Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính trong cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa

LỜI MỞ ĐẦU Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta ngày càng giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Chiếm trên 97% số doanh nghiệp đăng ký hoạt động, các Doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc huy động nguồn lực đầu tư phát triển và có ý nghĩa then chốt trong quá trình giải quyết các vấn đề xã hội như xóa đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, phát triển đồng đều giữa các khu vực giảm khoảng cách giàu nghèo…Tuy nhiên các Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam hiện nay vẫn ở tìn

doc81 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1223 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính trong cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h trạng quy mô sản xuất nhỏ, công nghệ thấp, vốn kinh doanh nhỏ…Để để có thể thành công trong một nền kinh tế cạnh tranh cao độ như môi trường hội nhập hiện nay ở nước ta, các doanh nghiệp phải có kế hoạch đổi mới, cải tiến công nghệ, máy móc, thiết bị, các phương pháp, bí quyết sản xuất. Do vậy, Doanh nghiệp vừa và nhỏ cần rất nhiều vốn, mà lượng vốn tự có không thể đáp ứng được nên các doanh nghiệp tìm đến ngân hàng và vay trung, dài hạn là chủ yếu. Trước thực tế đó, đòi hỏi các ngân hàng không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng mà trọng tâm là chất lượng thẩm định tài chính của các tổ chức xin vay để các ngân hàng có những quyết định đầu tư đúng đắn đồng thời không để các doanh nghiệp đánh mất cơ hội kinh doanh của họ. Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng mà còn góp phần tiết kiệm vốn cho toàn xã hội, thúc đẩy mở rộng, phát triển hiệu quả cho nền kinh tế. Tuy nhiên, công tác thẩm định tài chính ở các ngân hàng hiện nay chưa được thống nhất đầy đủ về lý luận lẫn thực hành. Vì vậy, trong thời gian thực tập ở Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa, tôi đã chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính trong cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Chuyên đề gồm có 3 chương: Chương 1: Lý luận cơ bản về nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính trong cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các Ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng công tác thẩm định tài chính trong cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa. Chương 3: Các giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính trong cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa. Tôi xin chân thành cảm ơn ThS. Nguyễn Minh Huệ cùng toàn thể cán bộ Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong quá trình hoàn thành bài viết này. CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH TRONG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1 Khái quát về Ngân hàng thương mại (NHTM): 1.1.1 Khái niệm về NHTM: Cùng với sự phát triển của nền sản xuất lưu thông hàng hoá, ngân hàng đã hình thành, phát triển và trở thành một nhân tố không thể thiếu trong sự phát triển của mỗi quốc gia. Có thể nói, ngân hàng là tổ chức tài chính quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế, là mạch máu của nền kinh tế giúp nền kinh tế vận hành một cách thông suốt, điều này được chứng minh qua các thành quả và tiện ích to lớn mà ngân hàng đem lại cho sự phát triển của nền kinh tế - xã hội. Có nhiều định nghĩa về ngân hàng, tuỳ thuộc vào cách tiếp cận mà có những định nghĩa khác nhau, ngân hàng có thể định nghĩa qua chức năng, nhiệm vụ, các dịch vụ hay vai trò của nó trong nền kinh tế. Theo Luật Các tổ chức tín dụng thì: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác”. Nhưng cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương diện những loại hình dịch vụ mà nó cung cấp, đó là: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và thanh toán, thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế” (Trích dẫn giáo trình Ngân hàng thương mại – TS. Trần Thị Thu Hà, NXB Thống kê – 2004). 1.1.2 Các hoạt động cơ bản của NHTM: NHTM là loại hình doanh nghiệp đặc biệt, thực hiện kinh doanh tiền tệ và cung ứng các dịch vụ ngân hàng. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại gồm: Huy động vốn: Đây là hoạt động nền tảng tạo cơ sở cho các hoạt động khác của ngân hàng, đảm bảo cho ngân hàng có thể tiến hành hoạt động kinh doanh. Huy động tồn tại dưới hai hình thức cơ bản là nhận tiền gửi và đi vay. Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của NHTM. NHTM thu hút tiền gửi của khách hàng thông qua các hình thức huy động hết sức đa dạng và phong phú đó là tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm…của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, dân cư và các tổ chức tín dụng khác. Để đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động kinh doanh của mình khi khả năng huy động vốn bị hạn chế, NHTM còn phải đi vay. Các hình thức đi vay của ngân hàng thương mại bao gồm: vay Ngân hàng Nhà nước (NHNN) dưới hình thức chiết khấu hoặc tái chiết khấu, nhưng không phải khi nào các ngân hàng cũng có thể vay được NHNN mà NHNN sẽ cấp cho mỗi ngân hàng một mức hạn mức tín dụng trong một năm và các ngân hàng chỉ được vay trong hạn mức đó; vay các tổ chức tín dụng khác, đây là các khoản vay ngắn hạn giữa các tổ chức tín dụng với nhau nhằm giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn trong thanh toán; vay trên thị trường vốn. Ngoài ra, NHTM còn phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Để có nguồn vốn nói trên, NHTM phải bỏ chi phí vì thế ngân hàng sẽ đưa ra quyết định lựa chọn huy động vốn theo cách nào trên cơ sở tính toán một cách hợp lý về nhu cầu vốn, tỷ trọng các nguồn, chi phí từng loại nguồn, để sử dụng tối đa nguồn huy động, nhằm mục tiêu tạo ra lợi nhuận cho mình. Hoạt động sử dụng vốn: Trên cơ sở nguồn vốn huy động được, ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ khác nhau nhằm đạt được mục tiêu an toàn và sinh lợi. Ngân hàng thực hiện dự trữ bắt buộc theo quy định của NHNN, dự trữ thanh toán nhằm giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh, phải mua bảo hiểm tiền gửi đối với tiền gửi bằng VNĐ của các cá nhân, đáp ứng mục tiêu an toàn. Ngân hàng tiến hành các hoạt động cho vay, đầu tư, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá, bảo lãnh, cho thuê tài chính… nhằm mục tiêu sinh lợi. Trong các hoạt động trên thì cho vay là hoạt động chủ yếu, tạo ra nguồn thu nhập chính cho ngân hàng. Trong hoạt động cho vay của các NHTM thì có thể phân theo nhóm khách hàng như sau: Cho vay đối với các doanh nghiệp trong đó bao gồm các doanh nghiệp lớn và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ này có những đặc điểm là: doanh thu theo báo cáo tài chính dưới 300 triệu USD hoặc tương đương hoặc là khách hàng không thuộc bất kỳ nhóm khách hàng nào khác, theo xu hướng hiện nay của các NHTM thì doanh số cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu trong khu vực các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng tăng. Cho vay đối với cá nhân, với sự phát triển đa dạng các hoạt động của NHTM thì hình thức cho vay đối với cá nhân ngày càng được mở rộng ở các loại hình vay như: cho vay trả góp, cho vay trả một lần, cho vay mua nhà thế chấp, cho vay theo thẻ tín dụng... Cho vay đối với các tổ chức tín dụng như các ngân hàng, các công ty tài chính... Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ: Hoạt động này đã và đang đáp ứng nhu cầu của khách hàng, góp phần gia tăng lợi nhuận và phát triển toàn diện các hoạt động của ngân hàng. Cụ thể là: ngân hàng cung ứng các phương tiện thanh toán, thực hiện các dịch vụ thanh toán trong và ngoài nước, thực hiện dịch vụ thu hộ chi hộ, dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng, tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng, tham gia hệ thống thanh toán quốc tế. Các hoạt động khác: Bên cạnh các hoạt động trên, NHTM còn thực hiện các hoạt động góp vốn mua cổ phần của doanh nghiệp, tổ chức tín dụng khác; tham gia thị trường tiền tệ; kinh doanh vàng và ngoại hối; uỷ thác và nhận uỷ thác, làm đại lý thanh toán; cung ứng dịch vụ bảo hiểm; kinh doanh chứng khoán và cung ứng các dịch vụ như tư vấn tài chính, tiền tệ, tín dụng cho khách hàng; bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá; cho thuê két, cầm đồ… 1.2 Thẩm định tài chính trong cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các Ngân hàng thương mại: 1.2.1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) trong nền kinh tế: 1.2.1.1 Khái niệm về DNVVN: Khi đề cập đến DNVVN là nói đến cách phân loại doanh nghiệp dựa trên độ lớn hay quy mô của các doanh nghiệp. Việc phân loại DNVVN phụ thuộc vào tiêu thức sử dụng quy định giới hạn các tiêu thức phân loại quy mô doanh nghiệp. Khái niệm chung nhất về DNVVN có thể được sơ tóm như sau: Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất – kinh doanh có tư cách pháp nhân vì mục đích lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng thu được trong từng thời kỳ theo quy định của mỗi nước. Như vậy có thể nhận thấy một số tiêu thức chung, phổ biến nhất thường xuyên được sử dụng để phân loại là: Số lao động thường xuyên; Vốn sản xuất; Doanh thu; Lợi nhuận; Giá trị gia tăng. Để phân loại DNVVN có thể dùng các yếu tố đầu vào hoặc các yếu tố đầu ra của doanh nghiệp, hoặc là sự kết hợp của cả hai loại yếu tố đó. DNVVN ở Việt Nam là những cơ sở sản xuất – kinh doanh có tư cách pháp nhân, không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô về vốn hoặc lao động thỏa mãn các quy định của Chính phủ đối với từng ngành nghề tương ứng với từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế. Theo Nghị định 90 ngày 23/11/2001: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người.” 1.2.1.2 Các đặc điểm của DNVVN ở Việt Nam: Chiếm hơn 97% tổng số doanh nghiệp hiện có trên cả nước. Qua quá trình hoạt động và phát triển có thể nhận thấy những đặc điểm của DNVVN ở Việt Nam như sau: Thứ nhất, năng lực ứng dụng công nghệ trong sản xuất, kinh doanh và quản lý ở các DNVVN Việt Nam còn yếu. Thứ hai, nói đến DNVVN Việt Nam trước tiên và chủ yếu là nói đến các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Bởi vậy, đặc điểm và tính chất của các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh mang tính đại diện cho DNVVN ở Việt Nam. Thứ ba, DNVVN Việt Nam khó tiếp cận dịch vụ ngân hàng. Có thể nói hầu hết các dịch vụ ngân hàng đã đến với cộng đồng các doanh nghiệp. Tuy nhiên khó khăn lớn nhất, bức xúc nhất của các DNVVN hiện nay vẫn là thiếu vốn bởi năng lực vốn nội tại của các doanh nghiệp này và do những rào cản gặp phải khi vay vốn ngân hàng. Thứ tư, lĩnh vực hoạt động của các DNVVN rất đa dạng và phong phú. Các doanh nghiệp này thâm nhập hoạt động vào rất nhiều ngành nghề kinh tế như thương mại dịch vụ, sản xuất, gia công chế biến…. Nhờ vậy, việc mở rộng tín dụng cho các doanh nghiệp này sẽ giúp Ngân hàng phân tán được rủi ro hoặc rủi ro gây biến động không lớn đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. 1.2.1.3 Vai trò của DNVVN đối với nền kinh tế: DNVVN có vị trí, vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế mỗi nước, kể cả các nước có trình độ phát triển cao. Vị trí, vai trò của các DNVVN đã được khẳng định thể hiện qua các điểm chủ yếu sau: Về số lượng DNVVN chiếm ưu thế tuyệt đối. Các DNVVV có mặt trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực và là một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế. Nó là mắt xích nối liền các doanh nghiệp lớn với nhau, có tác dụng hỗ trợ, bổ sung, thúc đẩy các doanh nghiệp lớn phát triển. Sự phát triển của các DNVVN góp phần quan trọng trong việc giải quyết những mục tiêu kinh tế - xã hội sau đây: Một là, đóng góp đáng kể vào sự phát triển và ổn định kinh tế của đất nước. Việc phát triển DNVVN đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng trưởng nền kinh tế, ổn định xã hội và tăng trưởng GDP. Hai là, tạo cho xã hội một lượng hàng hoá đáng kể cung cấp cho các nhu cầu của các thành viên trong xã hội và góp phần làm tăng lượng hàng hoá xuất khẩu của đất nước. Ba là, thu hút lao động, tạo ra nhiều việc làm với chi phí đầu tư thấp, giảm thất nghiệp. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các khu vực chưa phát triển mạnh mẽ như vùng nông thôn, miền núi. Bốn là, tạo ra nguồn thu nhập ổn định, thường xuyên cho dân cư, góp phần giảm bớt chênh lệch về thu nhập các bộ phận dân cư, tạo ra sự phát triển tương đối đồng đều giữa các khu vực kinh tế khác nhau. Khả năng sản xuất phân tán, sử dụng lao động tại chỗ vừa tạo việc làm vừa tạo nguồn thu nhập ổn định cho dân cư trong các vùng góp phần quan trọng trong việc giảm bớt khoảng cách thu nhập và mức sống giữa các vùng trong nước. Năm là, khai thác, phát huy các nguồn lực và tiềm năng tại chỗ của các địa phương, các nguồn tài chính của dân cư trong vùng. Sáu là, hình thành, phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng động. Cùng với phát triển các DNVVN là sự xuất hiện ngày càng nhiều hơn các nhà kinh doanh sáng lập. Đây là lực lượng rất cần thiết để góp phần thúc đẩy sản xuất – kinh doanh ở Việt Nam phát triển. Bảy là, tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy sản xuất – kinh doanh phát triển có hiệu quả hơn. Sự tham gia của rất nhiều các DNVVN vào sản xuất kinh doanh làm cho số lượng và chủng loại sản phẩm tăng lên rất nhanh. Kết quả là làm tăng tính chất cạnh tranh trên thị trường, tạo ra sức ép lớn buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới mặt hàng, giảm chi phí, tăng chất lượng để thích ứng với môi trường mới. Những yếu tố đó có tác động lớn làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn. Với những lợi ích to lớn đó, việc khuyến khích, hỗ trợ phát triển các DNVVN là một giải pháp quan trọng để thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến 2010, đặc biệt là thực hiện Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa Nông nghiệp và Nông thôn. Đây cũng là một trong các giải pháp bảo đảm sự phát triển bền vững của nền kinh tế nước ta. 1.2.1.4 Nhu cầu vốn của DNVVN: Lượng vốn tự có của các doanh nghiệp chỉ đáp ứng từ 20% - 30% yêu cầu. Các doanh nghiệp thiếu vốn dẫn đến việc họ không có điều kiện đầu tư khoa học công nghệ hiện đại. Một thực trạng phổ biến trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ là hệ thống máy móc, thiết bị lạc hậu, khoảng 15-20 năm trong ngành điện tử, 20 năm đối với ngành cơ khí, 70% công nghệ ngành dệt may đã sử dụng được 20 năm. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị trung bình hàng năm của Việt Nam chỉ ở mức 5 - 7% so với 20% của thế giới. Công nghệ lạc hậu làm tăng chi phí tiêu hao 1,5 lần so với định mức tiêu chuẩn của thế giới. Thực trạng này dẫn đến tăng chi phí đầu vào, cao hơn từ 30 - 50% so với các nước ASEAN, đồng thời dẫn đến chất lượng sản phẩm giảm, giá thành cao và năng suất thấp. Mặc dù khu vực các DNVVN vay vốn ngân hàng ngày càng tăng, nhưng nhìn chung việc tiếp cận vốn từ khu vực NHTM quốc doanh vẫn còn không ít khó khăn. Hầu hết các DNVVN đều phàn nàn muốn vay vốn ngân hàng không phải là chuyện dễ, phải hội tụ đầy đủ các điều kiện “chặt chẽ” cần và đủ. Nhưng khi có được một số các điều kiện đó rồi chưa chắc doanh nghiệp đã nhận được vốn ngay còn phải thông qua các thủ tục hành chính, tổn thất về thời gian đi lại với ngân hàng. Nguyên nhân chính của tình trạng này là từ những đòi hỏi bắt buộc phải có tài sản thế chấp nếu như muốn vay vốn. Trong khi đó, phần lớn các DNVVN có vốn chủ sở hữu thấp, ít có tài sản thế chấp. 1.2.2 Khái niệm, ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng thẩm định tài chính trong cho vay đối với DNVVN ở các NHTM: Để có thể đi đến được quyết định cuối cùng các CBTD phải tiến hành phân tích, thẩm định khách hàng. Trong thực tế ở các ngân hàng thương mại, khi tiến hành phân tích khách hàng trong quy trình tín dụng CBTD thường thực hiện ba bước thẩm định: - Thứ nhất, thẩm định tài chính của khách hàng. - Thứ hai, thẩm định chất lượng của tài sản thế chấp. - Thứ ba, thẩm định hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh /dự án. Thẩm định tài chính trong cho vay đối với doanh nghiệp là quá trình CBTD tiến hành phân tích, đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp xin vay vốn dựa trên các thông tin do khách hàng cung cấp như các báo cáo tài chính của khách hàng và các thông tin mà CBTD thu thập được về khách hàng để từ đó CBTD thực hiện những bước tiếp theo để đi đến quyết định cho vay hay không cho vay đối với một khách hàng cụ thể. Thẩm định tài chính khách hàng trong cho vay đối với doanh nghiệp mà trọng tâm là phân tích, đánh giá tình hình tài chính của khách hàng là một nhiệm vụ rất quan trọng của CBTD. Từ những phân tích, đánh giá giúp CBTD vừa có cái nhìn tổng quát, lại vừa xem xét một cách chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp, để nhận biết, phán đoán, dự báo và đưa ra quyết định cho vay phù hợp. Từ khái niệm chung về thẩm định tài chính như trên thì ta có thể thấy được vai trò vô cùng quan trọng của công tác này trong hoạt động cho vay của các ngân hàng. Bởi vì, hoạt động cho vay mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng, cho vay để thu lợi nhuận là cơ sở để ngân hàng tiến hành hoạt động huy động vốn. Tuy nhiên, tất cả các ngân hàng đều sợ một rủi ro là khách hàng không có khả năng hoàn trả vốn vay do làm ăn thua lỗ. Biểu hiện của tình trạng này là nợ quá hạn ngày càng nhiều. Để phòng ngừa rủi ro này các ngân hàng thường yêu cầu khách hàng khi vay vốn phải có tài sản đảm bảo. Nhưng biện pháp này chỉ là biện pháp “chữa cháy” có tính đối phó, không phải là biện pháp lâu dài. Trong khi đó các DNVVN với vốn chủ sở hữu thấp, ít có tài sản thế chấp, cầm cố. Hơn thế nữa khi dùng tài sản đảm bảo thì việc xác định tài sản thế chấp và thủ tục còn rờm rà, gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Như vậy, ngân hàng có thể bỏ qua nhiều đơn xin vay của doanh nghiệp mà đó lại là những cơ hội làm ăn có hiệu quả kinh tế cao. Mặt khác, trong các NHTM quốc doanh hiện nay ngoại trừ Ngân hàng đầu tư phát triển, còn lại lâu nay hoạt động chủ yếu là kinh doanh tín dụng ngắn hạn. Những năm gần đây, do sự thúc bách của yếu tố hội nhập, cạnh tranh nên mới bắt đầu quan tâm đến tín dụng trung và dài hạn. Thế nhưng kết quả của lĩnh vực này nhìn chung là rất khiêm tốn. Một trong những nguyên nhân dẫn đến kết quả trên là do công tác thẩm định tài chính còn nhiều hạn chế, chưa phổ biến áp dụng, còn đơn giản, sơ sài về nội dung và phương pháp. Không ít doanh nghiệp bức xúc về trình độ nghiệp vụ ngân hàng trong thẩm định tài chính của doanh nghiệp vẫn còn thấp, thiếu tính khách quan, thủ tục để vay vốn vẫn còn nhiều rờm rà, mất nhiều chi phí về thời gian dẫn đến chậm cơ hội đầu tư vốn của doanh nghiệp. Chính vì những lý do trên việc nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính trong cho vay là rất cần thiết. Việc nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính trong cho vay sẽ giúp ngân hàng lựa chọn chính xác các chủ thể để cho vay, đẩy mạnh hoạt động cho vay một cách có hiệu quả, giảm thiểu các rủi ro. Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, sự phát triển của DNVVN mà còn góp phần tiết kiệm vốn cho toàn xã hội, thúc đẩy mở rộng, phát triển, hiệu quả cho nền kinh tế. Tuy nhiên, hoạt động thẩm định là vấn đề không chỉ giới hạn trong phạm vi một ngân hàng mà nó gắn liền với các yếu tố khách quan khác. 1.2.3 Nội dung của thẩm định tài chính trong cho vay đối với doanh nghiệp ở các NHTM: 1.2.3.1 Phân tích các Báo cáo tài chính: Khi CBTD tiến hành thẩm định khả năng tài chính của doanh nghiệp xin vay vốn thì đầu tiên họ tiến hành phân tích các báo cáo tài chính của doanh nghiệp đó. Các tỷ số chủ yếu được sử dụng trong phân tích báo cáo tài chính của một doanh nghiệp bao gồm: Các tỷ lệ phần trăm quan trọng của Bảng cân đối kế toán: Tỷ lệ cơ cấu tài sản Tỷ lệ % cơ cấu của nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu 1. Tiền mặt / Tổng tài sản 1. Các khoản phải trả / Tổng nợ và VCSH 2. Chứng khoán ngắn hạn / Tổng tài sản 2. Nợ ngắn hạn / Tổng nợ và VCSH 3. Các khoản phải thu / Tổng tài sản 3. Các khoản thuế phải nộp / Tổng nợ và VCSH 4. Hàng tồn kho / Tổng tài sản 4. Tổng các khoản nợ ngắn hạn / Tổng nợ và VCSH 5. Giá trị còn lại của TSCĐ / Tổng tài sản 5. Các khoản nợ dài hạn / Tổng nợ và VCSH 6. Các tài sản khác / Tổng tài sản 6. Các khoản phải trả khác / Tổng nợ và VCSH 7. VCSH / Tổng nợ và VCSH Thứ nhất, phân tích cơ cấu tài sản: qua bảng trên ta xem xét từng khoản mục tài khoản so với tổng tài sản để thấy được sự bảo đảm cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuỳ từng loại hình kinh doanh để xem xét tỷ trọng của từng loại tài sản trong tổng tài sản là thấp hay cao. Đồng thời với việc phân tích cơ cấu tài sản, cần xem xét tình hình biến động của từng khoản mục tài sản cụ thể qua đó đánh giá sự hợp lý của dự biến động. Cũng qua phân tích cơ cấu tài sản ta biết được tỷ suất đầu tư: Tổng tài sản Tỷ suất đầu tư = Tài sản cố định Chỉ tiêu này cho biết mức độ đầu tư vào tài sản cố định. Trị giá của tỷ số này còn tuỳ thuộc vào ngành nghề kinh doanh cụ thể. Thứ hai, phân tích cơ cấu nguồn vốn, chi phí vốn: Cơ cấu vốn là thuật ngữ phản ánh việc doanh nghiệp sử dụng các nguồn vốn khác nhau với một tỷ lệ nào đó của mỗi nguồn tài trợ cho tổng số tài sản. Chi phí vốn là chi phí trả cho việc huy động và sử dụng vốn. Hay nói cách khác chi phí vốn là cái giá phải trả khi doanh nghiệp sử dụng vốn. Qua bảng thể hiện cơ cấu vốn của doanh nghiệp ta đánh giá khả năng tự tài trợ về tài chính của doanh nghiệp. Cũng như đánh giá mức độ tự chủ, chủ động trong kinh doanh hay đối mặt với những khó khăn mà doanh nghiệp phải đương đầu: Vốn chủ sở hữu Tỷ số tự tài trợ = Tổng nguồn vốn Tỷ số này càng cao thì mức độ tự chủ về mặt tài chính càng cao và ít nhất phải lớn hơn 0.5 hay 50%. Đối với nguồn vốn hình thành tài sản cần xem xét tỷ trọng từng loại chiếm trong tổng số cũng như xu hướng biến động của chúng. Nếu nguồn vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng cao thì điều này cho thấy doanh nghiệp có độ tự chủ cao, độc lập trong hoạt động đối với các chủ nợ. Ngược lại nếu công nợ phải trả chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn thì mức độ bảo đảm tài chính là thấp. Thứ ba, phân tích tình hình bảo đảm nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh: cần tính ra và so sánh tổng nhu cầu về tài sản (TSCĐ, TSLĐ) với nguồn vốn chủ sở hữu hiện có và nguồn vốn vay - nợ dài hạn. Nếu nguồn vốn tự có này đủ hoặc thừa thì doanh nghiệp đã sử dụng nguồn vốn thừa đó hợp lý chưa? Nếu nguồn vốn tự có không đủ cho tài trợ thì doanh nghiệp đã sử dụng những nguồn nào để tài trợ cho nhu cầu về tài sản của mình? Xem xét tỷ lệ vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp: VLĐTX = NV dài hạn – TSCĐ = NV ngắn hạn – TSLĐ Sẽ xảy ra ba trường hợp: VLĐTX > 0, điều này cho thấy vốn dài hạn dư thừa đầu tư vào tài sản cố định, phần dư đó đầu tư vào tài sản lưu động. Đồng thời ta thấy nguồn vốn ngắn hạn lớn hơn tài sản lưu động nên khả năng thanh toán của doanh nghiệp được bảo đảm tốt. VLĐTX = 0 thì vốn dài hạn đủ để tài trợ cho tài sản cố định, doanh nghiệp vẫn đủ khả năng thanh toán những khoản ngắn hạn. Tình hình tài chính như vậy là lành mạnh. VLĐTX < 0 điều này cho thấy lượng vốn dài hạn không đủ để đáp ứng nhu cầu đầu tư cho tài sản cố định, trong trường hợp này doanh nghiệp không đủ khả năng thanh toán ngắn hạn. Các tỷ lệ cơ cấu quan trọng của Báo cáo kết quả kinh doanh: Các tỷ lệ cơ cấu tổng doanh thu 1. Chi phí bán hàng / Doanh thu bán hàng 2. Tổng lợi nhuận / Doanh thu bán hàng 3. Chi phí lao động (tiền công, tiến lương, phụ cấp) / Doanh thu bán hàng 4. Chi phí bán hàng, chi phí hành chính, chi phí khác / Doanh thu bán hàng 5. Chi phí khấu hao / Doanh thu bán hàng 6. Các chi phí hoạt động khác / Doanh thu bán hàng 7. Lợi nhuận hoạt động / Doanh thu bán hàng 8. Chi phí lãi vay / Doanh thu bán hàng 9. Thu nhập trước thuế / Doanh thu bán hàng 10. Thuế thu nhập / Doanh thu bán hàng 11. Thu nhập sau thuế / Doanh thu bán hàng Việc phân tích sự thay đổi các tỷ lệ này trong các năm gần đây giúp cho CBTD xác định được những vấn đề đang phát sinh nhằm bảo vệ an toàn các khoản vay của ngân hàng. Dựa trên việc phân tích các tỷ lệ này ta có thể đánh giá được mức độ rủi ro của khách hàng. Bởi vì qua phân tích các chỉ tiêu này ta có thể kiểm soát được các hoạt động và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Để làm được điều đó các CBTD cần phải tính ra và so sánh mức và tỷ lệ biến động của kỳ phân tích so với kỳ gốc của mỗi chỉ tiêu. Đồng thời so sánh tình hình chung của từng chỉ tiêu so với doanh thu thuần. Để rút ra xu hướng thay đổi của từng chỉ tiêu này chúng ta phải so sánh các chỉ tiêu đó với các chỉ tiêu trung bình ngành. Thông tin từ các Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh thường được bổ sung bằng việc phân tích các chỉ số tài chính. 1.2.3.2 Phân tích các chỉ số tài chính: Phân tích các chỉ số tài chính của khách hàng nhằm đo lường và đánh giá tình hình hoạt động của doanh nghiệp, được phân tích theo mục tiêu của CBTD và tập trung ở một số điểm như sau: khả năng thanh toán, khả năng quản lý tài sản, khả năng quản lý nợ, khả năng sinh lợi và kỳ vọng của thị trường vào giá trị của doanh nghiệp. Thông sô khả năng thanh toán:                                      Thông số khả năng thanh toán hiện thời biến động khá ổn định điều này cho thấy doanh nghiệp đủ lượng tiền mặt để đảm bảo thanh toán các khoản nợ ngắn hạn, tạo an toàn cho hoạt động kinh doanh và chủ vay. Khi một doanh nghiệp không có khả năng đáp ứng các nghĩa vụ tài chính doanh nghiệp đó được xem là không có khả năng thanh toán nợ. Vì tình trạng không có khả năng thanh toán nợ sẽ dẫn đến việc tài sản doanh nghiệp bị tịch biên, có thể dẫn đến phá sản, hoặc thậm chí phải đóng cửa doanh nghiệp, nên các NHTM nghiên cứu rất kỹ tỷ suất về khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp mà họ chuẩn bị đầu tư hoặc cho vay. Bằng cách đo khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp khi nợ đến hạn, tỷ suất về khả năng thanh toán nợ chỉ rõ khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Thuật ngữ khả năng thanh toán nợ trong tài chính có nghĩa là mức độ mà tài sản của công ty sẵn sàng được chuyển đổi thành tiền để thanh toán nợ. Có hai phương pháp đánh giá phổ biến là hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn và hệ số khả năng thanh toán nợ nhanh. Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn : HS khả năng thanh toán ngắn hạn = Tài sản lưu động Nợ ngắn hạn Khoảng giá trị của tỷ lệ này được các ngân hàng đánh giá là tốt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi xem xét đơn vay vốn là lớn hơn 1. Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn mà một công ty hoạt động hiệu quả cần duy trì phụ thuộc vào mối quan hệ giữa dòng tiền thu vào và nhu cầu thanh toán bằng tiền. Hệ số khả năng thanh toán nhanh: Để xác định khả năng thanh toán tuyệt đối bằng tiền của một doanh nghiệp, chuyên viên phân tích có thể điều chỉnh hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn bằng cách lấy tài sản lưu động trừ đi tất cả các mục không thể thanh toán bằng tiền. Hệ số này, còn gọi là hệ số khả năng thanh toán nợ nhanh, được tính bằng cách lấy vốn khả dụng (tiền mặt, chứng khoán bán được, và các khoản phải thu) chia cho các khoản nợ ngắn hạn, không bao gồm lượng tồn kho. HS khả năng thanh toán nhanh = Vốn khả dụng Nợ ngắn hạn Tỷ lệ này lớn hơn 0.5 là tốt. Nhưng có một nghịch lý là một công ty có thể có nhiều tài sản - bất động sản, trang thiết bị, máy móc, xe cộ, nhà kho với lượng hàng tồn kho nhiều - nhưng vẫn gặp rủi ro không có khả năng thanh toán nợ nếu hệ số của tài sản lưu động (vốn khả dụng) không đủ đáp ứng nhu cầu thanh toán các hóa đơn đến hạn. Các công ty cho vay không muốn nhận thanh toán bằng xe cộ, máy móc, họ muốn được trả bằng tiền. Các tỷ số đòn bẩy tài chính (các chỉ tiêu nợ): Mức độ các khoản nợ và nợ dài hạn hỗ trợ doanh nghiệp đối lập với phần vốn góp của chủ sở hữu được gọi là đòn bẩy tài chính. Một công ty có tỷ lệ vay nợ cao so với vốn góp của cổ đông được xem là có đòn bẩy tài chính cao. Đối với chủ sở hữu, lợi thế của việc nợ nhiều là tỷ lệ lợi nhuận trên vốn đầu tư thực tế có thể cao hơn một cách bất tương xứng khi công ty tạo ra lợi nhuận. Mặt khác, tỷ lệ vay nợ cao sẽ có hại khi dòng tiền giảm, vì lãi suất trên nợ là nợ phải trả trên hợp đồng - có nghĩa là dù tình hình kinh doanh tốt hay xấu thì đều phải thanh toán. Một công ty có thể bị phá sản do bị thúc ép thanh toán lãi đến hạn trên khoản nợ còn tồn đọng. Tỷ lệ nợ được sử dụng rộng rãi trong phân tích tài chính vì nó cho biết tác động của đòn bẩy tài chính. Có nhiều cách tính, nhưng ở đây chỉ nêu ra hai cách. Cách đơn giản nhất là: tỷ lệ này càng nhỏ càng an toàn nhưng không nên quá nhỏ. Tỷ lệ nợ = Tổng nợ phải trả Tổng tài sản Chúng ta cũng có thể tính tỷ lệ nợ so với vốn cổ phần bằng cách chia tổng số nợ phải trả cho vốn góp của các cổ đông: Tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần = Tổng nợ phải trả Vốn cổ phần Thông thường, khi tỷ lệ này tăng, lợi nhuận cho chủ sở hữu cũng tăng, nhưng đồng thời cũng có rủi ro. Các chủ nợ hiểu rất rõ mối quan hệ này nên thường đưa ra những hạn chế cụ thể trong mức cho vay; nếu vượt ra các mức hạn chế đó họ sẽ không cho vay. Các tỷ số thể hiện tính ổn định về khả năng tự tài trợ: Hệ số Tài sản cố định: Hệ số tài sản cố định = Tài sản cố dịnh Vốn chủ sở hữu Tỷ số này cho thấy mức độ ổn định của việc đầu tư vào tài sản cố định bằng vốn chủ sở hữu. Tỷ số này càng nhỏ càng tốt. Hệ số thích ứng dài hạn: Hệ số thích ứng dài hạn = Tài sản cố dịnh + Đầu tư dài hạn Vốn chủ sở hữu Tỷ số này cho biết phạm vi doanh nghiệp có thể trang trải tài sản cố định của mình bằng nguồn vốn ổn định và dài hạn. Tỷ lệ chuẩn của tỷ số này là 1. Hệ số tự tài trợ: Hệ số tự tài trợ = Vốn chủ sở hữu Tổng nguồn vốn Tỷ lệ này cho thấy mức độ tự chủ của doanh nghiệp và thể hiện năng lực tài chính của doanh nghiệp hiện nay. Tỷ số này càng cao thì tiềm lực tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. Khả năng trang trãi lãi vay: đối với các DNVVN thì tỷ lệ này được đánh giá là tốt khi nó nằm trong khoảng giá trị từ 2.5 trở lên. Khả năng trang trãi lãi vay = Thu nhập sau thuế Lãi vay Khả năng hoàn trả nợ vay: Khả năng hoàn trả nợ vay = Thu nhập trước thuế + Lãi vay Lãi vay Tỷ lệ này nếu bằng 1 cho thấy lợi nhuận doanh nghiệp tạo ra chỉ đủ trả nợ lãi và gốc đến hạn. Tỷ số này càng cao thì khả năng trả nợ gốc và lãi càng cao và khả năng chống chọi với các biến động trong lãi suất và dòng tiền càng cao. Tỷ số khả năng sinh lời: Khi xem xét các tỷ số phản ánh khả năng sinh lời của các doanh nghiệp CBTD xem xét cả thu nhập trước thuế và thu nhập sau thuế._. để đánh giá sự thành công hay thất bại về tài chính của người xin vay trên cơ sở so sánh với các hãng tương đương trong cùng ngành. Sau đây là các thước đo phổ biến về khả năng sinh lời của doanh nghiệp: Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm: Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = Thu nhập sau thuế Doanh thu Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia thu nhập sau thuế cho doanh thu. Nó phản ánh số lợi nhuận sau thuế trong một trăm đồng doanh thu. Tỷ số này càng cao càng tốt ít nhất phải lớn hơn 10%. Doanh lợi tài sản: ROA, tỷ số này càng cao càng tốt. ROA = Thu nhập trước thuế và lãi vay hoặc = Thu nhập sau thuế Tài sản Tài sản Đây là một chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư. Doanh lợi vốn chủ sở hữu: ROE, tỷ số này càng cao càng tốt và ít nhất phải lơn hơn lãi suất vay trong kỳ của doanh nghiệp. Doanh lợi vốn chủ sở hữu = Thu nhập sau thuế Vốn chủ sở hữu Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu được xác định bằng cách chia thu nhập sau thuế cho vốn chủ sở hữu. Nó phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và ngân hàng đặc biệt quan tâm đến chỉ tiêu này khi quyết định cho vay vốn. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp. Các chỉ số hiệu quả kinh doanh: Các tỷ số hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Vốn của doanh nghiệp được dùng để đầu tư cho các tài sản khác nhau như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do đó, CBTD khi tiến hành phân tích không chỉ quan tâm tới việc đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài sản mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành tổng tài sản của doanh nghiệp. Xem xét hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp là công việc hết sức cần thiết đối với ngân hàng. Doanh nghiệp đã sử dụng tài sản có hiệu quả như thế nào trong việc tạo ra doanh thu, luồng tiền mặt và quá trình doanh thu được chuyển thành tiền mặt được tiến hành hiệu quả ra sao? Đây là những vấn đề mà CBTD cần làm rõ khi phân tích tài chính trong cho vay. Chỉ tiêu doanh thu được sử dụng chủ yếu trong tính toán các chỉ số này để xem xét khả năng hoạt động của doanh nghiệp. Vòng quay tiền: Vòng quay tiền = Doanh thu Tiến +TS tương đương tiền bình quân Tỷ số này được xác định bàng cách chia doanh thu trong năm cho số tiền và các loại tài sản tương đương tiền bình quân (chứng khoán ngắn hạn có khả năng thanh khoản cao), nó cho biết vòng quay của tiền trong năm. Vòng quay dự trữ (hàng tồn kho): Vòng quay dự trữ = Doanh thu Dữ trữ bình quân Đây là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của doah nghiệp, vòng quay dự trữ được xác định bằng tỷ số giữa doanh thu trong năm và giá trị dự trữ bình quân. Kỳ thu tiền bình quân: Kỳ thu tiền bình quân = Các khoản phải thu X 365 Doanh thu Trong phân tích tài chính, kỳ thu tiền bình quân sử dụng để đánh giá khả năng thu tiền trong thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu bình quân một ngày. Các khoản phải thu lớn hay nhỏ phụ thuộc vào chính sách tín dụng thương mại của doanh nghiệp và các khoản trả trước. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định: Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định tạo được bao nhiêu đồng doanh thu trong một năm. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định = Doanh thu Tài sản cố định Tài sản cố định ở đây được xác định theo giá trị còn lại đến thời điểm lập báo cáo. Hiệu suất sử dụng tổng tài sản: Chỉ tiêu này được gọi là vòng quay toàn bộ tài sản, nó được đo bằng tỷ số giữa doanh thu và tổng tài sản và cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu cho doanh nghiệp. Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = Doanh thu Tổng tài sản Phân tích tốc độ tăng trưởng: Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận: Tỷ lệ tăng trưởng LN = LNKD kỳ này - LNKD kỳ trước LNKD kỳ trước Đây là tỷ lệ giúp các CBTD đánh giá sự mở rộng về mặt chất lượng của các doanh nghiệp. Tỷ lệ này được các nhà đầu tư như các ngân hàng rất quan tâm vì nó phản ánh mức độ thu nhập khi đầu tư vào doanh nghiệp này. Tốc độ tăng trưởng doanh thu: Tỷ lệ tăng trưởng DT = DT kỳ này – DTkỳ trước DT kỳ trước Tỷ lệ này cho biết mức độ tăng trưởng của doanh nghiệp. Đây là tỷ lệ giúp các CBTD đánh giá sự mở rộng về mặt số lượng. Tỷ lệ này lớn hơn chỉ số lạm phát hoặc mức độ tăng trưởng của thị trường có nghĩa là doanh nghiệp đang hoạt động tốt. Định giá trên thị trường: Tỷ lệ giá trên thu nhập một cổ phiếu: PER PER = Giá cổ phiếu Thu nhập của một cổ phiếu Tỷ lệ giá cả trên giá trị ghi sổ: PBR PBR = Giá cổ phiếu Giá ghi sổ của một cổ phiếu Xem xét các khoản phải trả bất thường: Đây là những khoản không thường xuất hiện trên bảng cân đối kế toán của khách hàng nhưng các CBTD cần phải biết tới, như: Các khoản bảo hành và bảo đảm cho sản phẩm của doanh nghiệp. Các vụ kiện hoặc tố tụng chưa giải quyết. Thuế chưa nộp. Những quy định hạn chế. Phân tích Báo cáo nguồn vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp: Bên cạnh Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh các CBTD ngân hàng cần phải xem xét một báo cáo kế toán thứ ba của khách hàng xin vay – Báo cáo nguồn vốn và sử dụng vốn. Báo cáo này cung cấp những thông tin quan trọng về sự thay đổi trong tình hình tài chính của doanh nghiệp, báo cáo cho biết doanh nghiệp đã tài trợ cho các hoạt động và phân bổ vốn huy động được như thế nào. Loại báo cáo này thường gồm các phần sau: Thay đổi về tài sản Thay đổi về nợ và vốn chủ sở hữu Thay đổi trong các khoản mục tiền mặt Thay đổi trong các khoản phải trả Thay đổi trong các khoản mục phải thu Thay đổi trong các khoản nợ ngắn hạn khác Thay đổi trong hàng tồn kho Thay đổi trong các khoản nợ dài hạn Thay đổi trong TSCĐ (giá trị còn lại) Thay đổi về vốn chủ sử hữu Quy mô tăng tài sản = Sử dụng vốn của doanh nghiệp Quy mô giảm tài sản = Các nguồn vốn của doanh nghiệp Quy mô tăng các khoản nợ và vốn chủ sở hữu = Các nguồn vốn của doanh nghiệp Giảm các khoản nợ và vốn chủ sở hữu = Sử dụng vốn của doanh nghiệp Nội dung phân tích này cho ta biết trong một kỳ kinh doanh nguồn vốn tăng (giảm) bao nhiêu? Tình hình sử dụng vốn như thế nào? những chỉ tiêu nào là chủ yếu ảnh hưởng tới nguồn vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp? để từ đó CBTD đưa ra các nhận xét về hiệu quả sử dụng vốn của khách hàng. Dự báo về Bảng cân đối kế toán và Báo cáo nguồn vốn và sử dụng vốn: Việc xem xét các số liệu trước đây về tình hình nguồn vốn và sử dụng vốn là quan trọng song chúng ta phải đặc biệt chú ý tới việc dự báo tình hình nguồn vốn, sử dụng vốn và điều kiện tài chính của khách hàng xin vay trong tương lai. Ngân hàng thường yêu cầu khách hàng chuẩn bị các số liệu dự tính và sau đó Cán bộ phân tích tín dụng trong ngân hàng sẽ chuẩn bị tài liệu dự tính riêng của họ và sẽ sử dụng hai nguồn thông tin này để so sánh. Các phương pháp thường dùng trong dự báo Bảng cân đối kế toán và Báo cáo nguồn vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp: Thứ nhất, phương pháp tỷ lệ phần trăm trên doanh thu: đây là một phương pháp dự báo tài chính ngắn hạn, đơn giản nội dung phương pháp như sau: Bước 1: Tính số dư của các chỉ tiêu trên Bảng cân đối kế toán năm báo cáo Bước 2: Chọn những khoản chịu sự biến động trực tiếp và có quan hệ chặt chẽ với doanh thu. Tính tỷ lệ phần trăm của các khoản đó so với doanh thu. Bước 3: Dùng tỷ lệ phần trăm đã tính được ở bước 2 để ước tính nhu cầu vốn kinh doanh, dựa vào chỉ tiêu doanh thu dự tính cần đạt được ở năm sau. Bước 4: Định hướng các nguồn trang trải nhu cầu tăng kinh doanh trên cơ sở kết quả kinh doanh thực tế. Qua đó ngân hàng xác định được lượng vốn mà doanh nghiệp thực sự cần để tài trợ cho các hoạt động của mình là bao nhiêu? Trong số đó cần vay ngân hàng là bao nhiêu. Thứ hai, phương pháp sử dụng nhóm chỉ tiêu đặc trưng tài chính doanh nghiệp để dự kiến Bảng cân đối kế toán mới và Báo cáo nguồn vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp: Theo phương pháp này, để làm được việc dự báo Bảng cân đối kế toán và Báo cáo nguồn vốn và sử dụng vốn trước hết cần phải biết: doanh nghiệp thuộc ngành vật chất nào và đi kèm với nó là các đặc trưng tài chính trung bình ngành; quy mô của doanh nghiệp, được đo lường bằng dự kiến doanh thu tiêu thụ sản phẩm Các chỉ tiêu đặc trưng tài chính có tính chất trung bình ngành: Doanh thu tiêu thụ sản phẩm so với nguồn vốn chủ sở hữu; Nợ ngắn hạn so với nguồn vốn; Tổng nợ phải trả so với nguồn vốn chủ sở hữu; Hệ số khả năng thanh toán nhanh; Kỳ thu tiền bình quân; Tài sản cố định so với nguồn vốn. 1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thẩm định tài chính trong cho vay đối với DNVVN của các NHTM: 1.3.1 Nhân tố chủ quan: Đội ngũ cán bộ: Việc thẩm định tài chính là do con người làm dựa theo các phương pháp, kỹ thuật, kinh nghiệm của họ. Do vậy kết quả thẩm định thường mang tính chủ quan và con người là nhân tố quyết định nhiều nhất đến chất lượng thẩm định tài chính. Đặc trưng của công tác thẩm định tài chính trong cho vay đối với các doanh nghiệp là từ những thông tin về khách hàng cán bộ thẩm định phải phân tích, đánh giá một cách chính xác để đưa ra quyết định cho vay an toàn và hiệu quả. Để có được một kết luận thật chính xác thì đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có một trình độ chuyên môn vững vàng, tầm hiểu biết rộng và phải có đạo đức nghề nghiệp. Bởi vì, các khách hàng là các DNVVN đến với ngân hàng có lĩnh vực hoạt động kinh doanh rất đa dạng và hình thức kinh doanh phong phú cũng như do vai trò quan trọng và độ phức tạp của công tác thẩm định tài chính. Đội ngũ cán bộ ở đây bao gồm người quản lý và cán bộ trực tiếp thực hiện việc thẩm định tài chính. Nhận thức của nhà quản lý về tầm quan trọng của thẩm định tài chính, trình độ chuyên môn của cán bộ thẩm định ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng thẩm định. Khi cán bộ quản lý nhận thức được tầm quan trọng của thẩm định tài chính thì họ sẽ tạo những điều kiện tốt nhất để các cán bộ thẩm định làm việc, các cán bộ thẩm định có năng lực chuyên môn cao sẽ cho kết quả thẩm định chính xác. Thông tin: Thẩm định thông tin về doanh nghiệp: thẩm định uy tín khách hàng phải được xem là yếu tố quan trọng nhất trong quan hệ tín dụng. Việc đánh giá khách hàng của cán bộ tín dụng, đặc biệt là những khách hàng mới quan hệ lần đầu, được chính xác hay không sẽ có vai trò quyết định đến hiệu quả khoản tín dụng cho vay. Vì vậy các ngân hàng phải tự xây dựng cho mình hệ thống cơ sở dữ liệu đủ lớn để phòng ngừa rủi ro tín dụng. Việc thẩm định tài chính trong cho vay được tiến hành trên cơ sở phân tích các thông tin trực tiếp và các thông tin gián tiếp khác tìm hiểu được có liên quan đến tài chính của khách hàng. Nếu những thông tin này không đảm bảo tính tin cậy, chính xác, đầy đủ thì kết quả việc thẩm định sẽ bị hạn chế và có thể dẫn đến quyết định đầu tư sai của ngân hàng. Trang thiết bị công nghệ: Do những đặc trưng của công tác thẩm định tài chính là phải từ những tính toán mang tính đặc thù về tài chính, mang tính khoa học và chính xác để đưa ra những kết luận đúng đắn về tình hính tài chính của khách hàng nên chất lượng của nó không chỉ được quyết định bởi con người mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như trang thiết bị công nghệ. Trang thiết bị công nghệ là để bổ trợ cho việc thẩm định tài chính, ví dụ như việc thu thập thông tin, xử lý thông tin, tính toán các chỉ số… Do đó, nó ảnh hưởng đến thời gian thẩm định, độ chính xác của kết quả thẩm định. Nếu tình trạng công nghệ không đáp ứng được những yêu cầu của thực tế thì đương nhiên hiệu quả cũng như chất lượng của công tác thẩm định tài chính nói riêng và của các hoạt động khác của ngân hàng nói chung sẽ không cao, vì thế mà ngân hàng có thể bỏ qua những cơ hội đầu tư mang lại lợi nhuận cao cho mình. Tổ chức công tác thẩm định: Thẩm định tài chính trong cho vay được tiến hành theo một quy trình gồm nhiều giai đoạn, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều cơ quan có liên quan như các bạn hàng của khách hàng, các ngân hàng mà khách hàng đã có quan hệ, các công ty kiểm toán cũng như các cơ quan thuế nên việc tổ chức công tác thẩm định cũng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định. Nếu công tác thẩm định tài chính được tổ chức một cách khoa học, hợp lý, phối hợp chăt chẽ, phân công phân nhiệm vụ rõ ràng thì kết quản thẩm định sẽ tốt. 1.3.2 Nhân tố khách quan: Môi trường vĩ mô: Môi trường vĩ mô ở đây bao gồm môi trường kinh tế, chính trị, pháp luật… Môi trường kinh tế ổn định và lành mạnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định, lúc đó tình hình tài chính của doanh nghiệp sẽ không có những biến động bất thường và việc dự báo dễ chính xác và kết quả thẩm định tài chính cao hơn. Môi trường pháp luật bao gồm những chính sách, chế độ của Nhà nước về hoạt động cho vay của Ngân hàng; về thẩm định tài chính; những quy định và chính sách đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiến lược phát triển kinh tế…Các chính sách, chế độ quản lý của Nhà nước đầy đủ, rõ ràng là căn cứ pháp lý cho công tác thẩm định, là thước đo để so sánh đối chiếu, đánh giá. Đây là những căn cứ quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng của công tác thẩm định nói chung và thẩm định tài chính nói riêng. Trong đó, Nhà nước thông qua những biện pháp hữu hiệu trong chính sách quản lý kinh tế vĩ mô, tạo môi trường pháp lý thông thoáng, an toàn, phù hợp với cơ chế thị trường và hoàn thiện các bộ luật nhằm tạo hành lang pháp lý vững chắc cho các tổ chức tín dụng hoạt động thuận lợi. Cũng như thông qua việc duy trì nền kinh tế phát triển ổn định, vững chắc; Khuyến khích hình thành và phát triển các thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường chứng khoán tạo tiền đề thúc đẩy cải tiến và đổi mới công nghệ ngân hàng Việt Nam; Qua việc ban hành chế độ kiểm toán bắt buộc, cung cấp thông tin giữa ngân hàng và các cơ quan nhà nước, áp dụng kỷ luật trong lập báo cáo và cung cấp thông tin để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thu thập thông tin và phân tích tài chính của các CBTD. Về phía Ngân hàng Nhà nước cũng là một trong những nhân tố có tác động đến chất lượng của công tác thẩm định tài chính. Bằng việc thực hiện thường xuyên công tác thanh tra, kiểm soát dưới nhiều hình thức để kịp thời phát hiện và ngăn chặn những vi phạm tiêu cực trong hoạt động tín dụng, lành mạnh hóa các ngân hàng thương mại, đưa hoạt động tín dụng của ngân hàng vào đúng quỹ đạo luật pháp; Nâng cao chất lượng của trung tâm thông tin tín dụng (CIP) nhằm tạo thuận lợi cho các ngân hàng thương mại có thông tin đầy đủ về doanh nghiệp khi cho vay. Đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam cần phải có chính sách hướng dẫn cụ thể, thống nhất nội dung và phương pháp thẩm định tài chính cũng như chính sách đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho nghiệp vụ này. Điều này sẽ tạo tiền đề vững chắc cho các chi nhánh nâng cao chất lượng thẩm định tài chính. Đồng thời NHCT Việt Nam với tư cách là cấp trên trực tiếp đối với các chi nhánh phải thường xuyên tiến hành thanh kiểm tra các hoạt động của các chi nhánh trong đó có công tác thẩm định tài chính trong cho vay đối với các doanh nghiệp để có những biện pháp xử lý kịp thời. Khách hàng: Công tác thẩm định tài chính phụ thuộc rất vào hồ sơ mà khách hàng trình lên. Tính đầy đủ, hợp lệ, trung thực, chính xác của thông tin tài chính doanh nghiệp do khách hàng cung cấp cho ngân hàng là một điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định tài chính. Ngân hàng sau khi nhận được hồ sơ phải kiểm định lại tất cả các thông tin và dựa vào đó để tiến hành phân tích, tính toán. Tuy nhiên đây là một việc làm không dễ, phụ thuộc phần lớn vào thiện chí của khách hàng. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH TRONG CHO VAY ĐỐI VỚI DNVVN TẠI CHI NHÁNH NHCT ĐỐNG ĐA 2.1 Tổng quan về Chi nhánh NHCT Đống Đa: 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh NHCT Đống Đa: Ngân hàng Công thương (NHCT) Đống Đa là một trong những ngân hàng thương mại quốc doanh trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam. Từ khi được thành lập Ngân hàng luôn sát cánh cùng nền kinh tế nước nhà, Ngân hàng đã có những đóng góp rất quan trọng đối với nền kinh tế trong quá trình đổi mới và phát triển. Trụ sở hiện nay đặt tại số 187 Phố Nguyễn Lương Bằng - Đống Đa - Hà Nội. Chi nhánh NHCT Đống Đa được thành lập vào năm 1955 với tiền thân là Phòng Thương nghiệp thuộc khu vực Đống Đa của Chi nhánh Nghiệp vụ Ngân hàng Nhà nước thành phố Hà Nội, do ông Phan Văn Quảng làm trưởng phòng, trụ sở đóng tại 289 Phố Hàng Bột (nay là phố Tôn Đức Thắng). Trước năm 1987, NHCT Đống Đa có tên gọi là Ngân hàng Nhà nước quận Đống Đa trực thuộc Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước thành phố Hà Nội. Thực hiện Nghị quyết số 03 Khoá VI của Ban chấp hành Trung ương Đảng và Nghị định số 53/HĐBT ngày 26/03/1988 nay là Chính phủ về việc chuyển hoạt động ngân hàng sang hạch toán kinh doanh và hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp, từ ngày 01/07/1988 Ngân hàng Công Thương Việt Nam ra đời và đi vào hoạt động trên cơ sở Vụ Tín dụng Công nghiệp và Vụ Tín dụng thương nghiệp của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cùng với các Phòng Tín dụng Thương nghiệp, Công nghiệp của Ngân hàng nhà nước Việt Nam quận Đống Đa. Chuyển Ngân hàng Nhà nước quận Đống Đa thành NHCT Đống Đa trực thuộc Chi nhánh NHCT thành phố Hà Nội. Đến năm 1990, theo Quyết định 402/CT ngày 14/11/1990 của Thủ tướng Chính phủ giải thể chi nhánh NHCT thành phố Hà Nội, chuyển 6 chi nhánh NHCT quận, khu vực thuộc chi nhánh NHCT thành phố Hà Nội thành các chi nhánh NHCT khu vực trực thuộc NHCT Việt Nam trong đó có chi nhánh NHCT Đống Đa. Kể từ ngày 1/4/1993 NHCT Đống Đa chính thức được quyền hạch toán độc lập và trở thành chi nhánh cấp I của NHCT Việt Nam. Kể từ ngày thành lập đến nay Chi nhánh NHCT Đống Đa luôn hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, thực hiện chủ trương đổi mới và phục vụ có hiệu quả cho đầu tư, phát triển, góp phần thực hiện nhiệm vụ Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Chi nhánh đã cùng NHCT Việt Nam luôn là công cụ sắc bén, là lực lượng chủ lực trong việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. 2.1.2 Cơ cấu, tổ chức của Chi nhánh NHCT Đống Đa: Qua các thời kỳ phát triển cơ cấu tổ chức của Chi nhánh có thay đổi cho phù hợp với môi trường kinh doanh mới. Hiện nay, cơ cấu tổ chức tại Chi nhánh được bố trí như sau: Ban giám đốc Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh Phòng PGĐ Phòng PGĐ Phòng PGĐ Phòng PGĐ TT Điện tử Phòng KH I PhòngQL nợ Phòng QL rủi ro Phòng KT nội bộ Phòng TC - HC Ph TH- TT Ph GD Cát Linh Ph KH cá nhân Ph Kho quỹ Ph GD Kim Liên Ph TT- TM Ph Kế toán Ph ĐT - TT Ph KH II Cho vay cá nhân Tổ DNNQD Huy động vốn Tổ DNQD 2.1.3 Tình hình kinh doanh của Chi nhánh NHCT Đống Đa các năm qua: 2.1.3.1 Hoạt động huy động vốn: Ngân hàng thương mại (NHTM) kinh doanh tiền tệ trên cơ sở các hoạt động chủ yếu của mình là: hoạt động huy động vốn, hoạt động cho vay, hoạt động đầu tư và hoạt động cung cấp các dịch vụ khác. Trong đó, huy động vốn là hoạt động tạo nguồn vốn để các NHTM thực hiện các hoạt động khác của mình. Hoạt động huy động vốn có vai trò quan trọng, quyết định đến chất lượng và số lượng các khoản cho vay và đầu tư. Để thực hiện tốt các mục tiêu của mình Chi nhánh NHCT Đống Đa đã thực hiện chính sách tăng cường nguồn vốn huy động điều này được thực hiện thông qua mạng lưới các quỹ tiết kiệm dày đặc được bố trí trên khắp địa bàn quận. Trong quá trình phát triển và hội nhập, thị trường các công cụ của các NHTM Việt Nam đang có những bước tiến quan trọng. NHCT Đống Đa đang từng bước thực hiện chính sách huy động vốn với phương trâm mở rộng các công cụ truyền thống, tiền gửi thanh toán đang được khuếch trương đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và đang hướng tới mục tiêu là các tầng lớp dân cư. Tiền gửi và tiền gửi tiết kiệm vẫn là nguồn chủ yếu. Mở rộng quy mô, kéo dài thời hạn, đa dạng hoá các loại tiền gửi tiết kiệm nhằm huy động mọi nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư đang là hoạt động trọng tâm của NHCT Đống Đa. Bên cạnh huy động tiết kiệm ngân hàng đã phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, tạo công cụ mới, làm phong phú thị trường nguồn vốn của ngân hàng. Bảng 1: Nguồn vốn của NHCT Đống Đa Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 Stiền % Stiền % Stiền % Stiền % 1. Tiền gửi dân cư 1743 55,5 1950 57,9 2070 58 1870 47,7 1.1 Tiền gửi tiết kiệm 1543 49,1 1700 50,4 1870 52,4 1820 46,4 - Không kỳ hạn 12 0,4 10 0,3 1 0,03 1 0,025 - Có kỳ hạn 1531 48,7 1690 50,1 1869 52,4 1819 46,4 + Dưới 6 tháng 842 26,8 790 23,4 820 20,9 + Dưới 24 tháng 869 27,6 900 26,7 999 25,5 1.2 Kỳ phiếu 200 6,4 250 7,5 200 5,6 50 1,3 2. T.Gửi của các TCKT 1400 44,5 1420 42,1 1500 42 2050 52,3 - Không kỳ hạn 800 25,4 780 23,1 900 25,2 850 21,7 - Có kỳ hạn (12tháng) 600 19,1 640 19 600 16,8 1200 30,6 Tổng 3143 100 3370 100 3570 100 3920 100 Loại tiền 3143 100 3370 100 3570 100 3920 100 - VND 2633 83,8 2840 84,3 2990 83,7 3380 86,2 - Ngoại tệ quy đổi 510 16,2 530 15,7 580 16,3 540 13,8 +Doanh nghiệp 27 0,86 26 0,77 25 0,7 25 0,64 +Dân cư 483 15,34 504 14,93 555 15,6 515 13,16 (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh các năm của Phòng Tổng hợp Tiếp thị) Tổng nguồn vốn huy động được năm 2004 là 3143 tỷ đồng, đến năm 2007đã lên tới 3920 tỷ đồng. Năm 2005 Chi nhánh đã huy động được 3370 tỷ đồng, tăng 227 tỷ so với năm 2004 (tức tăng 7,2%). Đến năm 2006, tổng nguồn vốn huy động được là 3570 tỷ đồng, tăng hơn so với năm trước là 200 tỷ đồng (tăng 5,9%). Năm 2007 tổng nguồn vốn huy động được đạt 3920 tỷ đồng tăng 350 tỷ đồng so với năm 2006 (tăng khoảng 9,8%). Đó là do Chi nhánh đã làm tốt các chính sách phục vụ khác hàng, cải tiến phong cách phục vụ thuận lợi, nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu gửi tiền của dân cư và các tổ chức kinh tế. Chi nhánh đã triển khai đa dạng hóa các hình thức huy động như: Huy động tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm lãi suất bậc thang… Chủ động tìm kiếm nguồn vốn và phối hợp với Ban quản lý các dự án để thu hút nguồn tiền đền bù, giải phóng mặt bằng như: Nút giao thông Kim Liên – Ô Chợ Dừa, Ngã Tư Sở. Ngoài ra, Chi nhánh còn tích cực thu hút khách hàng mở tài khoản tiền gửi và thu hút nguồn tiền gửi của các tổ chức. Chi nhánh vẫn duy trì tổ chức thu tiền tại các đơn vị như: Thu tiền tại trên 50 điểm bán lẻ của Xí nghiệp bán lẻ xằng dầu, thu tại Chi nhánh điện lực Đống Đa, đã tổ chức tận thu cả những ngày nghỉ thứ 7 và Chủ Nhật. Qua số liệu cơ cấu nguồn vốn của NHCT Đống Đa ta thấy xu hướng chung là vốn huy động từ dân cư tăng ổn định qua các năm từ năm 2004 đến năm 2006 và luôn chiếm tỷ trọng khá cao, trung bình khoảng 57%. Tuy nhiên do những biến động của nền kinh tế năm 200, đó là giá dầu thô, giá vàng tăng cũng như sự phát triển của thị trường chứng khoán năm 2006 đã hút tiền đầu tư của dân cư vào đầu tư nên lượng tiền huy động từ dân cư của Chi nhánh năm 2007 đã giảm nhẹ. Bên cạnh đó, tỷ trọng nguồn vốn huy động từ tổ chức kinh tế ngày càng lớn, đây là nguồn vốn có chi phí thấp nên đã tạo nhiều thuận lợi cho ngân hàng trong hoạt động kinh doanh. Vốn huy động ngoại tệ tăng ít, năm 2005 tăng lên so với năm 2004 là 20 tỷ đồng tức tăng khoảng 3,9%, đến năm 2006 tăng so với năm 2005 là 50 tỷ đồng tăng 9,4%, năm 2007 giảm 40 tỷ tức giảm 6,9% do lượng ngoại tệ đầu tư vào thị trường chứng khoán tăng rất mạnh và nhu cầu ngoại tệ của các doanh nghiệp cho hoạt động nhập khẩu hàng hoá và nguyên vật liệu tăng. Nguồn huy động VND vẫn là nguồn chính, chiếm tỷ lệ cao, trung bình trên 84%. Riêng về kỳ phiếu trái phiếu, mức độ tăng giảm không ổn định vì đây chỉ là công cụ huy động khi ngân hàng có nhu cầu đột xuất về vốn. Đồ thị 1: Cơ cấu nguốn vốn 2.1.3.2 Tình hình cho vay: NHTM sau khi huy động vốn sẽ sử dụng nguồn vốn đó vào các hoạt động nhằm mục tiêu sinh lời. Việc sử dụng vốn chính là việc tạo ra các loại tài sản khác nhau của ngân hàng, trong đó tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất và tín dụng cũng là hoạt động mang lại cho ngân hàng nguồn lợi nhuận lớn nhất nhưng đồng thời cũng là hoạt động hàm chứa rủi ro cao nhất. Hoạt động tín dụng bao gồm các hoạt động: cho vay, cho thuê, bảo lãnh và chiết khấu. Trong đó hoạt động cho vay là hoạt động chủ yếu nhất của ngân hàng. Bởi lẽ, cho vay là một hoạt động truyền thống của ngân hàng, đối tượng cho vay đa dạng hơn, hình thức cho vay lại ngày càng đa dạng và cho vay là hoạt động sinh lời cao. Với chính sách chọn lọc khách hàng, chỉ cho vay đối với nhũng khách hàng kinh doanh có hiệu quả và có khả năng trả nợ cho ngân hàng. Trong các năm qua doanh số cho vay và thu nợ của Chi nhánh NHCT Đống Đa tăng đều đặn góp phần mang lại cho Chi nhánh doanh thu ngày càng cao. Bảng 2: Tình hình cho vay tại Chi nhánh NHCT Đống Đa Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 S.tiền % S.tiền % S.tiền % S.tiền % 1. Doanh số cho vay 2243 100 2280 100 1900 100 1780 100 - Quốc doanh 1863 83 1100 48,2 1150 60,5 810 45,5 - Ngoài quốc doanh 380 17 1180 52,8 750 39,5 970 54,5 2. Doanh số thu nợ 2134 100 2230 100 2600 100 2180 100 - Quốc doanh 1586 74,3 1476 66,2 1480 57 1190 54,6 - Ngoài quốc doanh 548 25,7 754 33,8 1120 43 990 45,4 3. Dư nợ 2150 100 2200 100 1600 100 1200 100 - Quốc doanh 1800 83,7 1210 55 880 55 500 41,7 - Ngoài quốc doanh 350 26,3 990 45 720 45 700 58,3 1. Doanh số cho vay 2243 100 2280 100 1900 100 1780 100 - Ngắn hạn 1993 89 2080 91,2 1780 93,7 1680 94,4 - Dài hạn 259 11 200 8,8 120 6,3 100 5,6 2. Doanh số thu nợ 2134 100 2230 100 2600 100 2180 100 - Ngắn hạn 1858 87 1830 82 2190 84,2 1700 78 - Trung và dài hạn 270 13 400 18 310 15,8 480 22 3. Dư nợ 2150 100 2200 100 1600 100 1200 100 - Ngắn hạn 1250 58,1 1500 68,2 1090 68,1 880 73,3 - Trung và dài hạn 900 41,9 700 31,8 510 31,9 320 26,7 Nợ quá hạn 12 100 16 100 25 100 60 100 1. Quốc doanh 7 58,3 10 62,5 22 88 60 100 2. Ngoài quốc doanh 5 41,7 6 37,5 3 12 0 0 (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh các năm của phòng Tổng hợp Tiếp thị) Qua bảng số liệu ta thấy doanh số cho vay ở các năm ở Chi nhánh NHCT Đống Đa có xu hướng tăng nhẹ ở năm 2005 rồi liên tục giảm dần ở các năm sau, doanh số cho vay năm nay thấp hơn năm trước. Năm 2005 doanh số cho vay đạt 2280 chỉ tăng 37 tỷ đồng. Đến năm 2006 doanh số cho vay giảm 380 tỷ đồng tức giảm 16,7%. Đến năm 2007 doanh số cho vay giảm còn 1780 tỷ đồng, giảm 120 tỷ so với năm 2006, tức giảm khoảng tiếp 6,3%. Với số vốn huy động tăng qua các năm trong khi đó doanh số cho vay lại giảm dần chứng tỏ Chi nhánh NHCT Đống Đa đang có sự thay đổi trong chiến lược kinh doanh của mình, mở rộng các hình thức đầu tư, cung cấp nhiều dịch vụ mới nhằm phân tán rủi ro cho mình bảo đảm cho Chi nhánh luôn đạt lợi nhuận cao. Đồ thị 2: Cơ cấu doanh số cho vay của Chi nhánh NHCT Đống Đa Doanh số thu nợ năm 2005 là 2230 tỷ đồng tăng 87 tỷ đông so với năm 2004. Doanh số thu nợ năm 2006 tăng 370 tỷ đồng so với năm 2005. Doanh số thu nợ 2007 có giảm hơn so với năm 2006 nhưng là do doanh số cho vay giảm. Nhìn chung doanh số thu nợ hàng năm tăng do Chi nhánh NHCT Đống Đa đã tăng cường cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn. Tổng dư nợ qua các năm giảm dần. Điều này thể hiện chính sách chọn lọc khách hàng khi xem xét cho vay. Mặt khác chi tiêu này giảm cho phép chúng ta kết luận rằng Chi nhánh luôn đôn đốc các nhân viên có trách nhiệm trong việc thu hồi nợ quá hạn, nợ đang trong giai đoạn theo dõi ở ngoại bảng. 2.13.3 Hoạt động bảo lãnh: Với sự phát triển của nền kinh tế như ngày nay thì hoạt động mua chịu bán chịu, thanh toán sau, hoạt động thương mại dịch vụ ngày càng trở nên phổ biến. Do vậy nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng ngày càng trở thành nghiệp vụ chính. Tuy nhiên, Chi nhánh cũng chỉ mới cung cấp cho khách hàng các dịch vụ bảo lãnh thông thường như: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh hoàn thanh toán, bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm. Trong đó bảo lãnh dự thầu chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số các món bảo lãnh phát hành của Chi nhánh. Khách hàng chủ yếu của các dịch vụ bảo lãnh là các Doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp khác vẫn chưa thực sự tiếp cận nhiều và hưởng lợi từ các dịch vụ này. Bảng 3: Tình hình thực hiện dịch vụ bảo lãnh Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2005 2006 Tăng trưởng so với 2005 2007 Tăng trưởng so với 2006 Doanh số bảo lãnh Số món 512 689 34,57% 940 36% Số tiền 127,8 140,5 9,97% 279 98% Phí bảo lãnh 1,452 1,863 16,89% 2,1 12% (Nguồn: Phòng Tổng hợp Tiếp thị Chi nhánh NHCT Đống Đa) Qua bảng số liệu ta thấy hoạt động bảo lãnh có sự tăng trưởng mạnh cả về số lượng và giá trị bảo lãnh. Đó là do Chi nhánh không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ bảo lãnh. Ngân hàng đã xây dựng những quy chế cụ thể về hoạt động bảo lãnh. Việc thực hiện nghiêm túc các quy chế trong hoạt động bảo lãnh và sự linh động trong quá trình thực hiện dịch vụ này đã làm tăng nguồn thu phí dịch vụ cho Chi nhánh. Cụ thể, năm 2006 tổng số phí thu đựơc là 1,863 tỷ đồng tăng 16,89% so với năm 2005, năm 2007 phí bảo lãnh thu được là 2,1 tỷ đồng tăng 12% so với năm 2006. 2.1.3.4 Kết quả của hoạt động mua bán ngoại tệ và thanh toán quốc tế: Thanh toán quốc tế: Khách hàng của Chi nhánh chủ yếu là các doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp này thường xuyên phải nhập nguyên vật liệu phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình hoặc phục vụ cho việc nhập khẩu hàng hoá. Do vậy, hoạt động thanh toán quốc tế phần lớn là hoạt động mở L/C thanh toán tiền mua hàng, thu tiền bán hàng cho các doanh nghiệp là khách hàng của Chi nhánh. Bảng 4: Thanh toán quốc tế của Chi nhánh NHCT Đống Đa Đơn vị: tỷ dồng Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 L/C Nhập (quy đổi) 40950 42000 42258 43190 L/C xuất (quy đổi) 0 1400 1420 1500 Chi kiều hối (quy đổi) 2165 1750 1745 1810 (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh các năm của phòng Tổng hợp Tiếp thị) Hoạt động mua bán ngoại tệ: Một trong những hoạt động truyền thống của NHTM là hoạt động mua bán ngoại tệ. Đây là những giao dịch có rủi ro rất cao và yêu cầu nghiệp vụ chuyên môn của cán ._.g tin và tính toán các chỉ tiêu trong nội dung thẩm định tài chính các doanh nghiệp. Thứ tư, nguồn thông tin phục vụ cho công tác thẩm định tài chính là chưa đầy đủ, thiếu tính chính xác và chưa được thẩm định kỹ càng. . CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH TRONG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DNVVN TẠI CHI NHÁNH NHCT ĐỐNG ĐA 3.1 Định hướng cho vay đối với các DNVVN của Chi nhánh NHCT Đống Đa: Như một bước đi tất yếu trong quá trình hợp tác giữa Ngân hàng Công thương Việt Nam (VietinBank) và Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam (Vinasme), thoả thuận hợp tác VietinBank - Vinasme đã chính thức được ký kết vào ngày 26/06/2008 tại Hà Nội. Bằng hành động thiết thực này, VietinBank tiếp tục khẳng định: DNVVN luôn là những Khách hàng được quan tâm hàng đầu của mình bởi chính sự năng động, hiệu quả và những đóng góp tích cực cho nền kinh tế đất nước của các DNVVN trong những năm qua. Việc ký kết thoả thuận hợp tác giữa VietinBank và Vinasme là một bước đi tất yếu trong quá trình hợp tác giữa hai bên, bởi cho tới nay số DNNVV chiếm khoảng 60% tổng số khách hàng với dư nợ tín dụng chiếm khoảng 50% tổng dư nợ của VietinBank. VietinBank đã và đang dành cho các DNVVN hàng loạt các sản phẩm dịch vụ đa dạng và linh hoạt. Bên cạnh các sản phẩm dịch vụ truyền thống, VietinBank có tới 8 sản phẩm dành riêng cho DNVVN, đó là: JBIC, DEG, KFW, SMEDF, ECIP, RAP, chương trình Đài Loan, Tiết kiệm và hiệu quả năng lượng. Bên cạnh đó là hàng loạt các dịch vụ phi tài chính như đào tạo, hội thảo, tư vấn, giới thiệu và hỗ trợ khách hàng tham gia các hoạt động dành cho DNVVN...Chính điều này đã tạo nên niềm tin và sự gắn kết của các khách hàng DNVVN với VietinBank. Đặc biệt, VietinBank hiện nay là ngân hàng Việt Nam duy nhất được Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước Việt Nam chỉ định tham gia ký kết MOU với các tổ chức tài chính APEC tài trợ DNVVN và được nhiều tổ chức quốc tế lựa chọn là đối tác thực hiện các chương trình dành cho DNVVN. Với thỏa thuận hợp tác này, VietinBank và Vinasme sẽ tăng cường trao đổi thông tin, tuyên truyền, quảng bá; đào tạo nâng cao năng lực; phối hợp thu hút và khai thác các nguồn tài trợ DNVVN. Sự kiện ký kết thành công thoả thuận hợp tác giữa VietinBank và Vinasme đã nâng mối quan hệ hợp tác tốt đẹp vốn có giữa hai bên lên một tầm cao mới, cùng một mục tiêu vì sự phát triển của cộng đồng DNVVN, vì sự thịnh vượng của nước nhà. Với những định hướng như trên của NHCT Việt Nam, Chi nhánh NHCT Đống Đa cũng đã có những chính sách cho vay cụ thể hoá theo định hướng mà NHCT Việt Nam đang thực hiện đối với DNVVN. Chủ trương của Chi nhánh là tiếp tục củng cố nâng cao chất lượng tín dụng, nâng cao trình độ nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm của CBTD, đảm bảo cho vay an toàn và hiệu quả, mở rộng đối tượng cho vay, tăng tỷ trọng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhằm đa dạng hóa khách hàng và phân tán rủi ro. Chi nhánh sẽ phân tích tài chính doanh nghiệp, phân loại khách hàng và giảm dần dư nợ đối với những khách hàng sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, nhằm nâng cao chất lượng tín dụng. Thực tế các doanh nghiệp không tiếp cận được vốn do không đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng là tình hình tài chính bảo đảm, có phương án kinh doanh khả thi và tài sản thế chấp. NHCT Đống Đa luôn sẵn lòng phục vụ các DNVVN đến vay vốn miễn là các doanh nghiệp làm cho Chi nhánh thấy được khả năng hoàn trả vốn vay của mình. 3.2 Các giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính trong cho vay đối với DNVVN ở Chi nhánh NHCT Đống Đa: Xuất phát từ các những hạn chế cũng như những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong công tác thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay đối với các DNVVN tại Chi nhánh đã được nêu ở trên. Nhằm giúp Chi nhánh NHCT Đống Đa nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thẩm định tài chính tôi xin đưa ra một số giải pháp sau: Trước hết phải đổi mới về nhận thức, về tầm nhìn: Coi mục tiêu nâng cao chất lượng thẩm định tài chính trong cho vay đối với các DNVVN là một tiêu chí bắt buộc, yêu cầu phải làm ngay và làm thường xuyên. Mỗi cán bộ công nhân viên nhất là những người trực tiếp làm công tác tín dụng trong Chi nhánh phải nhận thức được mục tiêu và định hướng kinh doanh của NHCT và của Chi nhánh mình như thế nào? để rồi tư duy và vận hành một cách đúng đắn. Phải đánh giá được khách hàng của mình là ai? Hoạt động sản xuất kinh doanh của họ ra sao? để có hướng đầu tư thích hợp. Phải nhận thức được nhiệm vụ của mình đang làm để có chiến lược thực hiện và có những tham mưu chính xác cho Ban lãnh đạo. Đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên gia về thẩm định tài chính: Con người luôn là trung tâm của mọi quá trình hoạt động, vì vậy việc nâng cao chất lượng công tác thẩm định của ngân hàng phụ thuộc vào quá trình chuyển biến của đội ngũ này. Mỗi ngân hàng tùy thuộc vào nhu cầu, khối lượng công tác thẩm định và yêu cầu về tiến độ công việc để bố trí số lượng cán bộ thẩm định. Nhưng sẽ là không hiệu quả khi chỉ đề cập đến số lượng cán bộ mà không chú ý đến chất lượng, năng lực thẩm định. Trong thời gian qua, đội ngũ cán bộ thẩm định tại các ngân hàng có phát triển nhưng chưa đáp ứng được các yêu cầu của công tác thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay. Một phần là do chưa được đào tạo căn bản ngay từ đầu và cũng không thường xuyên được bồi dưỡng, đào tạo lại. Để khắc phục nhược điểm này, trước mắt Chi nhánh cần có những điều chỉnh sau đây: Bổ sung đủ số lượng, nâng cao chất lượng, đồng thời có chính sách động viên, khuyến khích cũng như có những chế tài xử lý vi phạm nghiêm khắc đối với đội ngũ cán bộ thẩm định gây tổn hại cho ngân hàng vì thiếu trách nhiệm trong công việc. Kiện toàn, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ thẩm định theo yêu cầu công việc; Thực hiện tốt hơn nữa công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định; Tăng cường các khóa đào tạo hoặc thực tập nâng cao trình độ, học tập kinh nghiệm tại các ngân hàng bạn và ngân hàng nước ngoài hoặc mời các chuyên gia ngoài nước về giảng dạy và phổ biến kinh nghiệm. Hàng năm tổ chức các cuộc thi kiểm tra trình độ, kết hợp với chất lượng xử lý công việc để làm cơ sở đánh giá, phân loại cán bộ và có kế hoạch đào tạo phù hợp. Hoàn thiện quy trình thẩm định tài chính: Trong giai đoạn 2004-2005, được sự chỉ đạo của Ngân hàng nhà nước, các NHTM đã cố gắng tích cực nghiên cứu và ban hành cho mình cuốn Sổ tay tín dụng, đây được coi như cẩm nang cho cán bộ làm công tác tín dụng nói chung và cán bộ làm công tác thẩm định nói riêng. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến chất lượng của cuốn Sổ tay tín dụng chưa được như mong muốn của các nhà lãnh đạo ngân hàng. Nhiều nội dung hướng dẫn còn chung chung, dàn trải vì phải chi tiết, khiến cán bộ thẩm định lúng túng trong quá trình tra cứu, nhiều khi áp dụng một cách máy móc. Để hạn chế những rủi ro mà các NHTM thường xuyên gặp phải thì việc thường xuyên cập nhật, hoàn thiện quy trình thẩm định tài chính là một công việc không thể thiếu được của mỗi ngân hàng. Việc cải tiến quy trình thẩm định tài chính phải cụ thể hóa cao cho phù hợp với năng lực cán bộ và hoạt động của ngân hàng. Hoàn thiện công tác tổ chức thẩm định tài chính: Dưới góc độ ngân hàng, công tác thẩm định tài chính trong hoạt động tín dụng trước hết phải là vì lợi ích của chính bản thân ngân hàng nhằm nâng cao hiệu quả của đồng vốn tín dụng và phòng ngừa các rủi ro có thể xảy ra đối với ngân hàng. Trong thẩm định tài chính do tính chất phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực đòi hỏi cán bộ thẩm định phải nắm vững chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước, của ngành và địa phương. Xác định và kiểm tra toàn diện tất cả các mặt: tài chính, tài sản thế chấp và phương án sản xuất kinh doanh, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn để có ý kiến đánh giá xác đáng. Theo cách thức tổ chức hiện nay của ngân hàng thì chưa có sự chuyên môn hóa, cán bộ tín dụng thường kiêm nhiệm luôn vai trò cán bộ thẩm định. Chi nhánh NHCT Đống Đa cần phải có phòng chuyên trách về thẩm định tài chính nói chung, vừa tách biệt với phòng tín dụng vừa phối hợp chặt chẽ với phòng tín dụng. Đi đôi với nó là Chi nhánh cần bố trí số lượng cán bộ thẩm định vừa đủ, phân công, phân nhiệm rõ ràng. Hoàn thiện phương pháp thẩm định tài chính: NHCT Việt Nam cần có quy định cụ thể, thống nhất trong toàn hệ thống về nội dung và phương pháp thẩm định. Quy định này cũng nên linh hoạt, nghĩa là tùy theo tính chất, quy mô, mức độ phức tạp của từng khách hàng và lĩnh vục kinh doanh đặc thù của khách hàng để lựa chọn các phương pháp thẩm định thích hợp. Từ những quy định đó của NHCT Việt Nam mà Chi nhánh có những lựa chọn thích hợp và có những nghiên cứu, tìm tòi những phương pháp thẩm định tài chính mới có hiệu quả cao đáp ứng nhu cầu thực tế. Hoàn thiện nội dung thẩm định tài chính: * Thứ nhất, thẩm định khách hàng vay vốn: Trước khi tiến hành thẩm định ngân hàng cần xác minh tính trung thực của các số liệu do khách hàng cung cấp. Chẳng hạn, khoản phải thu trong báo cáo tài chính của khách hàng thì có bao nhiêu phần trăm là khó đòi; Trong hàng tồn kho thì có bao nhiêu phần trăm hàng kém phẩm chất, bị ứ đọng; Vốn cố định biểu hiện dưới dạng máy móc, thiết bị lạc hậu hay hiện đại; Trong công nợ có bao nhiêu phần trăm nợ quá hạn… Khi tính toán các chỉ tiêu tài chính, ngân hàng nên đánh giá, kết hợp với đặc thù sản xuất kinh doanh của lĩnh vực ngành liên quan. Ngoài ra, cần phân tích đánh giá Báo cáo lưu chuyển tiền tệ để đánh giá chính xác năng lực quản lý ngân quỹ cũng như khả năng thanh toán hiện tại và trong tương lai của khách hàng. Bên cạnh những biện pháp định tính được coi như “kỹ thuật” thẩm định, nên áp dụng các phương pháp định lượng, hay “nghệ thuật” thẩm định. Đây là một biện pháp hữu hiệu giúp Chi nhánh đánh giá một cách khách quan nhất về khách hàng. Nghĩa là, chỉ cần qua tiếp xúc trực tiếp doanh nghiệp CBTD có thể thu thập được nhiều thông tin hơn so với những gì thể hiện trên giấy tờ hơn nữa những thông tin này lại là những thông tin rất chính xác. Tuy nhiên, làm thế nào để không gây khó dễ cho khách hàng mà Chi nhánh vẫn có đủ thông tin để đánh giá khách hàng. Sau đây là một số yếu tố có thể giúp Chi nhánh có thể đánh giá định tính về khách hàng: Đánh giá về trình độ tổ chức và quản lý: - Mô hình tổ chức quản lý của khách hàng có phù hợp với lĩnh vực kinh doanh, quy mô của hoạt động không, có những ưu điểm, thuận lợi, khó khăn gì trong việc quản lý. - Mô hình quản lý có mang tính chuyên môn hoá cao, tiếp cận các phương thức quản lý hiện đại hay không. Đánh giá về kinh nghiệm, năng lực quản lý, tư cách của lãnh đạo doanh nghiệp (Giám đốc, Phó giám đốc, Kế toán trưởng): - Tuổi tác, trình độ học vấn, kinh nghiệm lãnh đạo. - Thời gian công tác, đảm nhiệm chức vụ, kết quả hoạt động của doanh nghiệp từ sau khi Ban lãnh đạo đảm nhiệm chức vụ so với trước đây. - Nhận xét về tư cách đạo đức thông qua tiếp xúc, tìm hiểu các mối quan hệ của Lãnh đạo doanh nghiệp. - Tác phong, phương pháp điều hành, tính chuyên nghiệp trong quản lý. - Sự đoàn kết trong nội bộ Ban lãnh đạo. - Sự am hiểu về tình hình sản xuất kinh doanh, dự án, thị trường của Ban lãnh đạo. - Tầm nhìn và định hướng phát triển doanh nghiệp. - Khả năng xử lý đối với các biến động bất lợi mà doanh nghiệp, dự án có khả năng gặp phải. Việc đánh giá về trình độ tổ chức quản lý và uy tín của khách hàng nhằm để hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro do chủ quan khách hàng gây nên như: rủi ro về đạo đức, rủi ro về thiếu năng lực, trình độ, kinh nghiệm, khả năng thích ứng với thị trường; đề phòng, phát hiện những âm mưu lừa đảo ngay từ ban đầu của một số khách hàng. Uy tín của khách hàng: - Mối quan hệ với các ngân hàng: xem xét, đánh giá về mức độ tín nhiệm trong quan hệ với các ngân hàng, các tổ chức tín dụng, nhất là với TCB trong việc trả nợ tiền vay, doanh số tiền gửi, thực hiện các cam kết. - Mối quan hệ về công nợ, thanh toán của khách hàng với các bạn hàng. - Vị trí của khách hàng trên thương trường: chất lượng, giá cả hàng hoá, dịch vụ, sản phẩm của khách hàng ở mức độ nào trên thị trường, mức độ chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm. * Thứ hai, thẩm định năng lực tài chính: Trong công tác thẩm định tài chính với các nội dung như đang thực hiện ở Chi nhánh là khá đầy đủ. Nhưng ở từng nội dung cần được hoàn thiện hơn nữa nhằm nâng cao chất lượng thẩm định. - Trong quá trình thẩm định các Báo cáo tài chính, các CBTD cần thẩm định một cách kỹ càng. Các số liệu đó phải là những số liệu đã được kiểm toán, chứng thực qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, khi làm công tác thẩm định ở nội dung này CBTD cần phải có sự phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan như cơ quan thuế nơi khách hàng đóng trụ sở, công ty kiểm toán thực hiện kiểm toán các số liệu của khách hàng, các ngân hàng khác mà khách hàng đã từng có quan hệ. Thông qua các mối quan hệ này CBTD có thể thấy được mức độ trung thực của các con số và không bị đánh lừa bởi những thủ thuật trong kế toán mà khách hàng hay sử dụng để qua mắt các cán bộ ngân hàng. Từ đó các kết quả đánh giá sau này mới mang tính sát thực. - Trong đánh giá tình hình chung của khách hàng: chúng ta phải đặc biệt quan tâm đến nguồn gốc tài trợ cho các khoản tăng tài sản của khách hàng qua các thời kỳ kinh doanh, nếu thấy mất cân đối trong cơ cấu tài sản, nguồn vốn thì cần phải thận trọng và phải tính tới những đặc trưng về cơ cấu tài sản, nguồn vốn của từng ngành nghề kinh doanh. - Khi tính toán, phân tích, đánh giá các chỉ số tài chính các CBTD phải nhận thấy được sự khác biệt trong từng ngành, phải xác định được các chỉ số trung bình để so sánh, đánh giá. Hơn nữa, phải đặt các đánh giá nhận xét đó trong môi trường kinh tế chung để thấy được những ảnh hưởng của các yếu tố khách quan đến tình hình chung của khách hàng để tránh những đánh giá không có lợi cho khách hàng. - Phải chú trọng hơn nữa đến hoạt động tài trợ của khách hàng đối với các nguồn vốn mà doanh nghiệp huy động được trước đây. Qua đó nhận xét về cơ cấu nguồn vốn đang sử dụng cũng như hiệu quả sử dụng của các nguốn vốn đó, mặt khác đánh giá xem khách hàng đã đầu tư vốn vào những hoạt động nào? Có phù hợp với các điều kiện của công ty đó hiện nay hay không. - Các CBTD phải sử dụng các phương pháp để dự báo Bảng cân đối kế toán và Báo cáo nguồn vốn và sử dụng vốn đối với các khách hàng để có cơ sở đối chiếu, kiểm tra với các số liệu do khách hàng cung cấp. Thường xuyên kiểm tra, kiểm soát đối với công tác thẩm định tài chính: Để đảm bảo các quy trình, quy chế thẩm định được tuân thủ đúng đắn, đầy đủ, Chi nhánh cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát trong nội bộ. Mục tiêu của việc này là phát hiện ra những hiện tượng bất thường, đảm bảo tính đúng đắn trước khi ra quyết định cho vay. Đây là hoạt động phải được Chi nhánh thực hiện thường xuyên nhưng không được mang tính chiếu lệ. Hiện đại hóa máy móc phục vụ cho công tác thẩm định: Trong năm qua, Chi nhánh đã trang bị, sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị, làm mới và nâng cấp đường truyền, cải tạo hệ thống mạng của Chi nhánh để thực hiện việc làm sạch dữ liệu và chuyển đổi thành công từ hệ thống OSFA sang chương trình hiện đại hóa INCAS. Tuy nhiên, Chi nhánh cần phải đầu tư trang thiết bị mới, mua thêm máy tính có chất lượng tốt để đảm bảo các cán bộ thẩm định đều có máy móc đáp ứng cho nhu cầu công việc của mình. Ngoài ra, Chi nhánh cũng cần thiết kế thêm các phần mềm để ứng dụng vào việc phân tích thẩm định tài chính, tính toán được nhiều chỉ tiêu hơn, chính xác hơn, nhanh chóng hơn. Hơn thế nữa, một điều phải chú ý đến đó là tính hiện đại của công nghệ và khả năng ứng dụng công nghệ thông tin của Chi nhánh, vừa đầu tư hiện đại hóa, tin học hóa vừa phải đào tạo con người để sử dụng, ứng dụng được. Nâng cao hơn nữa hiệu quả trong việc thu thập và sử dụng thông tin phục vụ công tác thẩm định khách hàng vay vốn: Nhu cầu những thông tin về khách hàng là rất lớn. Song hiện nay, công tác xây dựng và cung cấp thông tin của CBTD phục vụ công tác thẩm định nói chung và công tác thẩm định tài chính nói riêng là chưa hoàn thiện. Việc xây dựng tủ sách pháp luật, hệ thống văn bản, công văn, chế độ nghiệp vụ chưa thật hoàn chỉnh. Do đó, khi cần thông tin sử dụng gặp rất nhiều khó khăn. Để thẩm định khách hàng vay vốn được nhanh chóng, tránh được yếu tố chủ quan, bên cạnh nguồn thông tin từ hồ sơ khách hàng; Thông tin khách hàng cung cấp trực tiếp; Các báo cáo nghiên cứu thị trường của các tổ chức chuyên nghiệp đăng tải trên báo chí và các phương tiện truyền thông; thì việc thu thập thông tin khách hàng qua các đối tác của khách hàng, qua các ngân hàng mà khách hàng đã có quan hệ, qua cơ quan thuế, qua thu thập từ việc đi thực tế tại cơ sở của CBTD là rất quan trọng. Việc thu thập, hệ thống hoá và sử dụng những thông tin một cách hiệu quả là hết sức có ích đối với công tác thẩm định. Do đó, việc nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ thu thập và sử dụng thông tin trong quá trình thẩm định tài chính của khách hàng là góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng thẩm định tài chính khách hàng. 3.3 Một số kiến nghị: Những nguyên nhân khách quan ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tài chính trong cho vay đối với DNVVN tại Chi nhánh NHCT Đống Đa là những nguyên nhân vượt quá tầm kiểm soát của Chi nhánh. Để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của các nguyên nhân khách quan này tới chất lượng công tác thẩm định tài chính, Chi nhánh NHCT Đống Đa phải nhận thấy và đưa ra những đề xuất, kiến nghị đối với các chủ thể có liên quan. Với tư cách là sinh viên thực tập tại Chi nhánh tìm hiểu về lĩnh vực này tôi xin đưa ra một số kiến nghị giúp nâng cao hơn nữa chất lượng thẩm định tài chính trong cho vay. 3.3.1 Đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam: NHCT Việt Nam cần tăng cường hơn nữa vai trò điều hành, quản lý của mình. Thực hiện tốt vai trò quản lý, điều hành thông qua việc xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách, quy định, hướng dẫn rõ ràng thay vì thực hiện chức năng xử lý từng trường hợp cụ thể. Bên cạnh đó, NHCT Việt Nam còn phải tích cực phối hợp, trao đổi với các Chi nhánh nói chung và Chi nhánh NHCT Đống Đa nói riêng. Đặc biệt là việc thẩm định tài chính với các đơn vay vốn vượt quá thẩm quyền phán quyết của Chi nhánh để đẩy nhanh thời gian thẩm định tài chính, tránh tình trạng dự án được thông qua ở Chi nhánh nhưng khi trình lên Trung ương thì bị chậm trong khâu tái thẩm định. Để đảm bảo quy trình, quy chế thẩm định được tuân thủ nghiêm túc thì NHCT Việt Nam cần phải có cơ chế kiểm soát đối với Hội sở chính cũng như các Chi nhánh về nghiệp vụ này, bao gồm 3 giai đoạn: Kiểm soát trước: giai đoạn này dựa vào quy chế mà tiến hành kiểm tra, mục đích của bước kiểm soát này là phát hiện ra những điểm bất hợp lý của nghiệp vụ thẩm định trước khi thực hiện, cụ thể như: các điều kiện vay vốn ngân hàng theo cơ chế tín dụng hiện hành đã đầy đủ chưa? Hồ sơ khách hàng, hồ sơ vay vốn đã đầy đủ và hợp lệ chưa? đã thu thập đầy đủ thông tin cần thiết liên quan đến khách hàng chưa? Kiểm soát trong: đây là bước kiểm soát có tác dụng giám sát quá trình thực hiện, hạn chế những thiếu sót, thực hiện không đúng trình tự nghiệp vụ, sai sót về thủ tục… nhằm ngăn chặn kịp thời những thiệt hại sau này. Kiểm soát sau: bước kiểm soát này được thực hiện khi nghiệp vụ thẩm định về cơ bản đã được hoàn thành, kiểm tra hồ sơ, chứng từ hợp lệ của nghiệp vụ ở giai đoạn trước. NHCT Việt Nam với tư cách là Ngân hàng cấp trên của NHCT Đống Đa cần tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác trong nước và quốc tế để có thể cung cấp được nguồn thông tin cho công tác thẩm định, đảm bảo thông tin được cập nhật nhanh chóng, thường xuyên, chính xác; đồng thời thu thập, học hỏi kinh nghiệm cần thiết phục vụ cho công tác thẩm định của Chi nhánh. Mặt khác, NHCT cũng cần có cái nhìn đúng đắn về công tác cán bộ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, áp dụng các hình thức đào tạo cán bộ phù hợp gắn với phát triển nghiệp vụ. Một điều quan trọng nữa là NHCT Việt Nam cũng cần tạo điều kiện cho các chi nhánh đầu tư trang thiết bị máy móc, hiện đại hóa, tin học hóa các giao dịch và nghiệp vụ. NHCT cũng phải xây dựng phong cách văn hóa kinh doanh, lề lối làm việc kỷ cương trong toàn hệ thống. 3.3.2 Đối với Ngân hàng Nhà nước: NHNN với chức năng quản lý lưu thông tiền tệ, là cơ quan thực hiện các chính sách tiền tệ, tài khoá. Vì vậy, bất cứ một sự điều chỉnh nào của NHNN trong chính sách tiền tệ, tài khoá đều có ảnh hưởng đến hoạt động của toàn bộ hệ thống các ngân hàng. NHNN cần tăng cường vai trò chỉ đạo của mình trong hoạt động của hệ thống ngân hàng, ban hành các văn bản, quy định hướng dẫn rõ ràng cụ thể và thống nhất đối với các vấn đề liên quan đến hoạt động thẩm định tại ngân hàng trong đó có thẩm định tài chính trong cho vay với các doanh nghiệp. NHNN trên địa bàn cần nắm vững phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế, quy hoạch phát triển tổng thể để có thể tư vấn cho ngân hàng đầu tư vốn cho các doanh nghiệp trong các lĩnh vực then chốt, các doanh nghiệp trong các lĩnh vực cần khuyến khích phát triển. NHNN cũng cần tổ chức những hội nghị toàn ngành để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm, tăng cường sự hợp tác giữa các ngân hàng về các hoạt động nói chung và công tác thẩm định tài chính nói riêng. Điều này giúp các ngân hàng có những bài học kinh nghiệm được rút ra tư thực tế của Việt Nam trong công tác thẩm định tài chính nói riêng. Hiện nay, NHNN đã có trung tâm thông tin tín dụng (CIC) là công cụ trợ giúp thông tin cho các ngân hàng rất nhiều. Tuy nhiên, NHNN cũng cần phải có biện pháp để trung tâm này hoạt động có hiệu quả hơn. Một mặt, NHNN có thể thành lập thêm các công ty chuyên mua bán thông tin, chuyên môn hóa trong việc cung cấp thông tin về tín dụng, thị trường và thông tin về các doanh nghiệp một cách cập nhất và chính xác. NHNN cũng cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát đối với các ngân hàng để phát hiện những sai sót trong hoạt động của các ngân hàng nói chung và trong công tác thẩm định tài chính nói riêng, đồng thời có thể hoàn thiện hơn nữa nội dung hướng dẫn nghệp vụ cho ngân hàng. 3.3.3 Đối với Nhà nước: Nhà nước sớm hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn thẩm định nói chung và thẩm định tài chính nói riêng, trên cơ sở đó các ngân hàng có hướng dẫn cụ thể cho việc thẩm định tài chính trong hoạt động tín dụng của mình. Nhà nước cần quy định rõ ràng các biện pháp xử lý trường hợp doanh nghiệp cung cấp thông tin không trung thực; buộc doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán thống kê và thông tin báo cáo. Ngân hàng thường chỉ dựa vào nguồn tin từ phía doanh nghiệp là chính, mà nguồn thông tin này mang nhiều tính chủ quan của doanh nghiệp và chưa qua kiểm toán theo một chế độ bắt buộc. Vì vậy Nhà nước cần ban hành quy chế kiểm toán bắt buộc và công khai tình hình tài chính của doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện giúp cho ngân hàng trong công tác thẩm định. Nhà nước cũng cần có những biện pháp nhằm tạo một môi trường kinh tế ổn định, đặc biệt là phát triển thị trường tài chính để giúp cho việc dự báo của ngân hàng về các nội dung cần thẩm định được dễ dàng, chính xác. Hơn nữa, Nhà nước cũng cần củng cố các cơ quan làm công việc thống kê thông tin kinh tế xã hội để có được một địa chỉ tin cậy cung cấp thông tin cho ngân hàng. Điều này nhằm tránh tình trạng vì không có đủ thông tin mà dẫn tới đơn giản hóa trong thẩm định. Nhà nước cần có những quy định nhằm phát huy tính chủ động và độc lập của ngân hàng trong thẩm định tài chính, phân biệt rõ chức năng quản lý Nhà nước với quản lý hành chính về kinh tế để tránh sự can thiệp quá sâu của các cơ quan quản lý Nhà nước vào hoạt động chuyên môn của ngân hàng. 3.3.4 Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ: Các doanh nghiệp cần phối hợp thiện chí với ngân hàng, cung cấp thông tin trung thực, chính xác và cùng ngân hàng kiểm soát vốn vay. Doanh nghiệp cần thực hiện nghiêm túc chế độ tài chính kế toán và kiểm toán, thực hiện công khai tình hình tài chính của mình. Trong quan hệ với ngân hàng, nhiều doanh nghiệp còn thiếu kinh nghiệm, việc bố trí cán bộ quan hệ giao dịch với ngân hàng không hợp lý, cán bộ có tư tưởng e ngại, thiếu tự tin trong quan hệ, khả năng thuyết trình, đàm phán với ngân hàng. Do vậy, doanh nghiệp cũng cần chủ động tìm hiểu, nghiên cứu kỹ để nắm và hiểu rõ tính năng, tiện ích của các sản phẩm dịch vụ cũng như cách thức tiếp cận và sử dụng các dịch vụ mà các ngân hàng cung ứng, đặc biệt là thủ tục xin vay vốn của ngân hàng. Làm được như vậy sẽ giúp các cán bộ ngân hàng rút ngắn được thời gian khi thực hiện các nghiệp vụ và cũng là tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận các dịch vụ của ngân hàng. KẾT LUẬN Để thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho các Doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển, cũng như nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng đối với khu vực này là mối quan tâm hàng đầu của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa nói riêng, trong đó chất lượng công tác thẩm định tài chính trong cho vay đối với các doanh nghiệp được coi là trọng tâm. Tuy nhiên, công tác thẩm định tài chính trong cho vay ở các Ngân hàng thương mại Việt Nam chưa có bề dày kinh nghiệm. Hơn nữa, khi áp dụng vào một nền kinh tế đang trong quá trình hoàn thiện như Việt Nam lại càng có nhiều bất cập phát sinh. Do vậy, để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính trong cho vay đối với các Ngân hàng không phải là vấn đề riêng của một Chi nhánh hay một ngân hàng nào mà đó là vấn đề đặt ra đối với toàn hệ thống ngân hàng ở nước ta và cần có sự quan tâm, giúp đỡ của các cơ quan hữu quan. Qua quá trình thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa tôi đã phân tích đánh giá và đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính trong cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh. Do còn có những hạn chế về mặt nhận thức, kinh nghiệm nên chuyên đề của tôi không tránh được những sai sót, tôi mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các cán bộ Chi nhánh. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT NHNN : Ngân hàng nhà nước NHTM : Ngân hàng thương mại VNĐ : Việt Nam đồng TCKT : Tổ chức kinh tế DNVVN : Doanh nghiệp vừa và nhỏ NHCT : Ngân hàng Công thương CBTD : Cán bộ tín dụng VCSH : Vốn chủ sở hữu TSCĐ : Tài sản cố định ĐTTCDH : Đầu tư tài chính dài hạn ĐTNH : Đầu tư ngắn hạn TSLĐ : Tài sản lưu động 13. TSCĐ : Tài sản cố định DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tài chính doanh nghiệp – PGS.TS Lưu Thị Hương – Giáo trình Trường Đại học kinh tế quốc dân, Nhà xuất bản thống kê (2005) 2. Quản trị tài chính doanh nghiệp – PGS.TS Vũ Duy Hào – Giáo trình Trường Đại học kinh tế quốc dân, Nhà xuất bản thống kê (1998) 3. Ngân hàng thương mại – TS Phan Thị Thu Hà – Giáo trình Trường Đại học kinh tế quốc dân, Nhà xuất bản thống kê (2004) 4. Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam – GS.TS Nguyễn Đình Hương – Nhà xuất bản chính trị quốc gia (2002) 5. Sổ tay tín dụng – Ngân hàng Công thương Việt Nam (2004) 6. Tạp chí Kinh tế và Dự báo 7. Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ 8. Tạp chí Tài chính doanh nghiệp - Số 10, 11/2005 9. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2005 phương hướng hoạt động kinh doanh năm 2006 – Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa 10. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2006 phương hướng hoạt động kinh doanh năm 2007 – Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa 11. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2007 phương hướng hoạt động kinh doanh năm 2008 – Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa 12. Chuyên đề Thẩm định tín dụng – Trung tâm bồi dưỡng và tư vấn về tài chính vi mô - Đại học kinh tế quốc dân 2003 13. Nghị định số 90/2001/NĐ – CP ngày 23/11/2001 14. Quản trị ngân hàng thương mại – Tác giả: Perter S.Rose 15. Luật Các tổ chức tín dụng. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH TRONG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3 1.1 Khái quát về Ngân hàng thương mại (NHTM): 3 1.1.1 Khái niệm về NHTM: 3 1.1.2 Các hoạt động cơ bản của NHTM: 4 1.2 Thẩm định tài chính trong cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các Ngân hàng thương mại: 6 1.2.1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) trong nền kinh tế: 6 1.2.2 Khái niệm, ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng thẩm định tài chính trong cho vay đối với DNVVN ở các NHTM: 10 1.2.3 Nội dung của thẩm định tài chính trong cho vay đối với doanh nghiệp ở các NHTM: 12 1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thẩm định tài chính trong cho vay đối với DNVVN của các NHTM: 26 1.3.1 Nhân tố chủ quan: 26 1.3.2 Nhân tố khách quan: 28 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH TRONG CHO VAY ĐỐI VỚI DNVVN TẠI CHI NHÁNH NHCT ĐỐNG ĐA 30 2.1 Tổng quan về Chi nhánh NHCT Đống Đa: 30 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh NHCT Đống Đa: 30 2.1.2 Cơ cấu, tổ chức của Chi nhánh NHCT Đống Đa: 31 2.1.3 Tình hình kinh doanh của Chi nhánh NHCT Đống Đa các năm qua: 33 2.1.4 Kết quả kinh doanh các năm qua của Chi nhánh NHCT Đống Đa: 43 2.2 Thực trạng công tác thẩm định tài chính trong cho vay đối với DNVVN tại Chi nhánh NHCT Đống Đa: 44 2.2.1 Thẩm định, phân tích các Báo cáo tài chính của doanh nghiệp: 45 2.2.2 Phân tích và đánh giá các chỉ số tài chính: 46 2.2.3 Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn: 51 2.2.4 Dự báo về Bảng cân đối kế toán và Báo cáo nguồn vốn và sử dụng vốn: 52 2.3 Đánh giá công tác thẩm định tài chính trong cho vay đối với DNVVN ở Chi nhánh NHCT Đống Đa: 52 2.3.1 Những kết quả đạt được: 52 2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân: 55 CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH TRONG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DNVVN TẠI CHI NHÁNH NHCT ĐỐNG ĐA 60 3.1 Định hướng cho vay đối với các DNVVN của Chi nhánh NHCT Đống Đa: 60 3.2 Các giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính trong cho vay đối với DNVVN ở Chi nhánh NHCT Đống Đa: 60 3.3 Một số kiến nghị: 60 3.3.1 Đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam: 60 3.3.2 Đối với Ngân hàng Nhà nước: 60 3.3.3 Đối với Nhà nước: 60 3.3.4 Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ: 60 KẾT LUẬN 60 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 60 DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU 60 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 60 MỤC LỤC 60 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7908.doc
Tài liệu liên quan