Nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội

MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ TÓM TẮT LUẬN VĂN DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BIDV : Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam CN BHN : Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội NHTM : Ngân hàng thương mại TTQT : Thanh toán quốc tế NHNN : Ngân hàng nhà nước LNTT : Lợi nhuận trước thuế XK : Xuất khẩu NK : Nhập khẩu L/C : Thư tín dụng DVR : Dịch vụ ròng D/số : Doanh số DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: Các chỉ tiêu hoạt động chính của Chi nhánh Bắc Hà

doc98 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2788 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nội năm 2004-2007 43 Bảng 2.2 : Doanh số của nghiệp vụ chuyển tiền tại Chi nhánh Bắc Hà Nội qua các năm 2004 - 2007 51 Bảng 2.3: Doanh số của nghiệp vụ nhờ thu tại Chi nhánh Bắc Hà Nội qua các năm 2004 - 2007 52 Bảng 2.4: Doanh số của nghiệp vụ tín dụng chứng từ (L/C) tại Chi nhánh Bắc Hà Nội qua các năm 2004 - 2007 53 Bảng 2.5. Mục tiêu chất lượng thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Bắc Hà Nội 56 Bảng 2.6: Tổng hợp ý kiến khách hàng định kỳ tại Chi nhánh Bắc Hà Nội qua các năm 2004-2007 59 Bảng 2.7: Các chỉ tiêu định lượng phản ánh chất lượng TTQT tại Chi nhánh Bắc Hà Nội qua các năm 2004 – 2007 60 Bảng 2.8: Các dấu hiệu rủi ro tác nghiệp 66 Bảng 2.9: Cơ cấu khách hàng thanh toán quốc tế tại chi nhánh Bắc Hà Nội năm 2004-2007 68 MỞ ĐẦU TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI. Trong thế giới ngày càng hội nhập, toàn cầu hoá như hiện nay, các hoạt động mua bán giữa các nước càng có cơ hội phát triển, hầu như không có biên giới. Vì vậy, các nghiệp vụ và dịch vụ Ngân hàng thương mại hiện đại theo đó cũng được mở rộng và phát triển nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, trong đó có nghiệp vụ Thanh toán quốc tế. Là một mắt xích không thể thiếu trong chuỗi hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, hoạt động thanh toán quốc tế của các Ngân hàng ngày càng chứng tỏ vị trí và vai trò quan trọng của mình. Hoạt động thanh toán quốc tế không chỉ đơn giản là lựa chọn một phương thức thanh toán phù hợp hay sử dụng một phương tiện thanh toán thông dụng nào đó. Yêu cầu đặt ra là thanh toán quốc tế phải được thực hiện nhanh chóng, an toàn, chính xác và đạt hiệu quả đối với cả khách hàng và ngân hàng thương mại, hay chính là chất lượng thanh toán quốc tế. Chất lượng thanh toán quốc tế trực tiếp tác động vào việc rút ngắn thời gian chu chuyển vốn, giảm thiểu rủi ro liên quan, tới khả năng thanh toán của khách hàng, tạo điều kiện cho việc mở rộng và phát triển hoạt động ngoại thương của mỗi nước. Trước năm 1990, thanh toán quốc tế là nghiệp vụ độc quyền của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam thì nay đã trở thành một nghiệp vụ phổ biến tại nhiều ngân hàng thương mại, mang lại nguồn thu dịch vụ lớn, nâng cao vị thế của các ngân hàng trong quan hệ kinh tế quốc tế. Ngân Hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam tham gia cung cấp thanh toán quốc tế từ những năm đầu thập kỷ 90 và đã đạt được những thành quả to lớn. Tuy nhiên, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội mới chỉ chính thức triển khai hoạt động thanh toán quốc tế từ năm 2000. Chính vì vậy, hoạt động thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Bắc Hà Nội vẫn còn mới mẻ và gặp không ít khó khăn. Quy mô thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Bắc Hà Nội còn nhỏ, chất lượng thanh toán quốc tế còn thấp, các sản phẩm dịch vụ thanh toán quốc tế chủ yếu là các nghiệp vụ truyền thống, nhiều nghiệp vụ hiện đại chưa được áp dụng, khách hàng sử dụng thanh toán quốc tế ít, chưa thường xuyên. Việc tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế của Chi nhánh Ngân Hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội là một nhu cầu bức thiết, một đòi hỏi khách quan không chỉ đối với sự phát triển kinh tế trên địa bàn mà còn với Ban lãnh đạo Ngân hàng, từng cán bộ trực tiếp thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế . Xuất phát từ thực tế đó, em đã chọn “Nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội” làm đề tài luận văn. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU. Các giải pháp nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế tại các Ngân hàng Thương mại nói chung đã được đề cập ở một số các nghiên cứu trước đây. Ở cấp độ thạc sỹ có một số đề tài liên quan đến nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế tại một số chi nhánh Ngân hàng Công thương, Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn....Tuy nhiên, các đề tài này chưa nêu bật được nội dung của chất lượng thanh toán quốc tế, phân tích thực trạng chưa đầy đủ, các giải pháp đưa ra còn mang tính chung chung. Mặt khác, chất lượng thanh toán quốc tế tại những Chi nhánh non trẻ vẫn còn nhiều bất cập về quy mô tổ chức, về quy trình thực hiện, với những khó khăn khi gia nhập thị trường muộn trong một môi trường cạnh tranh như Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội chưa được nghiên cứu và tìm hiểu cụ thể. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU. Làm rõ vị trí và tầm quan trọng của chất lượng thanh toán quốc tế đối với ngân hàng thương mại và yêu cầu phải nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại trong bối cảnh kinh tế hiện nay. Trên cơ sở phân tích thực trạng chất lượng thanh toán quốc tế qua các năm với những khó khăn, tồn tại riêng của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài là chất lượng thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội từ năm 2004-2007 trong môi trường kinh doanh nhiều biến động trên địa bàn. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. - Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích thông tin kinh tế theo chỉ tiêu, phương pháp so sánh, tổng hợp,...trên cơ sở các số liệu thống kê của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội năm 2004-2007. - Luận văn dựa trên lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin, của phép biện chứng duy vật, đồng thời căn cứ vào đường lối chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. DỰ KIẾN ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN. - Phân tích rõ kết quả và hạn chế của chất lượng thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội trong thời gian qua. - Tìm hiểu nguyên nhân của những hạn chế trong chất lượng thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội. - Đóng góp một số giải pháp nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN. Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Chất lượng thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng chất lượng thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội. CHƯƠNG 1 CHẤT LƯỢNG THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ Cơ sở hình thành thanh toán quốc tế Một quốc gia khó có thể sản xuất mọi thứ mình cần. Điều kiện tự nhiên, địa lý, trình độ phát triển và các yếu tố khác của mỗi nước xác định phạm vi và năng lực sản xuất của nước đó. Điều này nói lên rằng, các quốc gia luôn luôn phụ thuộc lẫn nhâu về rất nhiều loại hàng hoá cần thiết cho sản xuất và tiêu dùng. Một nước sẽ nhập khẩu những hàng hoá có nhu cầu từ những nước chuyên sản xuất các mặt hàng này với giá rẻ, đồng thời xuất khẩu những hàng hoá của mình có ưu thế về năng suất lao động cho những nước có nhu cầu, nhằm tận dụng lợi thế so sánh (tuyệt đối và tương đối) trong ngoại thương. Sự di chuyển hàng hoá giữa các nước tạo nên hoạt động xuất nhập khẩu của một quốc gia. Việc mua bán giữa các quốc gia thường kết thúc bằng việc bên mua thanh toán, nhận hàng và bên bán giao hàng, nhận tiền theo các điều kiện, điều khoản quy định trong hợp đồng mua bán. Hai bên mua bán có thể thoả thuận các phương thức thanh toán như ứng trước, ghi sổ, nhờ thu hay tín dụng chứng từ., thông qua đó người mua trả tiền còn người bán thu tiền. Người mua và người bán không thanh toán trực tiếp cho nhau mà thông qua sự trợ giúp của Ngân hàng. Qua phân tích trên cho thấy, thanh toán quốc tế được bắt nguồn từ hoạt động ngoại thương, và mục đích chính của thanh toán quốc tế là để hỗ trợ và phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu giữa các nước diễn ra một cách trôi chảy và hiệu quả. Vì thanh toán quốc tế được thực hiện qua hệ thống ngân hàng nên khi nói đến thanh toán quốc tế là nói đến hoạt động thanh toán của ngân hàng thương mại và không một ngân hàng thương mại nào lại không muốn phát triển các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế trong đó lấy thanh toán quốc tế làm trọng tâm phát triển. Khái niệm thanh toán quốc tế Quan hệ quốc tế giữa các nước bao gồm nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hoá, khoa học kỹ thuật…trong đó quan hệ kinh tế (mà chủ yếu là ngoại thương) chiếm vị trí chủ đạo, là cơ sở cho các quan hệ quốc tế khác tồn tại và phát triển. Quá trình tiến hành các hoạt động quốc tế dẫn đến nhu cầu chi trả, thanh toán giữa các chủ thể ở các nước khác nhau từ đó hình thành và phát triển hoạt động thanh toán quốc tế, trong đó ngân hàng là cầu nối trung gian giữa các bên. Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả và quyền hưởng lợi về tiền tệ phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức, cá nhân nước này với tổ chức, cá nhân nước khác, hay giữa một quốc gia với tổ chức quốc tế, thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các nước liên quan. Từ khái niệm trên cho thấy thanh toán quốc tế phục vụ cho hai lĩnh vực hoạt động là kinh tế và phi kinh tế, tuy nhiên trong thực tế giữa hai lĩnh vực này thường giao thoa với nhau. Chính vì vậy, trong các quy chế về thanh toán và thực tế tại các NHTM, người ta thường phân loại hoạt động thanh toán quốc tế thành hai lĩnh vực rõ ràng là: thanh toán trong ngoại thương (hay thanh toán mậu dịch) và thanh toán phi ngoại thương (hay thanh toán phi mậu dịch) Thanh toán phi ngoại thương là việc thực hiện thanh toán không liên quan đến hàng hoá xuất nhâp khẩu cũng như cung ứng lao vụ cho nước ngoài, nghĩa là thanh toán cho các hoạt động không mang tính thương mại. Đó là việc chi trả các chi phí của các cơ quan ngoại giao ở nước ngoài, các chi phí đi lại của các đoàn khách nhà nước, tổ chức và cá nhân, các nguồn tiền quà biếu, trợ cấp của cá nhân người nước ngoài cho cá nhân trong nước, các nguồn trợ cấp của một tổ chức từ thiện nước ngoài cho tổ chức, đoàn thể trong nước... Thanh toán quốc tế trong ngoại thương là việc thực hiện trên cơ sở hàng hoá xuất nhập khẩu, và cung ứng các dịch vụ thương mại cho nước ngoài theo giá cả thị trường quốc tế. Cơ sở để các bên tiến hành mua bán và thanh toán cho nhau là hợp đồng ngoại thương. Vai trò của thanh toán quốc tế Trong xu thế kinh tế thế giới ngày càng được quốc tế hoá, các quốc gia đang ra sức phát triển kinh tế thị trường, mở cửa, hợp tác và hội nhập, thanh toán quốc tế nổi lên như là chiếc cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với phần kinh tế thế giới bên ngoài. Nó có tác dụng bôi trơn và thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ, đầu tư nước ngoài, thu hút kiều hối và các quan hệ tài chính, tín dụng quốc tế khác. Trong thương mại quốc tế, không phải lúc nào các nhà xuất nhập khẩu cũng có thể thanh toán tiền hàng trực tiếp cho nhau, mà thường phải thông qua ngân hàng thương mại với mạng lưới chi nhánh và hệ thống ngân hàng đại lý rộng khắp toàn cầu. Với vai trò trung gian thanh toán, các ngân hàng tiến hành thanh toán theo yêu cầu của khách hàng, bảo vệ quyền lợi của khách hàng trong giao dịch thanh toán; tư vấn, hướng dẫn những biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ TTQT nhằm hạn chế rủi ro, tạo sự tin tưởng cho khách hàng trong quan hệ giao dịch mua bán với nước ngoài. Mặt khác, trong quá trình thực hiện thanh toán quốc tế, khách hàng không đủ năng lực về vốn sẽ cần sự tài trợ của ngân hàng. Ngân hàng sẽ thực hiện tài trợ xuất nhập khẩu cho khách hàng một cách chủ động và tích cực. Thanh toán quốc tế ngày càng trở thành một dịch vụ quan trọng đối với các NHTM. Nó đem lại nguồn thu đáng kể không những về số lượng tuyệt đối mà cả về tỷ trọng. Thanh toán quốc tế còn là một mắt xích liên kết và thúc đẩy phát triển các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng như kinh doanh ngoại tệ, tài trợ xuất nhập khẩu, bảo lãnh ngân hàng trong ngoại thương, tăng cường huy động vốn, đặc biệt là vốn bằng ngoại tệ…Vì vậy, việc hoàn thiện và phát triển hoạt động TTQT là yêu cầu tất yếu đối với hoạt động ngân hàng. Do nghiệp vụ ngân hàng quốc tế phát triển mạnh mẽ, thuận tiện, an toàn và hiệu quả nên hầu hết các hoạt động thanh toán quốc tế đều diễn ra thông qua hệ thống ngân hàng, đồng thời hoạt động thanh toán quốc tế đã phát triển theo một tập quán thống nhất trên quy mô toàn thế giới qua các phương thức thanh toán quốc tế khác nhau. Đặc điểm, điều kiện thương mại trong thanh toán quốc tế Đặc điểm trong thanh toán quốc tế Từ khái niệm thanh toán quốc tế nêu trên, có thể thấy hoạt động thanh toán quốc tế có ba đặc điểm cơ bản sau: + Chủ thể của hoạt động thanh toán quốc tế là những bên có trụ sở đặt tại các quốc gia khác nhau, chịu sự chi phối điều chỉnh của luật pháp ở các quốc gia khác nhau. Luật quốc gia đã trở thành nền tảng pháp lý để bảo vệ quyền lợi của các pháp nhân tham gia hoạt động thanh toán quốc tế, dù đó là người xuất khẩu - người nhập khẩu, Ngân hàng hay khách hàng tham gia hoạt động thanh toán quốc tế. + Bên cạnh đó, hoạt động thanh toán quốc tế còn chịu sự chi phối, điều chỉnh của luật pháp quốc tế, cụ thể hoá tại nhiều văn bản, quy phạm pháp luật quốc tế như: Các điều kiện thương mại quốc tế (Incoterms 2000), Quy tắc thực hành thống nhất tín dụng chứng từ (Bản sửa đổi 1993, Phòng Thương mại Quốc tế Paris – UCP600), Quy tắc thống nhất về nhờ thu (1995 - URC 522).... + Tiền tệ dùng để thanh toán giữa hai bên là ngoại tệ đối với ít nhất một trong hai bên. Những đặc điểm cơ bản trên đã tạo nên đặc thù riêng của hoạt động thanh toán quốc tế trong các ngân hàng thương mại. Các điều kiện thương mại trong thanh toán quốc tế Trong quan hệ thanh toán giữa các nước, các vấn đề có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ mà đôi bên phải đề ra để giải quyết và thực hiện được quy định lại thành những điều kiện gọi là điều kiện thanh toán quốc tế. Chúng ta cần phải nghiên cứu kỹ các điều kiện thanh toán quốc tế để có thể vận dụng chúng một cách tốt nhất trong việc ký kết và thực hiện các hợp đồng mua bán ngoại thương nhằm đạt được các yêu cầu đặt ra. Khi xuất khẩu: + Bảo đảm chắc chắn thu được đúng, đủ, kịp thời tiền hàng, thu về càng nhanh càng tốt. + Bảo đảm giữ vững giá trị thực tế của số thu nhập ngoại tệ khi có những biến động của tiền tệ xảy ra. + Góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, củng cố, mở rộng thị trường và phát triển thêm thị trường mới. Khi nhập khẩu: + Bảo đảm chắc chắn nhập được hàng đúng số lượng và chất lượng, đúng thời hạn. + Trong các điều kiện khác không thay đổi thì trả tiền càng chậm, càng tốt. + Góp phần làm cho việc nhập khẩu đúng theo yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Điều kiện tiền tệ Điều kiện tiền tệ là việc sử dụng đơn vị tiền tệ của nước nào để tính toán và thanh toán hàng hoá xuất, nhập khẩu trong hợp đồng, đồng thời quy định cách xử lý khi giá trị đồng tiền biến động trong quá trình thực hiện hợp đồng. Việc sử dụng đồng tiền nào là tiền thanh toán trong hợp đồng mua bán ngoại thương, trong hiệp định thương mại và trả tiền giữa các nước nói chung phụ thuộc vào các yếu tố sau: + Sự so sánh lực lượng của hai bên mua và bán; + Vị trí của đồng tiền đó trên thị trường quốc tế; + Tập quán sử dụng đồng tiền thanh toán trên thế giới; + Đồng tiền thanh toán thống nhất trong các khu vực kinh tế trên thế giới. Điều kiện địa điểm thanh toán: Trong thanh toán quốc tế giữa các nước, bên nào cũng muốn trả tiền tại nước mình, lấy nước mình làm địa điểm thanh toán vì có những lợi thế sau đây: + Có thể đến ngày trả tiền mới phải chi tiền ra, đỡ đọng vốn nếu là người nhập khẩu hoặc có thể thu tiền về nhanh chóng nên luân chuyển vốn nhanh nếu là người xuất khẩu; + Ngân hàng nước mình thu được phí nghiệp vụ; + Có thể tạo điều kiện nâng cao được địa vị của thị trường tiền tệ nước mình trên thế giới. Trong thanh toán ngoại thương, địa điểm thanh toán có thể ở nước người nhập khẩu hoặc ở nước người xuất khẩu hoặc nước thứ ba. Nhưng trong thực tế, việc xác định địa điểm thanh toán là do sự tương quan so sánh lực lượng giữa hai bên trong quan hệ thương mại, đồng thời đồng tiền thanh toán của nước nào thì địa điểm thanh toán thường là ở nước ấy. Điều kiện thời gian thanh toán: Điều kiện thời gian thanh toán có quan hệ chặt chẽ tới việc luân chuyển vốn, lợi tức, khả năng có thể tránh được những biến động về tiền tệ thanh toán. Do đó, nó là vấn đề quan trọng và thường xảy ra tranh chấp giữa các bên trong đàm phán ký kết hợp đồng. Trong thanh toán quốc tế, điều kiện thời gian thanh toán thường có ba cách quy định: - Trả tiền trước: Sau khi ký hợp đồng hoặc sau khi bên xuất khẩu chấp nhận đơn đặt hàng của bên nhập khẩu, nhưng trước khi giao hàng thì bên nhập khẩu đã trả cho bên xuất khẩu toàn bộ hay một phần số tiền hàng. Trả tiền trước có thể là với mục đích của người nhập khẩu cấp tín dụng ngắn hạn cho người xuất khẩu. Song cũng có loại trả tiền trước với mục đích nhằm đảm bảo thực hiện hợp đồng của người nhập khẩu. Trả tiền ngay: Trả tiền ngay sau khi người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng (chưa đưa lên phương tiện vận tải); hoặc khi người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng trên phương tiện vận tải tại nơi giao hàng đã quy định; khi người mua nhận được bộ chứng từ thanh toán từ người bán; khi người mua nhận xong hàng hoá tại nơi quy định. Trả tiền sau: Sau một thời gian nhất định kể từ khi người bán hoàn thành nghĩa vụ của mình thì người mua mới phải trả tiền. Trong trường hợp này, người bán đã cấp tín dụng cho người mua, tạo điều kiện để người mua sử dụng hàng hoá khi chưa đủ vốn, còn người bán có thể tiêu thụ được hàng hoá và mở rộng thị trường. Điều kiện về phương thức thanh toán Các phương thức thanh toán phổ biến nhất thường được áp dụng hiện nay: Phương thức trả tiền mặt Phương thức chuyển tiền Phương thức ghi sổ Phương thức nhờ thu Phương thức tín dụng chứng từ Điều kiện về cơ sở giao hàng Điều kiện cơ sở giao hàng quy định những cơ sở có tính nguyên tắc của việc giao nhận hàng hoá giữa bên bán với bên mua. Những cơ sở đó là: Sự phân chia giữa bên bán với bên mua các trách nhiệm tiến hành việc giao nhận hàng như: thuê mướn công cụ vận tải (thuê tàu, lưu cước…), bốc hàng, dỡ hàng, mua bảo hiểm, khai hải quan, nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu… Sự phân chia giữa hai bên các chi phí về giao hàng như chi phí chuyên chở hàng, chi phí bốc hàng, chi phí, dỡ hàng, chi phí lưu kho, chi phí mua bảo hiểm, tiền thuế… Sự di chuyển từ người bán sang người mua những rủi ro và tổn thất về hàng hoá. Do nội dung của các điều kiện cơ sở giao hàng khá rộng nên mỗi nước, mỗi khu vực có cách giải thích khác nhau về cùng một điều kiện buôn bán quốc tế. Cho đến nay, cách giải thích được nhiều người áp dụng là “Quy tắc quốc tế giải thích các điều kiện thương mại” được nêu trong cuốn “Điều kiện thương mại quốc tế - Incoterm 2000” do phòng Thương mại quốc tế soạn và phát hành. Ngân hàng đại lý- quan hệ tài khoản trong thanh toán quốc tế Ngân hàng đại lý Thanh toán quốc tế được thực hiện chủ yếu bằng chuyển khoản qua ngân hàng, bù trừ (clearing) trên các tài khoản mở tại ngân hàng của nhau. Để tiến hành thanh toán cho nhau, các ngân hàng ở các nước liên quan phải thiết lập quan hệ ngân hàng đại lý trên cơ sở một thỏa ước ngân hàng. Các nội dung chủ yếu của thỏa ước bao gồm: Các mẫu chữ ký có liên quan; Các mã khóa Telex, Swift (nếu có); Các điều khoản và điều kiện; Danh mục ngân hàng đại lý; Báo cáo thường niên; Hợp đồng tín dụng… Tài khoản Nostro và tài khoản Vostro Tài khoản Nostro là tài khoản của Ngân hàng A mở tại Ngân hàng đại lý. Tài khoản Vostro là tài khoản của Ngân hàng đại lý mở tại Ngân hàng A. Các công cụ dùng trong thanh toán quốc tế Để tiến hành các nghiệp vụ thanh toán quốc tế được thuận tiện, có hiệu quả, các bên tham gia thanh toán phải lựa chọn và sử dụng một trong một trong các phương tiện thanh toán Séc, Hối phiếu, Kỳ phiếu hay Thẻ thanh toán. Hối phiếu: Theo công ước quốc tế ký về hối phiếu (Uniform Law for Bill of Exchange) năm 1930, Hối phiếu được hiểu là một tờ lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát cho người khác, yêu cầu người này khi nhận hối phiếu, hoặc đến một ngày nhất định ghi trên hối phiếu phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó, hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác, hoặc trả cho người cầm hối phiếu. Đặc trưng của hối phiếu Tính bắt buộc trả tiền của hối phiếu: Người có nghĩa vụ trả tiền không thể viện bất cứ lý do nào từ chối thanh toán số tiền ghi trên hối phiếu (trừ trường hợp hối phiếu lập trái với luật chi phối nó). Tính trừu tượng của hối phiếu: trên hối phiếu không ghi rõ lý do phát sinh hối phiếu mà chỉ ghi số tiền phải trả. Tính lưu thông của hối phiếu: hối phiếu có thể chuyển nhượng được một hay nhiều lần trong phạm vi thời hạn của nó. Séc (Cheque) Theo công ước quốc tế ký về Séc tại Giơnevơ năm 1931, Séc là tờ lệnh trả tiền vô điều kiện của chủ tài khoản yêu cầu ngân hàng trích từ tài khoản của mình trả cho người thụ hưởng (có tên ghi trên Séc hay người cầm Séc) một số tiền nhất định. Với khái niệm séc như trên, để có thể sử dụng phương tiện này cần đảm bảo các điều kiện sau: Người sử dụng séc phải là khách hàng của Ngân hàng có tiền trên tài khoản mở tại Ngân hàng. Số tiền ghi trên tờ séc nằm trong số dư tài khoản. Séc là ấn chỉ của Ngân hàng giao cho khách hàng sử dụng nên séc được in theo mẫu, người ký phát phải ghi đầy đủ, chính xác các nội dung trên séc Người thụ hưởng séc phải chuyển cho ngân hàng của người ký phát séc trong thời hạn hiệu lực của tờ séc. Séc được sử dụng phổ biến không chỉ trong nội địa mà còn được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế về hàng hoá, cung ứng lao động, dịch vụ và các chi trả phi mậu dịch khác. Kỳ Phiếu: Kỳ phiếu là cam kết trả tiền do người nợ viết ra trả tiền cho người hưởng lợi. Với tính thụ động trong thanh toán như trên nên ít được sử dụng trong thanh toán quốc tế. Thẻ Thanh toán: Thẻ là một công cụ thanh toán không dùng tiền mặt do Ngân hàng phát hành và cung cấp cho khách hàng sử dụng để trả tiền hàng hoá, dịch vụ, các khoản thanh toán khác và rút tiền mặt tại các quầy tự động. Thẻ không những được sử dụng trong thanh toán trong nước mà còn sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế. Thẻ thanh toán là hình thức thanh toán không dùng tiền mặt ứng dụng công nghệ điện tử, tin học kỹ thuật cao, do một tổ chức nhất định phát hành theo yêu cầu và khả năng chi trả của khách hàng. Thẻ giúp cho người sử dụng có thể thanh toán các khoản mua hàng hoá một cách nhanh chóng, thuận tiện, chính xác và an toàn. Khi thực hiện thanh toán quốc tế, nơi chấp nhận thanh toán thẻ phải ký hợp đồng thanh toán thẻ với trung tâm thanh toán thẻ quốc tế và phải sử dụng thiết bị chuyên dụng trong thanh toán. Các phương thức thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại Phương thức thanh toán quốc tế là toàn bộ quá trình, điều kiện quy định để người mua trả tiền và nhận hàng, còn người bán nhận tiền và mua hàng trong thương mại quốc tế. Trong thực tế, điều kiện quy định để các bên giao nhận hàng hoá và chi trả tiền là rất đa dạng, do đó tồn tại nhiều phương thức thanh toán quốc tế khác nhau, trong đó mỗi phương thức đều có ưu điểm và nhược điểm nhất định. Việc lựa chọn phương thức thanh toán thích hợp phải được hai bên xuất khẩu và nhập khẩu bàn bạc thống nhất, ghi vào hợp đồng ngoại thương. Các bên liên quan trong các phương thức thanh toán quốc tế bao gồm: người mua, người bán và các đại lý; các ngân hàng (phục vụ người mua, phục vụ người bán, trung gian); người chuyên chở; người bảo hiểm; Chính phủ và các tổ chức thương mại. Phương thức chuyển tiền Chuyển tiền là một nghiệp vụ của ngân hàng, trong đó khách hàng (người chuyển tiền) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi) ở một địa điểm nhất định và trong một thời gian nhất định. Có thể nói, chuyển tiền là nghiệp vụ thanh toán đơn giản, trong đó người chuyển tiền và người nhận tiền tiến hành thanh toán trực tiếp với nhau. Ngân hàng khi thực hiện chuyển tiền chỉ đóng vai trò trung gian thanh toán theo uỷ nhiệm để hưởng phí và không bị ràng buộc bất cứ trách nhiệm gì đối với người chuyển và người thụ hưởng. Trong thanh toán bằng chuyển tiền, việc có trả tiền hay không phụ thuộc vào thiện chí của người mua. Người mua sau khi nhận hàng có thể không tiến hành chuyển tiền, hoặc cố tình dây dưa, kéo dài thời hạn chuyển tiền nhằm chiếm dụng vốn của người bán, do đó làm cho quyền lợi của người bán không được đảm bảo. Chính vì nhược điểm này mà trong ngoại thương chuyển tiền thường chỉ được áp dụng trong các trường hợp các bên mua bán có uy tín và tin cậy lẫn nhau. Phương thức ghi sổ Đây là phương thức thanh toán trong đó nhà xuất khẩu sau khi hoàn thành giao hàng thì ghi Nợ tài khoản cho bên nhập khẩu vào một cuốn sổ theo dõi. Việc thanh toán các khoản nợ này được thực hiện theo định kỳ như đã thoả thuận. Như vậy, về thực chất đây là phương thức thanh toán nợ còn khất lại, ngược với phương thức thanh toán ứng trước. Từ khái niệm trên cho thấy, phương thức ghi sổ có các đặc điểm: không có sự tham gia của ngân hàng; chỉ mở tài khoản đơn biên; hai bên mua bán phải thực sự tin tưởng lẫn nhau; dùng chủ yếu trong mua bán hàng đổi hàng hay cho một loạt các chuyến hàng thường xuyên, định kỳ trong một thời gian nhất định; giá hàng trong phương thức ghi sổ thường cao hơn giá hàng bán trả tiền ngay. Phương thức nhờ thu Phương thức thanh toán nhờ thu là phương thức thanh toán mà người xuất khẩu sau khi giao hàng hoặc cung ứng một dịch vụ nào đó cho nhà nhập khẩu tiến hành uỷ thác cho Ngân hàng thu hộ tiền trên cơ sở hối phiếu hoặc chứng từ do người xuất khẩu lập. Trong phương thức nhờ thu, các ngân hàng tham gia vào quá trình thanh toán sâu rộng và toàn diện hơn so với phương thức chuyển tiền hay ghi sổ. Mức độ tham gia của các ngân hàng vào quá trình nhờ thu phụ thuộc hoàn toàn vào nội dung các chỉ thị và những gì (chứng từ) mà người bán uỷ quyền cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ. Điểm cần lưu ý là bất kể nội dung, phạm vi, các chỉ thị mà người bán đưa ra và mức độ tham gia của ngân hàng vào nhờ thu, thì hành động của ngân hàng luôn tuân theo các quy tắc chuẩn quốc tế, đó là Uniform Rules For Collections - Qui tắc thống nhất về nhờ thu và theo tập quán thực hành ngân hàng quốc tế. Các loại nhờ thu căn bản: Nhờ thu phiếu trơn (Clean Collections) Nhờ thu phiếu trơn là phương thức thanh toán, trong đó, người bán gửi hàng và bộ chứng từ thương mại trực tiếp cho người mua, sau đó gửi yêu cầu đòi tiền (hối phiếu ký phát) qua ngân hàng phục vụ mình để ngân hàng này thu hộ số tiền hối phiếu. Trong phương thức nhờ thu phiếu trơn, người bán mất quyền kiểm soát hàng hoá và chưa được thanh toán cũng như không có bảo lãnh thanh toán ngay từ lúc hàng gửi đi, do đó rủi ro thanh toán hoàn toàn thuộc về người bán. Nhờ thu kèm chứng từ dạng D/A (Document Collection D/A) Đây là nhờ thu, trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền trên cơ sở bộ chứng từ. Bộ chứng từ nhờ thu bao gồm yêu cầu đòi tiền (hối phiếu) và kèm theo chứng từ thương mại. Điều kiện trao bộ chứng từ thương mại cho người mua đi nhận hàng là: người mua phải ký chấp nhận thanh toán hối phiếu tại một thời điểm nhất định trong tương lai với chỉ thị rằng “Document against Acceptance – D/A”. Như vậy, trong phương thức này thì rủi ro thanh toán hoàn toàn vẫn thuộc về người bán, bởi vì người mua nhận hàng chỉ với lời hứa sẽ được thanh toán trong tương lai, còn việc thanh toán hay không thì chưa chắc chắn. Nhờ thu kèm chứng từ dạng D/P (Document Collections D/P) Điều kiện trao bộ chứng từ thương mại trong phương thức này là: trao chứng từ khi được thanh toán “Document against Payment – D/P”. Do chứng từ chỉ được trao khi nhận được thanh toán, do đó rủi ro đối với người bán có giảm so với phương thức D/A. Bởi vì, nếu người mua không thanh toán thì người bán vẫn còn nguyên quyền định đoạt hàng hoá. Phương thức tín dụng chứng từ Phương thức tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán quốc tế được sử dụng rộng rãi nhất và ưu việt hơn cả trong thanh toán quốc tế, chiếm khoảng 70% giá trị thanh toán. Theo Quy tắc và Thực hành thống nhất Tín dụng chứng từ, bản sửa đổi 1993, số xuất bản 600 Phòng Thương mại quốc tế Paris thì Tín dụng thư nghĩa là bất cứ thoả thuận được gọi hoặc miêu tả như thế nào, theo đó ngân hàng (ngân hàng phát hành) hành động theo yêu cầu và chỉ thị của khách hàng (người yêu cầu mở Tín dụng thư) hoặc đại diện cho chính bản thân mình: Thanh toán cho, hoặc theo lệnh của phía thứ ba (người hưởng) hoặc chấp nhận và thanh toán hối phiếu do Người hưởng ký phát hoặc: Uỷ quyền cho ngân hàng khác thanh toán, chấp nhận và thanh toán hối phiếu hoặc Cho phép ngân hàng khác chiết khấu chứng từ quy định trong Tín dụng thư, với điều kiện chúng phù hợp với tất cả các điều khoản và điều kiện của Tín dụng thư. Trong phương thức chuyển tiền, ngân hàng đơn thuần chỉ thực hiện chức năng chuyển tiền theo yêu cầu của người mua và nhận tiền hộ người bán. Trong nhờ thu, các ngân hàng tham gia xử lý chứng từ do người bán gửi đến và hành động với vai trò là đại lý của người bán. Tuy nhiên, trong phương thức tín dụng chứng từ, các ngân hàng đã tham gia chủ động và tích cực hơn nhiều, theo đó các ngân hàng thực hiện trả tiền theo cam kết của mình. Trong phương thức tín dụng chứng từ, có ba mối quan hệ hợp đồng được hình thành: Thứ nhất, quan hệ hợp đồng giữa người mua và người bán, được thể hiện bằng các điều khoản quy định trong hợp đồng mua bán (bao gồm điều khoản quy định về phương thức thanh toán). Nếu người mua và người bán đồng ý chọn phương thức tín dụng chứng từ thì nó cũng phải được thể hiện thành điều khoản trong hợp đồng mua bán. Thứ hai, quan hệ hợp đồng giữa người mua (người đề nghị mở L/C) và ngân hàng phục vụ người mua (ngân hàng phát hành L/C). Thứ ba, quan hệ hợp đồng giữa ngân hàng phục vụ người mua (ngân hàng phát hành L/C) và người thụ hưởng L/C (người bán). Mối quan hệ này là hệ quả của hai mối quan hệ trên nhưng lại là một nghĩa vụ hợp đồng độc lập của ngân hàng phát hành L/C. Nghĩa vụ của ngân hàng phát hành được quy định tại điều 2,3,4 trong “Uniform Customs and Practice for Documentary Credit” số xuất bản 600. Theo đó, nghĩa vụ của Ngân hàng phát hành đối với người thụ hưởng là không huỷ ngang và vô điều kiện (nghĩa là ngân hàng không được n._.êu lý do từ chối thanh toán nếu người bán đã tuân thủ đầy đủ các điều kiện của L/C). CHẤT LƯỢNG THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Quan điểm về chất lượng thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại Chất lượng là một khái niệm quá quen thuộc với loài người ngay từ những thời cổ đại, tuy nhiên chất lượng cũng là một khái niệm gây nhiều tranh cãi. Đứng trên những góc độ khác nhau và tùy theo mục tiêu, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh mà cá doanh nghiệp có thể đưa ra những quan điểm về chất lượng khác nhau. Quan điểm xuất phát từ sản phẩm cho rằng chất lượng sản phẩm được phản ánh bởi các thuộc tính đặc trưng của sản phẩm đó. Theo quan điểm của các nhà sản xuất thì chất lượng là sự hoàn hảo và phù hợp của một sản phẩm với một tập hợp các yêu cầu hoặc tiêu chuẩn, quy cách đã xác định trước. Xuất phát từ người tiêu dùng, chất lượng được định nghĩa là sự phù hợp của sản phẩm với mục đích sử dụng của người tiêu dùng. Để giúp hoạt động quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp được thống nhất, dễ dàng, Tổ chức quốc tế về Tiêu chuẩn hóa (ISO) trong bộ tiêu chuẩn ISO 9000, phần thuật ngữ ISO 9000 đã đưa ra định nghĩa chất lượng: “Chất lượng là mức độ thỏa mãn của một tập hợp các thuộc tính đối với các yêu cầu”. Yêu cầu có nghĩa là những nhu cầu hay mong muốn được nêu ra hay tiềm ẩn. Định nghĩa chất lượng này thể hiện sự thống nhất giữa các thuộc tính nội tại khách quan của sản phẩm với đáp ứng nhu cầu chủ quan của khách hàng. Khi xã hội ngày càng phát triển, thu nhập của mỗi người ngày càng tăng lên thì nhu cầu đối với dịch vụ ngày càng đa dạng. Vì vậy, nâng cao chất lượng dịch vụ trở thành một vấn đề quan trọng. Theo ISO 8402, chất lượng dịch vụ là “Tập hợp các đặc tính của một đối tượng, tạo cho đối tượng đó khả năng thỏa mãn những yêu cầu đã nêu ra hoặc tiềm ẩn”. Cũng có thể hiểu chất lượng dịch vụ đó là sự thỏa mãn khách hàng được đo bằng hiệu số giữa chất lượng mong đợi và chất lượng đạt được. Mục tiêu của quản lý chất lượng dịch vụ bao gồm: Thỏa mãn khách hàng Liên tục cải tiến dịch vụ Quan tâm nghiên cứu các yêu cầu của xã hội và môi trường Đảm bảo tính hiệu quả trong cung ứng dịch vụ Từ khái niệm chung về chất lượng dịch vụ nêu trên, chúng ta liên hệ đến chất lượng của các dịch vụ mà một NHTM cung cấp. Một thực tế là, đối với NHTM hiện đại thì thu nhập từ phí dịch vụ có xu hướng ngày càng tăng không những về số lượng mà cả về tỷ trọng. Hơn nữa, các NHTM ngày nay hoạt động đa năng, tạo ra một dây chuyền kinh doanh khép kín, mỗi nghiệp vụ tạo ra một mắt xích không thể thiếu, trong đó hoạt động thanh toán quốc tế được xác định là nghiệp vụ căn bản, làm tiền đề cho các nghiệp vụ khác phát triển như kinh doanh ngoại tệ, tài trợ xuất nhập khẩu, bảo lãnh ngân hàng trong ngoại thương… Do đó, việc các NHTM chú trọng mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế là việc hiển nhiên và dễ hiểu. Không những vậy, NHTM còn phải không ngừng nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của doanh nghiệp, của nền kinh tế trong giai đoạn hội nhập hiện nay, tăng tính cạnh tranh và hiệu quả. Chất lượng thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại là mọi giao dịch thanh toán quốc tế phải được thực hiện nhanh chóng, chính xác, an toàn và hiệu quả. Việc thực hiện các giao dịch thanh toán quốc tế nhanh chóng là đảm bảo yêu cầu về thời gian của khách hàng cũng như quy định của ngân hàng và chuẩn mực quốc tế. Mặt khác, các giao dịch phải được thực hiện chính xác theo đề nghị của khách hàng về đơn vị thụ hưởng, số tiền, nội dung giao dịch, các điều khoản và điều kiện khác tùy theo phương thức thanh toán của khách hàng. Đồng thời, trong quá trình thanh toán ngân hàng phải đảm bảo an toàn trong giao dịch, không làm thất thoát tài sản của khách hàng cũng như ngân hàng, bảo mật các thông tin của khách hàng. Hơn nữa, các giao dịch thanh toán quốc tế cần được thực hiện một cách có hiệu quả. Về phía khách hàng, điều này thể hiện ở lợi ích thu được và các chi phí khách hàng phải trả khi sử dụng dịch vụ thanh toán quốc tế. Về phía ngân hàng, đó là lợi nhuận thu được từ hoạt động thanh toán quốc tế, hiệu quả tăng thêm của các nghiệp vụ hỗ trợ khác như tín dụng, tài trợ xuất nhập khẩu, mua bán ngoại tệ, bảo lãnh nước ngoài, huy động vốn cũng như tăng tính cạnh tranh, uy tín của ngân hàng. Để đánh giá chất lượng thanh toán quốc tế của NHTM, người ta thường xem xét cả quá trình cung cấp dịch vụ từ khâu tiếp thị khách hàng, tiếp nhận nhu cầu thanh toán, tư vấn, đến hồ sơ, chứng từ giao dịch, các quy trình tác nghiệp, thời gian thực hiện giao dịch, sự hỗ trợ khách hàng sau giao dịch, chính sách khách hàng, mức độ cạnh tranh của biểu phí áp dụng, hiệu quả của hoạt động TTQT. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại Chất lượng thanh toán quốc tế của NHTM được đánh giá bằng một hệ thống các chỉ tiêu định tính và định lượng thông qua tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của nó. Hiện nay, NHTM chưa có một chuẩn mực cụ thể nào đánh giá chất lượng thanh toán quốc tế. Theo quan điểm của tác giả, chất lượng TTQT của ngân hàng thương mại có thể đánh giá trên các chỉ tiêu sau: Các chỉ tiêu định tính: Thời gian thực hiện giao dịch Chỉ tiêu này phản ánh mức độ nhanh chóng để thực hiện xong giao dịch thanh toán quốc tế theo yêu cầu của khách hàng. Thời gian thực hiện giao dịch ở đây bao gồm những chuẩn mực của quốc tế quy định cho từng giao dịch và mục tiêu đặt ra của NHTM. Nó được đặt ra cho từng nghiệp vụ thanh toán quốc tế cụ thể và được công khai tới khách hàng để biết, theo dõi và lập kế hoạch thanh toán. Vì vậy, thời gian thực hiện giao dịch càng ngắn thì sẽ giúp khách hàng luân chuyển vốn nhanh, đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh, ngân hàng tiết kiệm được chi phí, tăng năng suất lao động, góp phần nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế. Trình độ chuyên môn của thanh toán viên Trình độ chuyên môn của thanh toán viên có tính quyết định đến sự nhanh chóng, chính xác, an toàn, hiệu quả của thanh toán quốc tế. Thanh toán viên nắm vững nghiệp vụ, có kinh nghiệm, giỏi ngoại ngữ, am hiểu nghiệp vụ ngoại thương thì có khả năng tư vấn tốt, tốc độ xử lý giao dịch, thao tác nghiệp vụ nhanh, đảm bảo được độ chính xác của giao dịch. Vì vậy, chất lượng thanh toán quốc tế sẽ cao, ngược lại trình độ chuyên môn yếu thì chất lượng thấp hoặc không đảm bảo. Các quy định, quy trình, văn bản áp dụng Các quy trình, văn bản quy định các yêu cầu, hồ sơ, trình tự thực hiện giao dịch, sự phân công trách nhiệm và nghĩa vụ của từng người, từng bộ phận có liên quan. Số lượng, phạm vi điều chỉnh, sự rõ ràng, cụ thể và khoa học của các quy trình bao gồm hết được tất cả các nghiệp vụ thanh toán quốc tế mà ngân hàng cung cấp sẽ đảm bảo khả năng thực hiện giao dịch nhanh chóng, chính xác, an toàn đồng thời kiểm soát được các rủi ro, góp phần đảm bảo chất lượng thanh toán quốc tế tốt. Do đó, việc hoàn thiện các quy trình thanh toán quốc tế tạo điều kiện để chất lượng thanh toán quốc tế được nâng cao, tăng tính cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng. Sự hài lòng của khách hàng Chất lượng thanh toán quốc tế chính là đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Vì vậy, chỉ tiêu này rất quan trọng, nó cho biết chất lượng đến đâu tương ứng với mức độ hài lòng của khách hàng. Để đo được chỉ tiêu này, thông thường các NHTM sẽ gửi các phiếu thăm dò ý kiếnkhách hàng. Trong phiếu này có các tiêu chí đánh giá như: trình độ chuyên môn của giao dịch viên, thái độ, tác phong giao dịch, số lượng hồ sơ, tài liệu giao dịch, mức độ an toàn, mức độ hài lòng của khách hàng khi giao dịch với ngân hàng. Mức độ hài lòng của khách hàng càng cao chứng tỏ chất lượng thanh toán càng tốt và ngược lại. Chỉ tiêu này thường được các NHTM tiến hành định kỳ, từ đó xác định được chất lượng thanh toán đến đâu để có những giải pháp cần thiết nâng cao, hoàn thiện. Các chỉ tiêu định lượng: Hệ thống chỉ tiêu đánh giá chất lượng thanh toán quốc tế của NHTM: Doanh thu từ hoạt động thanh toán quốc tế Khi thực hiện các yêu cầu của khách hàng có liên quan đến TTQT, ngân hàng thu được một khoản phí nhất định theo biểu phí dịch vụ của ngân hàng đối với từng nghiệp vụ cụ thể như: phí mở, tu chỉnh L/C, phí thanh toán L/C, phí gửi và thanh toán bộ chứng từ hàng xuất (L/C, nhờ thu), phí thanh toán chuyển tiền đi, chuyển tiền đến…Khi doanh thu phí TTQT tăng lên chứng tỏ hoạt động TTQT được mở rộng. Điều này cũng cho thấy chất lượng TTQT được nâng lên, thu hút thêm nhiều khách hàng đến giao dịch. Lợi nhuận từ hoạt động thanh toán quốc tế Chất lượng TTQT được phản ánh thông qua chỉ tiêu lợi nhuận từ hoạt động TTQT. Để xác định được lợi nhuận mang lại từ hoạt động TTQT, các ngân hàng phải tính được chi phí phát sinh cho hoạt động này. Nó bằng hiệu số giữa doanh thu TTQT và chi phí TTQT. Chỉ tiêu này tăng cao thể hiện chất lượng thanh toán quốc tế được nâng lên, ngược lại nó chỉ ra ngân hàng cần có những giải pháp để cải thiện chất lượng thanh toán. Số vụ khiếu nại do lỗi của ngân hàng gây ra Chất lượng TTQT được đánh giá thông qua số vụ khiếu nại do lỗi của ngân hàng gây ra. Việc khiếu nại ở đây liên quan đến các lỗi như thời gian thực hiện giao dịch chậm, không đúng quy định; chuyển nhầm điện, sai số tiền, sai tên người thụ hưởng, sai nội dung giao dịch…Số vụ khiếu nại càng ít chứng tỏ các giao dịch thanh toán quốc tế được thực hiện nhanh chóng, chính xác, an toàn, như vậy chất lượng TTQT càng cao. Số lỗi phát sinh trong quá trình tác nghiệp Trong quá trình thực hiện TTQT cho khách hàng, lỗi tác nghiệp phát sinh không thể tránh khỏi. Các lỗi phát sinh có ở tất cả các khâu, các nghiệp vụ từ thiếu hồ sơ, chứng từ đến lỗi trong quá trình soạn điện, hậu kiểm. Nếu quy trình TTQT chặt chẽ, cán bộ giỏi nghiệp vụ chuyên môn, công tác kiểm tra thường xuyên sẽ hạn chế được các lỗi nghiệp vụ phát sinh, hạn chế rủi ro và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Tỷ lệ Vụ khiếu nại trên Tổng số món thanh toán = Số vụ khiếu nại/Số món thanh toán Chỉ số này cho thấy chất lượng của thanh toán quốc tế, bao nhiêu số món thanh toán mới có một vụ khiếu nại. Chỉ số này càng nhỏ chất lượng TTQT càng tốt. Tỷ lệ lỗi tác nghiệp trên Tổng số giao dịch = Số lỗi tác nghiệp/Số giao dịch Chỉ số này cho thấy chất lượng của thanh toán quốc tế, thực hiện bao nhiêu giao dịch thì phát sinh một lỗi tác nghiệp. Chỉ số này càng nhỏ chất lượng TTQT càng tốt. Tỷ lệ Lợi nhuận TTQT trên Tổng số cán bộ TTQT = Lợi nhuận TTQT/ Số cán bộ TTQT Chỉ số này xác định năng suất lao động của một cán bộ TTQT trên hiệu quả mang lại từ hoạt động TTQT, cho thấy một cán bộ TTQT tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận TTQT. Tỷ lệ Doanh thu TTQT trên Tổng số cán bộ TTQT = Doanh thu TTQT/ Số cán bộ TTQT Chỉ số này xác định năng suất lao động của một cán bộ TTQT trên doanh thu từ hoạt động TTQT, cho thấy một cán bộ TTQT tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu TTQT. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thanh toán quốc tế có vai trò quan trọng trong việc đề ra giải pháp nâng cao chất lượng của nó. Nhìn chung, khi phân tích chất lượng thanh toán quốc tế cần đề cập đến các nhân tố ảnh hưởng chủ yếu sau: Các nhân tố khách quan Môi trường kinh tế trong nước Môi trường kinh tế bao gồm trình độ phát triển của nền kinh tế, sự tham gia của mọi thành viên vào hoạt động của thị trường với trình độ phát triển nhất định của sức sản xuất. Hoạt động ngân hàng thương mại trong một nền kinh tế ổn định và phát triển sẽ an toàn và hiệu quả hơn. Ngân hàng có thể tập trung phát triển các sản phẩm dịch vụ mới, mở rộng hoạt động trên phạm vi quốc tế, tạo khả năng cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế tốt hơn với chất lượng cao hơn. Môi trường chính trị Sự ổn định về chính trị sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế của một nước phát triển trong đó có hoạt động thương mại quốc tế, từ đó nhu cầu thanh toán xuất nhập khẩu sẽ tăng theo. Mọi rủi ro về chính trị như chiến tranh, bạo động, đình công, cấm vận kinh tế…. đều ảnh hưởng đến thương mại quốc tế, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán quốc tế của các ngân hàng thương mại. Môi trường pháp lý Hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại không những chịu sự chi phối bởi các cơ chế, chính sách, luật pháp trong nước và quốc tế mà còn phải tuân thủ theo những quy tắc, chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Một trong những chính sách ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu là chính sách tỷ giá. Ngân hàng nhà nước với vai trò quản lý vĩ mô trong điều hành chính sách tiền tệ có thể sử dụng công cụ tỷ giá hối đoái để khuyến khích xuất khẩu hay hạn chế nhập khẩu. Trong khi đó, việc thanh toán từ những hoạt động này đều thực hiện qua các NHTM nên đã ảnh hưởng đến chất lượng TTQT của các ngân hàng. Ngoài ra, chính sách quản lý ngoại hối của Ngân hàng nhà nước cũng có tác động trực tiếp đến hoạt động TTQT của NHTM. Thông qua quản lý ngoại hối, Nhà nước có thể kiểm soát và hạn chế nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài, điều này làm giảm khả năng thanh toán hàng nhập qua ngân hàng. Đồng thời, Nhà nước có thể sử dụng chính sách ngoại hối để hạn chế nguồn vốn đầu tư chảy ra nước ngoài hoặc thu hút các nguồn ngoại tệ từ nước ngoài về nước. Về luật pháp quốc tế, mặc dù Phòng thương mại quốc tế đã ban hành một số quy tắc, chuẩn mực quốc tế áp dụng cho các nước khi thực hiện các giao dịch thương mại quốc tế. Tuy nhiên, trong thực tế chúng vẫn còn những nhược điểm, sơ hở tạo điều kiện cho những kẻ lừa đảo, thiếu đạo đức kinh doanh lợi dụng gây nên những tổn thất cho các bên, ảnh hưởng đến chất lượng TTQT của các NHTM. Rủi ro trong thanh toán quốc tế Rủi ro trong thanh toán quốc tế là những rủi ro phát sinh trong quá trình thực hiện thanh toán quốc tế, phát sinh từ quan hệ giữa các bên tham gia thanh toán quốc tế như: nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu, các ngân hàng, các tổ chức, cá nhân trung gian…hoặc do những nhân tố khách quan gây nên như thiên tai, chiến tranh, chính trị… Phân loại rủi ro: Để đánh giá được rủi ro và đưa ra các giải pháp hữu hiệu nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro, chúng ta có thể phân loại rủi ro thành 2 nhóm chính: + Rủi ro thương mại: đối với người xuất khẩu là khả năng chi trả của người nhập khẩu; đối với người nhập khẩu là sự vi phạm các điều khoản hợp đồng thương mại của người xuất khẩu (thời hạn gửi hàng, số lượng, chất lượng hàng hóa, giá cả, điều kiện vận chuyển, điều kiện và thời gian thanh toán, nguồn gốc hàng hóa, bảo hiểm…) + Rủi ro thanh toán: đây là những bất ngờ gây tổn thất cho các bên tham gia thanh toán, đặc biệt là đối với các ngân hàng khi cung ứng dịch vụ thanh toán quốc tế. Rủi ro này bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro đạo đức, rủi ro quốc gia, rủi ro ngoại hối, rủi ro về tác nghiệp. Khách hàng Đối với hoạt động thanh toán quốc tế, khách hàng của NHTM là những doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, khách hàng có quan hệ đối tác với thương nhân nước ngoài. Các khách hàng này cần có kiến thức về nghiệp vụ ngoại thương, khả năng ngoại ngữ cũng như luật pháp nước ngoài, luật pháp quốc tế. Khi NHTM thu hút được các khách hàng có năng lực tài chính, kinh doanh tốt, sẽ tạo điều kiện để các giao dịch diễn ra thuận lợi, hạn chế những rủi ro trong TTQT cho cả ngân hàng và khách hàng, góp phần nâng cao chất lượng TTQT của ngân hàng. Nhân tố chủ quan của ngân hàng bao gồm: Quy mô hoạt động của ngân hàng Một ngân hàng có quy mô nhỏ, thiếu cả về vốn, nhân lực thì khả năng cung cấp sản phẩm dịch vụ có hạn. Nếu có triển khai thì cũng khó đáp ứng được yêu cầu của khách hàng cũng như việc kiểm soát rủi ro xảy ra. Vì thiếu vốn cho vay, ngân hàng sẽ không thể bảo đảm khả năng thanh toán đúng hạn của khách hàng, thiếu nhân lực giao dịch không thể thực hiện nhanh chóng với độ chính xác, an toàn cao. Mặt khác, vì quy mô nhỏ nên việc đầu tư cho hạ tầng công nghệ thông tin sẽ bị hạn chế, không có được các máy móc, thiết bị, chương trình hiện đại, tiên tiến, giúp việc thanh toán nhanh, hiệu quả hơn. Chiến lược kinh doanh của ngân hàng Nó ảnh hưởng ngay tới các sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, đi kèm với chất lượng tương ứng. Một ngân hàng tập trung phát triển hoạt động tín dụng, không chú trọng đến dịch vụ (thanh toán quốc tế) thì tất nhiên mức độ đầu tư về công nghệ, con người, các dịch vụ có thể cung cấp sẽ kém hơn. Như vậy, chất lượng dịch vụ của ngân hàng này không thể bằng ngân hàng khác có chiến lược tập trung đẩy mạnh các dịch vụ ngân hàng. Nhân tố con người, đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm công tác TTQT Trình độ, năng lực, kỹ năng, thái độ của đội ngũ cán bộ thanh toán quốc tế mang tính chất quyết định đến chất lượng thanh toán quốc tế của NHTM. Nếu các cán bộ thanh toán quốc tế giỏi chuyên môn nghiệp vụ, am hiểu hoạt động ngoại thương, có kiến thức về vận tải, bảo hiểm, hải quan, chính sách xuất nhập khẩu, giỏi ngoại ngữ thì rõ ràng chất lượng thanh toán quốc tế cao hơn. Vì họ có thể tư vấn cho khách hàng từ lúc ký kết hợp đồng, giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình thanh toán quốc tế, thời gian xử lý nghiệp vụ nhanh chóng, giao dịch được thực hiện chính xác, an toàn cũng như hỗ trợ khách hàng sau các giao dịch. Ngược lại, khách hàng được cung cấp dịch vụ thanh toán với chất lượng thấp hơn nếu cán bộ còn non về nghiệp vụ, kém kiến thức về ngoại thương và trình độ ngoại ngữ chỉ ở mức độ nhất định, thái độ phục vụ khách hàng không tận tình, chu đáo. Nền tảng công nghệ thông tin Đây là cơ sở để thanh toán quốc tế có thể thực hiện được nhanh chóng, chính xác, an toàn và bảo mật. Một hệ thống công nghệ thông tin mà khả năng kết nối chậm, các chương trình không được chuẩn hóa theo thông lệ quốc tế, khả năng nhập, kết xuất, lưu trữ dữ liệu thấp, mức độ kiểm soát và bảo mật kém thì sẽ không thể đáp ứng được yêu cầu về chất lượng thanh toán quốc tế. Chính vì vậy, các NHTM phải đầu tư để có được hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, đạt chuẩn quốc tế nhằm đáp ứng tốt hơn các nhu cầu đa dạng của khách hàng. Quá trình thực hiện và cung cấp dịch vụ Đó là việc tổ chức bộ máy, các quy trình, quy định để thực hiện thanh toán quốc tế. Khi các bộ phận được bố trí khoa học,các cán bộ tại các bộ phận đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ thì quá trình cung ứng dịch vụ thanh toán tới khách hàng sẽ nhanh chóng với đầy đủ thông tin cần thiết. Đồng thời, các quy trình đối với từng nghiệp vụ cụ thể được xây dựng, ban hành sát với thực tế, phù hợp với nền tảng công nghệ thông tin, phân công, phân nhiệm rõ ràng, đảm bảo việc thanh toán nhanh chóng, chính xác, an toàn sẽ cung cấp cho khách hàng các sản phẩm có chất lượng tốt. Chính sách khách hàng Các khách hàng mục tiêu và yêu cầu của họ phải được xác định rõ trong chính sách khách hàng. Từ đó, chất lượng dịch vụ cung cấp cho từng nhóm khách hàng sẽ khác nhau. Các khách hàng lớn, sử dụng dịch vụ thường xuyên, được xếp hạng tốt, sẽ có những ưu đãi nhất định, có phương thức chăm sóc riêng. Chất lượng đối với khách hàng này phải luôn đảm bảo ở mức cao nhất, vừa đảm bảo uy tín, vừa tăng khả năng cạnh tranh của Ngân hàng Các nghiệp vụ hỗ trợ khác Các nghiệp vụ hỗ trợ như mua bán ngoại tệ, bảo lãnh ngân hàng, tài trợ xuất nhập khẩu rõ ràng góp phần không nhỏ vào chất lượng thanh toán quốc tế của một NHTM. Khách hàng sẽ cảm thấy hài lòng khi nhu cầu mua, bán ngoại tệ phục vụ cho việc nhập hàng, xuất hàng của mình được đáp ứng nhanh chóng với thủ tục nhanh gọn và tỷ giá chấp nhận được. Hoặc khi khách hàng đã ký được hợp đồng với đối tác nước ngoài nhưng chưa có đủ tiền thanh toán, thiếu vốn để sản xuất hàng, đối tác yêu cầu bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng mà nhận được sự hỗ trợ từ phía ngân hàng thông qua các nghiệp vụ bảo lãnh, tài trợ xuất nhập khẩu. Nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng thực hiện giao dịch, tiết kiệm thời gian và chi phí. Trong xu thế các NHTM ngày càng đẩy mạnh tỷ trọng dịch vụ trong hoạt động, việc nâng cao chất lượng dịch vụ là một yêu cầu tất yếu, đem lại hiệu quả, tăng khả năng cạnh tranh, uy tín trên thị trường. Trên cơ sở lý thuyết các vấn đề cơ bản về thanh toán quốc tế, chất lượng thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại, các chỉ tiêu phản ánh chất lượng và các nhân tố chủ quan, khách quan ảnh hưởng, chúng ta sẽ xem xét thực trạng chất lượng thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội, từ đó đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng của hoạt động này. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN BẮC HÀ NỘI KHÁI QUÁT VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN BẮC HÀ NỘI Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh có một số mốc quan trọng sau: Ngày 31/10/1963, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển khu vực Gia Lâm được thành lập. Năm 1981, Chi nhánh đổi tên thành Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng khu vực 3 thành phố Hà Nội thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Năm 1990, Chi nhánh đổi tên thành Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển huyện Gia Lâm thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển thành phố Hà Nội. Tháng 8 năm 2000, Chi nhánh trực thuộc Sở Giao Dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Ngày 15 tháng 10 năm 2002, Chi nhánh chính thức tách khỏi Sở Giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, trở thành Chi nhánh cấp 1 trực thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và được đổi tên thành Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội, trụ sở tại 137 Nguyễn Văn Cừ, Quận Long Biên, Hà Nội. Qua chặng đường hơn 40 năm xây dựng và phát triển, đến nay Chi nhánh Bắc Hà Nội đã trở thành một trong những chi nhánh hàng đầu của hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và đang phấn đấu không ngừng để ngày càng lớn mạnh về quy mô và chất lượng hoạt động. Chức năng nhiệm vụ và mô hình tổ chức Mục tiêu của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là chuyển đổi mô hình tổ chức thành tập đoàn tài chính - ngân hàng hiện đại, đa năng, phát triển bền vững và tăng cường hội nhập quốc tế. Trong mô hình chung đó, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội là một chi nhánh cấp 1 trực thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, với chức năng hỗn hợp, vừa là ngân hàng bán buôn kết hợp với ngân hàng bán lẻ. Đến thời điểm tháng 1/2008, Chi nhánh Bắc Hà Nội có 102 cán bộ, đứng đầu là 1 Giám đốc và 3 Phó Giám đốc. Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh được chia làm 5 khối, gồm 14 phòng như sơ đồ sau: Nguồn: Quy định chức năng nhiệm vụ của CN BHN Ban Giám đốc Khối Tín dụng Khối Tác nghiệp Khối đơn vị trực thuộc Khối hỗ trợ kinh doanh Khối nội bộ Phòng Tín dụng 1 Thực hiện cho vay và bảo lãnh đối với các doanh nghiệp lớn Phòng Tín dụng 2 Thực hiện cho vay và bảo lãnh đối với các DN vừa và nhỏ, tư nhân Phòng Dịch vụ Khách hàng Thực hiện GD tiền gửi, tiền vay + TT trong nước + huy động vốn dân cư Phòng Thanh toán Quốc tế Thực hiện các giao dịch thanh toán quốc tế Phòng Tiền tệ Kho quỹ Thu chi TM trong các GD với DN, tiếp quỹ cho các bộ phận Phòng Thẩm định và Quản lý TD Thẩm định các dự án cho vay và kiểm tra quản lý các hoạt động tín dụng Phòng Kế hoạch Nguồn vốn Quản lý và thực hiện công tác HĐ vốn; lập BC, KH Phòng Tài chính Kế toán Quản lý tài chính, hướng dẫn và kiểm tra công tác kế toán Phòng Điện toán Tạo lập và quản lý môi trường kỹ thuật tin học cho CN Phòng Tổ chức Hành chính Sắp xếp bố trí về nhân sự; công tác hậu cần cho hoạt động của CN Phòng Kiểm tra Nội Bộ Kiểm tra, kiểm toán nội bộ tất cả các mặt hoạt động tại Chi nhánh Các Phòng Giao dịch Huy động vốn dân cư + Cho vay cầm cố giấy tờ có giá và 1 số DN ngoài quốc doanh Môi trường kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội Môi trường bên ngoài: - Về vị trí địa lý: Quận Long Biên nằm ở cửa ngõ Đông - Bắc của thủ đô Hà Nội, nơi tập trung nhiều đầu mối giao thông quan trọng, có sự giao lưu phát triển kinh tế với các tỉnh, thành phố lân cận. Trên địa bàn hiện có nhiều nhiều khu công nghiệp, tập trung nhiều Tổng công ty, cơ quan ban ngành, có điều kiện phát triển đa dạng các ngành nghề công, nông nghiệp và dịch vụ, nên được đánh giá là vùng tiềm năng phát triển kinh tế của Thủ đô Hà Nội. - Về quy hoạch kinh tế vùng: do trên địa bàn tập trung nhiều khu công nghiệp nên đã thu hút nhiều doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các ngành nghề đa dạng như hàng may mặc, công nghệ điện tử, hàng gia dụng, cáp điện, hóa chất, cơ khí...phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. - Về cơ cấu kinh tế: chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Thương mại, dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp, cơ bản sẽ phát triển và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ, từng bước hình thành những trung tâm thương mại lớn, hiện đại. Lợi thế về vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng, kinh tế xã hội đã đưa địa bàn trở thành điểm hấp dẫn các doanh nghiệp, đặc biệt là các NHTM. Cụ thể hiện nay, đã có 17 TCTD đặt trụ sở giao dịch của Chi nhánh cấp 1, cấp 2, Phòng Giao dịch trên địa bàn Quận Long Biên và Huyện Gia Lâm, dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng. Môi trường bên trong: BIDV là một trong 5 NHTM nhà nước, một thương hiệu mạnh với hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành, với mạng lưới chi nhánh và các phòng giao dịch rộng khắp cả nước. Việc triển khai thành công dự án hiện đại hoá ngân hàng giai đoạn 1 đã góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ của BIDV như dịch vụ thanh toán, tiền gửi, tín dụng… Hệ thống quản lý ISO 9001: 2000 đã được áp dụng, ngày càng chuẩn hoá các quy trình nghiệp vụ và quản trị điều hành trong hoạt động kinh doanh. Tập thể Ban lãnh đạo và cán bộ nhân viên Chi nhánh có trình độ, đoàn kết, nhiệt huyết, quyết tâm cao trong thực hiện các nhiệm vụ được giao. Kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội trong những năm gần đây (2004-2007) - Tốc độ tăng trưởng và kết quả hoạt động kinh doanh 4 năm (2004 – 2007) liên tục tăng cao. Sau hơn 5 năm hoạt động theo mô hình Chi nhánh cấp I (từ 10/2002 đến nay), Chi nhánh Bắc Hà Nội liên tục hoàn thành xuất sắc kế hoạch kinh doanh trên tất cả các chỉ tiêu chính như: Tổng tài sản, huy động vốn, dư nợ, thu dịch vụ ròng, trích DPRR, lợi nhuận… Đến 31/12/2007, các chỉ tiêu chính đều tăng gấp 1 đến hơn 2 lần so với năm 2004 (tổng tài sản tăng 75%, Huy động vốn tăng 244%, thu dịch vụ ròng tăng 207%, lợi nhuận trước thuế tăng 155%...). - Công tác huy động vốn: Nguồn vốn tự huy động tại Chi nhánh tăng đều qua từng năm. Đến 31/12/2007 đạt 1.546 tỷ đồng, tăng 2.4 lần so với năm 2004, nâng khả năng cân đối vốn tại chỗ từ 41% năm 2004 lên 85% năm 2007. Công tác nguồn vốn đã đảm bảo sử dụng vốn hợp lý, tiết kiệm, đảm bảo khả năng thanh toán, dự trữ bắt buộc, bám sát diễn biến mặt bằng lãi suất trên địa bàn. - Công tác tín dụng: Dư nợ tín dụng có bước tăng trưởng tương đối nhanh và đều qua từng năm. Tổng dư nợ tín dụng đến 31/12/2007 đạt 1.799 tỷ đồng, tăng 721 tỷ đồng (tăng 67%) so với năm 2004. Trong đó tỷ trọng dư nợ tín dụng thương mại ước đạt 99 %/tổng dư nợ. Bảng 2.1: Các chỉ tiêu hoạt động chính của Chi nhánh Bắc Hà Nội năm 2004-2007 Đơn vị: Tỷ đồng (ngoại tệ quy đổi) STT Chỉ tiêu Đơn vị TH 2004 TH2005 TH 2006 TH2007 Số tuyệt đối TT 05/04 (% ) Số tuyệt đối TT 06/05 (%) Số tuyệt đối TT 07/06 (%) 1 Tổng tài sản Tỷ đồng 1,103 1,141 3.4 1,497 31 1,935 29 2 Huy động vốn cuối kỳ Tỷ đồng 449 719 60 1,001 39 1,546 54 Trong đó: Dân cư Tỷ đồng 222 305 37 300 -2 341 Tổ chức kinh tế Tỷ đồng 227 414 82 701 69 1,205 Huy động vốn bình quân Tỷ đồng 358 457 28 836 83 1,277 53 3 Tổng dư nợ Tỷ đồng 1,078 1,107 3 1,449 31 1,799 24 Ngắn hạn Tỷ đồng 738 806 9 879 9 1,076 Trung dài hạn thương mại Tỷ đồng 306 281 -8 554 97 710.5 KHNN và CĐ Tỷ đồng 34 20 -41 16 -20 12.5 4 Tỷ lệ nợ quá hạn %/TDN - 0.82 0.79 1.89 5 Tỷ trọng Dư nợ NQD %/TDN 13 15 15 27 80 47 74 6 Tỷ trọng Dư nợ Có TSĐB %/TDN 62 70 71 7 Thu dịch vụ ròng Tỷ đồng 3.8 4.9 29 6.6 35 11.7 77 8 Trích DPRR Tỷ đồng 7 5 11 23 9 LNTT Tỷ đồng 12.3 23 87 28 22 31.4 12 Nguồn: Báo cáo tài chính của CN BHN 2004-2007 Chi nhánh đã chủ động kiểm soát nâng cao chất lượng tín dụng, xác định hạn mức tín dụng cho từng doanh nghiệp, tiến hành phân loại doanh nghiệp để có chính sách khách hàng hợp lý. Đồng thời, Chi nhánh ngày càng mở rộng cho vay nhiều thành phần kinh tế, đặc biệt chú ý đến các doanh nghiệp ngoài quốc doanh theo đúng định hướng của ngành. - Công tác dịch vụ: Thu dịch vụ ròng có sự tăng trưởng mạnh qua các năm, tương ứng mức 29% đến 77%. Tính đến hết năm 2007, thu dịch vụ ròng chiếm tỷ lệ 37% lợi nhuận trước thuế (chủ yếu tập trung vào các hoạt động truyền thống như thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ, bảo lãnh, thanh toán trong nước và các dịch vụ khác), đã phản ánh sự phát triển cả về quy mô và chất lượng hoạt động. - Công tác khách hàng: Chi nhánh thường xuyên chăm sóc các khách hàng cũ, tích cực tìm kiếm các khách hàng mới. Đồng thời, Chi nhánh cũng hướng tới cơ cấu khách hàng đa dạng: các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh, các khách hàng có nguồn tiền gửi nhàn rỗi lớn; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là trong các khu công nghiệp; các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu có nhu cầu vay, thanh toán quốc tế và có nguồn thu ngoại tệ. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN BẮC HÀ NỘI Hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được tổ chức theo chiều dọc dọc, từ Hội Sở Chính xuống các chi nhánh. Tại Hội sở chính, Ban Kinh doanh đối ngoại chịu trách nhiệm quản lý hoạt động nghiệp vụ Tài trợ thương mại của cả hệ thống, bao gồm 2 phòng: Phòng Nghiệp vụ ngân hàng quốc tế và Phòng Quan hệ quốc tế. Trong khi đó, Phòng Chuyển tiền quốc tế thuộc Trung tâm thanh toán quản lý hoạt động nghiệp vụ chuyển tiền đi và đến bên ngoài hệ thống. Chỉ có Hội Sở Chính mới được phép thiết lập quan hệ đại lý, mở tài khoản NOSTRO ở ngân hàng nước ngoài và mở tài khoản VOSTRO của các ngân hàng nước ngoài. Trong thanh toán quốc tế, các chi nhánh trong._.ch hàng nhập khẩu được Chi nhánh Bắc Hà Nội phục vụ khép kín. Có chính sách thu hút khách hàng có nguồn thu ngoại tệ lớn, áp dụng mua có kỳ hạn những khoản phải thu hàng xuất. Mạnh dạn áp dụng một số nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ mới được Ngân hàng Nhà Nước cho phép triển khai như: nghiệp vụ quyền chọn (Option), hoán đổi ngoại tệ.... Xây dựng các biện pháp phòng ngừa rủi ro, nâng cao chất lượng hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ Xây dựng các biện pháp phòng ngừa rủi ro Bất kỳ một hoạt động dịch vụ ngân hàng nào cũng chứa đựng trong nó những rủi ro nhất định. Đặc biệt, hoạt động kinh doanh nào rủi ro càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng của nó lại càng lớn. Mục tiêu hoạt động của một ngân hàng thương mại bao giờ cũng gồm hai phần cơ bản: lợi nhuận và an toàn vốn. Tìm ra biện pháp để dung hòa hai yếu tố trên trong hoạt động ngân hàng là một thách thức không nhỏ. Hoạt động thanh toán quốc tế với những đặc thù cơ bản (đã nêu trong Chương I) chứa đựng trong nó 3 nhóm rủi ro chính: + Rủi ro tín nhiệm (credit/commercial risk): rủi ro liên quan đến khách hàng: vì một lí do khách quan hoặc chủ quan, khách hàng không hoàn thành các nghĩa vụ đối ứng với ngân hàng. + Rủi ro mang yếu tố ngoại quốc (country risk): do liên quan đến nhiều quốc gia trong một giao dịch, bao gồm các rủi ro như hạn chế thanh toán, cấm vận... + Các rủi ro khác, bao gồm: rủi ro do quá trình tác nghiệp nghiệp vụ tại ngân hàng, rủi ro ngoại hối…. Để làm giảm thiểu và ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra, ngân hàng cần xây dựng các biện pháp phòng ngừa, chủ yếu bao gồm: + Biết rõ khách hàng: cần tìm hiểu kỹ thông tin liên quan đến khách hàng, đối tác của khách hàng (nếu có thể) về mọi mặt hoạt động sản xuất kinh doanh, tín nhiệm... + Thông thạo thao tác và nguyên tắc tiến hành nghiệp vụ, thông hiểu luật pháp trong và ngoài nước liên quan đến nghiệp vụ thanh toán quốc tế. + Phải chuẩn bị đầy đủ mọi văn bản pháp lý làm nền tảng cho các giao dịch để tránh những bất đồng, tranh cãi về pháp lý giữa ngân hàng - khách hàng, ngân hàng - ngân hàng sau này. + Xây dựng một hệ thống chi tiết các dấu hiệu rủi ro tác nghiệp, định kỳ liệt kê các dấu hiệu rủi ro và đưa ra các biện pháp khắc phục. Từ đó, Chi nhánh sớm nhận biết xu hướng của các rủi ro để có thể loại trừ. Xây dựng các biện pháp phòng ngừa rủi ro chính là một trong những yếu tố góp phần nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán quốc tế tại Chi nhánh. Nâng cao chất lượng hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ Nếu việc xây dựng các biện pháp phòng ngừa rủi ro là nhằm chặn trước những rủi ro có thể xảy đến thì hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ lại nhằm mục đích sớm phát hiện những sai sót mà ngân hàng đã phạm phải, từ đó sớm có biện pháp khắc phục một cách kịp thời, hiệu quả. Việc thực hiện các giao dịch thanh toán quốc tế không vì thể mà chủ quan, chỉ dựa vào hoạt động hậu kiểm nhằm phát hiện sai lầm. Vì vậy, các hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ này cần được tiến hành qua nhiều bước, cụ thể: + Tại phòng Thanh toán quốc tế, các giao dịch cần được thực hiện bởi ít nhất 2 người (giao dịch viên và kiểm soát) nhằm ngăn ngừa ngay từ đầu những rủi ro có thể có (rủi ro đạo đức), đặc biệt, chỉ những cán bộ trực tiếp thực hiện mới có thể hiểu rõ nhất bản chất giao dịch. Sau mỗi ngày làm việc, mỗi cán bộ cần tự kiểm tra kiểm soát lại công việc đã thực hiện trong ngày. + Tại phòng chức năng (Phòng Kiểm tra kiểm soát nội bộ): công tác kiểm tra cần được tiến hành định kỳ, đảm bảo nghiêm túc, tránh hiện tượng nể nang đồng nghiệp dẫn đến bao che các sai phạm. Phòng Kiểm tra kiểm soát nội bộ cần hoạt động độc lập, nên trực tiếp trực thuộc Hội đồng quản trị tại Hội Sở chính, tránh việc trực thuộc quyền lãnh đạo của Ban Giám đốc chi nhánh như hiện nay. Như vậy, việc kiểm tra kiểm soát các giao dịch thực hiện tại chi nhánh (các giao dịch này đều phải qua sự phê duyệt của Ban Giám đốc) mới đảm bảo khách quan, trung thực. + Tại phòng hậu kiểm (Phòng Tài chính Kế toán, nơi lưu giữ toàn bộ báo cáo và các chứng từ giao dịch trong ngày): việc kiểm tra, đối chiếu các chứng từ giao dịch với GL (sổ cái) và báo cáo của từng phân hệ cần được tiến hành kịp thời vào đầu ngày làm việc tiếp theo nhằm nhanh chóng phát hiện những sai sót do cán bộ, do lỗi chương trình tự động nhằm điều chỉnh kịp thời. Hiện đại hóa công nghệ ứng dụng trong ngân hàng. Giải pháp hiện đại hoá công nghệ ứng dụng trong ngân hàng của chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội sẽ giúp chi nhánh vượt qua được các thách thức sau: - Yêu cầu cao về hội nhập và tính chất phục vụ toàn cầu hoá. - Đối tượng khách hàng ngày càng đa dạng với yêu cầu cao hơn. - Áp lực cạnh tranh giữa sản phẩm, dịch vụ ngân hàng của các ngân hàng. - Các loại tội phạm công nghệ cao ngày càng phát triển với thủ đoạn rất tinh vi. Để nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế, là hoạt động đòi hỏi trình độ công nghệ cao, Chi nhánh cần tiếp tục đầu tư đổi mới, nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin theo hướng: - Hoàn chỉnh hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin phục vụ công tác quản lý, điều hành kinh doanh gồm: + Cơ sở dữ liệu thông tin bên ngoài như môi trường kinh doanh; các chủ trương, chính sách của các cơ quan quản lý nhà nước; các chính sách, quy định của Ngân hàng nhà nước… + Cơ sở dữ liệu thông tin bên trong gồm các quy định, chính sách, số liệu thống kê kinh doanh… của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội. + Cơ sở dữ liệu thông tin về khách hàng gồm các thông tin tài chính; các thông tin phi tài chính thu thập trong quá trình tiếp xúc, phỏng vấn khách hàng, đi khảo sát, nghiên cứu tại cơ sở kinh doanh của khách hàng, thông tin được cung cấp từ các tổ chức tín dụng khác… - Củng cố, nâng cấp căn bản hệ thống trang thiết bị đảm bảo tính đồng bộ, tốc độ xử lý cao, có khả năng chuyển đổi đối với các giai đoạn phát triển tiếp theo. - Phát triển các phần mềm ứng dụng chính của ngân hàng; xây dựng hệ thống bảo mật toàn diện; xây dựng hệ thống hỗ trợ từ xa. Đặc biệt, cần nhanh chóng triển khai các dịch vụ BSMS, HomeBanking, e-Banking hỗ trợ các khách hàng thanh toán quốc tế nhanh chóng vấn tin, tra soát, kiểm tra được các giao dịch đang được ngân hàng xử lý. Hoàn thiện quy trình thanh toán quốc tế Quy trình nghiệp vụ luôn được coi là cẩm nang cho thanh toán quốc tế tại bất kỳ ngân hàng thương mại nào. Việc xây dựng quy trình nghiệp vụ thanh toán quốc tế thường được tiến hành tại Hội Sở Chính, trên cơ sở đúc kết thực tiễn hoạt động, dựa trên các văn bản pháp lý trong nước và quốc tế có liên quan. Tuy nhiên, tại các Chi nhánh trực tiếp hoạt động thanh toán quốc tế, việc hoàn thiện hơn nữa, cụ thể hóa hơn nữa quy trình nghiệp vụ đã trở thành một nhu cầu khách quan và cần thiết. Việc đa dạng hóa các dịch vụ thanh toán quốc tế, đa dạng hóa các dịch vụ hỗ trợ như hai giải pháp trên đã nêu sẽ làm thay đổi, bổ sung một số thay đổi trong Quy trình thanh toán quốc tế. Đặc biệt hiện nay, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội đã tham gia và vận hành thành công chương trình Hiện đại hóa, trong đó, áp dụng nhiều mẫu biểu mới, quy trình vận hành đòi hỏi nhiều thao tác mới. Vì vậy, căn cứ trên cơ sở Quy trình thanh toán quốc tế ban hành tại Hội sở chính, Chi nhánh Bắc Hà Nội cần có những đóng góp, đề xuất chỉnh sửa cần thiết cho phù hợp với thực tế và đặc thù hoạt động tại chi nhánh. Việc hoàn thiện quy trình nghiệp vụ cần được sự phối hợp của phòng trực tiếp tiến hành nghiệp vụ (Phòng Thanh toán quốc tế), phòng phụ trách vấn đề pháp lý (Phòng Kiểm tra kiểm soát nội bộ) và các phòng ban liên quan (Phòng Kế hoạch nguồn vốn, Phòng Tín dụng, Phòng Thẩm định, Phòng Dịch vụ khách hàng...). Việc hoàn thiện quy trình cần được tiến hành đều đặn nhằm phục vụ tốt hơn nữa khách hàng, đảm bảo tính an toàn về pháp lý cho ngân hàng. Nâng cao chất lượng hoạt động marketing. Nghiệp vụ thanh toán quốc tế không còn là dịch vụ độc tôn của bất kỳ ngân hàng nào mà được thực hiện ở tất cả các ngân hàng thương mại, đặc biệt là các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt nam đã, đang và sẽ được cấp phép hoạt động. Một trong những hạn chế trong hoạt động thanh toán quốc tế của chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội là chưa chú trọng đến hoạt động marketing. Chất lượng dịch vụ dù có được nâng cao, cải thiện đến đâu mà không quảng bá tới khách hàng thì hoạt động thanh toán quốc tế cũng không đem lại hiệu quả như mong đơi. Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội cần áp dụng một chiến lược marketing linh hoạt và phù hợp. Để làm được điều này, chi nhánh cần chú trọng các vấn đề sau: Xây dựng chính sách khách hàng linh hoạt, hợp lý Xây dựng được chính sách khách hàng hợp lý sẽ góp phần xây dựng và củng cố uy tín của chi nhánh Bắc Hà Nội đối với khách hàng trong việc mở rộng phạm vi kinh doanh một cách chắc chắn, tạo cho khách hàng sự yên tâm, tin cậy khi giao dịch thanh toán quốc tế với Ngân hàng. Chi nhánh cần có quan niệm đúng đắn: khách hàng là tài sản quan trọng, tạo ra cơ hội kinh doanh mới để tối đa hoá lợi nhuận; thay vì cố gắng tối đa hoá lợi nhuận từ các hoạt động hiện có bằng cách tăng mức phí dịch vụ, tăng lãi suất.... Chi nhánh cần sắp xếp, định kỳ đánh giá lại hệ thống khách hàng, bao gồm: - Khách hàng ưu tiên gồm các Tổng Công ty Nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước hoạt động thuộc các ngành Dầu khí, Hàng hải, Bưu chính – Viễn thông, các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. - Khách hàng quan trọng là các doanh nghiệp còn lại thuộc các thành phần kinh tế; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Khách hàng khác là các tổ chức xã hội, các tầng lớp dân cư. Xây dựng chính sách khách hàng hợp lý thông qua việc: + Thực thi một chính sách phí dịch vụ mềm dẻo: - Khung phí dịch vụ linh hoạt, đủ sức cạnh tranh theo từng đối tượng khách hàng, tại từng thời điểm, đảm bảo gắn kết giữa các hoạt động tín dụng, tiền gửi và cung cấp dịch vụ; có thể chấp nhận mức phí dịch vụ thấp trong ngắn hạn để thu hút dịch vụ khác có lãi hơn. - Đối với các khách hàng ưu tiên có thể giảm thấp hơn mức phí dịch vụ bình quân; đặc biệt đối với các doanh nghiệp thuộc các ngành, lĩnh vực, khu vực cần ưu tiên khuyến khích phát triển, tuy nhiên cần đảm bảo hiệu quả hoạt động tổng hòa chung của cả chi nhánh - Đối với khách hàng quan trọng, sử dụng thường xuyên các dịch vụ của chi nhánh và có uy tín thì được hưởng mức phí ưu đãi, các dịch vụ tư vấn miễn phí nhiều hơn các khách hàng mới. + Chủ động và mở rộng các hình thức tiếp cận, tạo lập và duy trì các quan hệ với khách hàng: - Chú trọng đến các khách hàng vừa thành lập hoặc mới sử dụng dịch vụ, nhất là vào các thời điểm khách hàng đang phân vân lựa chọn tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính. Đây là thời điểm nhạy cảm, chi nhánh cần có biện pháp linh hoạt chào bán những dịch vụ ngân hàng mà khách hàng mong đợi. - Đa dạng hoá hình thức tiếp cận khách hàng; tổ chức gặp mặt từng nhóm khách hàng… - Tổ chức các hội nghị khách hàng để lắng nghe các ý kiến góp ý; tổ chức các buổi hội thảo, thuyết trình cung cấp các thông tin về dịch vụ của chi nhánh Bắc Hà Nội, các quy định pháp luật mới đến khách hàng. + Tạo thuận lợi cho khách hàng qua việc nâng cao chất lượng dịch vụ - Rút ngắn thời gian giao dịch thông qua đơn giản hoá các quy trình nghiệp vụ và cung cấp dịch vụ. - Đẩy mạnh công chăm sóc khách hàng, giải quyết kịp thời các khiếu nại của khách hàng. - Thực hiện cơ chế giao dịch “trực tuyến”, giảm khâu trung gian, nhiều cửa, nhiều cấp. Các khách hàng đến giao dịch sẽ làm việc trực tiếp với phòng đầu mối. Các công việc xử lý liên quan đến các phòng ban khác sẽ do nội bộ chi nhánh trao đổi, giải quyết. Triển khai công tác Marketing một cách toàn diện - Nghiên cứu thị trường để nắm bắt được tập quán, thái độ và nhất là động cơ của khách hàng khi lựa chọn ngân hàng. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng sự lựa chọn ngân hàng để giao dịch của khách hàng thường được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu và so sánh các tiêu chuẩn của ngân hàng như địa điểm của ngân hàng, chất lượng phục vụ, sự thuận tiện và dễ dàng khi giao dịch, thái độ của nhân viên giao dịch, hình ảnh về sức mạnh và sự an toàn của ngân hàng. - Dự đoán và phân tích hướng phát triển của thị trường, nghiên cứu thử nghiệm để xem xét phản ứng của khách hàng đối với những dịch vụ mới trước khi phổ biến rộng rãi. - Nghiên cứu khả năng cạnh tranh của ngân hàng hiện tại và trong tương lai để thấy được điểm mạnh cần phát huy và những thiếu sót cần khắc phục. - Lựa chọn các biện pháp tiếp thị hiệu quả: + Tập trung quảng cáo trên các báo, tạp chí, ấn phẩm chuyên ngành; nhằm tạo dựng hình ảnh ấn tượng về chi nhánh Bắc Hà Nội. + Giới thiệu dịch vụ ngân hàng cung cấp thông qua việc tổ chức các lớp về nghiệp vụ ngân hàng; các chương trình quy mô nhằm giới thiệu về ngân hàng và các dịch vụ ngân hàng cung cấp với công chúng + Có thể tổ chức cung ứng các dịch vụ ngân hàng miễn phí cho một số đối tượng khách hàng quan trọng nhằm tạo thói quen cho người sử dụng; Khi các khách hàng đã có thói quen sử dụng dịch vụ thì chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội có thể thu phí trực tiếp hoặc tạo ra các dịch vụ liên quan để thu phí. Đẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ thanh toán quốc tế. Để thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội, yếu tố con người đóng vai trò vô cùng quan trọng. Tại Ngân hàng, muốn thực hiện được nghiệp vụ thanh toán quốc tế, phải có đội ngũ cán bộ được đào tạo bài bản về nghiệp vụ thanh toán quốc tế, sử dụng thành thạo các máy móc thiết bị phục vụ thanh toán quốc tế. Đồng thời Chi nhánh cần có bộ phận tư vấn cho khách hàng với đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm, trình độ hiểu biết sâu, trình độ ngoại ngữ giỏi, thậm chí có thể tham dự cùng khách hàng để đàm phán ký kết hợp đồng thương mại nhằm thoả thuận được điều khoản thanh toán có lợi nhất, như tư vấn doanh nghiệp trong việc lựa chọn ngân hàng phục vụ đối tác, các phương thức thanh toán phù hợp… Mặt khác, việc đào tạo đội ngũ cán bộ thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội phải tiến hành đồng thời những nội dung sau: - Một là, giáo dục tư tưởng. Mọi cán bộ thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Bắc Hà Nội cần phải được quán triệt rõ để tồn tại và phát triển phải thay đổi tư duy và phong cách kinh doanh. Mỗi cán bộ phải chủ động trong công việc, tự học hỏi và nâng cao kiến thức, thay đổi tư duy: chủ động tìm hiểu, thu hút khách hàng thay vì ngồi đợi khách hàng tìm đến với mình. - Hai là, đào tạo chuyên môn. Cần kết hợp đào tạo kiến thức nghiệp vụ thanh toán quốc tế của cán bộ thực hiện thanh toán quốc tế với việc nâng cao hiểu biết về các lĩnh vực liên quan như vận tải, bảo hiểm, hải quan, thuế.., nâng cao khả năng ngoại ngữ và sự hiểu biết các thông lệ trong thương mại quốc tế. Tạo điều kiện và có chế độ khuyến khích cho cán bộ tự học, tự bổ sung những kiến thức chuyên môn. Cần tổ chức thường xuyên các hội nghị, hội thảo, trao đổi kinh nghiệp nghiệp vụ để không ngừng nâng cao kiến thức nghiệp vụ cho cán bộ nghiệp vụ của Chi nhánh Bắc Hà Nội. Kết hợp đào tạo cán bộ tại chỗ và cử đi học tập trong và ngoài nước. - Ba là, tuyển chọn và sử dụng cán bộ. Đối với cán bộ làm công tác thanh toán quốc tế, phải lựa chọn thí sinh tốt nghiệp những trường đại học đã được đào tạo những kiến thức cơ bản về ngoại thương, thông thạo ngoại ngữ, đồng thời cũng phải hiểu biết kiến thức cơ bản về ngân hàng. Bên cạnh đó, nên có chính sách đãi ngộ hợp lý giúp cán bộ gắn bó với công việc và ngân hàng. KIẾN NGHỊ Kiến nghị với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Có những sửa đổi kịp thời quy trình nghiệp vụ thanh toán quốc tế, văn bản hướng dẫn, triển khai các dịch vụ mới. Như đã nói ở trên, quy trình nghiệp vụ thanh toán quốc tế chính là các cơ sở pháp lý để triển khai và thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng thương mại Việt Nam. Tuy đã đi vào hoạt động được hơn 10 năm nhưng hệ thống các văn bản qui định hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng Đầu tư Phát triển Việt Nam vẫn chưa hoàn chỉnh, các văn bản được ban hành đều dưới dạng vừa làm thực tế vừa xây dựng văn bản. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc triển khai hoạt động thanh toán quốc tế tại các chi nhánh gặp khó khăn, vướng mắc giữa thực tiễn tiến hành nghiệp vụ và quy trình. Do vậy, BIDV Hội sở chính với vai trò chỉ đạo điều hành hoạt động thanh toán quốc tế của cả hệ thống, cần khẩn trương nghiên cứu, ban hành chính thức các văn bản hướng dẫn cũng như các văn bản liên quan đến hoạt động thanh toán quốc tế để các chi nhánh có cơ sở triển khai hoạt động như qui chế về hoạt động thanh toán quốc tế, cơ chế cho vay tài trợ xuất nhập khẩu và các hướng dẫn liên quan nghiệp vụ như hướng dẫn chuyển nhượng thư tín dụng… , các hướng dẫn triển khai thực hiện các sản phẩm dịch vụ thanh toán quốc tế mới. Đồng thời, cùng với những thay đổi căn bản của toàn hệ thống như áp dụng hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm ISO, vận hành chương trình Hiện đại hóa..., những quy trình nghiệp vụ cần được tiến hành đổi mới một cách kịp thời, đồng bộ nhằm tránh những vướng mắc về pháp lý khi tiến hành thực hiện nghiệp vụ. Tích cực hỗ trợ chi nhánh trên mọi phương diện Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội chỉ là một trong nhiều chi nhánh non trẻ mới được thành lập, có tuổi đời dưới 5 năm. Lẽ đương nhiên, những chi nhánh non trẻ luôn gặp nhiều khó khăn thách thức khi gia nhập những địa bàn, thị trường có sẵn nhiều đối thủ lâu năm, cạnh tranh gay gắt. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, những ngân hàng bạn khi mới gia nhập thị trường bao giờ cũng tạo sức ép cạnh tranh bằng việc ưu đãi giảm lãi suất cho vay, giảm phí dịch vụ, ưu đãi mua bán ngoại tệ phục vụ thanh toán quốc tế. Chính vì vậy, Hội sở chính cần dành một tỷ lệ thích đáng vốn, ngoại tệ hỗ trợ với lãi suất thấp cùng với huy động tại chỗ để chi nhánh có điều kiện thực hiện chính sách khách hàng như : lãi suất cho vay thấp hơn mức bình quân, phí dịch vụ cạnh tranh hơn, đảm bảo toàn bộ nguồn ngoại tệ cho vay nhập khẩu theo yêu cầu của chi nhánh với lãi suất ưu đãi nhằm khuyến khích các chi nhánh tìm kiếm khách hàng và dự án khả thi để tài trợ; hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ nguồn vốn cho vay xuất khẩu; đảm bảo nguồn kinh doanh ngoại tệ hoặc ngoại tệ để chi nhánh có điều kiện hoạt riêng. Có thể trong thời gian ngắn, những chi nhánh này tạm thời chưa đem lại hiệu quả kinh doanh như mong muốn, nhưng đây là những bước lùi tạm thời, cần thiết để tạo nền tảng cho sự phát triển mạnh mẽ, bền vững trong tương lai xa hơn. Sự hỗ trợ của Hội Sở Chính còn thể hiện thông qua việc ưu tiên dành một số chương trình, dự án lớn cho các chi nhánh mới thành lập (dựa trên năng lực thực tế của chi nhánh) để tạo đà phát triển, chi nhánh có cơ hội tiếp cận với khách hàng, từng bước gia nhập thị trường. Thường xuyên tiến hành hội thảo nghiệp vụ nhằm chia sẻ kinh nghiệm. Hàng năm, các ngân hàng thương mại Việt Nam đều được các ngân hàng đại lý nước ngoài mời tham gia các hội thảo nghiệp vụ trong và ngoài nước nhằm nâng cao năng lực chuyên môn, chia sẻ kinh nghiệm hoạt động. Đây là những hoạt động bổ ích, là kinh nghiệm quý báu cần học tập. Với tư cách là Hội Sở chính Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, không trực tiếp tham gia hoạt động kinh doanh mà chỉ quản lý chung, Hội Sở chính có điều kiện để tổng hợp những kiến thức và kinh nghiệm thực tế qua báo cáo của từng chi nhánh. Những kiến thức này cần được thường xuyên phổ biến rộng rãi thông qua các lớp tập huấn ngắn hạn, hội thảo nghiệp vụ cho các chi nhánh. Việc xây dựng nội dung các lớp tập huấn, các hội thảo cần bám sát với nhu cầu thực tế. Ví dụ: thay vì tổ chức tập huấn về eUCP, e Commerce (liên quan đến thương mại điện tử, một khái niệm còn mới mẻ, chưa thể áp dụng trong tương lai gần ở Việt Nam), Hội Sở chính có thể tổ chức các chuyên đề, hội thảo về nội dung: nhận/chuyển tiền kiều hối cho lao động Việt Nam ở nước ngoài, những rủi ro trong thanh toán quốc tế liên quan đến một số “khu vực đỏ” trên thế giới (như Iraq, Nigieria, Nga...), liên quan đến một số mặt hàng nhạy cảm như xăng dầu, khí gas, phân bón, dây chuyền thiết bị...Mỗi một chi nhánh với đặc thù hoạt động riêng sẽ đóng góp và chia sẻ được nhiều kinh nghiệm quý báu cho bạn đồng nghiệp. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Hoàn thiện cơ chế chính sách về hoạt động của ngân hàng thương mại Ngân hàng Nhà Nước cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách về hoạt động ngân hàng, tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho hoạt động ngân hàng trên tất cả các mặt: tiền tệ, tín dụng, ngoại hối, thanh toán...cho phù hợp với pháp luật Việt Nam, với chuẩn mực và thông lệ quốc tế cũng như các cam kết song phương và đa phương mà Việt Nam tham gia ký kết. Việc xây dựng và hoàn thiện dự án sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng cần theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó Ngân hàng Nhà nước có quyền độc lập tương đối nhiều hơn. Việc triển khai các Dự án Luật Hối phiếu, Dự án Pháp lệnh ngoại hối cần được tiến hành trong thời gian sớm nhất, đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cần ban hành quy định về các nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng mới theo phân loại của WTO. Như vậy, chúng ta sẽ tạo được nền tảng pháp lý cho hoạt động dịch vụ Ngân hàng thương mại Việt Nam trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế. Đổi mới chính sách quản lý ngoại hối. Tiếp tục đổi mới điều hành chính sách quản lý ngoại hối, cơ chế điều hành tỷ giá. Ngân hàng Nhà nước cần điều hành tỷ giá với phương châm: “Linh hoạt trong ngắn hạn và ổn định trong dài hạn”, theo đó, tỷ giá ngoại tệ trong ngắn hạn biến động trên cơ sở giá thị trường, đồng thời bằng các biện pháp tài chính vĩ mô giữ ổn định tỷ giá dài hạn, tạo niềm tin cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động ngoại thương và các ngân hàng có hoạt động thanh toán quốc tế. Mặt khác, chính sách tỷ giá “Linh hoạt trong ngắn hạn và ổn định trong dài hạn” còn tạo điều kiện cho việc phát triển các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ như mua bán kỳ hạn forward, quyền chọn mua/chọn bán, khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng các loại hình giao dịch trên nhằm gia tăng lợi nhuận hoặc đảm bảo tránh lỗ vì tỷ giá. Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục thực hiện cơ chế tỷ giá nới lỏng biên độ, giảm dần sự can thiệp hành chính, nâng cao năng lực quản lý của Ngân hàng Nhà Nước. Tăng cường khả năng bao quát của Ngân hàng Nhà nước trong việc quản lý các giao dịch ngoại hối, nâng cao hiệu quả cơ chế quản lý ngoại hối trong điều kiện tự do hoá tài khoản vãng lai và kiểm soát có chọn lọc các giao dịch vốn phù hợp với lộ trình mở cửa thị trường tài chính. Một công việc quan trong khác là xây dựng lộ trình chuyển đổi của đồng Việt Nam và giảm tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế, tạo sức mạnh thực sự cho đồng Việt Nam khi tham gia vào hoạt động thanh toán quốc tế. Có các giải pháp đẩy nhanh quá trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là một nhiệm vụ trọng tâm của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam trong giai đoạn tới. Để đẩy nhanh quá trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước với vai trò quản lý theo ngành dọc cần cập nhật và phổ cập các thông tin về tự do hoá, các cam kết quốc tế song phương và đa phương về thương mại, dịch vụ, trước hết là dịch vụ ngân hàng. Đồng thời, cần cân nhắc mở cửa dần một cách có chọn lọc các thị trường dịch vụ ngân hàng đối với các tổ chức tín dụng nước ngoài, trước hết là các tổ chức tín dụng các nước thuộc các cam kết mà Việt Nam tham gia ký kết, sau tiến dần tới việc mở cửa hoàn toàn với các nước khác. Việc đẩy nhanh quá trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng còn đòi hỏi việc xoá bỏ các bảo hộ bất hợp lý đối với các tổ chức tín dụng trong nước, đảm bảo quyền bình đẳng giữa các tổ chức tín dụng trong nước với các tổ chức tín dụng nước ngoài. Hỗ trợ nâng cao năng lực tài chính cho các ngân hàng Để có thể hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng, một nhiệm vụ quan trọng là nâng cao năng lực tài chính của các tổ chức tín dụng trong nước, đặc biệt đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh. Trong những năm 2003-2004, Ngân hàng Nhà Nước đã cấp vốn bổ sung cho hàng loạt các ngân hàng thương mại quốc doanh nhằm chuẩn bị tốt năng lực tài chính cho các ngân hàng này trước khi mở cửa hoàn toàn thị trường tài chính trong nước. Tuy nhiên, việc nâng cao năng lực tài chính cho các tổ chức tín dụng trong nước không chỉ cần đến sự hỗ trợ của Ngân hàng Nhà Nước, nó còn đòi hỏi sự nỗ lực của chính bản thân các ngân hàng thương mại trong việc bổ sung tích lũy vốn pháp định. Ngoài ra, dựa trên hệ thống báo cáo định kỳ từ các ngân hàng thương mại, Ngân hàng Nhà nước có thể đánh giá tình hình phát triển dịch vụ ngân hàng giai đoạn 2004-2007, đưa ra dự báo phát triển giai đoạn 2008-2010 và quy hoạch phát triển dịch vụ, mạng lưới hoạt động... Đây sẽ là những kim chỉ nam quan trọng cho các NHTM Việt Nam định hướng phát triển hoạt động kinh doanh nói chung, hoạt động dịch vụ thanh toán quốc tế nói riêng. KẾT LUẬN Là Chi nhánh ngân hàng thương mại quốc doanh mới triển khai hoạt động thanh toán quốc tế từ cuối năm 2000, gia nhập thị trường muộn hơn so với các chi nhánh bạn trên địa bàn, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội đã thực sự trải qua nhiều thử thách để đạt được sự tăng trưởng đáng tự hào như ngày nay. Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, sự cạnh tranh diễn ra gay gắt giữa các ngân hàng thương mại Việt Nam, giữa ngân hàng Việt Nam và ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội đã đưa ra một số giải pháp, hướng đi mới để thu hút khách hàng, nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế, trên cơ sở đó, mở rộng các loại hình nghiệp vụ liên quan như tài trợ xuất nhập khẩu, kinh doanh ngoại tệ.... Trong khuôn khổ của một luận văn, tác giả đã tập trung vào một số vấn đề chủ yếu sau: Hệ thống hoá những lý luận cơ bản như: cơ sở hình thành, khái niệm, đặc điểm cơ bản của thanh toán quốc tế của một NHTM. Đồng thời, luận văn cũng đề cập các nhân tố tác động tới chất lượng thanh toán quốc tế của ngân hàng. Trên cơ sở đó, luận văn nêu lên yêu cầu khách quan của việc nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế của NHTM nói chung, của hệ thống NTHTM Việt nam nói riêng, nhằm phục vụ tốt hơn nữa nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Phân tích và đánh giá thực trạng chất lượng thanh toán quốc tế của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội, trên cơ sở những đánh giá, phân tích môi trường kinh doanh trên địa bàn, kết quả thực hiện của các mặt nghiệp vụ, khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán quốc tế. Luận văn đã chỉ ra được những nguyên nhân khách quan, chủ quan giải thích cho những mặt tích cực hay những hạn chế còn tồn tại. Trên cơ sở những nguyên nhân, hạn chế của chất lượng thanh toán quốc tế tại Chi nhánh, đồng thời xem xét đến định hướng phát triển hoạt động kinh doanh chung, định hướng phát triển hoạt động thanh toán quốc tế của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội, tác giả đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế. Ngoài ra, trên cơ sở nghiên cứu học tập và thực tiễn công tác, tác giả cũng đề xuất một số kiến nghị với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho các NHTM nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế. Trong đó, kiến nghị quan trọng nhất là hoàn thiện cơ chế chính sách đồng bộ về hoạt động ngân hàng; thường xuyên sửa đổi kịp thời quy trình thanh toán quốc tế. Nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội là một yêu cầu khách quan, đòi hỏi từng cán bộ giao dịch cũng như ban lãnh đạo ngân hàng phải thường xuyên tìm kiếm giải pháp để thực hiện. Tác giả mong rằng, trong khuôn khổ nhất định của luận văn, dù thời gian nghiên cứu bị hạn chế, những giải pháp của mình sẽ góp phần đưa Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội đạt được những thành tựu mới trong hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng, hoạt động kinh doanh nói chung, ngày càng khẳng định được vị thế trên địa bàn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO David Cox (1997), Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phan Thị Thu Hà (2006), Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê, Hà Nội. Trần Văn Hòe (2008), Giáo trình Tín dụng và thanh toán thương mại quốc tế, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Fredric S.Mishkin (1999), Tiền tệ, Ngân hàng và Thị trường tài chính, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. Ngân hàng CITIBANK Hà Nội (2005), Phòng ngừa rủi ro trong thanh toán quốc tế, Hà Nội. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (2003), Tài liệu tập huấn phòng ngừa rủi ro và gian lận thương mại trong thanh toán quốc tế, Hà Nội. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (2004), Tài liệu tập huấn “Định hướng phát triển hoạt động dịch vụ ngân hàng quốc tế”, Hà Nội. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (2004), Dự án Hiện đại hoá với nghiệp vụ thanh toán quốc tế, Hà Nội. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (2007), Báo cáo kiểm tra nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Bắc Hà Nội, Hà Nội. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Chi nhánh Bắc Hà Nội (2004-2007), Báo cáo tài chính đã được kiểm toán, Hà Nội. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Chi nhánh Bắc Hà Nội (2008), Báo cáo Kế hoạch kinh doanh năm 2008, Hà Nội. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Chi nhánh Bắc Hà Nội (2008), Phương hướng hoạt động kinh doanh dịch vụ 2008-2010, Hà Nội. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Chi nhánh Bắc Hà Nội (2004-2007), Báo cáo tình hình hoạt động TTQT, Hà Nội Nguyễn Đình Phan (2005), Giáo trình quản lý chất lượng trong các tổ chức, NXB Lao động xã hội, Hà Nội. Phòng Thương mại quốc tế (2007), Bộ tập quán quốc tế về L/C, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Peter S.Rose (2001), Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính, Hà Nội. Nguyễn Thị Thu Thảo (2006), Nghiệp vụ Thanh toán quốc tế, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội. Nguyễn Văn Tiến (2003), Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, NXB Thống kê, Hà Nội. Nguyễn Văn Tiến (2005), Thanh toán quốc tế và tài trợ ngoại thương, NXB Thống kê, Hà Nội. Vũ Hữu Tửu (2006), Giáo trình kỹ thuật nghiệp vụ giao dịch ngoại thương, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThS-63.doc
Tài liệu liên quan