mục lục
lời cảm ơn
mục lục 1
danh sách bảng biểu và các ký tự viết tắt 2
lời mở đầu 3
kết luận 72
Phụ lục
tài liệu tham khảo
danh sách bảng biểu
Bảng
Tiêu đề
Trang
Bảng 1
Báo cáo kết quả kinh doanh của NHNTVN 1999-2002
32
Bảng 2
Dự kiến nhu cầu vốn lưu động
39
Bảng 3
Tổng hợp kết quả tính toán hiệu quả tài chính
41
Bảng 4
Báo cáo tình hình hoạt động cho vay của NHNTVN 1999-2002
43
Biểu
Tiêu đề
Trang
Biểu 1
Quy trình thẩm định tài chính dự án đầu tư
12
Biểu 2
T
72 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1385 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình hình tăng trưởng tín dụng của NHNTVN 1999-2002
33
Biểu 3
Cơ cấu tín dụng của NHNTVN 1999-2002
33
Biểu 4
Sơ đồ tổ chức công tác thẩm định dự án tại NHNTVN
34
các ký tự viết tắt
Ký hiệu
ý nghĩa
AMC
:
Asset Management Company - Công ty quản lý và khai thác tài sản
BP
:
Biến phí
CBTD
:
Cán bộ tín dụng
CHXHCN
:
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
CIC
:
Trung tâm phòng ngừa rủi ro tín dụng
DAĐT
:
Dự án đầu tư
ĐH
:
Đại học
ĐT
:
Đầu tư
GB
:
Giá bán
HQTC
:
Hiệu quả tài chính
KNTN
:
Khả năng trả nợ
KTCB
:
Kiến thiết cơ bản
MMTB
:
Máy móc thiết bị
NHNN
:
Ngân hàng Nhà nước
NHNTVN
:
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
NHTM
:
Ngân hàng thương mại
NQH
:
Nợ quá hạn
PA
:
Phương án
SL
:
Sản lượng
TCT
:
Tổng Công ty
TĐ
:
Thẩm định
TW
:
Trung ương
VN
:
Việt Nam
XDCB
:
Xây dựng cơ bản
lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Cho vay theo dự án là một hình thức cho vay chủ yếu của ngân hàng thương mại. Thời gian qua, hình thức cho vay này đã phát triển rất nhanh nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho ngân hàng. Để nâng cao hiệu quả và đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng, một nhiệm vụ đặt ra cấp thiết cho ngân hàng thương mại là phải làm tốt công tác thẩm định dự án nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư luôn được các ngân hàng hết sức quan tâm.
Tuy nhiên, thực tế công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại các ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói riêng thời gian qua còn nhiều hạn chế, chưa phát huy được hết vai trò quan trọng của nó trong hoạt động của ngân hàng.
Xuất phát từ ý nghĩa của công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư và thực tế những bức xúc của chính tác giả và các đồng nghiệp trong nhiều năm gắn bó với công tác thẩm định, tác giả lựa chọn đề tài : “Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu không ngoài mục tiêu đánh giá thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam những năm gần đây và đề xuất một số giải pháp cụ thể góp phần nâng cao chất lượng công tác này trong hoạt động của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói riêng và các ngân hàng thương mại nói chung.
2. Mục đích nghiên cứu
Khái quát cơ sở lý luận khoa học về chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại;
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam;
Đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong những năm gần đây.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận cơ bản dựa trên nền tảng của phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với phương pháp thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp.
5. Kết cấu luận văn
Tên đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam”
Bố cục: Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Chương 1: chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
1.1 Thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của NHTM
1.1.1. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Đối với hầu hết chúng ta, ngân hàng là một loại hình tổ chức kinh doanh có vai trò vô cùng quan trọng. Với sự hiện hữu của ngân hàng, chúng ta có thể nhận được các khoản vay để mua nhà, mua ô tô mới hay trang trải chi phí học tập, kinh doanh. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng là một địa chỉ hữu ích nếu như chúng ta mong muốn nhận được những lời khuyên về việc đầu tư các khoản tiết kiệm hay việc lưu giữ và bảo quản các giấy tờ có giá.
Đối với toàn bộ nền kinh tế, Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất. Ngân hàng là người cho vay chủ yếu đối với hàng triệu hộ tiêu dùng, hầu hết các doanh nghiệp và kể cả các cơ quan chính quyền. Ngân hàng còn là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ.
Có thể nói, ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, là trung gian tài chính đóng vai trò cầu nối, dẫn vốn từ nhà tiết kiệm tới nhà đầu tư hoặc tiêu dùng qua đó cung cấp vốn cho nền kinh tế một cách nhịp nhàng và có hiệu quả.
Theo quy định hiện hành của Việt Nam: Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Trên thực tế, để có thể duy trì khả năng cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, vai trò của ngân hàng ngày càng lớn, thể hiện qua:
Vai trò trung gian: chuyển các khoản tiết kiệm thành các khoản tín dụng cho các tổ chức và các thành phần kinh tế
Vai trò thanh toán: thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc mua bán hàng hoá và dịch vụ
Vai trò người bảo lãnh: cam kết trả nợ thay cho khách hàng khi khách hàng mất khả năng thanh toán
Vai trò đại lý: thay mặt khách hàng quản lý và bảo vệ tài sản của họ, phát hành hoặc chuộc lại chứng khoán.
Vai trò thực thi chính sách: thực hiện các chính sách kinh tế của Chính phủ, góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu kinh tế xã hội.
Để thực hiện các vai trò đó, ngân hàng thương mại tập trung vào 3 nhóm hoạt động cơ bản:
Hoạt động huy động vốn
Hoạt động cho vay và đầu tư
Hoạt động trung gian
Đây là 3 hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại, chúng có quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ cho nhau. Để đáp ứng nhu cầu vốn vay đầu tư hay tiêu dùng của các hộ gia đình và các doanh nghiệp, ngân hàng huy động nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi của dân chúng và các doanh nghiệp. Đó là mối quan hệ mật thiết giữa hoạt động cho vay và huy động vốn. Đồng thời với 2 hoạt động này, với vai trò là trung gian tài chính, ngân hàng thương mại cung cấp cho khách hàng một số dịch vụ trung gian khác như thanh toán, đại lý, bảo lãnh, tư vấn…. để vừa hỗ trợ hiệu quả cho các hoạt động cho vay và nhận gửi vừa tạo thêm thu nhập cho ngân hàng.
Hoạt động huy động vốn:
Để hoạt động, trước hết mỗi ngân hàng thương mại phải có một số vốn ban đầu (vốn tự có) làm tiền đề cho các hoạt động kinh doanh của mình. Số vốn tự có này được tạo lập bằng cách phát hành cổ phiếu (đối với ngân hàng thương mại cổ phần) hay do nhà nước cấp (đối với ngân hàng thương mại nhà nước) và được bổ sung từ các quỹ được tạo ra trong quá trình hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên, đối với hầu hết các ngân hàng, số vốn tự có thường rất nhỏ mà nguồn vốn chính của các ngân hàng thương mại là vốn huy động từ các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế thông qua việc cung cấp các dịch vụ: tài khoản tiền gửi tiết kiệm, tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, tài khoản séc, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu… Bên cạnh đó, khi cần vốn cho nhu cầu thanh khoản hay cho vay, đầu tư khác… ngân hàng có thể vay vốn từ các ngân hàng khác, vay trên thị trường tài chính hay vay của ngân hàng Trung ương. Ngoài ra, nguồn vốn của ngân hàng còn bao gồm một số nguồn khác như vốn uỷ thác… nhưng chiếm tỷ trọng nhỏ.
Để huy động vốn, ngân hàng thương mại phải bỏ ra một số chi phí gồm chi phí giao dịch, chi phí trả lãi tiền gửi, tiền vay và các chi phí khác liên quan. Để bù đắp chi phí này, ngân hàng phải tiến hành hoạt động cho vay, đầu tư và các hoạt động trung gian khác.
Hoạt động cho vay và đầu tư:
Ngân hàng thương mại sử dụng các nguồn vốn huy động được để thực hiện cho vay và đầu tư, qua đó hình thành nên những tài sản cơ bản của ngân hàng. Ngân hàng có thể cho vay các cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp hay các cơ quan chính quyền để phục vụ cho mục đích đầu tư kinh doanh hay tiêu dùng hoặc cũng có thể trực tiếp tham gia đầu tư, góp vốn hợp tác kinh doanh.
Các hoạt động cho vay và đầu tư mang lại thu nhập chính cho các ngân hàng thương mại gồm lãi cho vay, lợi tức đầu tư nhưng kéo theo nó là tiềm ẩn nguy cơ rủi ro khá cao.
Hoạt động trung gian:
Là một trung gian tài chính, bên cạnh hoạt động nhận gửi và cho vay, ngân hàng thương mại còn thực hiện các hoạt động trung gian khác như: thanh toán, chuyển tiền, tư vấn, bảo lãnh, ký thác, uỷ thác, bảo quản vật có giá, mua bán ngoại tệ… và thu phí dịch vụ cho các hoạt động đó. Trước đây, do còn nhiều hạn chế về chính sách, trình độ, công nghệ... nên hoạt động này chưa thực sự phát triển và thu nhập mang lại chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu nhập của ngân hàng. Nhưng đến nay, các dịch vụ trung gian của ngân hàng thương mại ngày càng được chú trọng do nguồn thu ổn định và độ rủi ro thấp. Các dịch vụ này không ngừng phát triển đã góp phần hoàn thiện chất lượng dịch vụ ngân hàng. Các khách hàng khi có nhu cầu đều được ngân hàng đáp ứng một cách thuận tiện, nhanh chóng, tiết kiệm và an toàn. Do vậy các NHTM đã thu hút được số lượng lớn và đa dạng đối tượng khách hàng kéo theo doanh thu của ngân hàng từ hoạt động này cũng tăng nhanh.
Trong ba hoạt động cơ bản nói trên thì cho vay là hoạt động quan trọng hơn cả và mang lại nguồn thu nhập chính cho ngân hàng đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, trong bối cảnh các dịch vụ ngân hàng chưa thực sự phát triển toàn diện.
1.1.1.2. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Các hình thức cho vay của ngân hàng thương mại
Theo quy chế tín dụng hiện hành ở Việt Nam, cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt của NHTM để tạo ra lợi nhuận, nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro nhất trong hoạt động ngân hàng. Tuỳ theo tiêu thức phân loại có thể có nhiều hình thức cho vay:
Phân loại theo mục đích vay : Cho vay sản xuất kinh doanh, cho vay tiêu dùng, cho vay chính sách (đầu tư, hỗ trợ phát triển…)
Phân loại theo tài sản bảo đảm : Cho vay có tài sản bảo đảm và cho vay không có tài sản bảo đảm
Phân loại theo nguồn tài trợ : Cho vay hoàn toàn bằng vốn của một ngân hàng và cho vay đồng tài trợ (hợp vốn của nhiều ngân hàng)
Phân loại theo phương thức cho vay: cho vay từng lần hoặc cho vay theo hạn mức tín dụng
Phân loại theo thời hạn vay : Cho vay ngắn hạn (đến 12 tháng), trung hạn (trên 12 tháng đến 60 tháng) và dài hạn (trên 60 tháng)
Ngoài ra còn có cho vay trả góp, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, cho vay theo hạn mức thấu chi…
Cho vay theo dự án đầu tư là khoản tài trợ cho việc xây dựng những tài sản được dự tính sẽ mang lại thu nhập trong tương lai. Nó thuộc loại hình cho vay trung - dài hạn và là một trong những hình thức cho vay chủ yếu, có xu thế ngày càng phát triển trong hoạt động của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên hoạt động cho vay nói chung và cho vay theo dự án nói riêng chứa đựng rất nhiều rủi ro, tiềm ẩn những khả năng bất an toàn đối với các khoản đầu tư của ngân hàng thương mại đặc biệt là ở các nước đang phát triển như Việt Nam. Vì vậy, để bảo đảm khoản vay được hoàn trả đầy đủ và đúng hạn cả gốc và lãi, một trong những nguyên tắc cơ bản khi cho vay là phải thiết lập được một quy trình cho vay chặt chẽ và hợp lý.
Quy trình cho vay theo dự án
Quy trình cho vay được hiểu là tập hợp những nội dung, kỹ thuật nghiệp vụ cơ bản và các thủ tục cần thiết từ khi bắt đầu tới khi kết thúc một khoản vay. Thông thường quy trình cho vay theo dự án này gồm ba bước chính:
Xét duyệt cho vay: Quá trình xét duyệt cho vay được thực hiện như sau:
Nhận và kiểm tra hồ sơ đề nghị vay vốn của khách hàng
Thẩm định dự án xin vay
Xét duyệt và quyết định cho vay
Phát tiền vay: Quá trình phát tiền vay bao gồm nhận và kiểm tra các căn cứ phát tiền vay, sau đó thực hiện phát tiền vay.
Kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay và thu nợ: Quá trình này được thực hiện ngay trong và sau khi phát tiền vay nhằm đảm bảo vốn vay được sử dụng đúng mục đích và hoàn trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi như đã thoả thuận.
Ba giai đoạn trên có quan hệ mật thiết, tạo thành một quá trình gắn bó chặt chẽ. Một khoản vay có chất lượng là một khoản vay được hoàn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi - đây chính là mục tiêu quan trọng nhất của ngân hàng. Để đạt được mục tiêu đề ra đòi hỏi ngân hàng phải hết sức nghiêm túc, có sự cân nhắc kỹ lưỡng khi xét duyệt và ra quyết định cho vay: Có cho vay hay không? khối lượng cho vay là bao nhiêu? lãi suất cho vay, thời hạn cho vay thế nào? quy định về quản lý sử dụng tiền vay, xử lý thu hồi nợ ra sao? … nhằm ngăn chặn đến mức tối đa những rủi ro có thể phát sinh trong quá trình cho vay.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy rủi ro của các ngân hàng trong việc cho vay vẫn xảy ra (thể hiện rõ nét nhất qua tỷ lệ nợ quá hạn, qua việc các ngân hàng phải thực hiện gia hạn nợ, khoanh nợ…) mà nguyên nhân chính là do quyết định cho vay được đưa ra chưa phù hợp. Để hạn chế tối đa rủi ro phát sinh, thẩm định tài chính dự án đầu tư là khâu quan trọng nhất mà ngân hàng phải quan tâm trước khi quyết định cho vay.
1.1.2. Thẩm định tài chính DADT trong hoạt động cho vay của NHTM
1.1.2.1 Dự án đầu tư
Đầu tư, theo nghĩa rộng, là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại, để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và trí tuệ.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực xã hội sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Mục tiêu của đầu tư là hiệu quả nhưng muốn tối đa hoá hiệu quả đầu tư thì trước khi quyết định đầu tư nhất thiết phải có sự chuẩn bị thật cẩn thận và nghiêm túc thể hiện qua việc lập dự án đầu tư trên cơ sở mọi thông tin liên quan đến hoạt động đầu tư đã được thu thập đầy đủ và phân tích tỉ mỉ, khoa học, khách quan.
Một dự án đầu tư thông thường bao gồm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Chuẩn bị đầu tư
Giai đoạn này bao gồm các hoạt động chính như: Nghiên cứu phát hiện các cơ hội đầu tư; nghiên cứu tiền khả thi (sơ bộ lựa chọn dự án); nghiên cứu khả thi (lập dự án, luận chứng kinh tế kỹ thuật) và hoạt động cuối cùng là thẩm định, đánh giá dự án và quyết định đầu tư.
Giai đoạn 2: Thực hiện đầu tư
Đây là giai đoạn cụ thể hoá nguồn hình thành vốn đầu tư và triển khai thực hiện dự án gồm đàm phán ký kết hợp đồng, thiết kế và xây dựng công trình, lắp đặt máy móc thiết bị và vận hành thử.
Giai đoạn 3: Vận hành kết quả đầu tư (dự án đi vào hoạt động)
Trong 3 giai đoạn trên đây, giai đoạn chuẩn bị đầu tư tạo tiền đề và quyết định sự thành công hay thất bại ở hai giai đoạn sau, đặc biệt khi dự án đầu tư đi vào hoạt động. Do đó, đối với giai đoạn chuẩn bị đầu tư vấn đề chất lượng, tính chính xác của các kết quả nghiên cứu, tính toán và dự đoán là quan trọng nhất và vì thế công tác thẩm định nói chung và thẩm định tài chính nói riêng có vị trí rất quan trọng để có được quyết định đầu tư đúng đắn.
1.1.2.2. Sự cần thiết phải thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Khái niệm và ý nghĩa của thẩm định tài chính dự án đầu tư:
Như đã đề cập ở trên, hoạt động thẩm định dự án đầu tư là khâu cuối cùng trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư nhưng lại là khâu then chốt để quyết định đầu tư và do đó, quyết định sự thành công hay thất bại của dự án đầu tư. Thẩm định tài chính dự án đầu tư là một nội dung kinh tế quan trọng trong thẩm định dự án, nó nhằm đánh giá tính khả thi về mặt tài chính của dự án và là cơ sở để đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội. Xuất phát từ quan điểm và mục tiêu khác nhau, các chủ thể khác nhau sẽ có cách tiếp cận thẩm định dự án không giống nhau và do đó, kết quả thẩm định cũng có ý nghĩa khác nhau đối với mỗi chủ thể.
Sự cần thiết phải thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Như trên đã đề cập, cho vay theo dự án là loại hình cho vay phổ biến, đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất. Do đó, ngân hàng luôn phải giám sát chặt chẽ hoạt động này để đảm bảo hoạt động hiệu quả nhưng an toàn. Thẩm định dự án đầu tư giúp ngân hàng phần nào dự báo được hiệu quả tài chính và tính khả thi của từng dự án để có thể chọn lọc được các cơ hội đầu tư tốt, có hiệu quả, có khả năng thu hồi vốn và do đó hạn chế được rủi ro phát sinh. Trái lại, thẩm định kém chất lượng có thể dẫn đến một quyết định cho vay sai lầm, ảnh hưởng rất lớn và lâu dài đến cả ngân hàng, chủ đầu tư và thậm chí toàn xã hội. Do vậy, thẩm định dự án là một hoạt động vô cùng cần thiết và có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động cho vay của ngân hàng.
Với tư cách là nhà tài trợ cho dự án, ngân hàng thương mại đặc biệt quan tâm đến phương diện thẩm định tài chính dự án đầu tư vì nó thể hiện rõ nhất mục tiêu tài trợ của ngân hàng và cũng là thế mạnh, phù hợp với chuyên môn nghiệp vụ của ngân hàng. Vì thế, thẩm định tài chính dự án đầu tư luôn được các ngân hàng chú trọng về cả nội dung và hình thức thẩm định.
1.1.2.3. Quy trình và nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư
Quy trình thẩm định tài chính dự án đầu tư
Quy trình thẩm định tài chính dự án đầu tư tại các NHTM có thể không hoàn toàn giống nhau nhưng nhìn chung quy trình này thường diễn ra như sau:
Biểu 1: Quy trình thẩm định tài chính dự án đầu tư
Xem xét lại kế hoạch sản xuất kinh doanh
Xem xét lại dự báo về cầu
Phân tích các nguồn tài trợ cho dự án
Xem xét lại và phân tích kế hoạch tài chính của dự án
Dự báo, phân tích dòng tiền chi phí, dòng tiền thu nhập của dự án
Tính toán, phân tích các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án
Đánh giá, quyết định
Trên cơ sở quy trình thẩm định như vậy, ngân hàng tiến hành thẩm định tài chính dự án đầu tư với các nội dung chính như sau:
Xác định tổng vốn đầu tư và nguồn tài trợ
Vốn đầu tư (dự trù) của dự án trước khi trình xin vay vốn ngân hàng thường đã được xét duyệt qua nhiều cấp như hội đồng quản trị (đối với công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn) hoặc qua các bộ, ban ngành (đối với doanh nghiệp nhà nước). Tuy nhiên, việc xác định đúng đắn mức vốn đầu tư của dự án là rất cần thiết đối với ngân hàng để tránh 2 khuynh hướng: vốn dự trù quá thấp sẽ làm tăng hiệu quả giả tạo của dự án nhưng không khả thi do khó khăn khi xây dựng, hoạt động và do đó gây lãng phí vốn hoặc khuynh hướng thứ 2 là vốn dự trù quá cao gây lãng phí vốn và giảm hiệu quả tài chính tính toán của dự án.
Vốn đầu tư của dự án thường bao gồm: vốn đầu tư vào tài sản cố định và tài sản lưu động. Vốn đầu tư phải đầy đủ các hạng mục chủ yếu như chi phí chuẩn bị đầu tư, chi phí xây dựng cơ bản, mua sắm thiết bị, lãi vay trong thời gian thi công, chi phí bảo hiểm thi công, dự phòng…
Sau khi xem xét tổng mức đầu tư của dự án, ngân hàng cũng xem xét các nguồn tài trợ cho dự án: vốn tự có, vốn hỗ trợ của nhà nước, vốn vay hoặc huy động từ các nguồn khác. Về cơ cấu vốn, nếu dự án có tỷ lệ vốn tự có cao hoặc hệ số vốn tự có/vốn vay lớn (trên 2/3) thì dự án sẽ thuận lợi. Ngoài ra, để đảm bảo tiến độ thực hiện đầu tư của dự án, vừa để tránh ứ đọng vốn, các nguồn tài trợ cần được xem xét không chỉ về mặt số lượng mà cả về thời điểm có thể nhận được nguồn tài trợ và tính khả thi của nguồn tài trợ đó. Tính chắc chắn của mỗi nguồn vốn phải có cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế. Chẳng hạn với nguồn vốn tự có, ngân hàng phải phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, tình hình sản xuất kinh doanh để đảm bảo cân đối đủ nguồn vốn tự có cho dự án từ nguồn tích luỹ hoạt động của doanh nghiệp. Đối với nguồn vốn được nhà nước hỗ trợ thì ngân hàng thường xem xét các cam kết bảo đảm của các cấp có thẩm quyền. Nếu doanh nghiệp dự định sử dụng các nguồn vốn vay khác thì cần kiểm tra độ tin cậy về khả năng cho vay, số lượng, điều kiện và thời hạn cho vay trên cơ sở cam kết bằng văn bản của ngân hàng.
Sau khi cân đối các nguồn vốn khả thi với nhu cầu vốn, ngân hàng sẽ xác định được số vốn ngân hàng cần tài trợ và kế hoạch đầu tư của mình vào dự án.
Thẩm định tính hợp lý của các bảng dự trù tài chính:
Trong nội dung này, ngân hàng sẽ thẩm định tính chính xác, hợp lý, hợp lệ của các bảng dự trù tài chính được trình bày trong luận chứng kinh tế kỹ thuật của dự án. Nếu các giả định đưa ra chưa hợp lý hoặc độ chính xác của các số liệu đưa ra trong các bảng dự trù tài chính thấp thì ngân hàng sẽ dự báo, xây dựng lại các bảng dự trù tài chính cho phù hợp trên cơ sở định mức kinh tế, kỹ thuật của ngành do Nhà nước hoặc các cơ quan chuyên môn công bố và dựa trên các kết quả thẩm định của ngân hàng về kỹ thuật, thị trường, tổ chức, kinh tế xã hội.
Các bảng dự trù tài chính thường được thẩm định bao gồm:
Bảng dự trù lãi, lỗ (doanh thu, chi phí)
Bảng dự trù tổng kết tài sản (cân đối kế toán)
Bảng dự trù lưu chuyển tiền tệ (cân đối thu chi)
Đây là cơ sở quan trọng để ngân hàng thực hiện việc tính toán và phân tích các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án. Nếu số liệu đưa ra trong các bảng dự trù tài chính càng chính xác, hợp lý và gần sát với thực tế thì kết quả thẩm định càng đáng tin cậy. Do vậy, các bảng dự trù tài chính thường được các ngân hàng xây dựng rất kỹ lưỡng.
Phân tích tài chính của dự án:
Có nhiều phương pháp phân tích tài chính nhưng phương pháp thông dụng nhất ở Việt Nam là phương pháp dòng tiền chiết khấu (discounted cash flow method). Phương pháp này dựa trên các bước: tính toán (dự báo) dòng tiền, lựa chọn tỷ lệ chiết khấu, tính toán, phân tích các chỉ tiêu hiệu quả tài chính và phân tích rủi ro để đánh giá hiệu quả tài chính của dự án.
Bước thứ nhất, dự báo dòng tiền cho các năm hoạt động của dự án
Với quan điểm của nhà đầu tư, người ta có thể chỉ quan tâm đến dòng tiền liên quan đến chủ đầu tư tức là dòng vốn chủ sở hữu chi ra để đầu tư ban đầu (vốn tự có) và dòng thu nhập do đầu tư còn lại sau khi đã cân đối tất cả các khoản chi phí gồm cả chi phí trả nợ gốc, lãi vay và thuế.
Tuy nhiên, với quan điểm xem xét tính hiệu quả của tổng thể dự án (tổng đầu tư) thì dòng tiền dự án phải là dòng tiền đầu tư chi ra ban đầu (tổng vốn đầu tư bao gồm tất cả các nguồn vốn) và dòng thu nhập còn lại sau thuế nhưng trước khi trả nợ gốc và lãi vay khi dự án đi vào hoạt động.
Một số điểm cần lưu ý khi tính toán dòng tiền là: phân biệt dòng tiền mặt và dòng các nguồn tài chính, tính toán khấu hao, thanh lý tài sản và xử lý vốn lưu động ròng của dự án.
Trước hết, cần phân biệt dòng tiền mặt (cash flows) của dự án và dòng các nguồn tài chính (financial sources). Khi phân tích dự án theo nguồn tài chính (nguồn vốn chủ sở hữu), ta xem xét tất cả các nguồn tài chính liên quan đến công nợ của chủ đầu tư như dòng thu khi góp vốn, vay nợ và dòng chi khi chia cổ tức, trả nợ gốc và lãi. Dòng các nguồn tài chính cho biết khả năng cân đối các nguồn tài chính của dự án. Tuy nhiên, khi phân tích dòng tiền để đánh giá hiệu quả tài chính của dự án, ta chỉ nên căn cứ vào dòng tiền mặt của dự án thực sự sẵn sàng cho việc sử dụng (chia lãi, trả nợ hoặc tái đầu tư) không kể dòng tiền mặt đó từ nguồn tài chính nào.
Khấu hao là một khoản chi phí cho các tài sản đã tạo ra trước đây. Trong báo cáo thu nhập của kế toán, khấu hao được khấu trừ vào chi phí để xác định lợi nhuận chịu thuế nhưng để tính thu nhập ròng của dự án, khấu hao không phải là chi phí bằng tiền nên không bị trừ khi tính toán dòng tiền mà được coi là một nguồn thu của dự án.
Khấu hao là một chỉ tiêu tài chính rất nhạy cảm có ảnh hưởng lớn đến tình trạng tài chính của dự án. Nếu dự án được tài trợ bằng vốn vay thì khấu hao là một nguồn chủ yếu để trả nợ. Do đó, việc xác định phương pháp khấu hao hợp lý (nhanh hay chậm, tăng dần, giảm dần hay đều) có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đảm bảo hoạt động và khả năng trả nợ của dự án.
Khi kết thúc thời gian khấu hao, các tài sản vẫn có thể còn giá trị. Khi đó ta cần bổ sung giá trị thanh lý tài sản vào dòng thu của dự án. Đồng thời, nếu có sự thay thế, bổ sung một phần giá trị tài sản (chẳng hạn máy móc thiết bị) thì phần đầu tư thêm phải được tính vào dòng chi của dự án và dòng thu khi đó cũng sẽ tăng thêm giá trị khấu hao của phần tài sản đầu tư bổ sung.
Về việc xử lý vốn lưu động ròng: Để dự án hoạt động, thời gian đầu cần phải có một số vốn nhất định đầu tư vào các tài sản lưu động (tiền mặt, nguyên vật liệu, tồn kho…). Số vốn này cần được đưa vào để tính toán chi phí đầu tư và khi dự án kết thúc, số vốn này phải được xem như là một khoản thu của dự án.
Bước thứ hai, lựa chọn tỷ lệ chiết khấu thích hợp.
Tỷ lệ chiết khấu là thuật ngữ mô tả giá trị thời gian của tiền. Nó phản ánh chi phí cơ hội của vốn đầu tư. Tỷ lệ chiết khấu còn có thể được hiểu là phần lợi nhuận thích hợp để bù đắp rủi ro. Việc xác định đúng tỷ lệ chiết khấu có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phân tích tài chính dự án nhưng đây là vấn đề không đơn giản mà là cả một nghệ thuật. Thông thường, tỷ lệ chiết khấu được xác định như sau:
+ Đối với chủ đầu tư: tỷ lệ chiết khấu có thể chọn là tỷ suất sinh lời kỳ vọng của chủ đầu tư về dự án hoặc chi phí sử dụng vốn bình quân WACC(tính trên cơ sở bình quân gia quyền có trọng số theo cơ cấu vốn)
+ Đối ngân hàng: có thể chọn tỷ lệ chiết khấu bằng lãi suất trái phiếu kho bạc (được coi như độ rủi ro = 0) cộng với một tỷ lệ phần bù rủi ro tương ứng (theo ngành nghề, lĩnh vực hoạt động hoặc tính chất của dự án) hoặc WACC hoặc lãi suất cho vay cộng thêm một tỷ lệ dự phòng rủi ro nhất định.
Bước thứ ba, tính toán và phân tích các chỉ tiêu HQTCcủa dự án
Các chỉ tiêu này có thể chia thành 3 nhóm:
Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời của dự án như NPV, IRR, B/C, PI…
Các chỉ tiêu đánh giá khả năng trả nợ của dự án như: thời gian hoàn vốn đầu tư, thời gian hoàn vốn vay, hệ số khả năng trả nợ…
Các chỉ tiêu đánh giá độ rủi ro của dự án như: điểm hoà vốn, độ nhạy…
Chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng (NPV- Net Present Value):
Thu nhập ròng của dự án được tính chuyển về mặt bằng hiện tại gọi là giá trị hiện tại ròng hay hiện giá thu nhập ròng (Net Present Value - ký hiệu là NPV) và được xác định theo công thức:
Trong đó, r : là tỷ suất chiết khấu
n: là số năm tính toán (gồm cả thời gian thi công)
Bi : là khoản thu năm i. Doanh thu, giá trị thanh lý TSCĐ và vốn lưu động ròng thu hồi là các khoản thu của dự án.
Ci : là tổng các khoản chi phí của năm i. Chi phí đầu tư ban đầu, chi phí hàng năm của dự án gồm cả chi phí tạo ra TSCĐ ở các thời điểm trung gian (nhưng không bao gồm chi phí khấu hao) được tính vào Ci.
NPV còn có thể được tính theo công thức:
Trong đó: r là tỷ suất chiết khấu
n: là số năm tính toán (không tính thời gian thi công)
C0 là vốn đầu tư ban đầu (nếu vốn đầu tư được thực hiện trong nhiều năm thì giá trị vốn đầu tư phải được quy về năm gốc để tính toán).
Ti là thu nhập ròng ở cuối năm thứ i (thực chất Ti = Bi - Ci)
Dự án độc lập bị bác bỏ nếu NPV Ê 0 và được chấp nhận nếu có NPV > 0 (thu nhập ròng đủ bù đắp chi phí đầu tư và có lãi).
Dự án loại trừ nhau có NPV dương cao nhất sẽ là dự án được chọn.
Trong giới hạn ngân sách, việc lựa chọn tổ hợp các dự án có thể phải sử dụng thêm chỉ tiêu cân đối lợi ích - chi phí (B/C).
Chỉ tiêu tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR: Internal Rate of Return), còn được gọi là suất thu lợi nội tại, tỷ suất nội hoàn hay suất thu hồi nội bộ.
Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ IRR là mức lãi suất nếu dùng nó làm tỷ suất chiết khấu để tính chuyển các khoản thu, chi của dự án về mặt bằng thời gian hiện tại thì tổng thu sẽ cân bằng tổng chi, hay nói cách khác là tỷ suất chiết khấu mà tại đó NPV = 0.
IRR có thể được xác định theo các phương pháp sau:
+ Sử dụng chương trình phần mềm vi tính chẳng hạn như chương trình EXCEL thuộc phần mềm Microsolf Office (nếu có).
+ Thử dần các giá trị của tỷ suất chiết khấu trong công thức tính NPV. Giá trị nào của r làm cho NPV = 0 thì chính là IRR cần tìm. Phương pháp này mất nhiều thời gian và có tính mò mẫm.
+ Xác định IRR qua vẽ đồ thị: Lập hệ trục tọa độ, trên trục hoành biểu thị các giá trị của tỷ suất chiết khấu r, trên trục tung biểu thị các giá trị NPV tương ứng. Biểu diễn các toạ độ điểm tìm được trên đồ thị ta có một đường cong. Đường cong này cắt trục hoành tại một điểm, tại đó NPV = 0 và điểm đó chính là điểm r = IRR. Phương pháp này yêu cầu phải vẽ rất chính xác hoặc sử dụng các chương trình phần mềm trên máy tính.
+ IRR được xác định bằng phương pháp nội suy tức là phương pháp xác định một giá trị cần tìm giữa 2 giá trị đã chọn: r1 tạo ra NPV1 >0 và r2 tạo ra NPV <0. Khi đó, việc nội suy IRR được thực hiện theo công thức:
Dự án có IRR cao hơn mức lãi suất giới hạn (lãi suất cho vay, tỷ suất chiết khấu hay tỷ suất lợi nhuận mong đợi) thì sẽ được lựa chọn. Nếu là các dự án loại trừ nhau thì người ta sẽ chọn dự án căn cứ vào vốn đầu tư của dự án lớn hay nhỏ và có thể kết hợp thêm chỉ tiêu NPV.
Chỉ tiêu cân đối Lợi ích - Chi phí (B/C)
Chỉ tiêu cân đối Lợi ích - Chi phí (Benefit - Cost Ratio) được xác định bằng tỷ số giữa lợi ích thu được và chi phí bỏ ra tính về thời điểm hiện tại hoặc tương lai. Trong thực tế, người ta thường quy các giá trị này về thời điểm hiện tại để tiện so sánh.
Công thức xác định B/C:
Trong đó: Bi : Doanh thu hay lợi ích năm i
Ci : Chi phí năm i
PV(B) : giá trị hiện tại của các khoản thu
PV(C) : giá trị hiện tại của các khoản chi phí
Như vậy về thực chất ch._.ỉ tiêu này và chỉ tiêu NPV tương đối tương đồng: Nếu NPV > 0 thì B/C > 1 hay nói cách khác dự án được chấp nhận và ngược lại.
Chỉ số doanh lợi:
Chỉ số doanh lợi PI (Profit Index) cũng tương tự như chỉ tiêu B/C và được xác định theo công thức:
Dự án cũng được chấp nhận nếu PI > 0 và PI càng cao càng tốt.
Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn đầu tư:
Thời gian thu hồi vốn đầu tư (thời gian hoàn vốn đầu tư) là thời gian hoạt động cần thiết của dự án để thu hồi đủ số vốn đầu tư ban đầu. Đó chính là thời gian để hoàn trả số vốn đầu tư ban đầu bằng thu nhập ròng của dự án.
Thời gian thu hồi vốn giản đơn được xác định như sau:
- Theo phương pháp cộng dồn:
Trong đó: T : năm thu hồi vốn đầu tư
(W+D)i : khoản thu hồi năm i gồm lợi nhuận ròng và khấu hao
Ivo : tổng vốn đầu tư ban đầu
- Theo phương pháp trừ dần, vốn đầu tư ban đầu được trừ bằng các khoản thu hồi hàng năm dần cho tới 0.
Vì tiền có giá trị về mặt thời gian nên thời gian thu hồi vốn tính theo các phương pháp trên (thời gian thu hồi vốn giản đơn) chưa phản ảnh chính xác hiệu quả đầu tư của dự án. Để khắc phục hạn chế này, người ta xác định chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn đầu tư có tính đến giá trị thời gian của tiền.
- Theo phương pháp cộng dồn:
- Theo phương pháp trừ dần:
Nếu Ivi là vốn đầu tư phải thu hồi ở năm i thì Di = Ivi - (W+D)i là số vốn đầu tư còn lại chưa thu hồi được của năm i phải chuyển sang năm (i+1) để thu hồi tiếp. Ta có: Ivi+1=Di (1+r) hay Ivi =Di-1 (1+r). Khi Di đ 0 thì i đ T.
Thời gian thu hồi vốn đầu tư được xác định theo phương pháp cộng dồn hoặc trừ dần xét về bản chất chỉ là một.
Ngoài hai phương pháp này, thời gian thu hồi vốn đầu tư còn được xác định theo tình hình hoạt động của từng năm hoặc bình quân của cả đời dự án.
Trong thực tế, thời gian hoàn vốn đầu tư thường được tính như sau:
T = t năm + 12(Ivo - Ivt)/(Ivt+1 - Ivt) tháng
trong đó: Ivo: tổng vốn đầu tư
Ivt < Ivo (luỹ kế dòng tiền chiết khấu gần sát TVĐT nhất)
Ivt+1 > Ivo (luỹ kế dòng tiền chiết khấu bắt đầu vượt TVĐT)
Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn vay:
Với trường hợp dự án có sử dụng nguồn vốn vay, người ta thường tính thêm chỉ tiêu thời gian hoàn vốn vay tương ứng với số vốn vay để đầu tư dự án. Nếu dự án vay vốn để đầu tư phải trả ngay bằng toàn bộ lợi nhuận thuần và khấu hao hàng năm kể từ khi dự án đi vào hoạt động, tiền lãi vay phải trả hàng năm được khấu trừ khi tính lợi nhuận thuần thì thời gian thu hồi vay trong trường hợp này tính tương tự như thời gian thu hồi vốn đầu tư giản đơn.
Đối với chủ đầu tư, dự án có thời gian hoàn vốn đầu tư dài hơn đời dự án (thời gian hoạt động của dự án) sẽ không được lựa chọn. Với các dự án đầu tư khác, chủ đầu tư sẽ lựa chọn dự án có thời gian hoàn vốn đầu tư ngắn nhất hoặc phù hợp nhất với các kế hoạch đầu tư, kinh doanh của mình.
Ngân hàng thương mại với tư cách là nhà tài trợ cho dự án quan tâm nhiều hơn tới thời gian hoàn vốn vay. Nhưng điều này cũng không có nghĩa là ngân hàng không quan tâm tới thời gian hoàn vốn đầu tư vì chỉ khi dự án khả thi, có hiệu quả, có lợi nhuận cho chủ đầu tư thì việc đầu tư của chủ đầu tư mới có ý nghĩa và khi đó ngân hàng mới có khả năng cho vay và thu hồi được vốn. Do vậy, trong số những dự án có thời gian hoàn vốn đầu tư hợp lý, ngân hàng lựa chọn dự án có thời gian hoàn vốn vay ngắn nhất nhưng tối đa bằng thời gian vay vốn dự kiến. Để dễ so sánh, ngân hàng có thể lập thêm bảng cân đối trả nợ (lịch trả nợ có thể giả định đều hoặc không đều tuỳ thuộc vào thoả thuận của ngân hàng và chủ đầu tư) để xác định khả năng trả nợ vốn vay trong thời gian vay dự kiến.
Chỉ tiêu hệ số khả năng trả nợ
Tổng nguồn trả nợ
KNTN = _________________________________________
Tổng nợ phải trả (gốc và lãi, phí)
Hệ số khả năng trả nợ ³1 thì dự án có khả năng hoàn trả vốn vay.
Điểm hoà vốn:
Khả năng sinh lời và độ an toàn của dự án thường được thể hiện qua chỉ tiêu điểm hòa vốn. Điểm hoà vốn là điểm là tại đó doanh thu vừa đủ trang trải các khoản chi phí bỏ ra tức là tổng doanh thu = tổng chi phí, dự án không có lãi nhưng cũng không bị lỗ. Có 2 phương pháp xác định điểm hoà vốn:
+ Phương pháp đại số:
f
x = ______
p - v
Trong đó: x là sản lượng hoà vốn, p là giá bán 1 sản phẩm, v là biến phí tính cho 1 đơn vị sản phẩm và f là tổng định phí.
+ Phương pháp đồ thị: xác định giao điểm của đường biểu diễn doanh thu và đường biểu diễn chi phí.
Người ta có thể tính 3 loại điểm hoà vốn sau:
+ Điểm hoà vốn lý thuyết (hoà vốn lãi lỗ): tính giống như công thức nêu trên chỉ khác ở chỗ tổng định phí chỉ được tính cho một năm của đời dự án.
+ Điểm hoà vốn tiền tệ (hoà vốn hiện giá dòng tiền) là điểm mà tại đó dự án bắt đầu có tiền để trả nợ vay (kể cả dùng khấu hao): cách tính giống như điểm hoà vốn lý thuyết nhưng định phí trừ khấu hao.
+ Điểm hoà vốn trả nợ: là điểm mà tại đó dự án có đủ tiền để trả nợ vốn vay và đóng thuế thu nhập: cách tính giống như điểm hoà vốn tiền tệ nhưng định phí trừ khấu hao cộng nợ gốc và thuế thu nhập phải trả trong năm.
Điểm hoà vốn có thể được tính cho cả đời dự án hoặc tính cho từng năm.
Chỉ tiêu này cho biết mức sản lượng hoặc doanh thu thấp nhất để đảm bảo bù đắp được chi phí bỏ ra (sản lượng hoà vốn hoặc doanh thu hoà vốn). Nếu sản lượng hoặc doanh thu thực tế của cả đời dự án lớn hơn sản lượng hoặc doanh thu hoà vốn thì dự án có lãi và ngược lại. Do đó, điểm hoà vốn càng nhỏ thì độ an toàn của dự án càng cao, thời gian thu hồi vốn càng ngắn.
Bước thứ ba, phân tích rủi ro của dự án
Dự án đầu tư thường có thời gian hoạt động khá dài (dự án trung và dài hạn) nên chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như biến động thị trường, giá cả, tỷ giá, lạm phát… Để phân tích rủi ro của dự án qua việc xem xét sự thay đổi của các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính của dự án do tác động của các yếu tố liên quan, ngân hàng thường tiến hành phân tích theo 2 phương pháp cơ bản là phân tích độ nhạy và phân tích kịch bản (tình huống).
Phân tích độ nhạy: thực chất của việc phân tích này là đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến hiệu quả tài chính của dự án và xem nhân tố nào ảnh hưởng lớn nhất, qua đó có những giải pháp thích hợp để hạn chế tác động tiêu cực, phát huy tác động tích cực của các nhân tố đối với dự án. Thông thường, hiệu quả tài chính của dự án chịu ảnh hưởng lớn của các yếu tố: chi phí đầu tư, giá bán sản phẩm, giá nguyên vật liệu chính, sản lượng, tỷ giá…
Phân tích kịch bản (tình huống): là phương pháp phân tích ảnh hưởng đồng thời của nhiều yếu tố để đánh giá độ an toàn của dự án. Kịch bản được đưa ra gồm những trường hợp có khả năng xảy ra lớn nhất kết hợp đồng thời các giả thiết về mức độ thay đổi các yếu tố. Chẳng hạn: giá bán giảm 10%, sản lượng giảm 5%, chi phí tăng 10% …
Nếu với những phương án tính toán độ nhạy hay kịch bản ứng với giả thiết có khả năng xảy ra nhiều nhất mà dự án vẫn có hiệu quả thì dự án sẽ được chấp nhận. Với các trường hợp khác, ngân hàng có thể cân nhắc thêm các chỉ tiêu khác hoặc đề xuất biện pháp thích hợp để hạn chế trường hợp xấu có thể xảy ra.
Đánh giá và ra quyết định tài trợ:
Từ những tính toán và phân tích nêu trên, ngân hàng sẽ xem xét, đối chiếu các chỉ tiêu tính toán được với các tiêu chuẩn, định mức, dự báo hay các nghiên cứu khác để ra quyết định tài trợ hay không tài trợ cho dự án.
Mỗi chỉ tiêu, mỗi phương pháp phân tích, đánh giá hiệu quả tài chính của dự án đều có những ưu nhược điểm và những giới hạn chấp nhận nhất định. Vì vậy, khi áp dụng cần hết sức linh hoạt để tránh quyết định đầu tư sai lầm nhưng cũng tránh bỏ lỡ cơ hội đầu tư tốt. Thông thường, quyết định đầu tư hay tài trợ chỉ được đưa ra trên cơ sở đã đánh giá kỹ lưỡng tổng thể một tập hợp các chỉ tiêu hiệu quả có xét đến đặc điểm của từng của dự án.
1.2. Chất lượng thẩm định tài chính DAĐT trong hoạt động cho vay của NHTM
1.2.1. Khái niệm và các chỉ tiêu phản ánh chất lượng thẩm định tài chính DAĐT
1.2.1.1. Khái niệm chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư
Thẩm định tài chính dự án đầu tư được coi là có chất lượng khi nó đạt được mục tiêu thẩm định của ngân hàng đồng thời thoả mãn được nhu cầu của khách hàng.
Mục tiêu thẩm định dự án của ngân hàng là quyết định có cho vay hay không, nếu có cho vay thì khối lượng cho vay là bao nhiêu, thời hạn cho vay và lãi suất cho vay như thế nào, phương thức giải ngân và thu nợ ra sao…
Trong khi đó, khách hàng đánh giá chất lượng thẩm định của ngân hàng thông qua thời gian thẩm định và các tiện ích mà công tác thẩm định mang lại cho khách hàng. Thời gian thẩm định hợp lý khi nó đủ để ngân hàng đánh giá dự án nhưng cũng phải phù hợp với nhu cầu kinh doanh của khách hàng bởi trong cơ chế thị trường thì vấn đề thời cơ là hết sức quan trọng. Các tiện ích mà ngân hàng có thể mang lại cho khách hàng qua công tác thẩm định là những đề xuất, tư vấn của ngân hàng đối với khách hàng về hướng phát triển dự án (mở rộng hay thu hẹp) hoặc cơ cấu nguồn vốn của dự án (điều chỉnh tỷ trọng một số nguồn vốn tăng hay giảm).
1.2.1.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư
Chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư được thể hiện qua nhiều chỉ tiêu, trong đó có những chỉ tiêu có thể định lượng được nhưng cũng có những chỉ tiêu không thể định lượng được.
Thời gian thẩm định là một chỉ tiêu có thể định lượng được. Thời gian thẩm định quá ngắn sẽ không đủ cho ngân hàng có thể đánh giá được chính xác hiệu quả của dự án để có được quyết định cho vay đúng đắn nhưng thời gian thẩm định quá dài có thể làm lỡ cơ hội kinh doanh của khách hàng và do đó bỏ lỡ cơ hội đầu tư tốt của ngân hàng. Vì vậy, cần phân biệt các loại dự án khác nhau về độ lớn, lĩnh vực, tính chất... để có những quy định cụ thể về thời gian thẩm định tối thiểu cần thiết.
Bên cạnh đó, một số chỉ tiêu có tính định lượng khác phản ánh chất lượng tín dụng cho vay trung dài hạn cũng gián tiếp phản ảnh chất lượng thẩm định tài chính của ngân hàng. Chất lượng thẩm định tốt thì sẽ có quyết định cho vay đúng đắn và do đó kết quả cho vay có chất lượng: thu đủ nợ gốc, nợ lãi đúng hạn với lãi suất hợp lý có lãi cho ngân hàng nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả cho dự án. Hay nói cách khác, doanh số cho vay, thu nợ, tỷ lệ nợ quá hạn, giãn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ… cũng cho thấy công tác thẩm định tài chính dự án đã phát huy hiệu quả như thế nào.
Những chỉ tiêu không thể định lượng được có thể kể đến việc lựa chọn hệ thống các chỉ tiêu và phương pháp thẩm định tài chính cần áp dụng đối với từng loại dự án cho phù hợp. Mỗi dự án có những đặc thù khác nhau nên cần áp dụng những chỉ tiêu và phương pháp thẩm định không giống nhau. Tuy nhiên, cần nghiên cứu xây dựng hệ thống chỉ tiêu tương đương cho những dự án tương tự nhau về số tiền, lĩnh vực ngành nghề,…
Ngoài ra, chất lượng thẩm định còn thể hiện ở tính khoa học, chính xác, khách quan, toàn diện và sâu sắc của báo cáo thẩm định, sự phù hợp của các dự báo, kết quả thẩm định trong quá trình phân tích so với các kết quả thực tế khi dự án đi vào hoạt động.
Kết quả thẩm định có chất lượng còn cung cấp cho khách hàng nhiều tiện ích như tư vấn về kế hoạch kinh doanh, phương án nguồn vốn… góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của dự án, mang lại lợi ích cho nhà đầu tư và do đó, cho cả ngân hàng.
Để đảm bảo chất lượng hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư, ngân hàng cần tuân thủ chặt chẽ quy trình và nội dung thẩm định đồng thời đảm bảo các nhân tố tích cực và hạn chế các nhân tố tiêu cực ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tài chính DAĐT
Hoạt động thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng thương mại chịu tác động của rất nhiều yếu tố. Các nhân tố về phía ngân hàng thương mại gồm có: con người, phương pháp và chỉ tiêu thẩm định, thông tin, tổ chức điều hành, trang thiết bị công nghệ. Bên cạnh đó, cơ chế chính sách quản lý của Nhà nước, rủi ro bất khả kháng và trình độ của chủ đầu tư là các nhân tố bên ngoài ngân hàng nhưng cũng ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư của ngân hàng.
a. Các nhân tố về phía ngân hàng thương mại
Con người:
Cũng như trong bất kỳ lĩnh vực nào khác, con người trong thẩm định tài chính dự án đầu tư luôn là nhân tố quyết định tới chất lượng của công tác này.
Nhân tố con người ở đây bao gồm nhận thức, trình độ, kinh nghiệm, năng lực và tư cách đạo đức của lãnh đạo, nhân viên ngân hàng đặc biệt là những người trực tiếp thẩm định dự án.
Nhận thức đúng về vai trò của công tác thẩm định có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động thẩm định. Nếu nhận thức không đúng thì thẩm định chỉ còn tính hình thức song nếu quá quan trọng hoá công tác này thì sẽ mất thời gian, tiền bạc và cơ hội kinh doanh cho cả khách hàng và ngân hàng. Từ nhận thức đúng vai trò của công tác thẩm định ta mới có thể có chính sách phù hợp về cơ chế tổ chức, nhân sự, trang thiết bị phục vụ tốt cho hoạt động thẩm định.
Con người là chủ thể trực tiếp tổ chức và thực hiện hoạt động thẩm định theo phương pháp, kỹ thuật của mình. Kết quả thẩm định là kết quả đánh giá, xem xét chủ quan của con người trên cơ sở khoa học và các tiêu thức chuẩn mực do con người đề xuất.
Con người là nhân tố trung tâm, liên kết, phối hợp các nhân tố khác trong thẩm định. Con người với trình độ, kinh nghiệm thu nhận các thông tin về dự án đầu tư, sử dụng những kiến thức khoa học, kiến thức thực tế và những phương pháp, kỹ thuật tổ chức tiến hành phân tích thông tin để đánh giá dự án. Lấy thông tin gì, ở đâu, yêu cầu chất lượng ra sao..? hoàn toàn do người thẩm định quyết định. Việc áp dụng phương pháp thẩm định nào, sử dụng những chỉ tiêu nào cũng phụ thuộc hoàn toàn vào nhân tố con người. Nếu trình độ, kinh nghiệm, năng lực của người thẩm định hạn chế thì không thể có kết quả thẩm định đáng tin cậy. Hơn nữa, nhiều dự án đầu tư thất bại không phải do trình độ mà do tư cách đạo đức của người thẩm định.
Phương pháp và chỉ tiêu thẩm định
Mỗi dự án, mỗi ngân hàng có những đặc trưng nhất định. Hơn nữa, mỗi chỉ tiêu chỉ phản ánh được một khía cạnh nào đó của dự án và mỗi chỉ tiêu đều có những ưu, nhược điểm nhất định. Vì thế, nếu chỉ sử dụng một phương pháp hoặc một chỉ tiêu thẩm định tài chính dự án thì kết quả thẩm định có thể sẽ không toàn diện, do đó, độ tin cậy không cao.
Chẳng hạn: Việc sử dụng chỉ tiêu NPV để lựa chọn phương án đầu tư thường cho kết luận đúng trong trường hợp ngân sách (nguồn vốn huy động) không bị hạn chế bởi vì phương án được chọn là phương án cho NPV cao nhất ứng với mỗi tỷ suất chiết khấu cho trước. Song nếu chúng ta ta sử dụng chỉ tiêu như khác như IRR hoặc B/C thì đôi khi cho kết quả không thoả đáng. Tuy nhiên, các dự án có mức vốn đầu tư khác nhau được đánh giá theo chỉ tiêu NPV có thể không chính xác vì dự án nhỏ có thể có NPV nhỏ hơn nhưng nếu xét tương quan cân đối với dự án lớn đặc biệt trong điều kiện giới hạn ngân sách thì lại có thể là hiệu quả hơn. Mặt khác, nếu chỉ dựa vào chỉ tiêu IRR để so sánh, lựa chọn dự án án thì có thể sẽ dẫn đến các quyết định không chính xác khi các dự án là loại trừ nhau. Dự án có IRR cao nhưng quy mô nhỏ do đó NPV nhỏ và ngược lại dự án có IRR nhỏ hơn nhưng quy mô lớn hơn nên NPV cao hơn. Việc lựa chọn phương án có IRR cao nhất có thể đã bỏ qua một cơ hội thu NPV lớn.
Thông tin
Trong thời đại ngày nay, với tình hình thị trường, công nghệ, kỹ thuật… biến động nhanh chóng thì thông tin càng trở nên vô cùng quan trọng và là yếu tố không thể thiếu được trong bất kỳ một ngành nào. Người nắm được thông tin chính là người chiến thắng trong mọi cuộc ganh đua.
Trong công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư của ngân hàng, thông tin là cơ sở cho quá trình phân tích, đánh giá, là “nguyên liệu” cho quá trình tác nghiệp của cán bộ thẩm định. Bên cạnh các thông tin do chủ đầu tư cung cấp, khả năng tiếp cận, chủ động thu thập các nguồn thông tin khác và khả năng xử lý, sử dụng các thông tin của ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo kết quả đánh giá là khách quan, chính xác.
Do vậy, thông tin đầy đủ, toàn diện, chính xác, cập nhật là một nhân tố quan trọng đảm bảo chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư của ngân hàng. Nhưng đây cũng là yếu tố rất bức xúc hiện nay ở các ngân hàng thương mại nước ta do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan như môi trường pháp lý, trình độ kỹ thuật công nghệ, trình độ phát triển của thị trường, nhận thức của con người …
Nếu sử dụng một nguồn thông tin không đáng tin cậy để đánh giá dự án thì có thể dẫn đến quyết định đầu tư sai lầm gây thiệt hại không chỉ cho riêng ngân hàng mà còn có thể cho toàn xã hội.
Do vậy, việc xây dựng hệ thống thông tin chính xác, toàn diện luôn được đặt ra như một nhu cầu cấp thiết đối với công tác thẩm định nói riêng và đối với hoạt động của ngân hàng nói chung.
Tổ chức quản lý, điều hành:
Thẩm định tài chính dự án đầu tư là tập hợp của nhiều hoạt động có liên quan chặt chẽ với nhau và các hoạt động khác. Kết quả thẩm định sẽ phụ thuộc rất nhiều vào công tác tổ chức quản lý, điều hành và sự phối hợp nhịp nhàng của các bên có liên quan trong quá trình thẩm định.
Việc thẩm định theo một trình tự hợp lý, khoa học, sắp xếp, phân bổ chức năng, nhiệm vụ phù hợp với sở trường của mỗi bộ phận, mỗi người sẽ tạo động lực, phát huy được sức mạnh tổng hợp, loại bỏ được các rủi ro đạo đức, nghề nghiệp và rút ngắn được thời gian thẩm định. Công tác tổ chức quản lý, điều hành được thực hiện một cách chặt chẽ, khoa học sẽ khai thác tối đa mọi nguồn lực, tạo ra tính “trội” trong toàn hệ thống và qua đó góp phần nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư.
Trang thiết bị, công nghệ
Như đã đề cập ở trên, thông tin là một trong những yếu tố quyết định chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư. Để có được nguồn thông tin đầy đủ, đáng tin cậy cần có sự hỗ trợ của trang thiết bị công nghệ hiện đại được kết nối với những cơ sở dữ liệu lớn. Trước đây, khi chưa có hệ thống trang thiết bị, công nghệ hiện đại để có thể tìm kiếm nguồn thông tin phục vụ cho công tác thẩm định dự án, các cán bộ có thể rất khó tìm kiếm được các nguồn thông tin tin cậy hoặc mất nhiều thời gian, chi phí cho công việc này. Nhưng ngày nay, với sự hỗ trợ của kỹ thuật, công nghệ, cán bộ thẩm định có thể dễ dàng và nhanh chóng truy cập vào các cơ sở dữ liệu khổng lồ để lựa chọn được các thông tin thích hợp.
Ngoài ra, hệ thống trang thiết bị, công nghệ hiện đại được trang bị những phần mềm chuyên dụng còn giúp cho các cán bộ thẩm định xử lý được một khối lượng thông tin lớn, tính toán, dự báo nhanh được nhiều phương án, giảm được các rủi ro phát sinh qua công đoạn xử lý, tính toán bằng tay như trước đây. Qua đó, chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư sẽ được cải thiện đáng kể.
Các nhân tố bên ngoài ngân hàng
Đây là các yếu tố từ môi trường bên ngoài ngân hàng tác động tới chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư của ngân hàng thương mại như cơ chế chính sách, pháp luật của Nhà nước, các rủi ro bất khả kháng có thể xảy ra trong quá trình hoạt động của dự án, trình độ và tính trung thực của chủ đầu tư…
Cơ chế chính sách rõ ràng, đồng bộ, nhất quán sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng chủ động thực hiện thẩm định tài chính dự án đầu tư một cách độc lập, khách quan nhưng trong khuôn khổ quy định của pháp luật.
Với thời gian thực hiện dự án tương đối dài, ngân hàng khó lường trước hết được những rủi ro bất khả kháng có thể xảy ra mà được như thiên tai, chiến tranh, biến động môi trường kinh tế vĩ mô… là những nhân tố có thể ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư của ngân hàng.
Bên cạnh đó, trình độ lập, thẩm định dự án đầu tư và tính trung thực của các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế cũng ảnh hưởng rất nhiều tới chất lượng thẩm định dự án.
Trên đây là những cơ sở lý luận cơ bản làm nền tảng để đánh giá thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong thời gian qua.
Chương 2: Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của NHNTVN
2.1. Khái quát về Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Được thành lập ngày 01/04/1963 trên cơ sở tách ra từ Cục quản lý ngoại hối của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (nay là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam), trải qua 40 năm xây dựng và trưởng thành đến nay Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (NHNTVN) luôn được biết đến như một ngân hàng thương mại Việt Nam có uy tín nhất, giữ vai trò chủ lực trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. Được Nhà nước xếp hạng là một trong 23 doanh nghiệp đặc biệt (TCT 90), NHNTVN đồng thời là thành viên của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam và Hiệp hội Ngân hàng Châu á.
Trước năm 1990, NHNTVN là ngân hàng của Chính phủ thực hiện các chính sách tiền tệ, quản lý ngoại hối, kinh doanh đối ngoại của Ngân hàng Nhà nước và cung ứng tín dụng cho các ngành kinh tế chủ chốt của đất nước theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, do đó được coi là ngân hàng duy nhất thực hiện chức năng của một ngân hàng đối ngoại.
Từ khi có pháp lệnh ngân hàng (tháng 5/1990) chuyển hệ thống ngân hàng Việt Nam sang cơ chế 2 cấp, đặc biệt là sau khi Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ký quyết định số 286/QĐ-NH5 ngày 21/09/1996 về việc ²thành lập lại NHNTVN” theo mô hình Tổng công ty Nhà nước, hoạt động của NHNTVN đã có những thay đổi đáng kể trên nhiều phương diện.
Đến nay, NHNTVN đã phát triển thành một hệ thống vững mạnh bao gồm: 48 chi nhánh (trong đó có 25 chi nhánh cấp 1 và 23 chi nhánh cấp 2) trong cả nước, 3 công ty con (1 công ty AMC, 1 công ty chứng khoán, 1 công ty tài chính tại Hồng Kông) và 3 văn phòng đại diện ở nước ngoài (Pháp, Nga và Singapore). Ngoài ra NHNTVN còn góp vốn vào 5 doanh nghiệp (2 công ty bảo hiểm, 3 công ty kinh doanh bất động sản) và 7 ngân hàng, tham gia 3 liên doanh với nước ngoài. Về quan hệ quốc tế, NHNTVN hiện có quan hệ đại lý với trên 1200 ngân hàng tại 85 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới đảm bảo phục vụ tốt các yêu cầu của khách hàng trên phạm vi toàn cầu. Ngoài vai trò là ngân hàng đi đầu trong lĩnh vực thanh toán tự động hoá sử dụng mạng SWIFT, NHNTVN được coi là ngân hàng có hệ thống công nghệ thông tin hiện đại nhất Việt nam hiện nay. Đội ngũ cán bộ của Ngân hàng gồm gần 3000 người năng động, nhiệt tình và tinh thông nghiệp vụ đã góp phần quan trọng nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
Xứng đáng với những thành tựu đó, năm 2002 là lần thứ 3 liên tiếp NHNTVN đã nhận được danh hiệu Ngân hàng Việt Nam Tốt nhất của năm do tạp chí The Bankers (thuộc tập đoàn Financial Times) trao tặng, danh hiệu Ngân hàng có chất lượng thanh toán tốt nhất Việt Nam do JP Morgan Chase trao tặng 5 năm liên tiếp, danh hiệu Ngân hàng tốt nhất Việt Nam do tạp chí EUROMONEY trao tặng năm 2002…
2.1.2. Tình hình hoạt động của NHNTVN trong những năm gần đây
Mặc dù trong những năm qua, tình hình kinh tế có nhiều biến động, môi trường đầu tư còn không ít trở ngại, thị trường tiền tệ còn nhiều bất cập, cung cầu ngoại tệ chưa ổn định, đầu tư nước ngoài chưa như mong muốn, nhưng với sự nỗ lực của bản thân cũng như sự hợp tác có hiệu quả của khách hàng, cơ quan quản lý nhà nước, NHNTVN đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Báo cáo kết quả kinh doanh
Bảng 1: Báo cáo kết quả kinh doanh của NHNTVN 1999-2002
(Đơn vị : Triệu đồng)
Mục
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Thu lãi ròng
583.173
619.283
1.222.353
858.756
Thu nhập từ thu lãi ròng và dịch vụ
767.733
790.871
1.427.875
1.134.778
Tổng thu nhập
778.796
940.561
1.709.679
1.805.235
Thu nhập hoạt động kinh doanh
487.480
609.314
1.351.028
1.469.655
Thuế
10.881
11.929
26.379
33.668
Dự phòng rủi ro
300.000
385.000
1.011.834
584.000
Lợi nhuận sau thuế
187.480
212.385
312.815
328.951
(Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNTVN năm 2000, 2001 và Tài liệu Hội nghị Giám đốc 2002).
Biểu 2: Tình hình tăng trưởng tín dụng của NHNTVN 1999-2002
Đơn vị: tỷ đồng
Biểu 3: Cơ cấu tín dụng của NHNTVN 1999-2002 (phân theo loại tiền)
2.2. Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
2.2.1. Tổ chức công tác thẩm định dự án tại NHNTVN
Mặc dù thời gian chuyển hướng sang đầu tư dự án trung dài hạn của NHNTVN chưa lâu nhưng số dự án được ngân hàng thực hiện thẩm định cũng khá nhiều, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau và ở nhiều mức độ không giống nhau từ những dự án rất lớn của các Tổng Công ty lớn đến những dự án nhỏ của các doanh nghiệp tư nhân.
Hiện nay, công tác thẩm định dự án ở Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được tổ chức như sau:
Biểu 4: Sơ đồ tổ chức công tác thẩm định của NHNTVN
Bộ phận tín dụng ở các chi nhánh có chức năng thẩm định dự án để trình duyệt cho vay tại Chi nhánh. Tại trung ương, chức năng tái thẩm định các dự án vượt mức phán quyết của chi nhánh do Phòng Đầu tư Dự án thực hiện. Mức phán quyết của các chi nhánh do Tổng giám đốc NHNTVN quyết định trong từng thời kỳ căn cứ vào năng lực của từng chi nhánh (hiện nay: mức thấp nhất là 10 tỷ đồng và mức cao nhất là 120 tỷ đồng).
2.2.2. Quy trình thẩm định tài chính dự án đầu tư
Để đảm bảo tính thống nhất về thực hiện nghiệp vụ tín dụng trong toàn hệ thống NHNTVN và tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật, NHNTVN đã ban hành Quy trình Nghiệp vụ Tín dụng (kèm theo Quyết định số 130/NHNT.QLTD ngày 12/08/2002) hướng dẫn các thủ tục cần thiết, các giải pháp mang tính kỹ thuật trong quá trình xét duyệt cho vay, kiểm tra khoản vay và thu hồi nợ. Theo đó, quy trình thực hiện cho vay gồm 3 khâu chính là xét duyệt cho vay, phát tiền vay và kiểm tra sử dụng vốn vay, thu nợ.
Trong khâu xét duyệt cho vay, thẩm định cho vay được thực hiện sau khi nhận và kiểm tra hồ sơ đề nghị vay vốn nhưng trước khi ra quyết định cho vay.
Quy trình thẩm định tài chính dự án đầu tư tại NHNTVN tương tự như quy trình thẩm định được nêu trong chương 1, tuy có một số dự án đặc biệt, các bước thực hiện có thể không đủ và không hoàn toàn theo trình tự đã nêu.
2.2.3. Nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư
Hiện nay, mỗi ngân hàng thương mại có cách thức và nội dung thẩm định tài chính nhất định. ở NHNTVN, thẩm định tài chính dự án đầu tư được thực hiện theo những nội dung sau:
Thẩm định tính khả thi và hợp lý của tổng vốn đầu tư và nguồn vốn:
Trong nội dung này, cán bộ thẩm định của Ngân hàng xem xét, đánh giá tổng vốn đầu tư của dự án đã được tính toán hợp lý hay chưa, tổng vốn đầu tư đã tính đủ các khoản chi phí cần thiết chưa… Ngoài ra, cần xem xét, dự tính các yếu tố có thể làm thay đổi tổng mức vốn đầu tư như các chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng, điện nước phục vụ thi công, lãi vay trong thời gian thi công, biến động tỷ giá, trượt giá…
Tổng vốn đầu tư cho dự án thường bao gồm: vốn xây lắp (bao gồm cả chi phí khảo sát, tiền thuê đất, xây dựng công trình…), vốn thiết bị (nhập khẩu, mua trong nước hoặc tận dụng thiết bị hiện có), vốn lưu động, bảo hiểm, dự phòng, lãi vay trong thời gian thi công, vốn lưu động hoạt động ban đầu… Thông thường, kết quả phê duyệt tổng vốn đầu tư của các cấp có thẩm quyền là hợp lý. Tuy nhiên, trên cơ sở những dự án tương tự đã cho vay hoặc đã thực hiện, cán bộ thẩm định sau khi so sánh nếu thấy có sự khác biệt lớn ở bất kỳ một nội dung nào thì phải tập trung phân tích, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra nhận xét. Từ đó, cán bộ thẩm định xây dựng cơ cấu vốn đầu tư hợp lý mà vẫn đảm bảo đạt được mục tiêu dự kiến ban đầu của dự án để làm cơ sở xác định mức tài trợ tối đa mà ngân hàng nên tham gia vào dự án
Căn cứ tiến độ thực hiện dự án, cán bộ thẩm định xem xét, đánh giá tiến độ thực hiện dự án và nhu cầu vốn cho từng giai đoạn. Việc xác định nhu cầu vốn đầu tư theo tiến độ thực hiện dự án là cơ sở cho việc dự kiến tiến độ giải ngân và tính toán lãi vay trong thời gian thi công.
Trên cơ sở tổng mức đầu tư, cán bộ thẩm định rà soát lại từng nguồn vốn tham gia tài trợ cho dự án, đánh giá khả năng tham gia của từng loại nguồn vốn như vốn tự có, vốn vay trong và ngoài nước và các nguồn vốn khác, chi phí của từng loại nguồn vốn, các điều kiện vay đi kèm của từng loại nguồn vốn. Cân đối giữa nhu cầu vốn và khả năng tham gia tài trợ của các nguồn vốn dự kiến để đánh giá tính khả thi của các nguồn vốn thực hiện dự án.
Tính toán và phân tích các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án:
Dựa vào các phân tích, đánh giá về phương diện thị trường, kỹ thuật và các thông tin khác liên quan đến dự án, cán bộ thẩm định đề xuất các thông số đầu vào là cơ sở tính toán hiệu quả tài chính của dự án như: cơ cấu vốn đầu tư, nguồn vốn, lãi suất vốn vay, công suất khả dụng, giá bán, doanh thu, chi phí sản xuất, giá thành, thuế suất liên quan, tỷ giá, tốc độ biến động tỷ giá, trượt giá, lạm phát (nếu có tính), phương pháp khấu hao và tỷ lệ chiết khấu được chọn…
Trên cơ sở đó, cán bộ thẩm định xây dựng các bảng dự trù tài chính như báo cáo kết quả kinh doanh và bảng cân đối khả năng trả nợ đồng thời tính toán các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án ở phương án cơ sở. Trong trường hợp cần thiết, cán bộ thẩm đinh có thể lập thêm các bảng tính trung gian như bảng tính khấu hao, lãi vay, chi phí hoạt động, sản lượng và doanh thu…
Từ các bảng dự trù tài chính được thiết lập, cán bộ thẩm định tính toán dòng tiền ròng của dự án gồm chi phí đầu tư trong thời gian thi công và thu nhập ròng trong thời gian vận hành của dự án. Theo cách tính toán hiện tại của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, thu nhập ròng của dự án gồm có nguồn lợi nhuận ròng (lợi nhuận sau thuế) và nguồn khấu hao cơ bản hàng năm.
Sau đó, cán bộ tín dụng lựa chọn một tỷ lệ chiết khấu hợp lý tuỳ theo đặc điểm từng dự án. Đối với các dự án đầu tư chủ yếu bằng vốn vay ngân hàng, tỷ lệ chiết khấu được chọn thường lớn hơn hoặc tối thiểu bằng lãi suất vay vốn dự kiến. Trường hợp vay bằng nhiều nguồn vốn có lãi suất khác nhau thì có thể tính bình quân gia quyền các lãi suất đó để có chi phí sử dụng vốn bình quân và tỷ lệ chiết khấu sẽ tính cộng thêm một tỷ lệ dự phòng rủi ro nhất định.
Trên cơ sở dòng tiền ròng và tỷ lệ chiết khấu được chọn, cán bộ tín dụng tính toán các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án. Các chỉ tiêu thường được sử dụng bao gồm NPV, IRR, B/C, PI, điểm hoà vốn, thời gian hoàn vốn vay, thời gian hoàn vốn đầu tư, cân đối khả năng trả._.a vào hồ sơ chủ dự án trình lên hay căn cứ hoàn toàn vào kết quả phê duyệt của các cơ quan nhà nước. Ngoài ra, thời gian hoạt động của các dự án thường khá dài (dự án trung dài hạn) nên ngân hàng cần dự báo, phân tích sự biến động của các nhân tố tác động tới tổng vốn đầu tư như biến động tỷ giá, lạm phát, thay đổi công nghệ,…để có những phương án dự phòng hợp lý.
Về nội dung tính toán doanh thu, chi phí, luồng tiền của dự án, ngoài việc quan tâm đến nguồn cung cấp và thị trường tiêu thụ, ngân hàng cần quan tâm đến những yếu tố thường xuyên biến động và có ảnh hưởng đến doanh thu, chi phí như: tỷ giá (nhất là trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh phụ thuộc nhiều vào thị trường bên ngoài như sắt thép, phân bón, nông sản…) lạm phát, biến động liên quan đến mặt hàng thay thế, bổ sung, chiến lược của doanh nghiệp cạnh tranh…Tuỳ từng dự án, cán bộ thẩm định sẽ xem xét những yếu tố nào ảnh hưởng nhiều đến doanh, thu, chi phí để từ đó có hướng phân tích, nghiên cứu kỹ hơn. Ngoài ra, một giải pháp có thể được áp dụng là xây dựng các mô hình kinh tế lượng để dự báo khả năng cung cấp nguyên liệu đầu vào, khả năng tiêu thụ sản phẩm… Tuy nhiên để có sơ sở thực hiện dự báo theo các mô hình này, ngân hàng cần làm tốt công tác thống kê và nghiên cứu thị trường (nghiên cứu quy hoạch phát triển, đối thủ cạnh tranh, điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với sản phẩm và doanh nghiệp, định vị sản phẩm trên thị trường…).
Khi tính toán các khoản mục chi phí, ngân hàng tham khảo các định mức kinh tế, kỹ thuật, đơn giá quy định của nhà nước đồng thời tìm hiểu, tham khảo các chỉ tiêu tài chính những năm trước của doanh nghiệp vay vốn cũng như của các dự án tương tự đã và đang hoạt động.
Riêng đối với những dự án lớn, có tính chất phức tạp, việc thẩm định về mặt kỹ thuật, công nghệ (bao gồm cả giá thiết bị) khó khăn hoặc lĩnh vực đầu tư còn mới ở Việt Nam, chưa có cơ sở thông tin tin cậy để so sánh, đánh giá, ngân hàng có thể thuê tư vấn trong và ngoài nước nếu thấy thực sự cần thiết.
Về nội dung tính toán các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính: tính khả thi và hiệu quả của dự án cần là yếu tố đầu tiên được ngân hàng xem xét để quyết định việc tài trợ cho dự án chứ không thể là biện pháp đảm bảo tiền vay như thực tế đôi khi vẫn xảy ra do chịu do ảnh hưởng yếu tố tâm lý của cán bộ tín dụng. Do vậy, việc tính toán các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án phải được thực hiện một cách khách quan, độc lập không phụ thuộc vào việc đánh giá biện pháp đảm bảo tiền vay.
Hiện nay, lý thuyết cũng như thực tiễn để đánh giá hiệu quả tài chính của một dự án đầu tư người ta thường sử dụng các chỉ tiêu: giá trị hiện tại ròng (NPV), hệ số hoàn vốn nội bộ (IRR), thời gian hoàn vốn (PP), chỉ số doanh lợi (PI). Tuy nhiên, việc áp dụng các chỉ tiêu không nên cứng nhắc, nguyên tắc mà đòi hỏi ngân hàng phải vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với khả năng, điều kiện của mình và trong từng dự án cụ thể, có thể kết hợp thêm một số chỉ tiêu như hệ số hoàn vốn nội bộ điều chỉnh (MIRR), tỷ lệ lợi ích - chi phí (B/C) để việc phân tích được chặt chẽ và toàn diện hơn.
Dù tính toán theo chỉ tiêu nào thì cũng cần lưu ý tới giá trị thời gian của tiền, tỷ suất chiết khấu, giá trị thu hồi vốn lưu động ròng và thanh lý tài sản cố định.
Tỷ lệ chiết khấu biểu thị mức doanh lợi tối thiểu dự án cần đạt được và thể hiện giá trị thời gian của tiền hay chi phí cơ hội của vốn đầu tư. Việc xác định tỷ lệ chiết khấu hợp lý là đặc biệt quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến việc đánh giá hiệu quả tài chính của dự án. Thông thường, tỷ lệ chiết khấu được xác định theo các phương pháp sau:
Chọn chi phí sử dụng vốn bình quân gia quyền (WACC) làm tỷ lệ chiết khấu. Phương pháp này phản ánh chính xác nhất chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn đầu tư nhưng trong điều kiện hiện nay của Việt Nam rất khó xác định cho phí sử dụng vốn tự có của doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp nhà nước. Ngân hàng có thể căn cứ vào lãi suất tiền gửi có kỳ hạn hoặc tỷ suất lợi tức hiện tại của doanh nghiệp để tính toán.
Lấy lãi suất trái phiếu kho bạc Nhà nước cộng thêm mức độ rủi ro tương ứng trong lĩnh vực, ngành nghề của dự án làm tỷ lệ chiết khấu. Phương pháp này được áp dụng rất rộng rãi trên thế giới trong việc đánh giá hiệu quả tài chính dự án đầu tư nhưng thực tế ở Việt Nam chưa phản ánh chính xác chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn. Do thị trường tài chính Việt Nam chưa hoàn toàn phát triển, lãi suất trái phiếu kho bạc không phải là mức lãi suất thấp nhất trên thị trường vốn. Hơn nữa, việc xác định mức độ rủi ro của từng lĩnh vực, từng ngành nghề không đơn giản nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường đang trong quá trình phát triển và dần hoàn thiện ở Việt Nam hiện nay.
Với các dự án có tỷ lệ sử dụng vốn vay cao, Ngân hàng chọn tỷ lệ chiết khấu là lãi suất cho vay dự kiến được điều chỉnh tăng một tỷ lệ phần trăm nhất định dự phòng rủi ro. Nếu lãi suất của các nguồn vốn vay khác nhau thì có thể lấy lãi suất bình quân (gia quyền) của các lãi suất vay. Phương pháp này gần giống phương pháp tính chi phí sử dụng vốn trung bình nhưng với vốn tự có tính chung lãi suất như vốn vay. Đây là phương pháp có lẽ thích hợp nhất trong điều kiện của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay khi nhìn chung các dự án được tài trợ qua kênh ngân hàng.
Thông thường, tỷ lệ chiết khấu được cố định trong suốt thời gian hoạt động của dự án, Tuy nhiên, ngân hàng có thể sử dụng tỷ lệ chiết khấu thay đổi để phản ánh tác động của môi trường kinh tế (lạm phát, tỷ giá, độ rủi ro…) tới dự án.
Là nhà tài trợ, ngoài việc tính toán các chỉ tiêu hiệu quả tài chính trong thời gian vay vốn, ngân hàng cần tính thêm các chỉ tiêu này trong cả đời dự án hoặc ít nhất cũng trong thời gian khấu hao phần thiết bị chính để có thể đánh giá hiệu quả tổng thể của dự án, đặc biệt khi cần so sánh, lựa chọn dự án đầu tư.
Trong phân tích tài chính hàng năm của dự án, ngân hàng có thể sử dụng phương pháp phân tích tỷ lệ với một số chỉ tiêu cơ bản như: hệ số nợ, ROA, ROE, khả năng thanh toán hiện hành, khả năng thanh toán nhanh…
Ngoài phân tích tỷ lệ, ngân hàng có thể sử dụng phương pháp phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn, phương pháp phân tích tiền mặt..để đánh giá khả năng tài chính của dự án.
Bên cạnh đó, cần nghiên cứu khả năng áp dụng các mô hình tính toán tiên tiến trên thế giới như mô hinh CAPM (Capital Assets Pricing Model)…
Về nội dung phân tích rủi ro của dự án: Do thời gian hoạt động và thời gian vay vốn thường khá dài nên các cơ sở tính toán hiệu quả tài chính có thể thay đổi trong thực tế. Việc phân tích rủi ro của dự án thực chất là đánh giá hiệu quả dự án trong trạng thái động, gắn liền với những biến động có thể có của thị trường để từ đó giúp ngân hàng lường trường các rủi ro và có biện pháp phòng tránh thích hợp.
Hai phương pháp phổ biến thường được áp dụng để phân tích rủi ro là phân tích độ nhạy và phân tích tình huống (Phân tích kịch bản).
Phân tích độ nhạy nhằm xác định giá trị và mức độ biến động của các chỉ tiêu hiệu quả tài chính (NPV, IRR, …) khi các yếu tố cơ bản như giá nguyên, nhiên, vật liệu chính, giá bán sản phẩm, tổng vốn đầu tư, tỷ giá, lạm phát.. thay đổi. Ngoài phân tích theo điểm đặc trưng, ngân hàng cần kết hợp phân tích theo dãy để thấy được các điểm nhạy cảm và độ co giãn của các chỉ tiêu hiệu quả tài chính khi các yếu tố đầu vào biến động.
Phân tích kịch bản: phương pháp này cho phép kết hợp nghiên cứu độ nhạy của các chỉ tiêu tổng hợp (NPV, IRR, …) với phân tích xác suất độ lệch của chúng. Nội dung phương pháp này như sau:
Xác định một số phương án về những biến động có thể xảy ra với những chỉ tiêu cho trước (tình huống tốt nhất, bình thường, xấu nhất)
Gắn cho mỗi phương án một xác suất có thể xảy ra (căn cứ vào thống kê xác suất trong một quá trình)
Tính toán giá trị của các chỉ tiêu được chọn và xác định độ lệch so với giá trị trung bình của chúng.
Ví dụ, với chỉ tiêu NPV, giá trị trung bình của NPV là:
Độ lệch chuẩn:
Trong đó: n : số phương án
NPVi : giá trị NPV tại phương án i (i=1án)
Pi : xác suất xảy ra phương án i
M(NPV): giá trị trung bình của NPV (kỳ vọng toán)
d(NPV) : độ lệch chuẩn của NPV
Tiến hành phân tích phân phối xác suất của chỉ tiêu được chọn.
Giả sử NPV tuân theo quy luật phân bố chuẩn với kỳ vọng toán M(NPV), độ lệch chuẩn dNPV. Khi đó xác suất để NPV lớn hơn hoặc nhỏ hơn số x nào đó được xác định như sau:
Phương pháp này còn được gọi là phân tích mô phỏng - tuy có độ chính xác cao nhưng cần phải có cơ sở dữ liệu phong phú để xác định được xác suất xảy ra và có phương tiện kỹ thuật hiện đại để tính toán. Thực tế, phương pháp này chưa được áp dụng rộng rãi ở Việt Nam nhưng trong tương lai, khi trình độ kỹ thuật, công nghệ của chúng ta phát triển, việc lưu trữ và phân tích thông tin được thực hiện thường xuyên và khoa học hơn thì phương pháp này sẽ là một công cụ rất hữu hiệu cho các nhà phân tích tài chính.
3.2.3. Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng nguồn thông tin phục vụ thẩm định
Chất lượng thẩm định tài chính dự án phụ thuộc rất nhiều và số lượng và chất lượng nguồn thông tin thu thập được. Trong khi đó có thể nói, khó khăn lớn nhất đối với công tác thẩm định tài chính dự án hiện nay là thiếu các nguồn thông tin đáng tin cậy. Thực tế, cán bộ khi thẩm định thường dựa trên cơ sở thông tin thu thập được từ khách hàng là chủ yếu vì khả năng thu thập thông tin từ các nguồn khác rất hạn chế. Do vậy, việc xây dựng, củng cố và phát triển hệ thống thông tin đảm bảo cung cấp chính xác, kịp thời, đầy đủ các thông tin cần thiết phục vụ công tác thẩm định tài chính dự án là yêu cầu bức thiết của ngân hàng.
Nguồn thông tin nội bộ:
Trên cơ sở hệ thống trang thiết bị được coi là hiện đại nhất trong hệ thống ngân hàng Việt nam, NHNT cần phát huy thế mạnh về công nghệ thông tin xây dựng một hệ thống lưu trữ và cung cấp thông tin nội bộ hiện đại, khoa học trong toàn hệ thống NHNTVN. Tất cả các bộ phận thuộc toàn hệ thống có nghĩa vụ và trách nhiệm phải cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, thường xuyên cho hệ thống thông tin nội bộ này. Đặc biệt, cần thống nhất quy định về các loại thông tin phải cung cấp mang tính bắt buộc và những loại thông tin tham khảo để tập hợp theo khách hàng, theo ngành nghề, lĩnh vực hoặc theo tính chất thông tin (thông tin về tài chính, về thị trường, về tình hình kinh tế xã hội, về các dự án đã thẩm định…).
Ngoài chức năng thu thập và khai thác thông tin từ mạng CIC của NHNN, bộ phận thông tin tín dụng tại TW và tại các chi nhánh cần tăng cường thêm các chức năng thu thập, lưu trữ và cung cấp thông tin chuyên ngành, phân tích xác suất và các đặc trưng của từng ngành nghề, từng lĩnh vực đầu tư trong nền kinh tế làm cơ sở cung cấp thông tin cho bộ phận tín dụng và thẩm định.
Bên cạnh đó, cần tăng cường trao đổi thông tin, học hỏi kinh nghiệm giữa các bộ phận tín dụng và thẩm định của các chi nhánh và TW thông qua việc hợp tác thực hiện các dự án (cho vay hợp vốn trong cùng hệ thống NHNT) hoặc thông qua các buổi hội nghị, hội thảo, các lớp tập huấn về nghiệp vụ tín dụng nói chung và nghiệp vụ thẩm định dự án đầu tư nói riêng.
Nguồn thông tin từ bên ngoài
Ngoài nguồn thông tin nội bộ rất quan trọng và có thể chủ động, ngân hàng cần da dạng hoá các nguồn thông tin từ bên ngoài vì đây là nguồn thông tin rất phong phú và có tiềm năng khai thác rất lớn.
Hiện nay, mạng thông tin tín dụng CIC của NHNN có thể cung cấp những thông tin tương đối đầy đủ về tình hình quan hệ tín dụng của từng khách hàng với các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên độ chính xác của thông tin do CIC NHNN cung cấp phụ thuộc vào độ chính xác của các báo cáo do các ngân hàng thương mại cung cấp. Vì vậy, cần nâng cao trách nhiệm của các ngân hàng trong việc lập báo cáo cung cấp cho CIC. Ngoài ra, NHNT cần chủ động khai thác thêm thông tin từ các bộ phận khác thuộc NHNN như vụ chiến lược ngân hàng, vụ tín dụng, vụ chính sách tiền tệ, vụ các ngân hàng, vụ quản lý ngoại hối… Với chức năng là ngân hàng quản lý, điều hành các ngân hàng thương mại, thông tin từ NHNN sẽ là nguồn thông tin bổ sung rất quan trọng cho công tác thẩm định dự án. Măt khác, sự hợp tác giữa các ngân hàng thương mại cần được thắt chặt hơn vì lợi ích của cả hai bên và vì lợi ích chung của toàn ngành ngân hàng và của đất nước.
Bên cạnh nguồn thông tin trong nội bộ ngành ngân hàng, thông tin từ báo chí, từ mạng thông tin toàn cầu (internet), từ các cơ quan quản lý (Bộ, ngành chủ quản), cơ quan thống kê, các công ty kiểm toán, từ khách hàng là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tương tự… cũng cần được tích cực khai thác. Muốn vậy, NHNT cần thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan này vì mục tiêu phục vụ lâu dài cho các hoạt động của ngân hàng.
3.2.4. Tăng cường số lượng và chất lượng cán bộ tín dụng và thẩm định
Nhân tố con người là nhân tố quan trọng nhất quyết định chất lượng thẩm định vì cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định là những người trực tiếp thực hiện công việc thu thập thông tin, phân tích, đánh giá và đề xuất phương án thực hiện các khoản vay. Kết quả thẩm định sẽ có độ tin cậy cao nếu được thực hiện một cách khách quan, khoa học và công tâm - điều đó phụ thuộc chủ yếu vào năng lực và đạo đức của cán bộ thẩm định. Bên cạnh đó, nhằm đảm bảo chất lượng tín dụng an toàn, đủ nhân lực để đón bắt các cơ hội kinh doanh mới, việc tăng cường lực lượng cán bộ tín dụng cả về chất lượng và số lượng cần được coi là nhiệm vụ chiến lược của NHNTVN trong thời gian tới. Cán bộ thẩm định phải nắm vững quy trình nghiệp vụ tín dụng, quy trình và phương pháp thẩm định đồng thời có kinh nghiệm, hiểu biết sâu rộng về các nghiệp vụ ngân hàng và các lĩnh vực kinh tế xã hội có liên quan. Để đáp ứng được những yêu cầu đó, NHNTVN cần tập trung vào những công việc sau:
Về tuyển dụng cán bộ: Ngân hàng cần có những chính sách hợp lý để thu hút những sinh viên giỏi của các trường thuộc các chuyên ngành kinh tế, tài chính, ngân hàng, thương mại, kỹ thuật, pháp lý cũng như những người có trình độ, năng lực, kinh nghiệm về tín dụng và thẩm định dự án để vào làm việc hoặc cộng tác với ngân hàng về lĩnh vực tín dụng. Việc thuyên chuyển những cán bộ đã có kinh nghiệm ở các bộ phận khác như quản lý vốn, kinh doanh ngoại tệ, kế toán tổng hợp, thanh toán… cũng cần được cân nhắc để bổ sung lực lượng cho đội ngũ cán bộ tín dụng.
Về vấn đề bố trí cán bộ: Ngân hàng cần căn cứ vào tính chất phức tạp của từng dự án và trình độ, năng lực, đạo đức của từng cán bộ để phân công công việc cho phù hợp; đặt kế hoạch bồi dưỡng hay chuyển sang làm công việc khác đối với những cán bộ không đáp ứng được yêu cầu công việc. Với khối lượng công việc ngày càng lớn như hiện nay, cần tăng cường lực lượng cán bộ để bố trí cho phù hợp, tuyệt đối tránh tình trạng quá tải đối với cán bộ tín dụng vì khi đó tiềm ẩn rủi ro rất lớn cho hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung.
Về cơ chế đãi ngộ: do đặc thù nghiệp vụ tín dụng phức tạp và có độ rủi ro khá lớn nên Ngân hàng cần nghiên cứu khung lương, thưởng hợp lý để kích thích cán bộ tín dụng hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Công tác thẩm định có nhu cầu cập nhật thông tin rất lớn nên không giống các bộ phận khác thường chỉ làm việc tại văn phòng, cán bộ tín dụng thường phải đi lại nhiều để gặp gỡ khách hàng, đi tìm hiểu thông tin từ các cơ quan, ban ngành, bạn hàng…. Vì vậy, ngân hàng nên xem xét cung cấp những phương tiện làm việc cần thiết tạo thuận lợi cho công việc của cán bộ thẩm định như phương tiện đi lại, điện thoại di động, máy tính sách tay… Trước mắt, khi điều kiện cơ sở vật chất chưa cho phép cung cấp đầy đủ cho tất cả các cán bộ tín dụng thì có thể ưu tiên cấp cho cấp lãnh đạo phòng hoặc cho một vài nhóm trong phòng để thay nhau sử dụng khi có nhu cầu. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần nghiên cứu ban hành những quy định, chế tài xử lý nghiêm khắc những cán bộ vì lợi ích cá nhân, vì thiếu tinh thần trách nhiệm gây thất thoát vốn của ngân hàng.
Về bối dưỡng, đào tạo cán bộ: ngân hàng cần nghiên cứu, xây dựng chương trình cụ thể về đào tạo, bồi dưỡng cho các cán bộ tín dụng, thẩm định. Ngoài các đợt tập huấn nghiệp vụ tín dụng được tổ chức hàng năm như hiện nay, cần thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề về kinh nghiệm cho vay, thẩm định dự án (chú trọng kỹ năng đánh giá, phân loại khách hàng và kĩ năng phân tích tài chính, thẩm định dự án…). Lực lượng giảng dạy có thể là chính các cán bộ tín dụng, thẩm định có trình độ, kinh nghiệm của ngân hàng hoặc thuê các chuyên gia từ các Bộ tài chính, Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng bạn, hoặc các trường có uy tín như trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Ngoại thương, Học viện Ngân hàng, Học viện Tài chính… Để cán bộ có thêm cơ hội tiếp cận với các phương pháp và kỹ năng thẩm định hiện đại cũng như kinh nghiệm của các nước đi trước, có thể mời chuyên gia nước ngoài đến giảng dạy, nói chuyện, trao đổi kinh nghiệm hoặc liên hệ, cử các cán bộ thẩm định đi thực tập tại các ngân hàng nước ngoài. Do hiện nay, năng lực của một số chi nhánh về thẩm định dự án nhất là các dự án lớn có tính chất phức tạp còn yếu nên cần thường xuyên tổ chức cho cán bộ tín dụng nhất là cán bộ của những chi nhánh yếu đi thực tập về thẩm định dự án tại các chi nhánh có năng lực thẩm định tốt hơn như Hội sở chính, Chi nhánh Tp. Hồ Chí Minh, Chi nhánh Tân Thuận, Bình Dương…
Mặt khác, cần khuyến khích cán bộ tín dụng chịu khó tự trau dồi kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau và nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công việc; chú ý sắp xếp, quy hoạch, bồi dưỡng các cán bộ có năng lực, có tinh thần trách nhiệm cao và ý thức vươn lên trong công việc vào những vị trí quan trọng chủ chốt để nêu gương cho các cán bộ khác.
3.2.5. Nâng cấp trang thiết bị công nghệ phục vụ công tác thẩm định
Với cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện có có thể nói rằng NHNT là ngân hàng đi đầu trong việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Nhưng để có thể phát huy hơn nữa vai trò hàng đầu của mình cũng như tiến tới hoà nhập với thị trường ngân hàng tài chính khu vực và trên thế giới, NHNTVN cần tiếp tục thực hiện chương trình đổi mới công nghệ một cách toàn diện đặc biệt là trong lĩnh vực tín dụng.
Hệ thống trang thiết bị thông tin cần được tiếp tục hoàn thiện trong toàn hệ thống để tránh tình trạng chênh lệch giữa các chi nhánh lớn với các chi nhánh nhỏ. Thực hiện nối mạng nội bộ và nối mạng internet để tạo điều kiện cung cấp thông tin toàn diện, cập nhật thường xuyên, nhiều chiều trong và cho toàn hệ thống.
Những chương trình phần mềm phục vụ đắc lực cho nghiệp vụ thẩm định đặc biệt là việc phân tích tài chính cần được nghiên cứu xây dựng một cách khoa học hoặc đặt mua nếu thực sự cần thiết và cần được cung cấp, cập nhật thường xuyên cho toàn hệ thống.
Đi đôi với việc trang bị những phương tiện kỹ thuật, công nghệ hiện đại, công tác đào tạo cần được triển khai rộng rãi hơn nhằm tạo điều kiện cho cán bộ nâng cao trình độ, tăng khả năng thích ứng với các trang thiết bị và công nghệ mới.
3.2.6. Hoàn thiện công tác tổ chức điều hành
Thẩm định dự án đầu tư là một quy trình thống nhất, tập hợp của rất nhiều hoạt động khác nhau nhưng có liên quan chặt chẽ với nhau. Do vậy, việc sắp xếp tổ chức hợp lý, khoa học quy trình này để các bộ phận trong hệ thống cùng phối hợp hoạt động một cách nhịp nhàng, hiệu quả là một yêu cầu tất yếu nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án.
Hướng tới mục tiêu phát triển tín dụng bền vững và hiệu quả, nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư, công tác tổ chức và điều hành trong hoạt động thẩm định cho vay của NHNTVN cần được tiến hành nghiêm túc với các giải pháp cụ thể như sau:
Rà soát lại đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định, phân công bố trí cán bộ theo trình độ, năng lực của cán bộ và tính chất dự án chứ không nên căn cứ vào thời điểm dự án được tiếp cận với ngân hàng như hiện nay. Quy trình tín dụng cần phân định rõ hơn nữa quyền lợi, trách nhiệm giữa bộ phận thẩm định và bộ phận quyết định cho vay.
Nghiên cứu và bổ sung “Hướng dẫn quy trình, nội dung thẩm định dự án đầu tư” vào “Cẩm nang tín dụng” hiện đang được xây dựng với sự tư vấn của Công ty kiểm toán Earnest & Young. Quy trình thẩm định này cần được xây dựng một cách khoa học, chi tiết hơn trên cơ sở tình hình thực tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và sắp tới. Các mẫu biểu, chỉ tiêu, phương pháp thẩm định cần được bổ sung, cập nhật cho phù hợp với tình hình mới.
Đánh giá lại năng lực thẩm định của từng chi nhánh để xác định lại hạn mức đầu tư dự án trung dài hạn của từng chi nhánh cho phù hợp. Nên tập trung thẩm định dự án đầu tư trung dài hạn có quy mô lớn, tính chất phức tạp tại một số chi nhánh có năng lực khá như Hội sở chính, Chi nhánh Tp. Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Tân Thuận…. Các chi nhánh thuộc các địa bàn khác chỉ được thẩm định cho vay những dự án trong hạn mức đầu tư dự án trung dài hạn, nếu vượt hạn mức này thì chuyển ra TW hoặc chuyển qua các chi nhánh nói trên thẩm định cho vay.
Tăng cường sự phối hợp giữa các chi nhánh, các phòng ban tại Hội sở chính nhằm đảm bảo cung cấp đầy đủ và kịp thời những thông tin cần thiết phục vụ cho công tác thẩm định.
Tích cực tham gia các tổ thẩm định chung khi xem xét đồng tài trợ cho các dự án đầu tư trung dài hạn để học hỏi lẫn nhau và trao đổi kinh nghiệm về thẩm định dự án.
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính DAĐT
Thẩm định dự án đầu tư nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng là hoạt động phức tạp, có phạm vi xem xét rộng liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau. Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính của các ngân hàng, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp dựa trên cơ sở một kế hoạch tổng thể thống nhất. Có như vậy, những giải pháp đề ra mới có tính khả thi, đáp ứng được yêu cầu của hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại. Xuất phát từ yêu cầu phát triển của hệ thống nhân hàng nói chung và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói riêng, tôi xin đề xuất một số kiến nghị với Chính phủ, các bộ ngành và chính quyền địa phương; với ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại khác; với các doanh nghiệp là chủ đầu tư các dự án.
3.3.1. Kiến nghị với Chính Phủ, các Bộ ngành và chính quyền địa phương
Chính phủ cần chỉ đạo các doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện chế độ thống kê, kế toán, kiểm toán và báo cáo thông tin đồng thời xây dựng và ban hành những quy định ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp, những chế tài áp dụng đối với những doanh nghiệp không thực hiện đúng những chế độ đó. Như vậy, những thông tin do khách hàng cung cấp cho các ngân hàng sẽ trung thực hơn và có độ tin cậy cao hơn, tạo điều thuận lợi cho ngân hàng thẩm định.
Chính phủ và các Bộ ngành cần nghiên cứu thành lập hoặc khuyến khích thành lập các tổ chức, doanh nghiệp chuyên thu thập, đánh giá thông tin, xếp hạng doanh nghiệp, tư vấn đầu tư… đồng thời ban hành các văn bản pháp luật quy định về việc mua bán thông tin, dịch vụ tư vấn và trách nhiệm của các bên liên quan.
Bộ Công nghiệp, Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính cần sửa đổi các quy định về đơn giá xây dựng, định mức tiêu hao nguyên vật liệu, giới hạn suất đầu tư, định mức các hạng mục chi phí đầu tư hợp lý cho từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể, phù hợp với tình hình và điều kiện kinh tế xã hội trong giai đoạn mới. Các bộ, ban ngành cần tham mưu một cách khách quan, khoa học, chi tiết các định hướng và quy hoạch phát triển cho từng ngành, từng lĩnh vực.
Ngoài ra, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ ngành, các chính quyền địa phương có liên quan trong việc thẩm định, phê duyệt dự án nhằm nâng cao chất lượng và độ tin cậy của các báo cáo nghiên cứu khả thi cũng như các quyết định phê duyệt đầu tư của các cấp làm cơ sở pháp lý quan trọng và thực sự có giá trị cho các ngân hàng. Các cơ quan, ban ngành, chính quyền địa phương cần phối hợp, trao đổi thông tin thường xuyên về các lĩnh vực đầu tư và các doanh nghiệp thuộc ngành mình, địa phương mình quản lý để có định hướng, quy hoạch cho phù hợp tránh tình trạng có lĩnh vực thì đầu tư tràn lan, có lĩnh vực thì đầu tư quá ít không đáp ứng được nhu cầu thực tế. Đối với các ngân hàng thương mại, các cơ quan, ban ngành, chính quyền địa cần coi việc phối hợp cung cấp thông tin một cách khách quan, trung thực cho các ngân hàng là một nhiệm vụ của mình vì quyền lợi chung của ngành và của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước và các NHTM khác
Với vị trí là ngân hàng quản lý các ngân hàng thương mại, Ngân hàng Nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ với các ngân hàng, đặc biệt trong việc cung cấp thông tin qua mạng của Trung tâm phòng ngừa rủi ro tín dụng CIC. Tuy nhiên, vai trò thực sự của những thông tin này chưa cao do số lượng và chất lượng thông tin chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra ngày càng cao của các ngân hàng thương mại. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu, mở rộng phạm vi nội dung và nâng cao chất lượng thông tin của CIC, tăng cường sự điều phối và tổ chức cung cấp thông tin của CIC qua các biện pháp cụ thể như sau:
Cần nghiên cứu, sửa đổi những quy định về yêu cầu bắt buộc cung cấp thông tin của các ngân hàng thương mại bao gồm cả ngân hàng thương mại quốc doanh và các ngân hàng khác đặc biệt là các ngân hàng thương mại cổ phần cho NHNN, đồng thời làm rõ những yêu cầu về tính trung thực, tính đầy đủ, tính cập nhật của thông tin được cung cấp, trách nhiệm của các ngân hàng và chế tài áp dụng trong trường hợp thông tin cung cấp không đảm bảo các yêu cầu đề ra. Có như vậy, những thông tin do các ngân hàng cung cấp (thông tin đầu vào) mới đảm bảo độ tin cậy và do đó, chất lượng thông tin khai thác được trong toàn hệ thống (thông tin đầu ra) mới có giá trị, mới phục vụ được các yêu cầu của công tác thẩm định.
Kiện toàn tổ chức và cơ cấu hoạt động của CIC sao cho thống nhất được thông tin trong phạm vi cả nước đồng thời tạo thuận lợi cho các ngân hàng thương mại trong việc cung cấp và tiếp nhận thông tin.
CIC cần tích cực trao đổi thêm thông tin với các tổ chức thông tin quốc tế và các đầu mối thông tin trong nước như Tổng Cục thống kê, Bộ thương mại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Tổng Cục Hải Quan, Văn phòng Chính phủ… để tạo nguồn cung cấp thông tin không chỉ về tín dụng mà cả các thông tin về thị trường, quy hoạch phát triển, định hướng và chính sách trong từng thời kỳ...
Ngân hàng Nhà nước nên đứng ra tổ chức các hội nghị chuyên đề về tín dụng (trong đó có thẩm định dự án) và mở các lớp tập huấn nghiệp vụ để tăng cường kiến thức về kỹ thuật thẩm định cho các ngân hàng thương mại.
Đối với các ngân hàng thương mại, cần có sự phối hợp trao đổi thông tin và kinh nghiệm về thẩm định dự án giữa các bộ phận làm công tác này tại các ngân hàng. Tăng cường phương thức cho vay đồng tài trợ đối với những dự án có quy mô lớn và/hoặc có tính chất phức tạp nhằm tận dụng được thế mạnh của mỗi ngân hàng trong khi thực hiện thẩm định chung đồng thời phân chia và giảm thiểu rủi ro cho các ngân hàng.
3.3.3. Kiến nghị với chủ đầu tư
Đề nghị các doanh nghiệp - chủ đầu tư chấp hành nghiêm chỉnh chế độ thống kê, kế toán, kiểm toán đồng thời chủ động, tích cực cung cấp thông tin trung thực cho các ngân hàng làm cơ sở cho việc phân tích tài chính doanh nghiệp và tài chính dự án.
Chủ đầu tư và các đơn vị tư vấn cần nâng cao năng lực lập và thẩm định dự án đầu tư, chấp hành nghiêm chỉnh các quy định hiện hành về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản đối với các doanh nghiệp có vốn của nhà nước như: Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08/07/1999 của Chính phủ về ban hành Quy chế Quản lý Đầu tư và Xây dựng; Nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 về Quy chế Đấu thầu và các văn bản sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn thực hiện các Nghị định này; thông tư số 06/1999/TT-BKH ngày 24/11/1999 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn thẩm định dự án đầu tư… Trên cơ sở nghiên cứu kỹ lưỡng những nội dung nghiên cứu về thị trường, về kỹ thuật và về tài chính của dự án, tổng vốn đầu tư cần được tính toán một cách khách quan, cụ thể, chi tiết, đầy đủ các hạng mục chủ yếu có dự phòng với một tỷ lệ hợp lý, tránh tình trạng đề xuất tổng vốn đầu tư thấp để dễ được phê duyệt nhưng khi thực hiện lại gặp rất nhiều khó khăn hoặc dự tính vốn đầu tư cao để vay được nhiều vốn của ngân hàng (giảm số vốn tự có thực tế tham gia) vừa gây lãng phí, thất thoát vốn vừa làm giảm hiệu quả của dự án.
kết luận
Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư là một yêu cầu cấp thiết đối với các ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói riêng nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động cho vay đặc biệt là hình thức cho vay theo dự án. Tuy nhiên, đây là vấn đề đòi hỏi phải có sự nghiên cứu sâu sắc và sự phối hợp của nhiều ngành, nhiều cấp theo một định hướng thống nhất.
Trên cơ sở vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, trong phạm vi hạn hẹp của một luận văn thạc sỹ, tác giả hoàn thành được các nhiệm vụ sau:
Hệ thống hoá được những vấn đề lý luận cơ bản về ngân hàng thương mại, hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đồng thời nêu lên được sự cần thiết, nội dung, phương pháp, các chỉ tiêu thẩm định tài chính dự án đầu tư cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư.
Khái quát được thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng như tham khảo công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại các ngân hàng thương mại trong nước và nước ngoài nhằm rút kinh nghiệm cho việc xây dựng định hướng hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Đưa ra những giải pháp có tính thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và đề xuất một số kiến nghị với các ngành, các cấp có liên quan nhằm tạo môi trường thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án.
Qua luận văn này, tác giả hy vọng những giải pháp được đưa ra sẽ sớm được áp dụng không chỉ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam mà còn có thể là một sự lựa chọn giải pháp thiết thực cho các ngân hàng thương mại trong quá trình phát triển hoạt động cho vay của mình.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ThSA02.doc