CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰA ÁN ĐẦU TƯ CỦA NGÂN HÀNG
Hoạt động cho vay theo dự án đầu tư của ngân hàng thương mại
Khái niệm về dự án đầu tư
Đầu tư là một hoạt động quan trọng của bất kỳ một chủ thể nào trong nền kinh tế. Đó là hoạt động bỏ vốn ra với hy vọng đạt được lợi ích tài chính, kinh tế xã hội trong tương lai. Ngày nay nhằm tối đa hóa hiệu quả đầu tư, các hoạt động này đều được thực hiện theo dự án.
Đứng trên các quan điểm khác nh
83 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1591 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Hà Nội (SHB), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
au, có thể có các khái niệm khác nhau về dự án:
Theo quy định trong “ Quy chế đầu tư và xây dựng” của Chính phủ ban hành ngày 08 tháng 07 năm 1999 thì “ Dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định (chỉ bao gồm các hoạt động đầu tư trực tiếp)”
Theo từ điển về quản lý dự án AFNOR, dự án là hoạt động đặc thù tạo nên một thực tế mới một cách có phương pháp với nguồn lực đã định.
Một cách tổng quát nhất, dự án có thể được hiểu là một tập hợp các hoạt động đặc thù liên kết chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau nhằm đạt được trong tương lai ý tưởng đã đặt ra (mục tiêu nhất định) với nguồn lực và thời gian xác định.
Dự án có vai trò rất quan trọng đối với các chủ đầu tư, các nhà quản lý và tác động trực tiếp tới quá trình phát triển kinh tế xã hội. Nếu không có dự án, nền kinh tế sẽ khó nắm bắt được cơ hội phát triển.
Đối với chủ đầu tư: Dự án là căn cứ quan trọng để quyết định bỏ vốn đầu tư, xây dựng kế hoạch đầu tư và theo dõi quá trình thực hiện dự án.
Đối với các nhà tài trợ: Dự án là căn cứ quan trọng để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng, từ đó đưa ra các quyết định có nên tài trợ hay không, và nếu tài trợ thì tài trợ ở mức độ nào.
Đối với các nhà quản lý: Dự án là tài liệu quan trọng để để các cơ quan chức năng của Nhà nước phê duyệt và cấp giấy phép đầu tư.
Đặc trưng của dự án đầu tư
Xuất phát từ khái niệm của dự án, có thể nhận biết các đặc trưng cơ bản của dự án bao gồm:
Dự án tồn tại trong một môi trường không chắc chắn
Môi trường triển khai dự án luôn luôn thay đổi, chứa đựng nhiều yếu tố bất định nên rủi ro khi thực hiện dự án thường rất lớn. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến sự thành công của dự án và là mối quan tâm đặc biệt của các nhà quản lý.
Dự án bị khống chế bởi thời gian:
Là một tập hợp các hoạt động đặc thù nên dự án phải có thời gian kết thúc. Mọi sự chậm trễ trong thực hiện dự án sẽ làm mất đi cơ hội phát triển, kéo theo những bất lợi, tổn thất cho nhà đầu tư và cho nền kinh tế.
Dự án chịu sự ràng buộc về nguồn lực:
Thông thường, các dự án bị ràng buộc về vốn, vật tư và lao động. Đối với các dự án có quy mô càng lớn, mức độ ràng buộc về nguồn lực càng cao và càng phức tạp; mọi quyết định liên quan đến các vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện dự án đều bị chi phối bởi nhiều mối quan hệ như chủ đầu tư, các nhà tư vấn, các nhà thầu, các nhà tài trợ, các nhà kỹ thuật…Xử lý tốt các ràng buộc này là yếu tố quan trọng góp phần đạt tới mục tiêu của dự án.
Phân loại dự án đầu tư:
Trên thực tế, các dự án rất đa dạng về cấp độ, loại hình, quy mô, thời hạn và được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau, chẳng hạn:
Phân loại theo thời gian, gồm dự án ngắn hạn, dự án trung hạn và dự án dài hạn.
Phân loại theo cấp độ, gồm dự án lớn và dự án nhỏ.
Phân loại theo lĩnh vực dự án, gồm dự án xã hội, dự án kinh tế, dự án tổ chức, dự án kỹ thuật, dự án hỗn hợp.
Đứng trên quan điểm NHTM - một nhà tài trợ dự án thì có thể phân loại dự án thành ba loại chính là dự án mới, dự án đầu tư mở rộng và dự án thay thế
Dự án đầu tư mới: Đây là các dự án có mục tiêu tạo ra sản phẩm, dịch vụ mới đưa vào thị trường. Dự án này được đầu tư toàn bộ từ nhà xưởng, máy móc, thiết bị tới nguyên nhiên vật liệu…Vì vậy các dự án này thường có quy mô lớn và thời gian dài.
Dự án đầu tư mở rộng: Do hầu hết các sản phẩm hiện có cuối cùng đều trở thành lỗi thời, tăng trưởng của một doanh nghiệp tùy thuộc vào việc triển khai và tiếp thị các sản phẩm mới. Điều này dẫn đến việc phát sinh các đề xuất đầu tư vào nghiên cứu phát triển, đầu tư nghiên cứu thị trường, đầu tư tiếp thị sản phẩm và có thể ngay cả đầu tư vào nhà máy, thiết bị và tài sản mới. Các dự án đầu tư mở rộng có mục tiêu nhằm tăng cường năng lực sản xuất, cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Các dự án thay thế: Nếu các sản phẩm trở nên lỗi thời theo thời gian, thì nhà máy, tài sản thiết bị và các quy trình sản xuất cũng vậy. Việc sử dụng thường xuyên làm hoạt động của các nhà máy lâu năm trở nên tốn kém hơn do chi phí bảo trì cao hơn và thời gian ngừng làm việc nhiều hơn. Hơn nữa việc triển khai các công nghệ mới làm cho các thiết bị hiện hữu trở nên lỗi thời về mặt kinh tế. Các yếu tố này tạo nên cơ hội cho các đầu tư tiết giảm chi phí, bao gồm việc thay thế các máy móc thiết bị cũ kỹ, lỗ thời bằng các máy móc thiết bị mới có năng suất cao hơn.
Thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Khái niệm thẩm định tài chính dự án
Trong thực tế, một dự án dù được được lập rất chi tiết đều ít nhiều mang tính chủ quan của người soản thảo. Chính vì vậy những khiếm khuyết, lệch lạc tồn tại trong dự án là điều không tránh khỏi. Để khẳng định một cách chắc chắn mức độ hợp lý và hiệu quả cũng như tính khả thi của dự án trước khi quyết định đầu tư, các ngân hàng thường tiến hành rà soát, kiểm tra lại một cách khoa học, khách quan và toàn diện mọi nội dung của dự án và liên quan đến dự án. Công việc này được gọi là thẩm định dự án.
Hiện nay khi tiến hành thẩm định dự án, các ngân hàng thường xem xét các nội dung chính sau:
Thẩm định hồ sơ pháp lý, tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng
Thẩm định dự án đầu tư mới bao gồm:
Thẩm định kỹ thuật của dự án
Thẩm định kinh tế của dự án
Thẩm định TCDA
Đối với các NHTM, một nội dung luôn được quan tâm và đặt lên hàng đầu trong quá trình thẩm định dự án là thẩm định tài chính của dự án đầu tư. Khi tiến hành thẩm định dự án đầu tư, điều mà các ngân hàng quan tâm nhất là khả năng thu hồi đủ cả gốc và lãi của khoản tài trợ. Mà nguồn trả nợ của dự án lại phụ thuộc chủ yếu vào khẳ năng sinh lãi của dự án đó. Chính vì vậy có thể nói rằng, thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của các NHTM là một quá trình kiểm tra đánh giá lại toàn bộ các nội dung liên quan đến khía cạnh tài chính của dự án để xác định hiệu quả tài chính, hay khả năng sinh lãi của dự án được xem xét.
Nội dung thẩm định tài chính dự án
Thẩm định tổng mức vốn đầu tư, cơ cấu nguồn vốn của dự án
Tổng vốn đầu tư
Trong quá trình lập dự án, ngoài hạn chế về khả năng ước tính đầy đủ, chính xác giá trị các khoản mục cần đầu tư, còn có hai xu hướng gây ra sai lệch về tổng vốn đầu tư:
Một là, dự tính mức vốn này quá thấp để tăng các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả nhằm thuyết phục các NHTM cấp vốn tài trợ cho dự án
Hai là, dự tính quá cao để rút được nhiều vốn của NHTM
Cả hai xu hướng trên đều tác động tiêu cực đến tính khả thi và hiệu quả hoạt động của dự án. Chính vì vậy, mục đích của thẩm định tổng vốn đầu tư là nhằm xác định tổng vốn đầu tư sát với thực tế, tạo cơ sở để tính toán hiệu quả tài chính và dự kiến khả năng trả nợ của dự án.
Tổng mức vốn đầu tư của dự án là giá trị của toàn bộ số tiền và tài sản cần thiết để thiết lập và đưa dự án vào hoạt động
Tổng vốn đầu tư = Vốn đầu tư vào TSCĐ + Vốn đầu tư vào TSLĐ + Vốn dự phòng
Trong đó:
Vốn đầu tư vào TSCĐ, bao gồm các khoản chi phí như chi phí điều tra, khảo sát để lập, trình duyệt dự án, chi phí tư vấn, thiết kế dự án; giá trị máy móc thiết bị, nhà xưởng sẵn có, chi phí mua máy móc thiết bị, phương tiện vận tải mới (gồm cả chi phí vận chuyển, lắp đặt chạy thử) và các chi phí khác.
Khoản mục chi phí này thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn đầu tư. Do vậy, cần kiểm soát chặt chẽ bằng cách chi tiết hóa các khoản mục, tham khảo các dự án cùng loại đã từng được thực hiện, ý kiến các chuyên gia tư vấn về xây dựng và công nghệ, giá cả trên thị trường.
Vốn đầu tư vào TSLĐ ban đầu: là giá trị các TSLĐ ban đầu cần thiết để đảm bảo cho dự án có thể đi vào hoạt động bình thường theo các điều kiện kinh tế - kỹ thuật dự tính, bao gồm các khoản dự trữ (tiền mặt, hàng hóa) các khoản phải thu và trả trước. Lượng vốn đầu tư vào TSLĐ ban đầu thường không lớn song nếu không dự tính huy động nguồn vốn dài hạn để tài trợ, các dựa án sẽ phải huy động nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ và như vậy rất bị động khi đến hạn trả.
Vốn dự phòng: là lượng vốn để đề phòng phát sinh thêm chi phí đầu tư so với dự tính. Trong thời gian dài hạn, giá cả có thể thay đổi, tỷ giá hối đoái biến động…Khi đó vốn dự phòng sẽ được dùng để đáp ứng nhu cầu nhanh chóng nhu cầu chi, đảm bảo tiến độ thự hiện dự án. Lượng vốn này thường chiếm từ 1% đến 5% tổng vốn đầu tư, tùy thuộc vào quy mô của dự án và độ biến động của các biến số chính.
Thẩm định cơ cấu nguồn vốn của dự án
Một dự án có thể được tài trợ từ nhiều nguồn khác nhau. Ngân hàng cần thẩm định tính khả thi của từng nguồn vốn đó để làm căn cứ xác định mức cho vay của ngân hàng
Số tiền tài trợ = Tổng vốn đầu tư của dự án – các nguồn tài trợ cho dự án
Hơn thế nữa trong quá trình thẩm định, việc xác định dòng tiền và lựa chọn lãi suất chiết khấu không thể được tiến hành một cách biệt lập với phân tích bản chất của phương thức tài trợ. Hay nói cách khác, phương thức tài trợ cho dự án sẽ chi phối việc xác định dòng tiền phù hợp cũng như lựa chọn lãi suất chiết khấu hợp lý để xác định NPV của dự án. Vì vậy việc thẩm định cơ cấu nguồn vốn của dự án có ý nghĩa rất quan trọng ảnh hưởng tới việc xác định chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính của dự án
Thông thường một dự án có thể được tài trợ từ các nguồn sau:
Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp: nguồn vốn này của doanh nghiệp có thể được hình thành từ phát hành cổ phiếu thường mới, từ nguồn thặng dư vốn hay từ nguồn thu nhập giữ lại của doanh nghiệp. Do đó ngân hàng cần phải kiểm tra, đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó xác định phần vốn chủ sở hữu tài trợ cho dự án.
Nguồn vốn ngân sách cấp
Nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác
Nhằm đảm bảo tiến độ thực hiện dự án đầu tư, đồng thời tránh tình trạng ứ đọng vốn, các nguồn tài trợ khác nhau cần được đảm bảo trên cơ sở thực tế hoặc có sự cam kết bằng văn bản của các nhà cung cấp vốn, như các báo cáo tài chính chứng minh khả năng tài chính cũng như khả năng tích lũy và sử dụng vốn tự có của chủ đầu tư, cam kết cấp vốn của các cơ quan có thẩm quyền hay của các ngân hàng đồng tài trợ…Bên cạnh đó, cần có kế hoạch huy động vốn cụ thể, trong đó chỉ rõ tiến độ và số lượng cần thiết để đáp ứng nhu cầu trong từng giai đoạn thực hiện dự án
Thẩm định về dự trù doanh thu, chi phí của dự án
Phân tích doanh thu:
Doanh thu của dự án được tính hàng năm và bao gồm các khoản phát sinh từ việc vận hành TSCĐ được đầu tư bởi dự án:
Doanh thu từ sản phẩm chính, doanh thu từ sản phẩm phụ
Dich vụ cung cấp cho bên ngoài
Để đảm bảo tính hợp lý và chính xác của doanh thu, trong quá trình thẩm định cần xem xét kiểm tra hai yếu tố là giá bán và sản lượng sản xuất hàng năm:
Để đơn giản trong quá trình tính toán và lập dự án, giá bán thường được giả định là không đổi trong suốt thời gian tồn tại của dự án. Tuy nhiên nếu sản phẩm rất nhạy cảm với các biến động của thị trường hoặc chịu áp lực cạnh tranh lớn thì cần có sự thay dổi giá bán qua các năm, hoặc xếp hạng mức độ rủi ro cao hơn khi lựa chọn dự án.
Sản lượng sản xuất tính theo % của công suất thiết kế, tăng dần qua các năm và đạt mức 100% khi sản xuất đi vào ổn định. Vì vậy khi tiến hành thẩm định, ngân hàng phải kiểm tra lại các thông tin để điều chỉnh tỷ lệ % cho phù hợp
Phân tích chi phí:
Khi thẩm định chi phí của dự án, ngân hàng thường căn cứ vào kế hoạch sản xuất, kế hoạch khấu hao, kế hoạch trả nợ, chi phí hoạt động, bao gồm các khoản mục sau:
Chi phí mua nguyên vật liệu gồm nguyên vật liệu chính, vật liệu bao bì, nửa thành phẩm và dịch vụ mua ngoài, nhiên liệu, năng lượng…
Chi phí tiền lương, bảo hiểm xã hội, chi phí bảo dưỡng máy móc thiết bị, nhà xưởng
Khấu hao, bao gồm chi phí chuẩn bị, máy móc thiết bị, dụng cụ, phương tiện vận tải, nhà xưởng và cấu trúc hạ tầng, chi phí ban đầu về quyền sử dụng đất
Chi phí quản lý phân xưởng, quản lý doanh nghiệp
Chi phí bảo hiểm tài sản, chi phí tiêu thụ sản phẩm, lãi vay và các chi phí khác…
Các chi phí biến đổi như nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng…được tính theo sản lượng sản xuất và định mức tiêu hao. Chính vì vậy khi tiến hành thẩm định, ngân hàng cần kiểm tra lại định mức tiêu hao qua tình hình thực tế của các dự án cùng loại hoặc tiêu chuẩn của ngành. Trường hợp các sản phẩm của dự án là những sản phẩm mới chưa từng được sản xuất trong nước thì cần có sự tư vấn của các chuyên gia kỹ thuật trong ngành và đánh giá rủi ro của dự án ở mức độ cao hơn.
Khi tính khấu hao, doanh nghiệp cũng như ngân hàng cần phải tuân thủ các quy định về phương pháp khấu hao của Bộ tài chính, và phải đảm bảo tổng mức khấu hao hàng năm phải bằng nguyên giá TSCĐ
Chi phí lãi vay của dự án được tính dựa trên kế hoạch vay và trả nợ đối với các nguồn huy động từ bên ngoài. Ngân hàng cần kiểm tra lại cách tính trả lãi và gốc cho phù hợp với thông lệ của mình.
Thẩm định dòng tiền của dự án
Dòng tiền của dự án được định nghĩa là phần chênh lệch trong dòng tiền của doanh nghiệp trong giai đoạn mà dự án được thực hiện so với lúc không thực hiện dự án
Dòng tiền của dự án = Dòng tiền của doanh nghiệp nếu có dựa án – Dòng tiền của doanh nghiệp nếu không có dự án
Trong thực tế việc tính toán so sánh dòng tiền khi có và không có dự án là rất phức tạp, đặc biệt đối với những doanh nghiệp lớn. Tuy nhiên việc tính toán đó không phải bao giờ cũng cần thiết nếu chúng ta tuân theo “nguyên lý tính độc lập”. Nguyên lý này cho rằng chúng ta có thể nhìn nhận dự án đó như là một doanh nghiệp nhỏ với doanh thu, chi phí, tài sản và tất nhiên là các dòng tiền của nó. Vì vậy khi xác định tác động của một dự án đề nghị đối với dòng tiền của doanh nghiệp, chúng ta chỉ cần tập trung vào dòng tiền chênh lệch là kết quả của dự án.
Từ đó có thể hiểu dòng tiền của một dự án được hiểu là các khoản chi và thu được kỳ vọng xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau trong suốt chu kỳ của dự án. Và nếu chúng ta lấy toàn bộ khoản tiền thu được trừ đi khoản tiền chi ra thì chúng ta sẽ xác định được dòng tiền ròng tại các mốc thời gian khác nhau của dự án.
Dòng tiền của dự án được cấu thành bởi ba bộ phận là :
Dòng tiền đầu tư bao gồm chi phí mua sắm tài sản cố định và lắp đặt và đầu tư vào vốn lưu động ròng (nếu có). Dòng tiền đầu tư được xem là dòng tiền ra của dự án (COF)
Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh. Có các phương pháp khác nhau trong việc xác định dòng tiền từ hoạt động kinh doanh, song cùng mang lại một kết quả giống nhau
Theo phương pháp từ dưới lên, xuất phát từ lợi nhuận ròng cộng khấu hao ta được dòng tiền ròng từ hoạt động kinh doanh
Theo phương pháp từ trên xuống, xuất phát từ doanh thu, trừ đi các khoản chi phí và thuế ta được dòng tiền từ hoạt động kinh doanh của dự án
Theo phương pháp tiết kiệm nhờ thuế
Dòng tiền = ( Doanh thu – Chi phí ) * ( 1- T) + Khấu hao * T
Dòng tiền thu hồi sau đầu tư: gồm thu hồi vốn lưu động ròng và thu hồi từ thanh lý tài sản cố định
Khi sản xuất mở rộng thì những khoản phả trả cũng tăng lên, làm giảm nhu cầu tài trợ cho dự án. Phần chênh lệch giữa lượng tăng thêm về TSLĐ và về nợ ngắn hạn thường là dương và do đó đòi hỏi phải có thêm tiền đầu tư vào phần này, ngoài tiền đầu tư vào TSCĐ. Phần chênh lệch này gọi là vốn lưu động ròng.
Khi dự án kết thúc, lượng TSLĐ dự trữ này cũng được thanh lý để thu tiền về. Do tính chất của TSLĐ là tương đối dễ bán nên để thuận tiện trong quá trình phân tích, giá trị thu hồi thường được giả định là đúng bằng số tiền đã chi ra và được thu hồi khi dự án kết thúc.
Đối với các dự án khi kết thúc hoạt động phần lớn đều có giá trị thanh lý TSCĐ. Các phương tiện, thiết bị sản xuất, nhà xưởng khi dự án kết thúc còn có một giá trị thị trường nhất định. Khi chúng được bán sẽ xuất hiện một dòng tiền cuối dự án. Dòng tiền này cùng với dòng tiền khác ở trên hợp thành dòng tiền ròng của dự án. Dòng tiền xuất hiện do bán TSCĐ phụ thuộc vào giá bán và giá trị còn lại theo sổ sách của chúng.
Nếu gọi S là giá bán, B là giá trị còn lại theo sổ sách của TSC Đ, T là tỷ lệ thuế thu nhập doanh nghiêp, khi đó thuế đánh vào khoản lãi do bán TSC Đ hay khoản thuế tiết kiệm được (mang dấu âm ) sẽ là (S – B )*T và khi đó dòng tiền sau thuế là S – (S-B)*T
Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh và dòng tiền thu hồi sau đầu tư tạo thành dòng tiền vào của dự án (CIF)
Chênh lệch giữa dòng tiền ra và dòng tiền vào của dự án tạo nên dòng tiền ròng của dự án, là cơ sở để tính hiệu quả kinh tế của dự án
NCF = CIF – COF
Đây là ba bộ phận cơ bản để xác định dòng tiền của dự án. Tuy nhiên đứng trên các góc độ khác nhau thì dòng tiền dự án có thể có những thay đổi nhất định. Chẳng hạn nếu trên quan điểm của chủ đầu tư (trường hợp dự án được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu và vốn vay, chủ đầu tư trả gốc theo niên kim cố định )
Dòng tiền dự án = LNST + Khấu hao – Trả gốc hàng năm
Còn trên quan điểm của ngân hàng thì
Dòng tiền dự án = LNST + Khấu hao + Lãi vay
Khi xem xét dự án, cần phải dựa trên dòng tiền gia tăng, phát sinh trực tiếp từ dự án. Do đó khi tính toán dòng tiền cần phải chú ý tới một số các dòng tiền đặc biệt sau:
Chi phí chìm:
Chi phí chìm không phải là chi phí tăng thêm lên không được đưa vào phân tích. Chi phí chìm là một khoản đầu tư đã được thực hiện ( hoặc được cam kết) trước đó. Nó không bị ảnh hưởng bởi quyết định lựa chọn hoặc loại bỏ dự án.
Chẳng hạn một doanh nghiệp thuê một công ty tư vấn thực hiện việc phân tích dự án lắp đặt một dây chuyền sản xuất nước ngọt, thì chi phí tư vấn ở đây chính là chi phí chìm, nó phải được trả bất luận dự án có được chấp thuận hay không. Vì thế chi phí tư vấn không được bao hàm trong phân tích.
Chi phí cơ hội
Chi phí cơ hội thể hiện một cơ hội ( hoặc một chuỗi khoản thu nhập) bị mất đi nếu sử dụng những tài sản sẵn có vào dự án đang xem xét. Chi phí cơ hội cần được đưa vào dòng tiền của dự án
Ví dụ một công ty đang có sẵn một mảnh đất có thể đưa vào sử dụng để xây nhà máy. Khi đánh giá hiệu quả của nhà máy, có nên bỏ qua chi phí đất đai không vì dự án không phải chi tiền ? Câu trả lời là không. Cơ hội đó là một mảnh đất có thể được bán đi với giá 10 tỷ đồng. Cần chú ý là chi phí đất đai phù hợp ở đây là giá thị trường của mảnh đất sau khi đã trừ đi phí và thuế phải nộp chứ không phải là giá mà công ty đã bỏ ra để mua mảnh đất đấy.
Xem xét tác động phụ
Cần nhớ rằng dòng tiền gia tăng của dự án bao gồm tất cả các thay đổi dòng tiền của doanh nghiệp được gây ra bởi việc thực hiện dự án. Trong nhiều trường hợp việc chấp nhận dựa án có thể gây ra những tác động phụ, kể cả tốt và xấu đối với dòng tiền của doanh nghiệp. Tác động phụ nổi bật nhất là sự xói mòn. Xói mòn bắt nguồn từ những dự án hiện tại của doanh nghiệp.
Ví dụ việc doanh nghiệp chấp nhận một dự án sản xuất sản phẩm mới mới có thể làm giảm dòng tiền thu hiện tại do khách hàng chuyển sang mua mặt hàng mới có cùng công dụng. Trong trường hợp này, xác định dòng tiền của dự án mới cần tính đến sự sụt giảm của dòng tiền bán sản phẩm hiện tại.
Thẩm định lãi suất chiết khấu
Đầu tư đòi hỏi phải bỏ ra những khoản chi phí để kỳ vọng đem lại những khoản thu nhập, nhưng thu nhập và chi phí này thường không phát sinh tại cùng một thời điểm. Do giá trị thời gian của tiền, phải quy đổi chúng về cùng một thời điểm (thường là hiện tại ) để so sánh và đánh giá khẳ năng sinh lời của một khoản đầu tư. Việc quy đổi này cho thấy những khoản thu nhập trong tương lai có bù đắp được sự hy sinh của chủ sở hữu tiền tệ khi đầu tư (hay bù đắp được chi phí vốn) và đem lại lợi nhuận nào đó hay không. Khi đó cần có một lãi suất, gọi là lãi suất chiết khấu để quy đổi những khoản tiền trong tương lai về hiện tại.
Một lãi suất chiết khấu được coi là phù hợp khi nó phản ánh chính xác chi phí vốn, hay sự giảm giá trị của tiền qua thời gian. Nói cách khác, nó là tỷ suất lợi nhuận tối thiểu để bù đắp những lợi ích mà chủ sở hữu tiền tệ mất đi do chi phí cơ hội, lạm phát và rủi ro
Một cách đơn giản nhất, lãi suất chiết khấu được tính theo công thức:
Lãi suất chiết khấu = % bù đắp chi phí cơ hội + % lạm phát + % bù đắp rủi ro
Tại một thời điểm nhất định, có thể sử dụng cùng một công cụ nào đó để đo lường hai yếu tố đầu tiên cấu thành lãi suất chiết khấu của mọi dự án. Trên thị trường tài chính, công cụ hay được sử dụng là lãi suất trái phiếu kho bạc hay lãi suất tiền gửi tiết kiệm của ngân hàng quốc doanh do nó phản ánh lợi tức cơ hội mất đi với mọi nhà đầu tư khi chọn một dự án khác. Trong lãi suất này đã bao hàm phần bù sự mất giá của tiền tệ do lạm phát. Tuy nhiên đây là một lãi suất phi rủi ro (về lý thuyết, trong lãi suất tiền gửi tiết kiệm của các NHTM có phần bù đắp rủi ro, nhưng rủi ro của các NHTM quốc doanh gần như bằng 0 do có sự bảo lãnh ngầm của nhà nước). Trong khi đó các dự án khác nhau với độ rủi ro khác nhau cần có những mức bù đắp khác nhau. Do đó cần cộng them vào đó một tỷ lệ % nhất định để phản ánh phần lợi ích bị mất đi của chủ đầu tư do rủi ro
Lãi suất chiết khấu = Lãi suất trái phiếu kho bạc + % bù đắp rủi ro
( hoặc lãi suất tiền gửi tiết kiệm)
Rủi ro của dự án phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thị trường, cạnh tranh, khả năng quản lý, môi trường pháp lý… Hơn nữa mỗi nhà đầu tư có những cách đánh giá rủi ro khác nhau. Vì vậy không có chung một lãi suất chiết khấu (chi phí vốn) cho mọi đối tượng, thậm chí trong cùng một dự án.
Một dự án có thể có nhiều nhà tài trợ, trong đó có thể chia ra hai nhóm theo tính chất sở hữu là các chủ đầu tư và các nhà cho vay. Trên cơ sở đánh giá về giá trị thời gian của tiền, mỗi đối tượng đều xác định cho mình mức lợi nhuận tối thiểu để bù đắp chi phí cơ hội, lạm phát và rủi ro hay chi phí vốn của mình
Trên quan điểm của ngân hàng, việc phân tích dự án dựa trên dòng tiền của tổng vốn đầu tư. Quan điểm nhà cho vay còn gọi là quan điểm tổng đầu tư. Mục đích của các NHTM khi thẩm định sự án là đánh giá sự an toàn của số vốn cho vay, mà sự an toàn đó phải được xem xét dựa trên hiệu quả hoạt động của toàn bộ dự án chứ không chỉ của vốn chủ sở hữu. Theo đó các NHTM sẽ xác định được tính khả thi về mặt tài chính của dự án, nhu cầu cần vay vốn cũng như khả năng trả nợ gốc và lãi vay của dự án. Do vậy dòng thu nhập của dự án phải bao gồm cả phần của các chủ sở hữu và nhà cho vay (chỉ trừ các khoản tiền trả cho nhà cung cấp hàng hóa và dịch vụ và thuế phải nộp). Dòng thu nhập này được so sánh với tổng vốn đầu tư để đánh giá hiệu qủa của toàn bộ dự án chứ không của vốn chủ sở hữu.
Nếu dòng tiền của dự án được tạo ra từ tổng vốn đầu tư, bao gồm cả phần vốn chủ sở hữu và phần vốn vay thì lãi suất chiết khấu (chi phí vốn) chính là chi phí tring bình của vốn
Lãi suất chiết khấu = WACC = Kd *(1-T)*Wd + Ks*Ws
Trong đó:
Ks là chi phí vốn vay (lãi vay)
Wd là tỷ trọng vốn vay tong tổng nguồn vốn
Ks là chi phí vốn chủ sở hữu
Ws là tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn
T là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
Tuy nhiên trong thực tế việc xác định chi phí vốn chủ sở hữu không hề đơn giản khi thị trường vốn ( thị trường chứng khoán ) không có hoặc phát triển ở mức thấp. Do vậy để đơn giản và dễ sử dụng có thể dùng chính chi phí vốn vay (lãi vay) trước thuế ( Kd) làm lãi suất chiết khấu
Thẩm định rủi ro của dự án
Rủi ro của của dự án được hiểu một cách chung nhất là khả năng mà một sự kiện không có lợi nào đó xuất hiện.
Rủi ro đối với một dự án có thể được chia làm ba loại:
Rủi ro loại 1: Đây là rủi ro của bản thân dự án tức là rủi ro của một tài sản khi nó là tài sản duy nhất của doanh nghiệp.
Rủi ro loại 2 : Rủi ro này thể hiện ở sự ảnh hưởng của dự án đối với rủi ro của doanh nghiệp.
Rủi ro loại 3 : Đó là phần rủi ro của dự án mà không thể loại bỏ được bằng việc đa dạng hóa đầu tư. Rủi ro này được gọi là rủi ro hệ thống và được đo bởi hệ số β của dự án
Các loại rủi ro này vừa có tính độc lập tương đối và vừa có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Đứng trên các giác độ khác nhau mỗi loại rủi ro co mức độ quan trọng khác nhau. Đối với ngân hàng thì rủi ro loại 1 là đáng quan tâm nhất vì nó liên quan trực tiếp tới khả năng trả nợ của dự án. Để phân tích loại rủi ro này, ngân hàng có thể áp dụng các phương pháp sau:
Phân tích độ nhạy:
Phân tích độ nhạy của dự án là việc lần lượt cho từng yếu tố của dự án thay đổi trong khi các yếu tố khác vẫn giữu nguyên để nghiên cứu tác động của yếu tố đó tới kết quả ( NPV, IRR…) hay tính khả thi của dự án.
Phân tích độ nhạy giúp cho các NHTM trong việc đánh giá rủi ro bằng cách xác định những biến cố có ảnh hưởng nhiều nhất đến lợi ích ròng của dự án và lượng hóa mức độ ảnh hưởng của chúng. Từ đó giúp cho các ngân hàng nhận biết được những điểm yếu của dự án và chỉ ra sự cần thiết phải thu thập thông tin về một số biến số. Hiện nay các NHTM thường thực hiện phân tích độ nhạy theo hai cách sau:
Xem xét ảnh hưởng khi một biến số thay đổi :
Trong phân tích này ngân hàng chọn những biến có khả năng thay đổi và sẽ có tác động đến dòng tiền như số lượng bán hàng, chi phí biến đổi… và cho một biến đố thay đổi trong khi giữu nguyên các biến số khác để xem xét tác động của nó tới NPV hoặc IRR
Xem xét ảnh hưởng trong trường hợp nhiều biến thay đổi (ảnh hưởng đồng thời):
Trên thực tế các biến của dự án sẽ thay đổi đồng thời với nhau, do vậy các nhà phân tích cũng phải phân tích và xem xét sự thay đổi của nhiều yếu tố đồng thời đến NPV hoặc IRR trên cơ sở đó giúp cho việc đánh giá an toàn, phòng ngừa rủi ro và quản lý tốt dự án.
Phân tích tình huống:
Phương pháp này phân tích sự thay đổi của các biến số trong phạm vi có thể và được tính toán dựa trên sự phân bố xác suất. Với phương pháp này nhà phân tích cần phải có số liệu về xác suất tương ứng dành cho các tình huống (xấu nhất, cơ sở và tốt nhất). Tuy nhiên việc tính toán các xác suất này trên thực tế cũng rất khó khăn. Trên cơ sở các tình huống và xác suất đó, các nhà phân tích tính toán hệ số biến thiên của NPV hay IRR. Nhà phân tích sẽ tiến hành so sánh hệ số này với hệ số biến thiên của dự án trung bình của doanh nghiệp để xác định mức độ rủi ro tương đối của dự án đang xem xét. Hệ số biến thiên này càng lớn thì rủi ro của dự án đang xem xét cũng càng lớn
Phân tích tình huống mô phỏng:
Đây là phương pháp phân tích kết hợp dựa trên cả hai phương pháp trên. Phương pháp này đề cập đến phạm vi các kết cục có khả năng xảy ra chứ không chỉ một vài kết cục rời rạc. Khi đó đường biểu diễn hàm mật độ xác suất là một đường liên tục nên v._.iệc tính toán các hệ số đo lường rủi ro sẽ chính xác hơn. Tuy nhiên khi thay đổi tất cả các yếu tố cùng một lúc cùng với các xác suất xảy ra tương ứng dẫn đến khối lượng tính toán sẽ rất lớn và phức tạp. Chính vì vậy mặc dù phương pháp này ưu việt hơn so với hai phương pháp trên nhưng do tính phức tạp của nó nên hiện nay các NHTM vẫn chưa áp dụng phương pháp này.
Phương pháp thẩm định tài chính dự án
Phương pháp giá trị hiện tại ròng (NPV)
Phương pháp NPV dựa trên một nguyên tắc là đầu tư chỉ được thực hiện nếu khoản tiền thu nhận được từ đầu tư phải ít nhất bằng khoản tiền đã bỏ vào. Tuy nhiên, những khoản tiền xuất hiện vào những thời điểm khác nhau phải được đưa về cùng một thời điểm thông qua lãi suất chiết khấu
Một cách tổng quát:
NPV =
Trong đó:
CFt là dòng tiền (ròng) năm thứ t
i là lãi suất chiết khấu
n là số năm hoạt động của dự án
Quyết định đầu tư chỉ được thông qua các dựa án có NPV 0. Nếu tiền đầu tư được vay trên thị trường bằng lãi suất chiết khấu thì NPV 0 cho thấy dòng tiền từ dự án đủ đề trả vốn và lãi vay và đem lại một khoản lợi nhuận bằng NPV. Trong khi đó NPV < 0 có ý nghĩa dự án không tạo ra đủ tiền để trả chi phí tài chính
Việc sử dụng phương pháp này trong việc phân tích tài chính dự án có những ưu và nhược điểm sau:
Ưu điểm:
Phương pháp NPV cho thấy khoản lợi nhuận tăng thực (NPV > 0) hay số vốn bị mất đi (nếu NPV < 0) so với dự án được so sánh ( phản ánh giá trị theo thời gian của tiền)
Với việc sắp xếp trật tự các dự án theo NPV giảm dần, có thể thấy được dễ dàng những cơ hội đầu tư có lợi nhuận lớn. Nhờ đó chủ đầu tư sẽ tối đa hóa lợi nhuận thông qua lựa chọn những cơ hội đầu tư có lời nhất.
Nhược điểm:
Trong quá trình so sánh và lựa chọn, phương pháp NPV không tính đến sự khác nhau về thời gian hoạt động của dự án. Quyết định chọn dụa án như vậy có thể đưa đến sai lầm với các dự án loại trừ nhau. Dự án có thời gian hoạt động ngắn hơn thường kém háp dẫn vì có NPV thường thấp hơn NPV của dự án có hoạt động dài hơn.
Khi so sánh hiệu quả hoạt động của dự án với các dự án khác, hoặc so sánh với hiệu quả hoạt động chung của công ty hay của ngành, sử dụng số tuyệt đối NPV có những hạn chế nhất định do quy mô vốn đầu tư khác nhau.
Phương pháp tỷ lệ hoàn vốn nội bộ ( IRR)
IRR của một dự án đươc định nghĩa là lãi suất chiết khấu làm cho NPV của dự án bằng 0. Đó chính là lãi suất chiết khấu i thỏa mãn đẳng thức sau:
= = 0
Có thể ước tính IRR theo công thức:
IRR = i1 +
Trong đó:
i1, i2 là lãi suất chiết khấu bất kỳ và i1< i2
NPV1, NPV2 là NPV tương ứng với lãi suất chiết khấu i1 và i2
Khi sử dụng tỷ lệ hoàn vốn nội bộ làm tiêu chuẩn xem xét chấp nhận hay loại bỏ dự án, thông thường các nhà phân tích dựa trên cơ sở so sánh tỷ lệ này với lãi suất chiết khấu và cần phân biệt ba trường hợp sau:
Trường hợp 1: Khi tỷ lệ hoàn vốn nội bộ của dự án nhỏ hơn lãi suất chiết khấu (IRR < i) thì cần loại bỏ dự án
Trường hợp 2: Khi tỷ lệ hoàn vốn nội bộ của dự án bằng lãi suất chiết khấu (IRR = i) thì tùy theo điều kiện cụ thể và sự cần thiết của dự án mà chấp nhận hay loại bỏ dự án
Trường hợp 3: Khi tỷ lệ hoàn vốn nội bộ lớn hơn lãi suất chiết khấu (IRR >i) cần xem xét:
Nếu đây là dự án độc lập thì dự án được chấp nhận
Nếu là dự án loại bỏ lẫn nhau thì chọn dự án có tỷ lệ hoàn vốn cao hơn
Qua xem xét phương pháp tỷ lệ hoàn vốn nội bộ trong việc lựa chọn dự án đầu tư có thể thấy phương pháp này có những ưu và nhược điểm sau:
Ưu điểm:
Phương pháp này cho phép đánh giá được mức sinh lời của dự án có tính đến yếu tố giá trị thời gian của tiền
Phương pháp này cung cấp một chỉ số đo lường tỷ lệ sinh lời, mục tiêu hàng đầu của chủ đầu tư, nên có thể giúp cho chủ đầu tư chọn ra những dự án có tỷ lệ sinh lời cao hơn
Đây là tỷ lệ sinh lời hàng năm, nên có thể dùng để so sánh giữa các dự án có thời gian hoạt động khác nhau
Nhược điểm:
Trong trường hợp so sánh với các dự án loại trừ lẫn nhau, kết quả của phương pháp IRR có thể mâu thuẫn với phương pháp NPV, vì phương pháp IRR không quan tâm đến số vốn đầu tư bỏ ra và thời điểm xuất hiện dòng tiền trong các năm hoạt động của dự án.
Trong phương pháp này giả thiết tỷ lệ tái đầu tư bằng đúng tỷ lệ sinh lời của dự án ( IRRR) là không hợp lý và có thể thổi phồng khả năng sinh lợi của dự án.
Khi dòng tiền của dự án đổi dấu nhiều lần có thể không có hoặc có nhiều mức lãi suất chiết khấu làm NPV.
Để khắc phục những nhược điểm của chỉ tiêu IRR, người ta đưa ra chỉ tiêu tỷ lệ thu hồi vốn nội bộ điều chỉnh (MIRR). MIRR giả thiết rằng dòng tiền của dự án được đầu tư với lãi suất bằng chi phí vốn. Đât là giả thiết về tái đầu tư tôt hơn, nên MIRR là một chỉ số đáng tin cậy hơn về khả năng sinh lời thực của dự án so với IRR
=
Trong đó:
COFt là dòng tiền ra năm thứ t
CIFt là dòng tiền vào năm thứ t
Chỉ số lợi nhuận ( PI)
Phương pháp PI đo lường giá trị hiện tại của những khoản thu nhập chia cho khoản đầu tư ban đầu
PI = ( NPV + Tổng vốn đầu tư ban đầu ) / Tổng vốn đầu tư ban đầu
Khi chỉ số lợi nhuận nhỏ hơn 1 (PI<1) điều này cũng cho thấy giá trị hiện tại thuần của dự án nhỏ hơn không (NPV<0), tất cả các dự án như vậy đều bị loại bỏ.
Khi dự án có chỉ số lợi nhuận lớn hơn 1 thì dự án sẽ được chấp nhận nếu là dự án độc lập, còn trường hợp dự án loại trừu nhau thì thông thường dự án có chỉ số sinh lời cao nhất là dựa án được lựa chọn. Chẳng hạn khi PI = 1,258 điều này có nghĩa là mỗi đồng vốn đầu tư vào dự án đem lại thu nhập hiện tại là 1,258 đồng hay tỷ suất lợi nhuậ ròng hiện tại là 25,8%
Phương pháp chỉ số lợi nhuận có những ưu, nhược điểm sau:
Ưu điểm:
Có tính đến giá trị thời gian của tiền khi đo lường tỷ lệ sinh lời của dự án thông qua việc tìm giá trị hiện tại của các khoản thu nhập trong các năm hoạt động trước khi tính tỷ lệ sinh lời.
Với cách đo lường khả năng sinh lời của mỗi đồng vốn đầu tư, chỉ số PI giúp cho chủ đầu tư chọn ra được những dự án có khả năng sinh lời cao.
Tương tự như IRR, phương pháp PI cũng cho biết thông tin về độ an toàn vì nó đo lường khả năng sinh lời của mỗi đồng vốn đầu tư
Nhược điểm:
Phương pháp PI và NPV có thể đưa ra kết luận lựa chọn dự án mâu thuẫn nhau đối với các dự án loại trừ nhau có quy mô vốn đầu tư khác nhau, vì mặc dù cùng cho biết lợi nhuận ròng hiện tại nhưng NPV chỉ ra tổng lợi nhuận ròng của dự án còn PI cho thấy lợi nhuận ròng của 1 đồng vốn đầu tư
Phương pháp thời gian hoàn vốn đầu tư (PP)
Thời gian hoàn vốn đầu tư là khoảng thời gian cần thiết mà dự án tạo ra dòng thu nhập bằng chính với số vốn đầu tư để thực hiện dự án.
PP được xác định thông qua công thức sau:
PP = n + ( Số vốn đầu tư còn lại cần được thu hồi / Dòng tiền ngay sau mốc hoàn vốn )
Trong đó, n là năm ngay trước năm thu hồi vốn đầu tư
Phương pháp PP có những ưu, nhược điểm sau:
Ưu điểm:
Đơn giản, dễ tính, cho phép nhìn nhận dự án một cách trực quan hơn
Phù hợp với việc xem xét các dự án đầu tư quy mô vừa và nhỏ hoặc với doanh nghiệp kinh doanh với chiến lược thu hồi vốn nhanh tăng vòng quy vốn
Nhược điểm:
Phương pháp này không tính đến giá trị thời gian của tiền.
Ngoài ra phương pháp này chú trọng xem xét lợi ích ngắn hạn hơn là lợi ích dài hạn, nó ít chú trọng đến việc xem xét các khoản thu sau thời gian hoàn vốn, do vậy những dự án đầu tư có mức sinh lợi chậm như sản xuất sản phẩm mới hay xâm nhập vào thị trường mới…không thích hợp với việc lựa chọn đầu tư theo phương pháp này
Khó có thể đưa ra một tiêu chuẩn chung nhất cho việc lựa chọn dự án theo PP, vì mỗi dự án có mức độ rủi ro khác nhau. Để so sánh được nhiều dự án thì chỉ tiêu PP đòi hỏi các dự án phải có cùng thời hạn như nhau, vốn đầu tư như nhau và mức độ rủi ro như nhau. Chính vì những hạn chế đó mà chỉ tiêu PP mặc dù vẫn có ý nghĩa khi thẩm định dự án nhưng nó thường được sử dụng kết hợp với các chỉ tiêu khác như NPV, IRR chứ khó có thể sử dụng một cách độc lập để đưa ra quyết định đầu tư.
Chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Sự cần thiết nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án
Dự án liên quan đến rất nhiều các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế, đó là các chủ đầu tư, các nhà tài trợ, NHTM và các cơ quan quản lý Nhà nước. Đối với mỗi chủ thể khác nhau thì quan niệm về chất lượng thẩm định TCDA cũng khác nhau:
Đối với chủ đầu tư: Thẩm định TCDA được coi là có chất lượng nếu như công tác thẩm định mang lại cho chủ đầu tư các thông tin có ý nghĩa và đáng tin trong việc lựa chọn dựa án mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Đối với các nhà tài trợ: Chất lượng thẩm định tài chính dự án thể hiện trong việc lựa chọn các dự án có hiệu quả tài chính cao và có khả năng trả nợ đúng hạn.
Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước: Chất lượng thẩm định TCDA không những được thể hiện ở tính hiệu quả về mặt tài chính của dự án, mang lại lợi ích cho nhà đầu tư mà còn thể hiện ở hiệu quả xã hội của dự án, góp phần thực hiện các mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước
Đối với các NHTM: Thẩm định TCDA được coi là có chất lượng khi nó thỏa mãn được các yêu cầu mà ngân hàng và khách hàng đặt ra.
Yêu cầu của ngân hàng đối với việc thẩm định TCDA nhằm đánh giá chính xác tính khả thi cũng như hiệu quả tài chính của dự án, khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xảy ra đối với dự án. Đây là cơ sở để ngân hàng đưa ra quyết định tài trợ đúng đắn: cho vay hay không, cho vay bao nhiêu trong thời gian bao lâu với lãi suất áp dụng như thế nào…nhằm hạn chế tối đa những rủi ro nhưng không bỏ lỡ cơ hội tìm kiếm lợi nhuận.
Đối với khách hàng, họ yêu cầu được tài trợ đủ nhu cầu vốn với thời hạn mong muốn và lãi suất phù hợp, thủ tục vay vốn cũng như thời gian thẩm định càng ngắn càng tốt để không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh, đồng thời được ngân hàng cung cấp các tiện ích khác như tư vấn tài chính….
Vì dự án là cơ hội đầu tư của khách hàng và cũng là cơ hội để kiếm lợi nhuận của ngân hàng nên việc thẩm định TCDA được đánh giá là có chất lượng nếu nó đáp ứng đồng thời yêu cầu của cả hai bên. Do đó nâng cao chất lượng thẩm định TCDA chính là việc nâng cao sự thỏa mãn một cách tốt nhất yêu cầu của ngân hàng cũng như khách hàng.
Thẩm định TCDA đầu tư có ý nghĩa khác nhau đối với chủ đầu tư, nhà tài trợ và đối với cơ quan quản lý nhà nước. Về phía các NHTM, việc thẩm định dự án đầu tư, đặc biệt là thẩm định TCDA có ý nghĩa rất quan trọng bởi một số lí do sau:
Thẩm định TCDA giúp các NHTM đưa ra kết luận về tính khả thi cũng như hiệu quả về mặt tài chính của dự án. Đây là một căn cứ hết sức quan trọng trong việc đưa ra quyết định tài trợ. Quá trình thẩm định sẽ cho ngân hàng biết khả năng hoàn trả thực sự của khách hàng xuất phát từ kết quả hoạt động kinh doanh. Đây cũng là cơ sở để NHTM xác định lãi suất, kỳ hạn, cách thức trả nợ… thích hợp với khả năng tài chính của cả hai bên.
Thẩm định TCDA giúp các NHTM lường trước đước các rủi ro có thể xảy ra như: sự biến động giá của thị trường đầu vào, sản phẩm đầu ra; các yếu tố về chính sách, môi trường pháp lý… ảnh hưởng tới quá trình thực hiện, cũng như hiệu quả tài chính của dự án, từ đó ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của dự án. Thông qua đó, các ngân hàng sẽ có cơ sở để tham gia góp ý , tư vấn bổ sung thêm các giải pháp cho chủ đầu tư nhằm hạn chế tối đa mọi rủi ro có thể xảy ra.
Như vậy thẩm định TCDA là hoạt động hết sức cần thiết đối với các NHTM trong việc đưa ra các quyết định tài trợ đúng đắn, mang lại lợi nhuận cao và hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Chính vì vậy nâng cao chất thẩm định TCDA là một yêu cầu hết sức quan trọng đối với các NHTM.
Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án
Như đã phân tích ở trên thì thẩm định TCDA được coi là có chất lượng nếu như nó thỏa mãn nhu cầu của cả ngân hàng và khách hàng. Do đó các chỉ tiêu phản ánh chất lượng thẩm định TCDA cũng chính là các chỉ tiêu thể hiện mức độ thỏa mãn yêu cầu đặt ra từ phía ngân hàng và khách hàng.
Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng thẩm định TCDA được chia thành các chỉ tiêu định tính và các chỉ tiêu định lượng
Các chỉ tiêu định tính:
Nội dung thẩm định:
Nội dung thẩm định phải mang tính khoa học, có độ chính xác cao. Nội dung khi tiến hành thẩm định phải bao gồm: thẩm định tổng vốn đầu tư, cơ cấu nguồn vốn của dự án; thẩm định dự trù doanh thu, chi phí; thẩm định dòng tiền cũng như lãi suất chiết khấu, rủi ro của dự án. Các nội dung này khi tiến hành thẩm định phải phải bám sát tình hình thực tế, dự đoán được rủi ro của dự án trước những biến động của thị trường như giá cả, thay đổi tỷ giá hay lạm phát…Bên cạnh đó các yếu tố khác như tiến độ góp vốn, tiến độ giải ngân vốn phải được kiểm tra cho phù hợp với các giai đoạn triển khai của dự án tránh tình trạng dự án phải ngừng hoạt động do không có vốn để thực hiện.
Chất lượng của các báo cáo thẩm định :
Báo cáo thẩm định chính là sản phâmt cuối cùng của quá trình thẩm
định. Báo cáo này có ý nghĩa rất quan trọng bởi là chính là căn cứ để ngân hàng dựa vào đó đưa ra quyết định tài trợ dự án. Chính vì vậy công tác thẩm định TCDA có chất lượng khi báo cáo thẩm định được trình bày một cách khoa học, đầy đủ, chính xác và khách quan, sát với thực tế dự án. Đồng thời các báo cáo thẩm định phải cung cấp các thông tin chính xác và có ý nghĩa về hiệu quả tài chính của dự án, là căn cứ đưa ra các quyết định và chứng minh được tính hợp lý của các quyết định tài trợ.
Chất lượng các quyết định cho vay:
Chất lượng các quyết định cho vay thể hiện thông qua hiệu quả hoạt động thực tế của các dự án được ngân hàng tài trợ. Nếu như các dự án đã được xét duyệt cho vay mà hoạt động tốt theo đúng dự kiến của ngân hàng điều này chứng tỏ ngân hàng đã có quyết định tài trợ đúng đắn hay chất lượng thẩm định TCDA là có chất lượng. Ngược lại nếu dự án được ngân hàng cho vay hoạt động không hiệu quả như ngân hàng đã thẩm định, dẫn đến gặp khó khăn trong việc trả nợ cho ngân hàng thì điều này thể hiện sự yếu kém trong chất lượng thẩm định TCDA của ngân hàng
Cung cấp những tư vấn cho khách hàng:
Thẩm định TCDA có chất lượng tốt sẽ mang lại cho ngân hàng cái nhìn sâu sắc về dự án, từ đó ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của dự án như kế hoạch kinh doanh, phương án về nguồn vốn, rủi ro của dự án…Những tư vấn này sẽ giúp cho các doanh nghiệp thực hiên dự án được tốt hơn, đồng thời ngân hàng cũng yên tâm về hiệu quả tài chính của dự án cũng như những rủi ro mà dự án gặp phải
Các chỉ tiêu định lượng :
Thời gian thẩm định:
Thời gian thẩm định được tính từ khi cán bộ tín dụng tiếp nhận hồ sơ của khách hàng cho tới khi đưa ra quyết định có cho khách hàng vay hay không. Đây là một tiêu chí phản ánh chất lượng của thẩm định TCDA, tuy nhiên nó cần được xem xét trong những điều kiện cụ thể của từng ngân hàng. Chẳng hạn đối với các ngân hàng mà có hệ thống chấm điểm & xếp hạng tín dụng hoạt động một cách có hiệu quả, với công nghệ thu thập và phân tích thông tin một cách hiện đại, hay ngân hàng với đội ngũ cán bộ thẩm định có kinh nghiệm, có trình độ cao thì thời gian thẩm định có thể rất ngắn nhưng vẫn đảm bảo được chất lượng cùa hoạt động phân tích TCDA. Tuy nhiên đối với những ngân hàng có công nghệ lạc hậu, hay đội ngũ cán bộ tín dụng còn nhiều hạn chế thì có thể thời gian thẩm định lâu nhưng chất lượng của công tác thẩm định lại không cao. Hiện nay trong sự cạnh tranh giành giật khách hành giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt, vì vậy đòi hỏi ngân hàng phải rút ngắn thời gian thẩm định nhưng đồng thời cũng phải đảm bảo chất lượng trong hoạt động cho vay của mình. Nếu thời gian thẩm định của ngân hàng quá lâu sẽ gây khó khăn cho các chủ đầu tư trong quá trình vay vốn, thậm chí có thể làm mất đi cơ hội đầu tư của các khách hàng. Ngoài ra , tùy thuộc vào quy mô cũng như mức độ phức tạp của các dự án mà thời gian thẩm định có thể được tiến hành nhanh hay chậm.
Chi phí thẩm định:
Chi phí thẩm định bao gồm tất cả các chi phí cần thiết mà ngân hàng phải chi trả cho việc tiến hành thẩm định dự án như chi phí khảo sát thực tế, thu thập thông tin của khách hàng và các chi phí khác. Nếu chi phí thẩm định quá cao khi so sánh với thu nhập mà ngân hàng nhận được từ dự án (thu nhập từ lãi vay và các khoản phí dịch vụ) thì ngân hàng nên từ chối cho vay mặc dù dự án có hiệu quả, nhưng nếu quá thấp có thể công tác thu thập thông tin của ngân hàng không được đầy đủ. Việc thẩm định TCDA được cho là có chất lượng tốt khi thỏa mãn được yêu cầu ngân hàng đặt ra với chi phí bỏ ra là thấp nhất.
Doanh số cho vay và thu nợ:
Doanh số cho vay là số tiền mà NHTM cho khách hàng vay. Chỉ tiêu này phản ánh xu hướng mở rộng hay thu hẹp trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Tuy nhiên chỉ tiêu này một mình lại chưa phản ánh được hiệuq ủa của hoạt động cho vay. Chính vì vậy chỉ tiêu này cần được xem xét cùng với chỉ tiêu “ doanh số thu nợ ”. Doanh số thu nợ là số vốn mà khách hàng đã hoàn trả cho ngân hàng trong từng thời kỳ.
Đây là một trong các chỉ tiêu đánh giá chất lượng thẩm định TCDA. Ngân hàng tiến hàng thẩm định TCDA mục đích cuối cùng vẫn là có quyết định cho vay hay không. Nếu các món cho vay cũng như doanh số cho vay của ngân hàng lớn và khả năng thu hồi nợ của ngân hàng đúng như ngân hàng dự kiến thì công tác thẩm định TCDA của ngân hàng là có chất lượng. Ngược lại mặc dù doanh số cho vay của ngân hàng có lớn nhưng nếu khả năng thu nợ của dự án có vấn đề do những khó khăn trong việc tạo ra lợi nhuận của dự án thì chất lượng thẩm định TCDA cần được xem xét lại.
Nợ xấu và nợ quá hạn:
Nợ quá hạn
Hiện nay theo quy định hiện hành thì việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng tại các tổ chức tín dụng được thực hiện theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Theo quy định này thì “ Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn”. Điều này có nghĩa là khi khách hàng đến hạn trả lãi và/hoặc gốc đã được thỏa thuận ghi trên hợp đồng tín dụng mà khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ của mình, thì ngay lập tức ngân hàng sẽ phải tiến hành xếp khoản vay của khách hàng vào các khoản nợ quá hạn. Khi đó tùy theo yêu cầu cũng như tình hình tài chính của khách hàng, ngân hàng có thể tiến hành “ cơ cấu lại thời hạn trả nợ” cho khách hàng đó. Việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ được thực hiện theo hai phương thức:
Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ: là cơ chế theo đó ngân hàng có thể chấp thuận thay đổi kỳ hạn trả nợ gốc và/hoặc lãi mà không làm thay đổi kỳ hạn trả nợ cuối cùng
Gia hạn nợ vay: là phương thức thay đổi lịch thanh toán nợ gốc và/hoặc lãi, cùng kéo dài thời hạn cho vay đã thỏa thuận trước đó trong hợp đồng tín dụng.
Khi khách hàng không thanh toán đúng kỳ hạn trả nợ đã thỏa thuận, bất kể việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ có được chấp thuận hay không thì toàn bộ nợ gốc còn lại của hợp đồng sẽ được chuyển thành nợ quá hạn.
Tuy nhiên khi đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng tại ngân hàng, chúng ta không những chỉ sử dụng chỉ tiêu nợ quá hạn mà còn phải kết hợp với chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ, bởi hai chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau. Mối liên quan này thể hiện ở công thức:
Tỷ lệ nợ quá hạn = Nợ quá hạn / Tổng dư nợ
Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn phản ánh mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn càng lớn thì rủi ro tín dụng mà ngân hàng gặp phải càng cao và ngược lại.
Nợ xấu
Hiện nay đối với các tổ chức tín dụng chưa có hệ thống xếp hạn tín dụng nội bộ thì việc phân loại nợ được thực hiện theo điều 6 của Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN. Theo đó thì các khoản nợ tại các tổ chức tín dụng được đưa vào một trong các nhóm nợ sau:
Nợ nhóm 1(nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn.
Nợ nhóm 2 (nợ cần chú ý) bao gồm các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại.
Nợ nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại.
Nợ nhóm 4 (nợ nghi ngờ) bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại.
Nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) bao gồm các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại.
Các khoản nợ nhóm 3, nhóm 4 và nhóm 5 chính là nợ xấu của ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng.
Như vậy chỉ tiêu nợ xấu và nợ quá hạn là các chỉ tiêu quan trọng được sử dụng để đánh giá chất lượng tín dụng trong hoạt động cho vay của các NHTM. Đối với các NHTM mà có tỷ lệ nợ quá hạn cũng như nợ xấu thấp chứng tỏ chất lượng tín dụng nói chung cũng như chất lượng thẩm định của ngân hàng là tốt, do đã loại trừ được các dự án cỏ rủi ro cao, không đủ khả năng trả nợ. Ngược lại, nếu tỷ lệ nợ xấu cũng như tỷ lệ nợ quá hạn của NHTM cao chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng là thấp. Điều này có thể xuất phát từ nhiếu các nguyên nhân khác nhau, nhưng một trong các nguyên nhân chủ yếu đó chính là công tác thẩm định các khoản cho vay còn yếu kém, dẫn đến việc thu hồi gốc và lãi của ngân hàng khó khăn.
Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định TCDA
Công tác thẩm định TCDA chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, trong đó được chia ra làm các nhân tố chủ quan và các nhân tố khách quan
Các nhân tố chủ quan
Công tác tổ chức thẩm định:
Do quá trình thẩm định TCDA được tiến hành theo nhiều giai đoạn và được thực hiện bởi sự phối hợp của nhiều cá nhân nên nếu công tác thẩm định không được tổ chức một cách khoa học trên cơ sở phân công nhiệm vụ một cách rõ ràng, phù hợp với trình độ chuyên môn thì quá trình thẩm định sẽ chồng chéo, gây lãng phí và mất thời gian. Chính vì vậy việc tổ chức công tác thẩm định phải được xây dựng một cách khoa học và phù hợp với điều kiện của từng ngân hàng.
Chất lượng đội ngũ cán bộ:
Có thể nói trong mọi quá trình hoạt động thì nhân tố con người luôn là một
trong những nhân tố quan trọng nhất. Trong công tác thẩm định, đội ngũ cán bộ thẩm định cũng như các nhà quản lý là nhân tố quan trọng, quyết định trực tiếp tới chất lượng thẩm định TCDA. Nếu nhà quản lý nhận thức đúng đắn ý nghĩa của công tác thẩm định TCDA thì mới tạo điều kiện cho các cán bộ thẩm định. Mặt khác do tính chất phức tạp và đa dạng của dự án nên trong công tác thẩm định đòi hỏi các cán bộ thẩm định phải có trình độ chuyên môn vững vàng, sự hiểu biết toàn diện về các lĩnh vực của nền kinh tế.
Bên cạnh đó trong quá trình thẩm định, các cán bộ thẩm định có thể vì có mối quan hệ thân thiết với khách hàng mà cho qua nhiều khâu thẩm định quan trọng, điều này ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả tài chính cũng như khả năng trả nợ của dự án. Chính vì vậy bên cạnh yêu cầu có kiến thức chuyên môn sâu rộng thì các cán bộ thẩm định cần phải có phẩm chất đạo đức tốt nhằm giúp cho ngân hàng tránh khỏi rủi ro đạo đức
Thông tin:
Thẩm định TCDA dựa trên cơ sở phân tích các thông tin thu thập được thông qua phương thức trực tiếp hay gián tiếp. Đó là các thông tin về khách hàng, về thị trường trong nước và quốc tế, các thông tin về kỹ thuật của dự án… Do vậy tính chính xác và đầy đủ của nguồn thông tin thu thập được ảnh hưởng rất lớn tới kết quả thẩm định. Nếu thông tin sai lệch thì kết quả thẩm định sẽ không có độ tin cậy và chính xác, dẫn đến những quyết định đầu tư sai lầm, gây tổn thất lớn cho ngân hàng.
Phương pháp thẩm định:
Phương pháp thẩm định thể hiện thông qua một hệ thống các chỉ tiêu như NPV, IRR, PP, PI… và cách áp dụng chúng khi thẩm định TCDA. Trong hệ thống các chỉ tiêu này, mỗi chỉ tiêu đều có những ưu nhược điểm riêng, do đó trong quá trình thẩm định ngân hàng cần sử dụng kết hợp các chỉ tiêu này để đưa ra quyết định chính xác nhất. Tùy theo đặc điểm của từng dự án cũng như của từng ngân hàng mà hệ thống chỉ tiêu khi tiến hàn thẩm định áp dụng sẽ khác nhau.
Trang thiết bị công nghệ:
Đây cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định TCDA. Các trang thiết bị công nghệ ảnh hưởng tới thẩm định TCDA thông qua tác động tới chi phí, thời gian và độ chính xác của kết quả thẩm định. Với trang thiết bị hiện đại công việc thu thập và xử lý thông tin phục vụ cho công tác thẩm định sẽ diễn ra nhanh hơn, đồng thời tính chính xác và độ tin cậy cũng cao hơn, nhờ đó chất lượng công tác thẩm định cũng được nâng cao
Các nhân tố khách quan
Môi trường pháp lý:
Đó là các cơ chế chính sách của nhà nước, các văn bản pháp lý quy định trong các lĩnh vực của nền kinh tế… Nếu môi trường pháp lý rõ ràng đầy đủ, các chính sách được ban hành nhất quán, đồng bộ sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng tiến hành thẩm định được nhanh chóng, dễ dàng, rút ngắn thời gian thẩm định dự án
Môi trường kinh tế xã hội:
Các dự án có đăc trưng là diễn ra trong nột thời gian dài và chịu tác động của nhiều nhân tố. Bất cứ một sự thay đôi nào trong môi trường kinh tế xã hội cũng ảnh hưởng tích cực hay tiêu cức đến hiệu quả của dự án. Nếu môi trường kinh tế xã hội ổn định sẽ giúp ngân hàng dự đoán tốt hơn những biến động của thị trường, hạn chế bớt rủi ro cho các dự án. Ngược lại nếu như dự án hoạt động trong môi trường luôn biến động, chẳng hạn như các dự án hoạt động trong lĩnh vực vận tải, luôn chịu sự biến động về giá nguyên vật liệu đầu vào như xăng, dầu…thì rủi ro với các dự án này là lớn. Ngân hàng cần phải dự đoán được sự thay đổi của các yếu tố nhạy cảm, đánh giá sự thay đổi này tới các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án. Công việc này sẽ rất phức tạp nếu như có nhiều các biến số kinh tế của dự án biến động đồng thời. Do đó chất lượng thẩm định TCDA cũng phụ thuộc nhiều vào việc cán bộ thẩm định có đánh giá được sự biến động của các nhân tố trên hay không.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TẠI NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN HÀ NỘI
Khái quát về ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội
Giới thiệu chung về ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội
Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội ( gọi tắt là SHB) tiền thân là Ngân hàng TMCP Nông thôn Nhơn Ái, chính thức đi vào hoạt động từ ngày 12/12/1993 với vốn điều lệ ban đầu là 400 triệu đồng, với địa bàn bao gồm vài xã thuộc huyện Châu Thành, đối tượng khách hàng chủ yếu là các hộ nông dân với mục đích vay vốn phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Năm 2006 đã đánh dấu những bước phát triển quan trọng của SHB:
Thứ nhất, SHB chuyển đổi mô hình từ ngân hàng TMCP nông thôn sang mô hình ngân hàng TMCP đô thị, nâng mức vốn điều lệ lên 500 tỷ, từ đó đã tạo thuận lợi cho ngân hàng có điều kiện nâng cao năng lực tài chính, mở rộng mạng lưới hoạt động kinh doanh, đủ sức cạnh tranh và phát triển đáp ứng các yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai._.tải 66.995DWT. Giá trị thanh lý tàu là rất lớn nên được tính vào dòng tiền của dự án năm cuối). Việc nhiều dự án, đặc biệt với các dự án sản xuất kinh doanh bỏ qua dòng tiền thu hồi sau đầu tư có thể làm mất đi tính chính xác của dòng tiền, bởi vốn đầu tư vào TSCĐ là rất lớn, thời gian sử dụng của TSCĐ lại rất lâu so với thời gian khấu hao nên giá trị thanh lý khi dự án kết thúc là không nhỏ. Còn đối với khoản thu hồi vốn lưu động ròng, do cán bộ tín dụng thường bỏ qua vốn lưu động khi tính toán tổng vốn đầu tư của dự án nên khi dự án kết thúc thường không có dòng tiền thu hồi vốn lưu động ròng này.
Việc áp dụng lãi suất chiết khấu để tính giá trị hiện tại ròng còn chưa có sự thống nhất giữa các cán bộ thẩm định, phụ thuộc vào kinh nghiệm cũng như trình độ của cán bộ thẩm định. Nhiều dự án lựa chọn lãi suất chiết khấu là lãi suất cho vay trung và dài hạn của ngân hàng, tuy nhiên cũng có dự án lựa chon lãi suất chiết khấu chính là chi phí trung bình của vốn (WACC)
Thẩm định các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính còn sơ sài:
Hiện tại, trong tờ trình thẩm định, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án là NPV, IRR, thời gian hoàn vốn (PP). Trong quá trình thẩm định, các cán bộ tín dụng có thể đưa thêm các chỉ tiêu tùy theo trình độ của mình để giải thích, minh chứng cho đề xuất, đánh giá của mình. Hệ thống các chỉ tiêu tại SHB đưa ra còn sơ sài,mới chỉ là những chỉ tiêu cơ bản khi xem xét hiệu quả TCDA. Ngoài ra khi đánh giá ngân hàng mới chỉ dừng lại ở việc xem xét các chỉ tiêu một cách riêng lẻ chứ chưa có những sự so sánh, liên hệ giữa các chỉ tiêu với nhau.
Thẩm định rủi ro của dự án chưa tốt:
Việc phân tích rủi ro của dự án mới chỉ dừng lại ở phương pháp phân tích độ nhạy, với sự xem xét sự thay đổi của các chỉ tiêu như NPV, IRR khi cho một trong các biến số như giá bán, sản lượng, biến phí thay đổi mà chưa đánh giá được độ nhạy của dự án khi nhiều biến số thay đổi đồng thời. Thậm chí còn có những dự án, cán bộ tín dụng chưa phân tích rủi ro của dự án, chẳng hạn như dự án đầu tư xây dựng khu biệt thự nhà nghỉ cuối tuần và du lịch sinh thái Thanh Xuân.
Thời gian thẩm định:
Hiện nay thời gian thẩm định quy định tại SHB là tối đa 30 ngày, hoặc không quá 20 ngày kể từ ngày nhận được đầy đủ thông tin và hồ sơ tín dụng hợp lệ của khách hàng. Trong giai đoạn cạnh tranh như hiện nay, đặc biệt khi SHB là một ngân hàng nhỏ thì thời gian như vậy còn khá lâu. So sánh với một số tổ chức tín dụng khác thì thời gian thẩm định chỉ khoảng 2-3 tuần. Tuy nhiên có những dự án thời gian tiến hành thẩm định diễn ra rất nhanh. Chẳng hạn như dự án đầu tư xây dựng khu biệt thự nhà nghỉ cuối tuần và du lịch sinh thái Thanh Xuân, thời gian mà cán bộ tiến hành thẩm định sau khi nhận được đầy đủ hồ sơ từ khách hàng là 3 ngày. Đây là một khoảng thời gian khá nhanh, và điều này có thể ảnh hưởng tới chất lượng của quá trình thẩm định.
Nguyên nhân
Sở dĩ chất lượng thẩm định TCDA tại SHB còn nhiều hạn chế là do cả nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan:
Nguyên nhân chủ quan
Công tác tổ chức thẩm định chưa tốt:
Hiện nay SHB chỉ mới ban hành quy trình nghiệp vụ tín dụng khách hàng, trong đó hướng dẫn các bước chủ yếu của quá trình cho vay cũng như nội dung tiến hành thẩm định. Tuy nhiên do chưa ban hành một quy trình tín dụng riêng hướng dẫn cho vay theo dự án, nên những hướng dẫn của SHB còn mang tính chung chung, chưa xây dựng được những chuẩn mực cụ thể trong thẩm định. Mặc dù những nội dung thẩm định cũng được nêu rõ mẫu trong tờ trình thẩm định, nhưng việc tính toán các chỉ tiêu như dòng tiền, lãi suất chiết khấu… như thế nào, dựa trên các nguyên tắc ra sao vẫn chưa được đề cập tới. Do vậy báo cáo thẩm định còn mang nặng tính chủ quan của cán bộ thẩm định
Đội ngũ cán bộ còn ít, thiếu kinh nghiệm:
Hiện nay, số lượng cán bộ tín dụng của SHB còn ít so với nhu cầu vay vốn
của khách hàng. Số lượng cán bộ tín dụng của phòng khách hàng doanh nghiệp hiện nay là 9 người, và đều phải kiêm nhiệm nhiều công việc khác nhau, thậm chí cả các công việc như công chứng giấy tờ xác nhận tài sản đảm bảo… do hiện nay SHB chưa có bộ phận hỗ trợ tín dụng.
Thêm vào đó hiện nay việc thẩm định dự án chỉ được các cán bộ có kinh nghiệm tiến hành. Tuy nhiên các cán bộ này vẫn phải làm các công việc khác của phòng tín dụng. Chính vì vậy họ phải đảm nhận một khối lượng công việc rất lớn.
Ngoài ra tuy trình độ học vấn của các cán bộ tín dụng là khá cao, đa phần có trình độ đại học nhưng công tác đào tạo nghiệp vụ của ngân hàng chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Ngân hàng cũng chưa có những kế hoạch, chiến lược đào tại nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thẩm định.
Chất lượng nguồn thông tin chưa chưa cao:
Hầu hết các thông tin phục vụ cho quá trình thẩm định là nguồn thông tin do khách hàng cung cấp. Cán bộ tín dụng có thể tìm kiếm các nguồn thông tin khác qua việc tìm hiểu trực tiếp tại cơ sở của khách hàng, hay thông qua internet, sách báo, các tài liệu khác…Tuy nhiên chất lượng của các thông tin đó thường không cao.
Chẳng hạn như khi đánh giá tình hình tài chính của khách hàng, cán bộ tín dụng thường chỉ căn cứ vào việc phân tích các báo cáo tài chính mà khách hàng cung cấp. Do vậy độ chính xác của các báo cáo thẩm định là chưa cao, do các báo cáo tài chính mà khách hàng cung cấp có thể không trung thực. Để tăng đọ chính xác cho việc thẩm định tài chính khách hàng, ngân hàng phải yêu cầu các báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Tuy nhiên trong điều kiện nước ta hiện nay thì điều này là rất khó, do các doanh nghiệp vay thường là các doanh nghiệp nhỏ, thậm chí các doanh nghiệp lớn thì cũng việc kiểm toán là rất xa lạ do sợ tốn kém chi phí, đặc biệt là sợ lộ thông tin của doanh nghiệp mình.
Một nguồn thông tin có độ chính xác cao mà ngân hàng có thể khai thác là mua thông tin, tuy nhiên nếu làm thế chi phí sẽ rất tốn kém. Hơn nữa ở Việt Nam hiện nay chưa có những tổ chức chuyên nghiệp làm nhiệm vụ cung cấp thông tin như vậy.
Phương pháp thẩm định còn sơ sài:
Hiện nay SHB mới chỉ sử dụng một số phương pháp đơn giản như phương pháp giá trị hiện tại ròng (NPV), phương pháp tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR), phương pháp thời gian hoàn vốn đầu tư (PP). Việc áp dụng thêm một số phương pháp khác tùy thuộc vào trình độ của mỗi cán bộ thẩm định. Điều này dẫn tới việc phân tích các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án còn chưa đầy đủ và chưa thống nhất giữa các cán bộ tín dụng.
Trình độ công nghệ còn lạc hậu:
Hiện nay SHB chưa có phần mềm riêng để hỗ trợ cho công tác thẩm định mà các cán bộ tín dụng tính toán các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính, hay đánh giá rủi ro của dự án chủ yếu dựa trên các phần mềm sẵn có như Excel…Ở SHB đã có nhân viên bỏ tiền của mình ra để mua một phần mềm nhằm hỗ trợ cho việc đánh giá rủi ro dự án khi tiến hành thẩm định. Tuy nhiên hầu hết các cán bộ tín dụng đều chỉ sử dụng kinh nghiệm và các phần mềm mà ngân hàng cung cấp khi tiến hàng thẩm định.
Nguyên nhân khách quan
Môi trường pháp lý:
Do dự án liên quan đến rất nhiều các ngành nghề, lĩnh vực trong nền kinh tế nên để tiến hành thẩm định dự án, cán bộ tín dụng cần tra cứu và áp dụng rất nhiều các quy định về nghiệp vụ ngân hàng, kế toán, đầu tư…nhưng hệ thống các văn bản hiện nay vẫn chưa hoàn thiện, còn có sự chồng chéo hoặc chưa bao quát hết các tình huống xảy ra trong thực tế. Vì vậy việc nắm bắt, áp dụng các văn bản này khi tiến hành thẩm định gây nhiều khó khăn cho các cán bộ tín dụng. Hơn nữa các văn bản thường xuyên thay đổi, điều này gây rủi ro cho ngân hàng vì khi chính sách thay đổi làm cho hiệu quả dự án có thể bị tác động theo chiều hướng xấu
Môi trường kinh tế xã hội:
Hiện nay môi trường kinh tế xã hội Việt Nam được đính giá là có nhiều
tiềm năng trong việc phát triển, và đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tuy nhiên cơ chế chính sách còn chưa hoàn thiện nên còn gây khó khăn nhiều cho việc triển khai các dự án. Hơn nữa thị trường hoàng hóa trong và ngoài nước biến động thất thường, dẫn đến việc dự báo các yếu tố của dự án thường thiếu chính xác, dẫn đến kết quả thẩm định không sát với thục tế nếu dự án hoạt động trong thời gian dài
Trình độ lập dự án của khách hàng còn nhiều hạn chế:
Nhiều chủ đầu tư thiếu kinh nghiệm và trình độ trong việc lập dự án nhưng lại không thuê tư vấn nên các dự án khách hàng đưa tới đôi khi không đầy đủ, gây khó khăn cho các cán bộ thẩm định như mất nhiều thời gian công sức để tư vấn,hướng dẫn cho khách hàng, tiến hành thu thập thông tin…làm thời gian thẩm định kéo dài.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TCDA TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN HÀ NỘI
Định hướng công tác thẩm định TCDA đầu tư tại SHB
Định hướng trong hoạt động cho vay của SHB
Trong nền kinh tế hội nhập hiện nay, khu vực kinh tế tư nhân và khối doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng đóng vai trò quan trọng. Dự kiến đến năm 2010 các doanh nghiệp này sẽ đóng góp 40% GDP cả nước. Với tốc độ tăng trưởng, cao nhu cầu về vốn của khối này cũng sẽ rất lớn. Nắm bắt cơ hội này, trong thời gian tới, SHB tập trung mở rộng dịch vụ hướng vào đối tượng khách hàng này, hoạt động trong các lĩnh vực như:
Sản xuất, xuất nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
Sản xuất, xuất nhập khẩu hàng may mặc, đồ da.
Sản xuất, xuất nhập khẩu hàng gia dụng, dân dụng, nội thất.
Sản xuất, xuất nhập khẩu hàng điện tử, viễn thông.
Sản xuất, xuất nhập khẩu hàng nông sản thực phẩm, thuỷ sản.
Sản xuất, gia công phần mềm, công nghệ cao...
Ngoài ra SHB còn chú trọng liên kết với các khách hàng là các tập đoàn kinh tế lớn, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có tốc độ tăng trưởng cao như: ngành công nghiệp than; ngành công nghiệp cao su; công nghiệp đóng tàu; giao thông; cảng biển; thuỷ nhiệt điện; kinh doanh xây dựng địa ốc
Với mục tiêu xa hơn, SHB hướng đến mục tiêu trở thành một trong mười ngân hàng bán lẻ đa năng hiện đại hàng đầu tại Việt Nam, phấn đấu đến năm 2010 trở thành một tập đoàn tài chính cung cấp sản phẩm dịch vụ đa dạng cho các thị trường có lựa chọn, hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn, minh bạch, phát triển bền vững, áp dụng công nghệ thông tin hiện đại, đáp ứng các yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Quan điểm về chất lượng thẩm định dự án tại SHB
Với phương châm hoạt động là “ Solid parters- flexible solutions ” SHB luôn phấn đấu trở thành một đối tác tin cậy và đưa ra những giải pháp phù hợp đối với khách hàng của mình. Chính vì vậy trong công tác thẩm định dự án, SHB quan niệm rằng công tác thẩm định dự án là có chất lượng khi dự án không những đảm bảo được nguồn trả nợ cho ngân hàng mà còn đáp ứng được một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng: đó là nhu cầu tài trợ đủ vốn với thời hạn mong muốn và lãi suất phù hợp, với thủ tục vay vốn thuận tiện.
Để nâng cao chất lượng trong công tác thẩm định dự án thì SHB một mặt nâng cao chất lượng phục vụ, tư vấn cho khách hàng, mặt khác chỉ đạo việc phê duyệt một dự án phải qua ba cấp:
Cấp phân tích và đánh giá dự án (cán bộ phân tích tín dụng)
Cấp tái thẩm định (cán bộ trung gian tái thẩm)
Cấp xét duyệt cho vay
Sau khi có sự phê duyệt tín dụng, việc giải ngân và kiểm soát khoản cho vay được thực hiện theo quy trình tín dụng do SHB ban hành. Phòng quản lý tín dụng tại Hội sở trực thuộc ban Tổng giám đốc thực hiện chức năng tái thẩm định các dự án trên toàn hệ thống của SHB, đồng thời thực hiện chức năng phân tích đánh giá chất lượng các khoản tín dụng, điều hành và kiểm tra, kiểm soát các khoản tín dụng có vấn đề; theo dõi, đánh giá và đề xuất các giải pháp kiểm soát và ngăn ngừa các rủi ro tín dụng trên toàn hệ thống SHB.
Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định TCDA trong hoạt động cho vay tại SHB
Nâng cao nhận thức về vai trò của chất lượng thẩm định TCDA:
Nhận thức chi phối hành động con người, chính vì vậy việc nhận thức đúng vai trò của công tác thẩm định dự án sẽ quyết định tới chất lượng của công tác thẩm định TCDA.
Đối với ban lãnh đạo của ngân hàng, việc nhận thức đúng đắn về vai trò quan trọng của chất lượng thẩm định TCDA sẽ giúp ngân hàng đưa ra các chính sách, hướng dẫn đúng đắn, tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ các cán bộ tín dụng khi tiến hành thẩm định.
Ngoài ra việc nhận thức đầy đủ về chất lượng thẩm định TCDA giúp các cán bộ thẩm định có trách nhiệm cao trong công việc của mình, áp dụng các quy trình nghiệp vụ, thực hiện đầy đủ các khâu cần thiết theo hướng dẫn của ngân hàng để có được kết quả thẩm định là cao nhất.
Tóm lại vấn đề nhận thức ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng thẩm định TCDA, vì vậy để nâng cao chất lượng thẩm định thì việc nâng cao nhận thức của cán bộ là một đòi hỏi tất yếu.
Hoàn thiện công tác tổ chức thẩm định TCDA
SHB nên ban hành một quy trình tín dụng riêng hướng dẫn cho vay theo dự án, với những chuẩn mực cụ thể trong công tác thẩm định dự án
Ngoài ra SHB nên thành lập “ phòng thẩm định dự án” riêng, chứ không nên để các cán bộ của phòng khách hàng doanh nghiệp kiêm nhiệm công tác thẩm định như hiện nay. Phòng này sẽ chỉ làm nhiệm vụ thẩm định các dự án và trên cơ sở đó cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính, lập dự án cho khách hàng. Trong phòng nên phân thành các tổ thẩm định theo các loại dự án, ví dụ như tổ chuyên thẩm định về cho vay thương nghiệp, tổ thẩm định về cho vay công nghiệp…Nhờ sự chuyên môn hóa như vậy, khối lượng công việc với các cán bộ tín dụng sẽ được giảm bớt, đồng thời “ trả” phòng Quản lý tín dụng về chức năng chính là thực hiện công tác quản lý. Hơn thế nữa nhờ sự chuyên môn hóa này, công tác tổ chức thẩm định sẽ được tiến hành một cách khoa học, tránh sự chồng chéo cũng như sử dụng được các kiến thức chuyên môn của từng cán bộ thẩm định, có như vậy công tác thẩm định dự án mới phát huy được hiệu quả và chất lượng thẩm định TCDA mới được nâng cao.
Ngoài ra để chủ động trong việc trong việc đánh giá dự án trên phương diện kỹ thuật, làm cơ sở các định chính xác hơn doanh thu và chi phí của dự án, ngân hàng nên có một tổ tư vấn kỹ thuật với nhiệm vụ chuyên tư vấn cho cán bộ thẩm định và hội đồng tín dụng những yếu tố thuộc lĩnh vực kỹ thuật. Tuy nhiên tổ tư vấn này nên được xem xét một cách cận thận, tùy từng thời kỳ hoàn cảnh cụ thể của ngân hàng, tránh tình trạng lập ra lại làm gánh nặng cho ngân hàng.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thẩm định
Năng lực, trình độ của các cán bộ thẩm định là nhân tố chính quyết định đến chất lượng thẩm định TCDA. Nhân tố này đóng vai trò trung tâm trong mọi khâu thẩm định dự án, từ thu thập thông tin, phân tích thẩm định, báo cáo đến quyết định cho vay. Chính vì vậy nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thẩm định là rất quan trọng
Nhằm đạt được đội ngũ cán bộ có trình độ, đáp ứng những yêu cầu cho quá trình thẩm định, ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội cần tập trung vào chiến lược con người với nội dung sau:
Thứ nhất, ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội là ngân hàng mới nổi lên trong số các ngân hàng TMCP. Chính vì vậy đối với công tác tuyển dụng mới ngân hàng nên tuyển các cán bộ có kinh nghiệm, đã từng làm công tác thẩm định tại các tổ chức tín dụng khác. Điều này vừa làm giảm chi phí,vừa làm giảm thời gian đào tạo lại dành cho các nhân viên mới.
Thứ hai, đối với đội ngũ cán bộ đang làm việc tại ngân hàng, ngân hàng nên tổ chức các khóa học đào tạo ngắn hạn về công tác lập, phân tích, thẩm định dự án đầu tư… với sự giảng dạy của các chuyên gia trong và ngoài nước có uy tín tại từ các bộ, ban, ngành, trường đại học để cán bộ không chỉ nắm vững lý thuyết mà còn hiểu rõ thực tế, không chỉ hiểu biết một lĩnh vực mà nhiều lĩnh vực khác nhau. Bên cạnh đó ngân hàng cũng cần tổ chức học tập, rút kinh nghiệm trong công tác thẩm định thông qua các dự án đã tiến hàng thẩm định, đặc biệt đối với các dự án kém hiệu quả phải gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn nợ…để cán bộ có thể rút ra những bài học bổ ích.
Ngoài ra, ngân hàng cũng cần có những quy định, chế tài xử lý nghiêm khắc đối với những cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm, mưu lợi cá nhân gây thất thoát, ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Nâng cao chất lượng công tác thu thập và xử lý thông tin phục vụ công tác thẩm định
Thông tin thu thập được là rất quan trọng đối với quá trình thẩm định. Các thông tin không chính xác có thể làm sai lệch kết quả thẩm định dẫn tới các quyết định cho vay không hiệu quả. Chính vì vậy nguồn thông tin phục vụ cho quá trình thẩm định cần phải chính xác, chân thực, có độ tin cậy cao. Để nâng cao chất lượng công tác thu thập và xử lý thông tin, cán bộ thẩm định cần chú trọng tới một số vấn đề sau:
Đối với thông tin do khách hàng cung cấp, đặc biệt là các báo cáo tài chính thì cần yêu cầu các thông tin đã được kiểm toán hoặc ngân hàng cũng có thể tự thuê công ty kiểm toán độc lập tiến hành kiểm toán các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Đối với những dự án mà nhu cầu vay vốn lớn thì điều này là rất quan trọng, nhằm tránh những thông tin không minh bạch và thiếu chính xác do doanh nghiệp cung cấp. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hay các cá nhân, việc tiến hành thuê các công ty kiểm toán sẽ rất tốn chi phí. Chính vì vậy các khách hàng nhỏ sẽ không tìm đến ngân hàng để vay vốn, mà sẽ tìm đến một ngân hàng khác có yêu cầu thấp hơn.
Đối với các thông tin mà cán bộ tín dụng thu thập cần được tổng hợp từ nhiều nguồn: từ khách hàng, thông tin nội bộ ngân hàng, thông tin từ CIC, báo chí, internet…Nếu chỉ dựa vào một nguồn thông tin thì độ chính xác không cao, và cán bộ tín dụng sẽ không có được cái nhìn đa chiều về vấn đề cần thẩm định. Tuy nhiên việc dựa vào nhiều nguồn thông tin khác nhau có thể có những chênh lệch, vì vậy cán bộ tín dụng cần phải tiến hành so sánh, điều chỉnh để có được nguồn thông tin chính xác và hiệu quả. Việc phân tích thông tin phải được xem xét, đánh giá dựa trên cơ sở khoa học như các phương pháp toán, thống kê… chứ không được chỉ dựa trên những đánh giá chủ quan của cán bộ thẩm định.
Ngoài ra các thông tin thu thập cần phải được lưu trữ lại làm cơ sở thống kê cho các dự án sau đó, nhằm tránh tình trạng phải tiến hàng thu thập lại các thông tin khi có dự án tương tự, gây lãng phí về thời gian và tiền bạc.
Hoàn thiện nội dung và phương pháp thẩm định TCDA
Về thẩm định tổng vốn đầu tư và cơ cấu nguồn vốn
Trong quá trình thẩm định dự án, cán bộ tín dụng thường đồng ý với tổng vốn đầu tư mà khách hàng đưa ra mà chưa có sự xem xét tính chính xác và hợp lý của nguồn vốn này. Để nâng cao chất lượng thẩm định TCDA thì các cán bộ tín dụng cần phải thẩm định chính xác quy mô và cơ cấu của tổng vốn đầu tư của dự án. Cán bộ tín dụng cần so sánh quy mô và cơ cấu tổng vốn đầu tư với các dự án cùng lĩnh vực, ngành nghề hoặc các dự án tương tự được tiến hành ở các doanh nghiệp khác. Đặc biệt cán bộ tín dụng cần xác định mức dự phòng hợp lý trên cơ sở phân tích những yếu tố liên quan như tỷ giá, lạm phát…
Ngoài ra khi tính tổng vốn đầu tư, cán bộ tín dụng cũng cần phải xem xét tới yếu tố vốn lưu động. Nếu như dự án bỏ qua phần vốn lưu động khi soạn thảo, thì ngân hàng cũng phải làm tôt khâu tư vấn, giúp chủ dự án có thể bổ sung, hoàn thiện phần vốn này vào dự án của mình.
Khi thẩm định nguồn tài trợ của dự án, ngân hàng cần phải đánh giá kỹ tính khả thi của từng nguồn vốn tài trợ, đặc biệt phải thẩm định kỹ nguồn vốn tự có của doanh nghiệp trên cơ sở phân tích tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh trên cơ sở các báo cáo tài chính trung thực gửi đến ngân hàng
Về thẩm định doanh thu, chi phí
Dự án vay vốn thường được triển khai trong một khoảng thời gian dài, chính vì vậy các dự án luôn chịu sự tác động của các yếu tố vĩ mô như lạm phát, tỷ giá…hay sự biến động của môi trường kinh tế. Những thay đổi này đôi khi ảnh hưởng rất lớn tới chi phí của dự án, hay tới doanh thu của dự án. Do đó khi tiến hành thẩm định, cán bộ tín dụng cần chú ý tới sự tác động của các yếu tố này, từ đó đưa ra các dự tính sát với thực tế.
Ngoài ra, khi tính toán chi phí, cán bộ tín dụng cũng cần chú ý tới việc xác định mức khấu hao hợp lý. Hiện nay hầu hết các ngân hàng đều sử dụng phương pháp khấu hao đều. Tuy nhiên việc áp dụng phương pháp này đối với hầu hết các loại tài sản, các dự án là điều không hợp lý, do các TSCĐ càng về cuối dự án, mức độ khấu hao càng tăng. Điều này sẽ ảnh hưởng tới tính chính xác trong việc tính toán các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính của dự án. Chính vì vậy các cán bộ tín dụng cần nghiên cứu nhiều phương pháp khấu hao khác nhau và lựa chọn phương pháp hợp lý nhất đối với từng loại TSCĐ của từng dự án.
Dù cán bộ tín dụng có lựa chọn phương pháp khấu hao nào đi nữa thì cũng cần phải đảm bảo rằng tổng mức khấu hao qua các năm phải bằng nguyên giá TSCĐ.
Về thẩm định dòng tiền
Thực tế có rất nhiều các dự án mà các TSCĐ có tuổi thọ dài hơn rất nhiều so với vòng đời của dự án. Mặc dù giá trị của TSCĐ đã được tính khấu hao hết trong các năm, nhưng giá trị thanh lý của tài sản này khi dự án kết thúc lại không nhỏ. Chính vì vậy khi xác định dòng tiền, cán bộ tín dụng cần phải đưa giá trị thanh lý TSCĐ vào tính toán dòng tiền. Ngoài ra, cán bộ tín dụng cũng cần phải tính đến chi phí cơ hội và giá trị thu hồi vốn lưu động ròng. Có như vậy việc tính toán dòng tiền mới đầy đủ và chính xác.
Mặt khác, đối với các dự án có vốn đầu tư dàn trải trong nhiều năm thì cán bộ thẩm định nên xác định lượng vốn cụ thể chi ra trong từng thời kỳ, sau đó tiến hành quy về năm 0, không nên tính toán tất cả vốn đầu tư chỉ được chi ra tại thời điểm năm 0.
Về thẩm định lãi suất chiết khấu
Việc áp dụng lãi suất chiết khấu cần được thống nhất theo một quan điểm chung để có thể đánh giá so sánh các dự án với nhau.Đối với các dự án vay vốn tại SHB, có cấu vốn là hỗn hợp, vì vậy lãi suất chiết khấu áp dụng cho dự án là chi phí vốn bình quân gia quyền WACC
WACC=Wd*Kd * ( 1-T) + Ws*Ks
Trong đó:
Wd là tỷ trọng vốn vay trong tổng nguồn vốn
Kd là chi phí vốn vay ( lãi vay)
Ws là tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn
Ks là chi phí vốn chủ sở hữu
T là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế hiện nay, khi mà các doanh nghiệp xin vay vốn đều chưa thực hiện niêm yết trên thị trường chứng khoán thì việc tính toán chi phí vốn chủ sở hữu Ks là rất khó khăn. Chính vì vậy ngân hàng có thể dùng lãi suất cho vay áp dụng với dự án cộng thêm phần bù rủi ro. Phần bù này phải được xác định dựa trên mức độ rủi ro, thời hạn của dự án. Việc xác định này nhằm tạo ra cơ sở thống nhất trong cách xác định lãi suất chiết khấu.
Về phân tích rủi ro của dự án
Hiện nay, khi phân tích rủi ro của dự án, ngân hàng thường sử dụng phương pháp phân tích độ nhạy khi cho một biến số thay đổi. Tuy nhiên trên thực tế, rất ít khi có trường hợp một yếu tố thay đổi, vì vậy ngân hàng nên xem xét sự biến động của các chỉ tiêu tài chính (NPV, IRR) dưới tác động đồng thời của nhiều yếu tố.
Mặt khác phương pháp phân tích độ nhạy không lượng hóa được cơ bản các chỉ tiêu hiệu quả tài chính trong trường hợp tốt nhất và xấu nhất sau đó so với cơ sở, do sự phân tích chỉ bằng cách thay đổi các biến trong phạm vi có thể và không được tính toán dựa trên sự phân bố xác suất. Chính vì vậy để đánh giá rủi ro của dự án một cách toàn diện và chính xác hơn, ngân hàng nên áp dụng thêm phương pháp phân tích tình huống và phương pháp phân tích mô phỏng. Tuy nhiên việc để đưa vào và áp dụng phương pháp này ngân hàng cần phải có những lộ trình cụ thể trong việc nghiên cứu và ứng dụng, sau đó đào tạo, hướng dẫn cán bộ tín dụng sử dụng. Phương pháp phân tích tình huống và mô phỏng có thể giúp ngân hàng đánh giá rủi ro một cách toàn chính xác hơn phương pháp phân tích độ nhạy, nhưng nó cũng đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có trình độ cao và phải được nghiên cứu và áp dụng trong từng ngân hàng.
Về phương pháp thẩm định
Hiện nay các phương pháp thẩm định tại ngân hàng còn sơ sài, mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá TCDA thông qua chỉ tiêu cơ bản là NPV, IRR và PP. Ngân hàng cần nghiên cứu, bổ sung thêm các phương pháp khác như phương pháp chỉ số lợi nhuận (PI), hay điểm hòa vốn cả đời dự án... Mặc dù có thể đánh giá hiệu quả TCDA nếu không có các chỉ tiêu này, nhưng nếu sự có mặt của chúng di kèm với các phương pháp cũ thì việc đánh giá hiệu quả dự án sẽ đầy đủ và chính xác hơn.
Tăng cường trang thiết bị và công nghệ phục vụ thẩm định dự án
Hiện nay tại SHB, mỗi cán bộ tín dụng đều được tranh bị một máy tính cá nhân để bàn. Tuy nhiên những máy tính này chỉ dừng lại ở những công việc đơn giản như đánh máy, lưu trữ tài liệu hay những tính toán đơn thuần trên Excel. Ngân hàng vẫn chưa có những phần mềm chuyên biệt phục vụ cho việc phân tích rủi ro dự án. Chính vì vậy để tạo điều kiện thuận tiện cho cán bộ thẩm định được hiệu quả, ngân hàng cần tiến hành nghiên cứu xây dựng các chương trình phần mềm phục vụ công tác thẩm định TCDA để tiết kiệm thời gian, đảm bảo việc phân tích và xử lý thông tin một cách chính xác và khoa học, từ đó nâng cao chất lượng thẩm định TCDA trong ngân hàng.
Một số kiến nghị
Kiến nghị với Chính phủ
Chính phủ cần xây dựng một hành lang pháp lý đồng bộ, chặt chẽ với các chính sách nhất quán trong lĩnh vực đầu tư và hoạt động của ngân hàng. Điều này một mặt sẽ thu hút nhiều vốn đầu tư cho các dự án, phát triển kinh tế, mặt khác cũng tạo điều kiện thuận lợi cho cả chủ đầu tư khi triển khai dự án và cho các ngân hàng trong công tác thẩm định dự án của mình.
Hiện nay, hoạt động tư vấn đầu tư còn rất sơ khai ở Việt Nam. Một mặt là do các doanh nghiệp chưa có thói quen tìm đến với hoạt động tư vấn, một mặt cũng do chất lượng hoạt động tư vấn chưa cao, do chưa có nhiều các tổ chức tài chính kinh tế lớn, có uy tín, chuyên nghiệp xâm nhập vào thị trường Việt Nam. Vì vậy, Nhà nước cần tạo ra một môi trường pháp lý hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp này hoạt động.
Một trong những yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định TCDA đó chính là độ tin cậy của nguồn thông tin thu thập được của ngân hàng. Hiện nay nguồn thông tin thẩm định tình hình tài chính của khách hàng đều được cung cấp thông qua các báo cáo tài chính mà các doanh nghiệp tự lập. Chính vì vậy mà độ tin cậy của nguồn thông tin này là chưa cao. Do đó Chính phủ cần đẩy mạnh hoạt động kiểm toán Nhà nước và kiểm toán độc lập trong nền kinh tế, vì đây là những cơ quan có thể cung cấp thông tin một cách chính xác và khách quan giúp cho các ngân hàng cũng như các cơ quan quản lý. Ngoài ra Chính phủ cần có một chế tài xử lý thích hợp đối với những doanh nghiệp không tuân thủ nhưng quy định của Nhà nước về chế độ kế toán, tài chính hoặc cố tình cung cấp những thông tin sai lệch.
Chính phủ cần có những biện pháp nhằm phát triển thị trường chứng khoán một cách ổn định, bền vững.Thị trường chứng khoán phát triển một mặt tạo điều kiện phát triển nền kinh tế, mở rộng hoạt động đầu tư, dẫn đến nhu cầu về vốn đầu tư cho các dựa án sẽ tăng lên, mặt khác sẽ giúp các ngân hàng trong công tác thu thập thông tin đáng tin cậy trong quá trình, đặc biệt đối với những doanh nghiệp có nhu cầu vốn mà niêm yết trên thị trường chứng khoán. Hơn nữa khi thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả thì việc tính chi phí vốn chủ sở hữu sẽ trở nên dễ dàng hơn, và lãi suất chiết khấu sẽ được xác định một cách chính xác hơn hiện nay.
Việc xây dựng quy hoạch, phát triển kinh tế cho cả nước cũng như cho từng ngành phải đẩm bảo một sự thống nhất và ổn định, tránh trùng lập. Một chính sách kinh tế phù hợp sẽ góp phần hạn chế những thay đổi nằm ngoài dự tính của các biến số kinh tế , giúp công tác thẩm định rủi ro của dự án được chính xác hơn.
Việc công bố thông tin một cách chính xác cũng có nhiều ý nghĩa không chỉ đối với ngân hàng mà đối với các chủ thể khác trong nền kinh tế. Vì vậy Chính phủ cần chỉ đạo hoạt động của các cơ quan thống kê một cách hiệu quả. Việc công bố các thông tin về định mức trung bình ngành, các lĩnh vực… sẽ giúp các ngân hàng có cơ sở để so sánh, đánh giá.
Kiến nghị đối với ngân hàng nhà nước
Ngân hàng nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách, quy định trong lĩnh vực ngân hàng, cần phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng các văn bản quy phạm dưới luật như Nghị định, Thông tư, các văn bản hướng dẫn…
Ngân hàng nhà nước cần có các biện pháp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của trung tâm phòng ngừa rủi ro. Trung tâm này cần đưa ra mức độ rủi ro của từng ngành nghề, lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp, trên cơ sở đó làm căn cứ cho ngân hàng trong việc đánh giá, phân loại, xếp hạng doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án.
Ngoài ra ngân hàng nhà nước cần nâng cao vai trò của trung tâm thông tin tín dụng (CIC) trong việc đảm bảo cung cấp các thông tin kịp thời, đầy đủ, chính xác về tình hình của khách hàng…Trung tâm này cũng nên phối hợp với các cơ quan khác như tổng cục thống kê...hay các Bộ, ban ngành để có nguồn thông tin đa chiều, đáng tin cậy.
Ngân hàng nhà nước cũng nên tư vấn cho các NHTM các thông tin về phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, nhưng ngành kinh tế mũi nhọn…để giúp cho các NHTM nghiên cứu, thu thập thông tin nhằm đón đầu nhu cầu đầu tư, nâng cao chất lượng trong viêch thẩm định các dự án hoạt động trong các lĩnh vực này.
Ngân hàng nhà nước cần hướng dẫn các NHTM tăng cường hợp tác trong việc cung cấp thông tin khách hàng cho nhau nhằm hạn chế rủi ro. Bên cạnh đó, ngân hàng nhà nước cũng cần có sự phối hợp với các ban ngành đặc thù như Bộ xây dựng… để xây dựng những hệ thống những tiêu thức đánh giá các doanh nghiệp hoạt động trong ngành một cách thống nhất, tránh tình trạng một doanh nghiệp nhưng các ngân hàng đánh giá, xếp loại khác nhau gây khó khăn trong việc trao đổi thông tin.
Hiện nay, do chưa có sự thống nhất chung trong quy trình, nội dung thẩm định dự án giữa các NHTM dẫn đến khi thẩm định dự án các NHTM có kết quả khác nhau. Chẳng hạn việc tính lãi suất chiết khấu ở các NHTM hiện nay còn rất khác nhau nên các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính dự án cũng khác nhau. Điều này gây khó khăn cho các NHTM khi tiến hành đồng tài trợ cho các dự án lớn. Vì vậy để tạo thuận lợi cho các ngân hàng, ngân hàng nhà nước cần nghiên cứu đưa ra những nguyên tắc chung, những quy trình và nội dung thẩm định thống nhất cho hệ thống ngân hàng.
MỤC LỤC
Danh mục các chữ viết tắt
Lời mở đầu
Kết luận
Tài liệu tham khảo
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7595.doc