LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, nền kinh tế Việt Nam đã có sự chuyển biến sâu sắc và toàn diện trong mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, để thực hiện thành công CNH – HĐH đất nước trong thời kỳ đổi mới đòi hỏi nền kinh tế Việt Nam phải cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa.
Đầu tư phát triển là chìa khoá để thực hiện thành công mục tiêu đó nhưng thiếu vốn cho đầu tư phát triển lại luôn là vấn đề gặp phải trong mọi thành phần kinh tế. Hơn nữa các dự án đầu tư luôn đòi hỏi nguồn vốn lớn, thời gian hoàn vốn dài, độ
93 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1462 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại Sở Giao dịch - Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng Hải (MSB) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rủi ro cao nên không phải cá nhân, doanh nghiệp nào cũng có thể đáp ứng và quản lý được. Vì vậy, với chức năng tập hợp và kinh doanh tiền tệ, sự trợ giúp nhu cầu vốn từ phía ngân hàng luôn là sự lựa chọn hàng đầu của các cá nhân, tổ chức kinh tế.
Với tư cách là một trung gian tài chính chung chuyển vốn cho nền kinh tế, tập hợp những nguồn vốn nhỏ lẻ trong dân cư và từ các tổ chức kinh tế, xã hội và kinh doanh trên nguồn vốn đó nên yêu cầu đặt ra trong hoạt động của mọi ngân hàng là phân tán và giảm thiểu rủi ro để đạt hiệu quả kinh tế cao. Để đảm bảo được yêu cầu đó, bên cạnh việc quản lí chặt chẽ nguồn vốn sau cho vay thì trước khi quyết định cho vay ngân hàng đều phải thẩm định kỹ lưỡng để đánh giá tính khả thi của dự án, tính hiệu quả và khả năng trả nợ cho ngân hàng. Thẩm định tài chính là một hoạt động căn bản của mỗi ngân hàng, tuy nhiên với sự phát triển không ngừng của mối quan hệ kinh tế - xã hội, yêu cầu đặt ra để hoàn thiện nội dung này ngày càng phức tạp hơn.
Cũng như các ngân hàng thương mại khác, ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam hình thành và phát triển vững mạnh cùng đất nước trong suốt thời kỳ đổi mới, nắm bắt được nhu cầu vốn trong nền kinh tế ngân hàng luôn cố gắng nâng cao chất lượng của tín dụng đầu tư nói chung và hoàn thiện nội dung thẩm định tài chính nói riêng nhưng vẫn gặp phải nhiều hạn chế, vướng mắc. Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính tại SGD – ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam, tôi xin chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại Sở Giao Dịch – Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam” làm đề tài cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
Nội dung của khoá luận gồm 2 chương:
Chương I. Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án vay vốn tại Sở giao dịch – Ngân hàng TMCP Hàng Hải trong thời gian qua (2006-2008)
Chương II. Định hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án vay vốn tại Sở giao dịch – Ngân hàng TMCP Hàng Hải trong thời gian tới.
CHƯƠNG I. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TẠI SỞ GIAO DỊCH - NGÂN HÀNG TMCP HÀNG HẢI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA (2006 - 2008)
I. Giới thiệu về Sở giao dịch – Ngân hàng TMCP Hàng Hải
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Hàng Hải Việt Nam (viết tắt: Ngân hàng TMCP Hàng Hải). Tên giao dịch quốc tế là Vietnam Maritime Commercial Stock Bank (viết tắt: Maritime Bank hoặc MSB). Sở Giao dịch (SGD) Ngân hàng Hàng hải ra đời và gắn liền hoạt động với Trụ sở chính MSB cho tới năm 2007; hiện nay có địa chỉ tại 44 Nguyễn Du, Quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội. Tính đến nay hệ thống ngân hàng Hàng Hải bao gồm trụ sở chính, sở giao dịch và 86 chi nhánh, điểm giao dịch; trong đó SGD giữ vị trí đứng đầu, có vai trò quan trọng quá trình triển khai các chính sách hoạt động của Trụ sở chính.
1. Quá trình hình thành và phát triển
1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Ngân hàng TMCP Hàng hải là Ngân hàng TMCP đầu tiên tại Việt Nam sau khi Pháp lệnh về Ngân hàng, HTX Tín dụng và Công ty Tài chính có hiệu lực. Được thành lập theo giấy phép số 0001/NH-GP ngày 08/06/1991 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, MSB chính thức khai trương và đi vào hoạt động từ ngày 12/07/1991 tại số 25 Điện Biên Phủ (sau chuyển về số 5A Nguyễn Tri Phương, Hồng Bàng, Hải Phòng). Ngày 24/05/2005 MSB đã chính thức chuyển trụ sở chính lên số 44 Nguyễn Du, Hà Nội và hiện tại Trụ sở chính được đặt tại toàn nhà VIT số 519 Kim Mã, Quận Ba Đình, Hà Nội.
MSB có số vốn điều lệ ban đầu là 40 tỷ đồng và thời gian hoạt động là 25 năm. Đến tháng 7 năm 2003, theo quyết định số 719 QĐ – NHNN ngày 07/07/2003 của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam, thời gian hoạt động của Ngân hàng đã tăng lên 99 năm. Thực hiện kế hoạch tăng vốn điều lệ trong năm 2007, theo văn bản số 478/NHNN-HAN7 ngày 25/5/2007 của Ngân hàng Nhà nước VN - Chi nhánh TP Hà Nội, MSB đã chính thức được phép tăng vốn điều lệ đợt 1 năm 2007 từ 700 tỷ đồng lên 1500 tỷ đồng. Hết quý I năm 2009, ngân hàng TMCP Hàng Hải (MSB) đã hoàn thành tăng vốn điều lệ từ 1.500 lên 2.240 tỷ đồng và đã đạt được danh hiệu 1 trong 6 ngân hàng hoạt động hiệu quả nhất trong toàn ngành năm 2008.
Ngân hàng Hàng hải là một trong 6 Ngân hàng Thương mại Việt Nam được Ngân hàng Thế giới WB lựa chọn và tài trợ để tham gia Dự án Hiện đại hoá ngân hàng và Hệ thống thanh toán. MSB đã hoàn thiện và khai thác thành công giai đoạn 1 của dự án và là Ngân hàng Thương mại cổ phần duy nhất của Việt Nam được tài trợ cho Dự án giai đoạn 2. Kết thúc giai đoạn này, MSB sẽ xây dựng hoàn chỉnh hệ thống Ngân hàng điện tử (E-banking) đạt tiêu chuẩn quốc tế, nhằm đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, đáp ứng tối đa nhu cầu của mọi đối tượng khách hàng.
Đến nay MSB đã có mạng lưới giao dịch trải rộng trên khắp 3 miền Bắc, Trung, Nam với hệ thống 87 chi nhánh và điểm giao dịch với khoảng 1000 cán bộ nhân viên tại những đầu mối kinh tế quan trọng của cả nước như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Vũng Tàu, TP HCM, Cần Thơ…. MSB đã thiết lập quan hệ đại lý với hơn 200 Ngân hàng và Chi nhánh Ngân hàng ở nhiều nước trên thế giới, nhằm thúc đẩy tốc độ của hoạt động thanh toán quốc tế. Trở thành thành viên của nhiều tổ chức liên ngân hàng trong nước và thế giới như Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, Hiệp hội Ngân hàng Châu Á, Tổ chức Thanh toán toàn cầu SWIFT, Đại lý chuyển tiền nhanh toàn cầu Money Gram… với mục đích nâng cao vị thế của MSB trong thị trường tài chính Việt Nam và hội nhập kinh tế thế giới.
1.2. Cơ cấu các phòng ban chức năng
Ban lãnh đạo của SGD gồm có 1 Giám đốc và 3 phó giám đốc phụ trách các mảng công việc chính. Bộ máy tổ chức hành chính của SGD được bố trí như sau:
BAN LÃNH ĐẠO
Phòng KH CN
Phòng DV KH
Phòng KH DN
Phòng KT TC
Phòng HC
Phòng CNTT
Phòng dự án
Phòng thẻ
Sơ đồ 1.1: CƠ CẤU TỔ CHỨC NGÂN HÀNG TMCP HÀNG HẢI
2. Tình hình hoạt động kinh doanh trong thời gian qua.
Trong thời gian qua, góp phần vào sự phát triển của toàn hệ thống, các hoạt động tại SGD đều đã đạt được sự tăng trưởng cao và ổn định.
2.1. Hoạt động huy động vốn
Với định hướng xây dựng ngân hàng thương mại cổ phần đa năng, SGD đã triển khai các sản phẩm và dịch vụ đa dạng đáp ứng nhu cầu của dân cư, tổ chức kinh tế và tổ chức tín dụng cả bằng ngoại tệ và nội tệ. Công tác phát triển khách hàng theo hướng chuyên nghiệp hóa (hình thành khối Khách hàng Doanh nghiệp và khối Khách hàng cá nhân) để tận dụng mọi khả năng kinh doanh, khai thác tối đa lợi thế của khách hàng trên cơ sở hợp tác hai bên cùng có lợi. Số liệu tổng hợp về hoạt động huy động tiền gửi trong những năm qua như sau:
Bảng 1.1: TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN TẠI SỞ GIAO DỊCH
ĐVT:Triệu đồng
CHỈ TIÊU
2006
2007
2008
Tổng vốn huy động từ KH của MSB
Tốc độ tăng liên hoàn
+ Tiền gửi TCKT
+ Tiền gửi KH cá nhân
4.037.397
0
2.575.530
1.461.867
7.624.700
88,8%
5.343.172
2.281.528
18.978.853
148,9%
12.618.656
6.360.197
Tổng vốn huy động từ KH của SGD
Tốc độ tăng liên hoàn
+ Tiền gửi TCKT
Tốc độ tăng liên hoàn
+ Tiền gửi KH cá nhân
Tốc độ tăng liên hoàn
682.202,6
0
484.417,6
0
197.785
0
790.362
15,8%
551.798
13,9%
238.564
20,6%
1.270.768
60,8%
873.000
58,2%
397.768
66,7%
% vốn huy động SGD/ vốn huy động MSB
16,9%
10,37%
6,7%
Nguồn: phòng KHDN - SGD
Vốn huy động từ tiền gửi khách hàng là bộ phận chủ yếu, 78% trong tổng vốn huy động của ngân hàng, ngoài đó ra còn bao gồm cả vốn vay các tổ chức tín dụng, vay NHNN.
Qua bảng số liệu trên cho thấy, qua các năm lượng vốn huy động tại ngân hàng nói chung và tại SGD nói riêng đã có tăng trưởng rất nhanh, đóng góp phần không nhỏ vào kết quả chung của toàn hệ thống MSB. Năm 2006 là năm đầu tiên chuyển tới địa điểm hoạt động mới tại Hà Nội nhưng vốn huy động cũng đã đạt hơn 682 tỷ đồng. Năm 2007 tăng trưởng 15,85% so với năm 2006, trong năm 2008, vượt qua khó khăn chung của nền kinh tế, tốc độ tăng trưởng huy động vốn đã tăng 60,8% so với năm 2007.
Tuy tỉ trọng nguồn vốn huy động của SGD so với toàn hệ thống có giảm xong tốc độ giảm vẫn thấp hơn so với tốc độ tăng của số chi nhánh của MSB, cụ thể năm 2006 MSB có 28 chi nhánh và điểm giao dịch, năm 2007 tăng lên 40 điểm tương đương 117,5% và năm 2008 tăng 43%, đưa số chi nhánh, điểm giao dịch lên con số 87.
Bảng 1.2: TỶ TRỌNG TIỀN GỬI CỦA KHÁCH HÀNG
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
% tiền gửi TCKT/ tổng vốn huy động SGD
71,01%
69,82%
68,7%
% tiền gửi KH CN/ tổng vốn huy động SGD
28,99%
30,18%
31,3 %
Tiền gửi khách hàng cá nhân tăng đáng kể so với các năm trước đây nhưng vốn huy động từ các tổ chức kinh tế vẫn chiếm tỉ trọng lớn. Tổng nguồn vốn huy động từ dân cư năm 2007 đạt 238,564 tỷ đồng, tăng 20,62% so với năm 2006 và đạt mức 397.768 tỷ đồng vào năm 2008, tăng 66,7% so với năm 2007.
Biểu đồ 1.1: HUY ĐỘNG VỐN TẠI SGD PHÂN THEO KHÁCH HÀNG
Triệu đồng
Cùng với việc hình thành khối Khách hàng Doanh nghiệp nhằm chuyên môn hóa công tác tìm kiếm và chăm sóc khách hàng, chính sách khách hàng linh hoạt được áp dụng cho từng phân khúc khách hàng riêng biệt, vậy nên vốn huy động từ các tổ chức kinh tế luôn chiếm khoảng 70% so với tổng vốn huy động và vào năm 2008 cũng ghi nhận tốc độ tăng trưởng tới 58%. Kết quả đạt được là do chính sách linh hoạt trong điều chỉnh lãi suất, đa dạng hóa sản phẩm, mở rộng mạng lưới chi nhánh và kết hợp với hoạt động truyền thông, quảng cáo, khuyến mại, mức tăng trưởng hàng năm tăng thêm khoảng 4%. Nhất là vào năm 2007, được xem là năm đột phá nói chung của MSB cũng như của SGD, thương hiệu “Maritime Bank – Tạo lập giá trị bền vững” đã trở nên quen thuộc và uy tín hệ thống ngân hàng Việt Nam
Bảng 1.3: TIỀN GỬI PHÂN THEO KỲ HẠN CỦA KHÁCH HÀNG TCKT
ĐVT: triệu đồng
TIỀN GỬI TCKT
2006
2007
2008
Không kỳ hạn
Tốc độ tăng liên hoàn
% Tỷ trọng
464.417,6
0
95,87%
491.798
6%
89,13%
622.957
27%
71,35%
Có kỳ hạn
Tốc độ tăng liên hoàn
% Tỷ trọng
20.000
0
4,13%
60.000
200%
10,87%
250.043
317%
28,65%
Nguồn: phòng KHDN - SGD
Tiền gửi không kỳ hạn luôn chiếm tỷ trọng cao trong các năm, vào năm 2008 tiền gửi không kỳ hạn bị giảm, nguyên nhân chính là do ảnh hưởng của tình hình kinh tế vĩ mô, lạm phát và khủng hoảng kinh tế thế giới đã khiến cho lãi suất tăng cao, ảnh hưởng đến chi phí của doanh nghiệp. Thay vào đó, tiền gửi có kỳ hạn lại tăng mạnh trong điều kiện cạnh tranh lãi suất, luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao, năm 2007 tăng 200%, năm 2008 tăng 317% điều này chứng tỏ sự tin tưởng của khách hàng đối với ngân hàng.
2.2. Hoạt động tín dụng
Năm 2007 là năm đánh dấu sự tăng trưởng vượt bậc của Maritime Bank nói chung và của SGD nói riêng, họat động cho vay khách hàng doanh nghiệp và cá nhân có sự tăng trưởng mạnh mẽ. Tuy tăng trưởng với tỷ lệ cao nhưng các chỉ số an toàn về hoạt động luôn được đảm bảo ở mức cao.
Để đa dạng hoá sản phẩm tín dụng, đồng thời hỗ trợ phát triển huy động vốn dân cư, tỷ trọng tín dụng cá nhân của SGD ngày càng được cải thiện. Đối tượng khách hàng cá nhân là những người có thu nhập ổn định tại các khu vực thành thị và các vùng kinh tế trọng điểm; phương thức tài trợ được thực hiện trên cơ sở các phương án kinh doanh khả thi hay các nhu cầu tiêu dùng cá nhân thiết thực đảm bảo khả năng trả nợ ngân hàng.
Bảng 1.4: SỐ LƯỢNG DƯ NỢ TÍN DỤNG 2006-2008
ĐVT: triệu đồng
CHỈ TIÊU
2006
2007
2008
Tổng dư nợ tín dụng tại MSB
Tốc độ tăng liên hoàn
2.887.925
0
6.527.849
126%
8.865.458
36%
Tổng dư nợ tín dụng tại SGD
Tốc độ tăng liên hoàn
171.003
0
431.995
153%
695.853
61%
%Tỷ trọng
5,92%
6,6%
6,49%
Nguồn: phòng KHDN - SGD
Đối với SGD, mức dư nợ tín dụng luôn đạt tốc độ tăng trưởng dương qua các năm, nhất là tốc độ tăng trưởng vượt bậc đạt 153% vào năm 2007 và vẫn giữ tốc độ cao vào năm 2008 đạt 60%, giữ vững tỷ trọng so với toàn hệ thống MSB. Đạt được và giữ vững tốc độ tăng trưởng cao trong nhưng năm qua cho thấy sự lớn mạnh của MSB nói chung và của SGD nói riêng trong công tác tín dụng nhất là nội dung thẩm định dự án, số lượng dự án trung, dài hạn không ngừng tăng lên, năm 2006 với 4 dự án, năm 2007 tăng lên 10 dự án vào 2008 đạt 18 dự án.
Bảng 1.5: DƯ NỢ TÍN DỤNG THEO KHÁCH HÀNG TẠI SGD
ĐVT: triệu đồng
KHÁCH HÀNG
2006
2007
2008
Tổ chức kinh tế
Tốc độ tăng liên hoàn
% Tỷ trọng so với tổng dư nợ
147.835
0
86,19%
399.226
170%
92,41%
642.853
61%
92,36%
Cá nhân
Tốc độ tăng liên hoàn
% Tỷ trọng so với tổng dư nợ
23.168
0
13,81%
32.769
41%
7,59%
53.000
63%
7,64%
Nguồn: phòng KHDN - SGD
Dư nợ tín dụng của các tổ chức kinh tế luôn chiếm tỷ trọng cao, trên 85% vì vậy nó có ảnh hưởng lớn tới hoạt động tín dụng nói chung và hiệu quả kinh doanh của SGD. Dư nợ khách hàng cá nhân luôn có tốc độ tăng trưởng tương đối ổn định trong khi đó đối tượng khách hàng tổ chức lại có sự tăng trưởng vượt bậc đạt 170% vào năm 2007 và giữ vững tốc độ cao 60% vào năm 2008, sự tăng trưởng ổn định hơn cho thấy sự định hướng đúng đắn cũng như sự cố gắng lớn của SGD nhất là vào năm 2008 điều này cho thấy sự tin tưởng, uy tín của khách hàng đối với SGD.
Biểu đồ 1.2: MỨC DƯ NỢ TÍN DỤNG TẠI SGD
Tỷ đồng
Sự tăng trưởng nói chung mức dư nợ tín dụng và mức tỷ trọng cao của dư nợ đối với khối khách hàng tổ chức cho thấy công tác tín dụng của SGD đã ngày được cải thiện trong cả công tác phát triển sản phẩm cũng như trong cả công tác thẩm định hợp đồng tín dụng. Số lượng khách hàng tổ chức trong năm 2006 là 28 khách hàng, năm 2007 là 41 khách hàng, so với năm 2006 tăng 78,3%, đến năm 2008 ngoài số lượng khách hàng truyền thống đã tăng thềm nhiều khách hàng mới, nâng số khách hàng tổ chức lên 39 khách hàng.
Bảng 1.6: DƯ NỢ TÍN DỤNG PHÂN THEO KỲ HẠN
ĐVT: triệu đồng
KỲ HẠN TÍN DỤNG
2006
2007
2008
Ngắn hạn
Tốc độ tăng liên hoàn
% Tỷ trọng so với tổng dư nợ
130.886
0
76,54%
244.108
87%
56,51%
294.172
20,5%
42,15%
Trung và dài hạn
Tốc độ tăng liên hoàn
% Tỷ trọng so với tổng dư nợ
40.117
0
23,46%
187.887
368,3%
43,49%
403.681
115%
57,85%
Nguồn: phòng KHDN - SGD
Tỷ trọng dư nợ ngắn hạn luôn chiếm mức cao trong năm 2006 và 2007 nhưng trong 3 năm họat động tại địa điểm mới, dư nợ trung và dài hạn luôn đạt mức tăng vượt bậc về cả số lượng lẫn tỷ trọng: 23,46% năm 2006 lên tới 57,85% vào năm 2008 với tốc độ 368% năm 2007 và duy trì cao 115% năm 2008. Có được tốc độ tăng trưởng đó có nhiều nguyên nhân có thể kể đến như vào năm 2007 ngân hàng đã tăng vốn điều lệ từ 700 tỷ lên 1500 tỷ, điều này khiến hạn mức cho vay tăng lên, bên cạnh đó là sự nỗ lực không ngừng trong chiến lược phát triển thương hiệu, nâng cao chất lượng công tác tín dụng và phát triển mối quan hệ khách hàng. Nhu cầu vay vốn ngắn hạn tại SGD ở các năm giữ tỷ trọng khá cao, nguồn vốn này chủ yếu phục vụ cho nhu cầu đầu tư tài sản lưu động.
2.3. Các hoạt động cung ứng dịch vụ ngân hàng.
Cung ứng dịch vụ ngân hàng hiện đại luôn là định hướng chủ đạo của Maritime Bank ngay từ ngày thành lập; dịch vụ ngân quỹ an toàn và thanh toán nhanh và tiện ích đã tạo nền tảng cho sự phát triển của Maritime Bank. Với hệ thống công nghệ thông tin tiên tiến, các dịch vụ thanh toán, chuyển tiền được xử lý nhanh chóng, chính xác. Thanh toán quốc tế và dịch vụ bảo lãnh luôn là thế mạnh của Maritime Bank, giao dịch và kinh doanh ngoại tệ luôn là những mảng kinh doanh truyền thống của Maritime Bank ngay từ ngày thành lập. Dự án thẻ đang được Maritime Bank khẩn trương triển khai với quy mô lớn. Các dịch vụ ngân hàng điện tử đã và đang được triển khai trong toàn hệ thống Maritime Bank.
Hoạt động thanh toán trong nước và quốc tế của Ngân hàng nhanh chóng và rất an toàn đáp ứng đầy đủ nhu cầu thanh toán của khách hàng. Sự tăng trưởng của hoạt động thanh toán chứng tỏ uy tín, chất lượng dịch vụ của Maritime Bank ngày càng được củng cố, hệ thống khách hàng ngày càng mở rộng và trong năm không phát sinh sai sót nào trong công tác chuyển tiền.
Bên cạnh sự phát triển của các hoạt động bảo lãnh trong nước với mức tăng gần gấp đôi năm trước, bằng việc mở rộng quan hệ với các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, các cam kết LC của SGD đã tăng đáng khích lệ. Dịch vụ bảo lãnh tại SGD qua các năm đều tăng dần về cả số lượng và tố độ. Năm 2006 đạt 11,4 tỷ đồng, năm 2007 tăng 67,15% đạt 19 tỷ đồng, năm 2008 tăng cao với tốc độ 328,27% đạt 82 tỷ đồng
Với 16 loại ngoại tệ mạnh khác nhau, hoạt động mua bán ngoại tệ phục vụ nhu cầu của khách hàng được thực hiện ở tất cả các chi nhánh trong hệ thống. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ đã hỗ trợ tích cực cho hoạt động thanh toán quốc tế đồng thời cũng góp phần không nhỏ vào việc tăng doanh thu cho Ngân hàng.
II. Công tác thẩm định tài chính dự án tại Sở giao dịch
Đánh giá và quản lý khoản vốn cho vay giữ một vai trò quan trọng trong hoạt động tín dụng cũng như hoạt động kinh doanh đối với một định chế tài chính như ngân hàng thương mại. Thẩm định tín dụng là hoạt động đánh giá dự án trước khi quyết định cho vay hay không, trong đó thẩm định tài chính dự án là một khâu mang tính chất quyết định nếu đứng trên phương diện của người cho vay vốn của Ngân hàng thương mại.
1. Tổng quan về thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao dịch.
SGD là nơi tập trung nhiều dự án cho vay, để đảm bảo và nâng cao chất lượng cho hoạt động huy động vốn và tín dụng, hiện nay tại SGD hình thành khối Khách hàng Doanh nghiệp (KHDN) và Khách hàng cá nhân (KHCN) nhằm tận dụng mọi khả năng kinh doanh. Tín dụng của bộ phận khách hàng doanh nghiệp luôn chiếm tỷ trọng cao so với tổng dư nợ tại SGD đạt trên 85%. Con số trên cho thấy thành công của chính sách tín dụng và cũng là thách thức đặt ra để tiếp tục phát triển trong hoạt động tín dụng, nhất là tín dụng trung, dài hạn.
Thẩm định dự án là sử dụng các công cụ và kỹ thuật phân tích để kiểm tra, đánh giá mức độ tin cậy và rủi ro của dự án mà khách hàng đề xuất, với mục tiêu làm căn cứ cho việc ra quyết định cho vay. Công tác thẩm định tại SGD cố gắng phân tích và làm sáng tỏ tính khả thi thực sự của dự án về mặt kinh tế khi đứng trên góc độ ngân hàng. Nhận xét chung đối với khâu lập dự án của khách hàng đó là thường thổi phổng và có những ước lượng quá lạc quan về hiệu quả kinh tế, cố gắng đưa ra một dự án khả thi để trình diện các cơ quan quản lý và với ngân hàng. Mục đích của công tác thẩm định được quán triệt là đánh giá một cách chính xác và trung thực khả năng trả nợ của khách hàng, điều này không những đem lại lợi ích cho ngân hàng mà qua khâu thẩm định này một lần nữa dự án của khách hàng sẽ được kiểm tra, rà soát trên mọi phương diện, tránh việc đầu tư sai lầm hoặc bỏ qua một dự án có khả năng đem lại hiệu quả cao nhưng chưa được xây dựng đúng cách.
1.1. Quy trình thẩm định dự án.
Công tác thẩm định tại SGD nói chung khá hoàn thiện và bao gồm các bước chủ yếu sau Điều 41, chương IV - Quy chế cho vay đối với khách hàng của Ngân hàng TMCP Hàng hải và QUYẾT ĐỊNH số 1627/2001/QĐ-NHNN (Đã sửa đổi bổ sung theo QĐ 127 và QĐ 783) của Ngân hàng Nhà nước.
:
Hướng dẫn, tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ tín dụng của khách hàng
Thẩm định các điều kiện vay vốn và hồ sơ tín dụng
Phê duyệt (xét duyệt và quyết định) cho vay
Hoàn chỉnh hồ sơ tín dụng (hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay, mua bảo hiểm cho tài sản và hoàn chỉnh các hồ sơ có liên quan khác)
Tiếp nhận, phong tỏa, quản lý tài sản bảo đảm tiền vay
Cập nhật hồ sơ tín dụng bằng văn bản và bằng dữ liệu điện tử máy tính
Giải ngân khoản vay và hạch toán
Theo dõi, kiểm tra khoản vay và khách hàng vay
Thu hồi nợ gốc, lãi và phí cho vay
Xem xét xử lý những khoản vay có vấn đề
Giải tỏa tài sản bảo đảm tiền vay
Thống kê, báo cáo tín dụng
Tất toán khoản vay và lưu giữ hồ sơ tín dụng
Sơ đồ 1.2: QUY TRÌNH THẨM ĐỊNH
Khách hàng: Cung cấp các tài liệu và thông tin liên quan tới doanh nghiệp và dự án
Cán bộ tín dụng: tiếp xúc, hướng dẫn, phỏng vấn, kiểm tra thực tế khách hàng
Lập hồ sơ:
+ Giấy đề nghị vay vốn
+ Hồ sơ pháp lý
+ Dự án/ Phương án SXKD
Kiểm tra hồ sơ
Chưa đủ điều kiện
Nhận hồ sơ để thẩm định
Đủ điều kiện
Bổ sung, giải trình
Chưa rõ
Thẩm định
Cập nhật, tìm hiểu thông tin thị trường, chính sách, khung pháp lý
Lập báo cáo, quyết định tín dụng
Trình duyệt ban GĐ
Chấp thuận
Từ chối
1.2. Nội dụng thẩm định dự án
Với mục tiêu tìm hiểu, phân tích các thông tin để làm căn cứ quyết định cho vay và giảm xác suất sai lầm dựa trên cơ sở đánh giá khách hàng và dự án đầu tư, ước lượng rủi ro ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ khi cho vay. Tại SGD, thẩm định hồ sơ vay vốn tập trung vào các nội dung thẩm định khách hàng, thẩm định dự án đầu tư, thẩm định tài sản bảo đảm.
Sơ đồ 1.3: QUY TRÌNH THẨM ĐỊNH HỒ SƠ DỰ ÁN
Thẩm định hồ sơ vay vốn
Thẩm định tài sản bảo đảm
Thẩm định dự án đầu tư
Thẩm định khách hàng
Thẩm định khía cạnh nhân lực
Thẩm định khía cạnh kỹ thuật
Thẩm định tài chính dự án
Thẩm định thị trường dự án
Thẩm định điều kiện pháp lí
Thẩm định hiệu quả KT - XH
1.2.1. Thẩm định khách hàng
Công tác thẩm định khách hàng bao gồm 2 nội dung Điều 9 – quy chế cho vay của MSB
, thứ nhất là thẩm định tư cách pháp lý, thứ hai là thẩm định năng lực tài chính của khách hàng.
- Thẩm định tư cách pháp lý: nhằm phát hiện xem khách hàng có thỏa mãn những điều kiện vay vốn được chỉ ra trong quy chế tín dụng như tư cách pháp nhân, năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và mục đích vay vốn của khách hàng phù hợp với hoạt động kinh doanh, khả năng quản lí của doanh nghiệp cũng như với điều kiện pháp lí. Bên cạnh đó còn phân tích uy tín của khách hàng trong quan hệ sản xuất kinh doanh, quan hệ tín dụng với các tổ chức tín dụng khác nhằm đánh giá khả năng, ý thức trả nợ.
- Thẩm định năng lực tài chính: nội dung này nhằm đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của khách hàng. Các số liệu phía ngân hàng yêu cầu bao gồm như báo cáo tài chính của các kỳ gần nhất, gồm báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và bảng thuyết minh báo cáo tài chính. Dựa vào các báo cáo này, cán bộ tín dụng sẽ phân tích để đưa ra đánh giá về chiều hướng phát triển, tình hình hoạt động, tình hình sử dụng tài sản, khả năng tự cân đối các nguồn tiền của khách hàng cũng như sự phù hợp của dự án đối với doanh nghiệp và khả năng hỗ trợ tài chính chính cho dự án. Nguồn tài liệu này còn là cơ sở để đánh giá xếp hạng tài chính doanh nghiệp.
Yêu cầu đối với thẩm định năng lực tài chính trước hết cần thẩm định mức độ tin cậy của các báo cáo tài chính, phân tích các tỷ số tài chính và cuối cùng là đưa ra các đánh giá.
Để đảm bảo mức độ tin cậy của khách hàng nhất là khách hàng có giá trị khoản vay lớn, ngân hàng đều yêu cầu cung cấp báo cáo tài chính sau khi kiểm toán tuy nhiên điều này trên thực tế chưa thể thực hiện đối với đại đa số các dự án vay vốn vì vậy các cán bộ ngân hàng lại là người trực tiếp thẩm định mức độ tin cậy của báo cáo tài chính.
Các nhóm chỉ tiêu tỷ số tài chính Điều 4 – chương II – quy chế xếp hạng khách hàng Doanh nghiệp trên toàn bộ hệ thống MSB
bao gồm:
Khả năng thanh toán
+ Khả năng thanh toán ngắn hạn =
+ Khả năng thanh toán nhanh =
Chỉ tiêu hoạt động
+ Vòng quay hàng tồn kho =
+ Vòng quay các khoản phải thu =
+ Vòng quay vốn lưu động =
+ Hiệu quả sử dụng tài sản =
Khả năng tự tài trợ
+ Hệ số tự tài trợ = x 100%
+ Hệ số đòn bẩy =
Khả năng sinh lời
+Tốc độ tăng trưởng doanh thu =x100%
+ Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận = x 100%
+ Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) = x 100%
+ Tỷ suất lợi nhuận trên vốn (ROE) = x 100%
1.2.2. Thẩm định dự án đầu tư
Thẩm định dự án là một khâu quan trọng trong quá trình thẩm định hồ sơ vay vốn. Nội dung bao gồm thẩm định tính pháp lý của dự án sau đó tiến hành thẩm định các khía cạnh như thị trường, kỹ thuật, tài chính, nhân sự và kinh tế - xã hội của dự án.
- Thẩm định mục đích và các điều kiện pháp lý của dự án: kiểm tra tính hợp lệ và sự đầy đủ của hồ sơ trình duyệt, qua đó đánh giá mục tiêu dự án có phù hợp với quy hoạch kinh tế của ngành, của địa phương, vùng lãnh thổ và sự phù hợp với các chính sách phát triển kinh tế, chính sách ưu đãi hay hạn chế kinh doanh sản xuất hay không. Xác định loại hình dự án là dự án xây dựng mới, dự án mở rộng nâng cao công suất, dự án đầu tư chiều sâu, hợp lí hoá quá trình sản xuất hay là dự án kết hợp đầu tư chiều sâu, hợp lí hoá quá trình sản xuất và mở rộng nâng cao công suất để từ đó áp dụng từng nội dung tính toán cho phù hợp.
- Thẩm định khía cạnh thị trường của dự án: các vấn đề cần xác định rõ đó là thị trường đầu vào, đầu ra của dự án; xác định thế mạnh, lợi thế cạnh tranh, thị phần sản phẩm dự án; trên cơ sở đó để đánh giá việc lựa chọn quy mô sản xuất, công nghệ, kỹ thuật, bộ máy quản lý, nhân công và dự kiến khả năng tiêu thụ, ước tính doanh thu của dự án. Thẩm định khía cạnh thị trường là bước khởi đầu quan trọng, cần có sự đánh giá chính xác vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới các giai đoạn sau của dự án là thẩm định phương án kỹ thuật và thẩm định tài chính.
- Thẩm định khía cạnh kỹ thuật của dự án: đòi hỏi cán bộ tín dụng có sự đánh giá chính xác trong khâu tính toán các thông số kỹ thuật, kiểm tra sự phù hợp của máy móc thiết bị với môi trường kinh doanh, môi trường tự nhiên, tránh tình trạng bị hao mòn quá nhanh (bao gồm cả hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình) và có sự phù hợp với tình hình tài chính của dự án cũng như phù hợp với khả năng vận hành của chủ đầu tư để từ đó đề ra phương án kỹ thuật hợp lí, làm cơ sở cho xây dựng dòng tiền của dự án.
- Thẩm định khía cạnh nhân lực và tổ chức quản lý: thẩm định năng lực, trình độ, chuyên môn, kinh nghiệm cũng như khả năng quản lí, khai thác dự án. Đây là khía cạnh thường ít được quan tâm khi thẩm định dự án tuy nhiên do nhận thức được tầm ảnh hưởng của vấn đề nên trong quy trình thẩm định, các cán bộ tín dụng tại đây rất chú trọng để phân tích nhu cầu nhân lực và trình độ tổ chức quản lý của dự án. Thực tế cho thấy rất nhiều dự án dù tính toán chi phí và hiệu quả kinh tế vẫn thất bại khi thực hiện mà nguyên nhân dẫn đến lại là do trình độ quản lý yếu kém, nhân lực không đủ trình độ đáp ứng yêu cầu kỹ thuật.
- Thẩm định tài chính dự án: đây là nội dung lớn, là khía cạnh chính trong quá trình thẩm định dự án; là căn cứ quan trọng để đánh giá hiệu quả của dự án và trên cơ sỏ đó đánh giá được khả năng trả nợ của khách hàng. Nội dung thẩm định dự án có mối liên hệ mật thiết đối với các nội dụng khác của công tác thẩm định trong đó khía cạnh thị trường và phương án kỹ thuật cùng tổ chức quản lí là 3 nội dung quan trọng nhất. Nội dung thẩm định tài chính này sẽ được đề cập chi tiết hơn trong phần sau.
- Thẩm định hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án: đứng trên góc độ ngân hàng thì hiện nay khía cạnh này vẫn đang còn được phân tích khá hạn chế, chưa có sự quan tâm đúng đắn khi đánh giá các tác động của dự án tới môi trường tự nhiên, môi trường văn hóa, xã hội.
1.2.3. Thẩm định tài sản bảo đảm
Hoạt động tín dụng của ngân hàng là một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro. Mặc dù đã trải qua các khâu thu thập, xử lý, phân tích và thẩm định cả khả năng trả nợ của dự án, của khách hàng trước khi ra quyết định cho vay nhưng vẫn chưa thể loại bỏ được những rủi ro tín dụng. Bảo đảm tiền vay là cách thức ràng buộc khách hàng để thu hồi nợ và giảm thiểu rủi ro tín dụng đã được sử dụng hiệu quả đối với các dự án tại SGD. Bảo đảm tiền vay được thực hiện theo Nghị định 178/1999/NĐ – CP ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng và Nghị định 85/2002/NĐ – CP ngày 25/10/2002 về sửa đổi, bổ sung Nghị định 178
Để đảm bảo tiền vay thực sự thực sự có hiệu quả đòi hỏi giá trị bảo đảm phải lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm, tài sản dùng làm bảo đảm nợ vay phải tạo ra dòng tiền tức là có giá trị và có thị trường để tiêu thụ, cuối cùng tài sản bảo đảm phải có đầy đủ cơ sở pháp lý để người cho vay có quyền xử lý tài sản bảo đảm.
Các cách thực hiện bảo đảm tín dụng bao gồm bảo đảm bằng tài sản thế chấp, bảo đảm bằng tài sản cầm cố, bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay và bảo đảm bằng hình thức bảo lãnh của bên thứ ba.
- Bảo đảm bằng tài sản thế chấp: tài sản thế chấp là bất động sản thuộc quyền sở hữu của bên đi vay (nhà ở, cơ sở sản xuất kinh doanh và các tài sản khác gắn liền với chúng) hoặc giá trị quyền sở hữu đất hợp pháp.
- Bảo đảm bằng tài sản cầm cố: là cách thức bên đi vay giao tài sản là các động sản thuộc sở hữu để đảm bảo khả năng trả nợ như máy móc thiết bị, phương tiện đi lại...
- Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay: là cách thức khách hàng sử dụng tài sản có giá trị được tại ra bởi một phần hoặc toàn bộ khoản vay của ngân hàng. Tuy nhiên đây không phải là cách thức được sử dụng rộng rãi mà nó chỉ áp dụng đối với các dự án được ưu tiên như các dự án thực hiện theo quyết định của Chính phủ hay các dự án trung, dài hạn đầu tư phát triển của khách hàng có tín nhiệm, khách hàng truyền thống, khách hàng có khả năng tài chính lành mạnh, có dự án đầu tư khả thi hay những dự án có mức vốn tự có ít nhất đạt 70% tổng vốn đầu tư.
- Bảo đảm tín dụng bằng hình thức bảo lãnh: đây là cách thức thực hiện bảo đảm thông qua sự bảo lãnh của bên thứ ba, bên này sẽ thực hiện đầy đủ mọi nghĩa vụ thay cho bên đi vay đối với bên cho vay. Có hai loại bảo lãnh là bảo lãnh bằng tài sản và bảo lãnh bằng tín chấp.
Việc thẩm định giá trị pháp lí của tài sản bảo đảm là rất cần thiết, các tài sản đảm bảo như nhà xưởng, đất đai, phương tiện đi lại hay những tài sản hình thành từ chính dự án vay vốn... cần phải thẩm định quyền sở hữu để làm chứng thực cho tài sản đó.
Bên cạnh việc thẩm định giá trị pháp lí, thẩm định giá trị thị trường tài sản bảo đảm nợ vay lại rất quan trọng bởi điểu kiện pháp lí mới là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ đảm bảo khả năng thanh lí tài sản để thu hồi nợ khi cần thiết. Khi tiến hành thẩm định tài sản bảo đảm, các cán bộ tín dụng thường tiến hành phân loại loại hình tài sản: tài sản hữu hình và tài sản vô hình để thuận lợi cho việc đánh giá dòng tiền theo giá trị thị trường.
1.3. Phương pháp thẩm định dự án
Nhìn chung, phương pháp thẩm định tại SGD là sự kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp vốn có, đó là sự kết hợp giữa 5 phương pháp thẩm định phổ biến; thẩm định theo trình tự kết hợp thẩm định theo phương pháp so sánh đối chiếu các chỉ tiêu cùng với phương pháp dự báo thống kê và phương pháp._. phân tích độ nhạy, triệt tiêu rủi ro để tiến hành phân tích toàn bộ các nội dung của dự án. Trên cơ sở các thông tin thu thập được, việc lựa chọn phương pháp thẩm định rất quan trọng. Phương pháp thẩm định đưa ra cách thức xử lí thông tin để cán bộ thẩm định đánh giá một cách hiệu quả nhất. Cụ thể đó là khi tiến hành thẩm định một dự án, cách thức tiến hành thẩm định luôn tiến hành từ thẩm định tổng quát đến thẩm định chi tiết (thẩm định theo trình tự); thẩm định tổng quát nhằm đánh giá tính đầy đủ, hợp lí của dự án trong hồ sơ dự án, tính pháp lí của chủ đầu tư... để từ đó có cái nhìn tổng quan nhất về dự án; thẩm định chi tiết nhằm phát hiện ra những thiếu sót của dự án để hoàn tất các nội dụng thẩm định. Khi tiến hành thẩm định theo trình tự như trên, quy trình thẩm định cũng gắn kết phương pháp so sánh, đánh giá theo mỗi nội dung cần thẩm định làm cơ sở trong cả đánh giá tổng quát dự án và cả đánh giá chi tiết dự án. Trong quá trình phân tích, phương pháp dự báo là công cụ hữu hiệu để đưa ra dự báo các thông số chi phí, doanh thu trong suốt quãng đời của dự án, với các phương pháp được sử dụng chính như phương pháp định mức, lấy ý kiến chuyên gia, ngoại suy thống kê.
Phân tích độ nhạy và triệt tiêu rủi ro là phương pháp được sử dụng hỗ trợ lẫn nhau khi thẩm định tài chính dự án cụ thể là đánh giá nội dung rủi ro vì dòng tiền của mỗi dự án thường biến đổi theo nhiều yếu tố, mỗi yếu tố lại có một xu hướng biến đổi, dao động riêng và không chỉ có từng yếu tố tác động riêng rẽ mà sẽ có nhiều yếu tố đồng thời tác động lên dòng tiền của dự án như các yêu tố chi phí nguyên nhiên vật liệu, giá cả, lãi suất... Từ đó sẽ giúp phía ngân hàng định dạng được những rủi ro theo từng giai đoạn và yếu tố nhạy cảm nhất đối với dự án và đưa ra biện pháp quản lí cần thiết. Hiện nay, với sự hỗ trợ của các phần mềm việc phân tích độ nhạy, nhất là phân tích theo nhiều chiều đã trở nên dễ dàng hơn, tuy nhiên quan trọng vẫn là việc xác định được các yếu tố nhạy cảm, mức độ biến động của các yếu tố đó.
2. Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án tại Sở giao dịch.
Trong quy trình thẩm định dự án đầu tư, để đảm bảo tính an toàn cho nguồn vốn vay, các ngân hàng đều phải tiến hành thẩm định trên nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó thẩm định tài chính là khía cạnh được quan tâm lớn nhất, nó có ý nghĩa quyết định trong các nội dung thẩm định.
2.1. Vai trò của công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư
Hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của mỗi Ngân hàng thương mại, trong đó tín dụng dự án luôn được đặc biệt quan tâm vì nó đòi hỏi vốn lớn, thời gian đầu tư kéo dài, chịu nhiều tác động của các yếu tố kinh tế, văn hóa, chính trị và xã hội nên tiềm ẩn nhiều rủi ro khó định trước. Thẩm định dự án đầu tư là công tác thiết yếu đối với hoạt động tín dụng; cần phải được tiến hành trên mọi phương diện để có cái nhìn khách quan trước khi cho vay, trong đó thẩm định tài chính dự án là một nội dung mắt xích của thẩm định dự án, đây là một yêu cầu bắt buộc, mang tính chất tất yếu vì kết quả của nội dung thẩm định tài chính có liên quan mật thiết tới mọi nội dung của thẩm định tài chính; hơn nữa kết quả của nội dung này không những là cơ sở để đánh giá tính khả thi của dự án mà qua đó còn là căn cứ để ngân hàng đánh giá khả năng thu hồi nợ của mình. Với mục tiêu an toàn và sinh lời, ngân hàng chỉ cho vay đối với những dự án có hiệu quả tài chính.
Công tác thẩm định tài chính có đạt hiệu quả hay không phụ thuộc vào chất lượng thẩm định tài chính dự án. Dưới góc độ Ngân hàng, chất lượng thẩm định tài chính được hiểu là tiêu chí để đánh giá sự đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của Ngân hàng thông qua các tiêu chí như quy trình thẩm định khoa học và toàn diện, thời gian thẩm định nhanh chóng và hiệu quả, phương pháp thẩm định khoa học và phù hợp, trình độ của đội ngũ cán bộ thẩm định, mức độ rủi ro tín dụng thấp và có khả năng thu hồi nợ. Việc nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng công tác thẩm định và tới hoạt động cũng như uy tín của ngân hàng bởi nếu buông lỏng thẩm định tài chính thì tỷ lệ nợ xấu gia tăng, ngân hàng sẽ phải đối mặt với việc khó khăn trong thu hồi gốc và lãi, làm giảm uy tín và giảm hiệu quả kinh doanh.
Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác thẩm định tài chính bao gồm năng lực, trình độ của cán bộ thẩm định; thông tin cho quá trình thẩm định; phương pháp, tiêu chuẩn thẩm định; hệ thống trang thiết bị phục vụ quá trình thẩm định; công tác tổ chức thẩm định. Ngoài ra còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khách quan khác như tình hình kinh tế vĩ mô, điều kiện pháp lí và chất lượng lập dự án của doanh nghiệp.
2.2. Phương pháp thẩm định tài chính dự án
Phương pháp thẩm định tài chính dự án được tiến hành dựa theo phương pháp thẩm định chung. Như đã trình bày ở trên, thẩm định dự án có 5 phương pháp chính gồm có thẩm định theo trình tự; thẩm định theo phương pháp so sánh, đối chiếu các chỉ tiêu; phương pháp phân tích độ nhạy; phương pháp dự báo và phương pháp triệt tiêu rủi ro; trong đó 3 phương pháp phổ biến hiện nay được ngân hàng sử dụng để thẩm định tài chính là phương pháp so sánh, đối chiếu chỉ tiêu và phương pháp độ nhạy, triệt tiêu rủi ro.
Phương pháp so sánh, đối chiếu chỉ tiêu là cách thức ngân hàng so sánh, đối chiếu các nội dung tài chính dự án với các tiêu chuẩn về thiết kế, tiêu chuẩn xây dựng, tiêu chuẩn công nghệ, tiêu chuẩn sản phẩm, các chỉ tiêu cơ cấu vốn đầu tư, suất đầu tư, các định mức tiêu hao nguyên nhiên vật liệu... của những chuẩn mực luật pháp quy định cũng như của kinh nghiệm thực tế, của các dự án tương tự trong thời gian gần để xác định tổng vốn đầu tư, xác định tính hợp lí của dòng tiền và đánh giá hiệu quả dự án. Các chỉ tiêu được lựa chọn dựa trên sự phù hợp của dự án theo thời gian, không gian với điều kiện và đặc điểm cụ thể nơi dự án diễn ra.
Hai phương pháp phân tích độ nhạy và triệt tiêu rủi ro hiện đang được ngân hàng áp dụng để đánh giá kiểm định tính an toàn, vững chắc của hiệu quả dự án; phương pháp phân tích độ nhạy dựa trên việc tính toán để nhận biết các yếu tố nhạy cảm đối với dự án còn phương pháp triệt tiêu rủi ro chủ yếu dựa trên các biện pháp kinh tế và hành chính thích hợp để hạn chế thấp nhất hoặc phân tán rủi ro. Phân tích độ nhạy thường dự kiến những tình huống xấu có thể xảy ra xung quanh sự biến động của các yếu tố chi phí đầu tư, giá cả yếu tố đầu vào, giá thành đầu ra...; còn phương pháp triệt tiêu rủi ro lại đánh giá rủi ro theo 2 giai đoạn là thực hiện dự án và sau khi đi vào hoạt động để có biện pháp quản lí thích hợp như rủi ro do chậm tiến độ, rủi ro cung cấp dịch vụ kỹ thuật, rủi ro cung cấp các yếu tố đầu vào, rủi ro thiếu vốn kinh doanh, rủi ro quản lí điều hành dự án.... Hai phương pháp này được sử dụng tương hỗ với nhau để đánh giá toàn diện hơn rủi ro đối với dự án.
2.3. Nội dung thẩm định tài chính dự án.
Các nội dung của thẩm định tài chính luôn có quan hệ chặt chẽ với nhau, nội dung bao gồm: thứ nhất là thẩm định tổng dự toán vốn đầu tư và các nguồn tài trợ cũng như phương thức tài trợ vốn; thứ hai, thẩm định dòng tiền của dự án; thứ ba, thẩm định lãi suất chiết khấu đối với dự án; thứ tư, thẩm định các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả tài chính; thứ năm là đánh giá rủi ro trong dự án. Dựa trên các kết quả phân tích trên sẽ đưa ra các kết luận chung về tính khả thi về tài chính của dự án để làm căn cứ ra quyết định cho vay.
2.2.1. Thẩm định tổng dự toán vốn đầu tư và các nguồn tài trợ
Tổng mức dự toán vốn đầu tư là mức vốn đầu tư vào tài sản cố định và tài sản lưu động để thiết lập và đưa dự án vào hoạt động, bao gồm vốn cho chuẩn bị đầu tư, vốn thực hiện đầu tư, vốn cho giai đoạn kết thúc đầu tư, lãi vay và vốn lưu động ban đầu cho sản xuất hoặc vốn lưu động bổ sung. Xác định tổng mức dự toán và độ biến động của chỉ tiêu này có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình thực hiện dự án đầu tư. Phương pháp sử dụng để tính toán tổng vốn đầu tư thường kết hợp giữa phương pháp cộng chi phí và phương pháp định mức dựa trên việc so sánh đối chiếu với các dự án cùng loại khác hoặc những dự án tương tự; đối với những dự án mới thì việc xác định tổng mức vốn đầu tư sẽ trở nên khó khăn hơn vì chưa có cơ sở để phân tích mà chủ yếu dựa trên những ước lượng.
Dự toán tốt tổng vốn đầu tư sẽ đảm bảo dự án được diễn ra đúng tiến độ, đảm bảo khối lượng công việc, giúp chủ đầu tư chủ động các tình huống có thể diễn ra nếu có sự biến động ảnh hưởng tới dự án. Đồng thời là cơ sở để các ngân hàng quyết định mức vốn cho vay, thời gian, quy mô, phương thức giải ngân vốn vay. Nếu dự toán mức vốn đầu tư sai lệch nhiều so với thực tế phản ánh không chính xác các chỉ tiêu tài chính của dự án, ngoài ra nếu quá thấp thì dự án sẽ thiếu hụt vốn, lâm vào tình trạng trì trệ, không thực hiện được dự án; nếu dự toán vốn quá cao thì sẽ gây nên tình trạng lãng phí, sử dụng vốn không hiệu quả. Vì vậy, khi thẩm tra tổng dự toán vốn đầu tư, tại SGD luôn chú ý kiểm tra tính chính xác, đầy đủ các chỉ tiêu, thông số chi phí của dự án.
Không chỉ mức dự toán mà cơ cấu nguồn tài trợ cũng có ảnh hưởng tới kết quả các chỉ tiêu tài chính, bởi xác định nguồn tài trợ cho dự án sẽ xác định cơ cấu vốn cho dự án. Một dự án có cơ cấu vốn càng tối ưu, càng sử dụng được lợi thế của đòn bẩy tài chính thì dự án càng có hiệu quả. Thông thường, mỗi một dự án được tài trợ bởi hai nguồn chính là vốn chủ sở hữu và vốn vay, trong đó lượng vốn vay thường chiếm tỷ trọng lớn. Việc xác định mức vốn đầu tư theo từng giai đoạn dự án là căn cứ để xây dựng bảng cân đối vốn đầu tư đảm bảo khả năng huy động vốn phải luôn lớn hơn nhu cầu sử dụng vốn. Khi thẩm định các nguồn tài trợ cho dự án phải thẩm định cả cơ sở pháp lí và khả năng huy động của các bên.
Cấu trúc vốn là sự kết hợp giữa vốn vay và vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn dài hạn (D/E), nó ảnh hưởng tới việc xây dựng dòng tiền của dự án và lựa chọn lãi suất chiết khấu hợp lý. Đối với việc xác định dòng tiền phù hợp của dự án, cùng một khoản lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT) thì việc sử dụng nợ theo một cơ cấu thích hợp sẽ làm tăng giá trị của dự án cũng như của doanh nghiệp.
2.3.2. Thẩm định dòng tiền của dự án
Dòng tiền của dự án là sự chênh lệch giữa dòng tiền vào và dòng tiền ra của dự án theo từng năm.
Dòng tiền từng năm được kí hiệu là CFi, tùy vào cơ cấu vốn và phương thức trả nợ thì có cách xác định CFi khác nhau. Trong trường hợp này ta chỉ đề cập tới cơ cấu vốn hỗn hợp và do trong thực tế có hai phương thức thanh toán nên dòng tiền được xác định như sau:
+ Thanh toán theo niên kim tức là xem trả lãi và vốn vay hàng năm là một dòng tiền ra
CFi = LNST + Khấu hao TSCĐ – trả gốc vay
CFo = vốn chủ sở hữu
+ Thanh toán theo phương thức lãi trả hàng năm, vốn trả vào năm cuối đời dự án
CFi = LNST + Khấu hao TSCĐ + lãi vay
CF0 = vốn chủ sở hữu + vốn đi vay
Với các dự án có quy mô tương đối lớn tại SGD hiện nay, để đảm bảo tính an toàn thì thường yêu cầu chủ đầu tư trả gốc và lãi vào cuối các năm theo yêu cầu về thời gian, quy mô.
Để đảm bảo tính chính xác trong việc tính toán doanh thu, chi phí cần đảm bảo sự đầy đủ về các tiêu chí thực thu, thực chi cũng như xác định hợp lý doanh thu, chi phí dựa trên cơ sở so sánh với thực tế hoặc cân đối với giá thị trường. Doanh thu không chỉ có thu từ sản phẩm chính mà còn bao gồm khoản thu từ sản phẩm phụ, phế liệu, phế phẩm, thu từ thanh lí. Khi xác định, công tác thẩm định luôn chú trọng vào cách tính khấu hao và cách xử lý lạm phát.
Hiện nay có rất nhiều phương pháp tính khấu hao khác nhau như khấu hao đều, khao hao giảm dần theo giá trị còn lại... Mỗi phương thức khấu hao lại có cách xác định thời gian và các khoản mục tính khấu hao khác nhau từ đó sẽ làm thay đổi chi phí và dòng tiền của dự án. Lạm phát là yếu tố gây ảnh hưởng lớn tới kết quả của dự án, ước lượng tỷ lệ lạm phát là điều kiện cần thiết tuy nhiên cũng cần phải chú ý rằng lạm phát không chỉ tác động lên yếu tố đầu vào của dự án mà còn tác động lên sản phẩm đầu ra của dự án; vì vậy điều kiện đủ khi xét đến tác động của lạm phát là cần đánh giá được mức độ tác động lên doanh thu và chi phí của dự án. Nếu sự tác động là tương đối đồng đều thì ta có thể bỏ qua yếu tố lạm phát, nếu lạm phát tác động làm tăng doanh thu lớn hơn hay nhỏ hơn tới chi phí thì khi đó cần có sự đánh giá, ước lượng rõ ràng hơn để đảm bảo tính chính xác của các chỉ tiêu tài chính.
Bên cạnh đó việc tính hợp lý việc phân bổ chi phí khác cũng được quan tâm chi phí quản lý chung (chi phí quản lý, chi phí hành chính, chi phí bảo hiểm, tiền lương...), các khoản thuế, nhất là thuế đầu vào, đầu ra, khoản thuế được khấu trừ. Tùy vào đặc thù của từng dự án mà có sự điều chỉnh phù hợp với các chi phí này, như các dự án có sản phẩm cần nhập khẩu nguyên vật liệu, xuất khẩu sản phẩm....
2.3.3. Thẩm định lãi suất chiết khấu
Lãi suất chiết khấu là chi phí cơ hội của vốn đầu tư, là cái giá mà chủ sở hữu vốn đó (nói chung cho cả chủ đầu tư và ngân hàng) phải trả khi đầu tư vào dự án hay nói cách khác đây là suất sinh lời yêu cầu tối thiểu mà dự án phải đạt được. Việc xác định chính xác lãi suất chiết khấu là điều tối quan trọng để đánh giá độ tin cậy của NPV tuy nhiên vấn đề xác định lãi suất chiết khấu của các dự án hiện nay vẫn đang còn khá đơn giản, chủ yếu vẫn dựa trên lãi suất cho vay tức là chỉ xét trên quan điểm của ngân hàng, điều này đồng nghĩa với việc đồng nhất rủi ro của ngân hàng là rủi ro của dự án và của doanh nghiệp . Đứng trên góc độ doanh nghiệp khi tiến hành xác định lãi suất chiết khấu thường mang tính chủ quan, ước lượng nhiều hơn là đánh giá thực tế, các doanh nghiệp thường lấy mức lãi suất tiền gửi trên thị trường ngân hàng để tính toán.
Các yếu tố tác động đến việc lựa chọn tỷ suất chiết khấu đó là phân tích rủi ro, khả năng sinh lời của dự án và việc lựa chọn cơ cấu vốn. Nếu rủi ro của dự án bằng rủi ro của doanh nghiệp thì suất chiết khấu là chi phí cơ hội của vốn đầu tư, nếu độ rủi ro của dự án cao hơn độ rủi ro của doanh nghiệp thì suất sinh lời tối thiểu của dự án phải cao hơn suất sinh lời của doanh nghiệp. Lãi suất chiết khấu thường được xác định là lãi suất bình quân của các nguồn vốn tài trợ dự án bao gồm vốn vay và vốn chủ sở hữu.
Chính vì vậy, để đảm bảo tính chính xác của lãi suất chiết khấu thì các dự án tại SGD tiến hành thẩm định lại thông qua việc đánh giá xếp hạng doanh nghiệp theo 5 bước bao gồm các khía cạnh như lĩnh vực kinh doanh, quy mô, đánh giá các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính.
Bước 1: xác định ngành, lĩnh vực và cơ cấu doanh thu theo ngành nghề, lĩnh vực
Có 4 nhóm ngành, lĩnh vực là nông – lâm – ngư nghiệp, công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, cơ sở phân loại là dựa vào kết quả hoạt động kinh doanh chính của doanh nghiệp đó. Việc xác định ngành, lịch vực kinh doanh là cơ sở cho các bước tiếp theo.
Bước 2: chấm điểm quy mô
Đây là bước xác định loại doanh nghiệp lớn, trung bình hay nhỏ dựa trên tổng điểm của các tiêu chí về vốn kinh doanh, lao động, doanh thu thuần và giá trị nộp ngân sách.
Bước 3: chấm điểm các chỉ tiêu tài chính
(Nội dung đã được trình bày ở phần thẩm định nội dung tài chính của khách hàng)
Bước 4: chấm điểm các chỉ tiêu phi tài chính
Bao gồm các tiêu chí:
+ Các chỉ tiêu vĩ mô liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp: môi trường kinh doanh, chu kỳ kinh doanh, triển vọng tăng trưởng của ngành,áp lực cạnh tranh, nguồn cung ứng đầu vào.
+ Các chỉ tiêu liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp: thời gian hoạt động của doanh nghiệp, đánh giá về sản phẩm, thị phần, công nghệ, tính ổn định của nguồn nguyên liệu, địa điểm kinh doanh, loại hình doanh nghiệp, trình độ - tư cách – kinh nghiệm nhà lãnh đạo.
+ Uy tín trong quan hệ tín dụng với tất cả các TCTD: trả nợ đúng hạn, số lần cơ cấu lại thời hạn trả nợ, tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ vay của doanh nghiệp, tỷ lệ lãi quá hạn trong vòng 12 tháng và số lần cam kết mất khả năng thanh toán (L/C, bảo lãnh, cam kết khác...)
+ Mức độ quan hệ với MSB: mức độ quan hệ tín dụng, doanh thu chuyển qua MSB/ tổng doanh thu trong 12 tháng qua, giá trị tài sản bảo đảm tại MSB/ dư nợ tại MSB, cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác theo yêu cầu của MSB.
Bước 5: tổng hợp điểm và xếp hàng khách hàng
Sau khi tổng hợp điểm, phần mềm sẽ tự động tính toán để xếp hạng doanh nghiệp. Các thang hạng giảm dần như AAA, AA, A, BBB, BB, B, CCC, CC, C.
Có thể thấy các tiêu chí khi đánh giá doanh nghiệp rất đầy đủ, nó đã bao gồm tất cả mọi khía cạnh từ đánh giá các rủi ro tài chính, rủi ro phi tài chính, khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Vì vậy, đối với từng hạng doanh nghiệp mà có mức lãi suất cho vay nhất định. Từ đây, ngân hàng sẽ quyết định lãi suất chiết khấu theo công thức sau:
Lãi suất chiết khấu = lãi suất vay + % biên độ lãi ròng của MSB
Tuy nhiên công thức này vẫn chưa xác định lãi suất cho vay dựa trên chi phí cơ hội của vốn chủ sở hữu.
2.3.4. Thẩm định chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án đầu tư
Trong quá trình lập dự án khi quyết định đầu tư khách hàng thường dựa trên kết quả của hệ thống các chỉ tiêu tài chính như NPV, IRR, PP. Tuy nhiên với mong muốn được ngân hàng chấp nhận cho vay vốn nên các con số này thường cố tình được sửa đổi, hơn nữa phương pháp tiến hành còn đơn giản nên việc thẩm định, tính toán lại các chỉ tiêu tài chính là rất quan trọng.
Chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng NPV (Net Present Value)
Đây là chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả dự án đầu tư vì nó thể hiện giá trị tăng thêm cho chủ đầu tư, là chênh lệch giữa tổng giá trị hiện tại các dòng tiền ròng kỳ vọng thu được với giá trị hiện tại của vốn đầu tư bỏ ra tại mốc 0. Công thức xác định NPV như sau:
NPV = - CFO
Trong đó: r là lãi suất chiết khấu, giả định không thay đổi qua các năm
n là tuổi thọ của dự án
Hiện nay có thể tính NPV trên phần mềm Excel bằng cách nhập các thông số thông qua hàm NPV:
NPV = (rate, value1,value2...)
Rate là r – lãi suất chiết khấu
Value1, value 2 là dòng tiền hàng năm.
Ý nghĩa kinh tế của NPV như sau:
+ NPV > 0 nghĩa là dự án có suất sinh lời cao hơn chi phí cơ hội của vốn, tức là không những bù đắp được vốn đầu tư bỏ ra mà còn tạo thêm lợi nhuận, lợi nhuận này được xem xét trên cơ sở giá trị thời gian của tiền.
+ NPV = 0 nghĩa là dự án có suất sinh lời bằng với chi phí chi phí cơ hội của vốn. Lúc này, dự án có thể vẫn được chấp nhận.
+ NPV < 0 nghĩa là dự án có suất sinh lời thấp hơn chi phí cơ hội của vốn, lúc này dự án bị thua lỗ.
Sử dụng chỉ tiêu NPV để đánh giá dự án có nhiều điểm thuận lợi như có tính đến giá trị thời gian của tiền, xem xét toàn bộ dòng tiền qua các năm tuy nhiên nó lại không phản ánh được tỷ lệ so với tổng vốn đầu tư hay lợi nhuận của doanh nghiệp, NPV rất phụ thuộc vào cách tính dòng tiền, lãi suất chiết khấu được lựa chọn, do đó yêu cầu đặt ra là sự chính xác trong việc ước lượng dòng tiền và lãi suất chiết khấu.
Chỉ tiêu tỷ suất hoàn vốn nội bộ IRR (Internal Rate of Return)
IRR là lãi suất chiết khấu để NPV bằng 0, vì vậy có thể nói IRR là mức giới hạn cao nhất của lãi suất chiết khấu, đồng thời nó cũng biểu hiện độ an toàn của phương án được chọn.
+ Khi r ≤ IRR thì lúc đó NPV ≥ 0, dự án được chấp nhận
+ Khi r > IRR thì NPV < 0, dự án có tỷ suất hoàn vốn nội bộ nhỏ hơn suất sinh lời yêu cầu nên sẽ bị loại bỏ.
Thông thường IRR trong dự án của khách hàng thường mắc phải sai lầm đó là coi lãi suất của ngân hàng chính là lãi suất chiết khấu, điều này vô hình chung đã coi rủi ro của ngân hàng chính là rủi ro của dự án, thực tế là dự án luôn có độ rủi ro lớn hơn vì thế đã nới rộng độ an toàn cho IRR và có thể gây ra rủi ro.
Để tính toán chỉ tiêu này có thể tính bằng 2 phương pháp nội suy và ngoại suy. Tuy nhiên, để đảm bảo tiết kiệm thời gian, công sức và tăng cường độ chính xác thì tại ngân hàng hiện nay sử dụng nhiều phần mềm vi tính chuyên biệt trên Excel, qua việc sử dụng hàm IRR và nhập các thông số của dự án vào sẽ tự động tính toán để cho ra kết quả.
IRR = (values,guess)
Values là dãy chứa giá trị thu được qua các kỳ, tương đương với dãy value1, value2...
Guess là giá trị dự tính
Việc sử dụng chỉ tiêu IRR để đánh giá dự án đầu tư có ưu điểm là tính đến giá trị thời gian của tiền, có thể tính IRR mà không phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu. Bên cạnh đó, nhược điểm của chỉ tiêu này là chưa tính đến sự thay đổi của lãi suất chiết khấu. Chúng ta đang giả định lãi suất chiết khấu là không đổi, tuy nhiên thực tế là lãi suất chiết khấu là chi phí cơ hội của chủ sở hữu vốn nên dĩ nhiên nó sẽ thay đổi theo thời gian. Để khắc phục nhược điểm này, hàng năm các cán bộ tín dụng đã tiến hành đánh giá lại dự án theo điều chỉnh lãi suất chiết khấu.
Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn PP (Payback Period)
Đây là khoảng thời gian để chủ đầu tư thu hồi được số vốn đã đầu tư vào dự án. Cơ sở để chấp nhận dự án dựa theo tiêu chí này đó là thời gian hoàn vốn phải thấp hơn hoặc bằng tuổi thọ của dự án. Tuy nhiên PP lại không xem xét đến khả năng tạo ra thu nhập sau khi đã thu hồi vốn đầu tư.
Theo truyền thống, để tính toán chỉ tiêu PP thường được xác định theo 2 phương pháp. Thứ nhất là thời gian hoàn vốn không chiết khấu được tính dựa trên dòng tiền không có chiết khấu.
Công thức: PP1 = k +
Thứ hai là thời hoàn vốn có chiết khấu tức là trên cơ sở dòng tiền có chiết khấu
Công thức: PP2 = k +
Trong đó: k là số năm để dòng tiền ròng tích lũy của dự án < 0 nhưng sẽ dương khi đến năm n+1.
Nói chung không có sự chênh lệch quá lớn giữa hai con số này trong dự án, tuy nhiên để đảm bảo đúng nguyên tắc giá trị thời gian của tiền và đảm bảo độ an toàn cao trong việc đánh giá thời gian thu hồi vốn của dự án thì PP2 vẫn có độ chính xác hơn vì thông thường PP2 < PP1, nhưng đây chỉ hoàn toàn kết quả của cả quá trình ước lượng nên việc quản lí nguồn vốn sau cho vay là rất cần thiết, đảm bảo cho việc thu hồi nợ đúng hạn hoặc trước hạn nếu có khả năng xảy ra.
Cuối cùng, để đảm bảo độ an toàn của các chỉ tiêu hiệu quả tài chính, cần phải kiểm tra độ nhạy của dự án xét theo các chỉ tiêu này.
2.3.5. Đánh giá rủi ro dự án đầu tư
Thực tế cho thấy có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng và tác động đến dòng tiền dự án theo những chiều hướng và mức độ khác nhau. Tuy nhiên khâu lập dự án ở các doanh nghiệp thường ít khi đánh giá rủi ro và phân tích kỹ lưỡng nội dung này. Vì vậy việc thẩm định đánh giá rủi ro dự án luôn được quan tâm và đang ngày càng hoàn thiện về cả phương pháp lẫn nội dung. Hiện nay, khi thẩm định tài chính dự án chủ yếu áp dụng phương pháp phân tích độ nhạy và phương pháp triệt tiêu rủi ro; trong đó phương pháp phân tích độ với sự trợ giúp của các thiết bị và phần mềm hiện nay phân tích độ nhạy được tiến hành theo nhiều chiều, với giả định cùng một lúc dự án chịu tác động của nhiều yếu tố, theo chiều hướng khác nhau với nhiều mức độ. Từ quá trình phân tích trên sẽ đưa ra kết luận về tầm ảnh hưởng của từng yếu tố để có biện pháp quản lí nhằm hạn chế sự tác động xấu của yếu tố đó.
Để minh hoạ cho việc thẩm định dự án nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng, dưới đây sẽ trình bày dự án Đóng mới tàu hàng khô 12.500 DWT
2.4. Thẩm định tài chính qua dự án Đóng mới tàu hàng khô 12.500 DWT
Thẩm định khách hàng
Thẩm định tư cách pháp lí
Chủ đầu tư: Công ty Cổ phần Vận tải Biển Hải Âu (tên tiếng Anh là Seagull Shipping Company, gọi tắt là SESCO) được thành lập theo quyết định số 29/2000/QĐ-TTg ngày 28/02/2000 của Thủ tướng Chính phủ và hoạt động theo Luật doanh nghiệp ngày 12/6/1999. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 4103000083 do Sở kế hoạch và đầu tư TP Hồ Chí Minh cấp ngày 20/06/2000. Tổng giám đốc hiện nay là ông Trần Văn Lâm.
Là một doanh nghiệp ngoài quốc doanh, lĩnh vực kinh doanh của công ty là:
· Vận tải biển trong và ngoài nước, giao nhận vận tải đa phương thức, môi giới hàng hải
· Đại lý cung ứng tàu biển
· Kinh doanh xuất nhập khẩu
Vốn điều lệ: 15.000.000.000 đồng. Theo tiến trình tăng vốn điều lệ, trong năm 2005 sẽ tăng vốn điều lệ lên 40%, tức 21.000.000.000 đồng.
Tỷ lệ cổ phần nhà nước chiếm 30% vốn điều lệ. Các cổ đông sáng lập có trên 10% vốn điều lệ là công ty Vận tải biển Việt Nam, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam, Ngân hàng Hàng Hải Việt Nam và SESCO còn là thành viên của Tổng công ty Hàng hải Việt Nam..
Xuất phát điểm từ tháng 5/2000 công ty hoạt động với một con tàu Southern Star trọng tải là 6.500 DWT (đóng năm1983), vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu trong nước và các nước Đông Nam Á. Đến nay, sau 7 năm hoạt động, từ một con tàu công ty đã không ngừng phát triển và trẻ hóa đội tàu. Hiện nay, công ty có 3 con tàu có tổng trọng tải khoảng 26.733 DWT, đó là Southern Star (6.505 DWT), Northren Star (7.200 DWT) và Sea Dragon (6.863 DWT). Độ tuổi trung bình của đội tàu là 15,5.
Thị phần * Thị trường trong nước (nội địa): 1% cả nước
* Thị trường Quốc tế (xuất khẩu): 99% các quốc gia
Mô hình tổ chức hoạt động tuơng đối hiệu quả, gọn nhẹ phù hợp với quy mô và lĩnh vực kinh doanh. Tổng nhân viên của công ty hiện có 13 người thuộc khối văn phòng trong đó 9 người ở vị trí quản lý, đội ngũ sĩ quan thuyền viên thuộc định biên 70 người. Đội ngũ Cán bộ - Nhân viên và sỹ quan, Thuyền viên dày dạn kinh nghiệm đã tạo nên một thương hiệu uy tín trong ngành vận tải biển. Các phòng ban của công ty bao gồm các phòng: khai thác, kỹ thuật, tài chính – kế toán, hành chính. Ban điều hành có bề dày kinh nghiệm quản lý, điều hành trong lĩnh vực kinh doanh biển
Đánh giá: công ty có hồ sơ pháp lí đầy đủ, hợp lệ và có đủ tư cách pháp nhân để giao dịch với ngân hàng.
Thông tin quan hệ tín dụng với MSB
SESCO có uy tín lâu năm trong quan hệ tín dụng với MSB từ năm 2000, thông qua việc mở tài khoản tiền gửi và thực hiện các giao dịch tại chi nhánh MSB TP Hồ Chí Minh. Công ty có uy tín trong quan hệ tiền gửi, tiền vay, trả nợ gốc và trả lãi vay đầy đủ, đúng hạn. Bên cạnh đó, do hoạt động kinh doanh ổn định và có lãi nên công ty đã chủ động trích khấu hao nhanh, trả nợ trước hạn.
Cho đến thời điểm báo cáo, công ty vay vốn MSB để đầu tư 2 con tàu Northren Star (7.200 DWT) và Sea Dragon (6.863 DWT) với số dư 1.429.530 USD, tổng số vốn vay 2.900.240 USD. Tàu Northren Star vay tín dụng của MSB 2.340.000 USD (89% tổng vốn đầu tư), đưa vào hoạt động từ 1/7/2002, thời hạn thanh toán 8 năm, hạn trả nợ 6/2010 nhưng theo kế hoạch sẽ hoàn tất trả hết trong năm, tức là vượt 56,25% về thời gian. Tàu Sea Dragon giá trị 4.000.000 USD, vay MSB 84,37%, đưa vào hoạt động từ 16/11/2004, thời hạn thanh toán 4 năm, nhưng theo kế hoạch sẽ hoàn tất vào tháng 12/2007, vượt 24% thời hạn..
Thẩm định tình hình tài chính
Bảng 1.7: TÓM TẮT TÀI CHÍNH GIAI ĐOẠN 2002 – 2005
Đơn vị: triệu đồng
2002
2003
2004
6/2005
Doanh thu từ đội tàu
27.004,6
48.965,6
69.487,7
26.072
Tổng tài sản
TSLĐ và đầu tư ngắn hạn
TSCĐ và đầu tư dài hạn
54.452
6.376
48.076
48.425
2.612
45.813
93.076
3.850
89.226
78.323
3.748
74.575
Nguồn vốn
Nợ phải trả
Vốn chủ sở hữu
54.452
37.777
16.675
48.425
30.793
17.632
93.076
74.715
18.361
78.323
60.728
17.595
Lợi nhuận sau thuế
1.194
2.186
2.481
1.165
TSCĐ/ tổng TS
0,88
0,95
0,96
0,95
Nợ phải trả / nguồn vốn
0,69
0,63
0,8
0,77
Khả năng thanh toán
+ thanh toán hiện hành
+ thanh toán nhanh
+ thanh toán nợ dài hạn
1,57
0,01
1,21
1,25
0,06
1,27
Khả năng sinh lời
ROE
ROA
0,02
0,072
0045
0,12
0,027
0,135
0,015
0,07
Nguồn: phòng KHDN - SGD
Giá trị tài sản cố định luôn chiếm tỷ trọng từ 88-95% tổng giá trị tài sản, cơ cấu này hoàn toàn phù hợp với lĩnh vực kinh doanh và khai thác tàu biển. Năm 2002, 2004 giá trị TSCĐ tăng là do công ty đầu tư đóng thêm tàu, còn năm 2003, 2005 giá trị này giảm là do công ty thực hiện trích khấu hao nhanh gấp 2 lần. Giá trị tài sản lưu động (TSLĐ) và các khoản đầu tư chiếm tỷ trọng nhỏ, công ty chưa có hoạt động đầu tư do nguồn VCSH do đang tập trung vào hoạt động khai thác tàu và do vốn này còn nhỏ. Tình hình nợ không có biến động lớn, khả năng thanh toán ở mức độ trung bình, không có nợ quá hạn hay nợ khó đòi. Hàng tồn chủ yếu là xăng dầu, mức giá xăng dầu thường có nhiều biến động nhưng giá trị biến động không nhiều, chiếm 1-1,5% tổng tài sản và khoảng 30% TSLĐ. Các khoản phải trả chiếm khoảng 63-80% nguồn vốn trong đó nợ dài hạn chiếm khoảng 56%, cơ cấu vốn cho thấy doanh nghiệp sử dụng khá tốt công cụ đòn bẩy tài chính. Doanh thu năm 2004 tăng gần 5 lần so với năm 2000, 80% doanh thu là từ khai thác các tuyến vận tải biển ngoài nước. Tốc độ tăng doanh thu đạt khoảng 64%, chi phí là 60,5%, lợi nhuận bình quân khoảng 36,5%. Điều này cho thấy tính thành công trong chiến lược kinh doanh của công ty. Tỷ suất sinh lời tương đối ổn định, tỷ suất sinh lời trên VCSH khoảng 7-14 %, tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản hoặc doanh thu đều đạt khoảng 2-5%. Nói chung các hệ số tài chính cho thấy công ty sử dụng tài sản có hiệu quả, hoạt động kinh doanh tốt và tăng trưởng ổn định qua các năm.
B. Thẩm đinh dự án đầu tư đóng mới tàu hàng khô 12.500 DWT
Chủ đầu tư: Công ty cổ phần VTB Hải Âu
Nơi đóng: Nhà máy đóng tàu Hạ Long.
Thẩm định điều kiện pháp lí của dự án
Dự án có đầy đủ hồ sơ tài liệu thể hiện tính pháp lí, hợp pháp của dự án theo quy định của pháp luật hiện hành. Trong đó có hai văn bản quan trọng đó là nghị quyết của HĐQT và Đại hội đồng cổ đông công ty cổ phần vận tải biển Hải Âu về việc đầu tư đóng mới tàu SEADREAM, giá trị mua và nguồn vốn đầu tư vay MSB. Thứ hai là hợp đồng đóng tàu mới giữa công ty cổ phần vận tải biển Hải Âu và NM đóng tàu Hạ Long.
Thẩm định khía cạnh thị trường
Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển theo xu thế hội nhập, kim ngạch xuất nhập khẩu có xu hướng tăng trưởng cao, năm 2003, 2004 kim ngạch xuất khẩu đạt 20 tỷ USD và 26 tỷ USD; kim ngạch nhập khẩu đạt tương ứng 25 tỷ và 31 tỷ USD. Vận chuyển hàng hóa là cầu nối, phương tiện hỗ trợ hoạt động xuất, nhập khẩu. Trong đó, vận chuyển bằng đường biển là phương án mang hiệu quả kinh tế cao với số lượng chuyên chở lớn, an toàn. Nhu cầu vận chuyển tăng từ 12-15%/năm:
Bảng 1.8: SẢN LƯỢNG VẬN TẢI ĐƯỜNG BIỂN CỦA TỔNG CÔNG TY HÀNG HẢI VIỆT NAM
Đơn vị: tấn
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Sản lượng vận tải
Vận tải trong nước
Vận tải nước ngoài
11.240.875
7.684.892
3.452.665
12.199.230
9.104.4._. chỉ đạo của Chính Phủ và NHNN, cũng như của ngân hàng MSB, tích cực thực thi chính sách tiền tệ hỗ trợ vốn và dịch vụ tiết kiệm chi phí tối đa nhằm chia sẽ khó khăn với khách hàng sản xuất kinh doanh thông qua các chính sách lãi suất, phí, ưu tiên khách hàng xuất khẩu, sản xuất chế biến nông thủy sản, doanh nghiệp vừa và nhỏ, góp phần đòn bẩy tăng trưởng kinh tế.
Tiếp tục tăng trưởng với các chỉ tiêu cơ bản trong 5 năm tới:
+ Tổng dư nợ hàng năm tăng: 40 - 50%
+ Nguồn vốn huy động tăng hàng năm : 40 -50%
+ Nợ quá hạn dưới 5%
Định hướng công tác huy động tiền gửi
Trong thời gian tới tiếp tục duy trì và phát huy những biện pháp huy động vốn hữu hiệu hiện tại, củng cố uy tín và đưa ra những hình thức phong phú, hấp dẫn để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ dân cư và các tổ chức kinh tế, xã hội; quảng bá sâu rộng hình ảnh tới mọi tầng lớp nhân dân; tốc độ tăng trưởng trong 5 năm tới đạt trên 50% mỗi năm.
Định hướng hoạt động cho vay
Trong công tác cho vay cần tiếp tục mở rộng các mối quan hệ để thu hút và tìm kiếm các dự án khả thi nhằm đẩy mạnh
Công tác cho vay, phục vụ tốt hơn sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Tiếp tục tìm kiếm, mở rộng những khách hàng mới triển vọng, không phân biệt loại hình sở hữu, quy mô kinh doanh, đồng thời giữ mối quan hệ tốt với các khách hàng truyền thống.
Đưa ra những hình thức cho vay dân cư và tổ chức phong phú, tiện ích, phục vụ nhu cầu của đời sống. Phát triển các sản phẩm mới có sự hỗ trợ của các chương trình khuyến mãi có trọng điểm đồng thời tích cực quảng bá các sản phẩm tới các tầng lớp dân cư
Tiến hành huy động vốn, tăng trưởng nguồn vốn theo hướng đa dạng hóa nguồn vốn. Chủ động tìm kiếm khách hàng có tiềm năng về vốn, cơ cấu lại kỳ hạn và lãi suất, tận dụng cơ hội thị trường để giảm chi phí huy động vốn, đảm bảo và vượt chỉ tiêu kế hoạch.
Đổi mới cải tiến chất lượng dịch vụ thủ tục giao dịch và phong cách phục vụ nâng cao tinh thần tác phong trách nhiệm của các bộ phận giao dịch chuyên nghiệp và tạo ấn tượng với khách hàng.
Tiếp cận khai thác mở rộng thị trường tín dụng nhằm vào các khách hàng có tình hình sản xuất kinh doanh ổn định phát triển sản xuất ổn định.
2. Định hướng công tác thẩm định và thẩm định tài chính dự án
- Hoàn thiện và bổ sung đầy đủ mọi nội dung dựa trên việc phân tích, đánh giá khách quan, chính xác, đảm bảo độ an toàn cao trong công tác thẩm định. Số lượng và chất lượng dự án phải đồng thời được chú trọng nâng cao.
- Thẩm định tài chính phù hợp với các chủ trương chính sách của nhà nước, các Bộ các ngành liên quan. Tuân thủ các quy định về thẩm định của ngân hàng Hàng Hải đồng thời phát huy lợi thế của SGD.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ thẩm định phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng. Thường xuyên tổ chức điều hành, kiểm tra, hướng dẫn công tác thẩm định tài chính tại chi nhánh ngân hàng
Định hướng công tác thẩm định tài chính
- Củng cố nhận thức đúng đắn về vai trò và nội dung của thẩm định tài chính trong công tác thẩm định cũng như trong hoạt động tín dụng và uy tín của ngân hàng.
- Cần tiếp tục hoàn thiện nội dung và phương pháp, tổ chức thẩm định ngày càng khoa học, kinh tế; bên cạnh đó tiếp tục tăng cường công tác quản lí sau cho vay để nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án, đảm bảo an toàn nguồn vốn và khả năng thu hồi nợ, mục tiêu tỉ lệ nợ xấu không quá 5% tổng dư nợ, hạn chế tối đa nợ quá hạn loại 3.
Đứng trước những kết quả đã đạt được, những hạn chế còn tồn tại và dựa trên cơ sở định hướng phát triển cho giai đoạn tiếp theo tôi xin đưa ra một số giải pháp và kiến nghị cho công tác thẩm định tài chính dự án sau đây:
II. Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án tại Sở giao dịch.
1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thông tin dữ liệu tín dụng hỗ trợ thẩm định tài chính dự án
Hệ thống thông tin hỗ trợ cho ngân hàng trong quá trình thẩm định dự án đang rất còn hạn chế, manh mún, đặc biệt là đối với công tác thẩm định tài chính dự án như việc thiếu số liệu đánh giá ngành, lĩnh vực, số liệu thị trường về giá cả và sự biến động của giá cả cũng như nhu cầu tiêu dùng. Thông tin không những ảnh hưởng đến hiệu quả thẩm định tài chính mà còn là công cụ cạnh tranh hữu hiệu với các ngân hàng khác, nguồn thu thập thông tin thể hiện trình độ khai thác, mối quan hệ với các tổ chức có liên quan. Nếu lượng thông tin không đầy đủ sẽ không đủ dẫn chứng thuyết phục để phản ánh đầy đủ mọi khía cạnh của dự án, đồng thời các kết luận sẽ không có độ chính xác cao.
Ngân hàng là một tổ chức tài chính có mối quan hệ rộng lớn với các tổ chức kinh tế trong xã hội, vì vậy cần thiết phải liên tục mở rộng hơn nữa các mối quan hệ này, nhất là đối với các hiệp hội ngành nghề để từ đó có được những thông tin cập nhật về xu hướng giá cả, thị trường, kỹ thuật, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp hiện nay.
Tuy nhiên, bản thân ngân hàng cũng cần phải tự hoàn thiện hệ thống thông tin nội bộ của mình, thiết lập hệ thống thu thập thông tin định kỳ trong toàn hệ thống. Nguồn lực cho cơ sở này chính là thông tin từ các chi nhánh của MSB trên toàn quốc, các chi nhánh sẽ thu thập thông tin về tình hình trên địa bàn sau đó sẽ được tổng hợp tại trụ sở để từ đó có được hệ thống thông tin về các ngành, lĩnh vực, địa phương phong phú như thông tin về tình hình kinh tế xã hội nói chung, các chính sách phát triển của Đảng, Nhà nước về tình hình đầu tư trong và ngoài nước, thông tin quy hoạch, chế độ tài chính với từng doanh nghiệp, chế độ khấu hao, chế độ ưu đãi cùng với các thông tư, văn bản pháp luật có liên quan, thông tin giá cả, sự biến động của thị trường. Để thực hiện được mục tiêu này, ngân hàng lại cần phải xây dựng hệ thống trang thiết bị đồng bộ và hơn hết là đội ngũ nhân viên có chuyên môn.
Những nguồn thông tin có thể tự khai thác như trên mới chỉ là điều kiện bổ sung trong hệ thống thông tin thẩm định, nguồn thông tin chính là thông tin từ phía doanh nghiệp. Như đã phân tích, nguồn thông tin doanh nghiệp cung cấp thường có độ tin cậy không cao, chính vì vậy để nâng cao chất lượng nguồn thông tin quan trọng này cần phải yêu cầu doanh nghiệp tuân thủ chặt chẽ các quy định về số liệu đồng thời nâng cao công tác thẩm định số liệu.
Ngân hàng cần yêu cầu doanh nghiệp trình đầy đủ các báo cáo tài chính, báo cáo thường niên của công ty bởi đây là những nguồn tin quan trọng, cập nhật nhất. Đối với những doanh nghiệp hoạt động lâu năm cần yêu cầu các báo cáo phải yêu cầu cung cấp số liệu ít nhất là 3 năm vì số liệu trong 2 năm sẽ không thể nói lên được xu thế phát triển của doanh nghiệp, còn đối với các doanh nghiệp mới hoạt động cần phải tăng cường công tác hỗ trợ cũng như công tác quản lí sau cho vay hơn nữa. Đồng thời quy định báo cáo phải có chứng nhận của tổ chức kiểm toán có uy tín kiểm tra tính xác thực của nguồn số liệu, quy định này rất cần thiết vì công tác kiểm toán hiện nay tại các doanh nghiệp chưa được quan tâm đúng mức, không phải doanh nghiệp nào cũng trung thực đối với các số liệu nộp cho ngân hàng, nếu không thì chính các cán bộ tín dụng phải có trách nhiệm trong việc kiểm định thông tin, có thể phối hợp với bộ phận kiểm toán bên ngoài hoặc lập nên ban kiểm toán riêng, chi phí do phía doanh nghiệp chịu hoàn toàn.
Bên cạnh các báo cáo tài chính thì báo cáo thường niên và các báo cáo nội bộ, báo cáo tài chính tổng hợp sẽ là công cụ đắc lực để ngân hàng kiểm tra sự thay đổi trong tình hình tài chính, nhân sự, quản lý của doanh nghiệp, nhất là đối với những công ty đang có vấn đề tài chính, chưa thể cân đối được thì sẽ có sự chậm trễ trong việc cung cấp các tài liệu trên.
Nguồn thông tin không kém phần quan trọng để thẩm định lại tư cách doanh nghiệp đó chính là thông tin từ phía các ngân hàng khác, sự hợp tác cung cấp thông tin giữa các ngân hàng là rất cần thiết, ngoài ra ngân hàng có thể khai thác thông tin tổng hợp cơ quan Thuế, từ CIC – trung tâm dữ liệu tín dụng Quốc gia. Qua nguồn thông tin này ngân hàng có thể kiểm tra quan hệ của doanh nghiệp với các ngân hàng, xem xét thiện chí hợp tác trả nợ, xem xét uy tín, vị trí của doanh nghiệp.
Cuối cùng, ngân hàng nên tiến hành thường xuyên hơn các hoạt động thực tế, khảo sát tình hình hoạt động của doanh nghiệp tại nơi sản xuất kinh doanh để có cái nhìn sâu sắc nhất về doanh nghiệp.
2. Tăng cường các phương pháp thẩm định tài chính hiện đại
Trên cơ sở số liệu thông tin đã thu thập được thì việc lựa chọn phương thức tiến hành, lựa chọn chỉ tiêu đánh giá, cách thức xử lí thông tin một cách khoa học tiên tiến, phù hợp với từng dự án cụ thể sẽ giúp cho việc thẩm định tài chính nhanh chóng, chính xác, tin cậy hơn.
Từ những kết quả cũng như hạn chế đã chỉ ra cho thấy phương pháp thẩm định phải mang đầy đủ mọi nội dung đề cập đến tất cả các vấn đề tài chính có liên quan khi đứng trên góc độ ngân hàng. Tiếp tục phát triển và hoàn thiện phương pháp hiện tại như trong quá trình đánh giá chi tiết dự án hay trong việc phân tích so sánh, đối chiếu, dự báo các chỉ tiêu cần đảm bảo được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ mọi nội dung, phân tích rủi ro, đánh giá độ nhạy trên nhiều chỉ tiêu cùng với đó phân tích kỹ lưỡng trên từng khía cạnh dựa trên những số liệu đã qua xử lí. Bên cạnh đó cần bổ sung thêm các phương pháp đánh giá rủi ro như phân tích tình huống, phân tích xác suất để phân tích khách quan hơn những rủi ro có thể xảy ra đối với dự án. Đây là những phương pháp đòi hỏi nhiều thông tin hơn nhưng kết quả lại rất đáng tin cậy. Qua phép mô phỏng cũng sẽ tự động tính toán và phân phối xác suất cho các tình huống có thể xảy ra để từ đó làm căn cứ để tính toán các chỉ tiêu kỳ vọng.
3. Tăng cường thẩm định thông tin khách hàng liên quan đến thẩm định tài chính dự án
Gần đây công tác phân tích các chỉ tiêu định tính đã có sự quan tâm thích đáng nhưng việc thực hiện nhiều khi vẫn chưa đạt yêu cầu như việc tìm hiểu thông tin doanh nghiệp, định hướng, chiến lược phát triển mục tiêu doanh nghiệp, trình độ, năng lực, chuyên môn của bộ máy quản lý vì chúng có ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng thực hiện và vận hành dự án, tức là ảnh hưởng đến dòng tiền dự án.
Thứ nhất là chú trọng hơn nữa công tác kiểm tra định hướng phát triển của doanh nghiệp, các cán bộ tín dụng phải xác định được vị trị hiện tại của doanh nghiệp trên thị trường trong phạm vi ngành, lãnh thổ, qua đó tìm hiểu nội dung, sự phù hợp, các điểm mạnh, yếu trong chiến lược phát triển của doanh nghiệp về sản phẩm, sản xuất, nhân sự, tài chính.... Các kế hoạch này cần đạt được sự phù hợp với nhiệm vụ của công ty cũng như với môi trường kinh doanh, lĩnh vực, địa bàn hoạt động. Bên cạnh đó cần đánh giá môi trường hoạt động của doanh nghiệp, đánh giá mức độ cạnh tranh,thị phần, đánh giá mức hoạt động của ngành.
Nội dung thứ hai đó là thẩm định ban quản lý doanh nghiệp vì thực chất hoạt động cho doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng chính là mối quan hệ giữa ngân hàng và bộ máy quản lý, chính họ mới là người trực tiếp đưa ra kế hoạch và sử dụng nguồn vốn vay. Ngoài việc thẩm tra năng lực pháp lí, tư cách của người đứng đầu, các cán bộ tín dụng cũng cần phải nắm bắt được các thông tin về tư cách, danh tiếng, trình độ chuyên môn, khả năng quản lý, tầm nhìn của đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp, nhất là phải quan tâm tới cơ cấu bộ máy và đội ngũ cán bộ kế cận được đào tạo để kế nhiệm bởi dự án thường kéo dài trong nhiều năm và khả năng thay đổi nhân sự trong bộ máy quản lý là hoàn toàn có thê xảy ra.
Để khai thác được nguồn thông tin này phụ thuộc rất nhiều và khả năng thu thập, nắm bắt, đánh giá của cán bộ tín dụng.
4. Hoàn thiện nội dung thẩm định tài chính
Hiện nay việc phân tích các chỉ tiêu định lượng hiệu quả tài chính dự án đã được thực hiện khá đầy đủ và bài bản tuy nhiên những hạn chế trong việc xác định tổng vốn đầu tư, dòng tiền, lãi suất chiết khấu, phân tích và đánh giá rủi ro.
Thứ nhất, trong cơ cấu tổng vốn đầu tư có rất nhiểu khoản mục, không chỉ thẩm định sự đầy đủ mà quan trọng hơn hết là nguồn gốc và sự chính xác của chúng. Tính chính xác tổng vốn đầu tư cán bộ thẩm định phải căn cứ vào các định mức kinh tế kỹ thuật của ngành, xem xét các dự án tương tự đã thực hiện trong thời gian gần nhất. Hiện nay thường hay thiếu sót khoản vốn lưu động ròng và nguồn vốn dự phòng phục vụ cho nhu cầu sản xuất của dự án. Việc dự tính thiếu vốn đầu tư làm phát sinh vốn trong quá trình thực hiện và từ đó kéo dài thời gian dự án, ảnh hưởng đến cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp. Vì vậy, khi tiến hành thẩm tra, ngân hàng cần chú ý tính toán cả nguồn vốn lưu động ròng, đây là khoản chênh lệch giữa vốn lưu động (nguyên vật liệu, hàng tồn kho...) và nợ ngắn hạn.
Thực tế cho thấy có những doanh nghiệp do không đủ hoặc không đưa vốn tự có tham gia vào dự án nên đã cố tình tăng các đơn giá và các khoản mục chi phí để tăng vốn đầu tư, nếu ngân hàng không xem xét kỹ thì vô tình đã tài trợ vựơt quá mức yêu cầu, có thể làm mất an toàn nguồn vốn.
Sự an toàn của các nguồn tài trợ cũng không kém phần quan trọng, phải xem xét kỹ lưỡng cơ sở pháp lí và cơ sở thực tế của nguồn vốn thông qua việc yêu cầu minh bạch tình hình tài chính của mỗi ngân hàng, đề ra trách nhiệm cụ thể nếu gây ảnh hưởng đến tiến độ chung của dự án.
Thứ hai là vấn đề xác định dòng tiền, cần phải xác định rõ phương pháp tính dòng tiền dựa trên góc độ ngân hàng, xác định rõ từng khoản mục trong dòng tiền ra và dòng tiền vào. Dòng tiền ra bao gồm vốn đầu tư, vốn lưu động, trả nợ vay, hoàn trả vốn, giảm các khoản chi trả... Dòng tiền vào bao gồm lợi nhuận sau thuế, vốn vay, khấu hao, thu thanh lý, phần chưa khấu hao, thu vốn lưu động vào năm cuối đời dự án. Khi tính chi phí của dự án vay vốn chi nhánh ngân hàng cần xem xét tất cả các chi phí có tể phát sinh đối với dự án như: chi phí tiền thuê đất, tiền giải phóng mặt bằng, chi phí trả lãi vay... để từ đó có biện pháp dự báo vôn dự phòng. Bên cạnh đó ngân hàng cũng cần quan tâm tới cơ cấu của chi phí đầu tư để dự án áp dụng tỷ lệ khấu hao phù hợp, đối với phần chi phí trước vận hành cần tách ra để tính thu hồi trong một số năm đầu khi dự án đi vào hoạt động chứ không nên tính gộp vào chi phí xây lắp. Mặt khác cán bộ thẩm định cũng phải xem xét công nghệ áp dụng trong dự án, dự án có sử dụng công nghệ có sử dụng công nghệ phù hợp với trình độ vận hành hay với quá trình sản xuất sản phẩm hay không, từ đó đánh giá chất lượng cũng như thị trường tiêu thụ và khả năng có lãi của dự án.
Ngoài những vấn đề cơ bản thường được nhắc đến như trên, khi tính toán dòng tiền cần có sự cân nhắc khi tính đến tác động của lạm phát, trượt giá vì yếu tố này có thể tác động đến cả đầu vào và đầu ra của dự án. Như vậy tùy vào từng điều kiện thị trường mà phải xác định được mức độ tác động này lên từng yếu tố, chúng có thể tự triệt tiêu nhau nếu có tác động như nhau hoặc nếu khác thì chúng ta phải có những tính toán tăng giảm doanh thu, chi phí phù hợp với đánh giá đó. Khi dự án chịu tác động của lạm phát, trượt giá thì cần thiết phải xác định lại lãi suất chiết khấu thực của dự án cho phù hợp với dòng tiền thực.
Một vấn đề còn tồn tại hiện nay trong tính chi phí của các dự án đó là việc thường bỏ qua chi phí cơ hội của dự án, điều này sẽ ảnh hưởng đến độ chính xác của lãi suất chiết khấu, tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào hướng dẫn cụ thể về vấn đề này, vì vậy ngân hàng cần kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước để có phương pháp tính toán phù hợp, đảm bảo đánh giá đúng chi phí cơ hội.
Thứ ba là vấn đề lãi suất chiết khấu, thay vì việc chấp nhận lãi suất cho vay chính là lãi suất chiết khấu, ngân hàng cần có sự điều chỉnh phù hợp dựa trên căn cứ về cơ cấu vốn để tính chi phí sử dụng vốn bình quân gia quyền, nhất là khi dự án vay vốn đồng thời ở nhiều ngân hàng, mỗi nơi lại đánh giá lãi suất chiết khấu khác nhau.
Thứ tư là hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả ngoài việc đảm bảo sự chính xác trong khâu tính toán và xây dựng dòng tiền thì cần đưa thêm 1 số chỉ tiêu để đánh giá như chỉ tiêu điểm hoà vốn, chỉ tiêu B/C, chỉ tiêu ROE của dự án.... để đảm bảo cho dự án được xem xét một cách toàn diện, sâu sắc. Hệ thống các chỉ tiêu phải được tính toán dựa trên nguyên tắc đảm bảo giá trị thời gian của tiền.
5. Nâng cao năng lực cán bộ tín dụng và chất lượng công tác tổ chức thẩm định
Để xây dựng một đội ngũ cán bộ chất lượng trước hết cần yêu cầu tất cả mọi thành viên tôn trọng và tuân thủ mọi quy định của ngân hàng đề ra về vấn đề nâng cao năng lực,chuyên môn, về thái độ làm việc và về đạo đức nghề nghiệp.
Ngân hàng cần tăng cường tuyển dụng và đào tạo lớp cán bộ trẻ năng động, nhạy bén, có trình độ kiến thức đồng thời phải quan tâm tới việc xây dựng các quy tắc, chuẩn mực về trình độ cán bộ để làm tiêu chuận lựa chọn và có kế hoạch tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo và đào tạo lại cán bộ thẩm định tín dụng để kịp thời nắm bắt được những thay đổi trong quy trình, phương pháp thẩm định và cần tạo điều kiện để cho họ nâng cao trình độ, kiến thức và kinh nghiệm làm việc. Đội ngũ cán bộ không chỉ biết phân tích các chỉ tiêu hiệu quả tài chính dự án mà trước những yêu cầu mới đòi hỏi cán bộ phải có kiến thức sâu sắc về cả lĩnh vực tài chính, ngân hàng và cả khả năng phân tích tài chính; khuyến khích cán bộ tín dụng tham gia nghiên cứu khoa học, đề xuất sáng kiến trong lĩnh vực thẩm định, bổ sung kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn giữa các lớp cán bộ với nhau. Kinh nghiệm cần được tích luỹ trong hoạt động thực tiễn khi tiếp xúc với khách hàng, khảo sát hoạt động của doanh nghiệp, nghiên cứu thị trường, kỹ thuật của dự án.
Đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng là vấn đề không kém phần quan trọng, nếu cán bộ tín dụng có những hành vi trái với đạo đức nghề nghiệp sẽ gây ảnh hưởng tới uy tín và chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng. Tuy nhiên vấn đề này không phải dễ phát hiện vì vậy ngoài việc phải có các biện pháp quản lý, đôn đốc, kiểm tra thường xuyên kết quả và chất lượng công việc của mỗi cán bộ tín dụng thì các cấp quản lý cần phải đề ra các biện pháp kỷ luật, khen thưởng thích đáng và tạo ra môi trường làm việc thân thiện, khuyến khích mọi người nêu cao tinh thần trách nhiệm, có tính kỷ luật và tâm huyết với nghề. Kết quả thẩm định là công việc của cá nhân nhưng nó ảnh hưởng đến tình hình tài chính của ngân hàng vì vậy yêu cầu cán bộ thẩm định phải có kỷ luật cao, tận tuỵ với công việc, chủ động và sáng tạo trong quá trình thẩm định.
Bên cạnh đó để nâng cao thế mạnh của mỗi người cần phân công công việc theo năng lực và kinh nghiệm, thực hiện phân quyền đề nghị cấp tín dụng và chịu trách nhiệm quản lý thông tin dự án cho đến khi hoàn thành mọi thủ tục có liên quan, tuy nhiên sự phân quyền này vẫn cần có sự liên kết giữa các thành viên nhằm đảm bảo kết quả thẩm định và thời gian thẩm định. Việc tổ chức điều hành công tác thẩm định phải đảm bảo khoa học, chặt chẽ nhưng vẫn phát huy được năng lực, sáng tại của cá nhân và tập thể.
6. Tăng cường đầu tư trang thiết bị kỹ thuật
Trang thiết bị là phương tiện quan trọng trợ giúp cho các cán bộ tín dụng áp dụng các phương pháp thẩm định hiện đại để tiến hành phân tích dự án một cách chính xác, nhanh chóng và khoa học hơn. Các trang thiết bị này cần phải đáp ứng được nhu cầu truy cập, xử lý thông tin lớn, chính xác trong thời gian ngắn vì vậy việc trang bị, nâng cao các thiết bị kỹ thuật tiên tiến là điều cần thiết. Hiện nay, ngân hàng đã trang bị cho mỗi cán bộ tín dụng một máy tính có đầy đủ tất cả các hỗ trợ cần thiết, tuy nhiên do sự tiến bộ của khoa học công nghệ và sự phát triển của kỹ thuật phân tích dự án ngày càng phát triển, thêm vào đó là nhu cầu quản lý, lưu trữ và tìm kiếm thông tin của ngân hàng càng tăng nên để phục vụ cho lợi ích lâu dài ngân hàng cần có kế hoạch, lộ trình, phương pháp lựa chọn đầu tư công nghệ thích hợp.
7. Nâng cao vai trò tư vấn của ngân hàng đối với doanh nghiệp
Hiện nay công tác lập dự án ở các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang còn rất hạn chế. Đa số các doanh nghiệp khi đi vay vốn lần đầu đều rất bỡ ngỡ đối với công tác lập dự án vì họ không có chuyên môn về dự án, lập dự án cũng như việc tiếp cận, khai thác các nguồn thông tin đánh giá cũng rất hạn chế. Chính điều này làm cho việc thẩm định tốn rất nhiều thời gian, chi phí. Do đó, việc phát huy khả năng tư vấn của ngân hàng là điều cần thiết, có lợi cho cả hai bên.
Để làm được điều này cán bộ tín dụng cần phải tinh thông nghiệp vụ ngân hàng, có sự am hiểu về thông tin của lĩnh vực đầu tư, biết cách tổng hợp và sử dụng thông tin khai thác được, nắm rõ các khái niệm liên quan đến dự án, quy trình, sự cần thiết của đầu tư theo dự án và phải nắm rõ quy trình lập dự án. Nếu công tác tư vấn được thực hiện tốt sẽ giúp ngân hàng có thêm thông tin xác thực để làm căn cứ thẩm định dự án và quyết định cho vay.
III. Những kiến nghị đối với các cấp hữu quan nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án.
Để thực hiện được các giải pháp trên ngoài nỗ lực của ngân hàng còn cần có sự phối hợp, trợ giúp lớn từ phía các cơ qua nhà nước, các bộ ban ngành và ngân hàng Nhà nước để tạo dựng môi trường kinh tế, pháp lý thuận lợi hơn cho công tác thẩm định tài chính được nâng cao. Dưới đây là một số kiến nghị của bản thân để hoàn thiện và nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án.
1. Kiến nghị đối với các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan.
Trước hết nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện môi trường pháp lý ổn định, khoa học để tạo tiền đề ổn định cho hoạt động đầu tư, ban hành các quy chế về đầu tư, sản xuất kinh doanh, tài chính kế toán, nâng cao kiến thức về đầu tư và đầu tư theo dự án... để vừa làm cơ sở cho doanh nghiệp hoạt động, vừa làm cơ sở cho đánh giá của ngân hàng. Bên cạnh đó cũng cần nghiên cứu, chỉnh sửa và hoàn thiện các chính sách cụ thể về thế chấp tài sản, cầm cố, bảo lãnh, tránh tình trạng khi bên vay bị vô hiệu hoá nghĩa vụ sơ cấp thanh toán khoản vay thì nghĩa vụ trong bảo lãnh cũng mất hiệu lực, như vậy sẽ gây ra nhiều rủi ro cho hoạt động ngân hàng, ảnh hưởng tới nền kinh tế.
Thứ hai là ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo sự phát triển của đất nước để tránh gây ra những biến động vượt ra xa khỏi sự dự tính của phía ngân hàng, tránh gây ra sự đổ vỡ, đình trệ của các dự án. Bên cạnh đó, nhà nước cần đưa ra các quy chế tập trung vào xây dựng hệ thống thông tin minh bạch về thông doanh nghiệp, tiến hành thành lập tổ chức chuyên gia đánh giá, phân loại và xếp hạng doanh nghiệp. Điều này sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian, chi phí và giảm thiểu tiêu cực, rủi ro đối với các ngân hàng, từ đó sẽ có những quyết định cho vay chính xác, hiệu quả hơn đồng thời cũng là biện pháp kích thích các doanh nghiệp hoạt động tốt hơn.
Thứ ba, nhà nước cần phối hợp với bộ Tài chính để ban hành các quy định về hạch toán tài chính kế toán đối với các thành phần kinh tế đảm bảo tính chuẩn mực, đồng bộ của công tác kế toán, minh bạch các báo cáo tài chính bên cạnh đó cần có yêu cầu bắt buộc phải có kiểm toán các số liệu đó. Cùng với đó nhà nước cũng cần ban hành các chế tài xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm.
Ngoài ra, nhà nước cần lưu tâm đến việc xây dựng một trung tâm hỗ trợ định giá máy móc, công nghệ để giải quyết những khó khăn về chuyên môn kỹ thuật không chỉ cho các cán bộ tín dụng mà còn có lợi cho các doanh nghiệp.
2. Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng Nhà nước cần có những định hướng mang tính vĩ mô trong từng thời kỳ để định hướng cho các hoạt động của các ngân hàng vào việc ưu tiên tín dụng cho phát triển ngành, thành phần, khu vực trọng điểm, phục vụ phát triển kinh tế theo định hướng của nhà nước.
Bên cạnh đó, cần thiết phải ban hành một cẩm nang tham khảo chung cho toàn bộ hệ thống ngân hàng về thẩm định dự án nhất là thẩm định tài chính, có như vậy mới đảm bảo được tính đồng bộ, chuẩn mực và nâng cao chất lượng thẩm định.
Cần phải đưa ra các chế tài xử phạt thích đáng đối với những thành viên vi phạm cơ chế, thể lệ, quy định tín dụng, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng. Tổ chức phổ biến rộng khắp các văn bản mới cho tất cả các ngân hàng thành viên và yêu cầu các ngân hàng thành viên có trách nhiệm phổ biến trong hệ thống mình. Ngân hàng Nhà nước cũng cần tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra tình hình tín dụng, kiểm soát nội bộ trong hệ thống ngân hàng.
Hơn nữa tập trung hoàn thiện trung tâm dữ liệu tín dụng Quốc gia CIC, yêu cầu tất cả các ngân hàng thành viên phải tham gia và minh bạch tình hình tín dụng của các doanh nghiệp đồng thời đề ra các quy chế trao đổi, thu thập thông tin giữa các thành viên. Tăng cường sự hợp tác giữa CIC và các cơ quản quản lý kinh tế như các bộ, tổng cục thống kê hay các hiệp hội ngành... để nắm bắt thông tin thị trường. Ngoài ra, cũng cần tăng cường sự liên kết với các tổ chức tài chính trên thế giới để có thể thu thập và xử lý thông tin biến động trên thị trường quốc tế, thông tin về các doanh nghiệp nước ngoài có nhu cầu đầu tư tại Việt Nam.
Kiến nghị đối với ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam
Ngân hàng cần nhanh chóng xây dựng mạng lưới thông tin nội bộ, tăng cường đầu tư thêm trang thiết bị trên toàn hệ thống để phục vụ cho công tác thu thập, xử lí và triển khai thông tin.
Trên cơ sở đó không ngừng nâng cao chất lượng thẩm định dự án và thẩm định tài chính dự án. Trước hết cần tăng số lượng cũng như chất lượng công tác thẩm định, bổ sung, hoàn thiện các nội dung còn thiếu của thẩm định tài chính cũng như nghiên cứu ứng dụng các phương pháp mới.
Ngân hàng nên có kiến nghị với ngân hàng Nhà nước để thành lập một công ty chuyên đánh giá và xếp hạng doanh nghiệp, việc làm này sẽ tiết kiệm được thời gian, chi phí, nâng cao hiệu quả trong công tác thẩm định, nâng cao tính chuyên môn hóa trong hoạt động tài chính.
Tăng cường tự kiểm toán hoặc phối hợp kiểm toán để kiểm tra, đánh giá nguồn gốc, độ tin cậy của cơ sở số liệu khách hàng trên tinh thần hợp tác, hỗ trợ và hợp tác với nhau. Không ngừng củng cố và phát triển mối quan hệ khách hàng.
KẾT LUẬN
Thẩm định tài chính dự án đầu tư là một nội dung trọng tâm quyết định tính khả thi của dự án và đánh giá khả năng trả nợ của dự án đối với ngân hàng. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính là điều kiện tiên quyết để cải thiện chất lượng tín dụng.
Trên cơ sở tổng hợp các nghiên cứu, lý luận kết hợp với những quan sát thực tế trong thời gian thực tập tại SGD – ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam, khoá luận đã thực hiện những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất là đánh giá tổng quan về hệ thống ngân hàng Hàng Hải và tình hình hoạt động của Sở giao dịch, trên cơ sở đó phân tích, đánh giá thực trạng công tác thẩm định tài chính tại đây.
Thứ hai là đưa ra những giải pháp và kiến nghị của bản thân đối với các bên có liên quan nhằm xây dựng môi trường cho việc nâng cao chất lượng công tác thẩm định nói chung và thẩm định tài chính nói riêng.
Mặc dù đề tài không mới xong các dự án luôn nằm trong các mối quan hệ kinh tế ngày càng trở nên phức tạp; trình độ, phương pháp thẩm định ngày càng được phát triển; cùng với đó là việc tiếp cận, xử lí các nội dung trong thẩm định tài chính chưa được nhất quán hơn nữa yêu cầu của công tác thẩm định tài chính ngày càng chặt chẽ, khoa học và đòi hỏi độ tin cậy cao vì vậy nâng cao chất lượng thẩm định tài chính này đang càng trở nên cần thiết; chất lượng của công tác thẩm định tài chính có mối quan hệ thiết thực tới chất lượng tín dụng các ngân hàng, chất lượng dự án đầu tư của doanh nghiệp và từ đó ảnh hưởng lên chất lượng đầu tư nói chung.
Do kiến thức, trình độ lý luận và sự hiểu biết còn nhiều hạn chế nên bài khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót nên rất mong nhận được ý kiến đóng góp của những người quan tâm.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
GS. TS Nguyễn Bạch Nguyệt, PGS. TS Từ Quan Phương (2007), Giáo trình Kinh tế đầu tư, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân.
GS. TS Nguyễn Bạch Nguyệt (2007), Giáo trình Lập dự án Đầu tư, NXB.
Nguyễn Thị Mùi (2007), Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng Thương mại, Nxb Học viện Tài chính.
TS. Nguyễn Minh Kiều (2007), Tín dụng và thẩm định tín dụng ngân hàng, Nxb Tài chính.
Ths. Đinh Thế Hiển (2006), Lập – thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư, Nxb Thống kê.
PGS.TS. Lưu Thị Hương (2004), Giáo trình Thẩm định tài chính dự án, Nxb Tài chính.
Báo cáo thường niên Ngân hàng TMCP Hàng Hải 2007.
Bản cáo bạch Ngân hàng TMCP Hàng Hải 2007, 2008.
Website ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam
Quy chế cho vay của Ngân hàng TMCP Hàng hải.
Bản thống kê hợp đồng tín dụng của SGD.
Khoá luận tốt nghiệp các khoá trước.
QUYẾT ĐỊNH số 1627/2001/QĐ-NHNN.
Nghị định 178/1999/NĐ – CP ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng và Nghị định 85/2002/NĐ – CP ngày 25/10/2002 về sửa đổi, bổ sung Nghị định 178.
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
GIẤY NHẬN XÉT THỰC TẬP
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Danh mục bảng biểu
Bảng 1.1: TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN TẠI SỞ GIAO DỊCH 6
Bảng 1.2: TỶ TRỌNG TIỀN GỬI CỦA KHÁCH HÀNG 8
Bảng 1.4: SỐ LƯỢNG DƯ NỢ TÍN DỤNG 2006-2008 9
Bảng 1.5: DƯ NỢ TÍN DỤNG THEO KHÁCH HÀNG TẠI SGD 10
Bảng 1.6: DƯ NỢ TÍN DỤNG PHÂN THEO KỲ HẠN 11
Bảng 1.7: TÓM TẮT TÀI CHÍNH GIAI ĐOẠN 2002 – 2005 35
Bảng 1.8: SẢN LƯỢNG VẬN TẢI ĐƯỜNG BIỂN CỦA TỔNG CÔNG TY HÀNG HẢI VIỆT
NAM 37
Bảng 1.9: THÔNG SỐ KỸ THUẬT 38
Bảng 1.10: THÔNG SỐ DỰ ÁN 39
Bảng 1.11: DOANH THU PHƯƠNG ÁN 1 43
Bảng 1.12: CHI PHÍ NHIÊN LIỆU PHƯƠNG ÁN 1 43
Bảng 1.13: GIÁ TRỊ KHẤU HAO 45
Bảng 1.14: TỔNG CHI PHÍ PHƯƠNG ÁN 1 46
Bảng 1.15: LỢI NHUẬN PHƯƠNG ÁN 1 47
Bảng 1.16: DÒNG TIỀN PHƯƠNG ÁN 1 48
Bảng 1.17: DOANH THU PHƯƠNG ÁN 2 50
Bảng 1.18: CHI PHÍ NHIÊN LIỆU PHƯƠNG ÁN 2 51
Bảng 1.19: TỔNG CHI PHÍ PHƯƠNG ÁN 2 53
Bảng 1.20: LỢI NHUẬN PHƯƠNG ÁN 2 54
Bảng 1.21: DÒNG TIỀN PHƯƠNG ÁN 2 55
Bảng 1.22: KẾ HOẠCH TRẢ NỢ 57
Bảng 1.23: PHÂN TÍCH ĐỘ NHẠY THEO CHI PHÍ VÀ LÃI SUẤT P/A 1 59
Bảng 1.25: PHÂN TÍCH ĐỘ NHẠY THEO DOANH THU VÀ CHI PHÍ NHIÊN LIỆU P/A 1 60
Bảng1. 26: PHÂN TÍCH ĐỘ NHẠY THEO DOANH THU VÀ CHI PHÍ NHIÊN LIỆU P/A 2 60
Bảng 1.27: KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI SGD GIAI ĐOẠN 2006 – 2008 64
Biểu đồ 1.1: HUY ĐỘNG VỐN TẠI SGD PHÂN THEO KHÁCH HÀNG 7
Biểu đồ 1.2: MỨC DƯ NỢ TÍN DỤNG TẠI SGD 10
Danh mục sơ đồ
Sơ đồ 1.1: CƠ CẤU TỔ CHỨC NGÂN HÀNG TMCP HÀNG HẢI 5
Sơ đồ 1.2: QUY TRÌNH THẨM ĐỊNH 15
Sơ đồ 1.3: QUY TRÌNH THẨM ĐỊNH HỒ SƠ DỰ ÁN 16
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21298.doc