LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay ngân hàng thương mại có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế là hệ thần kinh, trái tim của nền kinh tế, là dấu hiệu báo hiệu trạng thái sức khoẻ của nền kinh tế. Các ngân hàng mạnh, nền kinh tế mạnh. Ngược lại, các ngân hàng yếu, nền kinh tế sẽ yếu kém. Thậm chí nếu ngân hàng đổ vỡ nền kinh tế sẽ lâm vào khủng hoảng và sụp đổ. Với tư cách là tổ chức trung gian tài chính nhận tiền gửi và tiến hành các hoạt động cho vay và đầu tư. NHTM đã thâm nhập vào mọi lĩnh vực ki
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1345 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tài Sở Giao dịch 1 Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh tế - xã hội như là người mở đường, người tham gia, người quyết định đối với mọi quá trình sản xuất kinh doanh. NHTM ngày càng đóng vai trò là trung tâm tiền tệ, tín dụng và thanh toán của các thành phần kinh tế, là định chế tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế.
NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Trong số các nghiệp vụ kinh doanh của mình thì tín dụng là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu và cũng là nội dung chủ yếu của bản thân các nhân viên của toàn hệ thống. Đây là nghiệp vụ tạo ra lợi nhuận cao nhất, nó chiếm khoảng 2/3 lợi tức nghiệp vụ ngân hàng có từ tiền lãi cho vay. Nhưng đây cũng là nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Có vô số các rủi ro khác nhau khi cho vay, xuất phát từ nhiều yếu tố và có thể dẫn đến việc không chi trả được nợ khi đến hạn làm cho ngân hàng bị phá sản gây ảnh hưởng nghiêm trọng cho toàn bộ nền kinh tế.
Quá trình phát triển của Việt Nam theo hướng CNH-HĐH theo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 của Đảng, Nhà nước đòi hỏi việc triển khai ngày càng nhiều các dự án đầu tư, với nguồn vốn trong và ngoài nước, thuộc mọi thành phần kinh tế. Trong đó, nguồn vốn cho vay theo dự án đầu tư của NHTM ngày càng phổ biến, cơ bản và quan trọng đối với mỗi cá nhân, doanh nghiệp và Chính phủ. Đó cũng đặt ra một thách thức không nhỏ đối với các NHTM về sự an toàn và hiệu quả của nguồn vốn cho vay theo dự án. Bởi vì, các dự án đầu tư thường đòi hỏi số vốn lớn, thời gian kéo dài và rủi ro rất cao. Để đi đến chấp nhận cho vay, thì thẩm định dự án đầu tư về mặt tài chính dự án đầu tư là khâu quan trọng, quyết định chất lượng cho vay theo dự án của ngân hàng. Thẩm định tài chính dự án đầu tư ngày càng có ý nghĩa vô cùng to lớn, đảm bảo lợi nhuận, sự an toàn cho ngân hàng.
Những năm vừa qua, mặc dù các NHTM đã chú trọng đến công tác thẩm định nhưng nhìn chung kết quả đạt được chưa cao, chưa đem lại cho nền kinh tế một sự phát triển xứng đáng. Chính vì vậy, trong thời gian thực tập tại Sở giao dịch 1 Ngân hàng Công thương Việt Nam , em đã chọn đề tài: " Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tài Sở giao dịch 1 Ngân hàng Công thương Việt Nam".
Với những kiến thức tích luỹ được trong thời gian thực tập thực tế tại Chi nhánh và trong thời gian học tập tại trường, em mong muốn sẽ đóng góp một phần công sức để hoàn thiện và nâng cao chất lượng thẩm định dự án nói chung và chất lượng thẩm định tài chính dự án nói chung tại Chi nhánh.
Chuyên đề thực tập bao gồm 2 chương:
Chương 1: Thực trạng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch 1 Ngân hàng Công thương Việt Nam
Chương 2: Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch 1 Ngân hàng Công thương VN
Do giới hạn về trình độ, kinh nghiệm và thời gian tìm hiểu thực tế, vì vậy bài viết của em không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp giúp đỡ, đóng góp ý kiến và chỉ bảo tậm tình của các thầy cô giáo và các cô, chú cán bộ tại Chi nhánh để bài viết thêm hoàn thiện.
Chương 1: Thực trạng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch 1 Ngân hàng Công thương Việt Nam
Khái quát về Sở giao dịch 1 Ngân hàng Công thương Việt Nam
Lịch sử hình thành và phát triển
Ngân hàng Công thương Việt Nam (VietinBank) được thành lập từ năm 1988 sau khi tách ra từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Là Ngân hàng thương mại lớn, giữ vai trò quan trọng, trụ cột của ngành Ngân hàng Việt Nam. Có hệ thống mạng lưới trải rộng toàn quốc với 3 Sở Giao dịch, 141 chi nhánh và trên 700 điểm/phòng giao dịch. Có 4 Công ty hạch toán độc lập là Công ty Cho thuê Tài chính, Công ty TNHH Chứng khoán, Công ty Quản lý Nợ và Khai thác Tài sản, Công ty TNHH Bảo hiểm và 3 đơn vị sự nghiệp là Trung tâm Công nghệ Thông tin và Trung tâm Thẻ, Trường Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Là sáng lập viên và đối tác liên doanh của Ngân hàng INDOVINA. Có quan hệ đại lý với trên 850 ngân hàng lớn trên toàn thế giới. Ngân hàng Công thương Việt Nam là một Ngân hàng đầu tiên của Việt Nam được cấp chứng chỉ ISO 9001:2000. Là thành viên của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, Hiệp hội các ngân hàng Châu Á, Hiệp hội Tài chính viễn thông Liên ngân hàng toàn cầu (SWIFT), Tổ chức Phát hành và Thanh toán thẻ VISA, MASTER quốc tế. Là ngân hàng tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ hiện đại và thương mại điện tử tại Việt Nam. Ngân hàng Công thương không ngừng nghiên cứu, cải tiến các sản phẩm, dịch vụ hiện có và phát triển các sản phẩm mới nhằm đáp ứng cao nhất nhu cầu của khách hàng.
Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương Việt Nam là một chi nhánh lớn của Ngân hàng Công thương, là đơn vị hạch toán phụ thuộc của Ngân hàng Công thương Việt Nam, được thành lập lại theo quyết định 134-HĐQT về việc sắp xếp lại tổ chức và hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch 1. Trong những năm: từ 1988 đến tháng 7 năm 1993, Sở giao dịch có tên là trung tâm giao dịch Ngân hàng Công thương thành phố. Sau pháp lệnh ngân hàng, thực hiện điều lệ của Ngân hàng Công thương Việt Nam ngày 1/7/1993, Trung tâm giao dịch Ngân hàng Công thương thành phố được giải thể và đổi thành Sở giao dịch Ngân hàng Công thương Việt Nam như ngày nay. Từ đó Sở giao dịch I có quyền tự chủ trong kinh doanh, có con dấu riêng và được phép mở tài khoản của ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng khác.
Là một trong 3 sở giao dịch của hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam, Sở giao dịch I hoạt động như một ngân hàng thương mại, có vai trò quan trọng vào bậc nhất trong hệ thông ngân hàng, đây là nơi đầu tiên nhận các quyết định, chỉ thị, thực hiện thí điểm các chủ trương chính sách của Ngân hàng Công thương Việt Nam, đồng thời được Ngân hàng Công thương Việt Nam uỷ quyền làm đầu mối cho các chi nhánh phía Bắc trong việc thu chi ngoại tệ mặt, séc du lịch, visacard, mastercard...
Sở Giao dich 1 thực hiện nhiều chức năng và nhiều lĩnh vực hoạt động . Như Huy động vốn : nhận tiền gửi tiết kiệm với nhiều hình thức phong phú và hấp dẫn. Cho vay, đầu tư: ngắn hạn, trung, dài hạn bằng VNĐ và ngoại tệ, Thực hiện thanh toán xuất khẩu, nhập khẩu; nghiệp vụ chiết khấu, và cho vay hợp vốn đối với những dự án lớn, thời gian hoàn vốn dài, cho vay tài trợ theo sự ủy thác của Chính phủ, các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước. Thực hiện các nghiệp vụ Bảo lãnh, Thanh toán và Tài trợ thương mại. Mua, bán ngoại tệ . Mua, bán các chứng từ có giá. Thu, chi hộ tiền mặt VNĐ và ngoại tệ.Cho thuê két sắt; cất giữ bảo quản vàng, bạc, đá quý, giấy tờ có giá, bằng phát minh sáng chế…
Ngòai ra Sở giao dịch 1 còn có một số hoạt động khác như: Khai thác bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ Tư vấn đầu tư và tài chính Cho thuê tài chính Môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư, tư vấn, lưu ký chứng khoán Tiếp nhận, quản lý và khai thác các tài sản xiết nợ qua Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản.
Cơ cấu tổ chức
Căn cứ quyết định số 359/QĐ-HĐQT-NHCT ngày 23/1/2005 của chủ tịch hội đồng quản trị Ngân hàng Công thương Việt Nam về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Sở giao dịch 1, chi nhánh Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Theo quyết định số 36/QĐ-TCHC ngày 15/6/2006 có hiệu lực từ ngày 1/6/2007 mô hình tổ chức tại Sở giao dịch 1 Ngân hàng Công thương bao gồm:
- Giám đốc Sở giao dịch
Điều hành hoạt động của Sở, phòng giao dịch đúng pháp luật, đúng thể lệ, chế độ của ngân hàng nhà nước và của Ngân hàng Công thương.
Tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của Sở được quy định theo quy chế.
Quản lý nhân sự các nhiệm vụ của Sở theo quy định của Ngân hàng Công thương, Kiến nghị và chủ động đề xuất với Tổng Giám Đốc. Lập kế hoạch kinh doanh cho Sở phù hợp với đặc điểm, tình hình của địa phương và chiến lược kinh doanh của Ngân hàng Công thương .
Kiểm tra, giám sát, đôn đốc các bộ phận nghiệp vụ, nhân viên dưới quyền, các đơn vị trực thuộc ( nếu có) về việc thực hiện nghiệp vụ, chấp hành các chính sách, chế độ của Nhà nước, thể lệ, chế độ của Ngân hàng nhà nước và của Ngân hàng Công thương . Báo cáo lên ban Tổng Giám Đốc nội dung các vụ việc về tham nhũng, tieu cực (nếu có) tại đơn vị.
Hệ thống các phòng ban của sở giao dịch 1, gồm các phòng sau
· Phòng khách hàng số 1: Là nơi tiếp nhận các hồ sơ của các doanh nghiệp lớn, thực hiện và khai thác các khoản tín dụng từ những khách hàng lớn. Đề xuất và cải tiến các nghiệp vụ hiện có, cung cấp những sản phẩm dịch vụ mới…
· Phòng khách hàng số 2: Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với các khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thực hiện các nghiệp vụ về tín dụng, quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Trực tiếp quảng cáo, tiếp thị, giới thiệu và bán sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
· Phòng khách hàng cá nhân: là nơi giao dịch với các khách hàng là các cá nhân, các tổ sản xuất…
· Phòng kế toán tài chính: giúp cho Giám đốc thực hiện công tác quản lý tài chính đồng thời thực hiện nhiệm vụ chi tiêu nội bộ tại sở theo đúng quy định của Nhà nước và của Ngân hàng Công thương Việt Nam.
· Phòng quản lý rủi ro: Là phòng tham mưu cho Giám đốc Sở giao dịch 1 để quản lý rủi ro tín dụng và quản lý nợ xấu, nợ đã xử lý rủi ro. Quản lý giám sát các danh mục cho vay, đầu tư đảm bảo các giới hạn tín dụng cho từng khách hàng. Thẩm định hoặc tái thẩm định khách hàng, dự án, phương án đề nghị cấp tín dụng. Thực hiện chức năng đánh giá, quản lý rủi ro trong toàn bộ các hoạt động ngân hàng theo chỉ đạo của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Là đầu mối khai thác và quản lý tài sản bảo đảm tiền vay theo quy định của Nhà nước.
· Phòng tổ chức hàng chính: là phòng tác tổ chức cán bộ và đào tạo lại tại Sở giao dịch 1 theo đúng chủ trương chính sách của Nhà nước và quy định của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Quản trị văn phòng phục vụ hoạt động kinh doanh tại Sở, thực hiện công tác bảo bệ, an ninh an toàn tài chính
Giám đốc
Các phòng khách hàng 1,2 và cá nhân
Phòng quản lý rủi ro
Phòng kế toán giao dịch
Phòng kế toán tài chính
Phòng tiền tệ kho quý
Phó Giám đốc
Phòng tổ chức hành chính
Phòng thông tin điện toán
Phòng tổng hợp
Ban kiểm toán nội bộ
Hình 1.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức
· Phòng kế toán giao dịch: thực hiện các giao dịch trực tiếp với khách hàng. Các nghiệp vụ, công việc lien quan đến công tác quản lý tài chính, chi tiêu nội bộ tại Sở, cung cấp cá dịch vụ ngân hàng lien quan đến nghiệp vụ thanh toán, xử lý hạch toán các giao dịch. Quản lý và chịu trách nhiệm đối với hệ thống giao dịch trên máy, quản lý kho tiền và quỹ tiền mặt đến từng giao dịch viên theo đúng quy định của Nhà nước và Ngân hàng Công thương Việt Nam. Thực hiện nhiệm vụ tư vấn cho khách hàng về sử dụng các sản phẩm Ngân hàng.
· Phòng thanh toán xuất nhập khẩu: Là phòng nghiệp vụ tổ chức thực hiện nghiệp vụ về thanh toán xuất nhập khẩu và kinh doanh ngoại tệ tại Sở theo quy định của Ngân hàng Công thương Việt Nam.
· Phòng tiền tệ kho quỹ: Là phòng nghiệp vụ quản lý an toàn kho quỹ, quản lý quỹ tiền mặt theo quy định của Ngân hàng nhà nước và Ngân hàng Công thương Việt Nam, ứng và thu tiền cho các Quỹ tiết kiệm, các Điểm giao dịch trong và ngoài quầy, thu chi tiền mặt cho các doanh nghiệp có thu, chi tiền mặt lớn.
· Phòng thông tin điện toán: thực hiện công tác quản lý, duy trì hệ thống thông tin điện toán tại chi Sở. Bảo trì bảo dưỡng máy tính đảm bảo thông suốt hoạt động của hệ thống mạng, máy tính của Sở.
· Phòng tổng hợp: Là phòng nghiệp vụ tham mưu cho Giám đốc dự kiến kế hoạch kinh doanh, tổng hợp, phân tích đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh, thực hiện báo cáo hoạt động hàng năm của Sở
1.1.3 Tình hình hoạt động kinh doanh trong thời gian qua
Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta đã dần đi vào ổn định và phát triển. Sự ổn định về chính trị và những thành công trong hoạt động đối ngoại đã tạo điều kiện cho nước ta trở thành địa chỉ tin cậy cho các nhà đầu tư nước ngoài. Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước đã có những thay đổi lớn theo thông lệ quốc tế, đặc biệt là lãi suất và tỉ giá đã tạo môi trường thuận lợi, khiến cho hoạt động ngân hàng ngày càng sôi động.
Tuy nhiên, nước ta vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu. Hoạt động của nền kinh tế còn kém hiệu quả và một số yếu tố khách quan không thuận lợi cho hoạt động ngân hàng, đó là: sản phẩm cạnh tranh thấp, giá cả các mặt hàng xuất khẩu chiến lược như nông sản, dầu thô, cà phê... liên tục giảm.
Trong bối cảnh đó, có thể nói tình hình hoạt động của Sở giao dịch 1 trong những năm qua đã đạt được những kết quả đáng kể. Sau nhiều bước đổi mới hiệu quả, bám sát sự chỉ đạo của Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước thành phố Hà Nội, cấp ủy, chính quyền địa phương, với sự hợp tác giúp đỡ của bạn hàng, Sở giao dịch 1 đã nỗ lực phấn đấu vươn lên phát triển kinh doanh, chống chọi được những khó khăn chung trong ngành ngân hàng, đạt được những kết quả đáng khích lệ và ngày càng có uy tín với khách hàng.
Bảng 1.1. Kết quả kinh doanh của Sở Giao dịch 1 NHCTVN một số năm
( Đv: triệu đồng)
STT
CHỈ TIÊU
NĂM 2006
NĂM 2007
NĂM 2008
1
Tổng doanh thu
1055780
1456119
1539224
2
Tổng chi phí
708274
1113034
1207705
3
Lợi nhuận sau thuế
347506
343085
331519
( Nguồn: báo cáo tổng kết thường niên của Sở giao dịch)
Do cuộc khủng hoảnh kinh tế toàn cầu, lợi nhuận của Sở giao dịch 1 Ngân hàng Công thương có xu hướng giảm, nhưng mức giảm thấp, cuộc khủng hoảnh ảnh hưởng lớn đến tình hinh kinh tế của Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng, trong đó có Sở giao dịch 1 Ngân hàng Công thương Việt nam. Trong thời kỳ khủng hoảng, tuy Ngân hàng Công thương không hứng chịu trực tiếp, nhưng khủng hoảng đã gián tiếp tác động doanh thu cũng như chi phí, làm cho lợi nhuận suy giảm. Nhưng nhìn vào bảng chỉ tiêu thì ta thấy múc suy giảm lợi nhuận là không đáng kể. Tuy giảm về lợi nhuận nhưng với lợi nhuận đạt được khoảng 331 tỷ đồng, đây là mức lợi nhuận cao mà nhiều Ngân hàng khó đạt được. Điều này chứng tỏ Sở đang có chiến lược kinh doanh hợp lý và làm ăn hiệu quả. Doanh thu hoạt động trong năm 2008 đạt khoản 1539 tỷ đồng, tăng 5,7% so với năm 2007.
Sau đây là một số hoạt động kinh doanh chính của sở giao dịch 1 Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Hoạt động huy động vốn.
Huy động vốn tại sở giao dich 1 Ngân hàng Công thương Việt Nam trong 3 năm 2006, 2007, 2008 diễn ra phức tạp, một số chỉ tiêu tăng giảm đột biến, cơ cấu nguồn huy động có sụ thay đổi mạnh mẽ. Đặc biệt trong 2 năm 2007, 2008 các thành phần nguồn vốn thay đổi rõ riệt. Năm 2007 hầu hết các khoản nguồn vốn đều giảm, chỉ có nguồn huy động từ các doanh nghiệp tăng, và mức tăng tương đối lớn, tăng 2876 tỷ đồng (29,2%). Còn tiền gửi của dân cư giảm 578 tỷ dồng (14.5%), và đặc biệt năm 2007 sự suy giảm nguồn huy động rất lớn từ tiền gửi của các tổ chức tín dụng và các tổ chức khác, với mức giảm 3028 tỷ đồng ( 84%). Nguyên nhân của sự tăng giảm thất thường là do năm 2007, nước ta đang trong tình trạng lạm phát nặng nề, chịu ảnh hưởng của các sự kiện chính trị cũng như kinh tế trên thế giới. Lạm phát cao làm giá cả hàng hóa tăng, đồng tiền mất giá, việc huy động vốn của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Và cũng trong thời gian này, thị trường chứng khoán đang sôi động, dân cư cũng như các tổ chức kinh tế khác rút tiền đầu tư chứng khoán. Để huy động được vốn, hoặc không muốn vốn từ ngân hàng mình chạy sang các ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy động sát với diễn biến của thị trường vốn. Một cuộc chạy đua lãi suất huy động ngoài mong đợi tại hầu hết các ngân hàng (17% - 18%/năm cho kỳ hạn tuần hoặc tháng), luôn tạo ra mặt bằng lãi suất huy động mới, rồi lại tiếp tục cạnh tranh đẩy lãi suất huy động lên.
Tuy nhiên năm 2008, tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng đã đạt được mức tăng trưởng cao trong bối cảnh hầu hết các ngân hàng thương mại đều tăng lãi suất huy động để thu hút nguồn vốn. Tiền gửi theo đồng nội tệ cũng như ngoại tệ đều tăng, mức tăng tiền gủi theo VND là 4.2%(595 tỷ đồng), theo ngoại tệ là 25.6% (627 tỷ đồng). Nhưng lượng tiền gửi doanh nghiệp và của dân cư lại giảm, tiền gửi doanh nghiệp năm 2007 tăng 29.2% thì năm 2008 lại giảm 42%, còn tiền gửi của khu vực dân cư tiếp tục giảm 12.3% so với năm 2007. Và đặc biệt tiền gửi của các tổ chức tín dụng và tổ chức khác lại tăng mạnh 6998 tỷ đồng (tăng gấp hơn 12 lần). Nói chung năm 2008, nguồn huy động của Sở giao dịch 1 Ngân hàng Công thương đã tăng lên đáng kể . Để có được kết quả này thực sự là một áp lực lớn với Ngân hàng, làm sao vừa giữ được thị phần, vừa tăng thêm được nguồn vốn, trong khi khách hàng lại có quá nhiều cơ hội để lựa chọn và tìm kiếm lợi ích ở các ngân hàng. Với tổng nguồn vốn lớn và ổn định, Ngân hàng có đủ khả năng để đáp ứng mọi nhu cầu về vốn của khách hàng, đồng thời chuyển vốn về Ngân hàng Công thương Việt Nam góp phần điều hoà toàn hệ thống và tham gia thị trường vốn.
Bảng 1.2: Tình hình hoạt động huy động vốn của Sở giao dịch 1 Ngân hàng Công thương VN.
( Đv: tỷ đồng )
Năm
2006
2007
2008
Chỉ tiêu
Tổng số
Tỷ trọng (%)
Tổng số
Tỷ trọng (%)
So 2006
Tổng số
Tỷ trọng (%)
So 2007
Tổng nguồn vốn huy động
17.448
100
16.718
100
17940
100
Theo loại tiền
VND
14.953
85.7
14.270
85.5
-683
-4.6%
14.865
82.8
+595
+4.2%
Ngoại tệ quy đổi
2.495
14.3
2.448
14.6
-47
-1.9%
3.075
17.2
+627
+25.6%
Theo đối tượng
Tiên gửi doanh nghiệp
9.859
56.5
12.735
76.2
+2876
+29.2%
7.377
41
-5357
-42%
TG dân cư
3.990
22.9
3.412
20.4
-578
-14.5%
2.994
16.7
-418
-12.3%
TG TCTD và.TC khác
3.599
20.6
571
3.4
-3028
-84.1%
7.569
42.2
+6998
+1225%
(Nguồn: báo cáo tổng kết thường niên của Sở giao dịch 1 ngõn hàng cụng thương).
1.1.3.2 Hoạt động tín dụng.
Đây luôn là hoạt động cơ bản, quan trọng nhất của Sở giao dịch 1 Ngân hàng Công thương, là cơ sở để tiến hành và thúc đẩy các hoạt động khác phát triển. Trong những năm qua, cùng với việc sàng lọc nhằm nâng cao thêm một bước chất lượng dư nợ đối với các khách hàng truyền thống, Ngân hàng đã tiếp tục công tác tiếp thị, tìm đến với những khách hàng mới, các dự án khả thi để thay đổi cơ cấu dư nợ theo hướng giảm thiểu rủi ro.
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng Công thương Việt Nam luôn diễn ra sôi động, và Sở giao dịch cũng vậy. Khối lượng dư nợ cho vay tại sở không ngừng gia tăng trong 3 năm 2006, 2007, 2008. Tổng dư nợ cho vay năm 2007 tăng 12% so với năm 2006, và năm 2008 tăng 25% so với năm 2007. Trong đó lượng tăng về dư nợ ngắn hạn là đáng kể, và cho vay ngắn hạn trong năm 2008 đạt 1592 tỷ đồng tăng 58% so với năm 2007, đây là sự gia tăng lớn. Và cơ cấu của cho vay ngắn hạn so với nợ dài hạn cũng chuyển biến, cho vay ngắn hạn tăng mạnh trong khi dư nợ dài hạn có xu hướng giảm, điều này phản ánh tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam giai đoạn này. Lạm phát cao, đẩy lãi suất cho vay cũng tăng chót vót, lãi suất cao chưa từng có, đây là điều bất thường, và lượng cho vay dài hạn là những khoản tín dụng mạo hiểm mà Sở giao dịch cần có chính sách hạn chế. Những khoản cho vay ngắn hạn vào lúc này là hợp lý, và nên duy trì lãi suất thấp trong dài hạn, khi mà đầu tư dài hạn chúa đựng đầy rủi ro. Cũng vì tình hình khinh tế xã hội đó mà lượng dư nợ đồng nội tệ giảm mạnh và dư nợ ngoại tệ có xu hướng tăng. Năm 2007 cho vay ngoại tệ tăng 31% và cho vay nội tệ chỉ tăng 3% so với 2006, Nhưng năm 2008 cho vay nội tệ lại có sự gia tăng ( lên 21% so với 2007), sự gia tăng này nhằm cân bằng cơ cấu cho vay theo ngoại tệ trong ngân hàng, cơ cấu đó là khoảng 61-63 % lượng cho vay nội tệ, và 37-39% cho vay ngoại tệ. Tỷ trọng cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước và ngoài quốc doanh vân duy trì ổn định trong 2 năm 2007, 2008 (75% cho vay doanh nghiệp quốc doanh, 25 % cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh). Để duy trì cơ cấu này thì năm 2007 Sở tăng lượng cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước tăng 12%, cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 9%, còn năm 2008 lần lượt tăng 24% và 28%. Trong bối cảnh sự tăng trưởng quá nóng và bất thường của nền kinh tế thì khoản cho vay không có đảm bảo giảm xuống mạnh(14%) và hầu hết các khoản cho vay đều có tài sản đảm bảo.
Bảng 1.3. Tình hình hoạt động của Sở Giao dịch 1 Ngân hàng Công thương.
(ĐV: Tỷ Đồng)
Năm
2006
2007
2008
Chỉ tiêu
Tổng số
Tỷ trọng (%)
Tổng số
Tỷ trọng (%)
Tăng so 2006
Tổng số
Tỷ trọng (%)
Tăng so 2007
Tổng dư nợ cho vay và đầu tư
4499
4359
4544
1. Dư nợ cho vay
2776
100%
3100
100%
12%
3882
100%
25%
Theo thời gian
+dư nợ ngắn hạn
895
32%
1008
33%
13%
1591
41%
58%
+Dư nợ trung và dài hạn
1881
68%
2092
67%
11%
2291
59%
10%
Theo loại tiền
Dư nợ VND
1906
69%
1958
63%
3%
2370
61%
21%
Dư nợ ngoại tệ quy đổi
870
31%
1142
37%
31%
1512
39%
32%
Theo thành phần kinh tế
Dư nợ doanh nghiệp nhà nước
2081
75%
2340
75%
12%
2910
75%
24%
Dư nợ ngoài quốc doanh
695
25%
760
25%
9%
972
25%
28%
Theo tài sản đảm bảo
Dư nợ không có tài sản đảm bảo
1889
61%
1630
42%
-14%
Dư nợ có tài sản đảm bảo
1211
39%
2252
58%
86%
2. Nợ quá hạn
547
(Nguồn: báo cáo tổng kết thường niên của Sở giao dịch 1 Ngân hàng Công thương )
Nhìn chung trong những năm qua tình hình hoạt động của Sở giao dịch 1 có những thay đổi nhất định trong cơ cấu huy động vốn cũng như hoạt động tín dụng. Sư thay đổi này là hợp lý giúp ngân hàng đứng vững trong thời buổi khó lường về mọi mặt của nền kinh tế.
1.2 Thực trạng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch 1 Ngân hàng Công thương Việt Nam
Sự cần thiết của việc thẩm định tài chính dự án đầu tư
Ngân hàng là tổ chức kinh doanh tiền tệ, hoạt động tín dụng là chủ yếu và phải đối mặt với vô số những rủi ro, có thể gây thiệt hại lớn cho ngân hàng. Do vậy để tồn tại, đặc biệt là trong điều kiện của nền kinh tế thị trường với đặc điểm là tự do cạnh tranh và tính cạnh tranh lại rất cao, thì Ngân hàng cũng như các pháp nhân khác trong nền kinh tế phải tự tìm kiếm các phương cách, giải pháp cho riêng mình để ngăn ngừa các rủi ro có thể nẩy sinh. Thẩm định dự án đầu tư trong công tác hoạt động của Ngân hàng chính là một trong những biện pháp cơ bản nhằm phòng ngừa rủi ro trong quá trình cho vay vốn đầu tư tại Ngân hàng. Thẩm định dự án đầu tư là qúa trình phân tích, đánh giá toàn diện các khía cạnh của một dự án đầu tư để ra các quyết định đầu tư cho phép đầu tư hoặc tài trợ.
Thẩm định dự án xét trên các mục tiêu khác nhau sẽ có những nội dung cần chú ý khác nhau, tùy thuộc vào đối tượng thẩm định. Như Về phía nhà đầu tư : Công tác thẩm định dự án đầu tư sẽ đi sâu vào làm rõ các vấn đề này, giúp doanh nghiệp lựa chọn phương án tốt nhất mang lại hiệu quả cao nhất hoặc đưa ra những ý kiến xác đáng gợi ý cho chủ đầu tư để dự án có tính khả thi cao hơn. Hay Về phía xã hội và các cơ quan hữu quan : các quyết định phải tiến hành kiểm tra, thẩm định dự án, so sánh các dự án với nhau để lựa chọn được đầu tư là dự án mang lại hiệu quả cao nhất cho xã hội. Hiệu quả được nhắc đến ở đây không chỉ đơn thuần là hiệu quả kinh tế mà nó bao hàm cả hiệu quả xã hội khác như giải quyết công ăn việc làm, tăng ngân sách tiết kiệm ngoại tệ, tăng khả năng cạnh tranh quốc tế đặc biệt là vấn đề bảo vệ môi trường.Công tác thẩm định dự án đầu tư sẽ giúp các cơ quan quản lý Nhà nước đánh giá chính xác sự cần thiết và sự phù hợp của dự án trên tất cả các phương diện: mục tiêu, quy hoạch, quy mô và hiệu quả. Về phía Ngân hàng Để có một khoản vay chất lượng là điều mong muốn và mục tiêu hoạt động của các ngân hàng. Nhưng nó là một điều cực kỳ khó khăn vẫn có những thất bại khi cho vay vì thực tế vận động xã hội và thị trường luôn tồn tại không cân xứng về thông tin đầy đủ về nhau, do đó dẫn đến những hiểu biết sai lệch. Đứng trước những rủi ro đó thì ngân hàng phải luôn cân nhắc đắn đo, xem xét và bằng những nghiệp vụ phải xác định những khách hàng tốt, khoản xin vay có chất lượng khi quyết định cho vay hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro có thể xảy ra.
Trong quá trình thẩm định dự án đầu tư, để làm sao có cái nhìn khách quan và đúng đắn trước khi quyết định cho vay, Ngân hàng phải xem xét mọi mặt, xét trên tất cả các phương diện. ngân hàng thương mại với tư cách là người cho vay, tài trợ cho dự án đầu tư đặc biệt quan tâm đến khía cạnh thẩm định tài chính dự án, nó có ý nghĩa quyết định trong các nội dung thẩm định. Hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Thành công của một ngân hàng tuỳ thuộc chủ yếu vào việc thực hiện kế hoạch tín dụng và thành công tín dụng, xuất phát từ chính sách cho vay của ngân hàng. Trong các hoạt động cho vay của ngân hàng thì cho vay theo dự án được ngân hàng đạc biệt quan tâm vì nó đòi hỏi vốn lớn, thời hạn kéo dài và rủi ro cao nhưng lợi nhuận cao. Vô số các rủi ro khác nhau khi cho vay nói chung và cho vay theo dự án nói riêng, xuất phát từ nhiều yếu tố và có thể dẫn đến việc không chi trả được nợ khi đến hạn. Do đó để quyết định có chấp nhận cho vay hay không, ngân hàng cần phải coi trọng phân tích tín dụng nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng. Thông qua việc thẩm định này, ngân hàng có cái nhìn toàn diện về dự án đánh giá về như cầu tổng vốn đầu tư, cơ cấu nguôn vốn và tình hình sử dụng nguồn vốn, hiệu quả tài chính mà dự án mang lại cũng như khả năng trả nợ của dự án.
Với mục tiêu hoạt động là an toàn và sinh lời, do đó Ngân hàng chỉ cho vay đối với các dự án có hiệu quả tài chính tức là dự án mang lại lợi nhuần và khả năng trả nợ thì ngân hàng mới có thể thu hồi được gốc và lãi, khoản cho vay mới đảm bảo, Ngân hàng mới có được khoản vay có chất lượng.
Quy trình thẩm định tài chính dự án đầu tư
Ngân hàng Công thương Việt Nam đã soạn thảo quy trình cho vay và quản lý tín dụng với mực dịch giúp cho quá trình cho vay diễn ra thống nhất, khoa học nhằm hạn chế, phòng ngừa rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng đáp ứng tốt nhất nhu cầu vay vốn cho các dự án. Sau đây là quy trình thẩm định cho vay doanh nghiệp của Sở giao dịch 1 Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Tiếp nhận và hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn
Cán bộ tín dụng tiếp nhận hồ sơ của khách hàng và hướng dẫn cung cấp thông tin cho khách hàng về hồ sơ, quy trình và quy định của Ngân hàng mà khách hàng phải đáp ứng về điều kiện vay vốn và tư vấn những vấn đề liên quan.
Sau khi kiểm tra, nếu hồ sơ của khách hàng đầy đủ, cán bộ tín dụng báo cáo trưởng phòng tín dụng và tiếp tục các bước trong quy trình.
Thẩm định các điều kiện vay vốn
+ Kiểm tra hồ sơ vay vốn và mục địch vay vốn:
Cán bộ tín dụng kiểm tra hồ sơ vay vốn như: xác minh quyền hạn, trách nhiệm của các bên thông qua các biên bản, hợp đồng liên doanh, xác minh các chức danh trong doanh nghiệp, xác định người đại diện…Cán bộ tín dụng xem xét tính hợp lệ, hợp pháp của hồ sơ, xem xét báo cáo tài chính và phương án sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư, khả năng trả nợ, nguồn trả và kiểm tra về sự phù hợp ngành nghề kinh doanh. Kiểm tra mục đích vay vốn: thuộc đối tượng cho vay không, mục đích có hợp pháp không…
+ Điều tra, thu thập, tổng hợp thông tin về khách hàng và phương án sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư.
Cán bộ tín dụng tìm hiểu thêm về ban lãnh đạo, tình trạng nhà xưởng, máy móc thiết bị, kỹ thuật, quy trình công nghệ, tình trạng hoạt động sản xuất kinh doanh, tài chính của khách hàng, đánh giá tài sản đảm bảo. Về phương án sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư cần tìm hiểu giá cả, tình hình cung cầu trên thị trường đối với các tếu tố đầu vào đầu ra mà dự án tạo ra, kinh nghệm năng lực triển khai, khả năng quản lý và thực hiện của dự án.
+ Kiểm tra xác minh thông tin như: hồ sơ vay vốn trước đây và hiện tại của khách hàng, thộng tin về khách hàng qua bạn hàng qua cơ quan quản lý, qua các Trung tâm thông tin…
+ Ngoài ra chúng ta còn phân tích ngành nghề kinh doanh hoạt động của dự án, từ nhưng chi số, những thông tin qua phân tich nghành chúng ta thấy được khả năng thành công hay không khả thi của dự án trong quyết định cho vay.
Bảng 1.4: Quy trình thẩm đỊnh tín dụng tại Sở Giao dịch 1 NHCTVN
Khách hàng
Phòng khách hàng
Cán bộ phụ trách nguồn vốn
Phòng khác
Phòng thanh toán xuất nhập khẩu
Phòng kế toán
Giám đốc
Hội đồng tín dụng
Thông báo tới khách hàng
Yêu cầu bổ sung
Khách hàng
Thiếu
Chuẩn bị hợp đồng
Giải trình thêm
Thẩm định
Tiếp nhận hồ sơ
Tái thẩm định
-Nguồn vốn
-Hiệu quả dự án
-Kế hạch trả nợ
Duyệt
Đủ
Tham gia khi có dề nghị
Xác định điều kiện thanh toán
Ký hợp đồng
Xét duyệt cho vay
Xét duyệt cho vay
+ Thẩm định tư cách và năng lực pháp lý, năng lực điều hành, năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, mô hình tổ chức, bố trí lao động trong doanh nghiệp.
+ Phân tích đánh giá tình hình hoạt động và khả năng tài chính, đánh giá các quan hệ với các tổ chức tài chính như: dư nợ ngắn, trung và dài hạn, doanh số cho vay, thu nợ, diễn biến các khoản vay, mưc độ tín dụng và vòng quay của nó.
+ Dự kiến lợi ích của ngân hàng nếu khoản vay được phê duyệt: cán bộ tín dụng tính các khoản lãi phí các lợi ích có thể thu được, phải xem xét các lợi ích một cách tổng thể khi thiết lập quan hệ tín dụng với khách hàng.
+ Phân tích thẩm định phương án sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư đưa ra kết luận về tính khả thi, hiệu quả của dự án, khả năng trả nợ và các rủi ro có thể xảy ra phục vụ cho viêc quyết định cho vay hoạc từ chối cho vay, là cơ sở cho cán bộ tín dụng góp ý, tư vấn cho khách hàng vay , tạo tiền đề bảo đảm hiệu quả cho vay, thu được nợ gốc đúng hạn, hạn chế phòng ngừa rủi ro, là cơ sở xác định số tiền cho vay, thời gian , tiến độ giải ngân;… Và thẩm định tài sản đảm bảocho khoản vay.
+ Xem xét phương thức cho vay: Lựa chọn phương thức cho vay phải phù hợp đặc diểm sản xuất kinh doanh và luân chuyển vốn của khách hàng
Thẩm định tài chính: Xem xét khả năng nguồn vốn, điều kiện thanh toán và xác định lãi suất cho vay
Cán bộ tín dụng xét khả năng nguồn vốn và phối hợp với bộ phận phụ trách nguồn vốn để cân đối nguồn vốn với những khoản vay lớn, dự tính khả năng chuyể đổi ngoại tệ đối với những khoản vay thanh toán ngoại tệ
Cán bộ tín dụng tổn hợp các số liệu để tính toán và xác định lãi suất cho vay áp dụng cho khoản vay, xác định điều kiện thanh toán và hình thức thanh toán
Lập tờ trình t._.hẩm định cho vay
Tờ trình của cán bộ tín dụng và thẩm định dự án được đưa lên trưởng phòng tín dụng các nội dung đã thẩm định
Tái thẩm định khoản vay
Ít nhất hai cán bộ tham gia tái thẩm định, có ít nhất một phó phòng tín dụng là thành viên, tổ thẩm định xem xét lại toàn bộ hồ sơ vay vốn một cách độc lập, mọi sự khác biệt phải được đưa ra xem xét
Duyệt cho vay, ký hợp đồng, giải ngân và Kiểm tra giám sát, thu lãi và gốc, thanh lý hợp đồng, lưu giư hồ sơ
Quy trình này có thể được trình bày theo sơ đồ.
Phương pháp thẩm định tài chính dự án đầu tư
Sở giao dịch 1 là ngân hàng có nhiều sản phẩm dịch vụ trong hoạt động kinh doanh, vì thế ngân hàng phải có phương pháp thẩm định phù hợp cho từng khách hàng tín dụng với nhứng dự án khách nhau. Dự án đầu tư sẽ được thẩm định đầy đủ và chính xác khi có phương pháp thẩm định khoa học kết hợp với các kinh nghiệm quản lý thực tiễn và nguồn thông tin đáng tin cậy. Việc thẩm định dự án có thể tiến hành theo nhiều phương pháp khác nhau trong quá trình thẩm định, tuỳ thuộc vào nội dung và yêu cầu đối với dự án. Sau đây là những phương pháp thẩm định mà Sở giao dịch có thể sử dung trong quá trình thẩm định tín dụng.
1.2.3.1 Phương pháp so sánh các chỉ tiêu.
Đây là phương pháp phổ biến và đơn giản nhất mà các cán bộ tín dụng của Sở giao dịch 1 thường dùng, các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật chủ yếu của dự án được so sánh bởi các dự án đã và đang xây dựng, đang hoạt động. Phương pháp so sánh được tiến hành theo một số chỉ tiêu sau:
- Tiêu chuẩn thiết kế, xây dựng, tiêu chuẩn về cấp công trình do nhà nước quy định hoặc điều kiện tài chính mà dự án có thể chấp nhận được.
- Tiêu chuẩn về công nghệ, thiết bị trong quan hệ chiến lược đầu tư công nghệ quốc gia, quốc tế.
- Tiêu chuẩn đối với loại sản phẩm của dự án mà thị trường đang đòi hỏi.
- Các chỉ tiêu tổng hợp như cơ cấu vốn đầu tư, suất đầu tư…
- Các định mức về sản xuất, tiêu hao năng lượng, nguyên liệu, nhân công, tiền lương, chi phí quản lý… của ngành theo các định mức kinh tế - kỹ thuật chính thức hoạc các chỉ tiêu kế hoạch và thực tế.
- Các chỉ tiêu về hiệu quả đầu tư.
- Các định mức tài chính doanh nghiệp phù hợp với hướng dẫn, chỉ đạo hiện hành của nhà nước, của ngành đối với doanh nghiệp cùng loại.
- Các chỉ tiêu mới phát sinh…
Trong việc sử dụng các phương pháp so sánh cần lưu ý các chỉ tiêu dùng để tiến hành so sánh cần phải được vận dụng phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của từng dự án và doanh nghiệp. Cần hết sức tranh thủ ý kiến của các cơ quan chuyên môn, chuyên gia (kể cả thông tin trái ngược). Tránh khuynh hướng so sánh máy móc, cứng nhắc, dập khuôn.
1.2.3.2 Phương pháp thẩm định theo trình tự
Trong phương pháp này, việc thẩm định dự án được tiến hành theo một trình tự biện chứng từ tổng quát đến chi tiết, lấy kết luận trước làm tiền đề cho kết luận sau.
- Thẩm định tổng quát: là việc xem xét một cách khái quát các nội dung cơ bản thể hiện tính pháp lý, tính phù hợp, tính hợp lý của dự án. Thẩm định tổng quát cho phép hình dung khái quát dự án, hiểu rõ quy mô, tầm quan trọng của dự án trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, xác định các căn cứ pháp lý của dự án đảm bảo khả năng kiểm soát được của bộ máy quản lý dự án dự kiến.
- Thẩm định chi tiết: là việc xem xét một cách khách quan, khoa học, chi tiết từng nội dung cụ thể ảnh hưởng trực tiếp đến tính khả thi, tính hiệu quả, tính hiện thực của dự án trên các khía cạnh pháp lý, thị trường, kỹ thuật công nghệ, môi trường, kinh tế… phù hợp với các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Trong giai đoạn thẩm định chi tiết, cần đưa ra những ý kiến đánh giá đồng ý hay sửa đổi bổ xung hoặc không thể chấp nhận được. Khi tiến hành thẩm định chi tiết sẽ phát hiện được các sai sót, kết luận rút ra từ nội dung trước có thể bác bỏ toàn bộ dự án mà không cần đi vào thẩm định các nội dung còn lại của dự án.
1.2.3.4 Phương pháp thẩm định dựa trên việc phân tích độ nhạy của dự án.
Phương pháp này thường dùng để kiểm tra tính vững chắc về hiệu quả tài chính của dự án. Cơ sở của phương pháp này là dự kiến một số tình huống bất trắc có thẩy xảy ra trong tương lai đối với dự án rồi khảo sát tác động của những yếu tố đó đến hiệu quả đầu tư và khả năng hoà vốn của dự án.
Mức độ sai lệch so với dự kiến của các bất trắc là tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể. ở đây, ta nên chọn các yếu tố tiêu biểu dễ xảy ra gây tác động xấu đến hiệu quả của dự án để xem xét. Nếu dự án vẫn tỏ ra có hiệu quả kể cả trong trường hợp có nhiều bất trắc phát sinh đồng thời thì đó là những dự án vững chắc, có độ an toàn cao. Trong trường hợp ngược lại thì cần phải xem xét lại khả năng phát sinh bất trắc đề xuất kiến nghị các biện pháp hữu hiệu để khắc phục hay hạn chế.
1.2.3.5 Phương pháp dự báo.
Cơ sở của phương pháp này là dùng số liệu dự báo, điều tra thống kê để kiểm tra cung cầu của sản phẩm dự án trên thị trường, giá cả và chất lượng của công nghệ, thiết bị, nguyên liệu… ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả và tính khả thi của dự án.
1.2.3.6 Phương pháp triệt tiêu rủi ro
Dự án là một tập hợp các yếu tố dự kiến trong tương lai, từ khi thực hiện dự án đến khi đi vào khai thác, hoàn vốn thường rất dài, do đó có nhiều rủi ro phát sinh ngoài ý muốn chủ quan. Để đảm bảo tính vững chắc của dự án, người ta thường dự đoán một số rủi ro có thể xảy ra để có biện pháp kinh tế hoặc hành chính thích hợp, hạn chế thấp nhất các tác động của rủi ro hoặc phân tán rủi ro cho các đối tác có liên quan đến dự án.
Một số loại rủi ro bắt buộc phải có biện pháp xử lý như: đấu thầu, bảo hiểm xây dựng, bảo lãnh hợp đồng. Trong thực tế, biện pháp phân tán rủi ro quen thuộc nhất là bảo lãnh của ngân hàng, bảo lãnh của doanh nghiệp có tiềm lực tài chính và uy tín, thế chấp tài sản. Để tránh tình trạng thế chấp tài sản nhiều lần khi vay vốn nên thành lập Cơ quan đăng ký quốc gia về giao dịch bảo đảm.
1.2.4 Nội dung thẩm định dự án đầu tư
Công tác thẩm định dự án là khâu quan trọng trong thời kỳ chuẩn bị dự án, được thực hiện bằng kỹ thuật phân tích dự án đã được thiết lập để ra quyết định đầu tư. Công tác thẩm định dự án gồm các bước: Thẩm định thị trường, thẩm định kỹ thuật, thẩm định tổ chức- quản lý dự án, thẩm định tài chính và thẩm định kinh tế - xã hội.
1.2.4.1 Thẩm định thị trường
Là việc tiến hành phân tích các kết quả nghiên cứu thị trường nhằm đưa ra các kết luận hợp lý, chính xác về thị trường tiêu thụ sản phẩm của dự án. Thẩm định thị trường là tiền đề cho việc thực hiện các bước thẩm định tiếp theo. Thẩm định thị trường giúp nhà đầu tư lựa chọn mục tiêu, xác định rõ phương hướng và quy mô của dự án.
Thẩm định thị trường bao gồm các nội dung sau:
- Thẩm định nhu cầu hiện tại và tương lai về sản phẩm của dự án trên thị trường dự kiến xâm nhập chiếm lĩnh: Xác định xem ai là khách hàng tiềm năng, ai là khách hàng mới, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm trong hiện tại và tương lai, mức gia tăng nhu cầu hàng năm về sản phẩm của dự án.
- Thẩm định các nguồn và các kênh đáp ứng nhu cầu: Mức độ đáp ứng nhu cầu hiện tại, xác định khối lượng sản phẩm của dự án dự kiến bán ra hàng năm
- Thẩm định các yếu tố về sản phẩm: Chất lượng, giá bán, quy cách, hình thức trình bày, dịch vụ sau khi bán sản phẩm của dự án…
- Thẩm định các vấn đề về tiêu thụ sản phẩm: Các cơ sở tiếp thị và phân phối sản phẩm, chi phí cho công tác tiếp thị và phân phối sản phẩm, kênh phân phối dự kiến ( bán trực tiếp, bán qua các đại lý..), phương thức thanh toán…
-Xem xét các vấn đề về cạnh tranh: Các đối thủ cạnh tranh, mức độ cạnh tranh trên thị trường, lợi thế so sánh ( về chi phí sản xuất, kiểu dáng, chất lượng, giá cả…)và khả năng thắng trong cạnh tranh của sản phẩm dự án.
- Thẩm định mức độ thâm nhập, chiếm lĩnh thị trường của dự án trong suốt thời gian tồn tại.
1.2.4.2 Thẩm định kỹ thuật
Là việc phân tích mặt kỹ thuật của dự án. Thẩm định kỹ thuật là công việc phức tạp, đòi hỏi phải có các chuyên gia kỹ thuật chuyên sâu về từng khía cạnh kỹ thuật của dự án. Sự đúng đắn trong thẩm định kỹ thuật sẽ quyết định tính khả thi của dự ánvề mặt kỹ thuật, làm cơ sở để tiếp tục các bước thẩm định tiếp theo, nhằm đưa ra quyết định đầu tư chính xác cho chủ doanh nghiêp.
Nội dung của thẩm định kỹ thuật gồm:
- Mô tả sản phẩm sẽ sản xuất của dự án: Đặc điểm của sản phẩm chính, sản phẩm phụ, chất thải; các tiêu chuẩn chất lượng cần phải đạt được là cơ sở cho việc nghiên cứu các vấn đề kỹ thuật khác; các hình thức bao bì đóng gói, các công dụng và cách sử dụng của sản phẩm.
Các phương pháp và phương tiện để kiểm tra chất lượng sản phẩm, các yêu cầu về chất lượng sản phẩm phải đạt được, dự kiến bộ phận kiểm tra chất lượng, các thiết bị và dụng cụ cần thiết cho việc kiểm tra, phương pháp kiểm tra, chi phí cho công tác kiểm tra.
- Xác định công suất của dự án: Xác định công suất bình thường có thể của dự án: Là số sản phẩm sản xuất trong một đơn vị thời gian để đáp ứng nhu cầu của thị trường mà dự án dự kiến sẽ chiếm lĩnh.
Xác định công suất tối đa danh nghĩa của dự án: là số sản phẩm sản xuất trong một đơn vị thời gian vừa đủ để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của thị trường mà dự án sẽ chiếm lĩnh, vừa để bù vào những hao hụt tổn thất trong quá trình sản xuất, lưu kho, vận chuyển và bốc dỡ.
Xác định công suất thực tế khả thi của dự án và mức sản xuất dự kiến qua các năm cần căn cứ vào nhu cầu thị trường, trình độ kỹ thuật của máy móc thiết bị, khả năng cung cấp nguyên vật liệu, chi phí sản xuất và chi phí vốn đầu tư.
- Thẩm định công nghệ và phương pháp sản xuất: Lựa chọn trong các công nghệ và phương pháp sản xuất hiện có loại nào thích hợp nhất đối với loại sản phẩm mà dự án định sản xuất, phù hợp với điều kiện của máy móc, thiết bị cần mua sắm, với khả năng tài chính và các yếu tố có liên quan khác như tay nghề, trình độ quản lý…
Tuỳ thuộc công nghệ và phương pháp sản xuất, đồng thời căn cứ vào trình độ tiến bộ kỹ thuật, chất lượng và giá cả phù hợp với khả năng vận hành và vốn đầu tư, điều kiện bảo dưỡng, sửa chữa, công suất, tính năng, điều kiện vận hành, năng lượng sử dụng, điều kiện khí hậu… mà lựa chọn máy móc thiết bị thích hợp.
- Xác định nguyên vật liệu đầu vào: Nguyên vật liệu đầu vào bao gồm tất cả các nguyên vật liệu chính và phụ, vật liêu bao bì đóng gói. Đây là một khía cạnh kỹ thuật quan trọng của dự án.
- Xem xét các điều kiện về cơ sở hạ tầng: Nhu cầu năng lượng, nước, giao thông, thông tin liên lạc.. của dự án phải được xem xét, nó có ảnh hưởng đến chi phí đầu tư và chi phí sản xuất hay không.
- Xem xét lựa chọn địa điểm thực hiện dự án: Các khía cạnh về địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, kỹ thuật… có liên quan đến sự hoạt động và hiệu quả h oạt động của dự án.
- Thẩm định kỹ thuật xây dựng công trình của dự án: Tìm các giải pháp kỹ thuật xây dựng vừa đảm bảo yêu cầu sản xuất sau này, vừa rút ngắn được thời gian xây dựng công trình, mau chóng đưa công trình vào sử dụng, vừa đảm bảo chi phí xây dựng công trình phải căn cứ vào yêu cầu về đặc tính kỹ thuật của máy móc, thiết bị, dây chuyền sản xuất, cơ sở hạ tầng, cách tổ chức điều hành, nhu cầu dự trữ nguyên vật liệu và sản phẩm, về lao động sẽ sử dụng.
- Thẩm định tiến độ thi công dự án: Việc lập lịch trình thực hiện dự án phải đảm bảo dự án đi vào hoạt động đúng thời gian dự định.
- Thẩm định vấn đề xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường: Xác định các chất thải có khả năng gây ô nhiễm môi trường của dự án. Lựa chọn phương pháp và phương tiện xử lý chất thải căn cứ vào điều kiện cụ thể về luật bảo vệ môi trường tại địa phương, địa điểm và quy mô hoạt động của dự án, loại chất thải, chi phí để xử lý chất thải…
1.2.4.3 Thẩm định tổ chức, quản lý dự án.
Là việc phân tích mặt tổ chức, quản lý nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động của dự án.
Cần phân tích nội dung sau:
- Xây dựng bộ máy tổ chức, quản lý dự án đảm bảo các nguyên tắc sau:
Các mục tiêu của dự án phải được quy định và hiểu rõ.
Thống nhất về chức năng.
Tổ chức phải tinh gọn, mối quan hệ giữa các bộ phận phải rõ ràng.
Mọi cá nhân phải thực hiện tốt các công việc thuộc trách nhiệm củamình.
Mọi cá nhân đều có quyền hạn tương xứng với trách nhiệm được trao để có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Sự giám sát và lãnh đạo phải được xác lập đối với mọi hoạt động của dự án để đạt được mục tiêu đã định.
Quy định rõ phạm vi kiểm soát của các đơn vị.
- Lao động và chính sách tiền lương:
Xác định nhu cầu về lao động: Căn cứ vào yêu cầu kỹ thuật của sản xuất và hoạt động điều hành dự án.
Xác định nguồn lao động và chi phí tuyển dụng, đào tạo, chi phí tiền lương; Xác định hình thức trả lương thích hợp, tính ra quỹ lương hàng năm cho mỗi loại lao động và cho tất cả lao động của dự án.
Đối với dự án mà trình độ khoa học kỹ thuật chưa đủ khả năng để tiếp nhận một số kỹ thuật hoặc đảm nhiệm một số khâu công việc thì khi chuyển giao công nghệ sản xuất phải thoả thuận với bên bán công nghệ đưa chuyên gia sang trợ giúp.
- Phương pháp quản lý mua sắm vật tư, thiết bị, tiến độ dự án:
Lựa chọn đơn vị cung ứng
Quản lý chặt chẽ các điều kiện của hợp đồng mua hàng: điều kiện về thương mại(số lượng, giá cả, thời gian giao hàng…), điều kiện về kỹ thuật.
Quản lý kế hoạch mua sắm.
Quản lý việc thực hiện dự án: Xây dựng kế hoạch thực hiện dự án, xác định thời gian thực hiện các công việc, phương pháp giám sát tiến độ dự án.
- Xác định các tiêu thức đánh giá kết quả thực hiện dự án: Chỉ tiêu hiệu qủa sử dụng nguyên vật liệu cho dự án, hiệu quả sử dụng lao động máy móc…
1.2.4.4 Thẩm định kinh tế - xã hội dự án.
Là đánh giá việc thực hiện dự án có những tác động gì đối với nền kinh tế và xã hội. Ta phải tiến hành xem xét những lợi ích kinh tế xã hội ròng do thực hiện dự án đem lại. Lợi ích kinh tế xã hội ròng của dự án là chênh lệch giữa các lợi ích mà nền kinh tế và xã hội thu được so với các đóng góp mà nền kinh tế và xã hội đã phải bỏ ra khi thực hiên dự án.
Lợi ích mà xã hội thu được chính là sự đóng góp của dự án đối với việc thực hiện các mục tiêu chung của xã hội, của nền kinh tế. Những lợi ích nàycó thể được xem xét mang tính chất định tính như đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế, phục vụ việc thực hiện các chủ trương chính sách của Nhà nước, góp phần chống ô nhiễm môi trường, cải tạo môi sinh…hoặc đo lường bằng cách tính toán định lượng như mức tăng thu cho ngân sách, mức gia tăng số người có việc làm, mức tăng thu ngoại tệ…
Những chi phí mà xã hội phải bỏ ra cho việc thực hiện dự án cũng được xem xét trên khía cạnh mang tính chất định tính và định lượng.
Khi thẩm định kinh tế - xã hội dự án cần căn cứ vào các mục tiêu chủ yếu sau:
Nâng cao mức sống của dân cư được thể hiện gián tiếp qua các số liệu cụ thể về mức gia tăng sản phẩm quốc dân, mức gia tăng tích luỹ vốn, mức gia tăng đầu tư, tốc độ phát triển, tốc độ tăng trưởng…
Phân phối lại thu nhập thể hiện qua sự đóng góp của dự án vào việc phát triển các vùng kinh tế, nâng cao đời sống của tầng lớp dân cư nghèo.
Gia tăng số lao động có việc làm.
Tăng thu và tiết kiệm ngoại tệ.
Nâng cao năng suất lao động, đào tạo lao động có trình độ tay nghề cao, tiếp nhận chuyển giao công nghệ hoàn thiện cơ cấu sản xuất của nền kinh tế.
Phát triển các ngành công nghiệp chủ đạo có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của các ngành khác.
1.2.4.5 Thẩm định tài chính dự án
Là thẩm định dự án dưới giác độ của doanh nghiệp. Đó là việc xem xét đánh giá và đưa ra những con số cụ thể về khả năng sinh lợi của vốn đầu tư. Thẩm định tài chính dự án cho phép nhà đầu tư đánh giá tính khả thi về mặt tài chính của dự án.Do đó, có thể đưa ra được kết luận cuối cùng về tính khả thi của dự án đầu tư phải xem xét khả năng sinh lợi của vốn đầu tư, tính toán các giá trị biểu hiện khả năng này được dựa trên dòng tiền ròng của dự án. Cụ thể hơn, nhà đầu tư phải tiến hành thẩm định các khía cạnh liên quan đến giá trị dòng tiền vào và dòng tiền ra của dự án.
Điều quan trọng trong thẩm định tài chính dự án là phải xây dựng được một hệ thống định mức tiêu chuẩn các chỉ tiêu thông qua việc nghiên cứu kỹ thị trường cũng như mặt bằng hàng hóa, dịch vụ cung ứng ở thời điểm tiến hành triển khai dự án. Do tầm quan trọng của thẩm định tài chính dự án đối với quyết định cho vay của ngân hàng, nên ta xem xét thẩm định tài chính cụ thể như sau:
1.2.5 Nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư
1.2.5.1 Thẩm định tổng vốn đầu tư của dự án
Để đảm bảo cho dự án hoạt động có hiệu quả thì điều quan trọng trước tiên là phải dự tính được lượng vốn đầu tư cần thiết theo từng loại công việc trong từng giai đoạn của quá trình thực hiện đầu tư. Ta cần phải tiến hành lập biểu ghi chép tình hình thực hiện đầu tư, thẩm định số lượng, chất lượng, thời hạn cung cấp đầu vào cho dự án theo từng loại công việc trong từng giai đoạn của quá trình thực hiện và thẩm định giá cho các yếu tố đầu vào nhằm dự tính hợp lý số vốn đầu tư trong từng giai đoạn của chu trình dự án.
Về cơ bản, đây là việc xem xét tính toán tổng vốn đầu tư cho dự án có đầy đủ, chính xác và phù hợp hay không. Vốn đầu tư cho dự án thường bao gồm vốn đầu tư cơ bản, vốn lưu động và các chi phí khác.
Vốn đầu tư cơ bản là toàn bộ lượng vốn cần thiết để hoàn thành công trình sẵn sàng đưa vào sử dụng bao gồm vốn đầu tư xây lắp, vốn đầu tư thiết bị, chi phí chuẩn bị mặt bằng…
Vốn lưu động là toàn bộ chi phí cần thiết để khai thác và sử dụng công trình. Vốn lưu động thường bao gồm: Nguyên vật liệu, tiền lương, phụ tùng, thành phẩm tồn kho, hàng hoá bán chịu, chi phí đột xuất.
Việc xác định đúng chi phí khác như chi phí thành lập, chi phí trả lãi vay có chú ý đến giá trị thời gian của tiền, chi phí dự phòng… cũng là yếu tố rất quan trọng trong quyết định bỏ vốn đầu tư.
Các khoản tài chính dài hạn phải trang trải đủ các chi phí đầu tư của dự án bao gồm vốn cố định và vốn lưu động cần thiết cho việc vận hành bình thường. Các khoản tài chính có thể huy động dưới dạng vốn cổ phần và vốn vay dài hạn. Việc giải quyết nhu cầu của dự án không những quyết định khả năng sinh lợi trong tương lai mà cả những cân đối thu chi của nó. Bởi vậy, trong quá trình đánh giá dự án, cơ cấu vốn do chủ đầu tư dự tính sẽ được xét một cách chặt chẽ trên cơ sở xét đoán khả năng sinh lợi trong tương lai của doanh nghiệp.
Việc xác định đúng lượng vốn cần thiết cho một vòng đời của dự án là chưa đủ nếu không xem xét đến tiến độ bỏ vốn. Tiến độ bỏ vốn được căn cứ theo tiến độ triển khai đầu tư dự án, các điều kiện về tạm ứng vốn hoặc thanh toán khối lượng trong các hợp đồng giao nhận thầu cũng như khả năng tham gia của các nguồn vốn đầu tư vào dự án.
1.2.5.2 Thẩm định khả năng triển khai và huy động nguồn tài trợ.
Các nguồn tài trợ cho dự án có thể là vốn chủ sở hữu, vốn vay và đi thuê.Vì vốn đầu tư phải được thực hiện theo tiến độ ghi trong dự án vừa để đảm bảo tiến độ thực hiện các công việc chung của dự án, vừa tránh ứ đọng vốn nên các nguồn tài trợ được xem xét không chỉ về mặt số lượng mà cả thời điểm nhận được tài trợ. Tiếp đó phải so sánh nhu cầu với khả năng đảm bảo vốn cho dự án từ các nguồn về số lượng và tiến độ. Nếu khả năng nhỏ hơn nhu cầu thì phải giảm quy mô của dự án, xem xét lại khía cạnh kỹ thuật, lao động để đảm bảo tính đồng bộ trong việc giảm quy mô của dự án.
1.2.5.3 Xem xét các báo cáo tài chính, xác định dòng tiền dự kiến cho từng giai đoạn của chu trình dự án
+ Lập các báo cáo tài chính
Các báo cáo thường lập và cần lập là báo cáo chi phí sản xuất kinh doanh, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh, bảng cân đối kế toán. Các báo cáo tài chính là phương tiện thuận lợi và dễ hiểu để tóm tắt các thông tin phù hợp về dự án. Trên các báo cáo tài chính này sẽ một phần nào dự tính các luồng tiền của dự án. Từ các thông tin trên các báo cáo tài chính này, các cán bộ thẩm định sẽ tính được các chỉ tiêu phản ánh về chất lượng dự án, từ đó ra quyết định đối với dự án.
+ Thẩm định doanh thu
Doanh thu của dự án bao gồm: doanh thu do bán sản phẩm, doanh thu từ tận thu phế liệu, hay từ các hoạt động kinh doanh bên ngoài…Trong quá trình tính toán doanh thu của dự án, phải chú ý công suất thiết kế cũng như công suất thực tế của dự án, khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án. Để xác định doanh thu của dự án qua các giao đoạn ta cần xác định sản lượng tiêu thụ của dự án qua các thời kỳ, và xác định đơn giá sản phẩm
+ Thẩm định các chi phí đầu vào
Chi phí đầu vào gồm: chi phí biến đổi, chi phí cố định, lãi vay ngân hàng, thuế…Các định mức chi phí nên tính toán trên cơ sở quy định hiện hành của bộ tài chính, các định mức mà các đơn vị khác cùng nghành đã và đang thực hiện
1.2.5.4 Phân tích các chỉ tiêu phản ánh mặt tài chính của dự án
* Chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng (NPV)
Giá trị hiện tại thuần là tổng lãi ròng của cả đời dự án được chiết khấu về năm hiện tại theo tỷ lệ chiết khấu nhất định.
n
NPV=Σ
i=0
(Bi-Ci)
(1+IRR)^i
Trong đó:
Bi (Benefit) - Lợi ích của dự án, tức là bao gồm tất cả những gì mà dự án thu được (như doanh thư bán hàng, lệ phí thu hồi, giá trị thanh lý thu hồi..)
Ci (Cost) - Chi phí của dự án, tức là bao gồm tất cả những gì mà dự án bỏ ra (như chi đầu tư, chi bảo dưỡng, sửa chữa, chi trả thuế và trả lãi vay…)
r – Tỷ lệ chiết khấu.
n – Số năm hoạt động kinh tế của dự án (tuổi thọ kinh tế của dự án)
i – Thời gian (i = 0,1…n)
Cách xác định NPV như trên được thực hiện với tình huống bất kì.
Phân tích tài chính một dự án đầu tư là phân tích căn cứ trên các luồng tiền của dự án. Sau khi tính đến các yếu tố, chúng ta có thể xây dựng được một dãy các luồng tiền trong các năm của dự án như sau:
Năm
0
1
2
3
…
t
Luồng tiền
CFo
CF1
CF2
CF3
…
CFt
Đối với các dự án thông thường, CFo là chi phí đầu tư ban đầu, còn lại là luồng tiền ròng do dự án mang lại trong các năm hoạt động.
Trên cơ sở các luồng tiền dự tính, các chỉ tiêu về tài chính được tính toán làm cơ sở cho việc ra quyết định đầu tư.
Giá trị hiện tại ròng: Là chênh lệch giữa giá trị hiện tại của các khoản thu và giá trị hiện tại của các khoản chi mà dự án mang lại trong thời gian kinh tế của dự án. Do vậy, chỉ tiêu này phản ánh giá trị tăng thêm ( khi NPV dương) hoặc giảm đi ( khi NPV âm) nếu dự án được chấp nhận.
Việc tính toán giá trị hiện tại ròng liên quan đến việc tính toán:
+ Dự tính lượng tiền đầu tư ban đầu, tức là luồng tiền tại thời điểm 0: CFo là luồng tiền ra nên nó mang dấu âm. CFo bao gồm các khoản đầu tư vào tài sản, tạo ra tài sản của dự án. Nó có thể dưới dạng tiền sẵn sàng cho dự án hoạt động, tạo ra tồn kho, mua sắm tài sản cố định. Đó là các khoản chi tiêu cho dự án hoạt động. Trong thực tế, nó bao gồm các khoản chi tại các thời điểm khác nhau trong giai đoạn đầu tư của dự án.
+ Dự tính các luồng tìên trong thời gian kinh tế của dự án. Đây là các khoản thực thu bằng tiền trong các năm hoạt động của dự án. Nó được tính bằng doanh thu ròng trừ đi các chi phí bằng tiền của từng năm. Các khoản này có thể thu được tại các thời điểm khác nhau trong năm, nhưng trong tính toán phân tích, người ta thường giả định các luồng tiền diễn ra vào thời điểm cuối năm.
+ Dự tính tỷ lệ chiết khấu. Rất khó để xác định một tỷ lệ chiết khấu hoàn toàn chính xác. Tỷ lệ chiết khấu là chi phí cơ hội của việc đầu tư vào dự án mà không đầu tư trên thị trường vốn. Cho đến nay vần đề tỷ lệ chiết khấu cho dự án vẫn đang là một vấn đề tranh cãi cho các nhà nghiên cứu, chưa tìm ra được tiếng nói chung. Tuy nhiên có thể hiểu một cách khái quát rằng tỷ lệ này được tính bằng tỷ lệ thu nhập của các tài sản tài chính tương đương. Đó là tỷ lệ thu nhập mà nhà đầu tư mong đợi khi đầu tư vào dự án.
Giá trị hiện tại ròng là chỉ tiêu cơ bản đựoc sử dụng trong phân tích dự án. Một số nhà phân tích tài chính cho đây là chỉ tiêu chính tốt nhất giúp cho việc ra các quyết định đầu tư. Ta nhận thấy khi tỷ lệ chiết khấu r tăng lên, NPV của dự án sẽ giảm xuống. Mục tiêu của doanh nghiệp là tối đa hóa giá trị tài sản của chủ sở hữu vì vậy khi thẩm định tài chính dự án, chỉ tiêu NPV rất được các nhà đầu tư quan tâm. NPV phản ánh kết quả lỗ lãi của dự án theo giá trị hiện tại (tại thời điểm 0) sau khi đã tính đến yếu tố chi phí cơ hội của vốn đầu tư. NPV dương tức là dự án có lãi. NPV = 0 chứng tỏ dự án chỉ đạt mức trang trải đủ chi phí vốn. Còn lại dự án có NPV âm là dự án bị lỗ.
Chính vì vậy mà ta thấy quy tắc rất đơn giản là chấp nhận dự án có NPV dương và lớn nhất (nếu có nhiều hơn một dự án có NPV dương). Hay cụ thể hơn đối với các dự án là độc lập nhau, thì dự án được lựa chọn là dự án có NPV >= 0. Dự án có giá trị hiện tại ròng càng lớn thì hiệu quả tài chính đầu tư càng cao, dự án càng hấp dẫn. Đối với các dự án là loại trừ nhau tức là chấp nhận dự án này thì phải loại bỏ dự án khác, thì dự án được lựa chọn là dự án có NPV lớn nhất.
Tuy nhiên việc sử dụng chỉ tiêu này cũng có những rủi ro nhất định. Đó là độ tin cậy của các dự đoán đưa ra như trên. Bởi vì NPV được tính toán dựa trên những dự tính về các dòng tiền của dự án. Nếu những dự đoán đưa ra ở trên mà thiếu sự chính xác thì hiển nhiên việc tính toán NPV trở nên vô nghĩa và việc ra quyết định đối với dự án sẽ bị sai lệch.
* Chỉ tiêu tỷ lệ nội hoàn hay tỷ lệ hoàn vốn nội bộ IRR
Ngoài mối quan tâm đến kết qủa tuyệt đối của việc chấp nhận dự án, các chủ đầu tư còn có thể quan tâm đến tỷ lệ thu nhập bình quân các năm trên vốn đầu tư. Chỉ tiêu này cho phép có thể so sánh trực tiếp với chi phí của vốn đầu tư vào dự án. Đó chính là tỷ lệ hoàn vốn nội bộ.
Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó giá trị hiện tại ròng của dự án bằng 0.
n
Σ
i=0
Bi
=
n
Σ
i=0
Ci
(1+IRR)^i
(1+IRR)^i
Trong đó:
Bi - Giá trị thu nhập (Benefits) năm i
Ci - Giá trị chi phí (Cost) năm i
n- thời gian hoạt động của dự án
Để xác định IRR người ta thường sử dụng phương pháp nội suy tuyến tính:
Trong đó:
r1 là tỷ lệ chiết khấu làm cho NPV1 > 0
r2 là tỷ lệ chiết khấu làm cho NPV2 < 0
Cũng như NPV, IRR liên quan đến việc dự tính các luồng tiền mà dự án sẽ tạo ra trong quá trình hoạt động. Đồng thời ta phải có một tỷ lệ chiết khấu mong đợi để so sánh khi ra quyết định đầu tư.
Ta thấy nếu dự án chỉ có tỷ lệ nội hoàn IRR = r (tỷ lệ chiết khấu) thì các khoản thu nhập từ dự án chỉ đủ để hoàn trả phần vốn góp và lãi đã đầu tư ban đầu vào dự án. IRR phản ánh khả năng sinh lợi của dự án, chưa tính đến chi phí cơ hội của vốn đầu tư. Tức là nếu như chiết khấu các luồng tiền theo IRR, PV sẽ bằng đầu tư ban đầu CFo. Hay nói cách khác, nếu chi phí vốn bằng IRR, dự án sẽ không tạo thêm được giá trị hay có lãi. Vì vậy ta có kết luận thẩm định như sau: Nếu các dự án độc lập nhau, thì dự án có IRR >= r sẽ được chọn. Nếu các dự án loại trừ nhau, ta chọn dự án có IRR cao nhất.
Trong việc tính toán IRR cần lưu ý, không cần phài căn cứ vào tỷ lệ chiết khấu dự tính. Điều đó không có nghĩa là tỷ lệ chiết khấu là không quan trọng. Như trên đã đề cập, một khi IRR được tính toán, tiêu chuẩn để so sánh là tỷ lệ chiết khấu của dự án.
Khi sử dụng IRR ta phải chú ý rằng cũng như NPV, sự chính xác của chỉ tiêu phụ thuộc vào sự chính xác của các dự tính về luồng tiền. IRR là một chỉ tiêu mang tính tương đối, tức là nó chỉ phản ánh tỷ lệ hoàn vốn nội bộ của dự án là bao nhiêu chứ không cung cấp quy mô của số lãi hay lỗ của dự án tính bằng tiền.
Khi dự án được lập trong nhiều năm, việc tính toán chỉ tiêu là rất phức tạp. Đặc biệt loại dự án có các luồng tiền ròng vào ra xen kẽ năm này qua năm khác, kết quả tính toán có thể cho nhiều IRR khác nhau gây khó khăn cho việc ra quyết định.
Sử dụng hai chỉ tiêu NPV và IRR để đánh giá dự án có thể đưa tới cùng một kết luận, đồng thời lại có thể đưa tới hai kết luận trái ngược. Điều đó tùy thuộc vào các luồng tiền trong tương lai và tỷ lệ chiết khấu. Vì IRR không đề cập tới độ lớn, quy mô của dự án và không giả định đúng tỷ lệ tái đầu tư đồng thời để đạt được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của dự án đầu tư, nên chủ đầu tư thường coi trọng chỉ tiêu NPV hơn để đưa ra quyết định trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa hai chỉ tiêu.
* Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn
Thời gian hoàn vốn của một dự án là số năm mà tại đó các luồng tiền của dự án được luỹ kế đến một khoản mà bù đắp được chi phí đầu tư ban đầu.
Công thức như sau:
Thời gian hoàn vốn =
Vốn đầu tư ban đầu
Luồng tiền mỗi năm
Trong công thức thời gian hoàn vốn không đề cập đến giá trị thời gian của tiền. Nguyên lý thời gian hoàn vốn trong đánh giá dự án có hai hạn chế chủ yếu sau:
+Bỏ qua giá trị thời gian của tiền: Nguyên lý thời gian hoàn vốn giả định là luồng tiền nhận được trong tương lai cũng ngang bằng về giá trị của luồng tiền nhận được trong năm hiện tại. Trong thực tế, chúng ta cần chiết khấu các luồng tiền trong tương lai để làm chúng ngang bằng về giá trị với các luồng tiền hiện tại, bởi vì các luồng tiền có thể được đầu tư để thu được lãi trong tương lai. Tuy nhiên, trong khi nguyên lý thời gian hoàn vốn không xem xét đến giá trị thời gian của tiền, không có lý do giải thích tại sao chiết khấu luồng tiền không được sử dụng trong các phân tích này.
+Bỏ qua các luồng tiền phát sinh sau thời gian hoàn vốn: Chỉ có luồng tiền ở giai đoạn cuối cùng mà vốn ban đầu đã được bù đắp được coi là phù hợp trong các phân tích này, và vì vậy nguyên lý thời gian hoàn vốn tạo ra một bức tranh không hoàn chỉnh về tài chính của dự án. Tất cả các luồng tiền phát sinh sau thời gian hoàn vốn bị bỏ qua.
Mặc dù vậy, chỉ tiêu này cũng được áp dụng khá rộng rãi trong thực tế bởi vì:
+ Đơn giản: Chỉ tiêu này đơn giản dễ hiểu và dễ tính hơn so với nguyên lý chiết khấu luồng tiền.
+ Tạo bức màn che cho dự án: Nó cung cấp một công cụ để che dấu dự án. Nếu một dự án không tìm được tiêu chuẩn thời gian hoàn vốn, nhà quản lý có thể từ chối dự án mặc dù các luồng tiền lớn tiềm ẩn được tính trong tương lai.
+ Khan hiếm tiền: Khi một công ty bị khan hiếm tiền, công ty sẽ lựa chọn các dự án có thể bù đắp được vốn đầu tư ban đầu trong thời gian ngắn nhất. Một công ty ít vốn có thể không đợi được kỳ trả tiền lớn của một dự án với thời gian hoàn vốn lâu nhưng NPV khả thi. Thậm chí trong các trường hợp, nó nên sử dụng cùng với một phương pháp chiết khấu luồng tiền.
+ Các rủi ro của dự án: Công cụ thời gian hoà._.Ngân hàng vẫn cần phải xem xét dự án trong cả đời dự án, khi đó việc kết luận về hiệu quả dự án mới có ý nghĩa. Tất nhiên nếu thời hạn cho vay ngắn hơn đời dự án thì Ngân hàng sẽ chú trọng hơn tới dự án trong thời hạn cho vay, nhưng việc nhìn nhận tổng thể về toàn bộ dự án vẫn là điều cần thiết.
Ngân hàng phải phân tích kỹ thị trường đầu vào để ước lượng các khoản chi phí nguyên nhiên vật liệu. Có nhiều dự án mà đầu vào là các nguyên nhiên liệu phải nhập ngoại, hay nguồn cung cấp không ổn định, giá cả biến động bất thường, khi đó Ngân hàng phải thận trọng để tính toán giá thành được chính xác.
Để xác định được doanh thu, ba yếu tố quan trọng phải dự đoán là công suất thực hiện, mức tiêu thụ và giá bán sản phẩm. Muốn dự đoán được công suất thực hiện thì khâu thẩm định kỹ thuật phải chính xác. Ngân hàng cần xem xét mức độ phù hợp của công nghệ và trang thiết bị về mức độ hiện đại, số lượng, chủng loại, danh mục, tính đồng bộ của dây chuyền sản xuất... từ đó đánh giá công suất thực hiện của dự án. Công việc này đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có hiểu biết về kỹ thuật, công nghệ, vì vậy với những dự án phức tạp Ngân hàng có thể thuê chuyên gia tư vấn có kinh nghiệm trong lĩnh vực để đưa ra nhận xét chính xác.
Muốn dự đoán được mức tiêu thụ và giá bán sản phẩm thì khâu thẩm định thị trường lại phải chính xác. Ngân hàng có thể nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, nghiên cứu điểm mạnh yếu, cơ hội và những rủi ro của doanh nghiệp, của sản phẩm, đánh giá chất lượng sản phẩm, tiến hành định vị sản phẩm trên thị trường, đồng thời áp dụng các mô hình thống kê, kinh tế lượng để xác định mức tiêu thụ và giá bán. Trong phần này, Ngân hàng cũng nên tham khảo những dự báo về tình hình kinh tế, tình hình thị trường.
Xác định các khoản thuế phải nộp cũng là nội dung quan trọng. Cần xem xét các hình thức thuế cung như các phương pháp tính thuế như thuế giá trị gia tăng, hay thuế thu nhập doanh nghệp. Về bản chất thuế GTGT là thuế gián thu, nó đánh vào người tiêu dùng chứ không ảnh hưởng tới doanh nghiệp, nó không phải thu nhập cũng không phải chi phí của dự án. Vì vậy khi xác định doanh thu, chi phí của dự án, Ngân hàng nên tính phần thuế gián thu này và tách nó ra khỏi dòng doanh thu, chi phí. Ngân hàng cần quan tâm xem phương pháp tính thuế GTGT là trực tiếp hay khấu trừ để xác định được chính xác.
Thuế thu nhập doanh nghiệp cũng đã được áp dụng từ ngày 1/1/1999 thay cho thuế lợi tức. Mỗi doanh nghiệp thuộc những ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh khác nhau lại được áp dụng những mức thuế suất khác nhau nhưng mức thuế suất phổ biến nhất hiện nay là 25%. Cũng theo quy định thì khoản lợi nhuận trước thuế âm của năm trước được khấu trừ vào lợi nhuận trước thuế của năm sau khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Ngân hàng rất hay bỏ qua yếu tố này. Ngoài ra, có nhiều dự án được hưởng ưu đãi về thuế, được miễn hay giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong những năm đầu, Ngân hàng cũng phải tính thuế theo mức miễn giảm để đảm bảo sự chính xác của dòng tiền.
Giải pháp lựa chọn chỉ tiêu hiệu quả kinh tế phù hợp nhất.
Tất cả các dự đoán của Ngân hàng trên đây dù có chính xác cũng không đảm bảo Ngân hàng có thể đưa ra kết luận chính xác về tính hiệu quả của dự án nếu Ngân hàng không sử dụng được đúng những chỉ tiêu phù hợp để phản ánh. Ta đều biết có rất nhiều chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính dự án, nhưng không phải chỉ tiêu nào cũng hữu hiệu trong mọi trường hợp.
Chỉ tiêu NPV được sử dụng rất rộng rãi. Nó đo lường trực tiếp phần lợi nhuận mà dự án đóng góp vào tài sản của cổ đông. Tuy nhiên nó phụ thuộc nhiều vào tỉ lệ chiết khấu mà ta chọn và về dài hạn nó có khá nhiều sai lệch. Vì vậy khi dùng chỉ tiêu này, Ngân hàng nên tính với nhiều mức lãi suất chiết khấu khác nhau và với những dự án dài hạn thì nên sử dụng kết hợp với những phương pháp IRR, thời gian hoàn vốn...
Chỉ tiêu IRR đo lường tỉ lệ hoàn vốn của dự án, nó cũng cho biết tỉ lệ tăng trưởng của dự án. Chỉ tiêu này rất được chú ý với những dự án dài hạn. Nhưng Ngân hàng phải lưu ý rằng khi sử dụng chỉ tiêu này để xếp hạng những dự án có quy mô khác nhau thì rất dễ không chính xác vì những nhược điểm đã được phân tích ở Chương một. Ngoài ra, khi tính ra được kết quả IRR, Ngân hàng phải đánh giá nó dựa trên sự so sánh với những dự án cùng ngành nghề, lĩnh vực đầu tư, có sự tương đồng về thời hạn và quy mô chứ không chỉ đơn thuần so sánh nó với lãi suất cho vay của mình như Ngân hàng vẫn thường làm hiện nay.
Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn thì chắc chắn phải là thời gian hoàn vốn có chiết khấu. Đây cũng là chỉ tiêu rất được chú ý khi xem xét những dự án dài hạn, nó cho phép đo lường mức độ rủi ro của dự án. Đặc biệt với những dự án mà các nguồn tài trợ có giới hạn về thời gian thì Ngân hàng phải tính chỉ tiêu này để xem dự án có đảm bảo tiến độ hoàn trả nợ hay không.
Với những dự án mà mức tiêu thụ khó dự đoán như những dự án tạo ra sản phẩm mới hay thâm nhập vào những thị trường mới thì Ngân hàng nên xét tới chỉ tiêu điểm hoà vốn. Nó đưa ra mức hoạt động tối thiểu mà doanh nghiệp cần đạt tới để có lợi nhuận. Ngân hàng có thể so sánh chỉ tiêu này với công suất dự kiến hay mức tiêu thụ dự kiến, vừa để đánh giá khả năng sinh lợi của dự án, vừa để làm căn cứ yêu cầu doanh nghiệp có biện pháp cải tiến tăng năng suất hay thúc đẩy hoạt động marketing để đảm bảo khả năng sinh lợi cao.
Ngoài ra, Ngân hàng cũng có thể tính các chỉ tiêu PI, MIRR, tỉ lệ lợi ích chi phí -BCR. Nói chung, với bất cứ dự án nào Ngân hàng cũng nên tính một số chỉ tiêu phù hợp nhất để chúng bổ sung, khắc phục nhược điểm lẫn nhau, từ đó Ngân hàng tổng hợp lại và đưa ra kết luận chính xác nhất.
Trong khi tính các chỉ tiêu NPV, PI, PP, BCR, ta đều phải chọn một lãi suất chiết khấu. Việc chọn lãi suất chiết khấu cũng khá quan trọng, nó ảnh hưởng lớn tới kết quả của các chỉ tiêu trên. Thế nhưng Ngân hàng lại thường chọn luôn lãi suất cho vay của mình làm lãi suất chiết khấu là không chính xác mà ngân hàng nên lấy lãi suất bình quân gia quyền của các nguồn vốn vay (với những dự án được tài trợ từ nhiều nguồn vốn vay khác nhau). Tuy nhiên cũng có trường hợp chủ đầu tư và Ngân hàng xem xét dự án với đòi hỏi không chỉ dự án đó hoà vốn mà phải đạt một tỉ lệ sinh lời tối thiểu nào đó. Khi đó Ngân hàng lại có thể chọn tỉ lệ lợi tức yêu cầu làm lãi suất chiết khấu. Nhưng tốt nhất khi tính những chỉ tiêu phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu thì Ngân hàng nên tính theo một vài mức lãi suất chiết khấu khác nhau.
Thẩm định độ rủi ro và khả năng trả nợ của dự án cần chi tiết hơn.
Về thẩm định độ rủi ro của dự án: Như đã trình bày, mọi yếu tố mà ta tính toán đều là dự đoán. Tình hình kinh tế, tình hình thị trường, các yếu tố đầu vào... lại thường xuyên thay đổi, vì vậy có thể nói dự án nào cũng có những rủi ro nhất định. Việc thẩm định độ rủi ro của dự án cần được Ngân hàng coi trọng hơn nữa. Phương pháp đơn giản nhất là phân tích độ nhạy. Ngân hàng cần tính toán sự thay đổi của các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính khi công suất thực hiện, mức tiêu thụ, giá bán sản phẩm... thay đổi 5%, 10% hay 20%. Kết quả của phương pháp này không chỉ để Ngân hàng đánh giá xem độ rủi ro của dự án có nằm trong khả năng chấp nhận của Ngân hàng hay không để ra quyết định từ chối hay đồng ý dự án, mà ngay cả trong trường hợp độ rủi ro là chấp nhận được Ngân hàng cũng cần đàm phán với chủ đầu tư để tìm ra giải pháp quản lý những nhân tố gây ra rủi ro. Có làm được việc đó thì khâu thẩm định này mới mang ý nghĩa thực sự.
Về thẩm định khả năng trả nợ: Ngân hàng cần lưu ý rằng tuy lợi nhuận sau thuế và khấu hao là hai nguồn trả nợ chính cho Ngân hàng nhưng chủ đầu tư không thể dùng toàn bộ hai nguồn đó để trả hết cho Ngân hàng, nhất là với những dự án được tài trợ từ nhiều nguồn vốn vay khác nhau. Ngân hàng cần xem xét cụ thể nợ chung phải trả của dự án, nợ phải trả cho riêng Ngân hàng và cân đối với nguồn trả nợ hàng năm.
Nguồn trả nợ hàng năm = % lợi nhuận sau thuế + khấu hao
Lợi nhuận sau thuế hàng năm chỉ có thể trích khoảng 50 - 60% để trả nợ.
Một lưu ý nữa là với những năm có lợi nhuận sau thuế âm, chủ đầu tư có nhiều cách để tài trợ cho phần âm này như nợ nhà cung cấp, nợ lương, nợ thuế... nhưng một cách rất hay được sử dụng là không trích đủ khấu hao. Như vậy những năm có lợi nhuận sau thuế âm thì thậm chí phần khấu hao cũng không được đảm bảo để trả nợ. Ngoài ra, với những năm nguồn trả nợ nhỏ hơn nợ phải trả thì Ngân hàng phải yêu cầu chủ đầu tư giải trình thêm những nguồn khác có thể sử dụng để trả nợ cho Ngân hàng.
Nâng cao trình độ chuyên môn, hiểu biết và phẩm chất đạo đức cho cán bộ thẩm định.
Nhân tố con người đã được đánh giá là quan trọng nhất vì xét cho cùng, họ chính là người tiếp xúc với dự án, thu thập xử lí thông tin, xây dựng những phương pháp thẩm định phù hợp, sử dụng công nghệ trang thiết bị để hỗ trợ cho công việc của mình. Cán bộ thẩm định vì vậy phải có hiểu biết, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và phải có cả phẩm chất đạo đức. Muốn có được đội ngũ cán bộ đáp ứng tốt yêu cầu công việc như vậy, Sở giao dịch 1 Ngân hàng Công thương phải thực hiện tốt một số công tác sau:
- Phải tiến hành tốt công tác tuyển dụng. Việc tuyển dụng cán bộ phải được thực hiện khoa học và công minh, phải có phương pháp thu hút được nhiều người có khả năng tới thi tuyển vào ngân hàng và ngân hàng phải tạo điều kiện để họ có thể thể hiện hết khả năng của mình qua các khâu thi tuyển và thử việc. Những năm gần đây Ngân hàng đã có chú ý tạo mối quan hệ mật thiết với những trường Đại học đào tạo cán bộ chuyên ngành ngân hàng, đây là một hướng tốt cần được tiếp tục, cho phép Ngân hàng tiếp cận được những sinh viên giỏi chính là những cán bộ giỏi sau này.
- Có được những cán bộ được đào tạo chính quy, năng động, linh hoạt, Ngân hàng cũng phải có cách bố trí phân công công việc phù hợp với khả năng và nguyện vọng cụ thể của từng người. Cán bộ thẩm định dự án phải là người không chỉ có khả năng phân tích, đánh giá, dự đoán mà còn phải có khả năng giao tiếp, thu hút khách hàng, nhạy bén tìm hiểu được thông tin về khách hàng. Ngoài ra, cán bộ thẩm định cũng phải mạnh dạn, chủ động, nếu không sẽ không dám đưa ra những đánh giá, kiến nghị liên quan đến một lượng vốn lớn.
- Để phát huy được sự nhiệt tình, tận tâm vì công việc của cán bộ thẩm định, Ngân hàng cũng phải có những đãi ngộ thoả đáng. Đãi ngộ ở đây không chỉ đơn thuần về mặt vật chất mà cả về mặt tinh thần. Cán bộ phòng Kinh doanh và ban giám đốc ngân hàng phải gần gũi với cán bộ, nắm được năng lực và sự đóng góp của từng người để kịp thời động viên, khen thưởng hay khiển trách, góp ý. Hiện nay ở Ngân hàng đang thử nghiệm áp dụng việc trả lương theo hiệu quả công việc, đây là một phương pháp quản lý nhân sự hiện đại, nhưng nó cũng đòi hỏi sự công minh, chính xác tuyệt đối.
- Công tác đào tạo nâng cao trình độ của cán bộ thẩm định cũng cần phải được coi trọng hơn nữa. Sở giao dịch 1 Ngân hàng Công thương đã thực hiện tương đối tốt việc cử cán bộ đi học các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ của NHNN, Ngân hàng Công thương VN... , tổ chức những buổi trao đổi kinh nghiệm tại ngân hàng. Nhưng nắm vững lí thuyết thôi chưa đủ, cán bộ thẩm định còn phải có những hiểu biết về thực tế đầu tư, thi công, quản lý dự án, vì vậy việc cử cán bộ trực tiếp tham gia giám sát, kiểm tra, theo dõi việc thực hiện một số dự án là cần thiết, giúp cán bộ nắm được những thuận lợi hay vướng mắc khó khăn thường gặp phải trong quá trình đầu tư để thẩm định những dự án tương tự được tốt hơn.
- Nên chăng Ngân hàng nên tiến một bước chuyên môn hoá hơn nữa, không để cán bộ thẩm định cùng một lúc đảm nhận nhiều công việc như hiện nay. Tất nhiên ở một chi nhánh ngân hàng, việc này là tương đối khó thực hiện, nhưng để dần tiến tới mở rộng quy mô tín dụng, việc tách khâu tiếp thị, tìm kiếm khách hàng với khâu thẩm định, cho vay và khâu theo dõi thu nợ là việc nên xem xét.
Tạo cơ chế tổ chức điều hành khoa học, hiệu quả.
Một tập thể cán bộ giỏi nếu được tổ chức điều hành tốt sẽ tạo ra được hiệu quả cao trong công việc. Với Ngân hàng, ban lãnh đạo và từng cán bộ tín dụng phải nhận thấy được kết quả thẩm định dự án là căn cứ quan trọng nhất để ra quyết định. Tất cả những yếu tố khác chỉ là hỗ trợ, đảm bảo thêm cho món vay. Chỉ khi nhận thức được điều đó thì công tác thẩm định mới được thực hiện kỹ lưỡng và thận trọng.
Thẩm định là công việc phức tạp, chịu ảnh hưởng biến động của nhiều nhân tố. Vì vậy việc tổ chức thực thi và tiến hành phải được thường xuyên theo dõi, đánh giá rút kinh nghiệm. Công tác quản lý điều hành phải nhằm xây dựng được một hệ thống phân cấp, phân quyền, công bằng, hợp lý. Tóm lại, cơ chế hoạt động tốt phải hội đủ hai tiêu chuẩn: hiệu quả và an toàn. Muốn vậy, Ngân hàng có thể thực hiện một số giải pháp sau:
- Tạo sự liên kết chặt chẽ giữa phòng Kinh doanh và các phòng Nguồn vốn, phòng Kế toán... Một sự hỗ trợ, kết gắn mật thiết sẽ tạo ra một cơ chế kiểm tra, kiểm soát tự nhiên thông qua quá trình hoạt động của giữa các cá nhân, bộ phận nhằm ngăn chặn các rủi ro, đặc biệt là rủi ro đạo đức.
- Tăng cường kiểm tra kiểm soát nội bộ. Bên cạnh việc triển khai những quy chế, hướng dẫn thẩm định dự án của Ngân hàng Công thương VN, Ngân hàng cần tiến hành kiểm tra xem mức độ thực hiện của các cán bộ thẩm định đến đâu, đã hoàn tất hay chưa và kịp thời có những chấn chỉnh ngay nếu việc thực hiện chưa được chi tiết, chặt chẽ và chuẩn xác.
Nâng cao chất lượng thu thập thông tin, chất lượng trang thiết bị công nghệ.
Để tăng cường khả năng cạnh tranh với các Ngân hàng trong nước cũng như các ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam, Ngân hàng cần không ngừng hiện đại hoá trang thiết bị thông tin. Việc này sẽ hỗ trợ trực tiếp cho công tác thẩm định dự án đầu tư, giúp nâng cao độ chính xác và giảm bớt thời gian, công sức, tiền của.
Trước hết, Ngân hàng cần xây dựng hệ thống thông tin hiệu quả và thuận tiện qua mạng máy tính nội bộ. Các nguồn thông tin khác nhau sẽ được hệ thống lại, phân loại để các cán bộ thẩm định dễ dàng tìm kiếm, sử dụng. Cán bộ thẩm định không chỉ là người sử dụng thông tin mà cũng là người thu thập, cung cấp thông tin. Vì vậy việc đưa mạng thông tin lên mạng máy tính nội bộ sẽ tận dụng được nhiều nguồn thông tin từ các cán bộ trong Ngân hàng.
Ngân hàng cũng có thể thiết lập những kênh thông tin thường xuyên như thông tin phản hồi từ khách hàng, thông tin giữa các ngân hàng trên địa bàn, thông tin từ CIC, từ NHNN, Ngân hàng Công thương VN. Những nguồn thông tin phong phú sẽ giúp Ngân hàng nắm rõ hơn về các lĩnh vực đầu tư, tình hình thị trường, tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tránh những khoản vay đảo nợ, tránh được hành vi thế chấp một tài sản tại nhiều ngân hàng. Tuy nhiên muốn nguồn thông tin có tác dụng thiết thực thì nguồn thông tin ấy phải hoàn toàn chính xác và kịp thời.
Ngân hàng cần tăng cường xây dựng và ứng dụng các chương trình phần mềm như phần mềm tính toán theo các tiêu chuẩn thẩm định, các chỉ số tài chính phức tạp, mẫu bảng biểu, chỉ tiêu, những mô hình dự báo... để giảm được những sai sót trong tính toán, ghi chép thông tin, tăng tốc độ xử lý thông tin, giảm chi phí về nhân lực.
Trên đây là một vài giải pháp có thể thực hiện ngay tại Ngân hàng, tác động vào những nhân tố bên trong ngân hàng để góp phần nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư. Nhưng ta biết rằng chất lượng thẩm định còn bị ảnh hưởng bởi rất nhiều những nhân tố khách quan bên ngoài, ngân hàng không thể trực tiếp tác động mà chỉ có thể nêu lên những kiến nghị để giải quyết.
2.3 Một số kiến nghị cho Sở giao dịch 1 Ngân hàng Công thương Việt Nam
2.3.1 Kiến nghị với chính phủ.
Chính phủ cần có những Nghị định nhằm đưa công tác kiểm toán phát huy hơn nữa vai trò của mình. Bên cạnh đó cũng phải có những chỉ thị cụ thể đối với Bộ tài chính nhằm làm cho các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán theo đúng quy định của Nhà nước.
Những kiến nghị này có những tác dụng: Trước hết là làm tăng tính trung thực của các doanh nghiệp trong nộp thuế cho ngân sách Nhà nước. Sau đó sẽ hình thành thói quen trong hoạt động của doanh nghiệp dễ dàng hơn trong quá trình cổ phần hoá nhất là đối với các DNNN. Sau cùng là giúp Ngân hàng có được những số liệu chính xác về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình tài chính của doanh nghiệp, làm cơ sở thẩm định doanh nghiệp nói riêng và thẩm định toàn bộ dự án nói chung.
Đối với các DNNN Chính phủ cần phải giảm bớt những “giúp đỡ “để các doanh nghiệp này từng bước làm chủ sản xuất kinh doanh, chụi những quy luật cạnh tranh của thị trường. Trước mắt có thể là những khó khăn nhưng sau đó nó sẽ đứng vững và caác hoạt động có hiệu qủa hơn. Những “giúp đỡ”cần được giảm đầu tiên là trong các quan hệ tín dụng đối với các NHTM quốc doanh. Từ trước nghị định 178/NĐ- CP/1999, chủ trương của Chính phủ vẫn tách rõ ra doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp phi quốc doanh trong hoạt động tín dụng. Cho phép các doanh nghiệp Nhà nước vay vốn không cần thế chấp, điều này là hoàn toàn bất hợp lý bởi lẽ, khi không phaỉ thế chấp tài sản thì tổng số tiền vay tại các Ngân hàng có thể sẽ lớn hơn nhiều so với nguồn vốn kinh doanh hiệ có. Điều này hiển nhiên cho rằng hệ số tài trợ không có giá trị trong công tác thẩm định. Hậu quả là doanh nghiệp sẽ “phồng to” hơn so với năng lực thực tế của mình, nếu như có xảy ra rủi ro trong quá trình kinh doanh (vấn đề này là không tránh khỏi) thì doanh nghiệp không có đủ năng lực để tàu trợ.
Như vậy DNNN và NHTM quốc doanh đều là vốn của Nhà nước thì cần tách bạch rành rọt để cho mỗi chủ thể tự chủ trách nhiệm lấy nguồn vốn của mình và hoạt động có hiệu quả hơn. Tình trạng bỏ “túi lành”sang “túi thủng”như hiện nay là bất cập. Công tác thẩm định không có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp này.
Chính phủ cần có thái độ dứt khoát sắp xếp alị các doanh nghiệp, chỉ tồn tại những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, những doanh nghiệp thực sự cần thiết cho dan sinh, tạo điều kiện cho mở rộng quy mô tín dụng. Cổ phần hoá DNNN là phương thức sắp xếp lại doanh nghiệp huy động được các nguồn lực từ nhiều thành phần kinh tế khác. Cổ phần hoá là một trong những biện pháp quan trọng để Doanh nghiệp có cơ hội tăng vốn tự có từ đó, doanh nghiệp có thể tiép cận với những khoản tín dụng đảm báo điều kiện dạt ra của NH về vốn tự có.
Hàng năm chính phủ đều có những kế hoạch đầu tư phát triển cho từng ngành thực hiện không đồng nhất: có hiẹn tượng các dự án của ngành thì thừa, các dự án của vùng thì thiếu. Chính những mâu thuẫn này làm cho công tác thẩm định tại Ngân hàng trở nên khó khăn hơn. Bởi vì khi thẩm định phương diện thị trường thì nhu cầu những sản phẩm hàng hoá của dự án tại vùng thì thiếu, nhưng xét trên toàn ngành thì tổng sản lượng lại thừa. Hay tình trạng các dự án cùng loại cùng một lúc thực hiện, trước khi thực hiện thì tổng cung là nhỏ hơn tổng cầu, nhưng nhiều dự án đi vào hoạt động thì tổng cầu nhỏ hơn tổng cung. Những khó khăn này Ngân hàng khó mà lường hết được trong công tác thẩm định, nhưng mà Chính phủ, các bộ có liên quan có thể điều tiết dược theo kế hoạch. Vì vậy, Chính phủ cần lưu tâm hơn nữa về điều này.
Đặc biệt, các cơ quan chức năng phải chú trọng đến các chính sách hỗ trợ cho công tác thẩm định dự án đầu tư, mà quan trọng hơn là công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư: ban hành các chỉ tiêu chuẩn phục vụ cho các NHTM, các tổ chức tài chính.
Nhà nước cần quy định rõ các biện pháp chế tài biện pháp xử lý nghiên trọng các trường hợp doanh nghiệp cung cấp thông tin giả … để đưa các donh nghiệp hoạt động kinh doanh lành mạnh nhằm nâng cao pháp chế XHCN.
Nhà nước cần phải chỉ đạo các doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện chế độ ké toán theo đúng quy dịnh của Nhà nước, bên cạnh đó ban hành quy chế bắt buộc kiểm toán và công khai quyết toán của doanh nghiệp, tạo điều kiện giúp hệ thôngnn trong viẹc phân tích hoạt đọng sản xuất kinh doanh cuae doanh nghiệp qua đó hạn ché phòng ngừa rủi ro. Hơn nữa tạo điều kiện cho các Ngân hàng đánh giá đúng sức mạnh tài chính của dự án cũng như của doanh nghiệp có dự án.
2.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
Tăng cường vai trò của các trung tâm thông tin Ngân hàng. Như được biết hiện nay NHNN đã có hai trung tâm thông tin Ngân hàng là: trung tâm phòng ngừa rủi ro viết tắt là (TRP)và trung tam thông tin tín dụng (CIC) đặt tại vụ tins dụng NHNN và có chi nhánh tại NHNN các tỉnh thành phố. Hiện tại, CIC là trung tam thu thạp các thông tin về các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp lứon và phát huy được những vai trò cơ bản. Nhưng đòi hỏi của ngành Ngân hàng còn cao hơn rất nhiều so với những gì mà CIC cung cấp. Cần thiết phải cải tiến cơ chế làm việc của trung tâm này: Một là, cần sắp xếp trung tâm này trở thành một thành viên độc lập, có thể cung cấp những dịch vụ thông tin liên quan đến ngành Ngân hàng tài chính cho những ai có nhu cầu. Hai là, ngoài những thông tin về Ngân hàng tài chính họ cần phối hợp với các cơ quan liên quan của Chính phủ như: uỷ ban kế hoạch Nhà nước, Tổng cục thống kê, … để thu thập những thông ton đa dạngvà phong phú hơn nữa về mọi ngành, mọi lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân. Các cán bộ thẩm định của Ngân hàng, có thể trực tiếp thu thập hệ thống cơ sỏ dữ liệu tại trung tâm này thông qua mạng cục bộ của Ngân hàng, khai thác những số liệu cần thiết về doanh nghiệp về ngành có liên quan đến doanyh nghiệp, về tình hình thị trường, những dự báo,.. qua đó tăng cường thẩm định các dự án.
NHNN cần thực thi chính sách lãi suất thị trường để cho các NHTM có sự linh hoạt cho lĩnh vực đầu tư các dự án. Mục tiêu của NHTM là tăng tối đa lợi nhuận, nhưng những quy định về lãi suất trong thời gian vừa qua mặc dù là một chủ trương đúng đắn nhưng nó vẫn có thể làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng. Nếu chỉ với lãi suất thị trường thì lãi suấtvẫn biến động theo tỷ lệ lãi suất chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước làm tăng tối đa lợi nhuận cho Ngân hàng, nhất là những dự án đầu tư trung dài hạn. Những hạn chế của lãi suất cố định làm cho khi thẩm định dự án và quyết định cho vay, Ngân hàng vẫn có thể là người chịu thiệt thòi. Bởi vì, các dự án cho vay dự án thường là trung dài hạn nhưng hiện tại lãi suất là thấp ví dụ 1%/ tháng nhưng một năm sau lãi xuất tăng 2%/tháng như có dự án vẫn chỉ được hưởng lãi suất 1%/tháng. Đối với các dự án thuộc ngành có lợi nhuận siêu ngạch như thuốc lá, đồ uống, …mà chúng ta không khuyến khích phát triển thì lãi suất trần sẽ gây cản trở cho Ngân hàng trong việc tăng lãi suất đối với các dự án đầu tư vào ngành này. Việc thay đổi chính sách với các dự án đầu tư vào các ngành này. Việc thay đổi chính sách lãi suất không những giúp Ngân hàng tăng hiệu quả trong việc cho vay các dự án mà còn giúp Chính Phủ điều tiết nền kinh tế đúng định hướng của mình.
- Ngân hàng nhà nước là cơ quan điều hành, trực tiếp của các NHTM thì nhất thiết phải có hỗ trợ các NHTM trong công tác thẩm định. NHNN cần ban hành một “cẩm nang”chung về quy trình, nội dung thẩm định dự án trên cơ sở thẩn định dự án của các cơ quan khoa học, Bộ kế hoạch và Đầu tư phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đồng thời hoà nhập dần với thông lệ quốc tế. Chẳng hạn như việc tính toán một số chỉ tiêu điểm hoà vốn, IRR của dự án có vốn vay Ngân hàng trong điều kiện có lạm phát. Mốc để so sánh các chỉ tiêu đó của dự án nhằm đưa ra quyết định cho vay hay không ? Hoặc quan điểm về tính nguồn trả nợ hàng năm.Ngoài những cuộc hội thảo nhằm bàn bạc đúc rút những kinh nghiệm thẩm định tại NHTM, nhất thiết phải tổ chức những khoá học thường niện cho các cán bộ thẩm định do các chuyên gia của WB, IMF hoặc của một số nước khcs có ngành Ngân hàng phát triển để họ có thể nắm bắt được những tiến bộ, ứng dụng thành công vào công tác thẩm định của mình.
- Hiện nay Chính phủ cho phép các DNNN vay vốn không phải thế chấp tài sản làm đảm bảo thì phải có quy định rõ ràng khi doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả dẫn đến bị phá sản thì vốn vay Ngân hàng được ưu tiên hàng đầu, để tránh tình trạng thất toát vốn của Ngân hàng cũng như của nền kinh tế.
- Để phát huy trách nhiệm trong việc cung cấp thông tin tín dụng, chất lượng thông tin, cần lập các công ty tư vấn chuyên mua bán thông tin. Qua đó tách biệt vai trò quản lý của NHNN và vai trò kinh doanh thông tin của các công ty tư vấn.
2.3.3 Kiến nghị đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam.
-Từ những chính sách của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Công thương Việt Nam đều xây dựng một hệ thống, quy trình thẩm định mới cụ thể, chi tiết hơn cập nhật được những phương pháp tiên tiến trên thế giới. Hướng dẫn cụ thể cho các cán bộ thẩm định tại chi nhánh trong các khu vực, các tỉnh, thành phố. lĩnh vực phát huy vai trò của các cán bộ thẩm định, cho họ tự quyết định và chịu trách nhiệm trước những quyêt định khi thẩm định các dự án.
- Xây dựng phương án nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ là công tác thẩm định phải có một kế hoạch bố trí, sắp xếp, tuyển dụng những nhân viên làm công tác thẩm định tín dụng trong hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam. Trước hết là phải đánh giá được những cán bộ này về các mặt trình độ, kinh nghiệm, đạo đức nghề nghiệp, sức khoẻ,.. từ đó phân loại, sắp xếp lại những bố trí cho những cán bộ có năng lực, trẻ, có sức khoẻ đi học tập, đào tạo lại và có cơ hội làm việc lâu dài tại Ngân hàng.
Ngân hàng cũng luôn phải chú trọng tới vấn đề tuyển nhân viên mới. Hiện tại thì số lượng những người tốt nghiệp các khoá học về Ngân hàng thì quá nhiều so với nhu cầu tuyển dụng. Nhưng trên thực tế để làm được việc thì còn phải học tập nhiều trong thực tế công việc. Vì vậy, trong tuyển dụng cần áp dụng những biện pháp tuyển dụng tiên tiến đã thực hiện ở một số Ngân hàng là đánh giá nhân viên cơ sở năng lực trí tuệ của chính bản thân nhân viên đó. Nghĩa là, đánh giá cao năng lực làm việc của nhân viên trong tương lai hơn là xem nhân viên đó biết được những gì.
KẾT LUẬN
Nâng cao chất lượng thẩm định dự án nói chung và chất lượng thẩm định tài chính dự án nói riêng là một yêu cầu cấp thiết, khách quan đối với công tác thẩm định dự án của NHTM, nhằm đảm bảo cho các quyết định tài trợ cho các dự án đầu tư của ngân hàng thực sự đem lại lợi ích cho cả 2 bên. Về phía Ngân hàng là an toàn, sinh lời và bảo toàn được nguồn vốn cho vay, không phát sinh nợ quá hạn, nợ khó đòi. Về phía khách hàng vay vốn là dự án hoạt động hiệu quả, đem lại lợi nhuận đảm bảo nhu cầu chi trả đúng hạn cho Ngân hàng. Muốn làm được điều đó, trong công tác thẩm định của ngân hàng phải được thực hiện thật kỹ càng, cẩn thận, chính xác, khoa học theo đúng trình tự và lượng hoá được các rủi ro có thể xảy ra đối với các dự án đầu tư. Thông qua việc nghiên cứu lý thuyết kết hợp với thực tiễn công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Sở giao dịch 1 NHCTVN, em đã hoàn thiện đề tài này. Trong bài viết này, em đã tập trung giải quyết một số vấn đề cơ bản sau:
w Khái quát chung nhất những vấn đề liên quan đến thẩm định tài chính dự án đầu tư: Những khái niệm liên quan đến dự án; hệ thống các chỉ tiêu đánh giá; tầm quan trọng của công tác thẩm định tài chính dự án; các nhân tố ảnh hưởng ...
w Tìm hiểu thực tiễn công tác thẩm định tài chính dự án đầu tự tại Sở giao dịch 1 NHCTVN: Thực trạng hoạt động công tác thẩm định; kết quả đạt được và một số hạn chế .
w Trên cơ sở lý thuyết và thực tiễn hoạt động thẩm định tài chính dự án tại Sở giao dịch 1 NHCTVN, em xin đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư.
Tuy nhiên, đây là một đề tài có phạm vi rộng, phức tạp liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, không những đòi hỏi kiến thức chuyên sâu và cần sự hiểu biết rộng, sự nhạy cảm và kinh nghiệm. Do đó, bài viết của em không tránh khỏi thiếu sót, em cần phải nghiên cứu cả lý thuyết và thực tiễn nhiều hơn nữa để hoàn thiện đề tài này.
Một lần nữa, em xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của thầy giáo – PGS.TS Từ Quang Phương và các cô chú, anh chị làm việc tại Sở giao dịch 1 NHCTVN để em hoàn thiện đề tài này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình: Kinh tế đầu tư. PSG.TS Từ Quang Phương, PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt
Giáo trình: Quản lý dự án. PGS.TS Từ Quang Phương
Giáo trình: Lập dự án đầu tư, PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt
Giáo trình: Thẩm định tài chính dự án PGS.TS Lưu Thị Hương-khoa ngân hàng-tài chính
Bài giảng các môn học: Thẩm định dự án đầu tư. Cô Trần Mai Hương
Giáo trình Tài chính Doanh nghiệp. TS. Lưu Thị Hương ( chủ biên ). NXB Giáo dục 1998.
Giáo trình Quản trị Tài chính Doanh nghiệp. TS. Vũ Duy Hào, Đàm Văn Huệ, Ths. Nguyễn Quang Ninh. NXB Thống kê 1998.
Sách Ngân hàng thương mại. Edward W.Reed & Edward K.Gill. NXB TP Hồ Chí Minh 1993.
Sách Thẩm định dự án đầu tư. Võ Công Tuấn ( chủ biên ). NXB TP Hồ Chí Minh 1999.
Tài liệu của Sở giao dịch 1 NHCTVN:
Báo cáo thường niên các năm 2006, 2007, 2008.
Tài liệu tham khảo nội bộ “Quy trình nghiệp vụ tín dụng của NHCT VN”.
Dự án của Công ty Than Nội địa.
Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng .
Luật thuế Giá trị gia tăng và Luật thuế Thu nhập Doanh nghiệp .
Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
Tạp chí Ngân hàng, tạp chí Tài chính, Thời báo Kinh tế Việt Nam các năm
MỤC LỤC
DANH MỤC HÌNH, BẢNG
I. HÌNH
Hình 1.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức 6
II. BẢNG
Bảng 1.1. Kết quả kinh doanh của Sở Giao dịch 1 NHCTVN một số năm 8
Bảng 1.2: Tình hình hoạt động huy động vốn của Sở giao dịch 1 Ngân hàng Công thương VN. 10
Bảng 1.3. Tình hình hoạt động của Sở Giao dịch 1 Ngân hàng Công thương. 12
Bảng 1.4: Quy trình thẩm đỊnh tín dụng tại Sở Giao dịch 1 NHCTVN 16
Bảng 1.5 : Cân đối kết quả kinh doanh của công ty Than Nội địa 44
Bảng 1.6: Các hệ số tài chính của công ty Than Nội địa 45
Bảng 1.7: Hiệu quả kinh tế đầu tư 50
Bảng 1.8: Kết quả sản xuất kinh doanh giai đoạn 2005-2013 51
Bảng 1.9: Bảng tổng hợp doanh thu 52
Bảng 1.10: Bảng tổng hợp chi phí sản xuất kinh doanh 52
Bảng 1.11: Kế hoạch trả nợ 53
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
NHTM - Ngân hàng thương mại
NHCTVN - Ngân hàng Công thương Việt Nam
NHNN -Ngân hàng Nhà nước
WB -Ngân hàng thế giới
IMF -Quỹ tiền tệ thế giới
XHCN - Xã hội chủ nghĩa
TCTD - Tở chức tín dụng
PV - giá trị hiện tại
FV - Giá trị tương lai
IRR - tỷ lệ hoàn vốn nội bộ
NH - Ngân hàng
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21666.doc