Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay ngành điện lực tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Chương Dương

LỜI MỞ ĐẦU Trong quá trình hiện đại hoá hiện nay, nhu cầu về vốn đầu tư dự án ngày càng tăng, điều này đặt ra cho hệ thống các ngân hàng thương mại rất nhiều những cơ hội cũng như các thách thức trong việc mở rộng hoạt động cho vay theo dự án. Để hoạt động cho vay theo dự án của các Ngân hàng thương mại đạt hiệu quả, an toàn, công tác thẩm định dự án nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng cần phải được quan tâm đúng m

doc84 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1555 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay ngành điện lực tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Chương Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ức. Và Ngân hàng Công thương Chương Dương cũng không nằm ngoài yêu cầu. Hơn thế nữa, các ngân hàng thương mại cũng cần phải quan tâm đến đặc điểm riêng từng ngành kinh tế-kỹ thuật của dự án để kết quả thẩm định tài chính dự án đạt tốt nhất. Xuất phát từ tầm quan trọng và yêu cầu thực tế công tác thẩm định tài chính dự án trong cho vay, cũng như nhận thức được vai trò đặc biệt quan trọng của ngành điện lực trong nền kinh tế quốc dân, cũng như vị trí của nó trong cho vay theo dự án tại Ngân hàng Công thương Chương Dương, em đã quyết định chọn đề tài: “ Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay ngành điện lực tại Ngân hàng Công thương Chương Dương”. Kết cấu của đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài bao gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay của Ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay ngành điện lực tại Ngân hàng Công thương Chương Dương. Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay ngành điện lực tại Ngân hàng Công thương Chương Dương. Là một sinh viên chuyên ngành Tài chính doanh nghiệp, lần đầu tiên được tiếp xúc với thực tế, do hạn chế về thời gian, tài liệu và kinh nghiệm nghiên cứu nên Chuyên đề thực tập tốt nghiệp của em mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Em rất mong được sự góp ý của các thầy, cô giáo về bài viết này. Qua đây, em xin chân thành cảm ơn toàn thể các thầy cô giáo trong Khoa Ngân hàng-Tài chính đã trang bị cho em những kiến thức cơ bản về tài chính, ngân hàng. Và đặc biết em xin bày tỏ lòng biết ơn đối với PGS.TS Vũ Duy Hào đã trực tiếp hướng dẫn, động viên và giúp đỡ em hoàn thành Chuyên đề này. Em cũng xin chân thành cảm ơn các anh chị cán bộ nhân viên tại Phòng Khách hàng I và Ban lãnh đạo Ngân hàng Công thương Chương Dương đã tạo điều kiện cho em được tham gia tiếp xúc với thực tế tại công ty và đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình thu thập tài liệu để hoàn thành Chuyên đề này. Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2006 Sinh viên thực hiện Đỗ Thị Phương Thảo Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DỰ ÁN TRONG CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Khái niệm dự án Đầu tư là một hoạt động quan trọng của bất kỳ tổ chức nào trong nền kinh tế. Đó là hoạt động bỏ vốn với hy vọng đạt được lợi ích tài chính, kinh tế xã hội trong tương lai. Ngày nay, nhằm tối đa hoá hiệu quả đầu tư, các hoạt động đầu tư đều được thực hiện theo dự án. Với các quan điểm khác nhau, có thể có các khái niệm khác nhau về dự án. Theo thời gian, quan niệm về dự án ngày càng phát triển, có người coi dự án là cách sử dụng các nguồn lực vào các mục đích sản xuất nhất định. Ngân hàng thế giới – một tổ chức tài chính quốc tế lớn nhất và có vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn, viện trợ kinh tế – kỹ thuật, thúc đẩy đầu tư vào các nước đang phát triển thông qua các chương trình và dự án, đã xem dự án là tổng thể các chính sách, hoạt động và chi phí có liên quan với nhau, được hoạch định nhằm đạt được những mục tiêu nào đó trong một thời gian nhất định. Cũng có người cho rằng: dự án là tập hợp các đối tượng được hình thành và hoạt động theo một kế hoạch cụ thể để đạt được mục tiêu nhất định trong một khoảng thời gian nhất định. Song, một cách tổng quát nhất, dự án được hiểu là một tập hợp các hoạt động đặc thù liên kết chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau nhằm đạt được trong tương lai ý tưởng đã đạt ra với nguồn lực và thời gian xác định. Về phía ngân hàng, mối quan tâm hàng đầu khi khách hàng trình dự án vay vốn nhằm xin sự hỗ trợ về vốn đó là dự án đó cơ thực sự hiệu quả trên nhiều khía cạnh hay không, có thực sự đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp cũng như đảm bảo khả năng trả nợ cho ngân hàng hay không. Để đạt đươc điều này, ngân hàng cần thẩm định một cách cẩn thận, chính xác các dự án xin vay vốn của khách hàng. Phân loại dự án đầu tư Trên thực tế, các dự án rất đa dạng về cấp độ, loại hình, quy mô và thời hạn và được phân loại theo các tiêu thức khác nhau. Chẳng hạn, ở nhiều nước trên thế giới, dự án được phân loại theo một số tiêu thức sau: Theo tính chất dự án: gồm dự án sản xuất kinh doanh, dự án phát triển kinh tế xã hôị, dự án nhân đạo,.. Theo người khởi xướng: dự án được phân loại thành dự án cá nhân; dự án tập thể; dự án quốc gia; dự án quốc tế. Theo loại hình dự án: dự án đươc phân thành dự án giáo dục đào tạo, dự án nghiên cứu và phát triển, dự án đổi mới, dự án hỗn hợp, Theo lĩnh vực dự án: dự án gồm dự án xã hội, dự án kinh tế, dự án tổ chức, dự án kỹ thuật, dự án hỗn hợp. Theo lĩnh vực: Dự án ngắn hạn; dự án trung hạn; dự án dài hạn Theo cấp độ: dự án được phân loại thành dự án lớn và dự án nhỏ. Đây là cách phân loại tổng hợp nhất đối với dự án. Theo cơ cấu tái sản xuất: Dự án đầu tư mới, dự án mở rộng, dự án cải tạo. Theo cấp quản lý: Dự án Trung ương quản lý, dự án địa phương quản lý. Các dự án lớn thường là các chương trình phức hợp và chuyên ngành tầm cỡ quốc tế, quốc gia, miền, vũng lãnh thổ, liên ngành, địa phương. Đặc trưng của các dự án này là vốn đầu tư lớn, số lượng các chủ thể tham gia đông, sử dụng nhiều công nghệ phức tạp khác nhau, thời hạn dài có ảnh hưởng lớn đến môi trường kinh tế và môi trường sinh thái. Các dự án lớn đòi hỏi nhà quả lý phải có nhiều phẩm chất tốt, đặc biệt là khả năng giao tiếp tốt và năng lực tổ chức cao nhằm thiết lập hệ thống quản lý và tổ chức thực hiện dự án thành công. THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Sự cần thiết thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại Thẩm định tài chính dự án là rà soát, đánh giá một cách khoa học và toàn diện mọi khía cạnh tài chính dự án trên giác độ của nhà đầu tư: doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế khác, các cá nhân,.... Nếu như chính phủ, các cơ quan quản lý vĩ mô quan tâm nhiều hơn tới hiệu quả kinh tế xã hội của dự án thì các nhà đầu tư này lại quan tâm nhiều hơn tới khả năng sinh lãi của dự án. Thẩm định tài chính dự án là nội dung rất quan trọng trong thẩm định dự án. Cùng với thẩm định kinh tế, thẩm định tài chính giúp các nhà đầu tư có những thông tin cần thiết để đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn. Trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại thì thẩm định tài chính dự án thực chất là việc xác định tính hợp lý hay là tính chính xác của những chỉ tiêu mà khách hàng đề xuất trong dự án đệ trình ngân hàng Đó là các chỉ tiêu: Tổng mức vốn đầu tư và nguồn tài trợ, các chỉ tiêu xác định hiệu quả tài chính dự án, các chỉ tiêu về dòng tiền, thời gian hoàn vốn đầu tư..... Một dự án có được chấp thuận đầu tư hay không phụ thuộc rất lớn vào kết quả của việc thẩm định dự án. Trong đó, những kết quả đánh giá hiệu quả kinh tế, tài chính của dự án là một trong những căn cứ quan trọng nhất và trước hết để ra quyết định đầu tư. Đối với Ngân hàng thương mại với tư cách là người tài trợ cho dự án thì việc thẩm định dự án nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng lại càng cần thiết. Điều đó xuất phát từ những đặc trưng của dự án cũng như đặc trưng của hoạt động cho vay của ngân hàng. Có thể thấy, đặc trưng của dự án mà khách hàng đệ trình ngân hàng xin vay vốn là nhu cầu vay vốn lớn, thời gian sử dụng vốn vay dài và thường được xây dựng theo hướng có lợi cho khách hàng nên cơ thể ẩn chứa những rủi ro. Chính những đặc trưng này đòi hỏi ngân hàng phải xem xét, đánh giá và thẩm định kỹ lưỡng các dự án đặc biệt là thẩm định tài chính dự án nhằm mục đích bảo toàn vốn cho khách hàng, hạn chế các rủi ro Bên cạnh đó, với tư cách là một nhà tài trợ cho dự án, ngân hàng cũng cần phải thẩm định một cách chính xác các yếu tố tài chính của dự án để đưa ra các quyết định hợp lý đối với việc tài trợ vốn cho dự án như: mức cho vay, thời gian cho vay, lãi suất..... Như vậy, việc thẩm định tài chính dự án có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với ngân hàng vì nó giúp ngân hàng ra quyết định đầu tư chính xác, mang lại lợi nhuận cao và hạn chế rủi ro. Ngược lại, việc thẩm định tài chính dự án được thực hiện không tốt có thể mang đến rủi ro cho ngân hàng như mất vốn, kéo dài thời hạn thu hồi vốn ảnh hưởng đến kế hoạch nguồn vốn của ngân hàng, hoặc bị lợi dụng vốn nếu đưa ra quyết định tài trợ lớn hơn số vốn thực doanh nghiệp cần, mất cơ hội đầu tư dự án có hiệu quả khi thẩm định sai lệch tính hiệu quả của một dự án bị từ chối. Nội dung thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại Thẩm định tổng vốn đầu tư của dự án Vốn đầu tư của dự án là tổng số tiền được chi tiêu để hình thành nên các tài sản cố định và tài sản lưu động cần thiết. Những tài sản này sẽ được sử dụng trong việc tạo ra doanh thu, chi phí, thu nhập suốt vòng đời hữu ích của dự án. Như vậy, trong bước lập dự toán cho dự án người phân tích dự tính được tổng mức đầu tư vào tài sản cố định (thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư) và tài sản lưu động; các nguồn này được hình thành từ nguồn vốn chủ hay nguồn nợ của dự án. Thông thường, khi khách hàng đến vay vốn, ngân hàng phải tiến hành thẩm định tổng mức vốn đầu tư để có thể xác định mức cho vay dựa trên việc trả lời các câu hỏi: lượng vốn khách hàng yêu cầu vay có hợp lý không? Các chi phí đầu tư dự trù của dự án có phụ hợp hay không? Vì vậy, việc thẩm định chỉ tiêu này vô cùng quan trọng. Nó giúp ngân hàng ra quyết định tài trợ đúng đắn và chính xác nhất để đáp ứng đủ nhu cầu vay của khách hàng, nhưng cũng không vượt quá mức doanh nghiệp cần dẫn đến tình trạng sử dụng vốn sai mục đích Như vậy, tổng mức vốn đầu tư được chia thành hai loại: vốn đầu tư vào tài sản cố định và vốn đầu tư vào tài sản lưu động (vốn lưu động ban đầu) Vốn đầu tư vào tài sản cố định bao gồm chi phí chuẩn bị, chi phí xây dựng lắp và mua sắm thiết bị Vốn đầu tư vào tài sản lưu động (Vốn lưu động ban đầu) gồm các chi phí để tạo ra các tài sản lưu động ban đầu (cho một chu kỳ sản xuất xây dựng đầu tiên) nhằm đảm bảo cho dự án có thể đi vào hoạt động bình thường theo các điều kiện kinh tế, kỹ thuật đã dự tính Quả thực, để một dự án có thể được triển khai, đòi hỏi phải đủ lượng vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu chi tiêu trong việc hình thành nên các tài sản cố định, tài sản lưu động ròng – tài sản khung cần thiết để dự án có thể tạo doanh thu, chi phí và thu nhập cho doanh nghiệp. Hơn nữa, cơ cấu vốn đầu tư đòi hỏi phải có sự hợp lý tối đa tức một cơ cấu vốn đầu tư tối ưu với chi phí vốn bình quân gia quyền thấp nhất. Thẩm định nguồn tài trợ của dự án Dự án có thể được tài trợ bằng nhiều nguồn, dưới nhiều phương thức khác nhau. Mỗi phương thức tài trợ đều có những đặc trưng riêng cũng như lợi thế và bất lợi cho các chủ đầu tư. Ngân hàng cần thẩm định tính khả thi của từng nguồn đó để làm căn cứ xác định mức cho vay của mình. Điều này nhằm đảm bảo cho dự án không bị thiếu vốn và cũng tránh cho ngân hàng rơi vào thế bị động trong việc cho vay khi các nguồn tài trợ khác không khả thi. Các nguồn tài trợ cho dự án có thể bao gồm: Thứ nhất, nguốn từ vốn tự có. Khách hàng có thể dùng các phương thức sau để tài trợ cho dự án như: phát hành cổ phiếu thường, thặng dư vốn, tự tài trợ bằng thu nhập giữ lại, phát hành cổ phiếu ưu đãi,.... Do đó, ngân hàng phải kiểm tra, đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó cân đối xác định ra nguồn vốn tự có tham gia của doanh nghiệp Thứ hai, nguồn do ngân sách cấp. Một số dự án được nhà nước cấp vốn để triển khai và doanh nghiệp chỉ được dùng số vốn này để thực hiện dự án. Thứ ba, vay tổ chức khác: Để tài trợ vốn đầu tư cho dự án, doanh nghiệp có thể dử dụng nợ từ các nguồn: tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại và vay thông qua phát hành trái phiếu. Nếu doanh nghiệp sử dụng các nguồn vốn vay khác thì ngân hàng cần kiểm tra độ tin cậy về khả năng cho vay, số lượng, điều kiện và thời hạn cho vay trên cơ sở cam kết bằng văn bản của chủ thể cho vay. Thông thường, khách hàng chỉ vay vốn một ngân hàng để đơn giản trong thủ tục vay vốn. Tuy nhiên, một số dự án có nhu cầu vay vốn lớn hơn đòi hỏi sự đồng tài trợ của các ngân hàng. Để có thể lên kế hoạch giải ngân vốn của mình sao cho hiệu quả và kịp thời, đặc biệt là thời điểm mà khách hàng có thể đưa vốn tự có vào đầu tư dự án, bên cạnh việc thẩm định tính khả thi, ngân hàng còn phải xem xét đến thời điểm mà doanh nghiệp nhận được khoản tài trợ đó. Đồng thời, ngân hàng thường muốn khách hàng sử dụng vốn tự có và giải ngân vốn vay một cách song song hơn là phải giải ngân vốn vay trước để hạn chể rủi ro cho mình và nâng cao trách nhiệm của chủ dự án. Thẩm định dòng tiền dự án Dòng tiền của một dự án được hiểu là các khoản thu và chi được kỳ vọng xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau trong suốt chu kỳ của dự án. Chênh lệch giữa các khoản thu và chi này tạo ra dòng tiền ròng của dự án của từng thời điểm. Do tiền có giá trị thời gian nên chúng ta không thể đem so sánh dòng tiền phát sinh ở các thời điểm khác nhau với mà phải quy chúng về một mốc thời gian để so sánh bằng cách sử dụng lãi suất chiết khấu. Tuy nhiên, dòng tiền là một khái niệm hoàn toàn khác với lợi nhuận kế toán. Các nhà kế toán xác định thu nhập, chi phí dựa trên cơ sở đã được chấp nhận. Trong khi đó, để đánh giá các dự án, nhà quản trị tài chính chỉ cần xác định khoản thu nhập hay chi tiêu đó là có thật, có nghĩa là có sự xuất hiện dòng tiền. Để thẩm đinh dòng tiền được chính xác, các ngân hàng thường rất chú trọng đến việc thẩm định các kế hoạch sản xuất kinh doanh, coi đây là bước đầu tiên, hết sức quan trọng. Tất cả các yếu tố của kế hoạch sản xuất kinh sẽ đều là cơ sở cho việc xác định dòng tiền và tính toán các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính. Tuy nhiên trên góc độ thẩm định tài chính thì ngân hàng sẽ chỉ thẩm định tính hợp lý các yếu tố chi phí và doanh thu, lợi nhuận của dự án do khách hàng xây dựng. Doanh thu của dự án: bao gồm doanh thu từ sản phẩm chính, doanh thu từ sản phẩm phụ, doanh thu từ dịch vụ cung cấp cho bên ngoài. Khi thẩm định, yếu tố mà ngân hàng phải xem xét tính hợp lý nhất đó là yếu tố giá và sản lượng của sản phẩm dịch vụ mà dự án cung cấp. Trong đó giá bán phải dựa trên cơ sở chi phí thực tế, phù hợp với giá của các sản phẩm cùng loại được thị trường chấp nhận và có tính cạnh tranh. Sản lượng sản phẩm được xác định dựa trên công suất thực tế của máy móc thiết bị Chi phí của dự án: Bao gồm chi phí cố định và chi phí biến đổi. Ngân hàng cần thẩm đinh tính chính xác và hợp lý của các yếu tố chi phí dựa trên tình hình sản xuất kinh doanh thực tế của doanh nghiệp hoặc tiêu chuẩn của ngành. Lợi nhuận của dự án: Trên cơ sở dự trù về doanh thu và chi phí có thể dự tính thu nhập hàng năm của dự án Khi thẩm định dòng tiền của dự án cần chú ý ba yếu tố: Thứ nhất, phải xem xét đến giá trị thời gian của tiền. Do tiền có giá trị thời gian nên cần căn cứ vào thời điểm sẽ xuất hiện dòng tiền và quy chúng về cùng một mốc thời gian để so sánh, đánh giá. Thứ hai, cần phân biệt dòng tiền thực và dòng lợi nhuận kế toán. Dòng lợi nhuận kế toán được xác định dựa trên thu nhập và chi phí được chấp nhận, còn dòng tiền của dự án xác định trên thu nhập và chi phí được chấp nhận. Thứ ba, dòng tiền của dự án phải là dòng tiền phù hợp. Dòng tiền phù hợp là một sự thay đổi trong tổng dòng tiền trong tương lai của doanh nghiệp mà được coi là hệ quả trực tiếp của việc thực hiện dự án. Nhìn chung, dòng tiền của dự án bao gồm: Dòng chi phí đầu tư, dòng tiền từ hoạt động kinh doanh, dòng tiền thu hồi sau đầu tư. Cụ thể là: Dòng tiền đầu tư bao gồm ba bộ phận: Chi phí mua sắm tài sản cố định và lắp đặt. Nếu như chúng ta mua một thiết bị thì không chỉ đơn gian tính giá mua là chi phí đầu tư, mà chúng ta phải tính thêm và đó tất cả những chi phí liên quan cho đến khi có thể đưa thiết bị vào hoạt động. Chẳng hạn chi phí vận chuyển lắp đặt, vận hàng thử v.v.. Chúng được cộng vào giá mua tài sản cố định để xác định chi phí đầu tư. Chi phí cơ hội: Khi đề cập đến chi phí, chúng ta thường nghĩ là các khoản tiền đã trả hay là các khoản thanh toán. Tuy nhiên, khái niệm chi phí cơ hội thì khác. Chi phí cơ hội được định nghĩa là cơ hội thu nhập bị bỏ qua do chấp nhận dự án này mà không chấp nhận dự án khác. Và chi phí cơ hội cũng được tính vào dòng tiền đầu tư. Đầu tư vào tài sản lưu động ròng: Thông thường, một dự án yêu cầu phải đầu tư vào tài sản lưu động ròng bên cạnh đầu tư vào tài sản cố định. Lượng đầu tư này được tài trợ bởi các khoản nợ ngắn hạn, do vậy kết quả là doanh nghiệp chỉ phải đầu tư vào tài sản lưu động ròng. Trong tính toán dự án, đầu tư vào tài sản lưu động ròng được coi là đầu tư ban đầu, lượng đầu tư này sẽ được thu hồi khi dự án kết thúc. Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh: Có các phương pháp khác nhau trong việc xác định dòng tiền từ hoạt động kinh doanh, song cùng mang lại một kết quả giống nhau. Phương pháp từ dưới lên: Xuất phát từ số dưới cùng – lợi nhuận ròng, cộng với khấu hao, tao được dòng tiền ròng từ hoạt động kinh doanh NCF: NCF = Lợi nhuận ròng + Khấu hao Phương pháp từ trên xuống: xuất phát từ doanh thu để tính toán dòng tiền từ hoạt động kinh doanh của dự án. NCF = Doanh thu – Chi phí – Thuế Phương pháp tiết kiệm nhờ thuế: NCF trong phương pháp này gồm hai phần: phần thứ nhất là dòng tiền từ hoạt động kinh doanh của dự án nếu không có khấu hao và phần còn lại gọi là phần tiết kiệm thuế do khấu hao. NCF = (Doanh thu – Chi phí)*(1 – T)+ Khấu hao*T Dòng tiền thu hồi sau đầu tư : bao gồm khoản thu hồi vốn lưu động ròng và thu hồi từ thanh lý tài sản cố đinh. Trong đó: Thu hồi thanh lý TSCĐ = Thu thanh lý – (Thu thanh lý – GTCL)*T Như vậy, thẩm định dòng tiền dự án là một nội dung quan trọng trong thẩm định tài chính dự án. Nó là hoạt động chiếm phần lớn thời gian cũng như nội dung công việc của quá trình thẩm định. Từ việc đánh giá các nhân tố cấu thành nên doanh thu và chi phí của dự án đến tổng hợp chúng lại thành những dòng thu và chi của dự án, dòng trả nợ, dòng khấu hao tài sản cố định..... Thẩm định lãi suất chiết khấu Lãi suất chiết khấu chính là tỷ lệ sinh lời cần thiết mà nhà đầu tư yêu cầu đối với một dự án, là cơ sở để chiết khấu các dòng tiền trong việc xác định giá trị hiện tại ròng của dự án. Về bản chất lãi suất chiết khấu của một dự án chính là chi phí vốn của dự án đó. Rõ ràng nếu thực hiện dự án, nhà đầu tư sẽ bỏ qua lợi tức kỳ vọng của các dự án khác hay các tài sản tài chính khác có cùng mức rủi ro. Chính vì bỏ qua các hình thức đầu tư khác để tập trung theo đuổi một dự án, nhà đầu tư sẽ đòi hỏi một mức lãi suất chiết khấu – tỷ lệ sinh lời cần thiết đối với dự án đó. Đối với ngân hàng, việc xác định lãi suất chiết khấu cho dự án như thế nào cho phù hợp là rất quan trọng vì nó ảnh hưởng tới việc đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án. Đứng trên các quan điểm và vị trí khác nhau của người thẩm định và cơ cấu vốn đầu tư khác nhau thì lãi suất chiết khấu được xác định khác nhau, có thể là: Thứ nhất, từ phía nhà đầu tư: Lãi suất chiết khấu là tỷ lệ sinh lời cần thiết mà nhà đầu tư yêu cầu đôi với phần vốn đàu tư hay thực chất là chi phí cơ hội của người sử dụng vốn. Khi đó, lãi suất được dự tính theo mô hình CAPM hoặc APT. Thứ hai, theo quan điểm của nhà tài trợ hay quan điểm của ngân hàng: Lãi suất chiết khấu là lãi suất cho vay cộng thêm một tỷ lệ dự phòng rủi ro nhất định. Thứ ba, với những dự án được tài trợ hỗn hợp bởi nhiều nguồn thì lãi suất chiết khấu là chi phí bình quân của vốn (WACC) Thông thường, việc xác định lãi suất chiết khấu trong các dự án của khách hàng đệ trình dựa vào lãi suất cho vay trung dài hạn hoặc lãi suất gửi tiền trung dài hạn hiện hành của ngân hàng. Dựa trên những đánh giá rủi ro của dự án, ngân hàng tiến hành thẩm định và có điều chỉnh lại tỷ lệ này theo quan điểm của mình. Thẩm định các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án Để đánh giá hiệu quả tài chính của dự án, các ngân hàng thường sử dụng những chỉ tiêu sau: Giá trị hiện tại ròng (NPV), tỷ suất nội hoàn (IRR), tỷ suất nội hoàn điều chỉnh (MIRR), thời gian hoàn vốn (PP), chỉ số doanh lợi (PI), chỉ tiêu cân đối Lợi ích- Chi phí (B/C), lợi nhuận kế toán bình quân (APP), điểm hoà vốn (BP) Giá trị hiện tại ròng (NPV) NPV của dự án chính là số chênh lệch giữa tổng giá trị hiện tại của các dòng tiền thu được trong từng năm thực hiện dự án với vốn đầu tư bỏ ra được hiện tại hoá ở mốc 0. Công thức tính toán giá trị hiện tại ròng (NPV) như sau: NPV = NCF0 + NCF1/(1+i) + NCF2/(1+i)2 + ......... + NCFt/(1+i)t NPV phản ánh giá trị tăng thêm cho chủ đầu tư. NPV mang giá trị dương nghĩa là việc thực hiện dự án sẽ tạo ra giá trị tăng thêm cho chủ đầu tư. Hay nói cách khác, dự án không những bù đắp đủ vốn đầu tư bỏ ra, mà còn tạo ra lợi nhuận; không những thế, lợi nhuận này còn được xem xét trên cơ sở giá trị thời gian của tiền. Ngược lại, nếu NPV âm có nghĩa là dự án không đủ bù đắp vốn đầu tư, đem lại thua lỗ cho chủ đầu tư. Căn cứ vào ý nghĩa của chỉ tiêu NPV dự án được chấp nhận NPV dương và lớn nhất nếu như có nhiều hơn một phương án có NPV dương. Các nhà thẩm định thường dựa trên con số này để ra quyết định phê duyệt dự án. Chỉ tiêu NPV có những ưu điểm: phản ánh được đầy đủ các khía cạnh của chi phí và kết quả của dự án; tính đến giá trị thời gian của tiền; hiệu quả dự án được biểu hiện bằng một đại một đại lượng tuyệt đối, cho pháp đánh giá được quy mô lợi ích của dự án. Dự án chỉ được chấp nhân khi NPV>= 0, NPV càng lớn thì dự án càng tốt nếu chỉ xét đơn thuần khả năng sinh lợi, nhất là khi lựa chọn nhiều dự án. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm thì chỉ tiêu NPV cũng có một số nhược điểm sau: NPV chỉ là một chỉ tiêu tuyệt đối, nó không phản ánh được mức độ sinh lời của một đồng vốn đầu tư; không tính tới sự khác biệt về thời gian hoạt động dự án và độ chính xác của NPV phụ thuộc nhiều vào việc lựa chọn lãi suất chiết khấu. Đây là một chỉ số có tính nhạy cảm và rất khó khăn để xác định chính xác. Chính vì những nhược điểm này của chỉ tiêu NPV nên khi phân tích tài chính dự án, người ta thường sử dụng thêm chỉ tiêu tỷ lệ hoàn vốn nội bôn (IRR) nhằm đánh giá toàn diện hơn và hiệu quả tài chính của dự án. Tỷ lệ nội hoàn (IRR) Tỷ lệ nội hoàn còn gọi là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó giá trị hiện tại của chi phí dự án tương đương với giá trị hiện tại của giá trị cuối cùng của nó. IRR phản ánh khả năng sinh lợi của dự án, nó cho ta biết tỷ lệ sinh lời hàng năm trên một đồng vốn đầu tư, chưa tính đến chi phí cơ hội của vốn đầu tư. Hay nói cách khác, nếu chi phí vốn bằng IRR, dự án sẽ không tạo thêm được giá trị hay không có lãi. Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ có những ưu nhược điểm sau: về ưu điểm, IRR cho biết tỷ lệ sinh lời trên một đồng vốn đầu tư, có tính tới giá trị thời gian của tiền. Về nhược điểm, một dự án rất dễ dẫn tới IRR đa trị, có nghĩa là cùng tồn tại một lục nhiều hơn một giá trị của IRR là cho NPV bằng 0. Điều này gây khó khăn trong qua trình đánh giá hiệu quả của dự án. Chính vì nhược điểm trên của IRR nên trong quá trình phân tích tài chính dự án người ta thường coi trọng chỉ tiêu NPV hơn bởi nó là cơ sở đển các nhà thẩm định phê duyệt dự án. Tỷ lệ nội hoàn cho biết lãi suất tối đa mà dự án có thể đạt được hay mức lãi suất vay cao nhất mà dự án có khả năng thanh toán. Vì vậy, ngân hàng có thể so sánh IRR với lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay, tỷ suất sinh lời trong hoạt động kinh doanh hàng năm của khách hàng để có những đánh giá về dựa án. Cũng như chỉ tiêu NPV, ngân hàng tính điểm ưu thế cho những dự án có IRR cao nhưng không căn cứ vào đó để ra quyết định cuối cùng. Tỷ lệ nội hoàn có điều chỉnh (MIRR) Tỷ lệ nội hoàn có điều chỉnh là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó giá trị hiện tại của chi phí dự án tương đương với giá trị hiệntại của giá trị cuối cùng của nó. Giá trị cuối cùng của dự án là tổng giá trị tương lai của những luồng tiền vào tại chi phí vốn Chỉ tiêu này khắc phục nhược điểm của chỉ tiêu IRR khi giả định tỷ lệ lãi suất tái đầu tư nhằm đưa lại kết quả chính xác hơn. Với ngân hàng, chỉ tiêu này có vai trò tương tụ như chỉ tiêu IRR. Thời gian hoàn vốn đầu tư (PP) Thời gian hoàn vốn đầu tư của dự án đầu tư là thời gian để chủ đầu tư thu hồi đủ vốn đầu tư ban đầu hay là độ dài thời gian dự tính cần thiết để các luồng tiền ròng của dự án bù đắp được chi phí của nó. PP phản ánh thời gian thu hồi vốn đầu tư vào dự án, nó cho biết sau bao lâu thì dự án thu hồi đủ vốn đầu tư; do vậy PP cho biết khả năng tạo thu nhập của dự án từ khi thực hiện cho đến khi thu hồi đủ vốn. Tuy nhiên, PP lại không xem xét đến khả năng tạo ra thu nhập sau khi đã thu hồi vốn đầu tư. Chỉ tiêu PP giúp cho ngân hàng có một cách nhìn tương đối chính xác về mức độ rủi ro của dự án. Một dự án có thời gian hoàn vốn dài sẽ có khả năng xẩy ra rủi ro lớn khiến cho ngân hàng phải cân nhắc kỹ lưỡng hơn khi xem xét cho vay. Vì vậy, các dự án có các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính khác thấp nhưng thời gian thu hồi vốn đầu tư ngắn được ngân hàng ưu tiên hơn các dự án có thời gian thu hồi vốn đầu tư dài dù các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính khác tốt hơn. Chỉ số doanh lợi (PI) Chỉ số doanh lợi (PI) được tính dựa vào mối quan hệ giữa thu nhập ròng hiện tại so với vốn đầu tư ban đầu. Chỉ tiêu này thường được sử dụng như là chỉ tiêu xếp hạng dự án khi bị giới hạn về nguồn vốn. Đối với chủ đầu tư, chỉ tiêu này khá quan trọng vì nó đo lường khả năng sinh lời của mỗi đồng vốn đầu tư, phù hợp mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp nhất là khi họ bị giới hạn về nguồn lực đầu tư. Tuy nhiên, ngân hàng thường ít quan tâm đến chỉ tiêu này vì với tư cách nhà tài trợ, ngân hàng không sợ thiếu vốn cho vay mà chỉ quan tâm đến việc đồng vốn bỏ ra đảm bảo thu hồi hay không. Chỉ tiêu cân đối Lợi ích – C._.hi phí (B/C) Chỉ tiêu này được xác định bằng tỷ số giữa lợi ích thu được và chi phí bỏ ra tính về thời điểm hiện tại hoặc tương lai Chỉ tiêu này cũng mang tính bổ trợ trong việc đánh giá hiệu quả tài chính của dự án chứ không ảnh hưởng nhiều đến các quyết định tài trợ của ngân hàng Chỉ tiêu lợi nhuận kế toán bình quân (APP) Chỉ tiêu này là lợi nhuận kế toán thuần tuý bình quân trong các năm của dự án, thường được dùng kết hợp với chỉ tiêu NPV Chỉ tiêu này phản ánh khả năng tạo ra lợi nhuận về mặt kế toán, không tính đến giá trị thời gian của tiền nên không phản ánh chính xác khả năng sinh lời của dự án. Điểm hoà vốn (BP) Điểm hoà vốn là mức sản lượng mà tại đó nhà đầu tư thu hồi đủ vốn đầu tư. Chỉ tiêu này giúp ngân hàng có cái nhìn trực quan hơn về khả năng hoàn vốn của dự án. Thẩm định về rủi ro của dự án Rủi ro của dự án được hiểu một cách chung nhất là khả năng mà một sự kiện không có lợi nào đó xuất hiện. Đối với dự án , thường có ba loại rủi ro sau đây: Rủi ro loại 1: Đây là rủi ro riêng của chính bản thân dự án, tức là rủi ro của một tài ản khi nó là tài sản duy nhất của doanh nghiệp và được đo bằng sự biến thiên của lãi suất dự kiến của dự án Rủi ro loại 2: Rủi ro này thể hiện ở sự ảnh hưởng của dự án đối với rủi ro của công ty, được đo bằng sự tác động của dự án đối với sự biến thiên thu nhập của công ty. Rủi ro loại 3: Đây là rủi ro của dự án được đánh giá từ quan điểm của nhà đầu tư cổ phiếu. Đó là phần rủi ro của dự án mà không thể loại bỏ bằng việc đa dạng hoá đầu tư. Rủi ro này được đo lường thông qua hệ số oή của dự án. Có thể thấy rằng, ba loại rủi ro này có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau bởi chúng ảnh hưởng tới ba cấp độ khác nhau: của bản thân dự án, giữa các dự án với nhau và của cả doanh nghiệp trên thị trường. Vì thế, nếu có sự ảnh hưởng tới cấp độ nào của rủi ro sẽ dễ dàng tạo ra một hiệu ứng lan truyền cho các loại rủi ro còn lại. Đối với ngân hàng là người tài trợ cho dự án nên thường quan tâm đến rủi ro loại 1 vì nó liên quan đến khả năng thu hồi nợ. Rủi ro này khiến cho ngân hàng không thu hồi được vốn vay hay phải điều chỉnh lại kỳ hạn nợ khi dòng thu nhập của dự án thấp hơn mức dự kiến do những nguyên nhân khách quan và chủ quan như biến động của tỷ giá, lạm phát, yếu tố quản lý, thiên tai, sự thay đổi của chính sách.... bao gồm các trường hợp: Chi phí đầu vào cao hơn so với kế hoạch làm giảm thu nhập dự tính của dự án; sản lượng đầu ra thấp hơn so với kế hoạch làm giảm thu nhập dự tính của dự án; giá bán sản phẩm thấp hơn so với kế hoạch làm giảm thu nhập dự tính của dự án. Để tiến hành đánh giá rủi ro của dự án, người ta thường sử dụng các phương pháp sau: Phân tích độ nhạy Dòng tiền của dự án chịu tác động của rất nhiều yếu tố. Sự thay đổi của các yếu tố này sẽ làm thay đổi dòng tiền và ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của dự án. Phân tích độ nhậy sẽ đánh giá được mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đó thông qua xem xét sự thay đổi của các chỉ tiêu NPV, IRR. Quá trình phân tích có thể theo hai hướng: + Xem xét ảnh hưởng đơn lẻ của từng yếu tố đến chỉ tiêu NPV, IRR. Khi đó ta cho một trong các yếu tố như: số lượng bán hàng, chi phí cố đinh, chi phí biến đổi hay giá bán thay đổi và giữ nguyên các yếu tố khác để xem xét tác động của nó đối với NPV, IRR + Xem xét ảnh hưởng đồng thời của nhiều yếu tố đến chỉ tiêu NPV, IRR: Thực tế là các biến cố có sự thay đổi đồng thời nên người thẩm định cũng phải phân tích và xem xét sự thay đổi của nhiều yếu tố đồng thời đến NPV, IRR trên cơ sở đó giúp cho việc đánh giá độ an toàn, phòng nhừa rủi ro và quản lý tốt dự án. Chẳng hạn như xem xét ảnh hưởng đồng thời của giá bán và chi phí khả biến. Phân tích tình huống Phân tích độ nhậy được dùng phổ biến tuy nhiên chưa dựa trên sự phân bố xác suất nên khó có thể lượng hoá được cơ bản các chỉ tiêu hiệu quả tài chính trong trường hợp xấu nhất và tốt nhất so với cơ sở. Do đó người thẩm định cần dùng phương pháp phân tích tình huống. Với phương pháp này, người lập ra các tình huống tốt nhất và xấu nhất và các xác suất xảy ra. Từ đó tìm ra hệ số biến thiên của NPV và IR để đánh giá mức độ rủi ro Phân tích mô phỏng Phương pháp này tuy phức tạp nhưng có ưu việt hơn phương pháp phân tích tình huống. Nó đề cập đến một phạm vi các kết cục có khả năng xảy ra chứ không chỉ một vài kết cục rời rạc. Trong phạm vi đó, đường biểu diễn hàm mật độ xác suất là một đường liên tục nên việc tính toán các hệ số đo lường rủi ro sẽ chính xác hơn. Mặc dù vậy, do tính chất phức tạp trong áp dụng và đòi hỏi phương tiện kỹ thuật hỗ trợ nên các ngân hàng hầu như chưa áp dụng phương pháp này trong phân tích rủi ro dự án. 1.3 CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 1.3.1 Khái niệm Chất lượng là một khái niệm tương đối trìu tượng. Theo quan điểm của hệ thống quản lý chất lượng ISO: Chất lượng là mức độ của một tập hợp các đặc tính vốn có đáp ứng các yêu cầu. Như vậy, có thể hiểu, chất lượng thẩm định tài chính dự án là một tập hợp các tiêu chí bao gồm các nội dung thẩm định tài chính, quy trình thẩm định và kĩ thuật thẩm định tài chính dự án được yêu cầu và mục tiêu đặt ra. Thẩm định tài chính dự án được coi là có chất lượng tốt khi thoả mãn được các yêu cầu mà ngân hàng và khách hàng đặt ra, hay nói cách khác, dự án đó khi thực hiện trong tương lai sẽ diễn biến theo đúng những gì mà người thẩm định đã nhận định cả về vốn đầu tư, doanh thu, chi phí, lợi nhuận, số năm hoàn vốn thực tế hay xác suất xảy ra rủi ro khi thực hiện dự án. Tất nhiên, cho dù rất khó có thể xác định giá trị sản phẩm dịch và đưa ra những tiêu chuẩn định lượng một cách chính xác những vẫn cần phải thiết lập nhứng tiêu chí để đánh giá chất lượng một cách chính xác nhưng vẫn cần phải thiết lập những tiêu chí để đánh giá chất lượng cho nó bởi tất cả các kết quả của quá trình thẩm định cuối cũng chỉ nhằm mục đích là đáp ứng yêu cầu của ngân hàng và khách hàng. Thứ nhất, về phía ngân hàng, yêu cầu của quá trình thẩm định đạt kết quả tốt là thời gian và chi phí thẩm định thấp, đánh giá được chính xác hiệu quả tài chính của dự án từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn về việc cho vay hoặc không, cho vay với thời hạn bao nhiêu, lãi suất, phương pháp giải ngân...., hạn chế tối đa rủi ro nhưng không bỏ lỡ cơ hội đầu tư với những dự án tốt. Trong khi đó, yêu cầu của khách hàng là được tài trợ đủ nhu cầu vốn với thời hạn và lãi suất phù hợp, thời gian thẩm định hợp lý, không bị lỡ thời cơ kinh doanh, được ngân hàng cung cấp các tiện ích khác như tư vấn tài chính.... Hai điều này luôn phải được thoả mãn đồng thời thì công tác thẩm định tài chính dự án mới được đánh giá là có chất lượng tốt. Vì vậy, các ngân hàng phải biết cân đối trong việc đáp ứng hai yêu cầu trên chứ không thể chỉ đáp ứng bất kỳ bên nào. Từ đó, các chỉ tiêu phản ánh chất lượng thảm định tài chính dự án là các chỉ tiêu thể hiện mức độ thoả mãn yêu cầu đặt ra ngân hàng và khách hàng. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án Để đánh giá chất lượng thẩm định tài chính dự án, có thể sử dụng một số các chỉ tiêu như: thời gian thẩm định, chi phí thẩm định, chất lượng các quyết định cho vay và chất lượng các báo cáo thẩm định và một số các chỉ tiêu khác. 1.3.2.1. Thời gian thẩm định Một dự án để có thể thẩm định tốt cần phải có thời gian nhất định cho quá trình thu thập thông tin, phân tích, ra quyết định.... Thời gian này phải đủ để tổ chức khâu thẩm định được kỹ càng nhưng không được quá dài sẽ làm mất cơ hội đầu tư của khách hàng. Tuỳ theo từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, có thể đưa ra một chuẩn mực thời gian cho phân tích. Hoặc cũng có thể đặt ra chỉ tiêu thời gian tập hợp doanh thu, chi phí để xác định dòng tiền, thời gian đánh giá rủi ro dự án.... Thời gian thẩm định càng ngắn càng thể hiện chất lượng trình độ của cán bộ thẩm định và đôi khi, thời gian phân tích được rút ngắn do chất lượng của các phương tiện thu thập và xử lý thông tin. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, thời gian thẩm định ngắn là điều hết sức cần thiết vì chi phí cơ hội của các dự án có thể là rất lớn. Các khách hàng khi đến với ngân hàng bao giờ cũng mong muốn được ngân hàng trả lời sớm nhất dù cho vay hay không cho vay. Vì vậy, thời gian thẩm định là một yếu tố thể hiện thế mạnh cạnh tranh giữa các ngân hàng. Vấn đề đặt ra là các ngân hàng cần tổ chức thẩm định và thiết lập hệ thống công nghệ hỗ trợ như thế nào để rút ngắn thời gian thẩm định tài chính dự án. 1.3.2.2. Chi phí thẩm định. Chi phí bỏ ra cho việc thẩm định tài chính dự án là một vấn đề hết sức quan trọng. Tối thiểu hoá chi phí có thể nâng cao được khả năng cạnh tranh trên thị trường, đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Vì vậy, khi tiến hành thẩm định tài chính dự án, ngân hàng cũng phải xem xét so sánh giữa thu nhập của ngân hàng từ dự án và chi phí thẩm định. Nếu chi phí thẩm định quá lớn so với thu nhập có được thì ngân hàng có thể từ chối cho vay dù dự án hiệu quả. Rõ ràng là thu nhập của ngân hàng từ dự án là tiền lãi vay và các khoản phí dịch vụ cung ứng. Trong khi đó, chi phí thẩm định bao gồm tất cả các chi phí cần thiết mà ngân hàng phải chi trả cho việc tiến hành thẩm định dự án như chi phí mua thông tin, công tác phí của cán bộ đi thẩm định và các chi phí khác, kể cả chi phí cơ hội đối với việc xem xét cho vay dự án khác cùng thời điểm. Bởi vì, trong cùng một thời gian, ngân hàng sẽ phải trả lời cho vay hay không cho vay đối với nhiều dự án khác nhau đòi hỏi ngân hàng phải có sự lựa chọn. Có thể nói, đây là một chỉ tiêu quan trọng khiến ngân hàng cân nhắc có tài trợ dự án hay không, và đồng thời cũng là một tiêu chí để đánh giá công tác thẩm định tài chính có chất lượng hay không. 1.3.2.3 Chất lượng báo cáo thẩm định Chất lượng báo cáo thẩm định cũng là một chỉ tiêu không kém phần quan trọng để đánh giá chất lượng thẩm định. Bởi nó là kết quả cuối cùng của toàn bộ quá trình thẩm định dự án, là căn cứ để cấp lãnh đạo ra quyết định cho vay và cũng là cơ sở khi tiến hành tái thẩm định. Vậy thế nào là một báo cáo thẩm định có chất lượng? Báo cáo thẩm định có chất lượng tốt phải là báo cáo được trình bày khoa học, đầy đủ, chính xác, khách quan, sát với thực tế khi dự án đi vào hoạt động. Là kết quả cuối cùng sau mỗi quá trình thẩm định, nên thông qua báo cáo thẩm định, ta có thể nắm được những thông tin cơ bản nhất về hiệu quả tài chính của dự án. Nó sẽ cho biết phần nào chất lượng của quá trình thẩm định đó, nên có thể được sử dụng như một chỉ tiêu để đánh giá chất lượng thẩm định tài chính của các ngân hàng hiện nay. 1.3.2.4 Chất lượng các quyết định cho vay Bất cứ một ngân hàng nào khi tiến hành thẩm định dự án thì mục tiêu cuối cùng của họ là có thể đưa ra được các quyết định cho vay đối với khách hàng một cách hợp lý nhất. Không chỉ dừng lại ở quyết định có cho vay hay không, mà ngân hàng còn phải quyết định xem khi cho vay thì cho vay với mức vay bao nhiêu, thời gian cho vay, phương thức giải ngân và thu nợ như thế nào. Như vậy, thẩm định tài chính tốt sẽ giúp ngân hàng có được các quyết định cho vay đúng đắn nhất. Hay nói cách khác, chất lượng của các quyết định cho vay sẽ là một trong những chỉ tiêu để đánh giá chất lượng thẩm định tài chính của ngân hàng. Một quyết định cho vay có đúng đắn được thể hiện thông qua hiệu quả hoạt động của các dự án được ngân hàng cho vay và kết quả hoạt động cho vay theo dự án của ngân hàng. Số lượng các dự án hoạt động có hiệu quả càng nhiều chứng tỏ chất lượng của thẩm định tài chính dự án càng cao. Đây là các chỉ tiêu mà các nhà ngân hàng thường xuyên quan tâm hơn cả. Nó chính một bản báo cáo sát thực và đầy đủ nhất về chất lượng thẩm định tài chính dự án của ngân hàng. Tất nhiên, dự án hoạt động có hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Tuy nhiên, các quyết định của ngân hàng về phương thức giải ngân, kế hoạch thu nợ và các tư vấn khác sẽ giúp nâng cao hiệu quả của dự án. Ngoài ra, ngân hàng bao giờ cũng muốn cho vay các dự án hiệu quả để đảm bảo thu hồi nợ va hạn chế rủi ro. Điều đó tạo nên một logic rằng các dự án được ngân hàng tài trợ vốn là các dự án hiệu quả. Vì vậy, nếu các dự án đã được xét duyệt cho vay mà hoạt động tốt theo đúng dự kiến thì có nghĩa là tốt. Ngược lại, nếu dự án được ngân hàng cho vay không hiệu quả thể hiện công tác thẩm định tài chính dự án có chất lượng kém. 1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tài chính dự án Chất lượng thẩm định tài chính dự án được thể hiện thông qua một hệ thống các chỉ tiêu. Tuy nhiên, không phải các dự án khi được thẩm định theo các quy trình đã quy định trước sẽ đạt được chất lượng tốt. Bên cạnh những yêu cầu cần đạt được của dự án, người thẩm định cần phải tính đến nhiều yếu tố tác động đến chất lượng thẩm định để có thể nâng cao chất lượng thẩm định của ngân hàng hơn nữa. Có thể chia thành hai nhóm: nhóm các nhân tố chủ quan và nhóm các nhân tố khách quan. 1.3.3.1. Nhóm các nhân tố chủ quan Chất lượng của đội ngũ cán bộ Đây là nhân tố liên quan nhiều đến kĩ thuật tính toán và khả năng đánh giá của người thẩm định. Công tác thẩm định tài chính dự án có tính chất phức tạp, hàm chứa nhiều vấn đề khác nhau trong mọi lĩnh vực nên đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải có trình độ chuyên môn vững vàng, sự hiểu biết toàn diện và sâu sắc những vấn đề cần thẩm định bao gồm: những hiểu biết về lĩnh vực doanh nghiệp đầu tư, những hiểu biết về sự phát triển chung của ngành và nền kinh tế và đặc biệt là những quy định, quy chế liên quan đến hoạt động cho vay nói chung và cho vay trung dài hạn nói riêng. Đây là những yêu cầu đầu tiên và cũng là quan trọng nhất đối với những cán bộ đảm nhiệm công tác thẩm định dự án. Nếu như cán bộ thẩm định có trình độ chuyên môn vững vàng và hiểu biết sâu rộng, có phương pháp nghiên cứu khoa học thì thời gian thẩm định sẽ được rút ngắn, cách thức bố trí và trình bày báo cáo thẩm định chuyên nghiệp và giàu sức thuyết phục, đặc biệt, khi phát hiện ra sai sót trong quá trình thẩm định, cán bộ thẩm định có thể dễ dàng điều chỉnh lại một cách có hệ thống. Chính nhờ vậy mà chất lượng thẩm định được nâng cao rất nhiều. Bên cạnh đó, phẩm chất đạo đức cũng là yếu tố không thể thiếu được đối với mỗi cán bộ tín dụng, điều này tránh cho ngân hàng gặp rủi ro đạo đức. Chất lượng thu thập thông tin Thẩm định tài chính dự án được tiến hành trên cơ sở phân tích các thông tin trực tiếp và gián tiếp liên quan đến dự án, được thu thập từ nhiều nguồn và bao gồm nhiều khía cạnh: thị trường, chính sách, kỹ thuật, thông tin về ngành.... Vì vậy, yếu tố thông tin đóng vai trò rất quan trọng đối với chất lượng công tác thẩm định, nhất là trong thời đại của thông tin như hiện nay. Quá trình thu thập thông tin cũng ảnh hưởng nhiều tới chất lượng thẩm định tài chính dự án. Nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp tới tính cải tiến trong các tiêu chí đánh giá chất lượng. Chất lượng về thông tin được đảm bảo khi cán bộ thẩm định tìm kiếm số liệu từ những nguồn cung cấp có chất lượng, có được giải trình cho sự xuất hiện của các con số. Sau khi thu thập thông tin, quá trình xử lý dữ liệu của cán bộ thẩm định cũng sẽ được thể hiện ở kết quả chất lượng phân tích. Nếu như thao tác tốt trong quá trình xử lý thông tin, chất lượng thẩm định sẽ được nâng cao hơn bởi các dữ liệu được đưa vào thẩm định được xác minh và bảo đảm tính cập nhật, tránh được những sai sót trong phân tích do xử lý dữ liệu đầu vào. Như vậy, thông tin càng đầy đủ, toàn diện và chính xác bao nhiêu thì việc thẩm định càng thuận lợi và chất lượng bấy nhiêu. Nếu thông tin sử dụng sai lệch có thể dẫn đến kết quả thẩm định bị hạn chế, ra quyết định đầu tư sai lầm gây thiệt hại cho ngân hàng và xã hội. Cơ sở vật chất và phương tiện làm việc Đây là một nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng của lập dự án nói chung và thẩm định dự án nói riêng nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá, công nghệ thông tin và nền kinh tế số phát triển mạnh. Sự trang bị đầy đủ về cơ sở vật chất thể hiện một phần mức độ chuyên nghiệp của hoạt động thẩm định tài chính dự án. Trang thiết bị công nghệ mang lại nhiều tiện ích cho ngân hàng trong công tác thẩm định tài chính như khai thác và xử lý thông tin, hỗ trợ tính toán.... Không những vậy, phương tiện làm việc hiện đại đôi lúc còn thay thế con người giải quyết được những vướng mắc trong kỹ thụât tính toán. Với trang thiết bị hiện đại, phần mềm chuyên dụng hữu ích, việc thu thập và xử lý thông tin sẽ được tiến hành một cách nhanh chóng và chính xác, dự báo nhanh nhiều phương án, giảm rủi ro phát sinh do xử lý thông tin bằng tay. Nhờ vậy chất lượng của công tác thẩm định tài chính dự án sẽ được nâng cao, kịp thời nắm bắt các cơ hội. Vì vậy thời gian và sự chính xác của việc thẩm định chịu ảnh hưởng lớn của thực trạng trang thiết bị công nghệ mỗi ngân hàng. Tổ chức công tác thẩm định tài chính Khâu tổ chức công tác thẩm định tài chính luôn là yếu tố tác động không nhỏ đến chất lượng thẩm định tài chính dự án. Công tác thẩm đinh tài chính dự án bao gồm nhiều công đoạn và được thực hiện bởi sự phối hợp của nhiều người, đặc biệt là đối với những dự án với quy mô. Vì vậy, nó đòi hỏi phải có sự tổ chức quản lý điều hành một cách khoa học và thống nhất ở tất cả các khâu. Nếu công tác này được tổ chức một cách khoa học, hợp lý trên cơ sở phân công trách nhiệm cụ thể cho từng cá nhân với sự phù hợp về sở trường, trình độ kết hợp với việc kiểm tra giám sát chặt chẽ sẽ giúp phát huy được sức mạnh tổng hợp, mang lại chất lượng cao cho công tác thẩm định. Với trang thiết bị hiện đại, phần mềm chuyên dụng hữu ích, việc thu thập và xử lý thông tin sẽ được tiến hành một cách nhanh chóng và chính xác, dự báo nhanh nhiều phương án, giảm rủi ro phát sinh do xử lý thông tin bằng tay. Nhờ vậy chất lượng của công tác thẩm định tài chính dự án sẽ được nâng cao, kịp thời nắm bắt các cơ hội. Và ngược lại, việc bố trí sắp xếp nhân sự và hình thức quản lý không tốt sẽ gây nên sự không thống nhất giữa nhiều người, ảnh hưởng đến chất lượng chung của công việc. Sự sắp xếp chồng chéo sẽ vừa làm mất thời gian, vừa làm lãng phí nguồn nhân lực sử dụng trong việc thẩm định tài chính. 1.3.3.2 Nhân tố khách quan Bên cạnh những nhân tố chủ quan, ta có thể đưa ra một số những nhân tố khách quan gián tiếp hoặc trực tiếp ảnh hưởng tới chất lượng phân tích tài chính dự án. Những nhân tố này thuộc về phía bên ngoài ngân hàng, cụ thể là: Nhân tố thuộc về môi trường kinh tế vĩ mô Môi trường kinh tế vĩ mô thường xuyên điều tiết và chi phối mọi quan hệ kinh tế. Các nhân tố thuộc về môi trường vĩ mô phải kể đến như sự phát triển chung của ngành, sự quan tâm của Nhà nước hoặc cơ quan cấp trên đối với dự án của doanh nghiệp, hay những văn bản pháp luật quy định chung về quy chế đầu tư, luật khuyến khích đầu tư, các chế độ về thuế khoá, chế độ tiền lương cho người làm công.... Tất cả những yếu tố đó hầu hết đều có ảnh hưởng tới dự án nói chung và công tác thẩm định tài chính dự án của ngân hàng nói riêng. Chất lượng phân tích sẽ được nâng cao hơn nếu như dự án được đặt trong một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, ít có sự biến động về giá cả, lãi suất, thuế quan. Ngược lại, dự án sẽ gặp nhiều rủi ro hơn nhiều khi môi trường kinh tế có nhiều sự biến động. Người thẩm định cho dù có tuân thủ theo những quy chuẩn về chất lượng cũng không thể nào lường trước được hết tất cả các biến cố bất ngờ xảy ra trong tương lai. Nhân tố về đặc điểm riêng của từng ngành Đặc điểm của ngành cũng là một nhân tố tác động không nhỏ đến chất lượng thẩm định tài chính dự án. Mỗi dự án thuộc những ngành kinh tế-kĩ thuật khác nhau sẽ có những đặc điểm, nội dung khác nhau, những yêu cầu, đòi hỏi khác nhau, thậm chí trong cùng một ngành giữa các dự án cũng có rất nhiều điểm không giống nhau. Tuỳ theo từng ngành kinh tế-kĩ thuật, mà dự án sẽ có những đặc điểm riêng biệt. Có những dự án quy mô rất lớn, thời gian thực hiện dự án dài, tổng vốn đầu tư cao và liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, vì vậy đòi hỏi quá trình phân tích thẩm định rất phức tạp, và tỉ mỉ, thời gian thẩm định cũng phải dài hơn, đòi hỏi một chi phí thẩm định dự án là khá lớn. Thông thường các dự án của ngành xây dựng cơ bản như giao thông, điện lực,… thường có những đặc điểm như vậy. Bên cạnh đó, cũng có nhiều dự án thuộc những ngành như công nghiệp nhẹ, thủ công mỹ nghệ,.... đòi hòi số vốn đầu tư ban đầu thấp hơn, tuổi thọ của dự án thấp hơn, nên công tác thẩm định tài chính cũng đơn giản hơn rất nhiều, chi phí và thời gian thẩm định cũng ít hơn. Như vậy, rõ ràng là, những đòi hỏi, yêu cầu riêng của từng ngành sẽ đem lại cho các dự án thuộc ngành đó những đặc điểm riêng, phân biệt với những dự án thuộc các ngành kinh tế-kĩ thuật khác. Qua đó cho thấy các cán bộ thẩm định cần thiết phải nắm bắt được đặc điểm riêng của dự án từng ngành. Không dừng lại ở đó, các cán bộ thẩm định trước khi thẩm định môt dự án thuộc một ngành nào đó cần phải trang bị cho mình một vốn kiến thức nhất định về chuyên môn kĩ thuật của ngành đó đảm bảo yêu cầu để thẩm định tài chính cho dự án đó. Chỉ có nắm rõ về đặc điểm của ngành đó nói chung và dự án đó nói riêng cán bộ thẩm định mới có thể đảm bảo quá trình thẩm định tài chính dự án được chính xác, đạt chất lượng cao, phân tích được đầy đủ các rủi ro mà dự án đem lại. Trường hợp người thẩm định không nắm bắt được rõ ràng những yêu cầu của ngành trong dự án hoặc những kiến thức về quy trình công nghệ có thể dẫn tới những cách tiếp cận sai lầm trong dự án, gây những thiệt hại lớn cho ngân hàng. Như vậy, đặc điểm của ngành là một nhân tố khách quan có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng thẩm định tài chính dự án của ngân hàng. Nhân tố thuộc về phía chủ đầu tư Khi ngân hàng tiến hành thẩm định tài chính dự án mà khách hàng mang tới, thì trong thời gian nghiên cứu đánh giá hiệu quả tài chính dự án, ngân hàng và chủ đầu tư phải thường xuyên phối hợp với nhau để hoàn thành dự án. Vì vậy, việc chủ đầu tư đưa ra những yêu cầu phức tạp trong dự án của mình hoặc không có tinh thần hợp tác với người lập dự án sẽ tạo một trở ngại lớn cho cán bộ thẩm định. Ngược lại, nếu có sự phối hợp tốt giữa các bên, quá trình lập dự án sẽ được tiến hành thông suốt, bảo đảm tiết kiệm chi phí và tránh lãng phí thời gian. Chương 2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG CHO VAY NGÀNH ĐIỆN LỰC TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHƯƠNG DƯƠNG 2.1 GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHƯƠNG DƯƠNG 2.1.1 Sự ra đời và phát triển của Ngân hàng Công thương Chương Dương Theo quyết định 53 của Hội Đồng Bộ Trưởng về việc thành lập hệ thống Ngân hàng thương mại quốc doanh vào tháng 7 năm 1988, Hệ thống Ngân Hàng Công Thương (NHCT) Việt Nam được thành lập trên toàn quốc. Tháng 8 năm 1988, chi nhánh ra đời trên cơ sở Ngân hàng Nhà Nước huyện Gia Lâm được tách thành NHCT Chương Dương và Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Trâu Quỳ. NHCT Chương Dương khi có trụ sở chính tại số 1 ngõ Quân Chính – huyện Gia Lâm – Hà Nội. Sau 15 năm ra đời và phát triển NHCT Chương Dương đã trải qua nhiều thăng trầm, nhiều sự kiện... Tháng 6/1993, với mục tiêu mở rộng mạng lưới, nâng cao thị phần cho chính ngân hàng, tăng khả năng cạnh tranh, NHCT Chương Dương đã thành lập phòng giao dịch Yên Viên. Tháng 1/1994, thành lập phòng giao dịch Đức Giang. Tháng 1/1995, thành lập phòng giao dịch Đông Anh. Tháng 1/1996, Phòng giao dịch Đông Anh được nâng cấp thành chi nhánh trực thuộc NHCT Việt Nam. Tháng 2/2001, hai phòng giao dịch Yên Viên và Đức Giang được nâng cấp thành chi nhánh cấp 2 thuộc NHCT Chương Dương với chức năng, con dấu và trụ sở riêng biệt. Tháng 4/2003, 2 chi nhánh Yên Viên và Đức Giang một lần nữa được nâng cấp thành chi nhánh phụ thuộc NHCT Việt Nam. Là chi nhánh của NHCT Việt Nam nên chi nhánh NHCT Chương Dương là đơn vị hạch toán phụ thuộc. Theo điều 30 của điều lệ về tổ chức và hoạt động của NHCT Việt Nam thì chi nhánh NHCT Chương Dương là đại diện uỷ quyền của NHCT, có quyền tự chủ kinh doanh theo phân cấp của NHCT , chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi đối với NHCT. NHCT chịu trách nhiệm cuối cùng về nghĩa vụ phát sinh do sự cam kết của các đơn vị này. Chi nhánh được phép kí kết các hợp đồng kinh tế, được chủ động thực hiện các hoạt động kinh doanh, tổ chức và nhân sự theo sự phân cấp uỷ quyền của NHCT. 2.1.2 Cơ cấu tổ chức Từ đầu năm 2005, hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam thực hiện đại hoá, chuyển đổi từ mô hình tổ chức cũ sang mô hình tổ chức mới. Mô hình tổ chức tại NHCT Chương Dương theo sơ đồ sau: SƠ ĐỒ 1: MÔ HÌNH TỔ CHỨC CỦA NHCT CHƯƠNG DƯƠNG BAN GIÁM ĐỐC P. TỔ CHÚC HÀNH CHÍNH P. KHÁCH HÀNG 1 P. KHÁCH HÀNG 2 P. KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN P. KẾ TOÁN P. TIỀN TỆ KHO QUỸ P. TIẾP THỊ TỔNG HỢP P. TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI P. GIAO DỊCH HÀ THÀNH QUỸ TIẾT KIỆM ĐIỂM GIAO DỊCH 2.1.3. Tình hình hoạt động Hoạt động tín dụng Hoạt động của cán bộ tín dụng, đặc biệt hoạt động thẩm định rất quan trọng trong quy trình cho vay đối với khách hàng. BẢNG 2: KẾT QUẢ KINH DOANH HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG Đơn vị: tỷ đồng Năm 2003 Tỷ trọng (%) Năm 2004 Tỷ trọng (%) Năm 2005 Tỷ trọng (%) Huy động vốn Tổng nguồn 2513.2 100 2834. 4 100 3128 100 Tiền gửi không kỳ hạn 764. 4 30. 5 832. 6 29. 33 922. 8 29.5 Tiền gửi có kỳ hạn 1748.8 69.5 2005.8 70.67 2205. 2 70.5 Tiền gửi doanh nghiệp 1937. 3 77. 1 1889. 7 66. 67 2083 66. 59 Tiền gửi dân cư 475. 9 18. 9 944. 7 33. 33 590 18. 86 Tiền gửi các tổ chức tín dụng 100 4 0 0 455 14. 55 Đầu tư Dư nợ cho vay 1470 100 1535 100 1660.9 100 Cho vay ngắn hạn 679 46.2 770 50. 2 906. 9 54.6 Cho vay trung vỔ dài hạn 791 53.8 765 49. 8 754 45.4 (Nguồn: Báo cáo tổng hợp Chi Nhánh Ngân hàng Cồng thương Chương Dương) Hoạt động huy động vốn tăng trưởng khá qua các năm, nhưng tốc độ tăng giảm dần. Năm 2003, tổng nguồn vốn huy động tăng 36% so với năm 2002. Con số này đã cao hơn tốc độ tăng trưởng trung bình toàn ngành 19%, và như vậy đã vượt kế hoạch 16%. Sang năm 2004 va._. lệ của NHCT Việt Nam lên 3.500 tỷ VNĐ (tăng 400 tỷ VNĐ) Thứ hai, trong hoạt động tín dụng, các cán bộ tín dụng phải tiến hành phân tích và đánh giá tất cả các khách hàng có quan hệ tín dụng với chi nhánh. Qua đó, tiến hành phân loại đối tượng khách hàng để có định hướng tín dụng đầu tư hợp lý. Phòng tín dụng cần kiểm soát chặt chẽ và rút dần dư nợ với các doanh nghiệp có tình hình tài chính yếu kém, sản xuất kinh doanh không ổn định, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước trước kia được cho vay theo phương thức chỉ định. Tập trung hoạt động tín dụng vào các khách hàng xuất nhập khẩu; đẩy mạnh cho vay với khu vực kinh tế dân doanh công ty trách nhiệm hữu hạn, cổ phần, hộ tu nhân cá thể. Mục tiêu cuối năm 2006 tổng dự nợ đạt 1.850 tỷ đồng. Thứ ba, hoạt động xử lý, thu hồi các khoản nợ tồn đọng, nợ quá hạn phát sinh trước đây đã có nhiều biến chuyển tích cực nhưng vẫn chưa đạt nhiều hiệu quả. Với mục tiêu đề ra cho năm 2006 là thu hồi 35 tỷ nợ đã xử lý rủi ro, không có nợ quá hạn, tỷ trọng nợ nhóm 3 đến nhóm 5 thấp hơn 1,5%; chi nhánh chủ trương giảm nợ quá hạn và các khoản nợ xử lý rủi ro đến mức tối đa. Thứ tư, tăng nguồn thu từ phí, đẩy mạnh thu dịch vụ thông qua các sản phẩm ngân hàng mới như: thẻ ATM, thẻ CASHCARD, thẻ tín dụng quốc tế.... Song song với đó là việc mở rộng và phát triển kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế, đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng. Chi nhánh đặt ra mục tiêu thu phí dịch vụ năm 2006 là 7 tỷ đồng, mở thêm 800 thẻ ATM, lắp đặt thêm 5 máy ATM và 20 cơ sở chấp nhận thẻ trên địa bàn. Nâng cao hơn nữa chất lượng hạch toán kế toán và thông tin kinh tế, làm tốt công tác kiểm tra, kiểm soát chứng từ sau hiện đại hoá. Các hoạt động ngân hàng cần đảm bảo đúng chế độ và đảm bảo an toàn về chứng từ và tiền bạc trong giao dịch; tăng cường và chú trọng công nghệ thông tin, nối mạng truyền thông, đảm bảo khai thác tối đa hệ thống điện tử nội bộ mới. Mục tiêu lợi nhuận đề ra cho năm 2006 là 110 tỷ đồng. Thứ sáu, nâng cao hơn nữa chất lượng hiệu quả công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ trên cơ sở bám sát chương trình kiểm tra của NHCT Việt Nam. Các cán bộ kiểm soát viên tập trung vào hoạt động tín dụng và tài chính kế toán nhằm đảm bảo an toàn cho cơ quan trong mọi hoạt động kinh doanh. Thứ bảy, tăng cường hiệu quả trong công tác quản lý điều hành của bộ máy lãnh đạo từ Ban giám đốc đến các phòng ban. Phòng tổ chức hành chính cần có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, tăng cường công tác học tập nghiên cứu nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ để phù hợp với tình hình mới, đáp ứng yêu cầu của công cuộc hiện đại hoá ngân hàng. Ngoài các nghiệp vụ chuyên môn chi nhánh đã có nhiều chương trình mở các lớp đào tạo vi tính, ngoại ngữ, kiến thức pháp luật, marketing.... cho các bộ phận nghiệp vụ, cán bộ trực tiếp giao dịch với khách hàng. 3.1.2 Định hướng về công tác thẩm định tài chính dự án tại Ngân hàng Công thương Chương Dương. Thứ nhất, cán bộ cần nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò và nội dung thẩm định tài chính dự án. Khi thẩm định tài chính dự án nên đứng trên quan điểm của người cho vay để xem xét tính khả thi, hiệu quả của dự án. Cần nhận thức rõ việc thực hiện công tác này là một trong những yếu tố quyết định góp phần đảm bảo sự an toàn, lành mạnh cạnh tranh của Ngân hàng. Coi kết quả của thẩm định dự án là cơ sở quy định tính khả thi của dự án, là căn cứ để Ngân hàng cho vay đảm bảo thu được cả gốc lẫn lãi. Thứ hai, công tác thẩm định tài chính cần có sự kế thừa, đúc rút thường xuyên những bài học kinh nghiệm trong quá trình trước đó đồng thời phải liên tục cải tiến về mặt quy trình, nội dung thông qua việc áp dụng công nghệ, trang thiết bị , đảm bảo cung cấp đánh giá, nhận xét, kết luận chính xác, đầy đủ và khách quan Nội dung thẩm định cần đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ trong toàn ngành để thuận tiện cho việc tham khảo đối chiếu, thanh tra kiểm tra, tái thẩm định. Thứ ba, về mặt tổ chức thực hiện, công tác thẩm định tài chính dự án cần được phân công tổ chức khoa học và hợp lý trong toàn hệ thống, phù hợp với tình hình thực tiễn và điều kiện của Ngân hàng. Nội dung dự án phải được phổ biến sâu rộng tới không chỉ các cán bộ trực tiếp thực hiện công tác thẩm định dự án mà còn tới cả nhứng bộ phận khác theo mức độ phù hợp. Như vậy, có thể thấy NHCT Chương Dương đang quyết tâm khẳng định vị thế của mình trong hệ thống NHCT Việt Nam nhằm đạt mục tiêu của toàn hệ thống là giữ vai trò chủ đạo trong lĩnh vực cho vay phục vụ đầu tư, sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. 3.2 GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY NGÀNH ĐIỆN LỰC TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHƯƠNG DƯƠNG Xuất phát từ thực trạng tình hình cho vay trung, dài hạn và công tác thẩm định tại NHCT Chương Dương , chúng ta thấy rõ tính cấp thiết của việc nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư nói chung và ngành điện lực nói riêng. Qua nghiên cứu thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án ngành điện lực, những hạn chế và nguyên nhân, em xin đề xuất một số giải pháp sau nhằm nâng chất lượng thẩm định tài chính dự án nói chung và thẩm định tài chính dự án trong cho vay ngành điện lực nói riêng. Hoàn thiện phương pháp và nội dung thẩm định tài chính dự án Hiện nay các văn bản hướng dẫn chỉ đưa ra hướng dẫn thẩm định chung cho mọi dự án mà trên thực tế mỗi loại dự án có một chuẩn mực riêng. Vì vậy ngân hàng cần xem xét vừa phải đưa ra một quy trình thẩm định làm tiêu chuẩn để có sự thực hiện thống nhất giữa các cán bộ thẩm định, vừa phải đề ra yêu cầu về nội dung thẩm định cho phù hợp với từng loại dự án. Để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại NHCT Chương Dương , cần hoàn thiện một số nội dung sau. Về thẩm định tổng chi phí đầu tư và nguồn tài trợ Ngân hàng phải thẩm định kỹ tính chính xác của tổng chi phí đầu tư cho dự án ngay cả khi dự án được phê duyệt tổng mức đầu tư của cấp có thẩm quyền. Cần phải bổ sung, sửa đổi các tiêu chuẩn, quy chuẩn, các định mức, đơn giá còn thiếu hoặc đã lạc hậu liên quan đến việc xác định các hạng mục xây lắp, thiết bị, các chi phí về đường dây và trạm điện, về giao thông, vận tải.... Với chi phí thiết bị ngoại nhập, trên cơ sở việc đấu thầu, chỉ định thầu các dự án đã được thực hiện để xây dựng một khung giá phù hợp với công suất, chủng loại thiết bị. Trong quá trình xác định tổng mức vốn đầu tư, cần phải bổ sung vốn lưu động ròng vào tổng mức đầu tư của dự án điện lực. Do nhu cầu vốn đầu tư dự án thuỷ điện lớn, việc thu xếp đầy đủ vốn theo các nguồn vốn khác nhau sẽ là tiền đề cho việc hoàn thành đầu tư dự án. Vì vậy, khi thẩm định nguồn vốn dự án thuỷ điện, cán bộ thẩm định ngoài việc đánh giá về khả năng đảm bảo nguồn vốn đầu tư của dự án còn cần có các nhận xét, kiến nghị về việc bổ sung, sử dụng nguồn vốn thích hợp hoặc đề xuất việc lựa chọn nguồn vốn dự án. Khi thẩm định nguồn vốn của dự án phải gắn với việc thẩm định năng lực tài chính của chủ đầu tư trong hiện tại và hướng phát triển trong tương lai; phải gắn với việc cam kết bảo đảm vốn của các tổ chức tài chính tín dụng đối với từng nguồn vốn dự kiến huy động. Cần có quy định mức vốn tự có tham gia vào dự án. Về thẩm định doanh thu, chi phí của dự án Để xác định doanh thu, chi phí của các dự án điện lực, cần phải có một khung giá mua, bán điện thật hợp lý nhất, chịu dự điều tiết của thị trường. Với việc ra đời Luật Điện lực số 28/2004/QH 11 được Quốc hội thông qua ngày 3/12/2004 và áp dụng từ ngày 1/7/2005, sẽ dần dần hình thành thị trường điện lực và phát triện qua các cấp độ. Giá điện cũng biến đổi dần tiến tới được xác định trên thị trường song có sự điều tiết của Nhà nước. Cán bộ thẩm định cũng phải dựa vào đó làm căn cứ để xác định doanh thu, chi phí của các dự án phù hợp nhất. Về thẩm định dòng tiền của dự án Cần có sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hơn kết quả tính dòng tiền của dự án cần đưa chi phí cơ hội vào tổng chi phí của dự án cũng như bổ sung thêm vốn lưu động ròng vào dự toán vốn đầu tư ban đầu để xác định dòng tiền được đầy đủ và chính xác. Trong việc tính toán dòng tiền, cần cẩn thận hơn trong khi tính toán, áp dụng các chỉ tiêu, tránh những sai lầm không nên có như trong việc thẩm định dự án “ Hệ thống đường dây và trạm 500 KV Hà Tinh – Nho Quan – Thường Tín”. Về xác định lãi suất chiết khấu Trên thực tế tuỳ thuộc vào dự án, các cán bộ tín dụng xác định tỷ lệ chiết khấu theo các cách khác nhau. Tỷ lệ chiết khấu có thể tính bằng lãi suất vay dài hạn cộng với mức bù rủi ro của dự án. Tuy nhiên việc xác định mức phần bù rủi ro phải hợp lý, phù hợp với đặc điểm từng dự án, tương ứng với mức rủi ro ước tính của dự án. Cần phân tích các yếu tố về điều kiện đầu vào, đầu ra của dự án; phân tích khả năng huy động vốn, việc mua bán điện nhằm xác định tỷ lệ chiết khấu thích hợp. Nếu dự án có chi phí vốn chủ sở hữu, thì có thể tính lãi suất chiết khấu bằng bình quân gia quyền về lãi suất các nguồn vốn vay và tỷ lệ hoàn vốn yêu cầu của vốn chủ sở hữu. Về việc đánh giá hiệu quả tài chính dự án Bên cạnh các chỉ tiêu đã áp dụng trong đánh giá thẩm định tài chính dự án như NPV và IRR, cần phải bổ sung thêm các chỉ tiêu khác để việc đánh giá được đúng đăn và chính xác hơn nhất là đối với các dự án điện lực có quy mô lớn, thời hạn dài và phức tạp. Các chỉ tiêu nên bổ sung để hoan thiện việc đánh giá hiệu quả tài chính dự án như thời gian hoà vốn, điểm hoà vốn, hệ số hoàn vốn nội bộ hiệu chỉnh (MIRR), tỷ lệ lợi ích chi phí (B/C), chỉ số doanh lợi (PI). Về việc phân tích rủi ro của dự án Rủi ro của dự án cần được thẩm định một cách cụ thể, chi tiết. Bên cạnh việc dùng phân tích độ nhạy, để đánh giá rủi ro của dự án một cách toàn diện và chính xác hơn, cán bộ tín dụng có thể dùng thêm phương pháp phân tích tình huống và phương pháp phân tích mô phỏng. Thành lập tổ thẩm định Hiện nay tại NHCT Chương Dương , khâu thẩm định và quyết định cho vay, giám sát khoản vay đều thuộc Phòng Khách hàng. Đối với các món vay lớn kết quả thẩm định được thông qua sự kiểm duyệt của hội đồng tín dụng. Hình thức nay có ưu điểm là gắn quá trình thẩm định với quá trình cho vay, giám sát món vay, quy trách nhiệm về một người cụ thể. Song hạn chế của hình thức này là một cán bộ tín dụng không thể kiêm quá nhiều chức năng. Điều này dẫn đến sự thiếu sâu sát ở nhiều bước trong quá trình thực hiện món vay. Chính vì vậy, Ngân hàng nên xem xét về việc thành lập tổ chuyên về công tác thẩm định dự án và trực thuộc phòng Khách hàng. Tổ thẩm định chịu trách nhiệm về việc xem xét điều kiện vay vốn của khách hàng, giá trị và tính pháp lý của tài sản thế chấp, cầm cố, phân tích tính khả thi và hiệu quả kinh tế – xã hội của dự án. Cán bộ tín dụng chịu trách nhiệm về việc kiểm tra sử dụng vốn vay, thu hồi nợ gốc và lãi vay theo khế ước đã thoả thuận. Việc phân định rõ phạm vi trách nhiệm của tổ thẩm định và cán bộ tín dụng sẽ tăng cường vai trò thẩm định và kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay. Tuy nhiên hình thức này cũng dễ dẫn đến việc phân tán trách nhiệm và quyền lợi đối với kết quả cuối cùng. Mỗi mô hình đều có một ưu nhược điểm nhất định, Ngân hàng nên xem xét áp dụng mô hình nào để phù hợp với điều kiện hiện tại nhất. 3.2.3 Nâng cao trình độ, kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ thẩm định Nhân tố con người luôn giữ vị trí trung tâm, chi phối và có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả một công việc. Đối với thẩm định dự án đầu tư, con người cũng có vai trò hết sức quan trọng. Trong công tác thẩm định, con người là nhân tố trung tâm. Trình độ và năng lực thẩm định có ảnh hưởng trực tiếp đến công tác thẩm định dự án đầu tư. Để nâng cao năng lực và trình độ của cán bộ thẩm định cần phải có sự nỗ lực từ hai phía: Ngân hàng và cán bộ thẩm định. Đội ngũ cán bộ thẩm định muốn thực hiện tốt công tác thẩm định phải thoả mãn những yêu cầu về trình độ, kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp. Về trình độ: Cán bộ thẩm định phải có trình độ từ đại học trở lên đại học trở lên phải có kiến thức chuyên sâu về ngân hàng, tài chính doanh nghiệp và các kiến thức cơ bản về các lĩnh vực có liên quan như về kinh tế thị trường, về pháp luật, thuế. Cán bộ thẩm định phải tính toán, phân tích được các chỉ tiêu tài chính, áp dụng được phương pháp thẩm định nhuần nhuyễn. Bên cạnh đó phải có khả năng tổng hợp, đánh giá các thông tin một cách linh hoạt, nhạy bén. Về kinh nghiệm: Cán bộ thẩm định phải trực tiếp tham gia thẩm định dự án, bên cạnh kinh nghiệm về thẩm định dự án còn phải có các kinh nghiệm về các lĩnh vực liên quan trong dự án. Cần xây dựng một đội ngũ chuyên viên giỏi, có kinh nghiệm, công tác lâu năm, làm nòng cốt cho hoạt động thẩm định tài chính của Ngân hàng, có vai trò truyền đạt kinh nghiệm, bồi dưỡng đối với đội ngũ cán bộ thẩm định thế hệ sau. Về đạo đức nghề nghiệp: Cán bộ thẩm định có phẩm chất dạo đức tốt, trung thực, có tinh thần trách nhiệm cao, tâm huyết với nghề. Để có đội ngũ cán bộ giỏi, thoả mãn các yêu cầu đặt ra thì NHCT Chương Dương và cán bộ thẩm định phải tập trung vào các công tác sau: + Xây dựng kế hoạch đào tạo dài hạn cho cán bộ thẩm định. Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng thẩm định, các hội nghị tổng kết đánh giá để đúc rút kinh nghiệm. + Bên cạnh kiến thức chuyên môn, các cán bộ thẩm định phải không ngừng nâng cao kiến thức về pháp luật, thị trường, ngoại ngữ tin họcĐể đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của công tác thẩm định. + Tổ chức đào tạo những kiến thức cơ bản của ngành cho các cán bộ thẩm định, giúp họ nắm bắt được những kiến thức chung nhất về kỹ thuật ngành, phục vụ nâng cao chất lượng công việc. Biệt phái các cán bộ phân tích dự án xuống thực tế tại các cơ sở sản xuất một thời gian để học tập những kinh nghiệm thực tế. + Chi nhánh nên rà soát lại đội ngũ cán bộ thẩm định, bố trí những cán bộ có năng lực, trình độ, bản lĩnh, tinh thần trách nhiệm cao vào vị trí này. + Có chính sách ưu đãi, khuyến khích về tinh thần về vật chất đối với những cán bộ thẩm định hoàn thành tốt công việc được giao. Thông qua đó nâng cao ý thức tự vươn lên của mỗi cán bộ thẩm định. + Để cao tính sáng tạo, coi trọng những sáng kiến, đề xuất, những đề án có giá trị của cán bộ thẩm định. Đưa những sáng kiến đó vào áp dụng trong thực tiễn và có hình thức khen thưởng kịp thời nhằm động viên, khích lệ tinh thần. + Tuy nhiên, Ngân hàng cũng phải có biện pháp xử lý nghiêm khắc như phạt hành chính, quy trách nhiệm hành chính cho những cán bộ thẩm định cố tình làm sai quy trình, chế độ thẩm định nhằm loại bỏ rủi ro đạo đức nghề nghiệp + Có chính sách ưu đãi nhằm thu hút những cán bộ giỏi về làm cho Ngân hàng, đặc biệt là làm công tác thẩm định dự án đầu tư. 3.2.4. Nâng cao chất lượng thu thập và xử lý thông tin Thông tin là căn cứ để thẩm định tài chính dự án. Nâng cao chất lượng thu thập và xử lý thông tin là góp phần nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư. Nguồn thông tin phong phú, chính xác hì kết quả thẩm định mới đạt kết quả cao. Do đó, Ngân hàng một mặt phaỉ gia tăng nguồn cung cấp thông tin, mặt khác phải tìm cách xử lý, lưu trữ thông tin một cách hữu hiệu. Về nguồn thông tin, cần phải đa dạng hoá hơn nữa. Ngoài việc yêu cầu các doanh nghiệp nộp các tài liệu liên quan đến thẩm định dự án, các cán bộ thẩm định phải phỏng vấn trực tiếp người đại diện giao dịch cua doanh nghiệp để chất vấn các chuyên môn quản lý,.... của chủ đầu tư, đồng thời kết hợp với việc tham quan cơ sở sản xuất, văn phòng làm việc, điều tra năng lực sản xuất. Để đảm bảo những thông tin sử dụng là chính xác, ngoài những thông tin có được do doanh nghiệp cung cấp, cán bộ thẩm đinh còn có thể thu nhập các thông tin cần thiết từ nguồn bên ngoài, nghĩa là các cơ quan hữu quan, các chuyên gia kỹ thuật cũng như các văn bản tài liệu như: Thông tin từ trung tâm phòng ngừa rủi ro thuộc ngân hàng Nhà nước Thông tin từ các ngân hàng thương mại khác mà các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng Thông tin từ các bạn hàng của doanh nghịêp, từ ngành chủ quản của dự án. Thông tin từ sách báo tài liệu, mạng thông tin Internet về doanh nghiệp và các lĩnh vực liên quan đến dự án đầu tư. Bên cạnh đó, Ngân hàng nên xây dựng một cơ sở dữ liệu riêng với các thông tin tổng hợp nhằm phục vụ cho công tác thẩm đinh. Công việc này không chỉ hữu ích đối với dự án đang thẩm định mà còn có ý nghĩa đối với nhiều dự án khác. Cuối cùng, để thông tin mà doanh nghiệp cung cấp đảm bảo tính khách quan và trung thực, Ngân hàng cần yêu cầu xác nhận của cơ quan kiểm toán độc lập về các thông tin đó. Đối với các thông tin quan trọng, nếu cần, Ngân hàng cần bỏ chi phí mua và coi đó là chi phí hoạt động. Muốn vậy, Ngân hàng cần tăng cường hợp tác với Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại khác, cơ quan thuế, cơ quan kiểm soát và các cơ quan hữu quan khác nhằm xây dựng kênh thông tin hai chiều một cách hữu hiệu. 3.2.5. Hiện đại hoá trang thiết bị phục vụ tốt nhất cho công tác thẩm định Trong những nâm qua, NHCT Chương Dương cũng đã có nhiều đầu tư đáng kể để hiện đại hoá hơn nữa các trang thiết bị của Ngân hàng phục vụ tốt các hoạt động của Ngân hàng nói chung và hoạt động thẩm định dự án nói riêng. Đặc biệt, trong năm qua, Ngân hàng đã chuyển đổi thành công từ hệ thống OSFA sang chương trình hiện đại hoá INCAS, trang bị, sửa chữa, bảo dưỡng nhiều máy móc thiết bị. Tuy nhiên, việc phổ biến cách sử dụng máy móc, thiết bị mới, những khác biệt và thay đổi của hệ thống mới so với hệ thống cũ là rất cần thiết để có thể sử dụng hết những tính năng hữu ích của công cụ, máy móc. Ngoài ra, Ngân hàng cũng nên thiết kế thêm những phần mềm ứng dụng mới, hiện đại vào việc thẩm định tài chính dự án, phân tích các kết quả thu được để quá trình tính toán được chính xác và nhanh chóng hơn. 3.3 KIẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG CHO VAY NGÀNH ĐIỆN LỰC TẠI NHCT CHƯƠNG DƯƠNG Kiến nghị với Nhà nước, Bộ ban ngành và chính quyền địa phương Nhà nước sớm ban hành văn bản hướng dẫn thẩm định dự án nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng; trên cơ sở đó Bộ Công nghiệp có hướng dẫn cụ thể cho việc thẩm định dự án điện lực Trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng hiện nay đang bị điều tiết bởi nhiều Luật, Nghị định như Luật đầu tư nước ngoài quy định điều chỉnh đối với nhà đầu tư nước ngoài; Luật khuyến khích đầu tư; Luật xây dựng; Nghị định 52/1999/NĐ-CP, Nghị định 12/2000/NĐ-CP và Nghị định số 07/2003/NĐ-CP điều chỉnh đầu tư trong nước; các Nghị định hướng dẫn đầu tư theo hình thức BTO. Do vậy cần sớm có Luật đầu tư chung, cũng như Luật Đấu thầu mua sắm công để tạo sự thống nhất, đồng bộ và bình đẳng cho các nhà đầu tư Xoá dần bất hợp lý trong việc mua bán điện, giá mua bán điện trong nội bộ EVN và các doanh nghiệp đầu tư ngoài EVN, tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp, cần có lộ trình tăng giá điện rõ ràng Nghiên cứu, hoàn thiện cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý ngành điện theo hướng giảm dần tiến tới xoá bỏ độc quyền. Việc Nhà nước nắm khâu truyền tải điện mang ý nghĩa điều tiết hoạt động, đảm bảo về an ninh năng lượng cho quốc gia không mang ý nghĩa là tiếp tục duy trì độc quyền tại khâu này. Có lộ trình về việc phát triển thị trường điện. Các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công nghiệp, Bộ tỔi chính, Bộ xây dựng có các hướng dẫn kịp thời, đồng bộ về cả quy định về nội dung và phương pháp xác định tổng mức đầu tư, các tiêu chuẩn, định mức, đơn giá chuyên ngành điện; các tiêu chuẩn, quy chuẩn định mức, đơn giá trong xây dựng cơ bản; hướng dẫn về các nguồn vốn và sử dụng vốn; hướng dẫn về quản lý, sử dụng vốn ODA; hướng dẫn thi hành các Luật thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu và về các chính sách hỗ trợ và ưu đãi đầu tư. Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quan lý đàu tư, xây dựng, tài chính, tín dụng, đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất, tránh chồng chéo để các nhà đầu tư tiếp cận được các chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư Nhà nước. Các cơ quan quan lý theo chức năng, nhiệm vụ được giao hướng dẫn và giám sát kịp thời các chủ đầu tư khi lập cũng như có trách nhiệm trong việc tham gia thẩm tra đầu tư các dự án có quy mô lớn. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng Nhà Nước cần tăng cường vai trò trong việc hỗ trợ nâng cao nghiệp vụ thẩm định, phát triển và nâng cao trình độ của đội ngũ nhân viên, trợ giúp về thông tin và kinh nghiệp cho các ngân hàng thương mại. Cụ thể: NHNN cần tổ chức các lớp đào tạo, hội thảo ngắn ngày cho các cán bộ trong ngành, hoặc các buổi Hội nghị tổng kết hàng năm toàn ngành để trao đổi, tăng cường hiểu biết và hợp tác giữa các bộ phận thẩm định, tín dụng của các ngân hàng thương mại. NHNN cần ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể về toàn bộ các vấn đề có liên quan đến thẩm định dự án để từ đó làm cơ sở cho công tác này được thực hiện một cách khoa học, bài bản. NHNN cần đa dạng hoá phương pháp và cách thức thu thập thông tin sao cho kịp thời, cập nhật, chính xác. Tổ chức bộ máy làm việc hiệu quả hơn, dảm bảo hoạt động thống nhất trên cả nước. Quy định chặt chẽ hơn đối với việc cung cấp thông tin của các Ngân hàng thương mại đảm bảo việc cung cấp thông tin kịp thời, đầy đủ, chính xác về khách hàng. Đồng thời, tích cực thu thập thông tin từ các nguồn khác như Tổng cục thống kê, các Bộ, Ban ngành..... hoặc có thể mua thông tin từ các tổ chức thông tin từ các tổ chức thông tin quốc tế làm sao để nguồn thông tin tại Ngân hàng Nhà nước thật sự có giá trị cho các Ngân hàng thương mại tra cứu. Kiến nghị với Ngân hàng Công thương Việt Nam NHCT Việt Nam cần tích quan tâm chỉ đạo và định hướng nhằm giúp đỡ Chi nhánh NHCT Chương Dương có đủ điều kiện làm việc nâng cao chất lượng hoạt động của mình nói chung và chất lượng thẩm định tài chính nói riêng. NHCT Việt Nam có thể làm đơn vị đầu mối để NHCT Chương Dương và Ngân hàng Nhà nước phối hợp xây dựng một quy trình thẩm định dự án chuẩn cho các dự án riêng của các ngành nói chung và ngành điện lực nói riêng, đồng thời xây dựng một số các định mức, tiêu chí phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án. Sổ tay tín dụng của NHCT Việt Nam là văn bản hướng dẫn hiệu quả cho NHCT Chương Dương thực hiện các nghiệp vụ tín dụng. Tuy nhiên, với tính chất phức tạp của lĩnh vực dự án, đòi hỏi sổ tay tín dụng phải có sự sửa đổi theo hướng hoàn thiện hơn và liên tục bổ sung cập nhật theo sát yêu cầu thực tế. NHCT Chương Dương cần tổ chức các khoá đào tạo, tập huấn, hội thảo, toạ đàm.... để giúp các chi nhánh nâng cao năng lực trong công tác thẩm định dự á tài chính dự án.... Ngân hàng cần hỗ trợ tốt hơn trong việc cung cấp thông tin cho các chi nhánh. 3.3.4 Kiến nghị với chủ đầu tư. Tổng công ty điện lực Việt Nam là một khách hàng lớn, lâu năm của NHCT Chương Dương . Vì vậy, hiệu quả trong hoạt động thẩm định của Ngân hàng chịu sự chi phối rất lớn bởi hiệu quả hoạt động của chính doanh nghiệp. Để tạo điều kiện cho công tác thẩm định tài chính dự án tiến hành thuận lợi thì doanh nghiệp nên thực hiện một số biện pháp như: Cung cấp cho ngân hàng những số liệu chính xác một cách nhanh chóng nhất. Công việc này đòi hỏi phải có được thông qua một hệ thống kế toán rõ ràng và được công nhận bởi một công ty kiểm toán tin cậy. Đề ra kế hoạch kinh doanh cụ thể trong từng giai đoạn theo đúng định hưóng phát triển của Chính phủ. Giữ mối quan hệ qua lại thường xuyên với Ngân hàng về một số thông tin như nhu cầu về vốn hoạt động, tình hình sản xuất kinh doanh,.... KẾT LUẬN Mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động theo dự án là một trong các mục tiêu quan trọng của Ngân hàng Công thương Chương Dương, trong đó cho vay ngành điện lực luôn là đối tượng quan tâm rất lớn của Ngân hàng. Muốn thực hiện điều này, Ngân hàng cần nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án nói chung và trong cho vay ngành điện lực nói riêng như một nhiệm vụ then chốt và tất yếu. Vì vậy, Ngân hàng cần phải nghiên cứu và áp dụng nhiều biện pháp có tính khả thi cao khác nhau. Xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi đó, đề tài “ Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay ngành điện lực tại Ngân hàng Công thương Chương Dương” đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu thích hợp và hoàn thành được những nội dung chủ yếu sau: Thứ nhất, hệ thống lại lý thuyết chung về thẩm định tài chính dự án, từ đó đưa ra khái niệm và một số các chỉ tiêu về chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay của Ngân hàng thương mại Thứ hai, đánh giá thực trạng hoạt động thẩm định tài chính dự án trong cho vay ngành điện lực tại Ngân hàng Công thương Chương Dương, từ đó rút ra những kết quả đã đạt được và những hạn chế trong hoạt động này, chỉ rõ nguyên nhân của vấn đề trên. Thứ ba, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay nói chung và ngành điện lực nói riêng tại Ngân hàng Công thương Chương Dương. Qua luận văn này, em hy vọng rằng những giải pháp đưa ra sẽ được Ngân hàng Công thương Chương Dương xem xét, áp dụng để nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án trong cho vay ngành điện lực, góp phần mở rộng hoạt động tín dụng theo hướng an toàn và hiệu quả. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Tấn Bình (2002), Phân tích Quản trị Tài chính, ĐHQG TP HCM. PGS. TS Vũ Duy Hào (1997), Quản trị tài chính doanh nghiệp, ĐHKTQD. ThS Đinh Thế Hiển (2002), Lập, thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư, NXB Giáo dục. PGS.TS Lưu Thị Hương (2005), Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, ĐHKTQD, NXB Thống kê. PGS. TS Lưu Thị Hương (2004), Thẩm định tài chính dự án, ĐHKTQD, NXB Tài chính. Ngân Hàng Công thương Việt Nam, Các văn bản nghiệp vu tín dụng ngân hàng. Ngân hàng Công thương Việt Nam, Sổ tay tín dụng. Ngân hàng Công thương Chương Dương, Báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2002, 2003, 2004, 2005. Tổng công ty Điện lực Việt Nam, Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án “ Hệ thống đường dây và trạm 500KV Hà Tĩnh – Nho Quan – Thường Tín” Ngân hàng Công thương Chương Dương, Báo cáo thẩm định, tờ trình thẩm định dự án “Hệ thống đường dây và trạm 500KV Hà Tĩnh – Nho Quan – Thường Tín” Các trang web: www.icb.com.vn www.evn.com.vn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36465.doc
Tài liệu liên quan