vốn tín dụng càng lớn thể hiện nguồn vốn ngân hàng lưu chuyển nhanh, tham gia nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh hàng hóa. Cùng một lượng vốn cung cấp cho nền kinh tế, nếu tốc độ vòng quay vốn tín dụng DNNN nhanh thì ngân hàng có thể đáp ứng nhiều hơn nhu cầu về vốn cho DNNN. - Tỷ lệ lợi nhuận tín dụng DNNN Tỷ lệ lợi nhuận tín dụng DNNN = Lợi nhuận tín dụng DNNN Tổng lợi nhuận từ tín dụng Tỷ lệ này cho biết trong tổng lợi nhuận ngân hàng thu được từ hoạt động tín dụng có bao nhiêu phần lợi nhuận thu được từ tín dụng DNNN. Đây cũng là chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng đối với các DNNN. Qua đó ta biết được phần lợi nhuận ngân hàng thu về từ việc cho vay các DNNN. Mỗi một chỉ tiêu đều phản ánh một khía cạnh, một góc độ riêng đối với hoạt động tín dụng và chúng có quan hệ qua lại với nhau. Vì vậy để đánh giá toàn diện chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng đối với các DNNN thì cần phải đánh giá trên tất cả các chỉ tiêu đó. 1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng DNNN 1.2.3.1. Các nhân tố xuất phát từ phía ngân hàng Đứng trên góc độ của ngân hàng thì đây là những nhân tố mang tính chủ quan ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng DNNN. Những nhân tố này rất được ngân hàng quan tâm vì nó có thể điều chỉnh và khắc phục được mà không gặp trở ngại nào từ bên ngoài. Bao gồm: Thứ nhất: Chính sách tín dụng Hoạt động tín dụng của mỗi ngân hàng đều căn cứ, tuân thủ và xuất phát từ chính sách tín dụng của ngân hàng. Chính sách tín dụng có thể coi như một cương lĩnh tài trợ của NHTM và có vai trò quan trọng quyết định đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nó bao gồm các quan điểm, chủ trương, định hướng, quy định chỉ đạo hoạt động tín dụng và đầu tư của các NHTM. Chính sách tín dụng tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng, tạo đường lối hướng dẫn cho cán bộ tín dụng thực hiện nghiệp vụ của mình. Nếu như chính sách tín dụng là đúng đắn, hợp lý và linh hoạt, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng về vốn thì ngân hàng đó sẽ thành công trong việc thực hiện mục tiêu mở rộng tín dụng và đảm bảo chất lượng tín dụng. Còn ngược lại một chính sách tín dụng cứng nhắc và không hợp lý sẽ khiến ngân hàng không thực hiện được mục tiêu của mình. Như vậy để đảm bảo mục tiêu nâng cao hiệu quả, kiểm soát rủi ro và phát triển bền vững hoạt động tín dụng nhất thiết phải xây dựng một chính sách tín dụng nhất quán, hợp lý, thích ứng với môi trường kinh doanh, phù hợp với đặc điểm của NHTM, phát huy các thế mạnh, khắc phục và hạn chế các điểm yếu nhằm mục tiêu an toàn và sinh lợi. Trong giai đoạn bắt đầu thực hiện các cam kết mở cửa thị trường nói chung và ngân hàng nói riêng, trước sự cạnh tranh của các đối thủ ngân hàng nước ngoài, nguy cơ thị phần tín dụng của các NHTM Việt Nam bị co hẹp ngày càng một gần hơn thì việc nâng cao chất lượng tín dụng đảm bảo an toàn, phát triển cần bắt đầu ngay từ việc cải cách chính sách tín dụng. Hiện tại các ngân hàng đã bước đầu xây dựng chính sách tín dụng nhưng vẫn chưa phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế; chưa thực sự phát huy hiệu quả quản lý ở trụ sở chính và thực thi thông suốt ở các đơn vị chi nhánh và ở mỗi cán bộ tín dụng. Ví dụ như: việc xác định khách hàng chiến lược, ngành hàng chiến lược vẫn còn lúng túng; tăng trưởng tín dụng chưa đi kèm với quản lý rủi ro tín dụng; chính sách lãi suất cho vay còn cứng nhắc… Thứ hai: Quy trình cấp tín dụng Quy trình tín dụng quy định từng bước cần thiết phải thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ, đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Quy trình tín dụng là một yếu tố hết sức quan trọng để thực thi chính sách tín dụng tại một NHTM. Các bước cơ bản của quy trình cấp tín dụng như sau: Bước 1: Hướng dẫn, tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ vay vốn Bước 2: Thẩm định khách hàng vay vốn, dự án đầu tư, biện pháp bảo đảm tiền vay. Bước 3: Xét duyệt khoản tín dụng và quyết định cấp tín dụng Bước 4: Ký hợp đồng tín dụng và giải ngân Bước 5: Quản lý tín dụng được cấp Quy trình cấp tín dụng của ngân hàng cũng có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Việc tuân thủ đúng quy trình cấp tín dụng giúp cho cán bộ tín dụng làm việc một cách hiệu quả hơn, từ đó đảm bảo chất lượng tín dụng tốt hơn. Nếu quy trình tín dụng được quy định một cách chung chung, không rõ ràng, không phân định trách nhiệm cụ thể cho từng cán bộ ở từng bước của quy trình thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện công việc cũng như khi xác định trách nhiệm đối với mỗi cán bộ, từ đó làm giảm chất lượng tín dụng của ngân hàng. Hoặc nếu quy trình tín dụng quá dài, phức tạp và mang tính cứng nhắc sẽ làm cho khách hàng cảm thấy việc vay vốn của ngân hàng là hết sức khó khăn, mất nhiều thời gian. Do đó việc lập ra một quy trình tín dụng sao cho phù hợp, vừa đảm bảo lợi ích cho cả khách hàng lẫn ngân hàng là vấn đề rất quan trọng góp phần nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng. Thứ ba: Các dịch vụ đi kèm với hoạt động tín dụng Hoạt động tín dụng của ngân hàng hiện nay nếu đơn thuần chỉ là việc cung cấp tín dụng cho khách hàng thì sẽ không đủ sức cạnh tranh với các ngân hàng khác, đặc biệt là các ngân hàng nước ngoài. Vai trò của các dịch vụ đi kèm hoạt động tín dụng ngày càng được khẳng định. Với các dịch vụ như: dịch vụ ngân hàng điện tử, dịch vụ tư vấn, hỗ trợ sẽ giúp các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả hơn, góp phần vào việc nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng. Thứ tư: Hệ thống thông tin phục vụ hoạt động tín dụng Hệ thống thông tin đóng vai trò rất quan trọng trong hầu hết các hoạt động của ngân hàng, trong đó có hoạt động tín dụng. Đối với hoạt động tín dụng, việc nắm bắt thông tin một cách kịp thời, chính xác hỗ trợ cán bộ tín dụng rất nhiều trong công tác phân tích khách hàng, tình hình tài chính của khách hàng, cũng như tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh họ để từ đó có các giải pháp kịp thời nhằm hạn chế những rủi ro. Ví dụ như một khách hàng đang sử dụng nguồn vốn vay của ngân hàng, nhưng hoạt động sản xuất kinh doanh của họ có dấu hiệu bị ngưng trệ, sản phẩm không bán được trên thị trường khiến lợi nhuận giảm sút nghiêm trọng. Như vậy nếu ngân hàng không có được những thông tin trên mà vẫn tiếp tục cho khách hàng đó vay thì rủi ro ngân hàng phải gánh chịu sẽ rất lớn vì khả năng trả nợ của khách hàng đã giảm sút. Khoản cho vay không thu hồi được nợ sẽ khiến cho chất lượng tín dụng của ngân hàng xấu đi. Chính vì vậy để hoạt động tín dụng ngày càng được mở rộng với chất lượng ngày càng cao, hiệu quả lớn buộc ngân hàng phải nắm bắt được những thông tin chính xác về khách hàng vay vốn, đó là những thông tin về tư cách, uy tín, năng lực sản xuất kinh doanh của khách hàng, xu hướng phát triển và khả năng cạnh tranh của ngành nghề, kết quả kinh doanh trong quá khứ, các công nợ của khách hàng, nhu cầu vốn hợp lý, tài sản thế chấp… Trên thực tế ở Việt Nam việc tìm kiếm thông tin một cách kịp thời, chính xác là hết sức khó khăn vì thông tin của các doanh nghiệp hầu như chưa được công khai, một mặt họ lo ngại các đối thủ cạnh tranh, mặt khác họ chưa đủ khả năng về năng lực của mình. Các NHTM có thể tự tìm kiếm thông tin về khách hàng hoặc mua thông tin qua các trung tâm thông tin có uy tín. Hiện nay NHNN đã có một trung tâm thông tin quản lý toàn bộ dữ liệu khách hàng của tất cả các NHTM thành viên. Vì vậy trong trường hợp cần thiết các ngân hàng có thể yêu cầu được xem thông tin về khách hàng của mình ở các ngân hàng khác như tình hình vay, trả nợ. Thứ năm: Chất lượng cán bộ tín dụng Yếu tố con người luôn là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự thành bại của bất cứ một hoạt động nào trên mọi lĩnh vực. Đối với hoạt động tín dụng thì yếu tố con người lại càng đóng một vai trò quan trọng, nó quyết định đến chất lượng tín dụng, chất lượng dịch vụ, hình ảnh của NHTM và từ đó quyết định đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Về mặt định tính, chất lượng cán bộ tín dụng thể hiện ở bản lĩnh kinh doanh, bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, thái độ phục vụ tận tình, chu đáo. Xét về mặt định lượng, chất lượng cán bộ tín dụng thể hiện ở trình độ học vấn, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, khả năng giao tiếp với khách hàng, tiếp thị thu hút khách hàng và khả năng điều tra, thu thập, liên kết và xử lý thông tin. Thứ sáu: Cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ hoạt động tín dụng Cơ sở vật chất cũng đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định chất lượng tín dụng của ngân hàng. Việc trang bị đầy đủ các thiết bị tiên tiến, phù hợp với phạm vi và quy mô hoạt động, phục vụ kịp thời yêu cầu của khách hàng sẽ giúp ngân hàng tăng khả năng cạnh tranh và thu hút ngày càng nhiều khách hàng hơn. Thứ bảy: Công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ Đây là biện pháp hữu hiệu giúp Ban lãnh đạo ngân hàng kịp thời phát hiện, chỉnh sửa những sai sót ở tất cả các mặt nghiệp vụ, đồng thời có được những thông tin về tình hình kinh doanh nhằm duy trì có hiệu quả các hoạt động kinh doanh của ngân hàng đang được xúc tiến phù hợp với các chính sách, thực hiện thành công mục đích đã định. 1.2.3.2. Các nhân tố xuất phát từ phía DNNN Trong những năm qua, DNNN đã góp phần chủ yếu để nền kinh tế Nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, chi phối được các ngành, các lĩnh vực, sản phẩm then chốt của nền kinh tế. Đây cũng là lực lượng nòng cốt trong tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu, bảo đảm các sản phẩm quan trọng của nền kinh tế và đóng góp ngân sách Nhà nước, đảm bảo các cân đối lớn và ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường đang hội nhập, DNNN ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Hoạt động của các DNNN chưa đạt hiệu quả, khả năng tạo ra lợi nhuận kém, hàng tồn kho tiêu thụ chậm, công nợ chưa thanh toán được...Tuy nhiên các DNNN luôn có nhu cầu vay vốn và tìm mọi cách để có được nguồn vốn từ ngân hàng. Do đó nhiều DNNN đã sử dụng các biện pháp tiêu cực như làm giả các báo cáo tài chính, không cung cấp đầy đủ và trung thực các thông tin cần thiết cho ngân hàng, sử dụng vốn vay sai mục đích, cố tình lừa đảo chiếm dụng vốn của ngân hàng…Tất cả những điều trên đều làm tăng rủi ro cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. Mặt khác phần lớn hiện nay, các DNNN vay ngân hàng đều không có tài sản đảm bảo, thường dưới hình thức tín chấp. Do đó khi DNNN không trả được nợ hoặc trả nợ không đầy đủ thì ngân hàng sẽ không có tài sản đảm bảo để phát mại bù đắp rủi ro xảy ra. Chính vì thế tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của chính các DNNN có ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. 1.2.3.3. Các nhân tố xuất phát từ môi trường vĩ mô Chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp nói chung và DNNN nói riêng không chỉ chịu tác động bởi các nhân tố chủ quan từ chính các NHTM, các nhân tố từ các DNNN mà còn chịu tác động bởi các nhân tố khách quan từ môi trường vĩ mô. Đầu tiên phải nói đến là sự tác động của môi trường pháp lý đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, mọi thành phần kinh tế đều có quyền tự chủ về hoạt động sản xuất, kinh doanh nhưng phải đảm bảo trong khuôn khổ pháp luật. Hoạt động của ngân hàng và hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN cũng vậy, đều phải tuân thủ các quy định chung của Nhà nước và những quy định riêng đối với mỗi loại hình doanh nghiệp. Hoạt động tín dụng của ngân hàng chịu sự ràng buộc bởi Luật chung của Nhà nước như Bộ Luật dân sự, Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật phá sản, Luật cạnh tranh…, Luật riêng trong lĩnh vực ngân hàng là Luật NHNN, Luật các TCTD và các văn bản pháp lý khác do NHNN, ngân hàng “mẹ” ban hành. Đối với các DNNN cũng chịu sự ràng buộc bởi các Luật chung của doanh nghiệp và Luật riêng như Luật DNNN. Một môi trường pháp lý lành mạnh, ổn định, chặt chẽ và thuận lợi là điều kiện đảm bảo hoạt động của cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp ổn định, phát triển. Nếu có sự thay đổi bất lợi trong các quy định của pháp luật hay những quy định đó không rõ ràng, không đồng bộ, không đầy đủ, không kịp thời, liên tục thay đổi và có nhiều kẽ hở thì đều có thể gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và ngân hàng, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng như việc gia tăng đột ngột các khoản nợ quá hạn, sự giảm sút về dư nợ cho vay… Môi trường kinh tế cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng của ngân hàng. Hoạt động của NHTM liên quan hầu hết đến các hoạt động trong nền kinh tế vì khách hàng quan hệ với ngân hàng là vô cùng đa dạng. Chính vì thế một sự biến động của nền kinh tế cũng có thể trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng nói chung và chất lượng tín dụng DNNN của ngân hàng nói riêng. Với một môi trường kinh tế ổn định và phát triển sẽ thu hút các nhà đầu tư, nhu cầu vay vốn mở rộng sản xuất của doanh nghiệp tăng lên, từ đó hoạt động tín dụng của NHTM cũng có cơ hội phát triển. Ngược lại môi trường kinh tế không ổn định và có xu hướng ngưng trệ hoặc suy thoái sẽ kéo theo hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bị thu hẹp hơn, nhu cầu vốn ít hơn và hoạt động tín dụng của NHTM giảm sút. Đặc biệt đối với các DNNN đã vay vốn của ngân hàng, nếu không có kế hoạch kịp thời khi gặp phải môi trường kinh doanh bất lợi thì dễ rơi vào tình trạng không trả nợ được cho ngân hàng, thậm chí phải giải thể, phá sản. Điều này ảnh hưởng mạnh mẽ đến chất lượng tín dụng của NHTM. Nhân tố cuối cùng đó là môi trường xã hội. Một môi trường xã hội tốt thể hiện ở tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội được đảm bảo, người dân có trình độ hiểu biết cao, mối quan hệ gắn bó và tin tưởng trong cộng đồng… Thật vậy, nếu nơi ngân hàng hoạt động có tình hình an ninh trật tự không được đảm bảo, mức độ an toàn kém sẽ hạn chế thu hút khách hàng vì khách hàng gửi tiền ở ngân hàng ngoài mục đích sinh lời còn nhằm mục đích đảm bảo an toàn cho khoản tiền của họ. Khả năng huy động vốn giảm do đó lượng cho vay cũng giảm, không đáp ứng đủ nhu cầu tín dụng, từ đó làm giảm chất lượng tín dụng. Đây là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp lên CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNNN TẠI CHI NHÁNH NHCT HOÀN KIẾM 2.1. TỔNG QUAN VỀ CHI NHÁNH NHCT HOÀN KIẾM 2.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm là một chi nhánh của Ngân hàng Công thương Việt Nam, có trụ sở chính đặt tại 37 Hàng Bồ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Trước đây NHCT Hoàn Kiếm có tên là Ngân hàng kinh tế quận Hoàn Kiếm thuộc về Ngân hàng Nhà nước thành phố Hà Nội, thực hiện nhiệm vụ vừa kinh doanh tiền tệ, tín dụng và thanh toán, vừa đảm bảo nhu cầu về vốn cho các đơn vị quốc doanh và ngoài quốc doanh. Sau ngày 13/03/1988 Chỉ thị 218/CT được ban hành, hệ thống Ngân hàng hai cấp ra đời, Ngân hàng chuyên doanh Công thương Việt Nam được thành lập và lúc này NHCT Hoàn Kiếm trực thuộc Ngân hàng Công thương Hà Nội. Vào ngày 24/05/1990, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước - Đồng chí Võ Chí Công đã ký sắc lệnh công bố hai pháp lệnh về Ngân hàng, đó là Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh về Ngân hàng, công ty tài chính, hợp tác xã tín dụng. Hai pháp lệnh này có hiệu lực từ ngày 01/10/1990. Theo tinh thần của hai Pháp lệnh trên, Ngân hàng Công thương Hà Nội chính thức bị xóa bỏ, chuyển các chi nhánh trực thuộc Ngân hàng Công thương Hà Nội thành các chi nhánh thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam, trong đó có chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm. Sau Quyết định số 67/QĐ-NH5 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày 27/3/1993 về việc thành lập Doanh nghiệp Nhà nước có tên Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm chính thức được quyền hạch toán độc lập, có quyền tự chủ kinh doanh, có con dấu riêng, được mở tài khoản giao dịch tại Ngân hàng Nhà nước cũng như các tổ chức tín dụng khác trong nước và trở thành chi nhánh cấp một của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Kể từ khi thành lập đến nay gần 20 năm, NHCT HK đã và đang hoạt động kinh doanh có hiệu quả, giữ vững được uy tín trên thị trường, luôn phấn đấu trở thành một trong những chi nhánh đa dạng hóa các loại hình dịch vụ với chất lượng dịch vụ tốt nhất, từng bước khẳng định vị thế trong cuộc tranh đua hết sức khốc liệt trên thị trường tài chính hiện nay. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức Theo Quyết định số 1294/CTHK-QĐ ngày 18 tháng 09 năm 2006 của Giám đốc Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm về việc ban hành chức năng, nhiệm vụ các phòng, ban tại chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm bao gồm 11 phòng và 1 tổ, cụ thể: Phòng khách hàng doanh nghiệp lớn, Phòng khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ, Phòng khách hàng cá nhân, Phòng quản lý rủi ro, Phòng kế toán, Phòng thanh toán xuất nhập khẩu, Phòng tiền tệ kho quỹ, Phòng tổ chức hành chính, Phòng thông tin điện toán, Phòng tổng hợp và Tổ quản lý nợ có vấn đề. Từ sau ngày 10/10/2007, Ngân hàng đã hợp nhất hai Phòng kế toán tài chính và kế toán giao dịch thành Phòng kế toán. Đồng thời trong thời gian này thành lập thêm Phòng giao dịch Hồ Gươm (trước đó mới chỉ có Phòng giao dịch Đồng Xuân). Như vậy đến nay Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm có tất cả 10 Phòng và 1 Tổ thuộc các Khối nghiệp vụ, 2 Phòng giao dịch và 13 Quỹ tiết kiệm, 2 Điểm giao dịch. Ban Giám đốc hiện nay của Ngân hàng gồm: Giám đốc Ông Hà Huy Hùng và 4 Phó Giám đốc: Bà Phạm Thị Mai, Bà Lê Tuyết Mai, Bà Phạm Vân Như và Bà Nguyễn Thị Thanh Nga. SƠ ĐỒ TỔ CHỨC CỦA CHI NHÁNH NHCT HOÀN KIẾM BAN GIÁM ĐỐC GIÁM ĐỐC PHÓ GIÁM ĐỐC CÁC KHỐI NGHIỆP VỤ KHỐI HỖ TRỢ KHỐI TÁC NGHIỆP KHỐI QL RỦI RO KHỐI KINH DOANH P. GIAO DỊCH ĐỒNG XUÂN PHÒNG TỔNG HỢP PHÒNG KẾ TOÁN PHÒNG QL RỦI RO P.KHDN LỚN P. GIAODỊCH HỒ GƯƠM PHÒNG TỔ CHỨC HC P. TIỀN TỆ KHO QUỸ TỔ QL NỢ CÓ VẤN ĐỀ P.KHDN VỪA&NHỎ P.THÔNG TIN ĐT P.THANH TOÁN XNK P.KH CÁ NHÂN QUỸ TK-ĐIỂM GD 2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của Chi nhánh * Hoạt động huy động vốn Tình hình huy động vốn của NHCT Hoàn Kiếm qua 3 năm 2005, 2006 và 2007 như sau: Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn Đơn vị: Tỷ đồng STT Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1 Tổng nguồn vốn 4591 6377 5143 2 Nguồn vốn huy động 2761 4547 3263 3 Tiền gửi doanh nghiệp 1826 2259 1865 4 Tiền gửi dân cư 935 953 835 5 Tiền gửi không kỳ hạn 423 837 536 6 Tiền gửi có kỳ hạn 2338 2276 2087 (Nguồn số liệu Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm năm 2005-2007) Năm 2005 tổng nguồn vốn là 4591 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn huy động đạt 2761 tỷ đồng. Tổng nguồn vốn năm 2006 đạt 6377 tỷ đồng, tăng 1786 tỷ đồng so với năm 2005, vượt 13% so với kế hoạch được giao, trong đó nguồn vốn huy động tại chỗ đạt 4547 tỷ đồng, tăng 64.7%. Tổng nguồn vốn đến 31/12/2007 đạt 5143 tỷ đồng, giảm 19% so với năm 2006. Trong đó nguồn vốn huy động tại chỗ là 3263 tỷ đồng, nguồn vay Bảo hiểm xã hội là 1880 tỷ đồng. So với năm 2005, cơ cấu nguồn vốn năm 2006 có sự thay đổi theo hướng tích cực: tỷ trọng tiền gửi doanh nghiệp tăng từ 67% lên 71%, tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn vẫn ở mức cao trên 80%. Năm 2007 có sự dịch chuyển nhỏ về cơ cấu: nguồn huy động từ tiền gửi doanh nghiệp giảm từ 71% xuống 69%, tiền gửi dân cư tăng từ 29% lên 31%, tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn là 79%. Với nguồn vốn lớn và ổn định đã tạo thế chủ động trong kinh doanh của Chi nhánh, đồng thời đóng góp không nhỏ cho nguồn vốn điều hòa chung của hệ thống NHCT Việt Nam. * Hoạt động tín dụng Bảng 2.2: Hoạt động tín dụng Đơn vị: Tỷ đồng STT Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1 Dư nợ cho vay 1100 1070 1100 Theo thời hạn 2 Dư nợ CV ngắn hạn 200 220 407 3 Dư nợ CV trung và dài 900 850 693 Theo thành phần kinh tế 4 Dư nợ CV DNNN 880 778 781 5 Dư nợ CV ngoài QD 220 292 319 (Nguồn số liệu Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm năm 2005-2007) Dư nợ cho vay năm 2005 đạt 1100 tỷ đồng, trong đó cho vay ngắn hạn là 200 tỷ đồng, cho vay trung và dài hạn là 900 tỷ đồng; cho vay đối với doanh nghiệp Nhà nước 880 tỷ đồng, cho vay ngoài quốc doanh (gồm các DNNQD, các cá nhân và hộ gia đình) là 220 tỷ đồng. Số dư nợ cho vay quá hạn trong năm là 1.081 tỷ đồng. Năm 2006, Dư nợ cho vay đạt 1070 tỷ đồng, thấp hơn so với năm 2005 là 30 tỷ đồng, giảm gần 3%, đạt 96% kế hoạch được giao do trong năm một số dự án của ngành dầu khí hoạt động rất hiệu quả, khách hàng đã trả nợ trước hạn. Tổng dư nợ cho vay đến 31/12/2007 đạt 1100 tỷ đồng tăng 30 tỷ đồng so với năm 2006. Trong đó, dư nợ ngắn hạn chiếm 37%, dư nợ cho vay trung và dài hạn chiếm 63%; Dư nợ cho vay doanh nghiệp Nhà nước chiếm 71%; Dư nợ cho vay không có tài sản đảm bảo chiếm 77%. Doanh số phát hành bảo lãnh năm 2006 đạt 46 tỷ đồng tăng 23%; năm 2007 là 101 tỷ đồng, số dư của bảo lãnh xấp xỉ 101 tỷ đồng, tăng hơn 2 lần so với năm 2006. Cả hai năm đều không phát sinh nợ trả thay cho khách hàng. * Về xử lý và thu hồi nợ đọng: Trong năm 2006, Chi nhánh bằng các biện pháp tích cực, quyết liệt đã xử lý tài sản, thu hồi được 1179 triệu đồng là khoản nợ đã được xếp loại rủi ro. Năm 2007 số nợ đọng thu được là 356 triệu đồng, chưa hoàn thành chỉ tiêu NHCT Việt Nam giao. * Hoạt động dịch vụ Hoạt động dịch vụ của NHCT Hoàn Kiếm trong những năm gần đây nhìn chung đã có những chuyển biến tương đối toàn diện. Tại các Quỹ tiết kiệm, Điểm giao dịch đã có những thay đổi cơ bản về lượng và chất, ngoài việc cung cấp những sản phẩm mang tính truyền thống như chuyển tiền cá nhân, gửi và rút tiết kiệm, Chi nhánh còn triển khai đồng bộ các dịch vụ ngân hàng đa dạng, hiện đại với tiện ích phong phú nhằm tối đa hóa lợi ích khách hàng cũng như ngân hàng. Nhờ đó thu phí dịch vụ của Chi nhánh đều tăng qua các năm: năm 2005 đạt 2536 triệu đồng, năm 2006 đạt 3043 triệu đồng, tăng 20% so với năm 2005, năm 2007 đạt 3363 triệu đồng tăng 11% so với năm 2006 và 33% so với năm 2005. * Hoạt động khác Trong những năm qua Chi nhánh đã thực hiện tốt, kịp thời, có hiệu quả các công tác về tổ chức nhân sự, lao động, tiền lương; công tác quản lý điều hành; công tác kế hoạch tổng hợp; công tác hạch toán thu chi nội bộ; công tác thông tin điện toán. Những hoạt động này có ảnh hưởng tích cực tới hoạt động của ngân hàng. Ngoài ra Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm cũng rất chú trọng đến các công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học để nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu hội nhập. Các hoạt động đoàn thể, phong trào thi đua cũng luôn được Chi nhánh quan tâm đúng mức nhằm nâng cao đời sống tinh thần cho cán bộ công nhân viên trong toàn Chi nhánh. * Lợi nhuận hạch toán nội bộ Lợi nhuận hạch toán nội bộ năm 2005 đạt 68 tỷ đồng; năm 2006 đạt 60.8 tỷ đồng, giảm 12% so với năm 2005; năm 2007 đạt 65 tỷ đồng tăng 8.3% so với năm 2006, hoàn thành kế hoạch NHCT Việt Nam giao. Với chất lượng cao và sự minh bạch trên tất cả các mặt hoạt động có thể nói lợi nhuận NHCT Hoàn Kiếm đạt được là lợi nhuận “Minh bạch, bền vững”. 2.2. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNNN TẠI CHI NHÁNH NHCT HOÀN KIẾM. 2.2.1. Những quy định chung về hoạt động tín dụng đối với DNNN tại Chi nhánh Những quy định chung về hoạt động tín dụng đối với các DNNN của Chi nhánh nằm trong Quy định cho vay đối với các tổ chức kinh tế được ban hành kèm theo Quyết định số 072/QĐ-HĐQT-NHCT35 ngày 3/4/2006 của Hội đồng quản trị Ngân hàng Công thương Việt Nam. 2.2.2.1. Nguyên tắc vay vốn Khách hàng DNNN vay vốn tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm phải tuân thủ các nguyên tắc sau: - Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng, không trái với pháp luật và cương lĩnh của ngân hàng. Những quy định trên nhằm đảm bảo an toàn không những cho ngân hàng mà còn cho cả nền kinh tế. - Hoàn trả nợ gốc và lãi đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Đây là nguyên tắc không kém phần quan trọng để đảm bảo hoạt động kinh doanh của ngân hàng tiếp tục được duy trì và ổn định. 2.2.2.2. Điều kiện vay vốn - Khách hàng phải có năng lực dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. - Có phương án, dự án khả thi, có hiệu quả, có khả năng trả nợ và phù hợp với quy định của pháp luật. - Có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp - Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. - Tại thời điểm cho vay không còn nợ xấu nội bảng tại bất cứ TCTD nào, không còn nợ đã được xử lý rủi ro hạch toán ngoại bảng tại NHCT. - Khách hàng phải mua bảo hiểm tài sản là đối tượng vay vốn trong suốt thời hạn cho vay. - Trụ sở giao dịch chính của khách hàng cùng địa bàn với địa bàn hoạt động của Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm. 2.2.2.3. Các biện pháp đảm bảo tiền vay - Bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp, cầm cố, của khách hàng vay, bên thứ ba và bảo lãnh của bên thứ ba. - Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay. - Cho vay không có tài sản đảm bảo với những khách hàng có đủ điều kiện về xếp hạng tín dụng (đạt loại từ AA trở lên của kỳ liền kế trước thời điểm cho vay), có tín nhiệm với Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm và là khách hàng lâu năm của ngân hàng. 2.2.2.4. Lãi suất cho vay và phí Lãi suất cho vay ghi trong hợp đồng tín dụng do ngân hàng và khách hàng thỏa thuận tùy thuộc vào thời hạn cho vay, mức độ rủi ro của từng khoản vay trên cơ sở năng lực tài chính, khả năng trả nợ, các biện pháp đảm bảo tiền vay và mức độ tín nhiệm của khách hàng…, đảm bảo trang trải đủ chi phí huy động vốn, chi phí quản lý khoản vay, chi phí trích dự phòng rủi ro và có lãi của ngân hàng. Đồng thời trong hợp đồng tín dụng cũng nêu rõ mức lãi suất phạt quá hạn bằng 50% lãi suất cho vay áp dụng trong thời hạn cho vay và mức phí liên quan đến hoạt động cho vay theo quy định hiện hành của NHCT. 2.2.2.5. Quy trình tín dụng tại Chi nhánh Quy trình cấp tín dụng cho các DNNN cũng tương tự như quy trình tín dụng chung đối với các tổ chức kinh tế của Chi nhánh, gồm các bước cụ thể như sau: Bước 1: Cán bộ tín dụng hướng dẫn, tiếp nhận, kiểm tra tính trung thực, hợp lệ, hợp pháp của các tài liệu trong hồ sơ vay vốn của khách hàng và sao gửi hồ sơ cho Phòng quản lý rủi ro. Bước 2: Cán bộ tín dụng, Lãnh đạo phòng khách hàng thực hiện thẩm định, tái thẩm định khách hàng vay vốn, dự án đầu tư, biện pháp bảo đảm tiền vay, đồng thời xác định lãi suất cho vay. Cán bộ tín dụng lập tờ trình thẩm định, tái thẩm định sau đó Lãnh đạo phòng khách hàng thực hiện kiểm soát và trình duyệt tờ trình thẩm định, tái thẩm định lên người có thẩm quyền quyết định cho vay. Bước 3: Trường hợp phải thẩm định rủi ro theo quy định của Tổng giám đốc hoặc khi người có thẩm quyền quyết định cho vay yêu cầu thì Cán bộ quản lý rủi ro và Lãnh đạo phòng quản lý rủi ro thực hiện thẩm định rủi ro tín dụng độc lập và trình duyệt báo cáo thẩm định rủi ro tín dụng. Bước 4: Xét duyệt khoản vay và thông báo cho khách hàng Trường hợp khoản vay thuộc thẩm quyền của người có thẩm quyền quyết định cho vay tại Chi nhánh, người có thẩm quyền quyết định cho vay kiểm tra toàn bộ hồ sơ khoản vay, tờ trình thẩm định, báo cáo kết quả thẩm định rủi ro tín dụng (nếu có); ghi ý kiến đồng ý hoặc không đồng ý cho vay và các điều kiện (nếu có) vào tờ trình thẩm định cho vay. Sau đó cán bộ tín dụng sẽ gửi văn bản thông báo cho khách hàng. Trường hợp khoản vay vượt thẩm quyền, nếu có đề xuất cho vay thì phải chuyển toàn bộ hồ sơ lên Phòng khách hàng Trụ sở chính của NHCT Việt Nam. Bước 5: Ký kết hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm, làm thủ tục giao nhận TSĐB và giấy tờ TSĐB và nhập các thông tin về khoản vay, kiểm tra giám sát việc nhập thông tin trên hệ thống INCAS (hệ thống hiện đại hóa ngân hàng). Bước 6: Giải ngân, kiểm tra và giám sát quá trình sử dụng vốn vay. Sau khi hợp đồng tín dụng đã được ký kết, Chi nhánh thực hiện trách nhiệm cấp tiền cho khách hàng như thỏa thuận. Kèm theo việc cấp tín dụng, Chi nhánh kiểm tra, giám sát khách hàng về việc sử dụng tiền vay có đúng mục đích, đúng tiến độ hay không, quá trình sản xuất kinh doanh có những bất lợi gì, thường xuyên theo dõi diến biến dư nợ của khách hàng, phân loại nợ qua hệ thống INCAS. Bước 7: Thu nợ gốc, lãi, phí và xử lý các phát sinh Cán bộ tín dụng theo dõi việc thu nợ theo từng hợp đồng tín dụng đã ký. Trong vòng 07 ngày làm việc trước khi đến hạn trả nợ, cán bộ tín dụng phải thông báo cho khách hàng khoản vay đến hạn bao gồm nợ gốc, lãi và phí. Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc, lãi và phí. Các khoản tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn. Cán bộ tín dụng phải xử lý những trường hợp khoản tín dụng đã không hoàn trả hoặc không hoàn trả đủ, đúng hạn. Bước 8: Thanh lý Hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm, giải chấp tài sản và kiểm soát, lưu trữ hồ sơ. Khi quan hệ tín dụng kết thúc cũng đồng nghĩa với việc thanh lý hợp đồng, các bên không cần lập biên bản thanh lý. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận thanh lý hợp đồng thì phải lập biên bản thanh lý hợp đồng theo đúng thỏa thuận đồng thời thực hiện giải chấp tài sản cho khách hàng. Mặc dù đã k._.rằng DNNN vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân và có vai trò không thể thay thế. Do đó chỉ chú trọng cung cấp tín dụng cho các DNNN hoạt động trên các lĩnh vực đang có nhu cầu cấp thiết hiện nay. Thứ hai: Thực hiện một quy trình tín dụng chuẩn cho hoạt động tín dụng các DNNN, đồng thời đưa ra các chính sách tín dụng một cách rõ ràng, cụ thể đối với nhóm khách hàng là DNNN. Thứ ba: Đánh giá lại quan hệ tín dụng của các khách hàng là DNNN hiện đang có quan hệ tín dụng tại Chi nhánh để nắm bắt những thay đổi trong hoạt động sản xuất kinh doanh đồng thời có những bước đi kịp thời trong công tác tín dụng đảm bảo hoạt động tín dụng được an toàn và hiệu quả. Thứ tư: Tăng cường cho vay có tài sản đảm bảo đối với các DNNN. Việc tăng tỷ trọng này không chỉ có ý nghĩa đối với Chi nhánh mà còn tạo động lực để các DNNN tăng vốn chủ sở hữu thông qua việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Thứ năm: Tăng cường cho vay ngắn hạn đối với các DNNN, giảm bớt cho vay trung dài hạn. Kiên quyết rút dần dư nợ đối với những DNNN có biểu hiện tài chính yếu kém và hoạt động kém hiệu quả. Tiếp tục phát huy hiệu quả trong công tác thu nợ của Chi nhánh, luôn đảm bảo không có nợ quá hạn DNNN. Thứ sáu: Tiếp tục chú trọng công tác đào tạo cán bộ tín dụng về chuyên môn nghiệp vụ, về văn hóa giao tiếp trong kinh doanh ngân hàng, thực hiện dưới hình thức khuyến khích có thưởng tạo phong trào sôi nổi trong toàn Chi nhánh. Từ những hạn chế và nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong hoạt động tín dụng đối với DNNN tại Chi nhánh, đồng thời dựa trên định hướng chiến lược hoạt động tín dụng DNNN của Chi nhánh trong thời gian tới, sau đây xin nêu ra một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động tín dụng DNNN tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm. 3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG DNNN TẠI CHI NHÁNH NHCT HOÀN KIẾM 3.2.1. Xây dựng chiến lược phát triển tín dụng DNNN một cách rõ ràng, hợp lý. Bất kỳ một doanh nghiệp nào trước khi bắt tay vào hoạt động kinh doanh đều phải có những định hướng cụ thể cho hoạt động đó. Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm cũng vậy, để tiến hành hoạt động tín dụng đối với các DNNN một cách có hiệu quả thì đầu tiên Chi nhánh cần xây dựng chiến lược phát triển chung, trên cơ sở chiến lược đó tiếp tục triển khai theo hướng cụ thể và chi tiết hơn. Chiến lược phát triển tín dụng DNNN cần được xây dựng trong dài hạn, đảm bảo tính ổn định trong hoạt động tín dụng của Chi nhánh. Mặc dù hiện nay Chi nhánh cũng đã có chiến lược phát triển cho tín dụng DNNN nhưng nhìn chung chưa cụ thể, rõ ràng và chưa đủ so với nhu cầu cấp thiết của hoạt động tín dụng DNNN hiện nay. Việc xây dựng chiến lược phát triển cũng như việc xây dựng các mục tiêu, cần có sự rõ ràng, cụ thể. Ví dụ như đối với việc đề ra chiến lược tăng cường cho vay DNNN có tài sản đảm bảo, không thể đơn thuần nói một cách chung chung là tăng cường như vậy mà phải đưa ra con số cụ thể cần đạt tới, ví dụ: Chiến lược đến năm 2010 Chi nhánh phải đảm bảo tỷ lệ dư nợ cho vay DNNN có TSĐB đạt trên 65%. Tương tự như vậy với việc xây dựng chiến lược về cơ cấu doanh số cho vay, dư nợ cho vay DNNN, doanh số thu nợ…Bên cạnh đó Chi nhánh cần xây dựng cơ cấu dư nợ cho vay DNNN theo từng ngành nghề, lĩnh vực và từng vùng cụ thể để hạn chế rủi ro cho việc tập trung quá vào một số ngành hàng, hoặc có thể Chi nhánh sẽ bỏ sót những ngành hàng nhiều tiềm năng trong tương lai. Đây cũng là một trong những giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng cho Chi nhánh, nâng cao chất lượng hoạt động. Một chiến lược phát triển tín dụng đúng đắn, hợp lý có nghĩa là xét trong môi trường hiện tại và xu hướng trong tương lai nó phải phù hợp và đảm bảo tính hiệu quả cao. Môi trường ở đây bao gồm cả môi trường vĩ mô và vi mô. Cả hai yếu tố trên đều tác động trực tiếp và gián tiếp lên hoạt động kinh doanh của Chi nhánh nói chung và hoạt động tín dụng DNNN nói riêng. Do đó Chi nhánh cần luôn luôn tổ chức thu thập thông tin một cách chính xác, đầy đủ, kịp thời để từ đó xây dựng một chiến lược phát triển hoạt động tín dụng DNNN luôn bám sát với những thay đổi của môi trường, có như vậy mới đảm bảo nâng cao chất lượng tín dụng DNNN. 3.2.2. Xây dựng quy trình tín dụng hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng và đảm bảo lợi ích cho ngân hàng. Quy trình tín dụng có ý nghĩa quan trọng trong việc hạn chế sai sót, hạn chế rủi ro và nâng cao chất lượng của từng khoản vay. Hiện nay Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm đã có quy trình tín dụng khá chi tiết riêng cho đối tượng khách hàng là các tổ chức kinh tế, đó là “Quy trình cho vay theo dự án đầu tư đối với khách hàng là tổ chức kinh tế - Mã số QT.05.01”, tuy nhiên vẫn chưa có quy trình cụ thể cho mỗi loại DNNN hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau. Chi nhánh cần phải xây dựng một quy trình tín dụng vừa đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc an toàn, vừa linh hoạt tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, đồng thời cần xem xét với mỗi loại khách hàng khác nhau, những khách hàng có quan hệ vay vốn lâu dài, lành mạnh với ngân hàng để áp dụng một quy trình tín dụng sao cho linh hoạt, đảm bảo lợi ích cho cả khách hàng và ngân hàng. Ngân hàng cũng cần áp dụng nhiều phương thức cho vay khác nhau phù hợp với từng dự án của các DNNN, đảm bảo phục vụ khách hàng tốt hơn. 3.2.3. Hạn chế cấp tín dụng không có TSĐB và nâng cao chất lượng TSĐB Hiện nay ở Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm việc cấp tín dụng DNNN không có TSĐB vẫn chiếm tỷ lệ rất lớn như đã trình bày ở phần thực trạng chất lượng tín dụng tại Chi nhánh. Việc cho vay không có TSĐB hoặc có TSĐB nhưng giá trị nhỏ hơn nhiều so với vốn vay khiến nguy cơ ngân hàng gặp phải rủi ro là rất cao, nhất là trong tình trạng thị trường có nhiều biến động hiện nay ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Hầu hết khách hàng tại Chi nhánh đều là những khách hàng truyền thống, có uy tín lâu năm với ngân hàng, do đó việc đề xuất giải pháp cấp tín dụng có TSĐB cũng cần phải nghiên cứu một cách kỹ càng nếu không sẽ có thể làm giảm số lượng khách hàng. Giải pháp trước mắt là Chi nhánh cần hạn chế cấp tín dụng không có TSĐB đối với những DNNN có tình hình kinh doanh không ổn định, hoạt động trên các ngành nghề dễ gặp phải rủi ro trong thời điểm hiện nay. Đối với những DNNN là khách hàng truyền thống, lâu năm của Chi nhánh thì có thể tạm thời bảo đảm bằng uy tín, tuy nhiên về lâu dài Chi nhánh có thể yêu cầu DNNN có đảm bảo bằng tài sản khi vay vốn nhưng ở mức thấp, sau đó nâng dần yêu cầu lên. Như vậy mới không tạo sự đột ngột cho khách hàng, nhiều trường hợp khách hàng chưa thể xoay sở kịp sẽ dẫn đến khách hàng sẽ tìm đến ngân hàng khác. Một vấn đề đặt ra trong cho vay có TSĐB tại Chi nhánh là làm sao nâng cao được chất lượng TSĐB. Trên thực tế việc định giá các TSĐB thường khó chính xác, nhất là TSĐB đối với khách hàng hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản và công trình giao thông. Nếu dựa vào giá trị còn lại trên báo cáo tài chính của khách hàng thì có thể gặp phải trường hợp sau đây: DNNN có tình hình tài chính tốt thường khấu hao nhanh để được nhanh đổi mới nâng cấp thiết bị, dẫn đến giá trị còn lại trên báo cáo tài chính nhỏ hơn giá thị trường của thiết bị. Như vậy muốn định giá TSĐB một cách chính xác nhằm nâng cao chất lượng TSĐB, Chi nhánh có một trong hai giải pháp sau: Thứ nhất: Chi nhánh sẽ đề nghị khách hàng thuê cơ quan thẩm định chuyên nghiệp. Biện pháp này gây tổn thất một lượng phí nhất định, do đó đôi khi khách hàng sẽ từ chối thực hiện gây khó khăn trong công việc thẩm định TSĐB. Thứ hai: Chi nhánh sẽ yêu cầu khách hàng mua bảo hiểm cho tài sản đó và mời công ty bảo hiểm đó cùng thực hiện công tác thẩm định TSĐB. Hiện nay NHCT cũng đã thiết lập quan hệ hợp tác với Công ty liên doanh TNHH bảo hiểm Châu Á. Công ty bảo hiểm có bộ phận chuyên thẩm định giá trị tài sản bảo hiểm do đó việc xác định giá trị TSĐB sẽ sát với giá trị thực của tài sản hơn. Giá trị tài sản được công ty bảo hiểm xác định sẽ làm căn cứ định giá giữa Chi nhánh và khách hàng DNNN. Như vậy quan hệ hợp tác này vừa đảm bảo lợi ích cho Chi nhánh vừa đảm bảo lợi ích cho cả công ty bảo hiểm. 3.2.4. Hỗ trợ các DNNN trong công tác quản lý và đầu tư Như đã nói ở phần hạn chế trong hoạt động tín dụng DNNN của Chi nhánh, hiện nay hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng DNNN nói riêng còn mang tính đơn điệu, có nghĩa là các hoạt động dịch vụ đi kèm chưa có hoặc chưa được chú trọng. Như ta biết, với bất kỳ một doanh nghiệp nào đều cần có người đứng ra quản lý và đầu tư, tuy nhiên những người này không phải lúc nào cũng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Chính vì vậy nếu như có sự hợp tác, hỗ trợ của chính ngân hàng cho vay trong công tác quản lý và đầu tư thì hiệu quả hoạt động của các DNNN sẽ được nâng cao hơn, lợi ích này không chỉ có chính các doanh nghiệp được hưởng mà còn cho cả ngân hàng. Điều này nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng. Hoạt động của ngân hàng được xem là hoạt động liên quan đến nhiều ngành nghề nhất trong nền kinh tế. Do đó khi hoạt động kinh doanh đòi hỏi ngân hàng phải nghiên cứu mọi biến động của thị trường liên quan đến hoạt động của mình. Đây là một lợi thế của ngân hàng trong việc thực hiện công tác hỗ trợ các DNNN trong quản lý và đầu tư. Mặt khác ngân hàng có đội ngũ cán bộ nhân viên giỏi về nghiệp vụ, hiểu biết nhiều về thị trường tài chính nên trong nhiều trường hợp sẽ giúp ích rất nhiều cho các DNNN trong quản lý và đầu tư. Trái lại các DNNN thường chỉ có kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh của mình, còn trong quản lý ít nhiều vẫn còn chịu ảnh hưởng từ thời kỳ bao cấp nên công tác tổ chức quản lý thường yếu hơn. Một khi các DNNN hoạt động kinh doanh có hiệu quả sẽ giảm thiểu rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Vì vậy giải pháp này được thực hiện bằng cách Chi nhánh phải kết hợp cung cấp tín dụng với các dịch vụ đi kèm như tư vấn đầu tư, quản lý tài chính. 3.2.5. Tiếp tục chú trọng nâng cao năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ tín dụng Một trong những nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng của ngân hàng đó chính là yếu tố con người. Đối với một ngân hàng để hoạt động tín dụng có hiệu quả, hạn chế rủi ro và thực hiện được mục tiêu đặt ra thì ngân hàng cần phải có một đội ngũ cán bộ tín dụng với chuyên môn giỏi, có phẩm chất đạo đức tốt, có khả năng giao tiếp với khách hàng. Trong những năm qua Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm cũng đã có những nỗ lực trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng tuy nhiên trước những đòi hỏi ngày càng cấp thiết hiện nay của thị trường thì cần có những giải pháp cụ thể hơn, đó là: - Đổi mới công tác quản lý cán bộ tín dụng: Trong công tác quản lý, Chi nhánh phải thường xuyên quan tâm xác định đúng nhiệm vụ chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ tín dụng; kiên quyết không sử dụng những cán bộ thiếu bản lĩnh chính trị, bản lĩnh kinh doanh, thiếu trung thực, không công tâm, kém năng lực…; quản lý cán bộ trong công việc, trong sinh hoạt một cách chặt chẽ, khoa học; có biện pháp chủ động, tích cực giáo dục cán bộ tín dụng không để họ bị lôi cuốn vào những vấn đề tiêu cực của xã hội, bị lôi cuốn của đồng tiền mà hạ thấp nhân phẩm, hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng làm ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. - Không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng Việc đào tạo, đào tạo lại cán bộ tín dụng phải được coi là thường xuyên, liên tục trong toàn Chi nhánh. Công tác đào tạo cần tập trung vào một số vấn đề như tăng cường hình thức đào tạo tập trung, kết hợp hình thức tập huấn tại chỗ giúp cán bộ tín dụng nắm bắt một số nghiệp vụ trong thời gian ngắn như: tổ chức các buổi sinh hoạt nghiệp vụ theo định kỳ, thảo luận các vướng mắc trong công tác tín dụng, văn bản, quy trình nghiệp vụ; phát động phong trào tự nghiên cứu, tự nâng cao nhận thức, trình độ chuyên môn để tránh tụt hậu trước sự thay đổi của nền kinh tế; tổ chức các cuộc thi cán bộ tín dụng giỏi hàng năm trong toàn Chi nhánh kèm theo giải thưởng để khích lệ tinh thần. Cùng với việc đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ tín dụng thì công tác tuyển dụng cán bộ tín dụng mới phải đảm bảo thực hiện tốt, đúng quy định của ngành, đặc biệt cần có sự công bằng trong khâu tuyển dụng. Tiêu chuẩn tuyển dụng cán bộ tín dụng cần có là tiêu chuẩn tư cách đạo đức, tiêu chuẩn chuyên môn, tiêu chuẩn về thể chất. - Chi nhánh phải có chính sách sàng lọc, sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ tín dụng. Hàng năm Chi nhánh cần thực hiện việc rà soát, đánh giá phân loại cán bộ tín dụng để có hướng đào tạo, bổ sung kịp thời, đồng thời qua việc phân loại cán bộ để thực hiện tiêu chuẩn hóa cán bộ tín dụng tạo nên một đội ngũ cán bộ tín dụng mạnh toàn diện và sức cống hiến cao. - Thực hiện đổi mới chính sách đãi ngộ cán bộ tín dụng Càng trong điều kiện nền kinh tế có nhiều biến động hiện nay thì chính sách đãi ngộ đối với cán bộ tín dụng càng có ý nghĩa quan trọng vì đây có thể coi là đội ngũ có sự cống hiến nhiều nhất, chịu áp lực nhiều nhất do công việc mang tính rủi ro cao, có như vậy họ mới phát huy được khả năng và nhiệt tình lâu dài của mình. Song song với chính sách đãi ngộ thì Chi nhánh cần thực hiện cơ chế thưởng, phạt nghiêm minh đảm bảo tính kỷ luật, kỷ cương trong ngân hàng; tạo ra bầu không khí thi đua, khuyến khích sáng tạo, phát huy trách nhiệm và quyền hạn cá nhân trong việc đầu tư vốn sao cho an toàn, hiệu quả. 3.2.6. Đổi mới, hiện đại hóa công nghệ ngân hàng phù hợp với tiến trình phát triển Trong thời đại ngày nay, NHTM cũng như bất kỳ một doanh nghiệp nào khác không thể hoạt động mà không có sự có mặt của hệ thống công nghệ. Đối với Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm cũng vậy, công nghệ đóng vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động của ngân hàng, trong đó có hoạt động tín dụng. Nó giúp ngân hàng tăng cường năng lực cạnh tranh với các ngân hàng khác, nâng cao chất lượng tín dụng. Nhận thức được vai trò quan trọng đó, trong những năm qua Chi nhánh đã có nhiều biện pháp tích cực nhằm đổi mới, hiện đại hóa công nghệ trong hoạt động của mình để theo kịp sự phát triển chung. Cụ thể Chi nhánh đã tham gia dự án INCAS – dự án hiện đại hóa ngân hàng năm 2004, trang bị nhiều máy tính hiện đại, kết nối mạng Internet toàn Chi nhánh…Tuy nhiên nếu so sánh với các ngân hàng khác thì công nghệ của chi nhánh chưa thể theo kịp như Techcombank, Vietcombank...Như vậy Chi nhánh cần có biện pháp nhằm nâng cao hơn nữa công nghệ trong ngân hàng, từng bước đuổi kịp các ngân hàng bạn. Cụ thể: - Đổi mới trang bị công nghệ một cách đồng bộ trong toàn Chi nhánh, tránh tình trạng một số trang thiết bị nhập về mặc dù rất hiện đại nhưng chưa có sự gắn kết phù hợp nên chưa sử dụng tối đa hiệu quả của nó, gây lãng phí. Đồng thời Chi nhánh cần quan tâm hơn nữa đến việc hòa nhập hệ thống thông tin liên ngân hàng đảm bảo hoạt động tín dụng có hiệu quả hơn. - Hiện nay dịch vụ ngân hàng điện tử tại Chi nhánh còn rất ít và số lượng khách hàng sử dụng cũng không đáng kể. Để đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của thị trường thì Chi nhánh cần xúc tiến mở thêm nhiều dịch vụ ngân hàng điện tử, bên cạnh đó phải có các hình thức giới thiệu sản phẩm đến khách hàng. - Đi kèm với việc trang bị hệ thống công nghệ hiện đại, Chi nhánh cần quan tâm đến vấn đề nguồn nhân lực trong sử dụng công nghệ. Có nhiều trường hợp công nghệ nhập về hiện đại nhưng cán bộ tín dụng không sử dụng được hoặc sử dụng chưa hết chức năng của nó. Để cán bộ tín dụng thích ứng với những yêu cầu đó, Chi nhánh cần mở các lớp đào tạo một cách bài bản để nâng cao kỹ năng sử dụng, ứng dụng trang thiết bị công nghệ có hiệu quả. 3.2.7. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ Công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ là không thể thiếu được trong hoạt động quản lý, điều hành của ngân hàng, nhất là trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế đang bước đầu hội nhập, từng bước vận hành theo cơ chế thị trường. Để hoạt động tín dụng của Chi nhánh đạt hiệu quả cao nhất thiết phải đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Trên cơ sở kiểm tra, kiểm soát ngân hàng có thể kịp thời phát hiện những sai sót về mặt nghiệp vụ, từ đó có những điều chỉnh nhằm hạn chế tới mức thấp nhất những thiệt hại có thể xảy ra, đảm bảo hoạt động kinh doanh an toàn, hiệu quả và giữ vững được kỷ cương, kỷ luật tạo tiền đề để Chi nhánh phát triển bền vững. Trong những năm qua công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ của Chi nhánh cũng đã được tiến hành thường xuyên, toàn diện tuy nhiên chất lượng chưa được cao. Một số trường hợp mới chỉ kiểm tra, kiểm soát mang tính chiếu lệ, chỉ đạo theo từng đợt Công văn, Chỉ thị của cấp trên, thiếu tính chủ động. Để công tác kiểm tra, kiểm toán phát huy được vai trò của nó trong hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng đối với các DNNN nói riêng cần có một số biện pháp như sau: - Tiếp tục xây dựng, thiết lập một bộ máy kiểm tra, kiểm toán nội bộ hoàn chỉnh. - Thực hiện công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ ở tất cả các khâu của quá trình cho vay. Hiện nay Chi nhánh đã có Quy trình kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn và trả nợ của khách hàng (QT.35.03 – NHCT), trong đó quy định trách nhiệm cụ thể của mỗi cán bộ trong việc thực hiện ở cả 3 bước: trước khi giải ngân, trong khi giải ngân và sau khi giải ngân. - Chi nhánh cần nâng cao trách nhiệm và quyền hạn của cán bộ kiểm tra bằng cách kiên quyết xử lý những cán bộ tín dụng có những hành vi tiêu cực, gây thất thoát tài sản và làm phương hại đến uy tín của ngân hàng. Đồng thời cũng cần có biện pháp đánh giá chất lượng công việc để có chế độ đãi ngộ hợp lý, đảm bảo phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra. - Tiến hành công tác kiểm tra, kiểm toán một cách chủ động, thường xuyên. Cách tốt nhất Chi nhánh nên lên lịch cho công tác kiểm tra, bên cạnh đó thỉnh thoảng tiến hành các cuộc kiểm tra đột xuất để tạo sự khách quan. 3.3. KIẾN NGHỊ Chất lượng hoạt động tín dụng chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, gồm những nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Nhân tố chủ quan thuộc về phía bản thân ngân hàng, còn nhân tố khách quan lại là vấn đề về môi trường kinh tế, chính trị, xã hội và những chính sách của các cơ quan cấp trên trực tiếp, của Đảng và Nhà nước. Vì vậy để thực hiện nhiệm vụ nâng cao chất lượng tín dụng DNNN thì không những cần sự nỗ lực của Chi nhánh mà cần phải có sự phối hợp từ phía các ban ngành, các cấp có liên quan. Sau đây là một số kiến nghị tới các cấp trên liên quan nhằm giúp Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm nâng cao chất lượng tín dụng trong giai đoạn hiện nay. 3.3.1. Kiến nghị với các DNNN DNNN luôn được coi là thành phần kinh tế chủ chốt, là động lực giúp các thành phần kinh tế phát triển theo, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh… Tuy nhiên trên thực tế cả hai phương diện kinh doanh và lợi ích xã hội, các DNNN vẫn chưa phát huy được hết sức mạnh của mình. Nhiều DNNN hiện nay vẫn có tình trạng trông chờ, ỷ lại vào sự viện trợ từ Ngân sách Nhà nước. Do vậy để hoạt động tín dụng đối với DNNN thực sự có hiệu quả thì đối với DNNN cần phải nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình bằng cách: - Nhanh chóng thực hiện cổ phần hóa, Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn nhằm tạo tính độc lập và nâng cao trách nhiệm cho chính các DNNN. - Hoàn thành cơ bản việc sắp xếp, cơ cấu lại bộ máy tổ chức và đổi mới hoạt động sao cho đơn giản, gọn nhẹ mà vẫn đáp ứng yêu cầu của thị trường. Đây là điều tất yếu mà DNNN phải thực hiện nếu muốn tồn tại hiện nay. - Yếu tố con người có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN. Các DNNN cần phải có các chính sách đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, thích ứng với yêu cầu ngày càng cao của xã hội. 3.3.2. Kiến nghị với NHCT Việt Nam Thứ nhất: NHCT Việt Nam cần có những thay đổi trong cơ chế, chính sách tín dụng theo hướng tạo thuận lợi hơn cho các Chi nhánh thực hiện, tránh tình trạng cơ chế hay chính sách chỉ mang tính chung chung rất khó cho các Chi nhánh thực hiện. Đối với các DNNN hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh khác nhau thì cần có những chính sách tín dụng cụ thể và phải căn cứ vào tình hình biến động cụ thể ở từng thời kỳ mà đưa ra những chính sách phù hợp nhất. Thứ hai: Phát triển mạng lưới thông tin rộng khắp tới các chi nhánh để đảm bảo chuyển tải thông tin một cách kịp thời về những chiến lược phát triển của đất nước, những thay đổi trong cơ chế, chính sách của NHNN cũng như NHCT Việt Nam…Đồng thời NHCT Việt Nam cần có sự phối hợp chặt chẽ với NHNN để tổ chức có hiệu quả hơn chương trình thông tin rủi ro, thông tin tín dụng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của Chi nhánh và phòng ngừa rủi ro. Thứ ba: Thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề, tập huấn nâng cao chất lượng cán bộ trong toàn hệ thống NHCT Việt Nam, đặc biệt là đội ngũ cán bộ tín dụng. Thông qua các buổi tọa đàm, hội thảo, các cán bộ tín dụng có thể nêu lên những hạn chế trong các khâu của quy trình tín dụng, những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện nhiệm vụ của mình, từ đó Ban lãnh đạo NHCT Việt Nam cần cố gắng tiếp thu và có những hướng sửa đổi kịp thời. Thứ tư: Đầu tư đổi mới và hiện đại hóa công nghệ trong các Chi nhánh theo hướng đồng bộ. Đồng thời tổ chức các lớp học nâng cao kỹ năng sử dụng, ứng dụng các thiết bị công nghệ và phần mềm hiện đại chuẩn bị triển khai. Thứ năm: Thường xuyên thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát đối với hoạt động tín dụng của các chi nhánh. Đưa ra các hình thức xử lý cụ thể cho từng trường hợp, từng đối tượng nếu vi phạm các quy chế, chính sách của NHCT Việt Nam cũng như của NHNN, Chính phủ; kiên quyết xử lý nghiêm đối với các trường hợp vi phạm. Hiện nay NHCT Việt Nam đã có Quyết định số 107/QĐ-HĐQT-NHCT ngày 11/5/2005 ban hành “Quy chế tổ chức hoạt động của bộ máy kiểm tra, kiểm soát nội bộ NHCT Việt Nam”. Thứ sáu: Thực hiện công tác thông tin quảng bá, giới thiệu về NHCT, các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng, từ đó giúp các chi nhánh thu hút thêm được nhiều khách hàng. Việc đăng các quảng cáo, giới thiệu có thể thực hiện qua các hệ thống thông tin như truyền hình (dưới dạng quảng cáo đơn thuần, hoặc tài trợ cho các chương trình…), báo, đài, mạng internet… 3.3.3. Kiến nghị với NHNN Với vai trò là ngân hàng trung tâm của các NHTM và hệ thống tài chính trong mỗi quốc gia, NHNN thực hiện một số công việc quan trọng cho các NHTM như: cấp giấy phép kinh doanh tiền tệ cho các NHTM, chế tài các vụ vi phạm luật lệ ngân hàng; quy định mức dự trữ bắt buộc các NHTM phải thi hành; thanh tra, kiểm soát các NHTM; quản lý đối với toàn hệ thống; mở tài khoản giao dịch và tổ chức thanh toán bù trừ; tái cấp vốn cho các NHTM dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu GTCG, cho vay thế chấp, ứng trước…Qua đó có thể thấy hầu hết mọi động thái của NHNN đều có ảnh hưởng đến hoạt động của các NHTM. Vì vậy để tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM, đặc biệt là các NHTM Nhà nước trong hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng đối với các DNNN nói riêng thì NHNN cần có các biện pháp, chính sách sau: - NHNN cần tiếp tục rà soát lại toàn bộ các quy định hiện nay về chế độ tín dụng và ban hành một hệ thống văn bản mang tính chất khung pháp lý chung tổng hợp tất cả các quy định về loại hình hoạt động tín dụng để các ngân hàng tiện tra cứu. Mặt khác NHNN cần nghiên cứu một quy trình tín dụng chung thực sự đơn giản, dễ áp dụng, không quá chi tiết và tạo khoảng mở . Trên cơ sở quy trình chung đó, các ngân hàng có thể có những quy trình tín dụng riêng cho đơn vị của mình, hạn chế sự can thiệp sâu của NHNN, tạo sự chủ động cho các ngân hàng trong kinh doanh tín dụng. - Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với các NHTM nhằm sớm phát hiện những ngân hàng nào đang gặp khó khăn để có biện pháp xử lý kịp thời. NHCT Việt Nam là một TCTD thuộc hệ thống NHNN Việt Nam, do đó chịu sự thanh tra, kiểm tra của Thanh tra NHNN Việt Nam. Để công tác thanh tra, kiểm tra có hiệu quả thì không thể không kể đến đội ngũ cán bộ thanh tra của NHNN. NHNN cần phải xây dựng một đội ngũ thanh tra giỏi về chuyên môn và có tư cách đạo đức tốt, đảm bảo công tác thanh tra, kiểm tra được tiến hành một cách khách quan, trung thực, có chất lượng. - NHNN cần đưa ra biện pháp quyết liệt bắt buộc các NHTM tăng vốn chủ sở hữu trong những năm tới nhằm phòng chống rủi ro, tăng khả năng cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài, nâng cao chất lượng tín dụng. 3.3.4. Kiến nghị với Chính phủ - Chính phủ cần tạo môi trường pháp lý, môi trường kinh tế, môi trường xã hội ổn định, lành mạnh giúp các NHTM cũng như các DNNN yên tâm hoạt động kinh doanh, tạo sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp với nhau và giữa các NHTM với nhau. Chính phủ tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp bằng cách hoàn thiện chính sách thuế, tiền thuê đất, xây dựng hệ thống văn bản Luật không gây khó khăn nhiều đến hoạt động của doanh nghiệp… Môi trường kinh tế có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hoạt động của các NHTM. Đặc biệt trong những năm gần đây nền kinh tế Việt Nam có nhiều biến động nằm ngoài dự đoán của các nhà phân tích. Để có được môi trường kinh tế ổn định trước những biến động đó đòi hỏi Nhà nước cần phải xây dựng, sử dụng đồng bộ và có hệ thống các công cụ quản lý vĩ mô như chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ. Có như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp yên tâm phát triển sản xuất kinh doanh. - Mặt khác Chính phủ cần đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa các DNNN, các NHTM Nhà nước hiện nay. Với hình thức là công ty cổ phần, các doanh nghiệp nói chung trong đó có NHTM, sẽ hoạt động có hiệu quả hơn, tránh được tình trạng các doanh nghiệp ỷ lại Nhà nước, hoạt động kém hiệu quả, gây lãng phí một số lượng lớn vốn của Nhà nước. - Nhà nước cũng cần khuyến khích các DNNN huy động vốn từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời nhằm mục đích tạo cơ chế linh hoạt. Trong hoạt động quản lý và đầu tư vốn của Nhà nước tại các DNNN, Nhà nước nên bỏ quy định về tỷ lệ nắm giữ cổ phần của Nhà nước nhằm đảm bảo tính độc lập hơn trong hoạt động của doanh nghiệp. Trên đây là một số kiến nghị tới các cơ quan cấp trên có liên quan đến hoạt động của các NHTM nói chung và Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm nói riêng nhằm góp phần nâng cao chất lượng tín dụng trong ngân hàng. KẾT LUẬN Đất nước Việt Nam đang chuyển mình với những bước đi đúng hướng, những thành tựu mới trong nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Xu hướng toàn cầu hóa trên thế giới đã mở ra cho nhiều cơ hội cho mọi nhà, mọi doanh nghiệp, mọi lĩnh vực, trong đó không thể không nói tới ngân hàng – một lĩnh vực hết sức nhạy cảm. Việt Nam đang bắt đầu thực hiện những cam kết mở cửa khiến cho các doanh nghiệp đứng trước sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt, cơ hội nhiều nhưng thách thức cũng không nhỏ. Điều này tạo ra những ảnh hưởng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, vì thế ảnh hưởng đến hoạt động của các NHTM nói chung và hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng. Chính vì thế yêu cầu đặt ra cho các NHTM là phải nâng cao chất lượng tín dụng, đặc biệt là chất lượng tín dụng đối với các DNNN trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay. Mối quan tâm này không ngoại trừ Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm. Trong những năm qua hoạt động kinh doanh của Chi nhánh nói chung và hoạt động tín dụng DNNN nói riêng đã đạt một số kết quả đáng kể, góp phần nâng cao chất lượng cho ngân hàng. Tuy nhiên bên cạnh đó hoạt động tín dụng đối với các DNNN vẫn còn một số hạn chế cần giải quyết. Hy vọng với những giải pháp và kiến nghị được nêu trong bài viết sẽ góp phần giúp Chi nhánh giải quyết được phần nào những vướng mắc còn tồn tại ở trên. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của các thầy, cô giáo trong Khoa Ngân hàng–Tài chính, đặc biệt thầy giáo PGS.TS. Lê Đức Lữ cũng như sự giúp đỡ của các anh chị cán bộ trong Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm đã giúp em hoàn thành chuyên đề này. TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS.TS. Nguyễn Hữu Tài, Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ, NXB Thống Kê. PGS.TS. Phan Thị Thu Hà, Giáo trình ngân hàng thương mại, NXB Thống Kê. David Cox, Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại TS. Nguyễn Văn Tiến, Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng, NXB Thống Kê Peter Rose, Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính PGS.TS. Lưu Thị Hương, Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, NXB Thống Kê. Luật DNNN năm 2003 Tạp chí Thời báo kinh tế, tạp chí ngân hàng. Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng 1627/2001/QĐ-NHNN và Quy chế 127/2005/QĐ-NHNN sửa đổi. Quyết định 493 và Quyết định 18 bổ sung Quyết định 493 về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro. Sổ tay tín dụng NHCT Hoàn Kiếm năm 2004 Báo cáo kết quả kinh doanh của Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm năm 2005, 2006, 2007. Quy định cho vay đối với các tổ chức kinh tế ban hành kèm theo Quyết định số 072/QĐ-HĐQT-NHCT35 ngày 3/4/2006 của Hội đồng quản trị NHCT. Quy trình kiểm tra, giám sát vốn vay, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng trong hệ thống NHCT số QT.35.03 Các trang web: www.sbv.gov.vn, www.diendandoanhnghiep.com.vn, www.vietnamnet.com MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1. NHTM : Ngân hàng thương mại 2. NHNN : Ngân hàng Nhà nước 3. NHCT : Ngân hàng Công thương 4. TCTD : Tổ chức tín dụng 5. DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước 6. CV : Cho vay 7. CVNQD : Cho vay ngoài quốc doanh 8. DN : Doanh nghiệp 9. WTO : Tổ chức thương mại thế giới 10. TSĐB : Tài sản đảm bảo 11.GTCG : Giấy tờ có giá DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn …………………………………….… 30 Bảng 2.2: Hoạt động tín dụng …………………………………………… 31 Bảng 2.3: Cơ cấu doanh số cho vay DNNN ………………………………38 Biều đồ 2.1. Doanh số cho vay theo thành phần kinh tế ………………….39 Biều đồ 2.2. Doanh số cho vay DNNN phân theo kỳ hạn ………………...40 Bảng 2.4: Cơ cấu dư nợ cho vay DNNN ………………………………. ...41 Biều đồ 2.3. Cơ cấu dư nợ cho vay của Chi nhánh …………………..........42 Biều đồ 2.4. Dư nợ cho vay DNNN phân theo kỳ hạn ……………………43 Bảng 2.5: Tỷ trọng doanh số thu nợ DNNN ……………………………..43 Bảng 2.6: Tình hình nợ quá hạn …………………………………………..45 Bảng 2.7: Tình hình dư nợ cho vay DNNN có TSĐB ……………………46 Biều đồ 2.5. Cơ cấu dư nợ cho vay DNNN có TSĐB ……………………..47 Bảng 2.8: Vòng quay vốn tín dụng DNNN ……………………………….48 Bảng 2.9: Tình hình lợi nhuận tín dụng DNNN …………………………..49 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28588.doc