LỜI NÓI ĐẦU
Trong bối cảnh hiện nay thì hội nhập và quốc tế hóa đã trở thành một xu thế tất yếu đối với nền kinh tế. Do đó, để có thể cạnh tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới chúng ta cần phải có sự phát triển vượt bậc. Với xuất phát điểm thấp, yêu cầu bức thiết đặt ra cho Việt Nam là phải đẩy mạnh đầu tư trong nước, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trước tình hình đó, các dự án đầu tư phát triển kinh tế đóng vai trò vô cùng q
84 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1210 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) chi nhánh Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uan trọng và thiết yếu.
Tuy nhiên, một thực tế hiện nay đó là nền kinh tế còn đầy rẫy những khó khăn. Các doanh nghiệp và chủ đầu tư thật chẳng dễ dàng tìm được nguồn vốn đầu tư để triển khai các dự án của mình. Doanh nghiệp không chỉ sử dụng vốn tự có của mình vì quá ít ỏi mà doanh nghiệp cần phải huy động thêm các nguồn vốn khác như vốn góp liên doanh, vốn ngân sách cấp, vốn vay ngân hàng... Trong đó quan trọng nhất phải kể đến đó là vốn vay ngân hàng vì nó là nguồn tài trợ quan trọng với quy mô lớn, năng động, kịp thời và hiệu quả. Như vậy ngân hàng là một trung gian tài chính rất quan trọng có vai trò quyết định trong việc điều chuyển vốn tập trung đầu tư để có thể tạo ra những bước phát triển nhảy vọt.
Tuy nhiên như vậy không có nghĩa là ngân hàng sẽ đáp ứng ngay nhu cầu vốn đầu tư khi doanh nghiệp có nhu cầu mà ngân hàng cần phải xem xét tình hình tài chính của doanh nghiệp, tình hình sản xuất kinh doanh, tính khả thi của dự án... hay nói cách khác là phải thẩm định dự án đầu tư trước khi cho vay để đảm bảo khả năng trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng và góp phần vào sự phát triển chung của đất nước.
Là một chi nhánh quan trọng của Ngân hàng Công thương Việt Nam, một ngân hàng lớn trong hệ thống ngân hàng tại Việt Nam, ngân hàng công thương Ba Đình luôn nhận thức được tầm quan trọng của công tác thẩm định tài chính dự án, tuy nhiên không tránh khỏi những khó khăn nhất định.
Xuất phát từ thực tế đó, qua thời gian thực tập tại ngân hàng công thương Ba Đình em xin chon đề tài : “ Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại ngân hàng công thương chi nhánh Ba Đình” để làm chuyên đề tốt nghiệp.
Trên cơ sở những kiến thức cơ bản về thẩm định tài chính dự án cùng với sự tìm hiểu thực tế hoạt động tại chi nhánh, kết cấu chuyên đề của em bao gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về chất lượng thẩm định tài chính dự án của ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án tại Ngân hàng công thương Ba Đình.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại Ngân hàng công thương Ba Đình.
Với lý luận ở chương I, thực trạng ở chương II, giải pháp ở chương III.
Do hạn chế về mặt thời gian và trình độ thực hiện, bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự nhận xét, đóng góp của các thầy cô trong khoa để chuyên đề của em được tốt hơn.
Sinh viên thực hiện
Đinh Tiến Thành
CHƯƠNG I.
TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
1.1.1.Hoạt động cho vay của NHTM nói chung
Với vai trò là trung gian tài chính trong nền kinh tế, xã hội mong muốn các ngân hàng hỗ trợ về mặt tài chính cho sự phát triển của nền kinh tế và cho toàn xã hội. Ngân hàng cung cấp các dịch vụ tài chính mà đặc biệt là đáp ứng nhu cầu tài chính của doanh nghiệp và người tiêu dùng thông qua hình thức cấp tín dụng với một mức lãi suất hợp lý. Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ yếu, là khoản mục tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng của các NHTM. Lãi thu được từ hoạt động cho vay là nguồn thu lớn nhất của ngân hàng để bù đắp các chi phí như: chi phí huy động vốn, chi phí kinh doanh, chi phí quản lý và tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng.
Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
Nghiệp vụ cho vay của các NHTM có thể phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau nhưng phổ biến nhất là phân chia theo thời gian. Việc phân chia các khoản cho vay theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của ngân hàng. Có thể phân loại thành:
* Cho vay ngắn hạn: là khoản cho vay có thời hạn từ 0 đến 12 tháng( dưới 01 năm). Tỷ trọng các khoản cho vay ngắn hạn tại các NHTM thường cao hơn tỷ trọng các khoản cho vay trung và dài hạn, các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của khách hàng.
* Cho vay trung hạn: là khoản cho vay có thời hạn từ trên 01 năm( 12 tháng) đến 05 năm.
* Cho vay dài hạn: là khoản cho vay có thời hạn trên 05 năm.
Các khoản cho vay trung và dài hạn thường chiếm tỷ trọng thấp hơn các khoản cho vay ngắn hạn do có thời hạn dài hơn, mức độ rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay, khi nhu cầu đầu tư cho nền kinh tế ngày càng tăng thì nhu cầu vay trung và dài hạn của các tổ chức kinh tế cũng tăng nhanh. Đặc biệt nhu cầu đầu tư theo dự án đang ngày càng trở thành xu thế phát triển trong nền kinh tế vì vậy đòi hỏi các NHTM phải nhanh chóng tiếp cận và phát triển loại hình cho vay theo dự án, một mặt đáp ứng nhu cầu của khách hàng, mặt khác tăng lợi nhuận và khả năng cạnh tranh cho ngân hàng. Vậy hoạt động cho vay theo dự án có đặc điểm gì khác biệt so với các loại hình cho vay thông thường?
1.1.2. Hoạt động cho vay theo dự án của NHTM:
Một hình thức cho vay phổ biến hiện nay ở các NHTM là cho vay theo dự án đầu tư. Đây là hình thức NHTM cho khách vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và phục vụ đời sống. Ngoài những đặc điểm chung của hoạt động cho vay thì cho vay theo dự án có những đặc điểm cơ bản sau:
Đây là những khoản cho vay trung và dài hạn( thời hạn kéo dài từ 12 tháng đến 60 tháng đối với các dự án trung hạn và trên 60 tháng đối với các dự án dài hạn). Đặc điểm này xuất phát từ tính chất dài hạn của các khoản đầu tư ( đầu tư thường có thời gian từ 01 năm trở nên, những hoạt động ngắn hạn trong vòng 01 năm tài chính không được coi là đầu tư ). Do thời hạn của các khoản cho vay theo dự án thường kéo dài nên rủi ro tín dụng sẽ cao. Để bù đắp rủi ro NHTM sẽ áp dụng lãi suất cho vay theo dự án cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn và thường là lãi suất thoả thuận giữa ngân hàng và chủ dự án.
Cho vay theo dự án là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho những dự án cụ thể. Dự án là một tập hợp các hoạt động đặc thù liên kết chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau nhằm đạt được trong tương lai ý tưởng đã đặt ra (mục tiêu nhất định ) với nguồn lực và thời gian xác định.
Cho vay theo dự án là loại hình cho vay có mức độ rủi ro cao song lãi lớn. Nguyên nhân là do quy mô vốn tài trợ cho các dự án thường lớn, thời hạn vay dài. Hơn nữa dự án được xây dựng dựa trên những giả định, tồn tại trong môi trường không chắc chắn, môi trường triển khai dự án thường xuyên thay đổi, chứa đựng nhiều yếu tố bất định nên trong dự án rủi ro thường lớn và có thể xảy ra.
Vốn đầu tư cho các dự án thường khá lớn nhưng ngân hàng không cho vay toàn bộ nhu cầu vốn của dự án mà ngân hàng sẽ căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàngtham gia vào dự án, tỷ lệ cho vay tối đa so với giá trị tài sản bảo đảm để định ra một mức cho vay hợp lý:
Số tiền cho vay
=
Tổng vốn đầu tư của dự án
-
Vốn chủ sở hữu hoặc vốn tự có tham gia
-
Nguồn vốn huy động khác
Những đặc điểm trên quyết định đặc tính sinh lời và đặc tính rủi ro của hoạt động cho vay theo dự án. Sự thất bại của một khoản cho vay đầu tư sẽ có tác động rất tiêu cực đến ngân hàng , nó không chỉ làm giảm lợi nhuận của ngân hàng mà còn làm giảm khả năng thanh khoản của ngân hàng thậm chí nó có thể làm giảm vốn chủ sở hữu và dẫn tới sự phá sản của ngân hàng. Vì vậy, để hoạt động cho vay theo dự án đạt được mục tiêu an toàn và lợi nhuận thì ngân hàng phải thận trọng trước khi ra quyết định cho vay. Hiện nay, các NHTM thường tiến hành quy trình tín dụng qua 04 bước:
* Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng: Đây là bước quan trọng nhất, quyết định chất lượng của quy trình phân tích tín dụng. Nội dung chủ yếu là thu thập và xử lý các thông tin liên quan đến khách hàng bao gồm năng lực sử dụng vốn vay, uy tín và khả năng tạo ra lợi nhuận của khách hàng, nguồn ngân hàng quỹ và quyền sử hữu các tài sản và các điều kiện kinh tế khác có liên quan đến người vay.
* Bước 2: Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng: trong bước này, ngân hàng hàng cùng khách hàng cân nhắc kỹ lưỡng các nội dung của bản hợp đồng tín dụng trong đó có sự thoả thuận giữa các bên về số lượng tín dụng, lãi suất, phí suất, thời hạn tín dụng, các loại bảo đảm, giải ngân hàng, điều kiện thanh toán, các điều kiện khác. Nếu đặt được sự thoả thuận thì các bên sẽ ký hợp đồng tín dụng.
* Bước 3: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng: Sau khi ký kết hợp đồng tín dụng, Ngân hàng phải có trách nhiệm cấp tiền cho khách hàng như đã thoả thuận đồng thời ngân hàng có quyền kiểm soát khách hàng về mục đích sử dụng vốn vay, tiến độ thực hiện, quá trình sản xuất kinh doanh...để đảm bảo an toàn cho vốn đã giải ngân và ra quyết định giải ngân trong thời gian còn lại của hợp đồng.
* Bước 4: Thu nợ và ra các phán quyết tín dụng mới.
Trong quy trình tín dụng trên thì với các khoản cho vay theo dự án, các NHTM thường xem giai đoạn phân tích trước khi cho vay- giai đoạn phân tích tín dụng, thẩm định dự án là quan trọng nhất. Kết quả của khâu này sẽ quyết định chất lượng của khoản cho vay. Riêng trong hoạt động thẩm định dự án đầu tư thì thẩm định tài chính dự án là nội dung quan trọng và phức tạp nhất. Thẩm định tài chính dự án là khâu mà các NHTM đều đặc biệt phải quan tâm hàng đầu để giảm thiểu rủi ro, đảm bảo an toàn vốn đàu tư, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng và tăng khả năng cạnh tranh cho các NHTM.
1.2. THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NHTM:
1.2.1. Thẩm định dự án trong hoạt động cho vay của NHTM:
1.2.1.1 Khái niệm và mục đích:
Dự án là một tập hợp các hoạt động đặc thù liên kết chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau nhằm đạt được trong tương lai ý tưởng đã đặt ra( mục tiêu nhất định) với nguồn lực và thời gian xác định.
Các dự án đầu tư khi soạn thảo dự án được tính toán, nghiên cứu rất kỹ nhưng không thể tránh khỏi tính chủ quan của nhà phân tích, những khiếm khuyết, lệch lạc tồn tại trong quá trình thực hiện dự án là điều tất nhiên. Để đánh giá tính hợp lý, tính hiệu quả và tính khả thi của dự án từ đó ra quyết định dự án có được thực thi hay không cần phải có một quá tình xem xét, đánh giá một cách độp lập, tách biệt với quá trình soạn thảo dự án. Quá trình đó gọi là thẩm định dự án.
Thẩm định dự án là việc kiểm tra, so sánh, đánh giá một cách khách quan, khoa học và toàn diện các nội dung của dự án và liên quan đến dự án hoặc so sánh, đánh giá các phương án của một hay nhiều dự án để đánh giá tính hợp lý, tính hiệu quả và tính khả thi của dự án. Từ đó có những quyết định đầu tư và cho phép đầu tư.
Mục đích chung của thẩm định dự án đầu là đánh giá tính hợp lý, tính hiệu quả và tính khả thi của dự án. Tuy nhiên, mục đích cuối cùng của thẩm định dự án lại phụ thuộc vào chủ thể thẩm định:
* Chủ đầu tư: Thẩm định dự án nhằm đưa ra quyết định đầu tư.
* Nhà tài trợ (các ngân hàng hàng ): Thẩm định dự án để ra quyête định tài trợ vốn.
* Cơ quan quản lý Nhà nước: Thẩm định dự án để xét duyệt, cấp giấy phép đầu tư.
1.2.1.2. Nội dung thẩm định dự án trong hoạt động cho vay của NHTM:
Tuỳ thuộc vào loại dự án, quy mô dự án, môi trường thực hiện dự án và mức độ ảnh hưởng của dự án tới môi trường xung quanh mà nội dung thẩm định dự án có thể khác nhau nhưng bao gồn trong 08 nội dung chính sau:
* Thẩm định các điều kiện pháp lý: Kiểm tra tính hợp lý, hợp lệ của hhồ sơ trình duyệt, tư cách pháp nhân và năng lực của chủ đầu tư...
* Thẩm định mục tiêu của dự án: Kiểm tra sự phù hợp giữa mục tiêu của dự án với kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, của ng
ành, vùng và cả nước...
* Thẩm định về thị trường của dự án: Kiểm tra về nhu cầu hiện tại, trong tương lai, khả năng cạnh tranh sản phẩm của dự án và vùng thị trường của dự án.
* Thẩm định kỹ thuật của dự án: Kiểm tra công cụ tính toán, sai sót trong tính toán, sự phù hợp của công nghệ, thiệt bị đối với dự án...
* Thẩm định về tài chính của dự án: Kiểm tra tổng vốn đầu tư, cơ cấu vốn đầu tư, độ an toàn về tài chính( mức độ chủ động về tài chính của dự án trong xử lý các bất thường khi thực hiện dự án ), kiểm tra và đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án, thẩm định định mức rủi ro của dự án...
* Thẩm định định về kinh tế- xã hội: Kiểm tra việc sử dụng nguồn tài nguyên của dự án có hợp lý hay không, tạo việc làm và thu nhập cho xã hội, cải thiện đời sống xã hội như thế nào...
* Thẩm định định môi trường sinh thái: Đánh giá tác động của dự án đến môi trường xung quanh ở các khía cạnh tích cực và tiêu cực.
* Thẩm định kế hoạch tổ chức, triển khai thực hiện dự án: Kiểm tra, đanh giá kế hoạch cung cấp các điều kiện của dự án, các biện pháp thực hiện dự án, tiến độ thực hiện dự án, mức độ khả thi của các kế hoạch, biện pháp trong khi thực hiện dự án...
1.2.2. Thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của NHTM:
1.2.2.1 Khái niệm và mục đích của công tác thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của NHTM:
Thẩm định tài chính dự án là việc rà soát, đánh giá một cách khoa học và toàn diện mọi khía cạnh tài chính của dự án trên giác độ của nhà đầu tư, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và cá nhân, hay nói cách khác thẩm định tài chính dự án là việc xem xét dự án sẽ tạo ra được những lợi ích tài chính gì trong tương lai từ những nguồn lực tài chính đã đầu tư cho dự án.
Khi ngân hàng tiếp nhận hồ sơ vay vốn của khách hàng, điều ngân hàng quan tâm là tính khả thi của dự án, trên cơ sở đó dự án mới có khả năng lãi vay và trả nợ, đảm bảo mục tiêu an toàn và sinh lời cho ngân hàng. Vì vậy, mục tiêu của NHTM khi tiến hành thẩm định tài chính dự án là nhằm:
Đánh giá và đưa ra kết luận một cách khoa học, chính xác, toàn diện và sâu sắc vầ tình hình tài chính của dự án trên phương diện phân tích kế hoạch vốn đầu tư, cơ cấu vốn đầu tư, dòng tiền của dự án, các chỉ tiêu hiệu quả tài chính, đo lường mức độ rủi ro cảu dự án và điều mà ngân hàng đặc biệt quan tâm là khả năng trả nợ của dự án. Dựa trên những kết quả của công tác thẩm định tài chính dự án này mà ngân hàng ra quyết định tín dúng đồng ý hay từ chối tài trợ cho dự án.
Căn cứ vào những kết luận và tình hình tài chính của dự án đã được thẩm định, ngân hàng xác định các điều kiện tài trợ và phương thức tài trợ cho dự án : quy mô tín dụng, thời hạn tín dụng, thời gian trả nợ, thời gian ân hạn, lãi suất, tài sản bảo đảm...
Phát hiện và rút ra kinh nghiệm trong công tác thẩm định tài chính dự án từ đó có những biện pháp phòng ngừa tối đa thiệt hại rủi ro tín dụng, tránh tổn thất cho ngân hàng và đưa ra ý kiến tư vấn giúp khách hàng sử dụng vốn vay an toàn, hiệu quả.
1.2.2.2 Sự cần thiết phải tiến hành thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của NHTM:
Cho vay là hoạt động chủ yếu tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng những cũng là hoạt động đem đến nhiều rủi ro nhất. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu đầu tư cho sản xuất kinh doanh ngày càng tăng tuy nhiên không phải lúc nào chủ dự án cũng có đủ khả năng về tài chính để đáp ứng một lượng vốn rất lớn cho việc thực hiện dự án. Khi đó NHTM với tư cách là nhà trung gian tài chính lớn nhất và có vai trò quan trọng nhất trong nền kinh tế sẽ đứng ra gánh vác trách nhiệm này. Vì vậy hoạt động cho vay theo dự án của các NHTM hiện nay đang có xu hướng ngày càng tăng nhanh cả về số lượng và quy mô dự án. Tuy nhiên hoạt động cho vay theo dự án với những đặc điểm riêng biệt của nó như đã trình bày ở trên đã thể hiện đây là hình thức cho vay có độ rủi ro rất cao, nếu rủi ro xảy ra có thể làm giảm lợi nhuận của ngân hàng , thậm chí có thể làm ngân hàng giảm khả năng thanh khoản dẫn tới nguy cơ phá sản. Điều này đã thôi thúc các NHTM phải thận trọng và kiểm soát tốt các khoản cho vay theo dự án. Muốn vậy trong tất cả các khâu của quy trình nghiệp vụ cho vay đặc biệt là trong khâu phân tích đánh giá dự án ngân hàng phải thực hiện thẩm định tài chính dự án định thật tốt và có hiệu quả thì mới đảm bảo được mục tiêu an toàn – hiệu quả trong hoạt động cho vay.
Thẩm định tài chính dự án giúp ngân hàng phân tích, rà soát, đánh giá lại một cách khoa học, cụ thể, chính xác và toàn diện về khía cạnh tài chính của dự án- nội dung quan trọng nhất của dự án vì hiệu quả của dự án đầu tư thể hiện ở hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế. Với tư cách là nhà tài trợ cho dự án thì ngân hàng thường quan tâm tới hiệu quả tài chính qua đó thể hiện khả năng hoàn trả nợ( gồn vốn gốc và lãi vay) của dự án cho ngân hàng. Vì vậy ngân hàng cần phải tiến hành thẩm định tài chính dự án trước khi ra quyết đinh tín dụng để kiểm tra tính khả thi cuả dự án.
Khi thẩm định tài chính dự án ngân hàng sẽ đánh giá được mức độ rủi ro của dự án qua đó ngân hàng chủ động phân tích các tình huống và đưa ra kết luận về sự thay đổi của các nhân tố có ảnh hưởng đến tính khả thi của dự án. Như vậy ngân hàng sẽ chủ động trong kiểm soát việc sử dụng vốn của dự án và phòng ngừa, hạn chế các rủi ro phát sinh trong quá trình thực hiện dự án.
Thông qua thẩm định tài chính dự án ngân hàng còn có những căn cứ chính xác để đưa ra quyết định đồng ý hay từ chối cho vay và các điều kiện, phương thức cho vay hợp lý và hiệu quả nhất. Xuất phát từ việc thẩm định các chỉ tiêu tài chính của dự án, ngân hàng sẽ xác định các nội dung của hợp đồng tín dụng với khách hàng như: Số lượng vốn vay, thời hạn cho vay, thời điểm cho vay, lãi suất cho vay, quản lý vốn vay, thời điểm và thời gian thu nợ( lãi và gốc), tài sản bảo đảm...
Bên cạnh đó, thẩm định tài chính dự án cũng là hoạt động giúp khách hàng sử dụng hiệu quả hơn đồng vốn vay và ngân hàng cao tính khả thi của dự án, đồng thời việc hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án giúp ngân hàng phát hiện và phòng ngừa các rủi ro tín dụng, hạn chế thiệt hại cho ngân hàng.
Như vậy công tác thẩm định tài chính dự án là hết sức quan trọng và cần thiết trong hoạt động cho vay đặc biệt là cho vay theo dự án của các NHTM. Đòi hỏi các ngân hàng phải thực hiện tốt công tác này vì lợi ích của khách hàng và vì mục tiêu an toàn, hiệu quả của chính bản thân ngân hàng.
1.2.3. Nội dung thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của NHTM:
1.2.3.1 Thẩm định tổng vốn đầu tư và cơ cấu vốn đầu tư của dự án:
a/ Thẩm định tổng vốn đầu tư:
Tổng vốn đầu tư là giới hạn chi phí tối đa mà người có thẩm định tài chính dự án quyền quyết định đầu tư cho phép chủ đầu tư lựa chọn các phương án thực hiện đầu tư.
Tổng vốn đầu tư của dự án bao gồm:
- Chi phí chuẩn bị đầu tư.
- Chi phí cho chuẩn bị đầu tư.
- Chi phí thực hiện đầu tư.
- Chi phí cho hoạt động của dự án.
Việc thẩm định quy mô tổng vốn đầu tư của dự án có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với tính khả thi và tính hiệu quả của dự án. Nếu vốn đầu tư dự tính quá thấp thì dự án dễ được chủ đầu tư chấp thuận tài trợ nhưng trong quá trình thực hiện dự án dễ xảy ra thiếu vốn đầu tư, khi đó hoặc dự án không thể tiếp tục thực hiện được nữa, hoặc phải tiếp tục xin thêm vốn đầu tư cho dự án, như vậy tính khả thi và tính hiệu quả của dự án không cao. Ngược lại, nếu tổng vốn đầu tư dự án tính quá cao thì dự án sẽ khó được ngân hàng chấp thuận và các chỉ tiêu hiệu quả tài chính sẽ không còn chính xác, dự án cũng không khả thi và hiệu quả. Vì vậy khi thẩm định tài chính dự án ngân hàng cần phải xác định chính xác tổng vốn đầu tư dựa trên cơ sở xác định được cơ cấu vốn đầu tư của dự án.
b/ Thẩm định cơ cấu vốn đầu tư:
Những nội dung của tổng vốn đầu tư nói trên tạo thành hai loại vốn cơ bản của dự án là vốn đầu tư cố định và vốn lưa động( bao gồm cả vốn dự phòng ).
* Vốn cố định: Bao gồm chi phí cho các nhóm công việc: Chuẩn bị cho đầu tư, chuẩn bị thực hiện đầu tư và thực hiện đầu tư. Các khoản đầu tư cho vốn cố định được tính chính xác cho từng năm trong thời gian chuẩn bị và thực hiện đầu tư cần thiết.
* Vốn lưu động: bao gồm vốn sản xuất( chi phí nghuyên, nhiên, vật liệu, điện, nước, tiền lương... )và vốn lưu thông( thành phẩm tồn kho, sản phẩm dở dang, hàng hoá bán chịu, vốn bằng tiền...).Vốn lưu động cần thiết cho dự án được xác định cho từng năm dựa và các nhân tố sau: Khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ hàng năm, định mức vốn lưu động, dự trù vốn lưu động và vòng quay vốn lưu động.
Từ việc xác định cơ cấu vốn đầu tư, ngân hàng tính được nhu cầu vốn đầu tư của dự án theo công thức:
Nhu cầu vốn đầu tư theo dự án
=
Nhu cầu đầu tư vào tài sản cố định
+
Nhu cầu đầu tư vào tài sản lưu động
Qua việc xác định nhu cầu vốn đầu tư, ngân hàng sẽ giúp khách hàng tính toán chính xác nhu cầu vốn đầu tư cần thiết để dự án thực hiện sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao nhất, giúp khách hàng lập kế hoạch vay thêm vốn ngắn hạn để bổ sung thêm vào vốn lưu động trong quá trình thực hiện dự án.
c/ Thẩm định nguồn tài trợ cho dự án:
Sau khi phân tích nhu cầu vốn đầu tư, ngân hàng sẽ thẩm định tài chính dự án định cơ cấu nguồn tài trợ cho dự án để xác định mức độ đảm bảo vốn đầu tư của dự án. Nguồn vốn tài trợ cho dự án bao gồm:
* Nguồn vốn tự có: gồm vốn Nhà nước cấp, vốn góp( vốn cổ phần, vốn liên doanh), và vốn từ lợi nhuận.
* Nguồn vốn vay: gồm: vay ngắn hạn, vay trung và dài hạn từ trong và ngoài nước.
* Nguồn vốn khác: gồm viện trợ và quà tặng.
Khi phân tích cơ cấu nguồn tài trợ cho dự án, các NHTM thường quan tâm đến quy mô và thời hạn của mỗi nguồn, tính khả thi của mỗi nguồn và các điều kiện để dự án tiếp cận được các nguồn vốn đó.
Nhiều nguồn tài trợ được thực hiện dưới hình thái hiện vật ( vốn góp dưới hình thức quyền sở hữu công nghệ, quyền sử dụng đất, nhà xưởng và thiết bị có sẵn...). Việc tính toán giá trị các loại tài sản này rất phức tạp tuy nhiên là cần thiết đối với các ngân hàng.Trong một số trường hợp, tài sản này sẽ trở thành tài sản thế chấp cho ngân hàng. Một số nguòn tài trợ có thời gian không dài như tín dụng thương mại( mua trả chậm thiết bị) Người mua có thể trả tiền cho người cung cấp khi máy móc thiết bị đã di vào hoạt động trong một thời gian ngắn. Kế hoạch trả nợ này có ảnh hưởng trực tiếp đến kế hoạch thu nợ của ngân hàng.
Nếu ngân hàng là người cấp tín dụng duy nhất cho dự án thì quy mô tín dụng rất lớn và rủi ro của tín dụng sẽ rất cao. Ngược lại, khi có nhiều bên tham gia cấp tín dụng thì sẽ san sẻ rủi ro cho ngân hàng nhưng phải đòi hỏi ngân hàng phải tính toán kỹ lưỡng các nguồn tài trợ:
Quy mô tín dụng của ngân hàng
=
Nhu cầu đầu tư
-
Các nguồn khác tham gia tài trợ
Trong nhiều trường hợp để hạn chế rủi ro, NHTM có thể yêu cầu khách hàng phải có tài sản bảo đảm và thựchiện cho vay dựa trên giá trị của tài sản bảo đảm.
Tín dụng của ngân hàng
=
Giá trị tài sản thế chấp
x
Tỷ lệ ngân hàng tham gia tài trợ
1.2.3.2 Thẩm định kế hoạnh doanh thu, chi phí và lợi nhuận hàng năm của dự án:
a/ Thẩm định doanh thu hàng năm trong thời gian thực hiện dự án:
Doanh thu từ hoạt động của dự án gồm doanh thu do bán sản phẩm chính, sản phẩm phụ, phế liệu, phế phẩm ,dịch vụ cung cấp cho bên ngoài và trợ cấp ( nếu có). Doanh thu được tính cho từng năm thực hiện dự án căn cứ vào kế hoạch sản xuất và tiêu thụ hàng năm.
Doanh thu
=
Số lượng sản phẩm tiêu thụ
x
Giá bán
Khi thẩm định về sản lượng tiêu thụ sản phẩm của dự án thì cần đặc biệt nghiên cứu kỹ nhu cầu thị trường về sản phẩm của dự án và khả năng đáp ứng của thị trường về sản phẩm đó. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu tương lai về sản phẩm của dự án như: giá cả sản phẩm ( mối quan hệ giữa giá cả và nhu cầu thể hiện qua hệ số co giãn của cầu, thường là mối quan hệ tỷ lệ nghịch), thu nhập của dân cư ( với hàng hoá thông thường thì khi thu nhập tăng nhu cầu tăng), hàng hoá thay thế và hàng hoá bổ sung( nếu sản phẩm của dự án là sản phẩm thay thế thì nhu cầu tương lai sẽ giảm khi hàng hoá thay thế tăng, nếu sản phẩm của dự án là hàng hoá bổ sung thì nhu cầu tương lai sẽ tăng khi hàng hoá bổ sung tăng ), dân số và mức tăng dân số ( một số loại hàng hoá phụ thuộc vào quy mô và tốc độ tăng dân số như: điện, nước, y tế, giáo dục...) và các nhân tố khác.
b/ Thẩm định chi phí sản xuất:
Chi phí sản xuất được tính cho từng năm trong suốt thời gian hoạt động của dự án, được tính dựa trên kế hoạch sản suất, kế hoạch khấu hao và kế hoạch trả nợ của dự án.
Chi phí sản xuất của dự án bao gồm: chi phí nguyên vật liệu (chính + phụ), chi phí nửa thành phẩm và dịch vụ mua ngoài, nhiên liệu, năng lượng, nước, tiền lương, bảo hiểm, chi phí bảo dưỡng máy móc, thiết bị, chi phí phân xưởng, chi phí quản lý xí nghiệp, chi phí khấu hao, chi phí dự phòng, chi phí khác. Trong các loại chi phí của dự án, chi phí khấu hao không phải là chi phí trực tiếp bằng tiền nhưng nó có ảnh hưởng rất lớn đến việc xác định dòng tiền hàng năm của dự án. Điều này ngân hàng cần phải nghiên cứa kỹ khi xác định dòng tiền của dự án.
Khi thẩm định chi phí hàng năm của dự án: trên cơ sở kiểm tra các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, các bộ, nghành có liên quan, của ngân hàng Nhà nước về các yếu tố liên quan đến chi phí của dự án, ngân hàng đối chiếu với các quy định của ngành, lĩnh vực đó và các dự án khác mà ngân hàng đã từng thẩm định tương tự để xác định chính xác mức chi phí cần thiết của dự án
c. Thẩm định lợi nhuận của dự án:
Trên cơ sở thẩm định doanh thu - chi phí của dự án, ngân hàng tiến hành thẩm định lợi nhuận hàng năm của dự án theo trình tự sau:
(1)Tổng doanh thu chưa có VAT.
(2)Các khoản giảm trừ doanh thu.
(3)Doanh thu thuần.(3=1-2)
(4)Tổng chi phí sản suất.
(5)Tổng lợi nhuận trước thuế.(5=3-4)
(6)Lợi nhuận chịu thuế(6 = 5 + Lỗ luỹ kế các năm trước)
(7)Thuế thu nhập doanh nhiệp.(7=6 x % thuế suất thuế Thu nhập doanh nghiệp)
(8)Tổng lợi nhuận sau thuế.(8=6-7)
1.2.3.3 Thẩm định dòng tiền hàng năm của dự án:
Một trong những nội dung quan trọng nhất của công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư là xác định dòng tiền hàng năm của dự án. Đây là cơ sở để vận dụng các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án.
Dòng tiền về cơ bản là sự nhận tiền mặt (dòng tiền vào) hoặc thanh toán ( dòng tiền ra). Vì vậy có thể hiểu dòng tiền của một dự án là khoản chi và thu được kỳ vọng xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau trong suốt chu kỳ của dự án.
Dòng tiền ròng của dự án là phần chênh lệch giữa dòng tiền vào và dòng tiền ra phát sinh liên quan đến việc hình thành và vận hành dự án đầu tư.
Có nhiều bên cùng tham gia và chịu tác động trực tiếp từ dự án vì vậy khi thẩm định dòng tiền của dự án mỗi bên có một quan điểm khác nhau. Với góc độ của chủ dự án thì họ xác định dòng tiền ròng theo công thức sau:
- Dòng tiền tại thời điểm bỏ vốn đầu tư (CFo):
CFo = - Tổng vốn đầu tư + Vốn vay.
Trong đó tổng vốn đầu tư bao gồm chi phí mua sắm tài sản cố định và lắp đặt, chi phí cơ hội và chi phí đầu tư vào tài sản lưu động ròng.
- Dòng tiền ròng ở cuối mỗi năm thực hiện dự án ( trừ năm cuối)
NCFt = Thu nhập sau thuế + Khấu hao - Nợ gốc
Tuy nhiên, dưới góc độ của NHTM thì khi xác định dòng tiền của dự án dựa trên quan điểm sau:
- Dòng tiền tại thời điểm bỏ vốn đầu tư (CF0):
CFo = - Tổng vốn đầu tư .
- Dòng tiền ròng ở cuối mỗi năm thực hiện dự án ( trừ năm cuối):
NCFt = Thu nhập sau thuế + Khấu hao + Lãi vay.
Theo quan điểm của ngân hàng khi thẩm định tài chính của dự án, họ chỉ quan tâm đến khả năng sinh lời của mỗi đồng vốn đầu tư mà không phân biệt đó là vốn vay hay vốn chủ sở hữu. Khoản nợ gốc (vốn vay) được coi như là một khoản chi tiền tại thời điểm bỏ vốn nên ngân hàng coi đó là một dòng tiền ra của dự án. Vì trả lãi vay là nghiệp vụ chi tiền và việc sử dụng nguồn tiền vay tác động đến chi phí của dự án (chi phí trả lãi ) nên ngân hàng chỉ coi lãi vay là một khoản chi phí của dự án mà không nên khấu trừ vào dòng tiền để tránh tính lãi hai lần. Đối với ngân hàng, lãi vay thu được từ dự án là nguồn thu nhập của ngân hàng được hưởng nên nó là dòng tiền vào của dự án.
* Qua công thức xác định dòng tiền trên ta thấy khấu hao là nhân tố tác động rất lớn đến kết quả xác định dòng tiền hàng năm của dự án. Vì vậy cần phải xác định được chính xác mức khấu hao hợp lý hàng năm của dự án. Điều này phụ thuộc rất lớn vào phương pháp tính khấu hao được sử dụng trong dự án. Các phương pháp tính khấu hao cơ bản là:
- Khấu hao đều:
- Khấu hao giảm dần theo giá trị còn lại:
- Mô hình khấu hao đặc biệt (giảm không đều)
- Khấu hao theo sản lượng, khối lượng công tác và mức độ sử dụng.
* Phần lớn các dự án đầu tư đều có giá trị tài sản cố định còn lại được thu hồi sau khi kết thúc thời gian kinh tế của dự án như: máy móc, thiết bị, nhà xưởng...Khi thanh lý các tài sản này thì sẽ xuất hiện một dòng tiền vào năm cuối dự án, để xác định chính xác dòng tiền này cần căn cứ vào mối quan hệ giữa giá thanh lý ( P ) và giá trị còn lại theo sổ sách kế toán ( P0 ) của tài sản đó.
* Vấn đề cuối cùng trong thẩm định dòng tiền ở năm cuối của dự án là thu hồi vốn lưu động ròng. Các dự án đầu tư không chỉ đầu tư vào tài sản cố định mà còn đòi hỏi đầu tư vào vốn lưu động ròng.
Vốn lưu động ròng
=
Tổng tài sản lưu động
-
Vốn ngắn hạn
Khi vốn lưu động ròng dương thì dự án đòi hỏi số vốn tài trợ vượt quá vốn đầu tư vào tài sản cố định để tài trợ cho sự tăng lên của tài sản lưu động. Đây là phần tăng lên của tài sản lưu động và khi kết thúc dự án thì phần tài sản lưu động tăng thêm này được thu hồi và kết chuyển thành tiền mặt, khi đó dự án thu hồi được vốn đầu tư ban đầu. Dòng tiền này được coi là dòng tiền vào của năm cuối cùng thực hiện dự án.
1.2.3.4. Thẩm định các chỉ tiêu tài chính của dự án:
a.Giá trị hiện tại thuần( Net Present Value – NPV):
Giá trị hiện tại ròng của dự án là số chênh lệch giữa giá trị hiện tại của các luồng tiền ròng kỳ vọng trong tương lai với giá trị hiện tại của vốn đầu tư.
.
n
NPV = S
k=1
CFt
(1 + k)t
-
CF0
Trong đó:
CFt
Khoản thu của năm t
CFo
Vốn đầu tư bỏ ra quy về thời điểm hiện tại, bao
k
Lãi suất chiết khấu
n
Số năm hoạt động của dự án
Giá trị hiện tại ròng đo lường phần giá trị tăng thêm dự tính dự án mang lại cho nhà đầu tư với mức rủi ro cụ thể của dự án. Khi NPV = 0 có nghĩa là thu nhập chỉ vừa đủ bù đắp chi phí ban đầu, cho giá trị của tiền và rủi ro của dự án.
* Ý nghĩa kinh tế: NPV cho ta biết tổng lợi ích dự án đem lại tính tại thời điểm hiện tại sau khi đã hoàn đủ vốn đầu tư.
Sử dụng NPV như một phương pháp đánh giá dự án đầu tư, chúng ta cần phân biệt hai tình huống:
Đối với các dự án độc lập nhau thì chọn dự án có NPV >0
Đối với các dự án loại trừ, thì dự án đầu tư được chọn là dự án có NPV>0 và cao nhất.._.
* Ưu điểm: NPV cho ta biết lợi nhuận của dự án đầu tư, giúp nàh đầu tư lựa chọn được dự án có lợi nhuận cao nhất, thỏa mãn mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của nhà đầu tư sau khi đã loại bỏ được lạm phát, rủi ro, chi phí cơ hội và vốn đầu tư bỏ ra.
* Nhược điểm: phụ thuộc rất nhiều vào tỉ lệ chiết khấu được chọn. Đối với các dự án thông thường thì khi tỉ lệ chiết khấu tăng thì NPV giảm. Hơn nữa, dự án đầu tư trong nhiều năm và sử dụng cùng một tỉ lệ lãi suất chiết khấu, các năm có mức dộ rủi ro không giống nhau. Vậy sử dụng một lãi suất chiết khấu là không hợp lý.
Không cho biết tỉ suất sinh lời của dự án.
Không dùng để so sánh hai dự án có thời gian hoạt động khác nhau.
Xác định lãi suất chiết khấu khó khăn.
Nhược điểm chính của phương pháp NPV là nó rất nhạy cảm với lãi suất chiết khấu được sử dụng. Thay đổi trong lãi suất chiết khấu có ảnh hưởng đến giá trị hiện tại của dòng tiền đầu tư, dòng tiền thu nhập của dự án. Như vậy, NPV không phải là phương pháp tốt nếu như chúng ta không xác định được lãi suất chiết khấu thích hợp. Trong khi đó việc xác định lãi suất chiết khấu thích hợp là một việc làm khó khăn, đặc biệt trong phân tích kinh tế. Chúng ta có thể hiểu lãi suất chiết khấu là phần lợi nhuận thích hợp bù đắp rủi ro. Rõ ràng khi mức rủi ro của dự án bằng mức rủi ro của doanh nghiệp và chính sách tài trợ của doanh nghiệp phù hợp với dự án thì lãi suất chiết khấu thích hợp bằng với chi phí bình quân gia quyền của vốn (WACC).
n
WACC = S Wi . Ki
i =1
Trong đó : Wi là tỉ trọng nguồn vốn thứ i trong dự án
Ki là chi phí vốn của nguồn vốn thứ i
b. Tỷ suất hoàn vốn nội bộ ( Internal Rate of Return - IRR):
Tỉ suất hoàn vốn nội bộ hay còn gọi là tỉ lệ nội hoàn đo lường tỉ lệ hoàn vốn đầu tư của một dự án hay tỉ lệ sinh lời hàng năm của một đồng vốn bỏ ra vào một dự án đầu tư ( lợi nhuận tương đối).
Về kỹ thuật tính toán, IRR của một dự án là lãi suất chiết khấu mà ở đó NPV = 0.
Việc tính toán tỉ suất hoàn vốn nội bộ được thực hiện bằng phương pháp nội suy tuyến tính. Theo phương pháp này ta cần tìm ra hai mức lãi suất chiết khấu i sao cho :
i1 ứng với NPV1 > 0.
i2 ứng với NPV2 < 0.
Và phải thỏa mãn điều kiện là khỏng cách chênh lệch giữa i1 và i2 nhỏ hơn 5%. Điều này để tránh cho sai số lớn. Lúc đó thì IRR là giá trị nằm giữa i1 và i2 và được tính theo công thức:
NPV1
IRR = k1 + ( k2 - k1) x
NPV1 - NPV2
IRR = i1 + .
Trên thực tế thì hiện nay các ngân hàng có thể xác định IRR một cách chính xác bằng các phần mềm chuyên dụng của mình chẳng hạn như Exel.
Giống như phương pháp NPV, sử dụng phương pháp IRR cũng được xác định cho hai tình huống đầu tư :
Nếu hai dự án độc lập nhau, thì dự án có IRR > i sẽ được chọn.
Nếu hai dự án loại trừ nhau ta chọn dự án có IRR cao nhất.
* Ưu điểm: IRR cho biết lợi nhuận / 1 đồng vốn / năm hay tỉ suất sinh lời của một đồng vốn. Do đó IRR là phương pháp đựợc sử dụng để mô tả tính hấp dẫn của dự án. Đó là phương pháp hữu ích để tổng hợp doanh thu của dự án. Ngoài ra, trong một số trường hợp IRR cho phép tránh được việc xác định trước một lãi suất thích hợp.
Là phương pháp tương đối tốt, IRR được sử dụng để mô tả tính hấp dẫn của dự án bằng việc xếp hạng các dự án. Các dự án có IRR cao hơn phản ánh mức sinh lời cao hơn do đó được xếp hạng cao hơn.
* Nhược điểm: trong một số trường hợp có sự xung đột giữa hai phương pháp thì NPV cần đựoc coi trọng hơn để đạt được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của dự án đầu tư. Bởi vì phương pháp NPV ưu việt hơn phương pháp IRR. Tính ưu việt thể hiện ở chỗ phương pháp IRR không đề cập đến độ lớn, quy mô của dự án đầu tư và không giả định đúng tỉ lệ tái đầu tư.
c/ Chỉ số doanh lợi ( Profit Index - PI):
Chỉ số doanh lợi (PI) được tính trên mối quan hệ tỉ số giữa thu nhập ròng hiện tại so với vốn đầu tư ban đầu. PI phản ánh khả năng sinh lợi của dự án trên mỗi đơn vị được đầu tư.
Công thức được xác định như sau:
n
S
t=1
CFt
( 1 + k )t
PI =
CF0
Trong đó : CFt là dòng tiền ở thời điểm t.
CF0 là dòng tiền ở thời điểm 0.( Vốn đầu tư ban đầu của dự án)
i là tỉ lệ chiết khấu.
- Đối với các dự án độc lập: PI > 1 chấp thuận dự án.
PI =1 tùy theo mục tiêu kỳ vọng của doanh nghiệp mà chấp thuận hay loại bỏ dự án.
- Đối với các dự án loại trừ nhau: dự án nào có PI > 1 và PI lớn nhất sẽ đựoc chọn.
- PI thường được sử dụng như một chỉ tiêu xếp hạng dự án khi doanh nghiệp bị giới hạn về nguồn ngân quỹ. Thông thường khi chon dự án thì hại chỉ tiêu NPV và PI đều đưa ra một quyết định như nhau.
d. Tỉ số lợi ích/ chi phí. (B/C – Benefit/ Cost).
B/C được đo bằng tỉ số giữa giá trị hiện tại của dòng lợi ích và giá trị hiện tại của dòng chi phí. Như vậy B/C cho biết phần thu nhập ứng với mỗi đồng chi phí cho cả thời kỳ hoạt động của dự án.
Với: Bt là lợi ích năm t
Ct là chi phí năm t
r là lãi suất chiết khấu
Ta có:
B/C =
- Đối với các dự án loại trừ nhau thì chọn dự án có B/C >=1 và lớn nhất.
- Đối với các dự án độc lập thì chọn B.C >=1. Khi đó lợi ích mà dự án thu được đủ bù đắp chi phí đã bỏ ra và dự án có khả năng sinh lời.
* Phương pháp này có nhiều nhược điểm:
- B/C bị ảnh hưởng rất nhiều bởi lãi suất chiết khấu.
- B/C đặc biệt nhạy cảm với định nghĩa lợi ích chi phí. Đây là nhược điểm cơ bản trong việc sử dụng chỉ tiêu B/C.
- Có những dự án mặc dù tỉ lệ B/C vẫn lớn song thuận lợi vẫn nhỏ. Do đó cần kết hợp với các phương pháp để đánh giá dự án.
e. Thời gian hoàn vốn ( PP ):
Thời gian hoàn vốn là thời gian cần thiết để dự án hoàn lại tổng vốn đầu tư đã bỏ ra bằng các khoản lãi tiền mặt. Đó là số năm trong đó dự án sẽ tích luỹ các khoản tiền mặt để bù đắp tổng vốn đầu tư đã bỏ ra.
Số vốn đầu tư còn lại cần thu hồi
PP = n +
Dòng tiền ngay sau mốc hoàn vốn
Với n: Năm ngay trước năm thu hồi vốn đầu tư.
PP phản ánh thời gian thu hồi vốn đầu tư vào dự án, nó cho biết sau bao nhiêu lâu thì dự án thu hồi đủ vốn đầu tư và khả năng tạo ra thu nhập của dự án từ khi thực hiện đến khi thu hồi đủ vốn đầu tư.
Người ta có thể tính thời gian hoàn vốn giản đơn và thời gian hoàn vốn có chiết khấu. Trong thời gian hoàn vốn giản đơn, dòng tiền ròng từ dự án không được chiết khấu. Còn trong thời gian hoàn vốn có chiết khấu thì nó được quy về giá trị hiện tại tại thời điểm đầu tư. Như vậy thời gian hoàn vốn có chiết khấu là khoảng thời gian cần thiết để giá trị hiện tại được chuyển từ số âm sang số dương.
* Việc tính toán thời gian hoàn vốn giản đơn dễ dàng hơn nhiều so với thời gian hoàn vốn có chiết khấu.
- Tính thời gian hoàn vốn giản đơn: Nếu dự kiến đầu tư sẽ tạo ra các dòng tiền ròng đều đặn từ năm này sang năm khác thì thời gian hoàn vốn giản đơn được xác định bằng cách lấy tổng số vốn đầu tư ban đầu chia cho dòng tiền ròng trong mỗi năm. Nếu các dòng tiền ròng không ổn định qua các năm thì nó được xác định bằng cách cộng các dòng tiền ròng các năm cho đến khi số dư này bằng số tièn ban đầu.
- Thời gian hoàn vốn có chiết khấu: việc tính toán chỉ tiêu thời gian hoàn vốn có chiết khấu là tương đối phức tạp. Trước hết cần xác định được các dòng tiền qua các năm. Sau đó quy các dòng tiền đó về hiện tại. Cuối cùng, cộng dồn các dòng tiền đã quy về giá trị hiện tại cho đến khi bằng số vốn đầu tư ban đầu.
Thông thường các chủ đầu tư cũng như ngân hàng ưa thích thời gian hoàn vốn ngắn bởi thời gian hoàn vốn ngắn thì rủi ro ít hơn. Để có thể sử dụng thời gian hoàn vốn như một tiêu chuẩn đánh giá dự án, người ta đặt thời gian hoàn vốn tối đa và bác bỏ những dự án có thời gian hoàn vốn lớn hơn thời gian hoàn vốn tối đa.
Đối với các dự án độc lập, người ta lựa chọn các dự án có thời gian hoàn vốn nhỏ hơn hoặc bằng thời gian hoàn vốn tối đa.
Đối với các dự án loại trừ chọn các dự án có thời gian hoàn vốn nhỏ hơn hoặc bằng thời gian hoàn vốn tối đa và có thời gian hoàn vốn ngắn nhất.
* Phương pháp đánh giá theo thời gian hoàn vốn có nhiều nhược điểm so với ba phương pháp trên, đó là:
- Không tính đến phần thu nhập sau thời gian hoàn vốn.
- Yếu tố rủi ro đối với luồng tiền tương lai của dự án không được xem xét đánh giá.
- Yếu tố thời gian của tiền không được đề cập.
- Xếp hạng các dự án không phù hợp với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của chủ sở hữu.
f. Điểm hoà vốn:
Điểm hòa vốn là điểm mà tại đó mức doanh thu vừa đủ trang trải mọi phí tổn ( không lỗ, không lãi). Phân tích điểm hòa vốn sẽ cung cấp những thông tin cần thiết về lượng sản phẩm tiêu thụ, doanh thu cần đạt được khi biết sản lượng và doanh thu hòa vốn. Phân tích điểm hòa vốn còn chỉ ra ngưỡng doanh nghiệp không bị lỗ để xác định quy mô đầu tư, quy mô sản phẩm nhằm đạt được lợi nhuận mong muốn.
* Để xác định được điểm hòa vốn ta sử dụng công thức:
FC
Qhv =
(P –AVC)
FC
Doanh thu hòa vốn =
VC
1-
Doanh thu
Trong đó:
Qhv là sản lượng hòa vốn
FC là tổng chi phí cố định
AVC là chi phí biến đổi tính trên một đơn vị sản phẩm
P là giá bán.
BP không quan tâm đến khả năng tiêu thụ sản phẩm sau khi thu hồi vốn đầu tư do vậy khó có thể so sánh những dự án có thời gian đầu tư khác nhau vốn đầu tư khác nhau bằng chỉ tiêu BP.
Hơn nữa, BP cũng không tính đến giá trị thời gian của tiền đối với chi phí cố định, chi phí biến đổi nên không chính xác như các chỉ tiêu khác. Tuy nhiên nó giúp người thẩm định có cái nhìn trực quan về khả năng hà vốn của dự án. Chỉ cần tiêu thụ vượt quá mức sản lượng hòa vốn thì chủ đầu tư sẽ có lãi.
1.2.3.5 Thẩm định rủi ro dự án:
Hiện nay có hai phương pháp thẩm định rủi ro dự án mà các NHTM thường hay sử dụng là: phương pháp phân tích độ nhạy và phương pháp phân tích tình huống.
* Phân tích độ nhạy ( Sensitivity Analysis ):
Hiệu quả của dự án phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố được dự trong dự án, tuy nhiên trong quá trình thực hiện dự án các yếu tố này có thể sai lệch. Vì vậy khi thẩm định tài chính dự án cần phải đánh giá sự ổn định của các yếu tố đầu vào, đầu ra cảu dự án khi có sự biến động. Nói cách khác cần phải phân tích độ nhạy của dự án theo những nhân tố biến động.
Trong phân tích độ nhạy, người ta dự kiến một số tình huống rủi ro xảy ra trong tương lai làm các yếu tố đầu vào hay đầu ra thay đổi theo chiều hướng xấu cho dự án như: giá nguyên-nhiên-vật liệu tăng, giá thuê nhân công tăng, sản lượng tiêu thụ giảm, doanh thu giảm...Những rủi ro đó có thể dẫn đến các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính thay đổi như: NPV, IRR, PI, PP, ....Nếu các chỉ tiêu đó sau khi tính lại vẫn đạt yêu cầu thì dự án được coi là ổn định ( độ nhạy cảm cao ) thì buộc ngân hàng phải xem xét, tính toán lại và thậm trọng trước khi ra quyết định đầu tư.
Trong phân tích độ nhạy có thể phân tích một nhân tố thay đổi hoặc nhiều nhân tố cùng thay đổi đồng thời. Khi phân tích độ nhạy theo một nhân tố thay đổi cần chọn biến có khả năng thay đổi nhiều nhất, cho biến đó thay đổi trong một giới hạn nhất định còn những biến khác được giữ nguyên để đánh giá tác động của biến đó đến các chỉ tiêu hiệu quả tài chính đặc biệt là chỉ tiêu NPV, IRR. Tuy nhiên trên thực tế nhiều biến có thể thay đổi đồng thời, do vậy cần phải tính toán lại sự thay đổi và tác động đồng thời của nhiều yếu tố đến các chỉ tiêu hiệu quả tài chính, từ đó đánh giá lại độ ổn định, an toàn của dự án trước khi ra quyết định đầu tư.
Để phân tích độ nhạy của dự án thông thường qua bốn bước:
- Bước 1: Xác định xem những nhân tố nào có khả năng biến động theo chiều hướng xấu. Muốn vậy cần phải căn cứ vào số liệu thống kê trong quá khứ, số liệu dự báo về tương lai và kinh nghiệm thẩm định của cán bộ thẩm định .
- Bước 2: Trên cơ sở nhận định được những nhân tố biến động ở trên, dự đoán biên độ biến động có thể xảy ra so với số liệu ban đầu.
- Bước 3: Có thể chọn ra một chỉ tiêu điển hình và cho nó biến động còn các nhân tố khác không đổi hoặc có thể cho nhiều nhân tố biến động đồng thời tác động đến dự án để phân tích các chỉ tiêu tài chính theo các nhân tố đó (điển hình là chỉ tiêu NPV và IRR)
- Bước 4: Tính toán lại các chỉ tiêu hiệu quả tài chính như: NPV, IRR ... trên cơ sở cho các biến số tăng/giảm cùng một tỷ lệ phần trăm nào đó.
Độ nhạy của các nhân tố tác động đế dự án có thể xác định theo công thức:
DFi
E =
DXi
Trong đó:
E:
Chỉ số độ nhạy
Fi:
Mức độ biện động (%) của chỉ tiêu hiệu quả
Xi:
Mức độ biến động (%) của nhân tố ảnh hưởng
Kết quả sẽ cho biết nhân tố nào trong dự án cần được nghiên cứu kỹ, cần thu thập đủ thông tin để phòng ngừa và quản trị rủi ro trong quá trình thực hiện dự án.
Tuy nhiên, phương pháp phân tích độ nhạy cũng có một số nhược điểm:
Thứ nhất, phân tích độ nhạy không tính đến xác suất xảy ra sự kiện.
Thứ hai, phân tích độ nhạy không tính đến mối quan hệ tương quan giữa các biến số.
Thứ ba, việc thay đổi giá trị của các biến số nhạy cảm theo một tỷ lệ phần trăm nhất định không phải lúc nào cũng có mối liên hệ với sự biến thiên của các biến số hiệu quả quan sát được.
* Phân tích tình huống ( Scenario Analysis ):
Mặc dù phân tích độ nhạy là phương pháp phân tích rủi ro phổ biến nhất đối với các nhà phân tích và thẩm định dự án song phương pháp này cũng còn tồn tại nhiều hạn chế. Vì vậy, trong thẩm định tài chính dự án đầu tư, các ngân hàng còn sử dụng phương pháp phân tích tình huống hay phân tích xác suất. Theo phương pháp này, những giá trị khác nhau của đầu ra hoặc đầu vào của dự án tương ứng với những xác suất nhất định. Những xác suất này cần được tính đến trong phân tích dự án. Phương pháp này cho phép tìm thấy một giá trị thực tế mong muốn trong điều kiện bất định.
Để thực hiện phân tích tình huống cần thực hiện qua bốn bước:
- Bước 1: Xác định những nhân tố đầu vào không an toàn cùng những biến cố có thể của nó .
- Bước 2: Xác định xác suất cho những biến cố của những đầu vào không an toàn.
- Bước 3: Tính giá trị của các nhân tố đầu vào theo phương pháp bình quân gia quyền.
- Bước 4: Tính toán lại các chỉ tiêu đầu ra theo giá trị của những nhân tố đầu vào đã tính đến xác suất của chúng.
Tuy nhiên phương pháp phân tích tình huống cũng còn tồn tại những hạn chế nhất định như:
Phương pháp phân tích tình huống cho phép xem xét một cách toàn diện hơn những nhân tố đầu vào bất định của dự án, kết quả nhận được của thẩm định tài chính dự án đầu tư như là kết quả tổng hợp của những nhân tố đó trong điều kiện trung bình vì vậy giúp các nhà đầu tư nhanh chóng ra quyết định. Nhưng kết quả của sự phân tích chịu ảnh hưởng rất lớn của việc xác định xác suất cho những biến cố có thể có của những giá trị đầu vào không an toàn.
1. 3. Chất lượng thẩm định tài chính dự án của ngân hàng thương mại.
1. 3.1. Khái niệm.
Đứng trên góc độ khác nhau của người thẩm định với mục tiêu xác định thì chất lượng thẩm định tài chính dự án được hiểu như sau:
* Với chủ đầu tư: Việc thẩm định tài chính có chất lượng có nghĩa là cung cấp cho chủ đầu tư những thông tin mang ý nghĩa cơ sở đáng tin cậy cho việc lựa chọn được dự án đầu tư có hiệu quả tài chính cao nhất.
* Với cơ quan quản lý nhà nước có thảm quyền cấp giấy phép đầu tư: Chất lượng thẩm định tài chính dự án là việc chấp nhận phê duyệt những dự án có tính khả thi về mặt tài chính, mang lại lợi ích cho chủ đầu tư và góp phần thực hiện định hướng phát triển kinh tế xã hội cho đất nước trong từng thời kỳ.
* Với nhà tài trợ: Chất lượng thẩm định tài chính dự án thể hiện ở việc quyết định tài trợ cho những dự án mà sau này đi vào thực hiện mang lại hiệu quả tài chính cũng như trả đựoc nợ cho ngân hàng như dự kiến, do đó ngân hàng đạt được mục tiêu kinh doanh của mình.
1. 3.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án của ngân hàng thương mại.
Thông thường ngân hàng sử dụng các chỉ tiêu sau để đánh giá chất lượng hoạt động thẩm định tài chính dự án:
* Mức độ chính xác, toàn diện, khoa học của các kết quả thẩm định tài chính trên phương diện: Phân tích kế hoạch vốn đầu tư, nguồn tài trợ, cơ cấu tài trợ, dòng tiền của dự án, các chỉ tiêu hiệu quả tài chính ( NPV, IRR, PI, PP...), mức độ rủi ro của dự án...
* Sự phù hợp của các dự đoán về thị trường, sản phẩm tiêu thụ, doanh thu, nhu cầu vốn lưu động, chi phí...so với thực tế khi dự án được thực hiện. Nếu các dự đoán đưa ra là phù hợp với thực tế thì có nghĩa hoạt động thẩm định tài chính có chất lượng ( hiệu quả), quyết định tài trợ của ngân hàng là chính xác và ngân hàng có khả năng thu hồi được cả vốn lẫn lãi.
* Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả cho vay: Thu thập từ hoạt động cho vay theo dự án, tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay theo dự án, tỉ lệ nợ quá hạn, quá trình giải ngân phù hợp với tiến độ của dự án... Thu nhập là chỉ tiêu quan trọng trong phản ánh hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, và cũng phản ánh quy mô và chất lượng cho vay theo dự án, chất lượng thẩm định tài chính dự án. Dư nợ cho vay, tỉ lệ nợ quá hạn là các chỉ tiêu được sử dụng đánh giá chất lượng thẩm định tài chính dự án. Chất lượng hoạt động thẩm định tài chính dự án tốt thì tỉ lệ nợ quá hạn trong cho vay theo dự án sẽ giảm đi. Vậy dựa vào các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả cho vay có thể đánh giá chất lượng hoạt động thẩm định tài chính dự án.
* Các thông tin thu thập được liên quan đến dự án phải đảm bảo tính sát thực, tin cậy và đầy đủ. Kết quả của hoạt động thẩm định tài chính dự án phụ thuộc rất nhiều vào thông tin thu thập được. Nếu đó là các thông tin chân thực, đầy đủ và tin cậy thì kết quả thẩm định tài chính dự án mới đúng đắn, giúp ngân hàng đưa ra các quyết định đúng đắn, chính xác. Ngược lại, nếu thông tin thu thập được không đảm bảo tính chính xác và đầy đủ cũng như tính tin cậy thì có thể dẫn ngân hàng đến chỗ đưa ra quyết định sai, gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động của ngân hàng. Như vậy, chất lượng thông tin thu thập được có mối liên hệ chặt chẽ với chất lượng thẩm định tài chính dự án.
* Một chỉ tiêu khác phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án đó là mức độ thực hiện các quy định, chế độ thẩm định liên quan trực tiếp với chất lượng thẩm định tài chính dự án. Các quy định hướng dẫn về thẩm định tài chính dự án được đưa ra nhằm cụ thể hoá, nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án.
* Quy trình thẩm định phải thuạn tiện, đơn giản, dễ hiểu cho các bên. Cần phải cụ thể hoá một số tiêu chí đánh giá tiến trình thẩm định như: thời gian thẩm định, chi phí thẩm định, thời gian từ khi chấp nhận khoản vay cho tới lần giải ngân đầu tiên... Các chỉ tiêu này phải được xây dựng phù hợp với từng ngành, lĩnh vực, quy mô dự án đầu tư.
* Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án cần được xây dựng cho từng ngành, từng lĩnh vực hoạt động. Do mỗi nganh, mỗi lĩnh vực sản xuất đều có những đặc thù riêng nên cần xây dựng những chỉ tiêu cụ thể và phù hợp. Để xây dựng được các hệ thông chỉ tiêu trên thì ngân hàng ( cụ thể là các can bộ thẩm định) cần thu thập tìm hiểu thông tin từ nhiều lĩnh vực khác nhau.
* Hoạt động thẩm định tài chính dự án phải phù hợp với định hướng hoạt động của ngân hàng đặc biệt phải phù hợp với định hướng hoạt động cho vay. Hoạt động thẩm định phải góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng, thay đổi cơ cấu dư nợ.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tài chính dự án của ngân hàng thương mại.
1.3.3.1. Các nhân tố chủ quan.
Chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư bị chi phối bởi nhiều nhân tố, về cơ bản có thể phân ra thành nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Nhân tố chủ quan là các nhân tố thuộc về nội bộ ngân hàng có thể chủ động kiểm soát và điều chỉnh được.
* Nhân tố con người.
Cán bộ ngân hàng là những người trực tiếp tiến hành hoạt động thẩm định tài chính dự án do đó trình độ nghiệp vụ cũng như phẩm chất đạo đức của các cán bộ thẩm định ảnh hưởng trực tiếp và quyết định chất lượng của hoạt động thẩm định tài chính dự án. Trình độ nghiệp vụ cao sẽ giúp cán bộ thẩm định một cách nhanh chóng và đạt độ chính xác cao. Phẩm chất đạo đức của cán bộ thẩm định là phải đứng trên quan điểm lợi ích của ngân hàng chứ không phải trên quan điểm lợi ích cá nhân, không dễ dàng bị mua chuộc, dám chịu trách nhiệm trước các quyết định của mình.
Sự năng động sáng tạo trong tiến hành thẩm định là rất cần thiết. Với nguồn thông tin có được công việc cảu người thẩm định là làm thế nào để lựa chọn được các phương pháp thẩm định phù hợp nhất. Mỗi dự án có một đặc trưng nhất định, không phải dự án nào cũng có thể áp dụng tất cả các chỉ tiêu trong hệ thống thẩm định, việc chọn phương pháp nào phù hợp với từng dự án phụ thuộc vào khả năng nhanh nhạy của cán bộ thẩm định. Các dự án đầu tư thuộc rất nhiều ngành nghề khác nhau, điều đó đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có kiến thức tổng hợp về rất nhiều lĩnh vực ngành nghề khác nhau. Những sai lầm trong thẩm định tài chính dự án đầu tư từ nhân tố con người dù vô hình hay cố ý đều dẫn đến những hậu quả: đánh giá sai lệch hiệu quả, khả năng tài chính cũng như khả năng hoàn trả vốn vay ngân hàng do đó ngân hàng gặp khó khăn trong thu hồi nợ , nghiêm trọng hơn là nguy cơ mất vốn suy giảm lợi nhuận kinh doanh của ngân hàng.
* Thông tin.
Thực chất thẩm định là xử lý thông tin để đưa ra những nhân xét, đánh giá về dự án. Nói cách khác, thông tin chính là nguyên liệu cho quá trình tác nghiệp của cán bộ thẩm định. Do đó số lượng cũng như chất lượng hay tính kịp thời của thông tin có tác dụng rất lớn đến chất lượng thẩm định. Ngân hàng coi hồ sơ dự án của chủ đầu tư gửi là nguồn hông tin cơ bản nhất. Nếu thấy thông tin trong hồ sơ là thiếu hoặc không rõ ràng , cán bộ tín dụng có thể yêu cầu chủ đầu tư cung cấp thêm hoặc giải trình những thông tin đó. Vai trò của thông tin rõ ràng là rất quan trọng song để có thể thu thập, xử lý lưu trữ thông tin một cách có hiệu quả phải kể đến nhân tố thiết bị kỹ thuật, công nghệ thônhg tin được ứng dụng và ngành ngân hàng làm tăng khả năng thu thập, lưu trữ và xử lý thông tin.
* Quy trình thẩm định.
Quy trình thẩm định của một ngân hàng là căn cứ cho một cán bộ thẩm định thực hiện công việc một cách khách quan khoa học và đầy đủ. Quy trình thẩm định tài chính dự án bao gồm nội dung, phương pháp thẩm định và trình tự tiến hành nội dung đó. Quy trình thẩm định được xây dựng một cách khoa học, tiên tiến, phù hợp với thế mạnh và đặc trưng của ngân hàng sẽ góp phần nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án. Nội dung thẩm định phải đề cập đến tất cả các vấn đề về tài chính dự án trên giác độ ngân hàng: vấn đề vốn đầu tư, hiệu quả tài chính khả năng trả nợ và rủi ro của dự án. Nội dung càng đầy đủ, chi tiết bao nhiêu thì càng đưa ra những kết quả chính xác của các kết luận bấy nhiêu. Các nội dung thẩm định tài chính được sắp xếp theo một trình tự hợp lý, logic sẽ thể hiện được mối liên hệ, hỗ trợ lẫn nhau giữa việc phân tích các khía cạnh của dự án, báo cáo thẩm định của dự án sẽ chặt chẽ và có sức thuyết phục hơn.
* Tổ chức điều hành.
Là việc bố trí sắp xếp quy định trách nhiệm quyền hạn của cá nhân, bộ phận tham gia thẩm định, trình tự tiến hành cũng như mối quan hệ giữa các cá nhân, bộ phận đó trong việc thực hiện. Cần có sự phân công phân nhiệm rõ ràng và khoa học nhiệm vụ và tạo ra cơ chế kiểm tra giám sát chặt chẽ trong khâu thực hiện song không cứng nhắc, tạo gò bó nhằm đạt được tính khách quan và việc thẩm định được tiến hành nhanh chóng thuận tiện mà vẫn đảm bảo đọ chính xác. Như vậy, nếu xây dựng được một hệ thống tổ chức điều hành mạnh, phát huy được tối đa năng lực sáng tạo của cá nhân và sức mạnh tập thể sẽ nâng cao được chất lượng thẩm định.
1.3.3.2 Các nhân tố khách quan.
* Từ phía doanh nghiệp.
Hồ sơ dự án mà chủ đầu tư trình lên là cơ sở quan trọng để ngân hàng thẩm định. Do đó trình độ lập hồ sơ dự án của chủ đầu tư yếu kém sẽ ảnh hưởng xấu đến chất lượng thẩm định của ngân hàng. Phải kéo dài thời gian phân tích, tính toán thu thập thêm thông tin. Đặc biệt với các doanh nghiệp Việt Nam , khả năng tiềm lực tài chính cũng như trình độ quản lý rất hạn chế đưa lại rủi ro lớn cho ngân hàng- người cho vay phần lớn vốn đầu tư vào dự án.
Ngoài ra tính trung thực của các thông tin do chủ đầu tư cung cấp về tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng thẩm định tài chính của ngân hàng.
* Môi trường kinh tế.
Mức độ phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia quy định năng lực, kinh nghiệm phổ biến của chủ thể trong nền kinh tế, quy định độ tin cậy của các thông tin do đó ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định. Nền kinh tế chưa phát triển, cơ chế chính sách thiếu đồng bộ cùng với sự bất ổn của các điều kiện kinh tế vĩ mô đã hạn chế việc cung cấp thông tin sát thực phản ánh đúng diễn biến mối quan hệ thị trường, những thông tin về dự báo nền kinh tế... Đồng thời các định hướng chính sách phát triển kinh tế xã hội theo vùng ngành chưa được xây dựng một cách cụ thể đồng bộ và ổn định cũng là một yếu tố rủi ro trong phân tích, chấp nhận hay phê duyệt dự án.
* Môi trường pháp lý.
Những khiếm khuyết trong tính hợp lý đồng bộ và hiệu lực các văn bản pháp lý của nhà nước đều tác động xấu đến chất lượng thẩm định. Ví dụ sự mâu thuẫn chồng chéo của các văn bản pháp lý nói chung và các văn bản pháp lý đối với ngành ngân hàng nói riêng đều ảnh hưởng xấu đến quy trình thẩm định và qua đó ảnh hưởng xấu đến chất lượng thẩm định.
CHƯƠNG II.
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BA ĐÌNH
2.1. Giới thiệu về ngân hàng Công thương Ba Đình.
2.1.1 Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng Công thương chi nhánh Ba Đình.
Chi nhánh Ngân hàng Công thương chi nhánh Ba Đình ra đời từ năm 1959, lúc thành lập được gọi là Chi điếm Ngân hàng Ba Đình trực thuộc ngân hàng Hà Nội và đặt tại phố Đội Cấn Hà Nội.
Khi mới thành lập chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Ba Đình được giao nhiệm vụ: Vừa xây dựng cơ sở vật chất vừa củng cố tổ chức và hoạt động ngân hàng. Lúc này hoạt động mang tính cung ứng cấp phát theo chỉ tiêu kế hoạch được giao của nhà nước với mục tiêu hoạt động mang tính bao cấp, không lấy lợi nhuận làm mục tiêu, hoạt động theo mô hình quản lý một cấp theo nghị định 163/CP được Hội Đồng chính phủ ban hành ngày 16/6/1977. Mô hình này được duy trì từ khi thành lập cho đến tháng 7/1988 thì kết thúc.
Ngày 1/7/1988, theo nghị định 53 của Hội đồng bộ trưởng( hiện nay đổi thành Chính Phủ) ngành ngân hàng chuyển từ cơ chế quản lý hành chính kế hoạch sang hạch toán kinh tế theo mô hình quản lý ngân hàng hai cấp. Các ngân hàng thương mại quốc doanh lần lượt ra đời hoạt động theo mục tiêu lợi nhuận và an toàn. Nghị định 53/HĐBT đã góp phần hình thành mô hình ngân hàng mới đem lại hình thức mới trong lĩnh vực hoạt động và chu chuyển vốn. Trong bối cảnh chuyển đổi đó, NH Ba Đình cũng đã được chuyển đổi thành một chi nhánh ngân hàng thương mại quốc doanh với tên gọi NHCT khu vực BA Đình trực thuộc ngân hàng Công thương thnàh phố Hà Nội. Hoạt động kinh doanh mang tính kinh doanh thực sự, thông qua việc thay đổi phong cách giao tiếp phục vụ, lấy lợi nhuận làm mục tiêu kinh doanh, cùng với việc đa dạng hoá các loại hình kinh doanh dịch vụ, khai thác mở rộng thị trường, đưa thêm các dịch vụ mới vào kinh doanh.
Từ năm 1988 đến năm 1993, chi nhánh NHCTBĐ hoạt động theo mô hình quản lý NHCT ba cấp: Trung ương- Thành phố- Quận dẫn đến việc quản lý cồng kềnh chồng chéo. Hoạt động kinh doanh của NHCT Ba Đình phụ thuộc hoàn toàn vào NHCT Hà Nội, các phương thức và nghiệp vụ kinh doanh chưa được triển khai có hiệu quả, cùng những khó khăn của những năm đầu chuyển đổi mô hình kinh tế theo đường lối đổi mới của Đảng nên hoạt động của NHCT chi nhánh Ba Đình đi đến kém hiệu quả, không phát huy được thế mạnh và ưu thế của một chi nhánh NHTM trên địa bàn thủ đô. Trước những khó khăn vướng mức từ mô hình tổ chức quả lý, cũng như từ cơ chế, bắt đầu từ 1/4/1993, NHCT Việt Nam thí điểm mô hình tổ chức hai cấp : Cấp TW- Cấp Quận. Cùng với việc đổi mới và tăng cường công tác cán bộ, NHCT khu vực Ba Đình đã có sức bật mới, hoạt động theo một mô hình NHTM đa năng, có đầy đủ năng lực, uy tín để tham gia cạnh tranh một cách tích cực trên thị trường, nhanh chóng tiếp cận thị trường và không ngừng đổi mới, hoàn thiện để thích nghi với cơ chế thị trường. Trong công tác xây dựng, ổn định mô hình tổ chức, chi nhánh luôn coi trọng đội ngũ cán bộ, luôn bồi dưỡng nâng cao phẩm chất năng lực chuyên môn, năng lực điều hành và coi đó là nhiệm vụ trung tâm hàng đầu. Cụ thể: chi nhánh đã tự sưu tầm tài liệu tự tổ chức các lớp học tại chỗ hoặc ngoài giờ làm việc, người biết kèm người chưa biết, người có kinh nghiệm truyền đạt cho người mới vào nghề. Công tác đào tạo nghiên cứu, học tập của mỗi cán bộ viên chức chi nhánh đã thực sự có ý nghĩa thiết thực, tạo điều kiệ cho đội ngũ cán bộ viên chức hoàn thành tốt nhiệm vụ trên vị trí công tác được phân công làm nòng cốt xây dựng đơn vị trong sạch, vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt những nhiệm vụ kinh doanh trong những năm sau này.
Sau năm 1993, hoạt động kinh doanh tại chi nhánh đã có những thuận lợi nhất định. Sự phối kết hợp chặt chẽ thường xuyên giữa chi nhánh với các NHCT cùng hệ thông nhằm khai thác ưu thế từng đơn vị với mục tiêu cùng xây dựng và phát triển thị trường,. Về mô hình tổ chức, số cán bộ viên chức đã được tăng thêm cả về số lượng và chất lượng.
Chi nhánh NHCT Ba Đình hiện nay được đặt tại 142 phố Đội Cấn, bộn máy hoạt động có trên 300 cán bộ, nhân viên( trong đó có trên 85% có trình độ đại học và trên đại học, 10% có trình độ trung cấp và đang đào tạo đại học, còn lại là lao động giản đơn) với 12 phòng nghiệp vụ, 1 phòng giao dịch, 11 quỹ tiết kiệm hoạt động trên một địa bàn rộng lớn trải trên các quận Ba Đình, Hoàn Kiếm, Tây Hồ). Trong hoạt động kinh doanh NHCT khu vực Ba Đình không ngừng phát triển theo hướng “Ổn định- An toàn- Hiệu quả và phát triển” cả về quy mô, tốc độ tăng trưởng, địa bàn hoạt động, cũng như về cơ cấu tổ chức. Từ năm 1995 đến nay chi nhánh luôn được NHCT Việt Nam công nhận là chi nhánh suất sắc trong hệ thống NHCT Việt Nam; năm 1998 được nhân bằng khen của thủ tướng chính phủ; năm 1999 vinh dự được chủ tịch nước tặng thưởng huân chương lao động hạng ba; và liên tục trong các năm 2002 – 2004 được nhiều bằng cấp khen thưởng của: Chủ tịch UBND thành phố, thống đốc NHNN, hội đồng thi đua khen thưởng ngành ngân hàng tặng bằng khen.
2.1.2. Tình hình huy động và sử dụng vốn tại NHCT chi nhánh Ba Đình năm ._.i của toàn hệ thống.
- Mỗi cán bộ nhân viên phải tự nâng cao ý thức trách nhiệm và thường xuyên học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ dưới nhiều hình thức, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao để đáp ứng được nhu yêu kinh doanh theo tình hình mới với phong cách gaio dịch văn minh, lich sự, không để công việc châm trễ, mọi vướng mắc của khách hàng phải được giải quyết kịp thời, thoả đáng.
- Nghiêm túc thực hiện các cơ chế, quy chế, quy trình nghiệp vụ, nâng cao tinh thần trách nhiệm, tự kiểm tra, kiểm soát và kịp thời khắc phục theo yêu cầu của các đoàn thanh tra, kiểm tra những sai sót, vi phạm. An toàn tuyệt đối kho quỹ và thực hiện tốt các quy định bảo mật và khai thác của NHCT yêu cầu như: Mã thẩm quyền, an ninh trong thanh toán điện tử, niêm yết các quy định về an toàn bảo mật thông tin tại nơi làm việc và các điểm giao dịch...
- Triển khai trụ sở làm việc tại 126 Đội Cấn theo phê duyệt của NHCTVN. Phấn đấu để công trình sớm được khởi công vào đầu quý II năm 2006.
3.1.2. Một số định hướng cho công tác thẩm định tài chính dự án tại NHCT chi nhánh Ba Đình.
Trong thời gian qua, ngân hàng công thương nhi nhánh Ba Đình đã không ngừng đẩy mạnh hoạt động tín dụng trung dài hạn trong đó công tác thẩm định tài chính được nâng lên vi trí hàng đầu. Năm 2006, ngân hàng hứa hẹn nhiều thành công mới và ngân hàng công thương chi nhánh Ba Đình đã có nhiều định hướng cho công tác thẩm định tài chính dự án trong năm nay:
- Thẩm định tài chính dự án phải đứng trên quan điểm người cho vay để xem xét tính khả thi của dự án, nhận thức rõ lợi ích cảu ngân hàng gắn bó chặt chẽ với lợi ích của dự án.
- Phải xuất phát từ tình hình thực tiễn của ngành và phục vụ hoạt động cho vay của ngân hàng trong từng giai đoạn
- Công tác thẩm định tài chính dự án phải được tiến hành thường xuyên liên tục với tất cả dự án xin vay trong cả 3 giai đoạn: trước, trong và sau khi cho vay.
- Tổ chức thu thập thông tin, lưu trữ và quản lý thông tin nhằm cung cấp đầy đủ kịp thời phục vụ cho công tác thẩm định tài chính dự án. Đẩy mạnh công nghệ hoá các quy trình thẩm định đảm bảo cho công tác thẩm định tài chính chính xác và kịp thời hơn.
- Công tác thẩm định tài chính dự án phải phù hợp với tính đa dạng trong đầu tư, cung ứng vốn cho nền kinh tế với nhiều hình thức khác nhau.
- Công tác thẩm định phải được hoàn thiện để trở thành thế mạnh trong kinh doanh và trong cạnh tranh qua việc tham mưu, tư vấn thẩm định cho doanh nghiệp, do đó cần có sự tổng kết đúc rút kinh nghiệm thường xuyên.
3.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại NHCT chi nhánh Ba Đình.
3.2.1. Nâng cao trình độ cán bộ thẩm định tài chính dự án.
Nhân tố con người luôn là trung tâm đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong công việc nói chung và trong công tác thẩm định tài chính dự án nói riêng. Do dó việc đầu tiên ngân hàng cần làm để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đó là nâng cao trình độ cán bộ thẩm định. Muốn có được đội ngũ cán bộ thẩm định giỏi vể chuyên môn và có đạo đức tốt ngân hàng cần thực hiện những biện pháp sau:
* Về khâu tuyển dụng:
- Tuyển dụng những nhân viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng hệ chính quy thuộc các trường đại học cao đẳng có chuyên ngành phù hợp với làm nghiệp vụ thẩm định.
- Tổ chức tuyển dụng công khai, dân chủ để đảm bảo lựa chọn được những người giỏi nhất vào làm những công việc xứng đáng.
- Công việc tổ chức kiểm tra, sát hạch trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phải do hội đồng tuyển dụng thực hiện.
- Những người vượt qua kỳ thi tuyển phải qua thời gian thử việc để đánh giá khả năng ứng dụng các kiến thức trong công việc thực tế. Tránh tình trạng một số người khi thi tuyển vào điểm số cao nhưng sau khi làm việc lại máy móc, kém năng động.
* Điều quan trọng là các cán bộ cần phải có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp và luôn có ý thức vươn lên để hoàn thành tốt công việc được giao. Chính vì vậy, ngân hàng phải có chính sách khen thưởng đối với những cán bộ, chuyên gia làm việc giỏi để tránh hiện tượng “chảy máu chất xám”. Tuy nhiên, cũng cần có những biện pháp xử lý đối với những cán bộ làm việc không nghiêm túc gây thất thoát tài sản của ngân hàng.
* Ngoài ra, ngân hàng phải thường xuyên kiểm tra đội ngũ cán bộ thẩm định, xem xét và thuyên chuyển những cán bộ thẩm định không đáp ứng được yêu cầu công việc sang làm công việc khác. Bố trí các cán bộ có trình độ, bản lĩnh, tinh thần trách nhiệm cao vào những vị trí quan trọng chủ chốt để phát huy hơn nữa thế mạnh về con người.
* Nhằm nâng cao chất lượng thẩm định, tận dụng kinh nghiệm, kiến thức của những người đi trước, các ngân hàng nên phát động phong trào nghiên cứu khoa học, qua đó tập hợp các đề xuất, ý kiến, đề án nghiên cứu có giá trị để phổ cập và áp dụng trong toàn hệ thống. Hàng năm, trên cơ sở kế hoạch chung, ngân hàng cần xây dựng một chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ cho công tác thẩm định và có tổ chức tổng kết, đánh giá để rút kinh nghiệm.
* Có chính sách thu hút, ưu đãi các chuyên gia giỏi về làm việc, cộng tác viên và cố vấn cho chi nhánh.
* Bên cạnh những giải pháp trên, các ngân hàng cũng nên phát triển hệ thống trang thiết bị, công nghệ phục vụ cho toàn bộ hoạt động của ngân hàng cũng như công tác thẩm định dự án đầu tư.
3.2.2.Tăng cường thu thập, phân tích thông tin liên quan đến việc thẩm định dự án đầu tư:
Nhằm khắc phục rủi ro đạo đức và thông tin không cân xứng, ngân hàng cần tăng cường hệ thống thông tin nội bộ cũng như thu thập các thông tin từ bên ngoài.
Ngày nay, thông tin được sử dụng như một nguồn lực, một vũ khí trong môi trường cạnh tranh. Các tổ chức kinh tế nói chung và ngân hàng nói riêng phải tăng cường sử dụng thông tin để nâng cao hiệu quả hoạt động, đem lại lợi ích cho bản thân cũng như lợi ích kinh tế- xã hội.
Trong công tác thẩm định tài chính dự án, thông tin cũng đóng vai trò quyết định đến chất lượng thẩm định. Thông tin được cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời sẽ nâng cao hiệu quả thẩm định, hạn chế rủi ro, ngân hàng sẽ yên tâm với những dự án khả thi. Ngược lại nếu thông tin thiếu chính xác, không cập nhật sẽ có thể dẫn đến những sai lầm khi ra quyết định cho vay những dự án không có khả năng trả nợ đem lại những khoản nợ xấu ảnh hưởng không tốt đến chất lượng thẩm định. Do vậy, việc xây dựng, củng cố phát triển hệ thống thông tin đảm bảo cung cấp đầy đủ, chính xác lịp thời nguồn thông tin phục vụ cho công tác thẩm định là nhu cầu bức thiết đối với ngân hàng.
Thực tế cho thấy, nguồn thông tin duy nhất mà ngân hàng có được chủ yếu do các chủ đầu tư cung cấp với chất lượng không đảm bảo, các thông tin này thường thiếu và không chính xác, phần nhiều mang tính chủ quan. Để có được nguồn thông tin có chất lượng tốt, ngân hàng cần thực hiện các biện pháp sau:
3.2.2.1. Thu thập đầy đủ thông tin về khách hàng.
Hiện nay, ngoài ngoài những hồ sơ tài liệu do chính doanh nghiệp gửi lên với mục đích vay vốn, cán bộ thẩm định còn có những cuộc gặp gỡ với khách hàng, trực tiếp đến cơ sở của họ. Song để có thể thu được thông tin chính xác và hiệu quả nhất, ngân hàng cần thực hiện một số công việc sau:
- Tổ chức những buổi nói chuyện, trao đổi trực tiếp với khách hàng. Nhờ đó ngân hàng có thể thu thập được những thông tin không có trong hồ sơ vay vốn, cán bộ thẩm định cũng có cơ hội yêu cầu chủ đầu tư giải thích những vưỡng mắc, không rõ ràng hoặc có mâu thuẫn trong hồ sơ vay vốn.
- Điều tra tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn bằng cách gặp gỡ, nói chuyện trực tiếp với cán bộ nhân viên doanh nghiệp đó, tham quan cơ sở sản xuất, văn phòng làm việc, xem xét thị phần của doanh nghiệp trên thị trường. Ngoài ra ngân hàng còn có thể thu thập thông tin từ doanh nghiệp thông qua các cơ sở hữu quan, các ngân hàng khác mà doanh nghiệp có quan hệ, các đối tác kinh doanh của doanh nghiệp và qua sự khảo sát trên thị trường.
- Bên cạnh đó, giữa các NHTM cần hình thành mối quan hệ về thẩm định với nhau để khai thác thông tin được thuận lợi, tất cả các ngân hàng cùng giám sát được một khách hàng và có điều kiện để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong hoạt động thẩm định dự án.
- Mặc dù ngân hàng có thể thu thập thông tin từ khách hàng vay vốn bằng nhiều nguồn khác nhau song nguồn thông tin đầy đủ, chính xác nhất là mối quan hệ bạn hàng lâu dài giữa ngân hàng và khách hàng. Để làm được điều này, ngân hàng cần phải chủ động tạo ra niềm tin cũng như uy tín đối với khách hàng như: Sự ưu đãi lãi suất, điều kiện vay vốn, tiến hành tổ chức hội nghị khách hàng để có những khen thưởng thích đáng đối với những khách hàng lâu năm.
3.2.2.2.Thiết lập một hệ thống thu thập và lưu trữ thông tin.
Trong thời gian tới, ngân hàng ngân hàng cần mở thêm phòng thông tin và phòng ngừa rủi ro đáp ứng nhu cầu thông tin cho toàn hệ thống nói chung và hoạt động thẩm định nói riêng. Nguồn thông tin không chỉ từ báo chí, văn bản pháp quy như hiện nay mà còn có thể khai thác từ nhiều nguồn, đồng thời xây dựng một bộ phânj chuyên nghiên cứu, dự báo thông tin phục vụ trực tiếp chi nhánh. Hệ thống này có thể thực hiện dự trữ dữ liệu bằng các phần mềm tin học đủ mạnh.
Giữa các phòng ban với nhau cần có hệ thống thông tin đa chiều: đặc biệt giữa các phòng nguồn vốn, kế toán, kinh doanh và phòng thông tin. Khi một khách hàng đến vay vốn tại chi nhánh thì tài khoản và tất cả những khoản thanh toán qua ngân hàng đều được theo dõi thường xuyên bởi phòng kế toán. Song cán bộ thẩm định và cán bộ tín dụng lại giao dịch trực tiếp với khách hàng cũng cần nắm được thông tin này. Cán bộ thẩm định phải coi trung tâm thng tin của chi nhánh là một nguồn đáng tin cậy, có thể đáp ứng nhanh chóng các yêu cầu của họ. Để làm được điều này thì phòn thông tin phải chủ động trong công tác khai thác thông tin về khách hàng từ rất nhiều nguồn như trên internet và trên thị trường.
3.2.3. Hoàn thiện nội dung và phương pháp thẩm định tài chính dự án.
Trên cơ sở quy trình thẩm định tài chính dự án do ngân hàng Nhà nước quy định, ngân hàng công thương Việt Nam cũng đã ban hành sổ tay tín dụng trong đó quy định rõ về quy trình thẩm định tài chính dự án để áp dụng chung cho toàn hệ thống. Tuy nhiên nội dung quy trình thẩm định còn mang tính chất hướng dẫn chung, chưa thẩm định một cách chi tiết và cụ thể, mới chỉ nêu ra các nội dung cần thẩm định, các chỉ tiêu cần tính toán mà chưa có quy định cụ thể về cách thức đánh giá, nhận xét về các nội dung, chỉ tiêu này để ra quyết định cuối cùng của công tác thẩm định tài chính dự án mà chủ yếu dựa vào nguyên tắc khi sử dụng các chỉ tiêu tài chính này. Vì vậy, khi thẩm định tài chính dự án, cán bộ thẩm định và ngân hàng cần chú ý hoàn thiện trên các khía cạnh sau đây:
3.2.3.1.Thẩm định tổng vốn đầu tư, chi phí và doanh thu của dự án.
* Tổng vốn đầu tư: Đây là chỉ tiêu mà các ngân hàng thường không xác định kỹ, việc thẩm định đòi hỏi cán bộ tín dụng phải xác định cụ thể vốn đầu tư và các chi phí liên quan, tránh tình trạng thừa vốn hay thiếu vốn. Muốn vậy các cán bộ thẩm định phải tích cực tìm hiểu thị trường, căn cứ vào các định mức kinh tế kỹ thuật của các ngành, các đơn giá cuả nhà nước hay qua việc nghiên cứu mức độ hiện đại của công nghệ, tình hình giá cả trong và ngoài nước... Bên cạnh đó cần tích cực tìm hiểu, lưu trữ các thông tin của các dự án điển hình trong cả nước làm cơ sở cho việc kiểm tra, thẩm định tổng mức vốn đầu tư. Trong một số truờng hợp, ngân hàng có thể thuê cơ quan tư vấn nếu cần thiết. Đối với các dự án mua sắm các thiết bị phụ tùng, cán bộ thẩm định cần phải nắm vững những thông tin về giá cả, dịch vụ sau khi mua... Đối với các dự án xây dựng, đặc biệt các dự án có nhiều hạng mục công trình, kéo dài trong nhiều năm, ngoài việc tính toán các chi phí liên quan còn phải tính đến yếu tố lạm phát, tỉ giá... Không ít những dự án gặp phải khó khăn về tiến độ thi công do giá vất liệu tăng mà trước đó khi thẩm định không tính toán đến. Ngoài ra ngân hàng cần quan tâm đến tiến độ bỏ vốn đầu tư.
* Chi phí:
Việc tính toán chi phí sản xuất kinh doanh phải được tham khảo quy định của bộ tài chính, cơ quan chủ quản của doanh nghiệp và trên thị trường. Các loại chi phí như: chi phí quản lý doanh nghiệp, lãi vay vốn lưu động, chi phí thuê đất, chi phí thuê chuyên gia... Không nên chấp nhận mặc nhiên cách tính toán của doanh nghiệp hay tuỳ tiện tăng lên để an toàn. Đối với các dự án của doanh nghiệp đã hoạt động trong ngành đó , các cán bộ thẩm định có thể lấy các chỉ tiêu cũ làm cơ sở. Nếu các dự án và doanh nghiệp mới hoàn toàn, các chỉ tiêu của các doanh nghiệp tương tự cũng là những tham khảo tốt. Còn những chi phí như thuê mua cửa hàng, chi phí thuê chuyên gia, các chi phí mang tính chất thị trường thì cán bộ nên tham khảo trên thị trường.
Xuất phát từ thực tế, các chủ đầu tư do mong muốn có được quyết định nhận tài trợ của ngân hàng, mặt khác họ đoán được tâm lý ngân hàng hay quan tâm đến các chỉ số NPV, IRR, nguồn trả nợ nên họ thường tính chi phí mua máy móc thiết bị cao, do đó KHCB cao hơn thực tế. Doanh nghiệp vừa giảm được thuế thu nhập doanh nghiệp vừa có nguồn trả nợ từ khấu hao cao mà các con số này thì không chính xác. Do đó khi thẩm định, ngân hàng cần xem xét kỹ để đảm bảo tính chính xác cảu các chi phí này. Ngân hàng cần nhận thức rằng khấu hao cơ bản không phải là nguồn trả nợ sẵn có mà nó chỉ là con số trên sổ sách, và không có ý nghĩa khi đự án không khả thi.
* Doanh thu:
Muốn tính chính xác doanh thu của dự án, cán bộ thẩm định cần phải xác định được xu hướng biến động của từng yếu tố, đặc biệt là yếu tố thị trường như: sự bảo đảm nguồn cung cấp, nguồn tiêu thụ, các sản phẩm cùng loại, giá bán, khả năng cạnh tranh của sản phẩm... Để xác định chính xác các yếu tố trên, ngân hàng cần thẩm định tốt thị trường về các mặt như quan hệ cung cầu sản phẩm trên thị trường, cung cầu các sản phẩm mà dự án dự định sản xuất, đối tượng tiêu thụ sản phẩm, phương thức tiêu thụ sản phẩm.. Tình hình cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường như thị phần, phân tích thế mạnh so với sản phẩm cùng loại, đánh giá về khối lượng sản phẩm dự kiến tiêu thụ, vòng đời của sản phẩm, đánh giá xu hướng giá cả của sản phẩm khi giá nguyên vật liêu thay đổi, sự thay đổi của sản phẩm thay thế... Ngoài ra, xét đến công nghệ của dự án, vấn đề đặt ra của dự án là phải có công nghệ tối ưu, không bắt buộc phải là công nghệ hiện đại nhất, tiên tiến nhất mà là công nghệ phù hợp với trình độ và năng lực của công nhân vì trình độ của công nhân chưa cao, chưa sử dụng được hết công suất của công nghệ hiện đại. Như vậy sẽ lãng phí, giá thành sẽ phải nâng lên vì đầu tư lớn, tiêu thụ khó khăn vì giá thành cao.
3.2.3.2.Xác định lãi suất chiết khấu và thẩm định các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả dự án
* Lãi suất chiết khấu là yếu tố quyết định tính chính xác của các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án: NPV, IRR, PI, PP... Vì vậy ngân hàng cần xác định một mức lãi suất chiết khấu hợp lý cho từng dự án.
Với một dự án đầu tư có thể có nhiều nguồn huy động vốn khác nhau vào các thời điểm khác nhau với các mức lãi suất khác nhau nên việc áp dụng một tỷ suất chiết khấu hợp lý sẽ đánh giá được tổng chi phí cơ hội của tất cả các nguồn vốn,ngược lại. Tuy nhiên khi ngân hàng xác định tỷ suất chiết khấu hợp lý cho dự án cần bảo đảm: bù đắp được rủi ro của dự án , phản ánh được chi phí sử dụng vốn, phản ánh được hiệu quả sử dụng vốn của dự án và tuỳ thuộc vào loại hình doanh nghiệp, lĩnh vực đầu tư của dự án, mức độ rủi ro của ngành...
Để nâng cao mức độ chính xác của lãi suất chiết khấu thì khi thẩm định tài chính dự án ngân hàng cần xem xét các mức lãi suất chiết khấu khác như: lãi suất cho vay trung_ dài hạn trên thị trường trong nước và thế giới, mức sinh lời bình quân của nghành...
* Thẩm định dòng tiền của dự án:
Dòng tiền của dự án là cơ sở để cả ngân hàng và chủ dự án xác định các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án. Vì vậy cần xác định chính xác dòng tiền ròng hàng năm của dự án.
Dòng tiền tại thời điểm bỏ vốn đầu tư (CF0):
CF0 = - Tổng vốn đầu tư .
Dòng tiền ròng ở cuối mỗi năm thực hiện dự án ( trừ năm cuối):
NCFt = Thu nhập sau thuế + Khấu hao + Lãi vay.
thanh lý TSCĐ) và giá trị thu hồi của TSLĐ ròng của dự án.
* Thẩm định các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án:
Khi ngân hàng thẩm định tài chính dự án thì cán bộ thẩm định cần xem
- Tỷ suất hoàn vốn nội bộ IRR > lãi suất ngân hàng.
- Thu nhập hiện tại thuần NPV > 0.
- Thời gian hoàn vốn không nên kéo dài quá 10 năm( trừ một số trường hợp đặc biệt có thể chấp nhận được).
- Điểm hoà vốn trên doanh thu của dự án không nên vượt qua 70%.
Tuy nhiên, các chỉ tiêu trên đều có những ưu, nhược điểm riêng, mỗi dự án đều có những đặc điểm và hoàn cảnh thực hiện riêng. Nếu ngân hàng chỉ sử dụng riêng lẻ một vài chỉ tiêu để thẩm định thì không thể đánh giá chính xác được hiệu quả của dự án đặc biệt là những dự án có NPV cao nhưng IRR lại thấp hơn lãi suất cho vay cùng kỳ hạn của ngân hàng hay mức sinh lời trên vốn đầu tư bỏ ra lại thấp...Vì vậy ngân hàng nên lựa chọn và kết hợp một số chỉ tiêu tài chính thích hợp để đánh giá dự án.
* Đánh giá khấu hao và khả năng trả nợ của dự án:
Điều ngân hàng đặt lên qua tâm hàng đầu khi thẩm định tài chính của dự án là ngân hàng sẽ thu được bao nhiêu nợ gốc và lãi mỗi năm? nguồn trả nợ được lấy từ đâu? sau bao lâu thì ngân hàng thu hồi đủ vốn đã đầu tư?
Nguồn trả nợ của dự án
=
% Khấu hao TSCĐ trích lại để trả nợ
+
% Lợi nhuận sau thuế hàng năm trích để trả nợ
+
Nguồn khác
Trong cơ cấu nguồn trả nợ của dự án, ngân hàng cần quan tâm đến hai nguồn tài chính quan trọng của dự án là khấu hao TSCĐ và lợi nhuận sau thuế.
Khấu hao TSCĐ: Đây là nguồn trả nợ quan trọng nhất từ dự án, tuy nhiên việc tính khấu hao phải căn cứ vào đặc điểm hoạt động và vòng đời của dự án.. Có nhiều phương pháp tính khấu hao TSCĐ, chủ dự án thường lựa chọn phương pháp tính khấu hao nhanh( khấu hao luỹ thoái, khấu hao theo tỷ lệ giảm dần...) để tăng nguồn trả nợ, rút ngắn thời gian trả nợ, tăng chi phí để giảm thuế thu nhập phải nộp hàng năm. Ngân hàng cần xem xét kỹ lưỡng phương pháp và tỷ lệ tính khấu hao TSCĐ theo đúng chế độ kế toán để đảm bảo thu hồi vốn của chủ đầu tư cũng như đảm bảo khả năng sinh lời và trả nợ của dự án.
Lợi nhuận sau thuế: Thông thường ngân hàng tính trích 30 đến 50% lợi nhuận sau thuế của dự án để hình thành nguồn trả nợ cho ngân hàng. Tuy nhiên trong những năm đầu tư hoạt động của dự án thì ngân hàng thường chỉ tính trích % Khấu hao TCSĐ hàng năm để trả nợ ngân hàng vì trong những năm đầu tư hoạt động của dự án, lợi nhuận thường rất nhỏ thậm chí là thua lỗ.
Sau khi tính được nguồn trả nợ cho dự án thì ngân hàng lập bảng cân đối trả nợ trung_dài hạn ngân hàng theo mẫu sau:
STT
Khoản mục
Diễn giải
Năm 1
Năm 2
... ...
Năm n
1
Nguồn trả nợ:
- %Khấu hao cơ bản.
- %Lợi nhuận sau thuế.
- Nguồn bổ sung
2
Dự kiến trả nợ hàng năm.
3
Cân đối
3.2.3.3. Tăng cường phân tích độ nhạy của dự án.
Phân tích độ nhạy của dự án nhằm kiểm tra mức độ nhạy cảm của các chỉ tiêu tài chính với sự biến động của một số yếu tố. Phân tích độ nhạy cho phép xác định mức độ quan trọng của các yếu tố( nguồn rủi ro) và các chiều hướng tác động của các yếu tố đó đến kết quả dự án. Ngân hàng cần luôn giả thiết các yếu tố, tình huống có khả năng tác động đến dự án trong tương lai như: chi phí nguyên vật liêu tăng, doanh thu nhỏ hơn dự kiến, thay đổi lãi suất chiết khấu, lạm phát, chính sách thuế cua nhà nước, tỷ giá... để tính toán độ nhạy cảm của các chỉ tiêu tài chính với các yếu tố. Nếu dự án vẫn có hiệu quả khi các biến động đó xảy ra và các biến số trong phân tích có dấu hiệu ít ảnh hưởng đến lợi ích của dự án thì nó được đánh giá là có tính khả thi vững chắc và có độ an toàn cao. Ngược lại cần xem xét lại khả năng phát sinh bất trắc để đề xuất giải pháp, có kiến nghị nhằm đảm bảo hạn chế rủi ro hoặc từ chối dự án. Ngân hàng có thể áp dụng các biện pháp như giảm tỷ lệ vay vốn của ngân hàng trong dự án, yêu cầu lãi suất cao hơn. Ngân hàng cần biết đây là phương pháp rất phổ biến hiện nay và nó đóng vai trò rất quan trọng để đánh giá tính khả thi của dự án.
3.2.4. Những giải pháp hỗ trợ về thẩm định.
* Lập quỹ hỗ trợ cho việc thẩm định.
Cho đến nay, rất ít ngân hàng có các khoản chi phí trợ giúp cho quá trình thẩm định. Bởi các ngân hàng chưa tính đến việc bỏ chi phí thu thạp thêm những thông tin có giá trị, nguồn thông tin mà ngân hàng có đều là sẵn có hoặc do khách hàng cung cấp, do nhà nước quy định hay chỉ tiêu kỹ thuật của ngành, do kinh nghiệm đúc rút được... Bản thân các cán bộ làm công tác thẩm định cũng nhận thấy sự cần thiết của các khoản chi phí hỗ trợ cho công tác trong quá trình thẩm định như: những cuộc gặp gỡ, tiếp xúc trực tiếp, đi thực tế tại các doanh nghiệp, kiểm tra liên tục trong quá trình giải ngân và xem xét doanh nghiệp sử dụng vốn vay có đúng mục đích và hiệu quả hay không.
Do vậy rất cần thiết cho chi nhánh là lập một quỹ riêng gọi là quỹ hỗ trợ thẩm định. Quỹ này hoạt động với mục đích hỗ trợ các chi phí trong quá trình thẩm định tài chính dự án. Nó góp phần làm giảm bớt khó khăn cho cán bộ khi tiến hành thẩm định, tạo điều kiện cho quá trình thẩm định thuận lợi hơn. Để làm được việc này có thể làm theo các cách sau: hoặc là chi một khoản kinh phí nhất định cho mỗi dự án khả thi hoặc chi theo phần trăm khi món vay được thực hiện. Những chi phí này trước mắt có thể làm tăng chi phí cho ngân hàng, song xét về lâu dài đây chính là động lực thúc đẩy sự phát triển của ngân hàng, đặc biệt là công tác thẩm định tài chính dự án.
* Tổ chức quản lý sau thẩm định, đánh giá dự án đầu tư.
Công việc thẩm định dự án không chỉ đơn thuần là việc thẩm định các phương diện của dự án và cho vay mà nó còn bao hàm những việc như: theo dõi, giải quyết những vưỡng mắc trong quá trình cho vay. Cán bộ thẩm định nên thực hiện đánh giá hiệu quả hoạt động của các dự án, so sánh với các ý kiến thẩm định trước đó, rút ra những thành công và bất hợp lý trong quá trình thẩm định. Các bài học qua các dự án điển hình sẽ là cơ sở đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm cho những dự án sau. Đồng thời thông qua cán bọ thẩm định có thể nâng cao trình độ thẩm định của mình.
Chi nhánh nên thường xuyên kiểm soát tiến độ bỏ vốn đầu tư, xem xét vòng luân chuyển vốn đầu tư cho từng giai đoạn, từng hạng mục...Từ đó có những biện pháp giải ngân hợp lý, tránh lãng phí và ứ đọng vốn, đồng thời kiểm soát được chủ đầu tư có sử dụng vốn có đúng mục đích hay không.
3.2.5. Nhóm giải pháp về tổ chức điều hành của ngân hàng đối với hoạt động thẩm định dự án:
Nhằm thực hiện tốt quá trình chuyên môn hoá hoạt động thẩm định, qua đó nâng cao chất lượng thẩm định, ngân hàng nên quan tâm hàng đầu tới nhóm giải pháp về tổ chức điều hành. Việc tổ chức, quản lý điều hành công tác thẩm định cần được chú trọng với quy trình thẩm định chặt chẽ vì đây là khâu quan trọng, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công tác thẩm định của ngân hàng.
Các dự án được đưa đến NH có quy mô, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác nhau. Việc bổ nhiệm, phân công cán bộ cần phải dựa vào khả năng, thực lực của mỗi người, đồng thời phải có sự kết hợp chặt chẽ, cùng hợp tác giúp đỡ lẫn nhau để phát huy hơn nữa trình độ, kinh nghiệm và thế mạnh của mỗi cán bộ nhằm đạt được hiệu quả trong công tác thẩm định. Vì vậy, việc phân công công tác phải gắn chặt với trách nhiệm của mỗi cán bộ thẩm định và kết quả của mỗi dự án mà người đó đảm nhiệm vì như thế, trách nhiệm của cán bộ thẩm định mới ngày được nâng cao. Ngân hàng nên quy định chi tiết, cụ thể hơn về trách nhiệm cũng như quyền lợi của các cán bộ đối với kết quả thẩm định dự án đầu tư; thực hiện chuyên môn hoá trong công tác, tách bộ phận thẩm định ra khỏi tín dụng và bản thân nghiệp vụ thẩm định cũng cần được chuyên môn hoá theo ngành, lĩnh vực kinh tế và thời hạn của dự án.
Bên cạnh đó, cần hoàn thiện tổ chức thẩm định trong toàn hệ thống của ngân hàng nhằm phối hợp chặt chẽ với các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng. Cần có sự kết hợp giữa Ngân hàng Trung ương và các chi nhánh của từng ngân hàng. Ngân hàng Trung ương sẽ là nơi chỉ đạo toàn bộ hoạt động về nghiệp vụ thẩm định, ra các văn bản pháp lý trong hệ thống ngân hàng và trực tiếp tham mưu cho lãnh đạo trong việc phát triển nghiệp vụ ngân hàng cũng như nghiệp vụ thẩm định nói chung. Ở các chi nhánh thì nên thành lập tổ thẩm định trực thuộc phòng tín dụng hoặc tách thành một phòng, ban riêng.
3.3. Một số kiến nghị để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại chi nhánh NHCT Ba Đình.
Để đảm bảo nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại các ngân hàng, cần có sự phối hợp đồng bộ của các ngành, các cấp. Xuất phát từ yêu cầu phát triển của hệ thống ngân hàng nói chung, em xin đề xuất một số ý kiến sau:
3.3.1.Về phía Nhà nước và các Bộ, ngành
Đề nghị NHNN phối hợp với các Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Tổng cục Thống kê... xây dựng đề án xác định hệ thống chỉ tiêu thẩm định mang tính chuẩn mực cùng các ngưỡng đánh giá cho từng ngành công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ bản... làm cơ sở để so sánh, đánh giá dự án.
- Đề nghị các bộ, ngành cần phối hợp chặt chẽ trong việc thẩm định và phê duyệt các dự án đầu tư, nâng cao trình độ, chất lượng thẩm định dự án.
- Nhà nước cần quy định rõ hơn trách nhiệm của chủ đầu tư và người có thẩm quyền quyết định đầu tư, trách nhiệm của các bên đối với các kết quả thẩm định trong nội dung dự án đầu tư. Đã là chủ đầu tư thì thoát ly khỏi chức năng quản lý Nhà nước để tập trung vào công tác quản lý xây dựng, tổ chức hạch toán, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư.
- Nhà nước chỉ đạo các doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện chế độ kế toán, thống kê và thông tin báo cáo theo đúng quy định, thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc tạo điều kiện giúp ngân hàng trong việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, tài chính dự án.
3.3.2. Đối với NHNN
- NHNN cần hệ thống hoá những kiến thức cơ bản về thẩm định dự án, hỗ trợ cho các NHTM và nâng cao nghiệp vụ thẩm định đồng thời mở rộng phạm vi, nội dung và tăng tính cập nhật của trung tâm phòng ngừa rủi ro tín dụng. Hàng năm, NHNN cần tổ chức các hội nghị kinh nghiệm toàn ngành để tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa các NHTM trong công tác thẩm định.
- Đề nghị bộ phận thẩm định các NHTM Việt Nam phối hợp với nhau để trao đổi kinh nghiệm và thông tin. Đặc biệt, xu hướng hiện nay là các ngân hàng cho vay đồng tài trợ những dự án quy mô lớn, việc hợp tác sẽ tận dụng được thế mạnh của mỗi ngân hàng trong việc thẩm định.
3.3.3 Đối với chủ đầu tư.
- Để giúp cho ngân hàng có thể nâng cao chất lượng thẩm định dự án, có quyết định chính xác trong việc cho vay theo dự án, tránh trương hợp từ chối không cho vay những dự án có hiệu quả thì các doanh nghiệp xin vay vốn phải cung cấp đầy đủ cho ngân hàng những tài liệu cần thiết đúng như quy định, những tài liệu này phải chính xác, trung thực, tránh tình trạng sửa đổi số liệu. Đây là nghĩa vụ của doanh nghiệp vì khi đánh giá dự án ngân hàng sẽ không thấy được những rủi ro từ dự án.
- Đề nghị các chủ đầu tư nâng cao năng lực lập và thẩm định các dự án đầu tư, chấp hành nghiêm chỉnh việc xây dựng và lập dự án theo đúng nội dung quy định trong thông tư số 09/BKH/VPTĐ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về xây dựng và thẩm định dự án.
- Các chủ đầu tư cần phải nhận thức đúng vai trò, vị trí của công tác thẩm định dự án trước khi quyết định đầu tư để có những dự án thực sự có hiệu quả. Các dự án phải được xác định đầu tư đúng tổng số vốn theo thời điểm xây dựng, khắc phục tình trạng làm với khối lượng nhiều nhưng tính toán ít để dễ được phê duyệt.
KẾT LUẬN
Cùng với xu hướng của nền kinh tế thì các quan hệ tín dụng ngày càng phát triển đó giúp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Để hoạt động tín dụng ngày càng tốt thì việc nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đóng một vai trò quan trọng, đây là một công việc phức tạp, liên quan đến nhiều đối tượng, chủ thể. Cho nên nó đòi hỏi một sự nghiên cứu sâu sắc và có những giải pháp đồng bộ với sự quyết tâm nỗ lực thực hiện từ nhiều phía. Thẩm định tài chính dự án cũng chỉ là một trong những nội dung cần phải tiến hành xem xét đối với mỗi dự án trước khi ra quyết định cho vay. Song trong giới hạn về thời gian và phạm vị chi phí, chuyên đề đã thực hiện các công việc sau:
1. Đã nêu khái quát hoạt động cơ bản của NHCTBĐ trong cơ chế thị trường. Nêu ra sự cần thiết phải thẩm định tài chính dự án. Hệ thống hóa những chỉ tiêu cơ bản áp dụng trong thẩm định tài chính dự án và đề cập đến một số nhân tố ảnh hưởng.
2. Xem xét thực trạng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay tại NHCTBĐ, từ đó rút ra những nhận xét đánh giá về kết quả đạt được, những hạn chế và những nguyên nhân dẫn tới các hạn chế đó.
3. Đưa ra một số giải pháp để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án và đề xuất một số kiến nghị.
Đấy là những nội dung rất rộng mà đề tài này chỉ xin tiếp cận đến khía cạnh. Những giải phải và kiến nghị đưa ra chỉ là những đóng góp nhỏ vào việc nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án của ngân hàng công thương Ba Đình. Em xin nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô và các cán bộ Ngân hàng.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn Tiến sỹ Đàm Văn Huệ đã hướng dẫn giúp đỡ em tận tình chu đáo trong quá trình viết chuyên đề và chị Đào Thị Chinh, cán bộ tín dụng phòng khách hàng một, đó tạo điều kiện giúp đỡ em trong thời gian thực tập tại chi nhánh để em có thể hoàn thành bài viết này.
Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1-/ Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, Edward W. Reed và Ed ward K.Gill.
2-/ Giáo trình tài chính doanh nghiệp - Đại học kinh tế quốc dân.
3-/ Phân tích và quản lý các dự án đầu tư. Nguyễn Ngọc Mai.
4-/ Quản trị dự án đầu tư. Nguyễn Xuân Thuỷ.
5-/ Phân tích kinh tế các dự án. SQUIRE. L.
6-/ Tạp chí Ngân hàng, tạp chí Tài chính các số năm 2004, 2005, 2006.
7 -/ Báo cáo kinh nghiệm tại Hội nghị thẩm định dự án của các Ngân hàng thương mại.
8-/ Báo cáo hoạt động kinh doanh của NHCT BĐ năm 2003, 2004, 2005.
9-/ Các hồ sơ thẩm định tai phòng khach hàng 1, NHCT BĐ.
10-/ Sổ tay tín dụng – NHCT BĐ
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32762.doc