Lời mở đầu
Việt Nam gia nhập WTO đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các ngành, các cấp,các lĩnh vực trong nền kinh tế nhưng bên cạnh đó cũng gặp không ít khó khăn.Đảng và Nhà nước đã đặt ra mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản phải hoàn thành quá trình công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước.Để làm được điều này chúng ta phải đảm bảo vững vàng về mọi mặt kinh tế,chính trị và xã hội.Bên cạnh đó hành lang pháp lý về các hoạt động đầu tư cần phải được mở rộng thêm do đầu tư là đ
87 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1308 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại Công ty tài chính dầu khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iều kiện tiền đề của mọi sự đổi mới nhằm đảm bảo cho việc tồn tại và phát triển không ngừng của xã hội.Nhưng muốn đầu tư được hiệu quả thì các dự án phải có tính khả thi.Đánh giá về tình trạng đầu tư chung của nước ta hiện nay cho thấy việc đầu tư còn tràn lan,lãng phí chưa đạt được hiệu quả kinh tế tài chính đặt ra.
Chính vì thế mà thẩm định dự án nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng là một yêu cầu mang tính lý luận và thực tiễn cao.Việc nâng cao chất lượng thẩm định tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc ra quyết định đầu tư của công ty,tránh cho công ty những tổn thất không đáng có.Trong thời gian thực tập tại công ty tài chính dầu khí,với những kiến thức về tài chính doanh nghiệp,với mong muốn tìm kiếm giải pháp để giải quyết những khó khăn trong công tác thẩm định tài chính dự án tại công ty ,em đã chọn đề tài:"Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại công ty tài chính dầu khí" cho báo cáo thực tập tốt nghiệp của mình.
Nội dung báo cáo gồm có 3 chương:
Chương 1:Tổng quan về thẩm định tài chính dự án.
Chương 2:Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án tại công ty tài chính dầu khí.
Chương 3:Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại công ty tài chính dầu khí.
Sau đâu là toàn bộ bản báo cáo chuyên đề thực tập tốt nghiệp của em.
Chương 1: Tổng quan về thẩm định tài chính dự án.
1.1.Dự án và thẩm định dự án.
1.1.1.Những vấn đề chung về dự án.
1.1.1.1Khái niệm dự án
Doanh nghiệp là một chủ thể kinh tế độc lập trong nền kinh tế, chúng đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành và vận hành nền kinh tế.Ở Việt Nam theo luật doanh nghiệp:Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản,có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh-tức là thực hiện một hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư,từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời”.
Hướng tới mục tiêu đó,trong quá trình kinh doanh của mình doanh nghiệp phải thường xuyên thực hiện hoạt động đầu tư.Có thể nói,đầu tư là một hoạt động chủ yếu quyết định sự phát triển và khả năng tăng trưởng của doanh nghiệp.Trong hoạt động đầu tư,doanh nghiệp bỏ vốn dài hạn hình thành và bổ sung những tài sản cần thiết để thực hiện mục tiêu kinh doanh.Hoạt động đầu tư này được thể hiện tập trung và rõ nét thông qua các dự án.Để có thể đáp ứng mục tiêu tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu,doanh nghiệp cần có chiến lược trong việc tìm kiếm và lựa chọn các dự án.Nếu không có những ý tưởng mới và dự án mới,doanh nghiệp sẽ không thể tồn tại và phát triển,đặc biệt là trong môi trường cạnh tranh như hiện nay.
Hiện nay từ “dự án” được sử dụng rất rộng rãi-ta thường nghe nói đến các dự án đầu tư phát triển tầm cỡ quốc gia hoặc quốc tế,song cũng có thể nói đến dự án của cá nhân mỗi người,như tiến hành một nghiên cứu thử nghiệm,viết một cuốn sách…Vậy có thể hiểu “dự án” là gì?
Theo nghị định 52/1999/NĐ-CP thì dự án được định nghĩa là "một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới,mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì,cải tiến,nâng cao chất lượng của các sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định".
1.1.1.2.Vai trò của dự án.
Dự án có vai trò rất quan trọng đối với các chủ đầu tư,các nhà quản lý và tác động trực tiếp tới tiến trình phát triển kinh tế xã hội.
+)Đối với nhà đầu tư.
Dự án là một căn cứ quan trọng nhất để nhà đầu tư quyết định có nên tiến hành đầu tư hay không; là cơ sở cho các nhà đầu tư xây dựng kế hoạch đầu tư,theo dõi đôn đốc và kiểm tra quá trình thực hiện dự án và giúp nhà đầu tư xác định được cơ hội đầu tư tốt, giảm thiểu rủi ro ,giảm thiểu chi phí cơ hội.
+)Đối với các nhà quản lý.
Dự án là căn cứ lập kế hoạch và theo dõi quá trình thực hiện đầu tư.Dự án cung cấp những tài liệu quan trọng để các cơ quan chức năng của Nhà nước phê duyệt cấp giấy phép đầu tư.
+)Đối với xã hội.
Sự phát triển của mỗi cá nhân,tổ chức sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của toàn xã hội.Các kết quả thực hiện mỗi dự án ít nhiều đều ảnh hưởng đến lợi ích xã hội, đặc biệt đối với những dự án lớn có ảnh hưởng rộng rãi.Chính vì vậy,ở mỗi nước đều có cơ quan chuyên trách quản lý dự án,ví dụ ở Việt Nam là bộ Kế hoạch và Đầu tư.
1.1.1.3.Phân loại dự án
Trên thực tế,các dự án rất đa dạng về cấp độ,loại hình,quy mô và thời hạn và được phân loại theo các tiêu thức khác nhau.Chẳng hạn,ở nhiều nước trên thế giới,dự án được phân loại theo một số tiêu thức sau:
+)Theo người khởi xướng:Dự án được phân loại thành dự án cá nhân;dự án tập thể;dự án quốc gia;dự án quốc tế.
+)Theo phân ngành kinh tế xã hội:Dự án được phân loại thành dự án sản xuất,dự án thương mại,xây dựng cơ sở hạ tầng,dịch vụ xã hội…
+)Theo loại hình dự án:dự án được phân loại thành dự án giáo dục đào tạo,dự án nghiên cứu và phát triển,dự án đổi mới,dự án hỗn hợp.
+)Theo thời gian:Dự án được phân loại thành dự án ngắn hạn,trung hạn,dài hạn.
+)Theo quy mô:Dự án được phân loại thành dự án lớn và dự án nhỏ.
Dự án lớn là những dự án có quy mô vốn đầu tư lớn với nhiều đối tác tham gia,được thực hiện trong một thời gian dài và kết quả có tác động nhiều mặt đến nhiều đối tượng.Chính vì vậy dự án lớn thường có yêu cầu cao về sự quản lý.
Các dự án nhỏ thường là các dự án của các cá nhân,tổ chức kinh tế hoặc tổ chức xã hội.Các dự án này không đòi hỏi nhiều vốn,thời gian thực hiện ngắn và ít được ưu tiên.Các dự án nhỏ cho phép sử dụng một cách đơn giản các phương pháp quản lý.
Các dự án có quy mô khác nhau thì sẽ được tiến hành theo những cách khác nhau,việc thực hiện dự án nhỏ thường đơn giản và ít tốn kém hơn các dự án lớn.Do đó, phân loại dự án theo tiêu thức quy mô có vai trò quan trọng giúp chủ đầu tư,các nhà quản lý và người thực hiện dự án xác định được rõ ràng mục đích và nhiệm vụ của mình.
+)Theo mối quan hệ giữa các dự án đầu tư:Theo cách phân loại này,dự án bao gồm dự án độc lập,dự án phụ thuộc và dự án loại trừ nhau.
Dự án độc lập là những dự án mà việc chấp nhận hay từ chối thực hiện của dự án này không ảnh hưởng trực tiếp đến việc đánh giá lựa chọn một dự án khác.
Dự án phụ thuộc là dự án mà việc chấp thuận hay từ chối thực hiện dự án này sẽ có ảnh hưởng dây chuyền đến việc quyết định lựa chọn dự án khác.Trên thực tế các dự án thường là những dự án phụ thuộc.
Dự án loại trừ là những dự án mà việc chấp thuận dự án này đồng thời là việc laọi bỏ dự án kia.
Việc phân loại dự án theo mối quan hệ có vai trò giúp nhà quản lý đưa ra những quyết định hợp lý khi lựa chọn dự án.
1.1.1.4.Các giai đoạn của dự án
Dự án được xây dựng và phát triển trong một quá trình gồm nhiều giai đoạn riêng biệt, song gắn bó chặt chẽ với nhau và đi theo một tiến trình logic.Ở đây ta phân thành 5 giai đoạn cụ thể là:Xác định dự án, phân tích và lập dự án, duyệt dự án, triển khai thực hiện, nghiệm thu tổng kết và giải thể.
+)Xác định dự án.
Đây là giai đoạn hình thành ý tưởng đầu tư.Trên cơ sở nghiên cứu,thu thập thông tin về chiến lược phát triển kinh tế của cả nước, của từng ngành hay của từng lĩnh vực,đồng thời dựa trên những nghiên cứu về thị trường trong và ngoài nước,các ý tưởng đầu tư sẽ được đề xuất và chọn lọc một cách thận trọng nhất.
+)Phân tích và lập dự án.
Sau khi xác định ý đồ,mục tiêu và phương tiện của dự án,ta có thể tiến hành phân tích và lập dự án. Nội dung chủ yếu của giai đoạn phân tích và lập dự án là nghiên cứu một cách toàn diện tính khả thi của dự án.Tuy vậy đối với những dự án có quy mô lớn ,thì trước khi thực hiện nghiên cứu khả thi thì nên có bước nhiên cứu tiền khả thi. Nghiên cứu tiền khả thi là nghiên cứu một cách sơ bộ và khái quát về dự án.Tất cả các dự án đều được xem xét ở trạng thái tĩnh. Kết quả của nghiên cứu tiền khả thi là báo cáo tiền khả thi, ứng dụng với các dự án lớn.
Nghiên cứu khả thi là nghiên cứu một cách cụ thể và chi tiết về dự án.Các chỉ tiêu được xem xét cả ở trạng thái tĩnh và trạng thái động.Kết quả của nghiên cúư khả thi là báo cáo khả thi,dự án được ra đời.
Thiết kế và chỉ đạo nghiên cứu khả thi là một công tác phức tạp đòi hỏi sự tham gia của nhiều lĩnh vực khác nhau. Phạm vi và thời gian nghiên cứu khả thi phụ thuộc vào tính chất của dự án:dự án có phức tạp hay không,đã được nhận thức đến mức độ nào,dự án có tính chất sáng tạo hay chỉ là lặp lại.
+)Duyệt dự án.
Giai đoạn này thường được thực hiện với sự tham gia của các cơ quan Nhà nước,các tổ chức tài chính và các thành phần khác tham gia dự án, nhằm xác minh lại toàn bộ những kết luận đã được đưa ra trong quá trình chuẩn bị và phân tích dự án, trên cơ sở đó chấp nhận hay bác bỏ dự án.Dự án sẽ được thông qua và được đưa vào thực hiện nếu nó được xác nhận là có hiệu quả và khả thi. Ngược lại trong trường hợp còn có những bất hợp lý trong thiết kế dự án,tuỳ theo mức độ dự án có thể được sửa đổi bổ sung hay buộc phải xây dựng lại hoàn toàn.
+)Triển khai thực hiện.
Trong giai đoạn này các nguồn lực được sử dụng, các chi phí phát sinh, đối tượng dự án được từng bước hình thành và dự án bắt đầu sinh lợi.Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn này là tiến hành công việc nhanh, đảm bảo chất lượng công việc và chi chi phí trong khuôn khổ đã được xác định.
Triển khai thực hiện dự án là kết quả của một quá trình chuẩn bị và phân tích kĩ lưỡng, song trên thực tế rất ít khi dự án được tiến hành đúng hướng như kế hoạch. Nhiều dự án đã không đảm bảo tiến độ thời gian và chi phí dự kiến,thậm chí một số dự án đã phải thay đổi thiết kế ban đầu do giải pháp kĩ thuật không thích hợp,do thiếu vốn,do hạn chế về quản lý.Do vậy các nhà quản lý dự án cần phải giám sát chặt chẽ và linh hoạt xử lý những vấn đề phát sinh để đảm bảo dự án được thực hiện đúng kế hoạch.
+)Nghiệm thu,tổng kết và giải thể.
Giai đoạn đánh giá nghiệm thu tiến hành sau khi thực hiện xong dự án.Đánh giá nghiệm thu khác với việc đánh giá và giám sát,nó như là một bộ phận quan trọng trong quá trình thực hiện.Đánh giá nghiệm thu có nhiệm vụ làm rõ những thành công và thất bại trong toàn bộ quá trình xác định,phân tích và lập dự án,cũng như trong khi thực hiện để rút ra những kinh nghiệm và bài học cho quản lý các dự án khác trong tương lai. Khi giải thể dự án,ban quản lý dự án sẽ không tồn tại nữa nên cần bố trí lại công việc cho các thành viên tham gia, xử lý các vấn đề hậu dự án.
1.1.2.Thẩm định dự án.
1.1.2.1.Khái niệm.
Thẩm định dự án là rà soát,kiểm tra lại một cách khoa học,khách quan và toàn diện mọi nội dung của dự án và liên quan đến dự án nhằm khẳng định tính hiệu quả cũng như tính khả thi của dự án trước khi quyết định đầu tư..
Có thể nói rằng mục đích của thẩm định dự án là nhằm phát hiện ngăn chặn những dự án xấu,không bỏ sót các dự án tốt trong quy luật ngày càng khan hiếm nguồn lực.Công việc thẩm định dự án là nhắm đến quyền lợi và sự an toàn của chính các đối tượng có liên quan đến dự án,kể cả quyền lợi quốc gia.Kết quả thẩm định vì vậy phải độc lập với tất cả những ý muốn chủ quan cho dù đến từ bất kì phía nào.
1.1.2.2.Nội dung thẩm định dự án
Thẩm định dự án được tiến hành chủ yếu đối với giai đoạn xác định dự án,phân tích và lập dự án,duyệt dự án.Nội dung thẩm định dự án thường bao gồm:Thẩm định kỹ thuật,thẩm định kinh tế xã hội và thẩm định tài chính.
Thẩm định kỹ thuật thường bao gồm các nội dung: thẩm định sự cần thiết của dự án.thẩm định xem quy mô dự kiến của dự án có phù hợp hay không, thẩm định công nghệ và trang thiết bị có được đảm bảo về chất lượng và giá cả,thẩm định nguồn nguyên liệu và các yếu tố đầu vào khác xem nhu cầu nguyên vật liệu đã tính toán có thực sự phù hợp với trang thiết bị công nghệ hay không,mức dự trữ như thế nào để dự án có thể được triển khai tốt và liên tục.Ngoài ra trong thẩm định kĩ thuật cũng cần xem xét phương án địa điểm xây dựng cũng như phương án kiến trúc vì đó cũng là điều kiện quan trọng để dự án có thể vận hành tốt.
Thẩm định kinh tế của dự án cũng là nội dung quan trọng của thẩm định dự án,nhằm đánh giá dự án từ quan điểm của toàn bộ nền kinh tế để xác định xem việc thực hiện dự án sẽ làm gia tăng thu nhập quốc dân hay không,giúp cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế hay không,tác động của dự án đối với nền kinh tế xã hội như giải quyết việc làm, cải thiện môi trường sinh thái,cải thiện đời sống nhân dân có đạt được hay không.Nội dung này thường được đặc biệt chú trọng đối với các dự án được cho vay bằng vốn của Nhà nước.
Thẩm định tài chính dự án là tổng hợp các chỉ tiêu tài chính và kỹ thuật của dự án rồi từ đó đánh giá sự đáng giá của dự án trên góc độ của nhà đầu tư.
Mặc dù thẩm định dự án có nhiều nội dung quan trọng, quan tâm tới nhiều khía cạnh khác nhau tuỳ thuộc vào chủ thể phân tích dự án.Tuy nhiên nội dung thẩm định tài chính dự án luôn là nội dung lớn và quan trọng nhất trong thẩm định dự án vì cùng với thẩm định kinh tế,thẩm định tài chính giúp nhà đầu tư có những thông tin cần thiết để đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn.
1.1.3.Thẩm định tài chính dự án.
1.1.3.1.Khái niệm
Mục đích chính của thẩm định tài chính dự án là xác định chi phí và lợi ích của dự án, từ đó xây dựng và xem xét các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án nhằm từ đó đánh giá tính khả thi của dự án về khía cạnh tài chính là có hay không.
Thẩm định tài chính dự án là việc kiểm tra và rà soát lại về mặt tài chính của dự án để tính toán chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án làm cơ sở cho việc ra quyết định đầu tư vào dự án.Như vậy thẩm định tài chính chỉ đánh giá khía cạnh tài chính của dự án như quy mô vốn đầu tư, cơ cấu nguồn vốn, tính toán thu chi, lãi lỗ, nhưng chính những nội dung này lại là yếu tố cơ bản mang lại lợi ích thiết thực cho nhà đầu tư và cho cả cộng đồng. Thẩm định tài chính là cơ sở quan trọng giúp các nhà đầu tư quyết định có nên thực hiện dự án hay không, là cơ sở để tiến hành phân tích kinh tế xã hội.
1.1.3.2.Nội dung thẩm định tài chính dự án .
Thẩm định vốn đầu tư,các phương thức tài trợ dự án:
+)Thẩm định vốn đầu tư
Dưới giác độ của một dự án, vốn đầu tư là tổng thể số tiền được chi tiêu để hình thành nên các tài sản cố định và tài sản lưu động cần thiết.Những tài sản này sẽ được sử dụng trong việc tạo ra doanh thu,chi phí, thu nhập suốt vòng đời hữu ích của dự án.Trong hoạt động đầu tư của công ty,các nhà quản lý thường phải ra quyết định sử dụng vốn cho các mục đích như sau:
-Mở rộng đầu tư vào một sản phẩm hiện có hay tham gia vào một ngành kinh doanh mới.
-Thay thế một tài sản hiện có.
-Chi cho một chiến dịch quảng cáo.
-Các quyết định về hình thức đầu tư: thuê hoạt động ,thuê tài chính hay mua tài sản.
-Quyết định sát nhập,mua lại hay bán công ty.
Với mỗi mục đích trên,vốn đầu tư luôn cần phải được dự toán chính xác và quản lý chặt chẽ.Dự toán vốn đầu tư là quá trình lập kế hoạch cho một khoản chi đầu tư có sinh lời kỳ vọng liên tục trong nhiều năm.Dự toán vốn đầu tư có ý nghĩa quan trọng vì đủ kinh phí thì dự án mới thực hiện và hoạt động theo đúng tiến độ đã đề ra, nhưng nếu dự án được tài trợ dư thừa vốn thì gây ra sự lãng phí,kém hiệu quả.Thẩm định vốn đầu tư sẽ rà soát lại toàn bộ việc dự toán vốn đầu tư.Thẩm định vốn đầu tư kiểm tra tính hợp lý của tổng vốn đầu tư vào dự án và từng hạng mục đầu tư,nếu chưa hợp lý thì đưa ra cách điều chỉnh,việc điều chỉnh tổng vốn đầu tư phải được sự thông qua của cơ quan quản lý dự án.Có hai phương pháp dự toán vốn đầu tư: Đối với các dự án nhỏ gắn kết trực tiếp với hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp thì thường áp dụng phương pháp dự toán tỷ phần doanh thu; Đối với các dự án lớn thường áp dụng phương pháp dự toán tổng thể và việc xác định vốn đầu tư phải được thiết lập theo từng giai đoạn của dự án từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư cho đến khi kết thúc đầu tư. Đối với mỗi dự án điều quan trọng không chỉ xác định chính xác tổng mức vốn đầu tư cần thiết mà còn xác định cơ cấu nguồn vốn của nó.Mỗi dự án có thể được đảm bảo bằng một,một số hoặc nhiều nguồn vốn khác nhau,phản ánh khả năng an toàn của dự án.
Các phương thức tài trợ dự án
Có nhiều phương thức tài trợ dự án như tài trợ bằng vốn tự có, tài trợ bằng nợ,tài trợ bằng phương thức đi thuê và tài trợ kết hợp các phương thức trên.Mỗi phương thức tài trợ khác nhau đều có những tác động khác nhau đến việc xác định dòng tiền và lựa chọn lãi suất chiết khấu -những nội dung quan trọng trong thẩm định tài chính dự án.Thông thường có những phương thức tài trợ như sau:
Tài trợ bằng vốn tự có được thực hiện thông qua phát hành cổ phiếu thường,cổ phiếu ưu đãi,thu nhập giữ lại để tái đầu tư;
Tài trợ bằng nợ có thể được lấy từ các nguồn:nguồn vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại,phát hành trái phiếu(trái phiếu có lãi suất cố định,lãi suất thay đổi,trái phiếu có thể thu hồi).
Tài trợ bằng phương thức thuê tài sản:Để có thể sử dụng tài sản cho dự án,nhà quản lý dự án sẽ đi thuê tài sản(thuê ngắn hạn hoặc thuê dài hạn) từ người cho thuê(chủ sở hữu tài sản) và có nghĩa vụ trả một số tiền thoả thuận cho họ.Như vậy qua phương thức tài trợ này quyền sở hữu và sử dụng tài sản đã tách biệt nhau,đây là đặc trưng nổi bật của thuê tài sản.
Tài trợ kết hợp:Là việc kết hợp theo một tỷ lệ nào đó giữa các phương thức tài trợ kể trên.
Sau khi đã xác định các phương thức tài trợ,cần phải xem xét khả năng đảm bảo của mỗi nguồn trên về cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế,rồi tiến hành so sánh với nhu cầu vốn của dự án,cuối cùng là việc đưa ra quyết định về một cơ cấu vốn tối ưu,cơ cấu vốn có chi phí bình quân gia quyền thấp nhất.Đây là mục tiêu của các nhà thẩm định khi thẩm định vốn đầu tư và cơ cấu vốn tài trợ cho dự án.
Xác định dòng tiền của dự án.
Dòng tiền của dự án được hiểu là các khoản chi và thu được kỳ vọng xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau trong suốt chu kỳ của dự án.Nếu ta lấy toàn bộ khoản tiền thu được trừ đi khoản tiền đã chi thì khoảng chênh lệch này được định nghĩa là dòng tiền của dự án tại các mốc thời gian khác nhau(thường là từng năm).Dòng tiền của dự án có thể dương cũng có thể âm.
Dòng tiền bao gồm có dòng tiền vào và dòng tiền ra của dự án. Dòng tiền vào (CIF) phản ánh các khoản tiền thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng năm của dự án.Dòng tiền ra (COF) phản ánh các khoản tiền chi ra hàng năm phát sinh từ việc vận hành dự án,hay cách khác nó phản ánh các luồng tiền chi ra để mua sắm tài sản,các khoản chi phí của dự án.Trong dòng tiền ra của dự án,chi phí chìm bị loại bỏ,tuy nhiên chi phí cơ hội vẫn được tính vào dòng tiền.
Dòng tiền vào (CIF)của dự án gồm có:Thu từ các hoạt động sản xuất kinh doanh của dự án; Thu từ các hoạt động tài chính; Thu khác
Dòng tiền ra (COF) của dự án gồm có:Các khoản chi phí cố định đó là mua sắm máy móc thiết bị,chi phí sữa chữa bảo quản thường xuyên…;Các khoản chi biến đổi:Chi phí nguyên,nhiên liệu,tiền lương nhân công….;Các khoản chi tài chính:chi phí mua bảo hiểm,lãi vay phải trả…;Các khoản chi khác.
Chênh lệch giữa dòng ra và dòng vào của dự án chính là dòng tiền ròng (NCF) của dự án,là cơ sở để tính hiệu quả kinh tế của dự án.Ta có:: NCF = CIF – COF.Trong đó: NCF là dòng tiền ròng; CIF là dòng tiền vào của dự án; COF là dòng tiền ra của dự án.
Ta có công thức tính NCFt qua các trường hợp:
+Trong trường hợp toàn bộ tổng số vốn đầu tư cho dự án được huy động từ vốn chủ sỡ hữu của doanh nghiệp:
NCFt = CIFt - COFt = DT - CP(chi phí trực tiếp,chi phí gián tiếp,khấu hao) - thuế TNDN + Khấu hao TSCĐ = Lợi nhuận sau thuế + khấu hao TSCĐ
+Trong trường hợp toàn bộ tổng số vốn đầu tư cho dự án là vốn vay:
NCFt = CIFt - COFt = DT - CP(chi phí trực tiếp,chi phí gián tiếp,khấu hao,lãi vay đã tính vào giá thành) - thuế TNDN + KHTSCĐ - trả gốc = Lợi nhuận sau thuế + KHTSCĐ - trả gốc.
+Trong trường hợp cơ cấu vốn đầu tư bao gồm một phần vốn tự có và một phần vốn vay:
NCFt = CIFt - COFt = DT - CP(chi phí trực tiếp,chi phí gián tiếp,khấu hao,lãi vay đã tính vào giá thành) - thuế TNDN + KHTSCĐ - trả gốc = Lợi nhuận sau thuế + KHTSCĐ - trả gốc.
+Trong trường hợp doanh nghiệp thuê tài sản,doanh nghiệp không phải theo dõi khấu hao tài sản cố định trong dòng tiền và tiền thuê tài sản bao gồm trong chi phí hợp lý nên NCFt được tính như sau:
NCFt = CIFt - COFt = DT - CP- Thuế TNDN = Lợi nhuận sau thuế.
Đối với nhiều dự án,năm cuối cùng thường xuất hiện thêm một dòng tiền nữa,đó là dòng thu hồi tài sản(bao gồm tài sản cố định và tài sản lưu động ròng).Dòng tiền này thường được cộng gộp với dòng tiền năm cuối để làm cơ sở tính NPV.Dòng tiền thu hồi tài sản được xác định bằng chênh lệch giữa dòng thu và dòng chi từ hoạt động thanh lý tài sản.
Phân tích dòng tiền của dự án thực sự là một nội dung quan trọng trong phân tích tài chính dự án.Nó là hoạt động chiếm phần lớn thời gian cũng như nội dung công việc của quá trình phân tích.Từ việc đánh giá các nhân tố cấu thành nên doanh thu và chi phí của dự án đến tổng hợp chúng lại thành những dòng thu và chi của dự án,dòng trả nợ,dòng khấu hao tài sản cố định…
Dự tính lãi suất chiết khấu
Để xem dự án có hiệu quả hay không,chỉ tiêu NPV thường được sử dụng nhiều nhất và để xác định được chính xác NPV của dự án thì việc xác định chính xác lãi suất chiết khấu là điều tối quan trọng.Lãi suất chiết khấu được hiểu là tỷ lệ mà nhờ đó dòng tiền của dự án được quy về hiện tại.Cơ sở để lựa chọn lãi suất chiết khấu là phân tích rủi ro và khả năng sinh lợi của dự án.Hơn nữa cơ cấu vốn cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến việc lựa chọn lãi suất chiết khấu.Như vậy về bản chất lãi suất chiết khấu của một dự án chính là chi phí vốn của dự án đó.
Khi một dự án được tài trợ hoàn toàn bằng vốn chủ sở hữu thì trong trường hợp này chính chi phí cơ hội của vốn chủ sở hữu là lãi suất chiết khấu của dự án.Chi phí cơ hội là những khoản thu nhập mà công ty phải mất đi do sử dụng nguồn lực của công ty vào dự án.Chi phí cơ hội không phải là một khoản thực chi nhưng vẫn được tính vào,vì đó là một khoản thu nhập mà công ty phải mất đi khi thực hiện dự án.
Lúc này lãi suất chiết khấu được xác định như sau:
R =Rf +β(Rm –Rf).
Trong đó :
Rf là lợi tức phi rủi ro.
Rm-Rf là phần bù rủi ro thị trường.
β là hệ số bêta của chứng khoán.
Đối với trường hợp toàn bộ vốn đầu tư vào dự án là do đi vay thì chi phí sử dụng vốn lúc này sẽ là số tiền lãi phải trả cho bên tài trợ theo một lãi suất thoả thuận nên lãi suất chiết khấu để chiết khấu các dòng tiền của dự án tương ứng là lãi suất đi vay.Nếu trong trường hợp có thuế thu nhập doanh nghiệp thì lãi suất chiết khấu của dự án có thể được xem là chi phí nợ sau thuế = (1-T)Kd.
Trong đó: T là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
Kd là lãi suất đi vay trước thuế.
Ngoài hai trường hợp nói trên dự án còn được tài trợ bởi cả nợ và vốn chủ sở hữu.Giả sử chi phí sử dụng nợ là rB và chi phí sử dụng vốn chủ sở hữu là rS,giờ đây ta cần xác định chi phí bình quân tổng thể của vốn đầu tư,là chi phí bình quân gia quyền:
WACC = (S/S+B)*rS +(B/S+B)*rB
Trong đó: rS là chi phí của vốn chủ sở hữu
rB là chi phí nợ hay là lãi vay.
S/S+B là tỷ trọng giá trị của vốn chủ sở hữu.
B/S+B là tỷ trọng giá trị của nợ.
Khi tính lãi suất chiết khấu của dự án cần đảm bảo nguyên tắc quan trọng là nguyên tắc nhất quán trong mối quan hệ giữa xác định dòng tiền và lựa chọn lãi suất chiết khấu,nghĩa là khi xác định dòng tiền nếu dòng tiền hoạt động hoàn toàn thuộc về các chủ sở hữu thì lãi suất chiết khấu phải được chọn với tư cách chi phí cơ hội của vốn chủ sở hữu.Khi dòng tiền được xác định do cả chủ nợ và chủ sở hữu hưởng thì lãi suất chiết khấu nên được chọn với tư cách là chi phí bình quân gia quyền vốn đầu tư của dự án.
Đánh giá rủi ro của dự án
Rủi ro của dự án là khả năng mà một sự kiện không có lợi nào đó xuất hiện.Các nhà đầu tư quan niệm rằng rủi ro của một khoản đầu tư xảy ra khi lợi tức thực tế thấp hơn so với lợi tức dự kiến. Đối với một dự án rủi ro của dự án trước hết cũng được nhìn nhận trên cơ sở lợi tức của dự án tạo ra so với lợi tức dự kiến.Tuy nhiên cũng cần thấy rằng lợi tức của dự án là chỉ tiêu tài chính cuối cùng ,nó chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan và giữa chúng có sự bù trừ cho nhau.Do vậy người ta hoàn toàn nghiên cứu rủi ro của các yếu tố thành phần cấu thành lợi tức như doanh thu,chi phí biến đổi.Mặt khác đối với một dự án mà ngay cả khi lợi tức của dự án thu được không có sự khác biệt so với dự kiến,tức là dòng tiền của dự án không thay đổi thì vẫn có thể có rủi ro do lãi suất chiết khấu thay đổi.Để nghiên cứu rủi ro xảy ra so với dự án.trước tiên cần phải phân loại hai loại rủi ro.
-Rủi ro hệ thống: hay còn gọi là rủi ro thị trường là loại rủi ro tác động tới toàn bộ thị trường, không thể loại bỏ được bằng việc đa dạng hoá đầu tư .Loại rủi ro này chịu tác động của các điều kiện kinh tế chung như lạm phát,sự thay đổi tỷ giá,hối đoái,lãi suất…và không thể kiểm soát được loại rủi ro này
-Rủi ro không hệ thống:là loại rủi ro riêng của chính bản thân dự án.Loại rủi ro này do các yếu tố nội tại của dự án gây ra và có thể kiểm soát được .
Để phân tích rủi ro người ta có những cách sau:
-Phân tích độ nhạy: Đó là tiến hành lựa chọn những chỉ tiêu dự báo thường chứa đựng nhiều rủi ro chẳng hạn như:khối lượng tiêu thụ,giá bán,chi phí các yếu tố đầu vào ,tốc độ lạm phát, tỷ giá hối đoái,lãi suất trên thị trường và cho một hoặc một số chỉ tiêu đó biến động theo chiều hướng xấu nhằm xem xét sự thay đổi các chỉ tiêu kết quả của dự án như NPV,IRR…Từ đó đánh giá được mức độ của các chỉ tiêu đó đối với các chỉ tiêu kết quả của dự án và có biện pháp phòng chống và quản lý rủi ro thích hợp.
-Phân tích tình huống:là dạng phân tích trong đó một tập hợp của nhiều biến rủi ro được chọn do được đánh giá là mang nhiều rủi ro nhất và được sắp xếp theo các tình huống sau:lạc quan,trung bình,bi quan.Mục đích của công việc này là nhằm xem xét kết quả của dự án (NPV) trong các tình huống tốt nhất(giá bán cao nhất,chi phí thấp nhất,lạm phát thấp nhất),tình huống trung bình,tình huống xấu nhất(giá bán thấp nhất,chi phí cao nhất,lạm phát cao nhất).Và muốn có kết quả cho mỗi tình huống, ta phải tiến hành tính toán lại kết quả dự án dựa trên những dữ liệu của từng tình huống.
Các chỉ tiêu trong thẩm định tài chính dự án .
Hầu hết các chỉ tiêu tài chính đều được tính toán dựa trên cơ sở đã xác định được dòng tiền phát triển trong từng năm thực hiện dự án và dự tính lãi suất chiết khấu sử dụng trong mỗi năm.Cho dù sử dụng chỉ tiêu nào để thẩm định tài chính dự án thì nguyên tắc giá trị theo thời gian của tiền phải được áp dụng.Sau đây là các chỉ tiêu trong thẩm định tài chính dự án.
+)Giá trị hiện tại ròng NPV
Giá trị hiện tại ròng là chênh lệch giữa tổng giá trị hiện tại của các dòng tiền thu được trong từng năm thực hiện dự án với vốn đầu tư bỏ ra được hiện tại hoá ở mốc 0.Đây là chỉ tiêu được sử dụng phổ biến nhất trong thẩm định tài chính dự án.
Công thức tính toán giá trị hiện tại ròng (NPV) như sau:
Trong đó: CF0 là vốn đầu tư bỏ ra được hiện tại hoá ở mốc 0.
CFt là dòng tiền xuất hiện tại năm thứ t của dự án, t chạy từ 1 đến n.
n là số năm thực hiện dự án.
k là lãi suất chiết khấu (giả định không đổi trong các năm).
Nếu NPV>0 có nghĩa là việc thực hiện dự án sẽ tạo ra giá trị tăng thêm cho chủ đầu tư; NPV<0 có nghĩa là dự án không đủ bù đắp vốn đầu tư bỏ ra làm giảm giá trị khi đầu tư; NPV=0 tức là dự án thực hiện chỉ đủ trang trải những chi phí đã bỏ ra mà không mang lại giá trị tăng thêm cho chủ đầu tư .
Sử dụng NPV để lựa chọn dự án:Trường hợp chỉ có một dự án, bác bỏ dự án khi NPV âm, lựa chọn dự án có NPV dương; Trường hợp có nhiều dự án loại trừ nhau, tức là việc chấp nhận dự án này cũng là việc loại bỏ dự án khác, thì sẽ lựa chọn dự án có NPV dương lớn nhất;Trường hợp có sự hạn chế ngân sách sẽ chọn tổ hợp các dự án có tổng NPV cao nhất.
Ưu điểm của NPV là tính trên dòng tiền và xét giá trị thời gian của tiền tệ, có xét đến quy mô của dự án và thoã mãn yêu cầu tối đa hoá lợi nhuận, phù hợp với quan điểm của cải ròng được tạo ra phải là lớn nhất.
Tuy nhiên việc sử dụng chỉ tiêu NPV để đưa ra quyết định đầu tư có thể không hoàn toàn đúng với lý thuyết.Một dự án có NPV dương nhưng NPV quá nhỏ so với tổng vốn đầu tư hay so với lợi nhuận trung bình của doanh nghiệp thì vẫn không được chấp nhận. Hoặc khi so sánh NPV của hai dự án với nhau, một dự án có NPV cao hơn dự án kia nhưng tỷ lệ NPV so với vốn đầu tư thì thấp hơn dự án kia có NPV thấp nhưng đạt tỷ lệ so với vốn đầu tư cao hơn thì sẽ lựa chọn dự án nào.Ngoài ra tiêu chuẩn NPV cũng tỏ ra bất lợi khi so sánh dự án có vốn đầu tư khác nhau hay thời gian đầu tư khác nhau.Do vậy sự kết hợp với những chỉ tiêu khác nhau vẫn là điều cần thiết khi tiến hành thẩm định tài chính dự án trong các điều kiện thực tế cụ thể.
+) Tỷ suất hoàn vốn nội bộ IRR
Tỷ suất hoàn vốn nội là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó giá trị hiện tại ròng của dự án bằng 0. Tức là:
IRR phản ánh khả năng sinh lợi của dự án, nó cho biết tỷ lệ sinh lời hàng năm trên một đồng vốn đầu tư, chưa tính đến chi phí cơ hội của vốn đầu tư.Tức là nếu như chiết khấu các luồng tiền theo IRR, PV sẽ bằng đầu tư ban đầu C0.Hay nói cách khác,nếu chi phí vốn bằng IRR, dự án sẽ không tạo thêm được giá trị hay không có lãi.
Từ phân tích trên,ta dễ dàng nhận thấy rằng nếu IRR lớn hơn chi phí vốn (tỷ lệ chiết khấu của dự án ) thì dự án được coi là có tính khả thi, trường hợp này tương đương với dự án có NPV dương. Ngược lại, nếu như IRR nhỏ hơn chi phí vốn thì dự án sẽ không được chấp nhận. Đối với một tập hợp các dự án phụ thuộc với nhau thì ta sẽ lựa chọn các dự án có IRR lớn hơn chi phí vốn và IRR max. Các nhà thẩm định sẽ căn cứ vào nguyên tắc trên để đánh giá dự án.
Ưu điểm của IRR là đã khắc phục được nhược điểm của NPV, có thể so sánh được các dự án có quy mô vốn đầu tư và thời gian khác nhau vì nó thể hiện tỷ suất sinh lời bình quân hàng năm của dự án.Có thể tính IRR mà không cần biết lãi suất chiết khấu do vậy có thể bỏ qua việc xác định chi phí vốn.
Về nhược điểm, một dự án rất dễ dẫn tới IRR đa trị, có nghĩa là cùng tồn tại một lúc nhiều hơn một giá trị của IRR làm cho NPV bằng 0.Điều này gây khó khăn cho quá trình đánh giá hiệu quả của dự án.
+)Chỉ số doanh lợi PI
Chỉ số doanh lợi PI là chỉ số phản ánh khả năng sinh lợi của dự án, được tính bằng tổng giá trị hiệ._.n tại của các dòng tiền trong tương lai chia cho vốn đầu tư bỏ ra ban đầu:
PI cho biết một đồng vốn đầu tư bỏ ra sẽ tạo ra bao nhiêu đồng thu nhập.Thu nhập này chưa tính đến chi phí vốn đầu tư đã bỏ ra.
PI càng cao thì dự án càng dễ được chấp nhận, nhưng tối thiểu phải bằng lãi suất chiết khấu.Như vậy nếu có một dự án duy nhất thì dự án sẽ được lựa chọn nếu như chỉ số doanh lợi lớn hơn lãi suất chiết khấu, trường hợp có nhiều dự án loại trừ nhau thì sẽ lựa chọn dự án nào có chỉ số doanh lợi lớn nhất và lớn hơn lãi suất chiết khấu.
Sử dụng PI khắc phục được khó khăn khi sử dụng chỉ tiêu NPV do PI là số tương đối, phản ánh khả năng sinh lời của một đồng vốn đầu tư trong cả vòng đời của dự án, do đó nó có thể so sánh được các dự án có thời gian và quy mô vốn đầu tư khác nhau.Tuy nhiên PI cũng có nhược điểm giống IRR là không phản ánh được quy mô gia tăng giá trị cho chủ đầu tư.Việc thẩm định dựa vào PI và NPV thường cùng dẫn tới một kết luận như nhau.
+)Chỉ tiêu hoàn vốn PP
Vốn đầu tư được thu hồi như thế nào,trong vòng bao nhiêu năm cũng là mối quan tâm của các nhà đầu tư.Bởi lẽ các nhà đầu tư đều muốn thu hồi vốn nhanh.Cùng với các chỉ tiêu khác như nhau, dự án có thời gian thu hồi vốn nhanh thì càng có mức rủi ro của việc thu hồi vốn càng thấp.
Thời gian thu hồi vốn PP là thời gian mà tổng các luồng tiền thu được từ dự án bằng tổng vốn đầu tư ban đầu.
Hiện nay, một số nhà phân tích đầu tư còn sử dụng một chỉ tiêu thời gian hoàn vốn sau khi đã tính đến yếu tố thời gian của tiền.Chỉ tiêu này được gọi là thời gian thu hồi vốn có tính đến chiết khấu.Thực chất đây là việc tính toán thời gian thu hồi vốn căn cứ theo giá trị hiện tại của các luồng tiền.Tuy nhiên, phương pháp này vẫn mắc phải một số nhược điểm cơ bản của chỉ tiêu thời gian hoàn vốn, vì nó không quan tâm đến các luồng tiền sau thời gian thu hồi vốn.Và do vậy có thể bỏ qua các cơ hội đầu tư tốt.
1.2.Chất lượng thẩm định tài chính dự án.
1.2.1.Khái niệm.
Chất lượng là một khái niệm tương đối trừu tượng, mỗi người,mỗi tổ chức có thể có những cách hiểu khác nhau về chất lượng.Theo hệ thống quản lý chất lượng ISO:chất lượng là mức độ của một tập hợp các đặc tính vốn có đáp ứng các yêu cầu. Theo đó chất lượng thẩm định tài chính dự án là tập hợp các chỉ tiêu bao gồm các nội dung thẩm định tài chính,quy trình thẩm định,kỹ thuật thẩm định đáp ứng được yêu cầu của mục tiêu đề ra.
Đối với thẩm định tài chính dự án ,một dự án có chất lượng thẩm định tốt có nghĩa là dự án đó khi được thực hiện trong tương lai sẽ diễn biến theo đúng những gì mà nhà phân tích đã nhận định trong phần thẩm định tài chính cả về vốn đầu tư,doanh thu,chi phí,lợi nhuận,số năm hoàn vốn thực tế…Một dự án sau khi kết thúc được nhìn nhận và đánh giá lại nếu lợi nhuận đem lại hoặc các mục tiêu khác mà dự án không đạt được như trong phân tích lúc ban đầu cũng như đã có sự sai lệch trong phân tích tài chính.Nguyên nhân có thể do việc quản lý vận hành dự án.Tuy vậy,phương pháp thẩm định tài chính dự án có hiệu quả và chính xác là điều kiện tiền đề để vận hành một dự án tốt.
1.2.2.Các chỉ tiêu đánh giá chất lương thẩm định tài chính dự án .
1.2.2.1.Sự tuân thủ quy trình thẩm định.
Quy trình thẩm định bao gồm:Nội dung thẩm định,phương pháp thẩm định,trình tự thẩm định.Đó là quá trình mà khi làm thẩm định dự án cán bộ thẩm định phải tuân theo.
1.2.2.2.Thời gian và chi phí thẩm định
Thời gian thẩm định tài chính dự án là khoảng thời gain mà cán bộ thẩm định bắt đầu thu thập thông tin để thẩm định dự án đến khi thẩm định xong.Tuỳ từng điều kiện,hoàn cảnh cụ thể có thể đặt ra một chuẩn mực thời gian cho thẩm định tài chính dự án.Ví dụ có thể đặt thời gian cho thẩm định tài chính dự án theo các dự án nhóm A,nhóm B và nhóm C hoặc đặt chỉ tiêu thời gian cho từng khâu của dự án.
Nếu thời gian thẩm định ngắn,các cán bộ tôn trọng quá trình thẩm định,lượng thông tin thu thập đầy đủ,cập nhật,quá trình xử lý thông tin tốt thì có thể xem chất lưọng thẩm định là cao.Ngược lại để đảm bảo các tiêu chuẩn của thông tin và quá trình thẩm định mà thời gian thẩm định kéo dài làm ảnh hưởng đến lợi nhuận đem lại của dự án nhất là các dự án mang tính thời vụ cao.
Chi phí thẩm định dự án cũng rất quan trọng.Đó là những khoản chi phí bỏ ra cho việc tiến hành thẩm định dự án như chi phí thuê cán bộ thẩm định,chi phí thu thập thông tin,tiền mua máy móc thiết bị,công nghệ xử lý thông tin.Thẩm định tài chính cũng giống hoạt động tài chính khác là một hoạt động cung cấp dịch vụ,lượng chi phí bỏ ra ảnh hưởng lớn đến doanh thu và giá cả của dịch vụ,phản ánh chất lượng của dịch vụ đó.Chất lượng thẩm định tài chính dự án sẽ cao nếu chi phí bỏ ra là nhỏ nhất mà vẫn đảm bảo các yêu cầu khác của thẩm định.
Thời gian và chi phí là hai yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tài chính dự án .Trong thời đại công nghệ thông tin như hiện nay bất kỳ một sự chậm trễ nào cũng có thể đem lại hậu quả khôn lường nhất là đối với các hoạt động đầu tư lớn như dự án.Hơn thế nữa,mọi nguồn lực là có hạn.Người ta không thể lãng phí nó.Tối thiểu hoá chi phí thẩm định tài chính dự án đến mức có thể là mục tiêu của doanh nghiệp và là yếu tố để quyết định chất lượng thẩm định tài chính dự án .
1.2.2.3.Kết quả thẩm định
Kết quả thẩm định dự án là mục tiêu cuối cùng của việc thẩm định dự án.Sau khi thẩm định,cán bộ thẩm định phải đưa ra được thành quả mà mình đã làm việc,đó là kết quả thẩm định.Kết quả thẩm định được biểu hiện ở các chỉ tiêu như giá trị hiện tại ròng của dự án,khả năng sinh lời của dự án,độ rủi ro của dự án.Đây là những yếu tố quan trọng để nhà đầu tư quyết định có đầu tư vào dự án hay không.Kết quả thẩm định sai sẽ dẫn đến quyết định đầu tư sai điều đó để lại hậu quả nặng nề cho doanh nghiệp.Kết quả thẩm định là tiêu chuẩn cuối cùng để đánh giá chất lượn thẩm định dự án.
1.3.Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tài chính dự án .
Xem xét các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tài chính dự án sẽ giúp ta có cách nhìn tổng thể, từ đó có những quan tâm thích hợp tới các yếu tố tác động để đảm bảo hiệu quả trong thẩm định.Các nhân tố ảnh hưởng gồm các nhân tố chủ quan,khách quan.
1.3.1.Các nhân tố chủ quan
+)Tư duy nhận thức của lãnh đạo,cán bộ công ty
Lãnh đạo cán bộ công ty và những người chủ đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng thẩm định tài chính dự án. Chủ đầu tư có nhận thức đúng tầm quan trọng của công tác thẩm định tài chính thì họ mới có thể quan tâm một cách thích hợp tới công việc này.Nhờ đó lãnh đạo công ty mới có sự tổ chức thực hiện thẩm định khoa học và hợp lý.Cùng với ban lãnh đạo,sự hiểu biết của cán bộ công ty về công tác thẩm định tài chính dự án cũng có vai trò rất lớn.Lãnh đạo công ty là những người đại diện cho tập thể cán bộ toàn công ty.Các quyết định của họ đưa ra đều phải dựa trên những lợi ích,nguyện vọng của toàn thể cán bộ.Cán bộ công ty có nghĩa vụ hợp tác,góp ý cho ban lãnh đạo kịp thời thì họ mới có thể tổ chức tốt công tác thẩm định.
+)Trình độ của cán bộ thẩm định
Nếu như lãnh đạo công ty ra các quyết định định hướng cho thẩm định tài chính dự án thì cán bộ thẩm định là người trực tiếp thực hiện công việc. Cán bộ thẩm định với cơ sở lý thuyết hiện tại cùng những hiểu biết thực tiễn sẽ vận dụng quy trình thẩm định tài chính dự án một cách linh hoạt,đảm bảo chính xác khi dự tính vốn đầu tư,lập các báo cáo tài chính và sử dụng hệ thống các chỉ tiêu thẩm định hợp lý.
Không chỉ trình độ trong thẩm định tài chính dự án ,trình độ cán bộ thẩm định thị trường ,thẩm định kĩ thuật,thẩm định tổ chức,quản lý dự án cũng có quyết định hiệu quả thẩm định tài chính.Kết luận thẩm định ở các khâu này sẽ là căn cứ để tiếp tục bước thẩm định tài chính,qua đó chủ đầu tư có thể đưa ra quyết định cuối cùng. Thẩm định thị trường,thẩm định kỹ thuật,thẩm định tổ chức ,quản lý dự án cung cấp những căn cứ và số liệu cần thiết để tiến hành công tác thẩm định tài chính dự án .Nếu như các số liệu nghiên cứu thị trường,thẩm định kỹ thuật,thẩm định tổ chức ,quản lý dự án cung cấp không chính xác thì việc cán bộ thẩm định đưa ra số vốn dự toán cùng các số liệu trong báo cáo tài chính sẽ sai do đó việc tính toán các chỉ tiêu thẩm định tài chính là vô nghĩa.
+)Điều kiện cơ sở vật chất
Điều kiện cơ sở vật chất trang thiết bị cho công tác thẩm định tài chính dự án cũng phản ánh chất lượng thẩm định.Cơ sở vật chất được hiểu là toàn bộ các trang thiết bị làm việc ,kiến thức được đào tạo.Máy móc thiết bị đo lường ,tính toán hiện đại sẽ trợ giúp cho cán bộ thẩm định trong việc đưa ra kết luận nhanh chóng,chính xác,nâng cao hiệu quả công việc.Để sử dụng một cách khoa học,phát huy hết tính năng kĩ thuật của trang thiết bị,nhạy bén trong thẩm định tài chính,vận dụng quy trình thẩm định một cách linh hoạt phù hợp với tình hình công ty và điều kiện nền kinh tế.Cán bộ thẩm định cần có cơ sở lý thuyết nền tảng và không ngừng tiếp thu kĩ thuật thẩm định mới cùng những hiểu biết thực tiễn.
1.2.3.2.Các nhân tố khách quan
+) Sự phát triển của nền kinh tế
Nền kinh tế cùng phát triển đòi hỏi doanh nghiệp cũng phải nhanh nhạy,chính xác,đạt hiệu quả kinh tế khi ra quyết định đầu tư.Ngược lại,doanh nghiệp sẽ không theo kịp tốc độ phát triển của nền kinh tế với sự cạnh tranh khốc liệt.Để làm được điều đó,doanh nghiệp phải thực hiện công tác thẩm định dự án nói chung,thẩm định tài chính nói riêng.Cùng với sự phát triển của nền kinh tế doanh nghiệp nhận thấy tầm quan trọng của thẩm định dự án và có những quan tâm thích đáng.
Tình hình thực tiễn nền kinh tế với những biến động và những phát triển trong nghiên cứu làm cho công tác thẩm định tài chính không ngừng được đổi mới và nâng cao.Sự phát triển của nền kinh tế đòi hỏi phải có cơ sở lý luận, tầm hiểu biết về kinh tế một cách toàn diện,không ngừng tiếp thu những quan điểm mới trong nghiên cứu kinh tế nói chung,trong thẩm định tài chính dự án nói riêng.Sự phát triển kinh tế cùng với nó là sự phát triển khoa học kĩ thuật ,công nghệ sẽ mang lại cho thẩm định tài chính dự án những ứng dụng có ý nghĩa.
+)Hiệu quả đầu tư,kinh doanh của các doanh nghiệp
Doanh nghiệp mà hoạt đồng đầu tư đạt hiệu quả là nhờ sự đóng góp không nhỏ của chất lượng thẩm định tài chính dự án .Ngược lại nhờ đầu tư,kinh doanh đạt hiệu quả doanh nghiệp có điều kiện đổi mới nâng cao công tác thẩm định.Không chỉ hiệu quả đầu tư,kinh doanh của chính các doamh nghiệp mà của các doanh nghiệp khác trong ngành,trong nền kinh tế cũng ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tài chính dự án .Các doanh nghiệp trong ngành, trong nền kinh tế sẽ hỗ trợ nhau cùng hoàn thiện công tác thẩm định tài chính.
+)Các quy định của nhà nước
Khi thẩm định tài chính dự án cán bộ thẩm định phải nắm vững các quy định hiện hành để dựa trên cơ sở lý thuyết nền tảng cùng tình hình thực tiễn áp dụng vào thẩm định cho từng dự án.Việc thẩm định tài chính dự án cần phải tuân thủ các quy định của Nhà nước .Khi đưa ra số liệu về vốn đẩu tư,các báo cáo tài chính…cán bộ thẩm định phải dựa vào dự án cụ thể cùng các căn cứ quy định về vốn đầu tư,chế độ thuế khoán,chế độ khấu hao tài sản cố định…Các quy định của Nhà nước hợp lý ,rõ ràng sẽ giúp cho cán bộ thẩm định thực hiện công việc được dễ dàng chính xác.
Ngoài ra các quy định còn có tính chất định hướng,hỗ trợ cho hoạt động đầu tư của dự án, cán bộ thẩm định cần nắm vững để không chỉ thẩm định dự án mà còn điều chỉnh dự án sao cho quyết định đầu tư đạt hiệu quả nhất.Quy định của Nhà nước còn là căn cứ để đánh giá tính hợp lệ của dự án đầu tư,đánh giá kết quả thẩm định có được các cấp nhà nước chấp nhận hay không.
Trên đây là một số vấn đề lý thuyết cơ bản về dự án và thẩm định tài chính dự án .Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án tại công ty tài chính dầu khí sẽ được phân tích trên cơ sở ý chung những lý thuyết trên.
Chương 2:Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án tại công ty tài chính dầu khí
2.1.Tổng quan về công ty tài chính dầu khí
2.1.1.Giới thiệu chung
2.1.1.1.Lịch sử hình thành và phát triển công ty tài chính dầu khí.
Trong chiến lược xây dựng và phát triển tập đoàn dầu khí Việt Nam,còn thiếu một đơn vị thành viên thực hiện nhiệm vụ quan trọng là đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng và vận hành mọi nguồn vốn hiệu quả sinh lời cho ngành dầu khí Việt Nam chính vì vậy ngày 30/ 3/2000 Bộ trưởng chủ nhiệm văn phòng chính phủ ký quyết định số 04/2000 /QĐ/VPCP về việc thành lập công ty tài chính dầu khí. Ngày 19/6/2000 : Hội đồng quản trị Tổng công ty dầu khí Việt Nam ký quyết định số 903/QĐ-HĐQT thành lập công ty tài chính dầu khí với số vốn điều lệ ban đầu là 100 tỷ VNĐ do Tổng công ty cấp 100%.Từ ngày 25/10/2000 công ty bắt đầu đi vào hoạt động.
Công ty tài chính dầu khí có trụ sở chính tại 72 Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.Với tên giao dịch quốc tế là Petrovietnam Finance Company Limited, thời gian hoạt động là 50 năm kể từ ngày cấp giấy phép.
Công ty tài chính dầu khí là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng, là thành viên 100% vốn của Tổng công ty dầu khí Việt Nam ra đời với phương châm hành động ‘vì sự phát triển vững mạnh của tập đoàn dầu khí Việt Nam’.Thành lập công ty tài chính dầu khí là một dấu mốc quan trọng, là một tầm nhìn mới trong chiến lược phát triển của ngành năng lượng dầu khí và hướng tăng trưởng vững bền nền kinh tế Việt Nam trong thế kỉ 21.
Ngay từ khi mới ra đời công ty đã nhanh chóng hội nhập vào các hoạt động của Tổng công ty dầu khí Việt Nam cũng như hội nhập vào cộng đồng các định chế tài chính quốc tế trong nước và quốc tế.Công ty xác định hợp tác chặt chẽ,chân thành với các tổ chức tín dụng,các nhà đầu tư trong và ngoài nước nhằm đảm bảo nguồn vốn cho các dự án của Tổng công ty dầu khí Việt Nam-yếu tố quan trọng đầu tiên đảm bảo sự thành công của công ty.
Thành công của công ty tài chính dầu khí là thành công của sự lãnh đạo của Tổng công ty,sự hợp tác chặt chẽ của các đơn vị thành viên Tổng công ty và các tổ chức tài chính ngân hàng trong và ngoài nước vì mục tiêu phát triển bền vững của ngành kinh tế mũi nhọn Việt Nam.
2.1.1.2.Chức năng,nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức
Chức năng,nhiệm vụ
Đáp ứng nhu cầu tín dụng của Tổng công ty, các đơn vị thành viên thuộc tổng công ty và các tổ chức, cá nhân theo quy định hiện hành.
Nhận tiền gửi có kì hạn từ 1 năm trở lên của Tổng công ty, các đơn vị thành viên thuộc tổng công ty và các tổ chức ,cá nhân khác.
Phát hành tín phiếu, trái phiếu ,chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá khác để huy động vốn trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
Làm đại lý phát hành trái phiếu cho Tổng công ty,các đơn vị thành viên và các tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
Đàm phán ký kết các hợp đồng vay vốn trong và ngoài nước cho Tổng công ty, các đơn vị thành viên và các tổ chức ,cá nhân khác theo sự uỷ quyền.
Tiếp nhận và sử dụng vốn uỷ thác đầu tư trong và ngoài nước, bao gồm cả vốn uỷ thác đầu tư của Nhà Nước, Tổng công ty,các đơn vị thành viên thuộc Tổng công ty, các tổ chức cá nhân khác.
Thực hiện nghiệp vụ khác theo quy định của luật các tổ chức tín dụng khi được hội đồng quản trị Tổng công ty và thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam cho phép .
Cơ cấu tổ chức
PVFC đã đi vào hoạt động được 6 năm và đã có trên 500 cán bộ công nhân viên với trình độ chủ yếu là đại học.Công ty đã chú trọng công tác chuẩn bị và đào tạo đội ngũ cán bộ hoạt động lâu dài của công ty.
Cơ cấu tổ chức của PVFC gồm ban giám đốc,các phòng ban chức năng chia làm 2 khối:khối kinh doanh,khối quản lý và các văn phòng đại diện,chi nhánh,các văn phòng giao dịch.
Khối quản lý:Các phòng ban thuộc khối quản lý giúp giám đốc quản lý và điều hành các hoạt động của công ty.
Khối kinh doanh:Các phòng ban trong khối kinh doanh trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh mà công ty được phép thực hiện trong lĩnh vực tài chính tiền tệ.
Giám Đốc
Sơ đồ chung
Các phó giám đốc
Khối quản lý
Khối Kinh
Doanh
Phòng tổ chức –Hành chính
Phòng quản lý dòng tiền
Phòng kế hoạch & Thị truờng
Phòng thu xếp vốn và tín dụng
Chi Nhánh
Phòng kế toán
Phòng dich vụ và tín dụng cá nhân
Phòng kiểm tra và kiểm soát nội bộ
Phòng dịch vụ tài chính
Trạm liên lạc Vũng Tàu
Phòng thông tin & công nghệ tin học
2 VPGD tại TP HCM và Vũng Tàu
phòng đầu tư
Văn phòng Giám đốc & Hội đồng quản trị
Ban chứng khoán
2 VPGD tại Hà Nội
2.1.2.Tình hình hoạt động kinh doanh
2.1.2.1.Kết quả kinh doanh
Năm 2006:Quy mô hoạt động của công ty phát triển mạnh và ổn định,tổng giá trị tài sản đến 31/12/2006 đạt 18.444 tỷ VNĐ,bằng 268% so với năm 2005,438% năm 2004.Các chỉ tiêu kinh doanh đều hoàn thành kế hoạch và năm sau luôn cao hơn năm trước.
Bảng1:Tổng hợp các chỉ tiêu kinh doanh giai đoạn 2002-2006
Đơn vị tính:Tỷ VNĐ
STT
Chỉ tiêu
Năm
2002
2003
2004
2005
2006
1
Tổng tài sản
1.231
2.900
4.207
6.877
18.444
2
Số dư huy động cuối kỳ
1.122
2.787
3.888
6.347
18.252
3
Số dư nợ cho vay cuối kỳ
931
1.750
2.351
2.405
4.055
4
Doanh thu
64
104
214
421
1000
5
Lợi nhuận trước thuế
5
6
8
29,4
120
6
Nộp ngân sách
2,36
2,91
2,3
8,7
17,4
7
Nộp Tổng công ty
0,3
0,501
0,755
2,3
4,5
Nguồn:Báo cáo kết quả hoạt động giai đoạn 2002-2006
Qua bảng số liệu trên cho ta thấy,trong hoạt động kinh doanh của PVFC đã đạt được những kết quả khả quan.Doanh thu và lợi nhuận sau thuế của PVFC liên tục tăng ở mức cao(doanh thu đạt 1000 tỷ VNĐ năm 2006 gấp15,6 năm 2002).Cùng với việc tăng lên của doanh thu và giảm bớt chi phí quản lý đã làm cho lợi nhuận của công ty liên tục tăng trong vòng 5 năm.Lợi nhuận năm 2002 chỉ đạt 5 tỷ nhưng đến năm 2006 thì đã tăng lên 120 tỷ,gấp 24 lần năm 2002.
2.1.2.2.Kết quả những hoạt động chủ yếu của công ty
Huy động vốn.
Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật; phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật; vay của các tài chính, tín dụng trong và ngoài nước; tiếp nhận vốn uỷ thác của Tập đoàn dầu khí Việt Nam, Chính phủ và các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
Trong năm 2006 huy động vốn của công ty đạt 16.816 tỷ VNĐ,đảm bảo đáp ứng nhu cầu kinh doanh và thanh khoản của PVFC.Tăng trưởng chủ yếu là từ huy động vốn:uỷ thác quản lý vốn của các tổ chức kinh tế như VSP,Bộ tài chính...và hoạt động từ các tổ chức tín dụng.Đồng thời,PVFC quản lý hiệu quả nguồn thu từ trái phiếu dầu khí đợt 1 và trái phiếu tài chính dầu khí năm 2006(962 tỷ VNĐ).PVFC tiếp tục triển khai hoạt động mua bán và kinh doanh ngoại tệ bằng việc sử dụng các sản phẩm phái sinh với các tổ chức tín dụng nước ngoài góp phần đa dạng hoá hoạt động kinh doanh,giảm thiểu rủi ro tỷ giá.
Huy động tín dụng.
Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; cho vay theo uỷ thác của Chính phủ, Tập đoàn dầu khí Việt Nam và của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật về hoạt động ngân hàng và hoạt động uỷ thác; cho vay thực hiện các phương án, dự án phục vụ đời sống bằng hình thức cho vay trả góp; cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác; thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh theo quy định của pháp luật; thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán theo quy định của pháp luật khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép.
Trong năm 2006,huy động tín dụng đạt 14307 tỷ VNĐ,chiếm 80% tổng tài sản.Cho vay các tổ chức kinh tế với số dư là 1585 tỷ VNĐ.Mặc dù số dư cho vay uỷ thác giảm dần do các khoản vay đến hạn trả gốc nhưng hoạt động cho vay các đơn vị trong ngành đã có sự tăng trưởng với việc tăng dần các khoản cho vay trực tiếp.Số dư cho vay trong ngành là 1500 tỷ,với việc ký kết các hoạt động nguyên tắc thu xếp vốn với các đơn vị trong ngành và tích cực đẩy mạnh giải ngân cho các hoạt động tín dụng đã kí kết.Việc gia tăng các khoản cho vay cầm cố và bảo đảm bằng lương đã đưa hoạt động cho vay cá nhân trong năm 2006 có sự tăng trưởng khá,số dư cho vay cá nhân là 550 tỷ.
Các hoạt động khác.
Thu xếp vốn cho các dự án của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và các đơn vị thành viên, các tổ chức kinh tế khác; thực hiện đầu tư dự án, góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật; kinh doanh các sản phẩm và cơ hội đầu tư như kinh doanh chứng chỉ có giá…; thực hiện nghiệp vụ uỷ thác, nhận uỷ thác, bảo hiểm, đầu tư, quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức và cá nhân theo hợp đồng; tổ chức thẩm định tài chính các dự án đầu tư của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, các đơn vị thành viên, các tổ chức khác; cung ứng các dịch vụ về tư vấn tài chính, ngân hàng, tiền tệ, đầu tư và các dịch vụ tư vấn khác; thực hiện dịch vụ hoạt động ngoại hối, kiều hối, kinh doanh vàng theo quy định của pháp luật; làm đại lý phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá; cung ứng các dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ, két, cầm đồ và các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật; các nghiệp vụ khác khi được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận.
2.2.Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án tại PVFC
2.2.1.Tổng hợp các dự án của công ty.
Công ty tài chính dầu khí là một công ty lớn,ngoài các hoạt đông chủ yếu thì hoạt động đầu tư là một trong những hoạt động đem lại nguồn thu chính cho PVFC. Hoạt động đầu tư của PVFC tập trung vào hai mảng chính: đầu tư dự án, trong đó PVFC cùng khách hàng tìm kiếm các dự án, chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư, quản lý vận hành và khai thác dự án; đầu tư vào các loại chứng khoán, giấy tờ có giá trên thị trường tiền tệ, đầu tư vào các công ty cổ phần... Công ty đã từng bước chủ động hợp tác đầu tư với các đơn vị hoạt động hiệu quả trong và ngoài ngành dầu khí như Tổng công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Vinaconex, Tổng công ty xây dựng Sông Đà, Tổng công ty lắp máy Lilama… với những hạng mục đầu tư dự án lớn đem lại những lợi ích to lớn cho các khách hàng.Trong năm 2006 ,PVFC đã cùng với các đơn vị khác thực hiện các dự án lớn sau:
1.Dự án nhà máy xi măng Long Thọ II: 32,3 tỷ
2.Dự án nhà máy thuỷ điện Nậm Chiến: 16,5 tỷ
3.Dự án nhà máy xi măng Hạ Long :18,4 tỷ
4.Dự án tàu FPSO :35 tỷ
5.Dự án nhà máy thuỷ điện Ngòi Hút 1 :25 tỷ
Với các dự án từ khi thành lập cho đến nay,công ty chỉ tham gia góp vốn cùng với các đơn vị khác,công ty chưa làm chủ đầu tư một dự án nào cả.Tuy vậy,liên tục góp vốn vào các dự án lớn công ty đã thu được nhiều thành quả lớn trong thời gian qua.Lợi nhuận của công ty liên tục tăng,giá trị nộp ngân sách nhà nước lớn,tăng thu cho ngân sách,đóng góp một phần vào công cuộc phát triển kinh tế của cả nước.Với sự nỗ lực không ngừng,ban lãnh đạo công ty đã liên tục tìm kiếm dự án và tham gia góp vốn vào các dự án có tính khả thi cao,mở rộng hoạt động,tăng thu nhập cho hơn 500 công nhân viên trong công ty và đạt được nhiều thành quả.Điều đó được thể hiện rõ trong bảng các chỉ tiêu kinh doanh ở trên.
Để có thể góp vốn thành công vào một dự án bất kì nào đó thì công tác thẩm định các dự án luôn được công ty coi trọng vì đó là cơ sở để công ty ra quyết định đầu tư vào dự án đó.Vì vậy trong những năm qua công ty đã không ngừng nỗ lực nâng cao chất lượng thẩm định để đưa ra những kết luận thẩm định chính xác,quyết định đầu tư hiệu quả hơn.Điều đó thể hiện ở lợi nhuận của công ty liên tục tăng, doanh thu năm sau lớn hơn năm trước,thu nhập của cán bộ công ty tăng nhanh rõ rệt.
2.2.2.Thực trạng thẩm định dự án,thẩm định tài chính dự án và chất lượng thẩm định tài chính dự án.
2.2.2.1.Thực trạng thẩm định các dự án.
Từ khi ra đời cho đến nay,công ty tài chính dầu khí đã tham gia góp vốn rất nhiều vào dự án,chủ yếu là các dự án lớn,có tính khả thi cao. Mặc dù chỉ tham gia vào dự án với tư cách là nhà góp vốn,nhà đầu tư,công ty tài chính dầu khí vẫn phải tiến hành thẩm định dự án trên giác độ của người tham gia góp vốn,để quyết định có đầu tư vào dự án đó hay không.Trong suốt 2 năm qua kể từ khi công ty đi vào thẩm định các dự án thì công ty đã thẩm định thành công 10 dự án,các dự án đã được thẩm định bài bản và chắc chắn.Để được một dự án thành công công ty đã phải dựa trên nhiều mặt như thẩm định kĩ thuật để xác định mức độ cần thiết của dự án đối với doanh nghiệp, đối với ngành và đối với nền kinh tế,xem xét sự phù hợp của dự án đối với quy hoạch phát triển của vùng lãnh thổ ví dụ như dự án thủy điện Ngòi Hút I công ty phải xem xét liệu dự án ấy đưa lại lợi ích gì cho công ty,cho quốc gia và cho địa phương nơi xây dựng.Thẩm định quy mô của dự án, thẩm định mức độ phù hợp giữa quy mô dự án và công suất sử dụng với khả năng chấp nhận sản phẩm của thị trường,với khả năng đáp ứng vốn,khả năng cung ứng nguyên vật liệu,máy móc thiết bị cũng như khả năng quản lý dự án của các nhà quản lý ví dụ như dự án nhà máy xi măng Long Thọ II công ty đã xác định mức bán trên thị trường là 740000VND/tấn, đây là mức giá cả phù hợp với nhu cầu lớn về xi măng như hiện nay.Thẩm định công nghệ và trang thiết bị để công ty xác định rõ căn cứ lựa chọn công nghệ,máy móc trang thiết bị, mức độ đảm bảo về chuyển giao công nghệ,lắp đặt bảo hành và chạy thử để từ đó đưa ra quyết định sử dụng loại máy nào là phù hợp nhất.Thẩm định nguồn nguyên liệu và các yếu tố đầu vào:Công ty cũng đã xem xét và kiểm tra việc tính toán nhu cầu nguyên vật liệu chủ yếu, điện nước,vật liệu phụ trên cơ sở định mức kinh tế phù hợp với công nghệ máy móc thiết bị.Và một thẩm định không thể thiếu mà công ty đã thực hiện đó là thẩm định địa điểm xây dựng, đây là một yếu tố rất quan trọng nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến dự án của công ty.
Sau khi đã thẩm định kĩ thuật xong ,công ty tiến hành thẩm định kinh tế của dự án.Thẩm định kinh tế nhằm rà soát lại mục tiêu của dự án, tác động của dự án đối với môi trường và tới các nhóm đối tượng khác nhau trong xã hội,tính hợp lý và tối ưu của dự án,mức độ ảnh hưởng ngân sách của dự án.Trong thẩm định kinh tế của các dự án công ty đã thẩm định việc định giá kinh tế của hàng hóa và dịch vụ dự án mà dự án đem lại thông qua điều chỉnh giá thị trường và cuối cùng là thẩm định tài chính dự án, một thẩm định rất quan trọng để quyết định xem dự án có tính khả thi hay không, công ty có quyết định đầu tư hay không.
2.2.2.2.Thực trạng thẩm định tài chính dự án tại PVFC
Mục đích chính của thẩm định tài chính dự án là xác định chi phí và lợi ích của dự án, từ đó xây dựng và xem xét các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án nhằm từ đó đánh giá tính khả thi của dự án về khía cạnh tài chính là có hay không.Có thể nói qua 10 dự án mà công ty đã thẩm định thì thẩm định tài chính dự án rất được công ty chú trọng.Bao gồm các nội dung như thẩm định vốn đầu tư,thẩm định dòng tiền của dự án,thẩm định lãi suất chiết khấu, đánh giá rủi ro của dự án, và cuối cùng là thẩm định các chỉ tiêu trong thẩm định tài chính dự án.
Thẩm định vốn đầu tư của dự án để công ty xác định vốn đầu tư vào tài sản cố định,vốn đầu tư vào tài sản lưu động,cách thức huy động vốn từ các nguồn khác nhau như đi vay ngân hàng,thuê tài sản hay là vốn chủ sở hữu.Ví dụ như trong dự án nhà máy xi măng Long Thọ II, thì vốn đầu tư của dự án chủ yếu là đi vay ngân hàng (85%) và vốn huy động từ các tổ chức tài chính khác.Bên cạnh đó công ty cũng xác định chi phí và lợi ích của dự án để từ đó đi xác định dòng tiền của dự án.Những chi phí trực tiếp liên quan đến dự án thường bao gồm: chi phí nguyên nhiên vật liệu,chi phí thuê máy móc,chi phí lao động...Và lợi ích của dự án đưa lại là gia tăng doanh thu cho doanh nghiệp,tạo công ăn việc làm cho nhiều công nhân,giảm chi phí,giảm mức thua lỗ.Công ty thường dùng 2 chỉ tiêu quan trọng để đánh giá dự án đó là NPV và IRR.Đây là hai chỉ tiêu phản ánh tính khả thi của dự án nhất và một phần không thể thiếu đó là đánh giá rủi ro trong dự án.Đánh giá khả năng xảy ra một biến cố không chắc chắn trong các giai đoạn cảu dự án.Nếu thẩm định đúng rủi ro sẽ tạo điều kiện để thực hiện dự án đúng như đã định.
2.2.2.3.Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án tại PVFC.
Chất lượng thẩm định tài chính dự án là tập hợp các chỉ tiêu bao gồm các nội dung thẩm định tài chính,quy trình thẩm định,kỹ thuật thẩm định đáp ứng được yêu cầu của mục tiêu đề ra. Đối với thẩm định tài chính dự án ,một dự án có chất lượng thẩm định tốt có nghĩa là dự án đó khi được thực hiện trong tương lai sẽ diễn biến theo đúng những gì mà nhà phân tích đã nhận định trong phần thẩm định tài chính cả về vốn đầu tư,doanh thu,chi phí,lợi nhuận,số năm hoàn vốn thực tế…Một dự án sau khi kết thúc được nhìn nhận và đánh giá lại nếu lợi nhuận đem lại hoặc các mục tiêu khác mà dự án không đạt được như trong phân tích lúc ban đầu cũng như đã có sự sai lệch trong phân tích tài chính.Nguyên nhân có thể do việc quản lý vận hành dự án.Tuy vậy,phương pháp thẩm định tài chính dự án có hiệu quả và chính xác là điều kiện tiền đề để vận hành một dự án tốt.Để đánh giá chất lượng một dự án người ta thường dùng các chỉ tiêu sau:Sự tuân thủ quy trình thẩm định,thời gian và chi phí thẩm định,kết quả thẩm định.Trong suốt 2 năm qua kể từ khi công ty đi vào thẩm định các dự án thì công ty đã thẩm định thành công 10 dự án,các dự án đã được thẩm định bài bản và chắc chắn .Bên cạnh đó công ty cũng đã gặp không ít khó khăn và trở ngại.Như dự án nhà máy xi măng Long Thọ II là một dự án đòi hỏi vốn đầu tư lớn,dự án lại ở xa vì vậy muốn nắm bắt được dự án như thế nào công ty đã phải thường xuyên cử người vào trong Thừa Thiên Huế lấy số liệu và thẩm định số liệu nên gây rất nhiều tốn kém cho công ty.Sau đây là chi phí một số dự án công ty đã từng tham gia.
Bảng 2 :Chi phí thẩm định dự án tại PVFC
Đơn vị:Triệu đồng
TT
Dự án
Số dự toán
số thực hiện
1
Dự án nhà máy xi măng Long Thọ II
15
14
2
Dự án nhà máy thuỷ điện Nậm Chiến
12
11
3
Dự án nhà máy xi măng Hạ Long
8
7
4
Dự án tàu FPSO
6
6
5
Dự án nhà máy thuỷ điện Ngòi Hút 1
9
8
Nguồn số liệu:Báo cáo nghiên cứu khả thi các dự án tại PVFC
Không những liên quan về chi phí mà mặt thời gian cũng là một vấn đề mà công ty quan tâm.Nếu thẩm định quá dài thì sẽ kéo theo nhiều chi phí phát sinh ,nếu thẩm định một cách nhanh chóng thì sẽ không đánh giá được hết chất lượng và tính khả thi của dự án.Sau đây là thời gian thẩm định tại PVFC.
Bảng 3 :Thời gian thẩm định các dự án tại PVFC
TT
Dự án._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 9723.doc