Lời nói đầu
Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng luôn đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển kinh tế của các quốc gia. Hệ thống ngân hàng vừa là hệ quả của sự phát triển kinh tế, vừa là nguyên nhân thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Nếu một quốc gia có hệ thống ngân hàng phát triển lành mạnh, ổn định thì nền kinh tế sẽ phát triển ổn định. Ngược lại, sự mất ổn định, thiếu lành mạnh của hệ thống ngân hàng ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế, có thể dẫn đến khủng hoảng, cuộc
85 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1411 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khủng hoảng kinh tế ở các nước Đông á năm 1997 là một minh chứng. Vì vậy, việc duy trì sự ổn định và phát triển của hệ thống ngân hàng có ý nghĩa sống còn đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia.
Trên thực tế hiện nay, hệ thống ngân hàng Việt Nam hoạt động kém hiệu quả, khả năng cạnh tranh yếu, nhiều vấn đề xảy ra, trong đó phải kể đến việc một số lượng vốn khổng lồ lên đến hàng nghìn tỷ đồng không thu hồi được ở nhiều Ngân hàng thương mại (NHTM). ở một số ngân hàng còn tình trạng ứ đọng vốn trong khi các doanh nghiệp lại thiếu vốn để sản xuất. Nợ quá hạn còn ở mức cao, độ an toàn trong hoạt động ngân hàng còn thấp. Đã có rất nhiều kiến nghị, giải pháp được đưa ra nhưng tình trạng đó vẫn còn tồn tại. Đây là một vấn đề nan giải, đang làm đau đầu các cơ quan hữu quan.
Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên nhân đó là công tác thẩm định dự án của các ngân hàng thương mại còn nhiều bất cập, dẫn đến nhiều trường hợp cho vay những dự án không hiệu quả dẫn đến mất vốn hoặc bỏ qua những dự án có tính khả thi cao.
Chính vì vậy, trong thời gian thực tập tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, em đi sâu tìm hiểu công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư(DADT) và quyết định chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động tín dụng tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam” làm chuyên đề thực tập.
Thẩm định tài chính DAĐT là một nội dung trong nhiều nội dung thẩm định dự án và là khâu quan trọng trong quá trình quyết định lựa chọn DAĐT. Đây là một đề tài rộng, có nhiều vấn đề cần được nghiên cứu.
Trên cơ sở hệ thống hóa các lý luận cơ bản liên quan đến thẩm định tài chính DAĐT, phân tích thực trạng công tác thẩm định tại Ngân hàng để đưa ra giải pháp, ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm ba chương:
Chương I: Chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng ngoại thương Việt nam.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng ngoại thương Việt nam.
Do trình độ lý luận và nhận thức còn hạn chế, thời gian tìm hiểu thực tế và thực tập có hạn, bài viết của em không thể tránh khỏi những sai sót. Em rất mong được sự đóng góp của thầy cô giáo; ban lãnh đạo và các cô chú, anh chị ở phòng Đầu tư dự án của Ngân hàng ngoại thương Việt nam để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Em xin cảm ơn thầy giáo, thạc sỹ Đinh Ngọc Dinh - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, anh Lê Quang Vinh, anh Đàm Hải Giang và các cô chú, anh chị ở phòng Đầu tư dự án và các phòng ban khác của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho em hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương 1
Chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại
1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại (NHTM)
1.1.1 Khái niệm NHTM.
NHTM được coi là một trung gian tài chính quan trọng hàng đầu trong hệ thống tài chính, là một kênh dẫn vốn gián tiếp từ những người thừa vốn tới những người thiếu vốn. Thông qua NHTM, vốn nhàn rỗi từ những người không có khả năng đầu tư được chuyển tới những người có cơ hội đầu tư nhưng thiếu hoặc không có đủ lượng vốn cần thiết. Ngân hàng thương mại là tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực tạo ra và cung cấp các dịch vụ tài chính. Thành công của NHTM hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng trong việc xác định các nhu cầu tài chính của xã hội. Các NHTM ngày nay cung cấp rất nhiều các loại hình dịch vụ tài chính khác nhau, bao gồm các hoạt động cung cấp dịch vụ mang tính chất truyền thống (Dịch vụ trao đổi tiền tệ, cung cấp các dịch vụ ủy thác...), và các dịch vụ mới (Tín dụng tiêu dùng, tư vấn tài chính, quản lý tiền mặt,...).
Có thể xem xét sơ qua về một số hoạt động cơ bản của NHTM như sau:
- Hoạt động huy động vốn: Để duy trì và phát triển, các NHTM thực hiện các nghiệp vụ huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân thông qua việc cung cấp các tài khoản séc, tài khoản tiền gửi tiết kiệm, tài khoản tiền gửi thanh toán...
- Hoạt động tín dụng và đầu tư: là hoạt động mang lại thu nhập chủ yếu. Thông qua hoạt động này ngân hàng có thể bù đắp được các chi phí cho việc huy động vốn. Trong đó, hoạt động tín dụng chiếm vị trí quan trọng hơn cả, nó mang lại phần lớn thu nhập cho ngân hàng, nhưng sự yếu kém trong hoạt động tín dụng cũng có thể đẩy ngân hàng vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Vì vậy, hoạt động tín dụng quyết định sự tồn tại của mỗi ngân hàng.
- Hoạt động trung gian: Ngoài hai hoạt động trên, NHTM còn thực hiện các hoạt động trung gian ví dụ thực hiện chức năng trung gian thanh toán, chuyển tiền, tư vấn,... và tiến hành thu phí. Đây là hoạt động chứa đựng ít rủi ro hơn so với hoạt động tín dụng, vì vậy, các NHTM đều cố gắng để nâng cao tỷ lệ thu nhập của hoạt động trung gian trong tổng thu nhập của ngân hàng.
Do đó, có thể định nghĩa NHTM như sau: NHTM là một tổ chức kinh tế được thực hiện toàn bộ hoạt động kinh doanh tiền tệ và tín dụng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng tiền gửi đó để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.
1.1.2. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
Tín dụng là một giao dịch giữa hai bên, trong đó một bên (Ngân hàng) cung cấp một khoản tiền cho người đi vay để sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, dựa trên cơ sở cam kết hoàn trả cả gốc và lãi vào những thời điểm xác định trong tương lai của ngưòi đi vay.
Tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ chốt của NHTM để tạo ra lợi nhuận, khoản mục tín dụng chiếm quá nửa giá trị tổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu nhập của NH. Khả năng cho vay đối với khách hàng chính là lý do cơ bản để NHTM được cơ quan quản lý cấp giấy phép hoạt động. Mọi người mong muốn các NHTM hỗ trợ cho sự phát triển của cộng đồng thông qua việc cung cấp tín dụng, đáp ứng nhu cầu tài chính của xã hội với một mức lãi suất hợp lý. Rõ ràng, cho vay là chức năng kinh tế cơ bản hàng đầu của NH.
Ngày nay, do kinh tế phát triển dẫn tới nhu cầu về tín dụng của khách hàng rất đa dạng và phong phú. Đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn, các NHTM đã cung cấp nhiều loại hình tín dụng khác nhau. Tùy thuộc vào các căn cứ mà tín dụng có thể phân chia thành các loại khác nhau.
- Căn cứ vào mục đích vay vốn có thể kể đến các khoản tín dụng như sau: Tín dụng kinh doanh, tín dụng tiêu dùng và các khoản tín dụng khác.
- Căn cứ vào lãi suất, thì có các loại hình như sau: Tín dụng với lãi suất thả nổi, tín dụng với lãi suất cố định và tín dụng với lãi suất ưu đãi.
- Căn cứ vào tính chất bảo đảm, có các loại tín dụng sau: Tín dụng có bảo đảm và tín dụng không có bảo đảm.
- Ngoài việc phân loại dựa trên các tiêu thức kể trên, còn có một tiêu thức rất quan trọng để phân loại và quản lý các khoản tín dụng chính là phân loại dựa trên tiêu thức thời gian xin vay của khách hàng. Dựa vào tiêu thức này thì có thể kể đến hai loại hình tín dụng là tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung và dài hạn.
Tín dụng ngắn hạn: Là những khoản cho vay có thời gian từ một năm trở xuống.
Tín dụng trung và dài hạn: Là khoản cho vay với thời gian trên một năm, được tiến hành chủ yếu trên các dự án đầu tư, với thời gian thu hồi vốn chậm.
Hoạt động tín dụng mang lại cho ngân hàng rất nhiều rủi ro tiềm ẩn, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn theo dự án đầu tư. Để đảm bảo được tính an toàn của các khoản tín dụng, ngân hàng phải xây dựng một quy trình thống nhất đối với hoạt động này.
Quy trình hoạt động tín dụng là tập hợp các nội dung, các bước kĩ thuật nghiệp vụ cơ bản, các bước tiến hành từ khi bắt đầu đến khi kết thúc một khoản cho vay. Thông thường, quy trình bao gồm ba bước.
- Kiểm tra hồ sơ xin vay, đồng thời thẩm định tính hiệu quả của dự án.
- Thực hiện cho vay và kiểm tra việc sử dụng vốn vay có đúng mục đích hay không trong thời gian cho vay.
- Thu hồi nợ khi kết thúc hợp đồng vay.
Các bước trong quy trình trên có mối liên hệ mật thiết với nhau và có tầm quan trọng nhất định ảnh hưởng tới chất lượng của các khoản vay. Một khoản vay có chất lượng và là khoản vay mà người xin vay trả cho ngân hàng đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn theo như cam kết, đây là mục tiêu theo đuổi của ngân hàng. Để đạt được mục tiêu đó, trong quá trình ra quyết định tài trợ ngân hàng phải xem xét một cách kĩ lưỡng mọi khía cạnh có liên quan đến dự án: thời gian cho vay, quản lý và sử dụng tiền vay,... Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có hiện tượng ngân hàng gặp phải những rủi ro khi cho vay tạo nên những khoản nợ xấu cho ngân hàng. Để tránh được vấn đề này đòi hỏi ngân hàng phải tiến hành khâu thẩm định dự án.
1.2. Thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động tín dụng của NHTM
1.2.1. Dự án đầu tư
“Dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất về nhu cầu vốn, cách thức sử dụng vốn, kết quả tương ứng thu được trong một khoảng thời gian xác định đối với hoạt động cụ thể để sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đầu tư phát triển hoặc phục vụ đời sống”.
Có nhiều cách để phân loại dự án đầu tư, thông dụng nhất các dự án đầu tư có thể được phân thành: Dự án đầu tư mới và dự án đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.
Dự án đầu tư mới: Là những dự án có mục tiêu tạo ra sản phẩm, dịch vụ mới để đưa vào thị trường hay những dự án tạo ra các pháp nhân mới. Các dự án thuộc loại này phải được đầu tư toàn bộ nhà xưởng, máy móc, thiết bị...
Dự án đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh: Những dự án có mục đích tăng cường năng lực sản xuất, tăng quy mô sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến dây truyền máy móc từ đó tăng doanh thu của doanh nghiệp. Hay cách khác, dự án mở rộng sản xuất là dự án được thực hiện trên cơ sở một dự án cũ đang hoạt động.
Căn cứ vào mối quan hệ của các dự án, chúng có thể chia thành: Dự án đầu tư độc lập hoặc dự án đầu tư phụ thuộc và dự án loại trừ nhau. Ngoài ra, dự án đầu tư cũng được phân loại theo một số tiêu thức khác như quy mô của dự án (dự án có quy mô lớn, dự án có quy mô vừa, dự án có quy mô nhỏ), cấp quyết định (dự án thuộc nhóm A – do Thủ tướng quyết định, B và C – do thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, UBND cấp Tỉnh và Thành phố trực thuộc trung ương quyết định), phạm vi (dự án trong nước, dự án nước ngoài),...
Trong trường hợp khan hiếm nguồn tài trợ, chủ đầu tư thường quan tâm tới tín dụng ngân hàng. Các khoản tín dụng cho dự án đầu tư chủ yếu là các khoản tín dụng trung và dài hạn. Việc cung cấp tín dụng cho các dự án với số vốn lớn và thời gian cho vay lại tương đối dài, có những dự án kéo dài đến hàng chục năm sẽ dẫn đến rủi ro cao cho ngân hàng. Để phần nào giảm bớt được những rủi ro tiềm ẩn có thể gặp phải, trước khi tiến hành cấp tín dụng cho dự án ngân hàng phải tiến hành một bước rất quan trọng đó là kiểm tra tính khả thi của dự án, xem xét các đặc điểm của dự án, các yếu tố thuộc về môi trường có thể ảnh hưởng tới dự án,... công việc đó chính là công tác thẩm định dự án đầu tư.
1.2.2. Sự cần thiết phải thẩm định dự án đầu tư tại các NHTM
Trong hoạt động kinh doanh của mình, doanh nghiệp thường đứng trước những tập hợp dự án đầu tư cần lựa chọn hoặc phải quyết định đầu tư vào một dự án nào đó. Việc thẩm định giúp cho các nhà đầu tư có thể lựa chọn được phương án tối ưu và ra quyết định sáng suốt. Đối với ngân hàng cũng vậy, thẩm định dự án đầu tư là căn cứ giúp đưa ra các quyết định tín dụng đúng đắn.
Hoạt động thẩm định dự án đầu tư (kết quả của nó là Báo cáo thẩm định) là hoạt động rất quan trọng, nó là bộ phận không thể tách rời trong tổng thể hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng. Về mặt nghiệp vụ, hoạt động này giúp cho ngân hàng có thể đưa ra những đánh giá về tính hợp lý, tính hiệu quả và tính khả thi của dự án.
- Tính hợp lý của dự án được biểu hiện một cách tổng hợp (biểu hiện trong tính hiệu quả và trong tính khả thi) và được biểu hiện trong từng nội dung và cách thức tính toán của dự án.
- Tính hiệu quả của dự án được xem xét trên hai phương diện: hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế – xã hội của dự án.
- Tính khả thi của dự án: Tức là khả năng thực hiện dự án, là dự án có thực sự đem lại lợi ích cho chủ đầu tư khi đi vào hoạt động hay không. Đây là mục tiêu rất quan trọng của thẩm định dự án. Một dự án hợp lý và hiệu quả cần phải có tính khả thi. Tất nhiên hiệu quả và hợp lý là hai điều kiện quan trọng để một dự án có tính khả thi, nhưng tính khả thi còn phải được xem xét với nội dung và phạm vi rộng hơn.
Trên cơ sở các đánh giá đó, ngân hàng có thể quyết định có nên tài trợ hay không, tài trợ theo hình thức nào, mức lãi suất bằng bao nhiêu, cách thức trả nợ gốc và lãi, các biện pháp đẩm bảo tiền vay là gì. Không những thế dựa vào báo cáo thẩm định NHTM có thể đo lường được mức độ rủi ro tiềm ẩn của dự án, từ đó ngân hàng có thể đề ra được các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong trường hợp tài trợ.
Hoạt động tín dụng là hoạt động đem lại thụ nhập chủ yếu. Nhưng, hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng trung, dài hạn nói riêng mang rất nhiều rủi ro. Khi quyết định tài trợ cho một dự án thì có nghĩa là ngân hàng đã chấp nhận chia sự rủi ro với khách hàng của mình. Do vậy, nó có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hiệu quả kinh doanh của họ, rủi ro mất vốn, suy giảm lợi nhuận luôn có thể xảy ra, ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản. Vì vậy, đòi hỏi ngân hàng phải lựa chọn dự án đầu tư có hiệu quả nhằm đảm bảo an toàn cho chính hoạt động của mình.
Ngày nay, trong quản trị NHTM, các nhà quản trị rất chú ý tới các biện pháp làm giảm thiểu những rủi ro có thể gặp phải. Thẩm định dự án đầu tư cũng là một trong những khâu quan trọng hàng đầu để đảm bảo tránh được rủi ro tín dụng, tạo ra sự an toàn và lành mạnh cho hoạt động tín dụng. Không những thế, báo cáo thẩm định là căn cứ có tính pháp lý để ngân hàng ra quyết định tài trợ.
Mặt khác, một dự án đầu tư cho dù được soạn thảo kĩ lưỡng đến đâu cũng vẫn mang tính chủ quan của người soạn thảo, khi soạn thảo dự án có thể có những sai sót, các ý kiến có thể mâu thuẫn, không logic, thậm chí có thể gây ra hiểu nhầm dẫn tới các tranh chấp không đáng có. Thẩm định sẽ phát hiện ra những sai sót đó đồng thời cũng sửa chữa những sai sót đó.
Chính vì vậy, đối với bất kì một dự án nào thì ngân hàng phải tiến hành xem xét dự án đó trên nhiều khía cạnh, đó là quá trình thẩm định.
1.2.3. Thẩm định Tài chính Dự án đầu tư của NHTM
1.2.3.1. Khái niệm thẩm định tài chính dự án đầu tư
Thẩm định dự án đầu tư có thể được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau, tùy thuộc vào mối quan hệ của chủ thể đó với dự án đầu tư. Một dự án đầu tư thông thường được thẩm định bởi hai chủ thể chính đó là bản thân của chủ dự án khi ra quyết định đầu tư và bởi ngân hàng khi ra quyết định tài trợ cho dự án.
Trước khi một doanh nghiệp quyết định đầu tư vào một dự án cụ thể nào đó, họ cần phải xem xét khả năng thành công của dự án, liệu khi dự án đi vào hoạt động có đem lại lợi ích cho doanh nghiệp không? Mức độ của lợi ích mà dự án đem lại như thế nào? Công việc như thế được gọi là hoạt động thẩm định.
Hoạt động thẩm định không chỉ được tiến hành tại doanh nghiệp mà nó cũng rất có ý nghĩa đối với bất kỳ một NHTM nào. Bởi vì, như trên đã đề cập, đối với bất kỳ một khoản vay trung và dài hạn nào yếu tố rủi ro được quan tâm hàng đầu. Về lý thuyết, trước khi quyết định thông qua dự án, chủ đầu tư đã thẩm định kĩ về tính hiệu quả của dự án mà họ muốn thực hiện. Nhưng thực tế, có rất nhiều trường hợp các doanh nghiệp trình dự án lên với mục đích không tốt. Do đó, để tránh được tình trạng trên, ngân hàng luôn thực hiện quá trình tái thẩm định.
Như vậy, thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách quan, khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản có ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp tới việc đầu tư cũng như tính khả thi của dự án để ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư.
Đây là một quá trình kiểm tra, đánh giá các nội dung của dự án một cách độc lập, tách biệt với quá trình lập dự án. Thẩm định dự án tạo ra cơ sở vững chắc cho hoạt động đầu tư có hiệu quả. Các kết luận được rút ra từ quá trình thẩm định là cơ sở để ra quyết định đầu tư.
Các yếu tố được quan tâm trong công tác thẩm định của NHTM có thể được đề cập đến là thông tin về chủ đầu tư và về dự án đầu tư.
* Về chủ đầu tư: Phần này phản ánh một hình ảnh tổng thể nhất về chủ đầu tư của dự án. Trong phần này các khía cạnh: năng lực pháp lý của chủ dự án, năng lực tài chính, hoạt động sản xuất hiện tại của chủ dự án được các cán bộ NHTM kiểm tra.
* Về dự án: Khi thẩm định dự án thì họ thực hiện đánh giá các khía cạnh sau: Tính pháp lý, kỹ thuật, thị trường, tổ chức thực hiện, hiệu quả xã hội - môi trường và phương diện tài chính của dự án.
Đối với NHTM tất cả các nội dung thẩm định là hết sức quan trọng, nhưng khâu thẩm định tài chính của dự án là một nội dung được đặc biệt quan tâm. Bởi lẽ, đối với ngân hàng thì hiệu quả tài chính của các dự án được ngân hàng tài trợ là một yếu tố có tính sống còn đối với họ.
Cũng tương tự định nghĩa hoạt động thẩm định dự án nói chung, hoạt động thẩm định tài chính dự án nói riêng có thể được định nghĩa như sau: là việc tổ chức xem xét một cách khách quan, khoa học và toàn diện các yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả tài chính của dự án.
1.2.3.2. Nội dung thẩm định của tài chính Dự án Đầu tư
Hoạt động thẩm định tài chính dự án diễn ra theo một quy trình thống nhất với các bước cụ thể. Thông thường, thẩm định tài chính dự án được tiến hành thông qua một số bước sau:
* Tổng vốn đầu tư và nguồn tài trợ
Là công việc xác định xem khi đầu tư thì phải bỏ ra bao nhiêu và phân bổ cho tài sản cố định, tài sản lưu động như thế nào và nguồn tài trợ cho các tài sản đó.
+Xác định tổng mức vốn đầu tư: là nội dung quan trọng đầu tiên cần xem xét khi tiến hành phân tích tài chính dự án. Tính toán chính xác tổng mức vốn đầu tư có ý nghĩa rất quan trọng đối với tính khả thi của dự án. Nếu vốn đầu tư được dự tính quá thấp hoặc được dự tính quá cao thì không phản ánh được chính xác nhu cầu vốn và tính hiệu quả của dự án. Tổng mức đầu tư bao gồm toàn bộ số vốn cần thiết để lập và đưa dự án đi vào hoạt động. Tổng mức vốn này được chia thành hai loại: vốn đầu tư vào tài sản cố định và vốn lưu động ban đầu.
Vốn đầu tư cho tài sản cố định bao gồm: đầu tư vào trang thiết bị, dây truyền sản xuất.... tuy nhiên, cũng cần phải chú ý đến chi phí “chìm” - tức là các chi phí mà doanh nghiệp không thu hồi được cho dù dự án có thể đi vào hoạt động hay không. Điển hình là các chi phí khảo sát địa điểm xây dựng dự án, chi phí tư vấn thiết kế dự án...
Vốn đầu tư vào tài sản lưu động ban đầu bao gồm các chi phí để tạo ra các tài sản lưu động ban đầu nhằm bảo đảm dự án có thể đi vào hoạt động bình thường theo điều kiện kinh tế, kĩ thuật đã dự tính, nó bao gồm: nguyên vật liệu, tiền lương, hàng dự trữ... và vốn dự phòng.
+ Xác định nguồn tài trợ cho dự án, khả năng bảo đảm vốn từ mỗi nguồn về mặt số lượng và tiến độ: Trên cơ sở tổng vốn đầu tư cho dự án, ngân hàng tiến hành xem xét các nguồn tài trợ cho dự án, trong đó phải tìm hiểu về khả năng đảm bảo vốn từ mỗi nguồn về quy mô và tiến độ. Để tài trợ cho một dự án, vốn đầu tư có thể bao gồm các nguồn: vốn chủ sở hữu, vốn vay ngân hàng, vốn tài trợ chính phủ, hay vốn huy động từ các nguồn khác. Muốn đảm bảo được tiến độ thực hiện dự án như dự tính, đòi hỏi các nguồn tài trợ phải được xem xét không chỉ về mặt số lượng mà phải theo dõi cả về thời điểm. Các nguồn này phải được đảm bảo chắc chắn, sự đảm bảo này phải có cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế. Chẳng hạn, nếu nguồn tài trợ có nguồn gốc từ ngân sách thì phải có cam kết bằng văn bản của các cơ quan có thẩm quyền sau khi đã phê duyệt chính thức dự án, hoặc nếu là vốn góp cổ phần hay liên doanh thì phải có sự cam kết về tiến độ và số lượng vốn góp của các bên...
Sau khi nghiên cứu nội dung này ngân hàng có thể có được quyết định phù hợp nếu có vay thì phải giải ngân như thế nào để đảm bảo dự án được tiến hành một cách thuận lợi.
* Thẩm định dòng tiền của dự án
Sau khi xem xét các giải trình về nhu cầu vốn, nguồn tài trợ cho dự án, bước tiếp theo ngân hàng phải xem xét tới các yếu tố thu, chi từ đó xác định được dòng tiền của dự án. Thông thường, ngân hàng thẩm định các yếu tố.
+Thẩm định doanh thu của dự án: Doanh thu của dự án bao gồm doanh thu từ việc bán các sản phẩm chính; các sản phẩm phụ; phế liệu, phế phẩm thu hồi; các dịch vụ cung cấp cho bên ngoài... doanh thu của dự án thường được tính theo năm và được dựa vào kế hoạch sản xuất, tiêu thụ của chủ dự án để xác định. Trong bước này, cán bộ thẩm định xác định công suất huy động dự tính của chủ dự án có chính xác hay không; khả năng tiêu thụ sản phẩm; giá cả của sản phẩm bán ra;... dựa vào định hướng phát triển của ngành nghề và dự báo ảnh hưởng của các yếu tố môi trường.
+Thẩm định chi phí của dự án: Các chỉ tiêu phản ánh chi phí cũng được tính theo năm trong suốt vòng đời của dự án. Việc dự tính các chi phí được dựa trên kế hoạch sản xuất hàng năm, kế hoạch khấu hao, kế hoạch trả nợ. Các cán bộ thẩm định xem xét tính đầy đủ của các loại chi phí, kế hoạch trích khấu hao có phù hợp với chế độ của Bộ Tài Chính hay không...
+ Xác định dòng tiền của dự án: Trên cơ sở tính toán được các yếu tố thu, chi hàng năm có thể xác định được mức lãi, lỗ qua các năm của dự án. Tuy nhiên, đối với bất kì một dự án cụ thể nào các NHTM đặc biệt quan tâm tới nội dung xác định dòng tiền. Từ đó NHTM mới có cơ sở về mặt tài chính để đánh giá dự án một cách chính xác.
Trong phân tích tài chính dự án, việc xác định dòng tiền cần phải tính toán chính xác dòng ra và dòng vào của dự án. Thu và chi của dự án được xác định từ những thông tin trong các báo cáo thu nhập và chi phí của dự án, song vấn đề là cần phân biệt giữa khoản thu và doanh thu, giữa chi phí và khoản chi.
+ Xác định dòng chi phí: Cần phân biệt được giữa các chi phí và khoản chi. Đối với chi phí, doanh nghiệp đã chấp nhận mua hàng hóa, dịch vụ nhưng có thể luồng tiền đi ra chưa xuất hiện; còn các khoản chi thì doanh nghiệp đã thực sự bỏ tiền, tức là đã có luồng ra xuất hiện. Chi phí mà chủ dự án phải bỏ ra đầu tiên phải kể đến là chi phí cho máy móc, nhà xưởng, trang thiết bị (chi phí cho phần cứng), ngoài ra cũng phải tính đến các chi phí đi kèm như chi phí lắp đặt, vận chuyển, bảo hiểm, chi phí cho việc đào tạo công nhân vận hành (chi phí cho phần mềm - chuyển giao công nghệ), chi phí chạy thử...
Trong việc tính toán chi phí cũng cần phải tính đến yếu tố chi phí cơ hội, chi phí cơ hội đo lường dòng tiền mặt thuần có thể được tạo ra nếu dự án được bác bỏ.
Khi tính toán các khoản chi cho máy móc và thiết bị, một dữ kiện dễ bị bỏ qua là vốn luân chuyển cần cho vận hành công trình đầu tư, cũng phải được đưa vào để tính toán chi phí đầu tư. Nếu số luân chuyển được thu hồi khi dự án ngưng hoạt động thì dự án có giá trị ròng tại thời điểm cuối và dữ kiện này cần phải được tính tới.
Các chi phí “chìm” không nên coi là chi phí để đưa vào dòng tiền, bởi nó là những chi phí mà chủ dự án bỏ ra cho dù dự án đó có được chấp nhận hay không.
Chi phí khấu hao là một chi phí khá quan trọng, trong báo cáo thu nhập của kế toán, khấu hao được khấu trừ vào chi phí để xác định lợi nhuận trong kì, nhưng nó là chi phí không xuất quỹ, khấu hao chỉ là một yếu tố của chi phí làm giảm thuế nhu nhập của doanh nghiệp. Do đó, khấu hao được coi như là một nguồn thu nhập của dự án.
Ngoài ra, lãi vay vừa là khoản chi phí vừa là khoản chi tiêu bằng tiền thật sự nhưng lãi vay thì cũng không được đưa vào dòng tiền vì lãi vay tượng trưng cho giá trị thời gian của tiền tệ và khoản này đã được tính bằng cách chiết khấu dòng tiền tương lai. Khấu trừ lãi vay vào luồng tiền tức là tính lãi gấp đôi.
+ Xác định dòng thu nhập: Cần phân biệt được doanh thu và các khoản thu. Doanh thu là giá trị của hàng hóa, dịch vụ đã được bán ra và người mua tuyên bố chấp nhận mua hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên, đối với các khoản được ghi nhận là doanh thu thì không xác định được người mua đã trả tiền hay chưa, còn đối với các khoản thu thì chắc chắn là doanh nghiệp đã thu được tiền. Tức là doanh thu thì có thể chưa xuất hiện luồng tiền đi vào doanh nghiệp nhưng đối với khoản thu thì chắc chắn luồng tiền đi vào doanh nghiệp đã xuất hiện.
Trong dòng thu của dự án cũng cần phải đề cập tới giá trị còn lại của thiết bị máy móc khi dự án kết thúc. Giá trị còn lại của một tài sản là giá trị tài sản có thể bán được tại thời điểm dự án kết thúc. Bất kì một khoản tiền thu được do bán tài sản đầu tư mới lúc nó bị thải loại sẽ có ảnh hưởng tới dòng tiền trong kì cuối cùng, nó được coi như là khoản thu nhập và được dùng làm cơ sở tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Đối với dòng thu, cần phải xác định được chính xác cái gì mà chủ dự án nhận được sau khi dự án đi vào hoạt động. Do đó, các khoản thu từ dự án cần phải loại bỏ thuế thu nhập để tính toán dòng tiền được chính xác. Chính vì vậy, dòng tiền được sử dụng để tính toán trong thẩm định dự án đầu tư là dòng tiền sau thuế.
Như vậy, có thể xác định được luồng tiền của dự án là chênh lệch giữa số tiền nhận được và số tiền chi ra. Luồng tiền mặt không giống như lợi nhuận hay thu nhập. Thu nhập vẫn có thể thay đổi trong khi không có sự thay đổi tương ứng trong luồng tiền mặt. Trong thời gian đầu tư vào nhà máy, các khoản phải chi và hàng tồn kho, dòng tiền mặt của chủ đầu tư có thể giảm trong khi thu nhập lại tăng. Một trong những ưu điểm cơ bản của phương pháp phân tích theo luồng tiền mặt tránh được những khó khăn vướng mắc trong đo lường thu nhập.
Từ đó có thể tính dòng tiền của dự án như sau:
Dòng tiền ròng năm thứ i
=
Lợi nhuận sau thuế năm thứ i
+
Khấu hao năm thứ i
* Các phương pháp đánh giá tài chính dự án
Để đánh giá tính khả thi về mặt tài chính của một dự án đầu tư, người ta thường sử dụng bốn phương pháp dựa trên cơ sở giá trị thời gian của tiền.
- Phương pháp giá trị hiện tại ròng (NPV)
- Phương pháp tỷ suất nội hoàn (IRR)
- Phương pháp thời gian hoàn vốn (PP)
- Phương pháp chỉ số doanh lợi (PI)
* Phương pháp giá trị hiện tại ròng (NPV)
Giá trị hiện tại ròng của một dự án đầu tư là số chênh lệch giữa giá trị hiện tại của các luồng tiền ròng kỳ vọng trong tương lai với vốn đầu tư. Giá trị hiện tại ròng đo phần giá trị tăng thêm dự tính mà dự án có thể đem lại cho nhà đầu tư với mức rủi ro cụ thể của dự án. Khi NPV = 0 có nghĩa là thu nhập chỉ vừa đủ bù đắp cho giá trị theo thời gian của tiền và rủi ro của dự án.
Có thể xác định NPV của một dự án theo cách sau:
NPV = -C0 + C1 (1+r)-1 + C2 (1+r)-2 + … + Cn-1 (1+r)-(n-1) + Cn (1+r)-n
= -C0 +
n
Ci(1+r) –I
S
I=1
Trong đó:
C0 là khoản đầu tư ban đầu
Ci là các khoản thu năm thứ i
r là tỷ lệ chiết khấu
n là số năm thực hiện dự án
Phương pháp giá trị hiện tại ròng được xây dựng dựa trên giả định có thể xác định tỷ suất chiết khấu thích hợp để tìm ra giá trị tương đương với thời điểm hiện tại của một khoản tiền trong tương lai. Việc xác định tỷ lệ chiết khấu là một việc làm không đơn giản. Có thể hiểu tỷ lệ chiết khấu tương ứng với mức rủi ro mà chủ dự án có thể gặp phải. Khi mức rủi ro của dự án bằng với mức rủi ro của chính sách tài trợ của doanh nghiệp thì tỷ lệ chiết khấu bằng đúng với chi phí trung bình của vốn (WACC).
Khi sử dụng NPV như là một tiêu chuẩn để ra quyết định đầu tư chúng ta cần phải chú ý đến hai tình huống: các dự án độc lập với nhau và các dự án loại trừ nhau.
Trong trường hợp các dự án đầu tư độc lập thì tiêu chuẩn để chấp nhận một dự án là dự án đó có NPV > 0, bác bỏ các dự án có NPV < 0. Các dự án có NPV = 0 thì tùy thuộc vào tình hình của doanh nghiệp mà chấp nhận hay bác bỏ dự án.
Trong thực tế nhiều khi doanh nghiệp phải lựa chọn trong số các dự án loại trừ nhau, tức là khi doanh nghiệp chấp nhận một dự án thì buộc phải loại bỏ các dự án còn lại. Trong trường hợp như thế doanh nghiệp sẽ chấp nhận dự án nào có NPV lớn nhất.
Khi áp dụng phương pháp này có những thuận lợi và khó khăn như sau:
+ ưu điểm:
- NPV là một chỉ tiêu rất quan trọng khi ra quyết định đầu tư, nó cho biết quy mô giá trị tiền lời tại thời điểm hiện tại của một dự án là lớn hay nhỏ, sau khi đã hoàn trả đủ vốn đầu tư. Hay NPV là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của vốn đầu tư về phương diện tài chính.
- Phương pháp này giả định rằng những khoản thu nhập tạm thời được tái đầu tư với tỷ lệ sinh lời bằng với tỷ lệ chi phí sử dụng vốn.
- Quyết định chấp nhận hay bác bỏ dự án đầu tư phù hợp với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của cổ đông.
+ Nhược điểm:
- Chỉ tiêu NPV dựa vào tính chính xác của tỷ lệ chiết khấu. Tỷ lệ chiết khấu càng lớn thì NPV càng nhỏ và ngược lại. Do đó, lựa chọn tỷ lệ chiết khấu một cách chính xác là một khó khăn rất lớn.
- Đối với các dự án có thời gian đầu tư khác nhau thì việc so sánh NPV của các dự án là một việc làm không chính xác.
*Phương pháp tỷ suất nội hoàn (IRR)
Tỷ lệ nội hoàn (còn gọi là tỷ lệ hoàn vốn nội bộ) đo lường tỷ lệ hoàn vốn đầu tư của một dự án. Về kĩ thuật tính toán, IRR của một dự án đầu tư là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó NPV = 0.
Phương pháp IRR dựa trên khái niệm giá trị hiện tại thuần. Nội dung của nó xác định một tỷ suất chiết khấu sao cho giá trị hiện tại của số dư bằng tiền dự kiến thu được từ dự án đầu tư bằng với giá trị hiện tại của số tiền bỏ ra đầu tư.
Cách tính IRR
+ Trong trường hợp dự án đầu tư có những luồng tiền qua các kỳ bằng nhau. Để tính được IRR ta làm theo các bước sau:
Cho IRR = r, và NPV = 0 ta có
n
Ci(1+r) -i = C0
S
I=1
hay PVIF (r,n). Ci = C0
PVIF (r,n) = C0/ Ci
Trong đó: PVIF là hệ số hiện tại hóa.
Tiếp theo tính giá trị hiện tại của các khoản tiền không đổi trong tương lai theo lãi suất r, số kì hạn n; để lấy hai giá trị trên, dưới, gần đúng với C0/Ci.
Từ đó ta có được giá trị gần đúng của IRR theo công thức.
IRR = r1 +
NPV1 (r2 - r1)
ẵNPV1ẵ + ẵNPV2ẵ
Trong đó: r1 là lãi suất ứng với giá trị phía dưới của C0/Ci
r2 là lãi suất ứng với giá trị phía trên của C0/Ci
+ Trong trường hợp dự án có những luồng tiền trong tương lai không bằng nhau, để tìm IRR ta áp dụng phương pháp nội suy tuyến tính. Trước hết, ta tìm 2 tỷ lệ chiết khấu, một tỷ lệ sao cho NPV có giá trị âm, một tỷ lệ sao cho NPV có giá trị dương sau đó lại áp dụ._.ng các công thức như trường hợp ở trên để tính toán.
Qua hai phương pháp tính toán ở trên cho thấy IRR là tỷ suất nội hoàn từ những khoản thu nhập của một dự án. Điều đó có nghĩa là nếu dự án chỉ có tỷ lệ hoàn vốn IRR = r thì các khoản thu nhập từ dự án chỉ đủ để hoàn trả phần gốc và lãi đã đầu tư ban đầu vào dự án. Nó bằng chính mức lãi suất tiền vay cao nhất là nhà đầu tư có thể chấp nhận mà không bị thua thiệt nếu toàn bộ số tiền đầu tư cho dự án là vốn vay và nợ vay (cả gốc và lãi cộng dồn) được trả bằng nguồn tiền thu được từ dự án đầu tư mỗi khi chúng phát sinh.
Giống như phương pháp NPV, sử dụng phương pháp IRR cũng được xác định cho hai tình huống đầu tư. Nếu các dự án độc lập nhau, chúng được chấp nhận khi dự án có IRR > r, trong trường hợp các dự án loại trừ nhau, dự án được chấp nhận khi có IRR > r và lớn nhất.
Phương pháp IRR có những ưu nhược điểm sau:
Ưu điểm:
- Đo lường bằng tỷ lệ phần trăm nên dễ dàng so sánh với chi phí sử dụng vốn.
Nhược điểm:
IRR biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm, trong khi đó tài sản được đo lường bằng tiền. Do đó, IRR của dự án không thể phản ánh một cách trực tiếp về hình thức giá trị của tài sản.
- Phương pháp IRR không đề cập đến độ lớn của dự án đầu tư và không giả định đúng tỷ lệ tái đầu tư (coi tỷ lệ tái đầu tư bằng đúng IRR)
Sử dụng hai phương pháp NPV và IRR có thể đưa đến cùng một quyết định, nhưng cũng có thể dẫn tới việc đưa ra quyết định trái ngược nhau, điều đó tùy thuộc luồng tiền dự tính trong tương lai, tỷ lệ chiết khấu và quy mô của các dự án khác nhau. Trong trường hợp có sự xung đột giữa phương pháp NPV và phương pháp IRR là việc lựa chọn dự án theo phương pháp NPV cần được coi trọng hơn để đạt được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của dự án đầu tư.
* Phương pháp chỉ số doanh lợi (PI)
Chỉ số doanh lợi là giá trị hiện tại của những khoản thu nhập trong tương lai chia cho số vốn đầu tư ban đầu.
PI =
PV
P
Trong đó:
PV là thu nhập ròng hiện tại
P là vốn đầu tư ban đầu
Đối với các dự án độc lập người ta chọn dự án có PI >= 0
Đối với các dự án loại trừ nhau thì các dự án có PI >= 0 là PI lớn nhất
Ưu điểm
- Thể hiện giá trị theo thời gian của tiền
- Quyết định từ chối, chấp nhận dự án phụ thuộc vào mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của chủ sở hữu.
Nhược điểm
- Phụ thuộc vào tỷ lệ chiết khấu.
- Không đo lường trực tiếp tác động của dự án đầu tư đối với lợi nhuận của chủ sở hữu.
- Xếp hạng dự án không dựa trên mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của cổ đông.
- Cũng như IRR, PI không đánh giá được một cách trực tiếp sự khác biệt về quy mô đầu tư.
Tóm lại, cả ba phương pháp đều bổ xung cho nhau và về căn bản không có gì là trái ngược nhau.
* Phương pháp thời gian hoàn vốn (PP)
Thời gian hoàn vốn của một dự án là một trong các phương pháp thường được sử dụng để đánh giá giá trị kinh tế của dự án đầu tư. Thời gian hoàn vốn của một dự án đầu tư là độ dài thời gian để thu hồi toàn bộ khoản đầu tư ban đầu.
Nếu dự kiến dự án đầu tư sẽ tạo ra chuỗi số dư tiền mặt đều đặn từ năm này qua năm khác trong suốt vòng đời của dự án thì thời gian hoàn vốn được xác định bằng cách lấy tổng số tiền chi ra ban đầu chia cho số tiền thu được của một năm. Cách tính này được gọi là cách tính thời gian hoàn vốn giản đơn.
Theo phương pháp đánh giá thời gian hoàn vốn, càng rút ngắn thời gian hoàn vốn của một dự án đầu tư càng tốt. Mặt khác các nhà quản trị còn thiết lập chỉ tiêu thời gian hoàn vốn cần thiết và chỉ tiêu thời gian hoàn vốn tối đa có thể chấp nhận đối với một dự án. Những dự án có thời gian hoàn vốn dài hơn thời gian hoàn vốn tối đa cho phép sẽ bị loại bỏ và ngược lại
Phương pháp đánh giá theo thời gian hoàn vốn có nhiều nhược điểm so với phương pháp trên, bao gồm.
- Khi đánh giá lựa chọn theo phương pháp này người ta không chú ý một cách đầy đủ tới phần thu nhập còn lại sau khi thu hồi hết phần vốn từ đó dẫn tới không phản ánh được hết mức độ sinh lãi của dự án.
- Yếu tố rủi ro đối với luồng tiền trong tương lai của dự án không được xem xét, đánh giá.
- Yếu tố thời gian của tiền không được đề cập đến trong trường hợp tính thời gian hoàn vốn theo phương pháp giản đơn.
- Xếp hạng các dự án không phù hợp với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của chủ sở hữu.
Để khắc phục nhược điểm không chú ý đến thời điểm phát sinh luồng tiền của phương pháp tính thời gian hoàn vốn giản đơn, người ta thiết lập phương pháp tính thời gian hoàn vốn có tính đến yếu tố thời gian của tiền. Theo phương pháp này, các luồng tiền đưa vào để tính được quy giá trị về thời điểm hiện tại.
Ngoài việc sử dụng các phương pháp trên, trong thực tế người ta còn kết hợp với một số phương pháp khác dựa trên một số các chỉ tiêu phân tích khác.
Phương pháp phân tích điểm hòa vốn
Điểm hòa vốn là điểm mà tại đó doanh thu của dự án vừa đủ trang trải cho các chi phí, tức là dự án không lỗ mà cũng không lãi. Nói một cách khác, điểm hòa vốn chính là giao điểm của đường biểu diễn doanh thu và đường biểu diễn chi phí.
Nếu doanh thu đạt thấp hơn doanh thu tại điểm hòa vốn thì việc kinh doanh bị lỗ, và nếu đạt cao hơn thì có lời.
Xác định điểm hòa vốn.
Ta có phương trình doanh thu Y1 = aX
Và phương trình chi phí Y2 = bX + c
Trong đó:
X: Số lượng sản phẩm bán ra
a: Giá bán 1 đơn vị sản phẩm
b: Biến phí cho một đơn vị sản phẩm
c: Tổng định phí
Tại điểm hòa vốn
Y1 = Y2 đ aX = bX + c đ X =
c
a - b
Mà doanh thu được xác định bằng sản lượng nhân với giá bán nên ta có doanh thu tại điểm hòa vốn được xác định như sau:
Doanh thu tại Tổng định phí
điểm hoà vốn = -----------------------------------------------------
Biến phí đơn vị sản phẩm
1 - -------------------------------------
Giá bán 1 đơn vị sản phẩm
Điểm hòa vốn là một tiêu chuẩn có thể sử dụng cho nhiều mục đích quản lý khác nhau. Tùy theo mục tiêu cần quản lý có thể có các loại điểm hòa vốn khác nhau.
Điểm hoà vốn tiền tệ: Là điểm mà ở đó doanh nghiệp có tiền để trả nợ vay. Lúc này trong định phí cần trừ đi chi phí khấu hao và chi phí thành lập vì số tiền này có thể được sử dụng để trả nợ vay.
Những ưu và nhược điểm khi áp dụng phương pháp này.
ưu điểm:
Đưa ra những chi tiêu về mức độ hoạt động tối thiểu để doanh nghiệp có thể có được lợi nhuận. Đồng thời, biết được sản lượng hòa vốn là bao nhiêu, chủ đầu tư có thể đạt tới trong thời gian ngắn nhất.
Nhược điểm:
Điểm hòa vốn không cho biết quy mô lãi ròng cũng như hiệu quả một đồng vốn bỏ ra.
Khi thẩm định tài chính dự án, ngân hàng phải kết hợp với các chỉ tiêu trên, kết luận mang tính khái quát, tổng hợp nhưng thường dựa trên một số chỉ tiêu có tần quan trọng. Tuy nhiên, kết luận chung phải linh hoạt, tùy theo từng điều kiện cụ thể và có sự ưu tiên một khía cạnh nào đó của dự án.
Phân tích độ nhạy của dự án.
Phân tích độ nhạy là sự phân tích tình hình bất trắc rủi ro của dự án do sự thay đổi của một hay nhiều yếu tố đầu vào (giá cả, chi phí đầu tư...) ảnh hưởng đến NPV, IRR. Khi tính độ nhạy của dự án người ta thường có các yếu tố đầu vào biến đổi 1% để xem NPV, IRR thay đổi bao nhiêu %. Điều quan trọng khi đánh giá độ nhạy của dự án là phải xác định được xu thế và mức độ thay đổi của các yếu tố ảnh hưởng. Về nguyên tắc, phương pháp này bao gồm ba bước.
- Xác định các yếu tố dễ bị do do ảnh hưởng của các nhân tố bên ngoài: giá sản phẩm, sản lượng, chi phí, tỷ giá.
- Đo lường % thay đổi của hiệu quả tài chính khi có sự thay đổi của các yếu tố trên.
- Tính độ nhạy của dự án, được xác định theo công thức
% thay đổi của chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án
% thay đổi của các yếu tố đầu vào gây ra sự thay đổi đó
Chỉ số nhạy cảm thường mang dấu âm, trị tuyệt đối của chỉ số càng lớn thì độ rủi ro của dự án càng lớn, do các yếu tố đầu vào quá biến động ảnh hưởng tới kết quả tài chính của dự án.
Phân tích độ nhạy của dự án giúp cho chủ đầu tư và đơn vị cho vay vốn khoanh được hành lang an toàn cho hoạt động của dự án. Tuy nhiên, phương pháp này cũng có hạn chế khi xem xét đồng thời nhiều yếu tố biến động.
Phân tích tình huống.
Phân tích tình huống là việc đánh giá kết quả của dự án trong các trường hợp nhất định: tốt nhất (giá bán sản phẩm cao nhất), xấu nhất và so sánh với các trường hợp dự tính. Mỗi một tình huống gắn với một xác suất có thể xảy ra. Tính các chỉ tiêu hiệu quả tài chính tương ứng và độ lệch chuẩn của từng chỉ tiêu.
1.3. Chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư và các nhân tố ảnh hưởng.
1.3.1. Chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư
Khi tìm hiểu thế nào là chất lượng thẩm định, một câu hỏi đặt ra là chất lượng là gì? Chất lượng là một khái niệm trừu tượng, không dễ dàng để có thể định lượng một cách chính xác. Chất lượng của một công việc cụ thể có thể được định nghĩa là mức độ tốt, xấu, chính xác, hay mức độ đạt đến tiêu chuẩn của công việc.
Cũng như thế, chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư là một khái niệm trừu tượng, không thể định lượng, tùy từng đối tượng, đứng trên giác độ khác nhau thì chất lượng của thẩm định được đánh giá khác nhau.
Đối với NHTM, chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư có thể được đánh giá dựa trên ba khía cạnh.
Một là, mức độ khoa học, chính xác, toàn diện của các kết quả của việc tính toán, xem xét trên các phương diện phân tích như kế hoạch vốn, nguồn tài trợ, dòng tiền của dự án, các chỉ tiêu hiệu quả tài chính..
Hai là, tính chính xác của các dự đoán của chủ dự án tức là đánh giá mức độ chính xác của các nhân tố môi trường ảnh hưởng tới dự án như nhu cầu thị trường khi dự án chưa đi vào thực hiện, định hướng phát triển của ngành, các cam kết của chính phủ...
Ba là, các nhân tố khác như sự thuận tiện trong công tác thẩm định... hay là các nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng.
Thẩm định một dự án đầu tư được coi là có chất lượng khi qua quá trình xem xét, đánh giá, cũng như phân tích các dữ liệu trên hồ sơ của chủ dự án trình lên NHTM, NHTM có thể phát hiện được những điểm chưa phù hợp mà chủ đầu tư không phát hiện ra hay “cố tình không phát hiện ra”. Từ đó, có thể thuyết phục chủ đầu tư có kế hoạch thay đổi dự án của mình cho phù hợp. Cùng với việc đưa ra quyết định hợp lý, chính xác, ngân hàng sẽ chỉ tài trợ cho những dự án khả thi và có khả năng đảm bảo an toàn tài trợ của ngân hàng.
Ngược lại, khi chất lượng thẩm định dự án của ngân hàng không cao thì sẽ dẫn đến hậu quả là ngân hàng có những quyết định sai lầm. Các khoản tín dụng đó có thể biến thành những khoản nợ khó đòi, khiến cho ngân hàng không thu hồi được vốn.
Chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư là một trong những nhân tố có tính quyết định đối với chất lượng tín dụng. Vậy, để hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư đạt chất lượng cao thì cần phải chú ý đến những yếu tố gì?
1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tài chính dự án.
Bất cứ một hoạt động nào cũng đều chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố cả tích cực lẫn tiêu cực. Bởi vậy, để hoạt động tẩm định của một ngân hàng được tiến hành một cách trôi chảy, cần phải xét tới các yếu tố ảnh hưởng. Các yếu tố này bao hàm hai nhóm sau: nhóm yếu tố chủ quan và nhóm yếu tố khách quan.
1.3.2.1. Nhóm yếu tố chủ quan
Các yếu tố chủ quan có ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định dự án đầu tư là các yếu tố nội tại, có thể ảnh hưởng một cách tích cực hay tiêu cực tới chất lượng thẩm định. Các yếu tố này hoàn toàn có thể được phát huy hay triệt tiêu hay nói cách khác là nó có thể được điều chỉnh và kiểm soát được. Các yếu tố thuộc về bản thân ngân hàng có thể được kể đến như sau:
Trình độ cán bộ thẩm định
Trong bất kì lĩnh vực nào của đời sống xã hội, con người luôn là yếu tố có tính chất quyết định đối với mọi sự thành công. Ngay cả trong một lĩnh vực được trang bị máy móc hiện đại nhưng không thể thiếu vắng con người điều khiển những cỗ máy hiện đại đó. Trong thẩm định dự án nói chung và thẩm định tài chính nói riêng vai trò của yếu tố con người cũng vậy. Con người ở đây được hiểu là các cán bộ thẩm định. Kết quả thẩm định dự án đầu tư nói chung và thẩm định tài chính nói riêng là kết quả của những đánh giá, xem xét một cách kĩ lưỡng trên nhiều góc độ khác nhau, với các tình huống khác nhau và dựa trên các cơ sở khoa học.
Đối với hoạt động thẩm định, con người đóng vai trò trung tâm là nơi liên kết, phối hợp các yếu tố. Con người đã đưa ra quy trình thẩm định, xác định các phương pháp được sử dụng trong quá trình đánh giá và ra quyết định. Nhờ vào việc sử dụng những kiến thức đã được trang bị để tiến hành thực hiện các phân tích qua đó đánh giá được dự án một cách có căn cứ khoa học.
Công việc thẩm định có phải là công việc chỉ tính toán theo những quy trình sẵn có, là công việc nhàm chán và không sáng tạo? Hoàn toàn trái ngược với nhận định trên, tuy quá trình thẩm định phải theo một quy trình thống nhất đã được quy định từ trước nhưng đây là một công việc có tính khoa học cao, nó đòi hỏi cán bộ thẩm định không ngừng phải học hỏi, tích lũy kiến thức trong sách vở cũng như trong cuộc sống. Bởi vì, công tác thẩm định không chỉ đòi hỏi kiến thức về nghiệp vụ thẩm định mà hơn thế nữa nó đòi hỏi mỗi cán bộ thẩm định phải tích lũy kinh nghiệm không chỉ kiến thức sách vở mà còn cả kiến thức kinh tế - xã hội - khoa học, từ đó mới có thể đưa ra được những đánh giá mang tính khoa học và thực tiễn cao.
Như vậy, vai trò của cán bộ thẩm định đối với công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư là yếu tố có tính quyết định. Tuy nhiên, đối với những cán bộ có năng lực còn hạn chế hoặc là những cán bộ không trong sáng về đạo đức thì có thể tạo ra những sai lầm, từ đó dẫn đến những đánh giá sai lệch về tính hiệu quả của dự án dẫn tới những hậu quả khó lường mà ngân hàng phải gánh chịu.
Quy trình thẩm định
Quy trình thẩm định bao gồm nội dung, phương pháp và trình tự tiến hành thẩm định được quy định một cách thống nhất, là căn cứ để cho cán bộ thẩm định có thể tiến hành một cách khách quan, khoa học.
Nội dung thẩm định đầy đủ, chi tiết giúp cho việc đưa ra quyết định tài trợ được chính xác dựa trên những đánh giá toàn diện các mặt của dự án. Phương pháp thẩm định bao gồm các chỉ tiêu đánh giá từ đó có thể xác định tính hiệu quả của phương án.
Quy trình và phương pháp có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư. Một quy trình thẩm định phù hợp khách quan và khoa học là cơ sở đảm bảo chất lượng của công tác này. Ngược lại một quy trình thẩm định không khoa học, bất hợp lí, sơ sài chắc chắn sẽ dẫn tới kết quả thẩm định tài chính không cao và ngân hàng khó có thể dựa vào đó để đưa ra quyết định tài trợ đúng đắn và chính xác.
Yếu tố thông tin
Trước khi làm bất cứ một công việc gì yêu cầu đầu tiên là phải có thông tin; chẳng hạn đặc điểm của công việc đó là gì, yêu cầu đối với công việc, các yếu tố thuộc về đối tượng công việc... thông tin là nguyên liệu đầu vào cho bất cứ một quá trình phân tích nào. Trong thẩm định tài chính cũng vậy, thông tin luôn là một đòi hỏi mang tính sống còn đối với quá trình ra quyết định. Bên cạnh thông tin mà chủ dự án cung cấp qua hồ sơ xin tài trợ, ngân hàng cần phải tiếp cận các nguồn thông tin khác có thể đưa ra được những nhận xét mang tính chính xác và tổng thể.
Cán bộ thẩm định phân tích những thông tin đã được thu thập. Vì vậy, thông tin chính xác là yêu cầu rất quan trọng, việc phân tích thông tin không chính xác cũng giống như là không phân tích thông tin. Đánh giá dự án trong tình trạng thông tin không đầy đủ cũng có thể đưa ra những quyết định sai lầm như trong trường hợp thông tin bị sai lệch. Một đòi hỏi nữa trong việc cung cấp thông tin là thông tin phải được cung cấp một cách nhanh chóng và kịp thời, vì nếu thông tin không kịp thời có thể dẫn tới việc ra quyết định chậm trễ dẫn tới hậu quả là bỏ lỡ cơ hội kinh doanh của ngân hàng cũng như của khách hàng.
Do đó, yêu cầu thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác là một đòi hỏi cấp thiết đối với quá trình ra quyết định tài trợ.
Yếu tố trang thiết bị công nghệ
Là nhan tố phụ trợ, hỗ trợ cho công tác thẩm định trong việc tính toán, lưu trữ, xử lí thông tin...
Trang thiết bị tốt có tác dụng làm cho công việc của các cán bộ thẩm định được tiến hành nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm thời gian, giảm thiểu được những rủi ro bỏ qua được những sai sót không đáng có trong quá trình xử lí.
Tổ chức điều hành
Là việc bố trí sắp xếp quy định trách nhiệm, quyền hạn của mỗi cá nhân, bộ phận trong việc thực hiện công việc. Yếu tố này ảnh hưởng một cách gián tiếp tới chất lượng của công tác thẩm định. Việc bố trí sắp xếp hợp lí sẽ giúp cho các cá nhân có thể phát huy được mặt mạnh của mình đồng thời hạn chế được mặt yếu, dẫn tới công việc được tiến triển một cách nhịp nhàng, trôi chảy.
1.3.2.2. Các yếu tố khách quan
Là các yếu tố từ bên ngoài tác động đến mà chủ thể không có thể chủ động điều chỉnh được mà chỉ có thể tìm cách hạn chế hay kích thích và thích nghi với chúng mà thôi.
Các yếu tố môi trường
Các yếu tố môi trường bao gồm các yếu tố từ môi trường kinh tế và môi trường pháp luật.
Môi trường kinh tế có tác động tới chất lượng thẩm định theo nhiều khía cạnh. Một môi trường kinh tế phát triển ổn định với cơ chế quản lý đồng bộ, hiệu quả hay nói cách khác chính là sự phát triển của nền kinh tế sẽ có tác động tới tính công khai về thông tin trong nền kinh tế, với ý nghĩa là mức độ công khai hóa thông tin và độ tin cậy của thông tin được cung cấp. Khi môi trường thông tin là hoàn hảo thì nó có tác động rất tích cực đến chất lượng của việc xử lí thông tin vì như ở trên đã đề cập thì xử lí thông tin không chính xác thì cũng như là không làm gì cả. Ngược lại, nếu môi trường kinh tế kém phát triển, các cơ chế chính sách chưa được hoàn thiện, hoạt động đầu tư chứa nhiều yếu tố rủi ro tiềm ẩn thì chắc chắn các cán bộ thẩm định không thể đưa ra kết luận chính xác.
Môi trường pháp luật có thể được hiểu là các văn bản pháp luật quy định có liên quan tới công tác thẩm định. Môi trường pháp luật lành mạnh có ý nghĩa rất lớn. Ngược lại, một môi trường pháp lý không lành mạnh, thiếu đồng bộ, đan xen chồng chéo lẫn nhau giữa văn bản này với văn bản khác và không rõ ràng trong các quy định về định mức kinh tế kỹ thuật... sẽ làm cho công tác thẩm định gặp nhiều khó khăn.
Chủ dự án
Chủ đầu tư là một yếu tố không thể bỏ qua khi xem xét các yếu tố tác động bởi vì việc chủ đầu tư có trung thực hay không khi trình hồ sơ xin tài trợ có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng của công tác này. Các thông tin được cung cấp bởi chủ dự án là cơ sở ban đầu để cán bộ thẩm định xem xét đánh giá, nếu thông tin được cung cấp trong hồ sơ không trung thực thì có thể ảnh hưởng tới tính chính xác của việc đánh giá tính hiệu quả của dự án. Vậy nên, bất cứ nỗ lực nào của chủ dự án nhằm cố tình hay vô ý che dấu thông tin đối với cán bộ thẩm định đều có ảnh hưởng tiêu cực. Do đó, yêu cầu thông tin mà chủ dự án đưa ra phải trung thực, chính xác, đồng thời là yêu cầu không thể thiếu được đối với chất lượng của công tác thẩm định. Mặt khác, khi dự án được chấp nhận tài trợ của Ngân hàng một số vấn đề khá bức xúc hiện nay là chủ dự án không thực hiện những cam kết khi xin vay vốn như sử dụng vốn sai mục đích...
Chương 2
Thực trạng chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động tín dụng của ngân hàng ngoại thương Việt Nam
2.1. Khái quát về ngân hàng ngoại thương Việt Nam
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam tiền thân là cục Quản lý Ngoại hối thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, được thành lập ngày 10 tháng 04 năm 1963. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, tên giao dịch quốc tế vietcombank (Bank for Foreign Trade of Vietnam - VCB) được thành lập với mục đích chủ yếu là phục vụ các hoạt động kinh tế đối ngoại.
Từ năm 1988 trở về trước Ngân hàng Ngoại thương là Ngân hàng duy nhất thực hiện chức năng của một trung tâm thanh toán quốc tế, phục vụ quan hệ đối ngoại thông qua các nghiệp vụ bảo lãnh thanh toán quốc tế và thực hiện những khoản vay nợ, tiếp nhận viện trợ của các nước, các tổ chức tài chính quốc tế.
Ngày 21/9/1996, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước kí quyết định số 286QĐ-NH5 thành lập tại Ngân hàng Ngoại thương theo mô hình Tổng Công ty 90 (theo QĐ90 của Thủ tướng Chính phủ ngày 7/3/1994).
Ngân hàng Ngoại thương đã phát triển một mạng lưới chi nhánh trong nước rộng lớn và có một số chi nhánh ở nước ngoài. Bên cạnh đó, VCB đã mở rộng thị trường của mình thông qua liên doanh với một số Ngân hàng, tập đoàn Tài chính lớn trên thế giới, hoặc có các cổ phần tại các ngân hàng thương mại cổ phần.
VCB có quan hệ mạng lưới đại lý lâu đời, rộng lớn và đa dạng. Đến năm 2000, ngân hàng đã có quan hệ đại lý hơn 1000 Ngân hàng tại 85 quốc gia trên thế giới, trong đó VCB có hàng trăm tài khoản mở tại các ngân hàng nước ngoài bằng nhiều loại ngoại tệ chuyển đổi khác nhau như USD, Yên Nhật, Bảng Anh... có quan hệ trao đổi tiền mặt với 3 Ngân hàng, 4 tổ chức thẻ tín dụng hàng đầu thế giới.
Với hệ thống máy rút tiền tự động (ATM - Automated Teller Machine), hệ thống thanh toán qua mạng máy tính toàn cầu SWIFT và với chủ trương không ngừng đổi mới và phát triển, VCB được biết đến như một Ngân hàng lớn, hiện đại và có uy tín trên thị trường tài trợ cho hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu, kinh doanh ngoại hối trong số các Ngân hàng Thương mại quốc doanh ở Việt Nam.
2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam
Các hoạt động cụ thể của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được tóm tắt như sau:
Nguồn vốn
Tổng nguồn vốn của Ngân hàng Ngoại thương đến cuối năm 2001 đạt 77.594 tỷ đồng (quy ra VND), tăng 16,5% so với cuối năm 2000 - thấp xa so với mức tăng 45,3% của năm 2000 và chỉ đạt 97,9% kế hoạch đề ra.
Bảng 2.1. Tỷ trọng vốn nội tệ và vốn ngoại tệ trong tổng nguồn vốn năm 2001
Đơn vị: Tỷ VND, triệu USD
VND
Ngoại tệ (USD)
Quy VND
12/2000
17.389
3.395
66.618
Tỷ trọng
26,1%
73,9%
100%
12/2001
20.716
3.771
77.594
Tỷ trọng
26,7%
73,3%
100%
Cơ cấu nguồn vốn
Vốn điều lệ và các quỹ đến cuối năm 2001 đạt 1.906 tỷ quy đồng, tăng 3,6% so với cuối năm 2000, chiếm 2,5% tổng tài sản.
Đến cuối 12/2001 nguồn vốn huy động của VCB đạt 71.110 tỷ quy VND, hiếm 1,6% trong tổng nguồn vốn, tăng 18,1% so với cuối năm 2000.
Nguồn vốn huy động trực tiếp từ nền kinh tế (thị trường 1) đến cuối năm 2001 đạt 58.576 tỷ quy VND, chiếm tỷ trọng 82,4% vốn huy động từ hai thị trường. Nguồn vốn này trong năm tăng 20,3% - thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng chung của toàn ngành ngân hàng (24%). Vốn huy động từ các tổ chức kinh tế đạt 33.499 tỷ quy VND, chiếm 57,2% vốn huy động từ thị trường 1 và tăng 21,1%. Vốn huy động từ dân cư đến cuối năm 2001 đạt 25.078 tỷ quy VND, tăng 19,1%.
Nguồn vốn huy động từ NHNN, NSNN và các tổ chức tín dụng (thị trường 2) là 12.533 tỷ quy VND, tăng 8,9% so với năm 2000, nguồn vốn này chiếm 17,6% vốn huy động từ hai thị trường.
Một nét nổi bật là tỷ trọng tiền gửi có kì hạn tổng tiền gửi (của khách hàng và của NHNN, TCTD, KBNN) đã tăng lên (1998: 46,35%; 1999: 44,17%; 2000: 52,85%). Điều này có tác dụng tốt đến việc chủ động trong dự trữ tiền tệ, tránh được những rủi ro về thanh khoản của ngân hàng.
Sử dụng nguồn vốn
Về cơ cấu sử dụng vốn: Đến hết tháng 12/2001, tổng sử dụng vốn đạt 77.594 tỷ quy ra VND, tăng 16,5% so với năm 2000, cụ thể.
- Sử dụng vốn trên thị trường 1 (các hoạt động cấp tín dụng, đầu tư...) đạt 16.475 tỷ, tăng 5,4% và chiếm tỷ trọng thấp trong tổng sử dụng vốn (21,2%). Dư nợ tiền đồng đạt 10.589 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 64.2% sử dụng vốn trên thị trường 1, tăng 15,3%, trong khi đó dư nợ ngoại tệ giảm 12,3%.
- Sử dụng vốn trên thị trường 2 chiếm tỷ trọng 70,4% trong tổng sử dụng vốn - tăng so với mức 65,2% vào cuối năm ngoái, đạt 54.592 tỷ.
- Sử dụng vốn khác đạt 2.347 tỷ, giảm 3,2% so với năm ngoài (2000).
Tại thời điểm tháng 12/2001 tổng dư nợ tín dụng của Ngân hàng đạt 16.475 tỷ VND, so với năm 2000 tổng dư nợ đạt 15.634 tỷ, tăng 841 tỷ VND. Tỷ lệ tín dụng trung và dài hạn trên tổng dư nợ tín dụng liên tục giảm trong ba năm 1998, 1999, 2000. 1998: 26,3%; 1999: 21,73%; 2000: 17,61%) và đã có dấu hiệu tăng trở lại vào năm 2001 (tỷ lệ dư nợ trung và dài hạn đạt 19%).
Có thể nhận thấy những thay đổi mà Ngân hàng đạt được thông qua kết quả mà Ngân hàng thu được.
- Thu nhập ròng từ lãi: năm 2000 đạt 712,867 tỷ VND, tăng 129,694 tỷ VND hay 22,24% so với năm 1999. Tốc độ tăng của thu nhập ròng từ lãi cao hơn một chút so với tốc độ tăng của thu lãi (18,41%) và trả lãi (16,61%. Tỷ trọng của thu lãi trên tổng thu nhập giảm nhẹ từ 90,33% năm 1999 xuống còn 89,09% năm 2000, còn tỷ trọng trả lãi trên tổng chi phí giảm tương ứng từ 67,8% xuống còn 65,48%.
- Thu nhập phi lãi suất trong năm 2000 là 264,986 tỷ VND, tăng 69,363 tỷ hay 35,46% so với năm 1999. Tỷ trọng của thu nhập phi lãi suất trên tổng thu nhập tăng 1,24% so với năm 1999, đạt 10,91%. Đây là một dấu hiệu đáng khích lệ cho cơ cấu thu nhập của Ngân hàng Ngoại thương.
Hoạt động đối ngoại
- Ngân hàng tiếp tục mở rộng giao dịch với cộng đồng tài chính quốc tế bằng việc thiết lập thêm quan hệ đại lý với trên 30 ngân hàng thương mại các nước: Nga, Ba Lan, Singapore, Trung Quốc... kí kết văn bản ghi nhớ về quan hệ hợp tác giữa VCB với các đối tác nước ngoài, kí các thỏa ước thực hiện các khoản vay Chính phủ.
Hoạt động bảo lãnh
- Hạ bảo lãnh nước ngoài
Bảng 2.2. Tình hình hoạt động bảo lãnh tại VCB năm 2001
Đơn vị: Triệu USD
Chỉ tiêu
Số dư bảo lãnh
Quá hạn
31/12/2000
12/2001 (ước)
12/2000
12/2001 (ước)
Tổng số
- Trả chậm
- Thư bảo lãnh
45,3
24,4
20,9
37,5
18,5
19,0
19,5
15,1
2,4
15,5
13,5
2,0
Nguồn: Báo cáo hoạt động KD năm 2001, VCB
Trong năm 2001, NHNT tiếp tục thực hiện phương châm: một mặt thận trọng việc nhận mở L/C hay phát hành thư bảo lãnh, mặt khác tích cực giải quyết nợ bảo lãnh quá hạn.
- Hoạt động bảo lãnh trong nước: số dư bảo lãnh trong nước ước đến 31/12/2000 đạt khoảng 500 tỷ VND, hình thức bảo lãnh chủ yếu là bảo lãnh thanh toán và bảo lãnh thực hiện hợp đồng ngắn hạn. Các khoản bảo lãnh mới không phát sinh nợ quá hạn, phần lớn khách hàng được ngân hàng bảo lãnh là khách hàng truyền thống, có uy tín, có dư nợ tín dụng cao và ổn định, và hầu hết là các DNNN.
Các doanh nghiệp thanh toán quốc tế
- Tiếp tục phát huy thế mạnh của một ngân hàng có truyền thống trong hoạt động thanh toán quốc tế, đặc biệt là thanh toán xuất nhập khẩu, doanh số thanh toán xuất nhập khẩu qua NHNT năm 2001 ước đạt 9.328 triệu USD, tăng 157 triệu USD (tăng 1,7%), so với năm 2000, và chiếm 30,2% thị phần thanh toán xuất nhập khẩu cả nước.
- Thanh toán qua mạng Swift: Trung tâm thanh toán của NHNT bảo quản và sử dụng hơn 1400 khóa SWIFT với các ngân hàng đại lý trên thế giới. Nhìn chung, khối lượng giao dịch năm 2001 tăng so với năm 2000 và có chất lượng thanh toán tốt. Những yếu tố quan trọng để khách hàng tín nhiệm và thực hiện các giao dịch và chuyển tiền qua VCB là độ an toàn cao, tính chính xác và mức phí hấp dẫn.
Phát hành và thanh toán thẻ tín dụng
Nhìn chung hoạt động thẻ năm 2001 có những thành quả đáng khích lệ. Số lượng thẻ phát hành năm 2001 là 3057 thẻ, tăng 130% so với năm 2000 và qua đó đã đưa tổng số thẻ đã phát hành của NHNT lên tới 9000 thẻ. Doanh số thanh toán thẻ đạt 86,5 triệu USD, tăng 21% thông qua đó có thể thấy được chất lượng dịch vụ thanh toán thẻ mà NHNT đem lại cho khách hàng đã được cải thiện.
Kinh doanh ngoại tệ
- Kinh doanh ngoại tệ trong nước
Bảng 2.3. Tình hình hoạt động KD ngoại tệ của VCB năm 2001
Đơn vị: Triệu USD
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Chênh lệch (%)
Tổng doanh số mua bán
Doanh số mua
NHNN
TCTD
Doanh số bán
NHNN&TCTD
Doanh nghiệp và cá nhân
7405
3684
1115
2569
3721
174
3547
7775
3885
1364
2521
3890
-60
3830
5%
5,5%
22,3%
-1,9%
4,7%
-65,5%
8,1%
Nguồn: báo cáo hoạt động KD năm 2001, VCB
- Kinh doanh ngoại tệ nước ngoài: Doanh số mua bán ngoại tệ của NHNT năm 2001 đạt 3.791 triệu USD, giảm 58,6% so với năm 2000. Do những biến động phức tạp trên thị trường ngoại tệ quốc tế trong năm nên NHNT chuyển hướng kinh doanh nhằm hạn chế rủi ro theo hướng giảm đầu tư kiếm lời để tập trung vào hoạt động kinh doanh phục vụ khách hàng.
Bảng 2.4. Doanh số mua bán ngoại tệ nước ngoài của VCB năm 2001.
Đơn vị: Triệu USD
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
+/- %
Doanh số mua
Doanh số bán
4573
4575
1895
1896
-58,6%.
-58,6%
Tổng
9148
3791
-58,6%
Nguồn: báo cáo hoạt động KD năm 2001, VCB
2.2.1 Thực trạng thẩm định tài chính dự án đầu tư
2.2.1.1. Những căn cứ để tiến hành công tác thẩm định
Khi tiến hành bất cứ một hoạt động nào thì điều quan trọng là phải xác định được cơ sở để tiến hành hoạt động đó là gì? Đối với hoạt động thẩm định của ngân hàng cũng vậy, khi thẩm định cán bộ thẩm định thường phân tích dựa trên những căn cứ từ hồ sơ xin vay mà chủ dự án gửi lên ngân hàng, hồ sơ xin vay bao gồm:
- Luận chứng kinh tế kỹ thuật.
- Các báo cáo tài chính.
- Các tài liệu khác có liên quan.
Dựa vào thông tin từ nguồn trên cộng với những thông tin mà ngân hàng khai thác được, cán bộ thẩm định tiến hành kiểm tra toàn bộ các thông tin mà chủ đầu tư cung cấp (bao gồm các thông tin về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính, thông tin về dự án, các yếu tố đảm bảo tiền vay) có hợp lý và đáng tin dậy hay không?
2.2.1.2. Tổ chức thẩm định dự án đầu tư tại VCB
Dự án được chủ đầu tư gửi đến Ngân hàng thông qua phòng Đầu tư Dự án. Theo văn bản hướng dẫn của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam về quy chế cho vay đối với khách hàng, việc tiếp nhận hồ sơ xin vay, quyết định cho vay, và thanh lý hợp đồng tín dụng được chia làm hai khâu.
- Kiểm tra, thẩm định, theo dõi và hồi vốn.
- Xét duyệt và ra quyết định cho vay.
Ngân hàng Ngoại thương quy định quy trình xét duyệt tín dụng theo nguyên tắc bảo đảm tính độc lập và phân định rõ ràng trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm các bên liên đới giữa khâu thẩm định và khâu quyết định cho vay. cụ thể, bộ phận trực tiếp cho vay sẽ kiểm tra toàn bộ những tài liệu mà khách hàng gửi đến, thẩm định tính khả thi, hiệu quả của dự án (chủ yếu xét về hiệu quả kinh tế), khả năng trả nợ của khách hàng, mức độ đảm bảo tiền vay và các yếu tố khác có liên quan. Từ đó đề xuất ý kiến của mình về quyết định tài trợ, sau khi được phê duyệt, ra quyết định bởi cấp có thẩm quyền, nếu đủ điều kiện tài trợ thì tiến hành giải ngân, theo dõi quá trình hoạt động ._.ỉ quan tâm nhiều đến khả năng đảm bảo tiền vay mà ít chú trọng đến tính hiệu quả của dự án. Điều này làm giảm chất lượng thẩm định tài chính dự án nói chung.
Đối với các dự án đòi hỏi phải có các chuyên gia tư vấn, tuy đã được lãnh đạo Ngân hàng Ngoại thương quan tâm nhưng mức huy động kinh phí cho chuyên gia còn hạn chế. Do ở trong điều kiện như vậy, nên các cán bộ thẩm định thường phải dựa vào các dự tính của chủ đầu tư trong dự án để tính toán là điều dễ hiểu.
Trên đây là những nguyên nhân chủ quan có ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng thẩm định tài chính dự án. Việc xác định được các nguyên nhân chủ quan là điều kiện cần nhưng chưa đủ, phải xác định được các nguyên nhân khách quan của những hạn chế đó.
2.3.2.3. Nguyên nhân khách quan
Nguyên nhân khách quan là những nguyên nhân xuất phát từ điều kiện bên ngoài, những yếu tố khách quan từ môi trường do đó tự bản thân Ngân hàng không thể điều chỉnh được, Ngân hàng tìm cách chỉ thích nghi và hạn chế được một phần nào mà thôi. Nhóm nguyên nhân này bao gồm:
* Vai trò của trung tâm thông tin tín dụng của NHNN còn yếu
Trong hệ thống ngân hàng, cơ quan quản lý nhà nước là Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm hỗ trợ và định hướng hoạt động của các ngân hàng thương mại. Họ hỗ trợ các ngân hàng trong công tác cung cấp thông tin tham khảo cho hoạt động tín dụng, xây dựng các chỉ tiêu so sánh,... Trung tâm thông tin tín dụng trực thuộc Vụ Tín dụng Ngân hàng Nhà nước tuy đã ra đời vài năm nay nhưng cũng chưa thực hiện được đầy đủ vai trò của mình trong việc hỗ trợ các ngân hàng. Điều này cũng phần nào làm giảm chất lượng thẩm định tài chính dự án của các ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Ngoại thương nói riêng.
* Kiến thức về lập dự án và tinh thần hợp tác của khách hàng còn chưa cao
Điểm hạn chế của khách hàng xin tài trợ là kiến thức về quản lý kinh doanh, về pháp luật còn thấp, trình độ lập dự án còn yếu dẫn tới lập dự án thiếu chính xác, thiếu căn cứ khoa học, đã gây ra không ít khó khăn cho công tác thẩm định, gây tâm lý khó chịu cho các cán bộ thẩm định dẫn tới hiện tượng không tập trung vào những dự án thuộc dạng đó. Do vậy, ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định là điều dễ hiểu.
Khi trình hồ sơ xin vay vốn điểm thường thấy là chủ dự án không cung cấp đầy đủ thông tin ngay từ đầu, thậm chí việc giấu diếm thông tin được coi là một trong vô vàn mẹo của họ, do đó làm cho thời gian thẩm định kéo dài, cộng với thông tin đó không chính xác có thể gây những kết luận tài trợ thiếu đúng đắn.
Ngoài ra, đối với những dự án là khả thi như do năng lực điều hành sản xuất kinh doanh của chủ đầu tư kém, việc sử dụng vốn vay sai mục đích dẫn đến hậu quả là có những dự án được đánh giá là có hiệu quả nhưng khi thực hiện lại không thành công.
* Hệ thống văn bản pháp luật thiếu và còn nhiều bất cập, Ngân hàng còn bị phụ thuộc vào các chương trình tín dụng chỉ định.
Hoạt động thẩm định nói riêng và hoạt động tín dụng nói chung liên quan rất chặt chẽ với các quy định của pháp luật trên nhiều khía cạnh khác nhau, mà hiện nay các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động tín dụng đang trong quá trình xây dựng nên còn nhiều bất cập, chồng chéo nhau gây rất nhiều khó khăn trong công tác thẩm định của Ngân hàng, mà chưa đề cập đến các văn bản quy phạm pháp luật trong những lĩnh vực khác.
Các yếu tố không tích cực của nền kinh tế đã có những tác động tới hoạt động của ngân hàng. Trong điều kiện nền kinh tế như hiện nay, cơ chế, chính sách về quản lý đầu tư, về tính công khai trong hoạt động của các doanh nghiệp, về các quy định trong hoạt động tín dụng... tuy đã có những bước tiến nhưng vẫn còn thiếu, nếu có thì chồng chéo, hay thay đổi gây ra những trở ngại cho hoạt động thẩm định.
Ngân hàng Ngoại thương là một trong số sáu ngân hàng quốc doanh, một điều không thể tránh khỏi đối với các nước đang phát triển có hệ thống tài chính chưa phát triển là các NHTM quốc doanh dễ bị chi phối bởi các chương trình tín dụng chỉ định của Chính phủ, thực tế ở nhiều quốc gia đang phát triển chỉ ra rằng rất nhiều chương trình tín dụng chỉ định, các chương trình hoạt động không có hiệu quả, mà các NHTM quốc doanh phải tài trợ cho các dự án thuộc loại này. Điều này dẫn tới hoạt động thẩm định trong những trường hợp như thế chỉ mang tính hình thức, bởi vì quyết định tài trợ các dự án đó không phải chỉ dựa trên tính hiệu quả của dự án mà còn bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác không thuộc về ngân hàng.
Thông qua quá trình phát triển của mình, Ngân hàng Ngoại thương đã đạt được những thành tựu đáng khâm phục. Trong đó, công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư đã đóng góp một phần không nhỏ. Nhưng, để đưa Ngân hàng Ngoại thương trở thành một trong những ngân hàng có tầm cỡ trong khu vực và trên trường quốc tế cần phải khắc phục được những hạn chế trong hoạt động của Ngân hàng nói chung và hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư nói riêng.
Chương 3
Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động tín dụng của ngân hàng ngoại thương Việt Nam
3.1. Định hướng trong hoạt động tín dụng của VCB trong thời gian tới.
3.1.1. Định hướng chung của VCB
Định hướng chung của VCB trong thời gian tới được trình bày rõ nét trong đề tài cơ cấu ngân hàng Ngoại thương, đã được Chính phủ thông qua và bắt đầu thực hiện từ năm 2001.
Trong thời gian tới Ngân hàng Ngoại thương phấn đấu đạt được những mục tiêu sau:
- Giải quyết dứt điểm nợ khê đọng khó đòi là kết quả của thời kì bao cấp, khoản này là rất lớn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình tài chính của Ngân hàng.
- Phấn đấu nâng tỷ trọng đầu tư cho nền kinh tế, nâng cao thị phần tín dụng của Ngân hàng Ngoại thương trong toàn ngành.
- Lập ủy ban quản lý tài sản, và nguồn vốn để có thể chủ động hơn trong phòng chống rủi ro thanh toán đối với ngân hàng.
- Chuyển dịch cơ cấu nguồn vốn theo hướng tăng tỷ trọng nguồn vốn có kỳ hạn, đặc biệt là nguồn vốn dài hạn, tăng tỷ trọng nguồn vốn VND. Đổi mới công tác điều hành vốn theo hướng tạo điều kiện cho các chi nhánh chủ động hơn trong công tác quản lý vốn, đồng thời nâng cao vai trò của hội sở chính trong việc điều hòa vốn của toàn hệ thống theo tinh thần vừa khuyến khích các chi nhánh tích cực huy động vốn, tạo điều kiện cho các chi nhánh tăng khả năng trong công tác tín dụng.
- Xây dựng mô hình tổ chức theo hướng hướng về khách hàng, phục vụ đáp ứng tốt nhất cho sự tiện lợi của khách hàng. Hiện nay mô hình tổ chức của Ngân hàng theo mô hình truyền thống, tức có sự phân tách giữa các phòng ban theo chức năng, nghiệp vụ. Do đó, đối với khách hàng giao dịch với ngân hàng, họ phải đi qua rất nhiều phòng ban khác nhau mới có thể giải quyết được công việc. Nhưng, với mô hình tổ chức kiểu mới, khách hàng có thể giải quyết công việc thông qua một phòng duy nhất. Do vậy, yếu điểm không quan tâm và không nắm bắt được nhu cầu của khách hàng được khắc phục, mặt khác lại có thể có được sự phối kết hợp giữa các phòng ban khác nhau một cách nhịp nhàng.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ trẻ, có năng lực để đáp ứng điều kiện hoạt động cạnh tranh gay gắt trong thời gian sắp tới. Xây dựng đội ngũ làm công tác khách hàng mang tính hệ thống.
- Kết hợp hài hòa, đồng bộ giữa công cụ lãi suất, tỷ giá, hạn mức tín dụng, phí thanh toán để đưa ra những sản phẩm mới phù hợp với từng đối tượng khách hàng.
- Tích cực triển khai các đề án nhằm hiện đại hóa công nghệ ngân hàng để bắt kịp với trình độ cộng nghệ ngân hàng của khu vực và trên thế giới.
- Hoàn thiện công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ, dần dần tiến tới tách bạch hóa hoạt động của bộ phận kiểm tra, kiểm toán ra khỏi hoạt động tác nghiệp ngân hàng.
3.1.2. Định hướng hoạt động tín dụng của VCB trong thời gian tới
- Ngân hàng phấn đấu đạt được mức tăng trưởng dư nợ tín dụng hàng năm từ 18 - 20% trở lên, trong đó tín dụng xuất nhập khẩu chiếm 50-60% tổng dư nợ. Thị phần thanh toán xuất nhập khẩu chiếm 29%, tỷ lệ Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ đến hạn giảm xuống dưới 2%.
- Tăng cường tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn từ 30 - 40% tổng dự nợ.
- Mở rộng hệ thống mạng lưới các chi nhánh cấp 1, cấp 2 vào phòng giao dịch phù hợp với nhu cầu phát triển hoạt động ngân hàng ở địa phương, tăng cường khả năng tiếp cận, thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và doanh nghiệp, tăng cường tiếp xúc với các đối tượng có nhu cầu về vốn, nâng cao tư duy kinh tế thị trường, củng cố uy tín trong nước và trên trường quốc tế, tranh thủ tiếp cận các nguồn vốn ủy thác.
- Trên cơ sở phát huy thế mạnh của NHNT, phát huy kết quả bước đầu đề án tái cơ cấu, đẩy mạnh công tác tín dụng nhằm đạt được mức tăng trưởng mang tính đột phá. Nghiên cứu, cải tiến phương thức chỉ đạo và quản lý tín dụng trong mối quan hệ giữa hội sở chính theo hướng tạo thêm tính chủ động cho chi nhánh đồng thời Hội sở chính phải đi sâu thực tế hơn trên cơ sở xây dựng cơ chế xác định hạn mức rủi ro cho từng chi nhánh và khách hàng. Tăng cường đội ngũ làm công tác tín dụng trong hệ thống.
- Trong thời gian qua, đối tượng khách hàng chủ yếu của ngân hàng Ngoại thương là các doanh nghiệp nhà nước lớn như các Tổng Công ty 90, 91, các đối tượng khách hàng khác dường như chưa được chú trọng một cách thích đáng. Để tận dụng lợi thế của mình về nguồn vốn, trong thời gian tới ngân hàng thực hiện các chính sách mềm dẻo để thu hút những khách hàng tiềm năng như các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp thuộc loại vừa và nhỏ bên cạnh việc củng cố đội ngũ khách hàng truyền thống.
- Trong khi mở rộng tín dụng cần phải đi đôi với chất lượng tín dụng, đầu tư vào các dự án có hiệu quả, đảm bảo an toàn vốn, không chỉ chú ý đến hiệu quả kinh tế mà cũng cần phải xem xét đến hiệu quả về mặt xã hội của dự án.
- Trong khi mở rộng tín dụng cần phải đi đôi với chất lượng tín dụng, đầu tư vào các dự án có hiệu quả, đảm bảo an toàn vốn, không chỉ chú ý đến hiệu quả kinh tế mà cũng cần phải xem xét đến hiệu quả về mặt xã hội của dự án.
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam
Nâng cao chất lượng của hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư là một yêu cầu luôn được đặt ra đối với thẩm định dự án của các ngân hàng để họ có thể chủ động trong việc ngăn chặn những dự án tồi và tài trợ cho những dự án có hiệu quả. Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh nước ta đang đẩy nhanh tốc độ đầu tư, nhằm đạt được mục tiêu duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế bền vững tạo đà cho bước phát triển vững chắc trong những năm sau và thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án còn giúp cho các ngân hàng có thể chủ động trọng việc tham gia tư vấn thẩm định và từ chối ngay từ đầu những ý tưởng đầu tư không khả thi, tiết kiệm chi phí cho nền kinh tế (của chủ đầu tư, của ngân hàng, của nhà nước). Chính vì lẽ đó, việc nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án luôn là mối quan tâm của các nhà lãnh đạo và của ngành ngân hàng.
3.2.1. Khắc phục nhược điểm trong nội dung thẩm định
3.2.1.1.Nâng cao tính chính xác của việc tính toán các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính.
Ngân hàng cần nghiên cứu và ban hành hệ thống các tiêu chuẩn cho phép đối với từng ngành nghề. Đây là hệ thống các chỉ tiêu dùng để so sánh với các chỉ tiêu hiệu quả và an toàn tài chính của dự án, từ đó có thể kết luận dự án có được chấp nhận tài trợ hay không. Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề gây không ít khó khăn cho ngân hàng, bởi lẽ, hiện nay chưa có cơ quan nào nghiên cứu và ban hành hệ thống các tiêu chuẩn cho phép. Do vậy, ngân hàng cần nghiên cứu và ban hành hệ thống các tiêu chuẩn cho phép đối với từng ngành nghề áp dụng riêng cho ngân hàng của mình. Ví dụ chỉ tiêu thời gian hoàn vốn đối với các dự án công nghiệp nhẹ có thể lấy PP < 7 năm, các dự án công nghiệp nặng PP < 10 năm...
Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án là nội dung chính mang tính chất xương sống của toàn bộ quá trình thẩm định tài chính dự án. Trong khi áp dụng các chỉ tiêu này, ngân hàng cần phải có sự quan tâm đúng mức tới vấn đề giá trị thời gian của tiền, nếu không thì không thể so sánh các giá trị tại các thời điểm khác nhau một cách chính xác.
Vì vậy, trong khi áp dụng hệ thống chỉ tiêu cần phải coi các chỉ tiêu NPV, IRR, PI, PP là các chỉ tiêu mang tính chất bắt buộc khi tính toán. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần phải rút ra được ý nghĩa, vai trò của các chỉ tiêu đó là như thế nào chứ không phải chỉ thanh toán đơn thuần để có được kết luận chính xác đối với từng loại dự án khác nhau.
Trong khi tính toán các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án, ngân hàng cần quan tâm tới các vấn đề sau.
Xác định khoản thu hồi ở thời điểm cuối dự án
Đối với các khoản thu hồi như thu hồi thanh lí TSCĐ khi dự án kết thúc, khoản thu nhập này là khoản thu nhập làm tăng giá trị luồng tiền tại thời điểm cuối của dự án, khi xác định luồng tiền thì khoản thu hồi này được coi là khoản thu nhập bình thường và phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp.
Xác định chính xác tỷ lệ chiết khấu
Xác định chính xác được tỷ lệ chiết khấu là một việc làm không đơn giản. Về lý thuyết tỷ lệ chiết khấu là chi phí bình quân gia quyền của vốn - WACC, nhưng trong hoàn cảnh hiện nay việc xác định được chi phí vốn bình quân không phải là việc làm dễ dàng. Vấn đề đòi hỏi hiện nay là cần phải xác định được mức độ rủi ro đối với từng ngành nghề, lĩnh vực khác nhau từ đó có thể lấy dự đoán đó làm cơ sở cho việc dự tính lãi suất chiết khấu.
Đối với dự án này lãi suất chiết khấu được ngân hàng sử dụng được lấy là lãi suất cho vay.
3.2.1.2. Cần linh hoạt hơn trong các dự tính mức thay đổi của giá bán sản phẩm
Khi áp dụng các phương pháp hiện đại dự án không chỉ được xem xét ở trạng thái tĩnh mà nó còn được xem xét ở trạng thái động nhằm đưa ra những phân tích mang tính chất thực tế hơn. Thông qua đó ngân hàng có những đánh giá xác đáng về mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận. Mức độ này hợp lý thì ngân hàng sẽ chấp nhận tài trợ, hơn thế nữa việc nhận diện mức độ của các rủi ro có thể giúp cho ngân hàng có được các biện pháp phòng ngừa hiệu quả để hạn chế được các rủi ro đó. Ngân hàng có thể dùng hai cách để dự tính mức độ biến tiên của các yếu tố của dự án.
Đối với phân tích tình huống: Như phần lý thuyết đã trình bày, việc phân tích tình huống là việc xác định các tình huống xấu nhất, tốt nhất có thể xảy ra đối với dự án, đồng thời xác suất xảy ra các trường hợp đó, sau đó tính toán các chỉ tiêu tài chính theo từng phương án, và xác định độ lệch cũng như giá trị trung bình của chúng, từ đó được xác suất các chỉ tiêu tài chính lớn bằng nhỏ hơn giá trị cần thiết được lựa chọn. Tuy nhiên phân tích tình huống hiện nay ở Việt Nam là không khả thi do điều kiện phát triển ở nước ta hiện nay. Việc phân tích đó đòi hỏi phải có được thông tin cần thiết, mức độ chính xác của thông tin có được phải cao, xác định được xác suất có thể xẩy ra và phải có các phương tiện kĩ thuật hiện đại.
Phương pháp phân tích độ nhạy của Ngân hàng hiện nay đang áp dụng không được linh hoạt với lý do là các mức biến thiên về giá của sản phẩm của dự án chỉ được ngân hàng dự tính theo chủ quan dự án nào cũng được áp dụng mức giá thay đổi là 5% đây là một sự áp đặt có tính cứng nhắc, không khoa học. Chính vì vậy, trong thời gian tới ngân hàng nên áp dụng mức thay đổi linh hoạt hơn để phù hợp với thực tế.
3.2.2. Nâng cao hơn nữa trình độ cán bộ và đạo đức nghề nghiệp
Nhân tố con người đóng vai trò quyết định mang tính chi phối đối với bất kì hoạt động nào, đối với hoạt động thẩm định cũng vậy. Trong hoạt động thẩm định, cán bộ thẩm định trực tiếp tổ chức công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án. Kết quả của hoạt động này là dựa trên sự đánh giá, xem xét chủ quan của cán bộ thẩm định dựa trên các cơ sở khoa học và các chuẩn mực khác. Do vậy, muốn cải thiện chất lượng của thẩm định tài chính dự án đầu tư cần phải đầu tư nâng cao trình độ của cán bộ một cách thích đáng.
Đối với VCB, để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án, Ngân hàng cần phải xây dựng một chiến lược dài hạn về nguồn nhân lực, trong đó nêu rõ những yêu cầu, những mục tiêu hướng tới trong chiến lược phát triển của mình. Một cán bộ thẩm định giỏi trước hết phải là con người được đào tạo, có kiến thức không chỉ trong lĩnh vực tài chính, mà còn phải nắm bắt được những kiến thức tổng hợp khác như kinh tế vi mô, vĩ mô, có nền tảng kiến thức rộng, và một nhân tố cực kì quan trọng không bỏ qua là đạo đức nghề nghiệp.
Đạo đức nghề nghiệp cũng là một nhân tố quan trọng, nó được thể hiện ở sự tận tình tinh thần trách nhiệm cao trong công tác của cán bộ thẩm định, ngoài ra, nó cũng được thể hiện ở tính trung thực, lòng quyết tâm phấn đấu rèn luyện vì sự tiến bộ của bản thân và sự phát triển của tổ chức mà họ đang phục vụ.
Để đạt được hai yêu cầu trên đối với nhân tố con người, Ngân hàng Ngoại thương phải chú ý đến các giải pháp sau.
3.2.2.1. Coi trọng chất lượng công tác tuyển dụng cán bộ
Việc tuyển dụng đóng vai trò quyết định tới chất lượng của nhân tố con người. Để thỏa mãn được những yêu cầu về chất lượng đòi hỏi quá trình tuyển dụng phải được tiến hành một cách khách quan, lựa chọn được những người đủ đức đủ tài, tránh những tình trạng tiêu cực trong tuyển dụng. Có thể nói trong khi tuyển dụng, vấn đề năng lực chuyên môn của các ứng cử viên có thể nhận ra được một cách dễ dàng nhưng vấn đề đạo đức của họ thì khó có thể xác định chính xác được. Vì vậy, ngân hàng phải có quy trình tuyển dụng hợp lý sao cho có thể có được những đánh giá dù là sơ qua về vấn đề đạo đức. Việc tuyển chọn đòi hỏi phải đảm bảo đủ số lượng và chất lượng đồng thời phải thu hút được không chỉ các sinh viên giỏi vừa ra trường mà còn phải thu hút được các đối tượng có năng lực khác. Khi tuyển dụng ngân hàng cần tham khảo các chuyên gia từ các trường đại học, các viện nghiên cứu để có được quy trình tuyển dụng hiện đại, nội dung phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của công tác. Mặt khác, ngân hàng cần phải xây dựng được một đội ngũ cộng tác viên có năng lực để hỗ trợ ngân hàng trong khi thẩm định về phương diện kĩ thuật, công nghệ.
3.2.2.2. Bố trí cán bộ một cách hợp lý
Cần phải bố trí cán bộ một cách phù hợp với trình độ chuyên môn, khả năng công tác, kiên quyết loại bỏ, chuyển công tác đối với những cán bộ thiếu năng lực, thiếu phẩm chất đạo đức nghề nghiệp.
3.2.2.3. Xây dựng chính sách bồi dưỡng, đào tạo cán bộ phù hợp
Cán bộ thẩm định cần phải được thường xuyên được đào tạo và đào tạo lại nhằm có được những kiến thức mới nhất và cập nhật trong công tác. Không chỉ chú trọng đào tạo lĩnh vực chuyên môn, kiến thức về các lĩnh vực khác cũng cần phải được trang bị cho cán bộ thẩm định vậy nên kiến thức về các lĩnh vực khác như về luật pháp, kiểm bán,... cũng cần phải cập nhật. Cán bộ thẩm định phải được thường xuyên cập nhật những quy định của nhà nước có liên quan đến lĩnh vực đầu tư. Đây là những quy định có tính nghiêm ngặt và chặt chẽ để bảo vệ cho lợi ích của nhà nước, của chủ đầu tư và của cả cộng đồng.
Để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đòi hỏi người thẩm định phải được trang bị những kiến thức cơ bản về dự án, kĩ năng thẩm định (bao gồm nội dung chu trình, các bước nghiên cứu và phương pháp phân tích dự án) và nắm vững được các quy định của nhà nước có liên quan đến lĩnh vực đầu tư. Ngoài ra người thẩm định cũng phải có những hiểu biết nhất định về những ngành nghề, sản phẩm của dự án do mình phụ trách, thu thập các thông tin về thị trường phục vụ cho công tác thẩm định. Trong đó cần phải chú trọng đến kĩ năng thực hành bằng các phần mềm thẩm định Excel, Risk Masker...) trực tiếp trên máy vi tính với những ví dụ thực tế.
Hàng năm ngân hàng cần tổ chức các lớp tập huấn ngắn hạn cho cán bộ thẩm định trong toàn hệ thống với sự tham gia của các chuyên gia trong nước và quốc tế của các cán bộ giàu kinh nghiệm để trau dồi kinh nghiệm trong công tác từ đó có thể khắc phục được khoảng cách chênh lệch về trình độ cũng như kinh nghiệm của các cán bộ trong cả hệ thống từ cấp trung ương đến cấp chi nhánh. Do đó, việc đầu tư cho đào tạo cán bộ cần được xem như là một chính sách của ngân hàng, từ việc coi nó là một chính sách thì ngân hàng cần phải tạo dựng được quỹ để tài trợ cho việc đào tạo, khi xây dựng được quỹ đó thì có thể cử các cán bộ đi học tập, nghiên cứu ở các trường đại học của nước ngoài hay tham gia học tập tại các ngân hàng nước ngoài.
Vì vậy, để nâng cao được chất lượng của hoạt động thẩm định tài chính dự án, vấn đề được trang bị kiến thức toàn diện là một yêu cầu bắt buộc.
3.2.2.4. Có được chế độ đãi ngộ thích hợp
Ngân hàng cần có một chính sách đãi ngộ phù hợp nhằm kích thích tinh thần làm việc hết mình của các nhân viên, kích thích sự sáng tạo trong công tác bằng các chính sách như: khen thưởng kịp thời cho các thành tích, xây dựng các chương trình phúc lợi cho công nhân viên chức...
3.2.3. Nâng cao chất lượng nguồn thông tin.
Trong xã hội thông tin của thế kỉ 21, vai trò thông tin mang tính sống còn đối với bất kì một tổ chức nào, đặc biệt là đối với ngành ngân hàng và nhất là hoạt động thẩm định. Chất lượng thẩm định tài chính dự án phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của nguồn thông tin mà ngân hàng thu thập được vậy nên để nâng cao được chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư thì điều quan trọng là phải có được nguồn thông tin tin cậy đảm bảo chất lượng, có tính chính xác cao và kịp thời.
Đối với nguồn thông tin nội bộ
Để có được một hệ thống thông tin hoạt động có hiệu quả, cần phải hoàn thiện hệ thống cung cấp thông tin, báo cáo nội bộ, có sự trao đổi thường xuyên giữa các chi nhánh trong nội bộ ngân hàng. Điều cần thiết là phải xây dựng được mạng thông tin cục bộ cho toàn hệ thống từ cấp trung ương đến các chi nhánh địa phương. Những thông tin về tín dụng cần phải được tập hợp nhanh chóng tại một đầu mối là phòng thông tin Tín dụng tại trung ương đảm bảo cung cấp kịp thời cho toàn hệ thống. Ngoài ra những thông tin tín dụng tại các chi nhánh cũng phải được tập hợp tại các chi nhánh, thông qua đó phải được xử lí sơ bộ trước khi gửi lên trung ương. Tại phòng Thông tin Tín dụng trung ương thông tin được tập hợp và được phân loại chi tiết theo từng ngành nghề, lĩnh vực, khu vực khác nhau.
Ngoài ra như phần kiến nghị ở trên đã đề cập đối với các dự án đã thực hiện, ngân hàng cần tập hợp để từ đó xây dựng được hệ thống chỉ tiêu, thông số kỹ thuật... riêng cho ngân hàng để có thể lấy thông tin đó làm căn cứ tham chiếu cho những trường hợp thẩm định các dự án tương tự.
Từ những thông tin tập hợp được, định kì ngân hàng cần kiểm tra số liệu báo cáo tài chính của khách hàng nhập dữ liệu vào file và truyền về Phòng thông tin tín dụng (CIC) của NHNN theo phương thức trao đổi thông tin, tạo tiền đề để có thể tiếp cận với nguồn thông tin quý giá từ CIC của NHNN.
Việc cung cấp thông tin của khách hàng cho ngân hàng trong hồ sơ xin vay cũng là một vấn đề cần được cải thiện. Trong điều kiện nước ta hiện nay, khi mà việc thực hiện pháp lệnh kế toán, thống kê chưa được chấp hành nghiêm chỉnh, để có được thông tin chính xác, cần phải có biện pháp trước mắt là tăng cường tính pháp lí của các báo cáo tài chính tức là tất cả các báo cáo cần phải được kiểm toán độc lập, chỉ có như vậy thì việc xác định tình hình tài chính của chủ dự án thông qua các báo cáo tài chính mới có được sự bảo đảm, và mới thực sự có ý nghĩa.
Đối với nguồn thông tin bên ngoài
Không chỉ chú ý khai thác nguồn thông tin trong nội bộ, Ngân hàng còn cần phải chú trọng đến các nguồn thông tin khác từ bên ngoài để đa dạng hóa nguồn cung cấp thông tin. Các nguồn thông tin bên ngoài có thể khai thác được bắt nguồn từ Phòng thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước, từ các NHTM khác, từ các sách báo, tạp chí, chuyên ngành, các cơ quan quản lý khác nhau như các Bộ Thương mại, Đầu tư, thống kê... Các trung tâm thông tin trong nước và quốc tế. Việc trao đổi thông tin giữa các đối thủ cạnh tranh là điều thường thấy trong xã hội ngày nay với lí do là việc trao đổi đó có lợi cho cả hai bên chứ không chỉ có lợi riêng cho một bên nào.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là phải có bộ phận chuyên thu thập thông tin, vấn đề lại quay trở lại với vai trò của phòng Thông tin Tín dụng của Ngân hàng.
Nhưng theo đánh giá hiện nay thì phòng Thông tin Tín dụng của Ngân hàng ngoại thương chưa hoạt động tương xứng với vai trò, nhiệm vụ của nó. Trong khi thu thập thông tin, cán bộ thẩm định không được sự giúp đỡ nào về mặt cung cấp thông tin phía Phòng Thông tin Tín dụng, nếu có thì đó là sự hỗ trợ rất hạn chế.
Vì vậy, trong thời gian tới, để nâng cao được chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư, Ngân hàng Ngoại thương cần phải củng cố lại hoạt động của phòng Thông tin Tín dụng sao cho phòng xứng đáng với chức năng của nó.
Ngoài ra, đối với một số lĩnh vực chuyên môn cán bộ thẩm định không thể thẩm định một cách chính xác thì việc thuê chuyên gia tư vấn hỗ trợ là việc làm cần thiết.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị nâng cao vai trò của Trung tâm thông tin tín dụng trong việc phối kết hợp cung cấp, trao đổi thông tin giữa các ngân hàng thương mại.
Trên cương vị là người điều tiết toàn bộ hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam, NHNN cần có những chính sách mang tính định hướng về quy trình thẩm định, cập nhật các kiến thức mới, hiện đại đang được áp dụng tại các ngân hàng trên thế giới thông qua những chương trình đào tạo, tập huấn, hỗ trợ thông tin cần thiết cho công tác thẩm định dự án của các ngân hàng. Kiến nghị Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của NHNN nâng cao vai trò điều phối, chủ động trong việc thu thập thông tin từ các nguồn như từ các cơ quan của Chính phủ: Bộ kế hoạch đầu tư, Bộ Thương mại... Đồng thời mở rộng phạm vi cung cấp thông tin, không những cung cấp thông tin tín dụng mà còn có thể cung cấp thông tin kinh tế phục vụ cho công tác thẩm định. Trong trường hợp đó CIC sẽ có thuận lợi hơn các ngân hàng trong việc hợp đồng và hợp tác với các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan chuyên cung cấp thông tin. Còn nếu mỗi ngân hàng, mỗi cán bộ thẩm định tự thu thập thông tin sẽ gặp rất nhiều khó khăn để tiếp cận được tới những nguồn thông tin này
3.3.2. Kiến nghị Chính phủ và các Bộ ngành cấp thiết xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp lý.
Hoạt động ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến đời sống xã hội, đồng thời hoạt động này cũng rất nhạy cảm đối với biến động của môi trường dù là một biến động nhỏ. Trong điều kiện nền kinh tế của một quốc gia đang phát triển, nền kinh tế nước ta có đặc điểm dễ nhận ra là tính ổn định và nghiêm minh về luật pháp còn chưa cao, hệ thống chính sách còn nhiều kẽ hở và lại thường xuyên thay đổi. Do vậy, ảnh hưởng rất lớn tới công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư của các ngân hàng Việt Nam nói chung và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói riêng. Chính vì vậy, điều cần thiết đối với Chính phủ và các Bộ ngành là phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy quy định hoạt động đầu tư nói riêng và hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung, đồng thời nâng cao tính hiệu lực của các văn bản đó.
Các Bộ ngành cần xây dựng hệ thống các chỉ tiêu, định mức kinh tế kĩ thuật của ngành do mình quản lý, hệ thống hóa thông tin liên quan tới lĩnh vực quản lý, công khai tình hình hoạt động... Trong đó, quan trọng nhất phải kể đến tiêu chuẩn hóa các định mức kinh tế - kĩ thuật của ngành.
Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, trước khi ra quyết định đầu tư, các dự án thường được thông qua tổng mức vốn đầu tư bởi cơ quan chức năng. Chính vì vậy, đề nghị các cơ quan chủ quản khi phê duyệt tổng mức vốn đầu tư cần tính toán một cách khách quan, chính xác. Hơn nữa, đối với các dự án theo tín dụng chỉ định, đề nghị Chính phủ xem xét một cách kĩ lưỡng toàn diện các mặt của dự án trước khi triển khai, nhằm tránh được việc mất vai trò của thẩm định tài chính dự án tại ngân hàng.
Kết luận
Thẩm định tài chính DAĐT trước khi quyết định cho vay là một công việc vô cùng quan trọng đối với Ngân hàng, nó có ảnh hưởng tới sự sống còn của Ngân hàng. Vì vậy thẩm định phải được thực hiện kỹ càng, cẩn thận, chính xác, có phương pháp khoa học sẽ giúp Ngân hàng hạn chế đến mức tối đa những rủi ro khi thực hiện các khoản cho vay và kết luận chính xác về tính khả thi của dự án. Nhờ đó các DAĐT mới thực sự đem lại hiệu quả cho chủ dự án, cho nhà đầu tư và nền kinh tế.
Trong nội dung hạn hẹp của chuyên đề này, với mục đích nêu trên, những vấn đề cơ bản đã được tập trung giải quyết trong chuyên đề này là:
1- Hệ thống hóa những lý luận cơ bản về thẩm định tài chính DAĐT, nội dung thẩm định cũng như những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định. Đồng thời nhấn mạnh vào sự cần thiết phải thẩm định tài chính DAĐT trong hoạt động tín dụng đối với các NHTM.
2- Phân tích thực trạng công tác thẩm định tài chính DAĐT tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam trong những năm vừa qua, đánh giá những kết quả đạt được và đưa ra những hạn chế, khó khăn mà Ngân hàng đang gặp phải.
3- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính DAĐT tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam nói riêng và NHTM nói chung.
Tuy nhiên, đây là một vấn đề hết sức khó khăn phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp bên trong và bên ngoài Ngân hàng. Vì vậy nó đòi hỏi một sự nghiên cứu sâu sắc và những giải pháp đồng bộ với sự quyết tâm từ nhiều phía.
Trong khuôn khổ của luận văn, em chỉ hy vọng đề cập một số mặt của thẩm định tài chính DAĐT, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô, các cán bộ Ngân hàng và bạn bè.
Hà Nội tháng 5 năm 2004
Danh mục tài liệu tham khảo
Jonathan Kellerman(2001) – Phân tích các dự án đầu tư - Nhà xuất bản trẻ
Lưu Thị Hương (chủ biên)(1998) - Giáo trình Tài chính Doanh nghiệp - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân,
Nguyễn Xuân Thuỷ(1996)- Quản trị dự án đầu tư - Nhà xuất bản Thống kê.
Phạm Thế Trung(2001) – Phân tích và quản lý các dự án đầu tư - Nhà xuất bản Thống kê
Tạp chí tài chính, tạp chí ngân hàng, tài chính thông tin tài chính...
Thời báo tài chính, thời báo ngân hàng...
Báo cáo Hoạt động kinh doanh năm 2002, VCB
Mẫu báo cáo thẩm định dự án trung và dài hạn, VCB
Tài liệu thẩm định dự án “Đầu tư mới dây chuyền sản xuất tôn tráng kẽm dạng cuộn và tấm tại công ty Thái Nam”.
Tài liệu tập huấn đảm bảo tiền vay, VCB 2002
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0293.doc