Nâng cao chất lượng thẩm định dự án vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước tại chi nhánh quỹ hỗ trợ phát triển Vĩnh Phúc

Lời nói đầu Trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, việc huy động, triển khai các nguồn vốn cho đầu tư phát triển là một nhiệm vụ rất quan trọng. Để đảm bảo nền kinh tế phát triển toàn diện thì công tác đầu tư phải được thực hiện trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề bằng nhiều nguồn vốn khác nhau. Với vai trò là một tổ chức tài chính Nhà nước, Quỹ Hỗ trợ Phát triển được Chính phủ giao nhiệm vụ quản lý nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển (ĐTPT) của nhà nước để hỗ trợ cho những chươ

doc108 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1350 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng thẩm định dự án vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước tại chi nhánh quỹ hỗ trợ phát triển Vĩnh Phúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng trình, dự án đầu tư vào những lĩnh vực, ngành nghề thuộc đối tượng khuyến khích đầu tư của nhà nước. Nguồn vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước là một nguồn vốn có nguồn gốc từ Ngân sách nhà nước, do Ngân sách nhà nước cấp hàng năm để thực hiện các hình thức hỗ trợ đầu tư của hệ thống Quỹ HTPT ( bao gồm: cho vay đầu tư, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư, tín dụng hỗ trợ xuất khẩu). Ngoài ra, nguồn vốn này còn được huy động từ các thành phần kinh tế khác nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn trong nước. Vì vậy, đây không phải là vốn cấp phát, vốn cho không mà là vốn tín dụng, có sự vay - trả. Để bảo toàn và phát triển nguồn vốn này, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ tín dụng ĐTPT mà Chính phủ giao phó, Quỹ HTPT cùng với các Chi nhánh Quỹ tại các địa phương có nhiệm vụ thẩm định các dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước, đánh giá về tính khả thi, hiệu quả và khả năng trả nợ của dự án, dựa trên cơ sở kết quả thẩm định để quyết định cho vay hay không cho vay đối với dự án. Trong thời gian thực tập tại Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc, việc tìm hiểu tình hình thẩm định và cho vay các dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước trên điạ bàn tỉnh Vĩnh Phúc cho thấy các dự án này đã góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế địa phương, tăng nguồn thu cho Ngân sách tỉnh, tăng tích luỹ cho các doanh nghiệp, tạo việc làm và ổn định việc làm cho người lao động. Tuy nhiên vẫn còn có một số dự án chưa đạt được kết quả như mong muốn: tiến độ thi công kéo dài nhiều năm, công trình chậm đưa vào khai thác sử dụng, kém phát huy hiệu quả. Một số dự án có khả năng trả nợ thấp, liên tục có nợ quá hạn và lãi treo qua các năm, gây nhiều khó khăn cho Chi nhánh Quỹ trong việc thu hồi nợ. Thực trạng này có thể là do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng trong đó không thể thiếu những nguyên nhân xuất phát từ công tác thẩm định dự án, bởi thẩm định là khâu đầu tiên trong một chu kỳ tín dụng nhằm xét duyệt, đánh giá tính khả thi, hiệu quả của dự án để quyết định cho vay. Trên cơ sở đó, em đã lựa chọn đề tài: “ Thực trạng và một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án vay vốn tín dụng Đầu tư phát triển của Nhà nước tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Vĩnh Phúc ” làm luận văn tốt nghiệp của mình. Mục đích nghiên cứu của đề tài này là nhằm đóng góp một phần nhỏ bé vào quá trình hoàn thiện chất lượng công tác thẩm định dự án tại Chi nhánh Quỹ, từ đó cải thiện chất lượng hoạt động tín dụng đầu tư, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Về kết cấu, Luận văn tốt nghiệp của em được chia thành 3 chương chính: Chương 1 : Lý luận chung về thẩm định dự án đầu tư. Thẩm định dự án đầu tư trong hệ thống Quỹ Hỗ trợ Phát triển. Chương 2 : Thực trạng công tác thẩm định các dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước tại Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc. Chương 3 : Một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước tại Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc. Trong quá trình lựa chọn và thực hiện đề tài, em đã nhận được sự định hướng, hướng dẫn, những ý kiến đóng góp quý báu để bổ sung, hoàn chỉnh một số nội dung trong đề tài, sự cung cấp các nguồn tài liệu thông tin phong phú, cập nhật, thiết thực. Qua đây, em xin chân thành gửi lời cám ơn đến: Cô Nguyễn Kim Anh - Giám đốc Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc Cô Nguyễn Thu Hà - Giáo viên hướng dẫn. Anh Nguyễn Thiệu Bình - Cán bộ phòng Tín dụng. Anh Phan Gia Lượng - Cán bộ phòng Tín dụng. Chị Nguyễn Thị Thuý - Cán bộ phòng Tín dụng. Cùng toàn thể cán bộ nhân viên tại Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc đã giúp đỡ em hoàn thiện đề tài này. Hà Nội, tháng 5 - 2003 SV. Nguyễn Tuấn Khanh Chương 1 Lý luận chung về thẩm định dự án đầu tư. Thẩm định dự án đầu tư trong hệ thống quỹ hỗ trợ phát triển Lý luận chung về thẩm định dự án đầu tư: Đầu tư: Khái niệm: Đầu tư, theo nghĩa rộng, là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho nhà đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực của hoạt động đầu tư có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và trí tuệ. Những kết quả do hoạt động đầu tư tạo ra có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, các của cải vật chất khác...), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật...) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Phân loại: Có nhiều cách phân loại hoạt động đầu tư, tuy nhiên xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại, ta có thể phân chia thành 3 loại hình đầu tư cơ bản sau đây: Đầu tư tài chính: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất hay cổ tức. Đầu tư thương mại: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán. Đầu tư phát triển: là loại hình đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống cho các thành viên trong xã hội. Xét trong nền kinh tế đóng, hai loại hình đầu tư tài chính và thương mại chỉ có sự chuyển đổi thu nhập giữa những chủ thể khác nhau, chỉ có đầu tư phát triển là tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế. Trong phạm vi bài viết này, thuật ngữ đầu tư được hiểu là đầu tư phát triển. Đặc điểm của đầu tư phát triển: Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn để tiến hành đầu tư và số vốn này nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Thời gian kể từ khi tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra. Do tính lâu dài của hoạt động đầu tư nên mọi sự trù liệu đều là dự tính và chịu một xác suất biến đổi nhất định do nhiều nhân tố gây nên. Thời gian cần hoạt động để thu hồi đủ vốn đầu tư đã bỏ thường đòi hỏi nhiều năm tháng, do đó không tránh khỏi sự tác động 2 mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, kinh tế, chính trị... Các thành quả của đầu tư phát triển có giá trị lớn lao, có thể sử dụng lâu dài trong nhiều năm. Từ những đặc điểm trên ta thấy rằng đầu tư là một hoạt động chứa đựng nhiều biến động. Bản chất của nó là sự đánh đổi giữa lợi ích và chi phí, lại được thực hiện trong một thời gian dài nên không cho phép nhà đầu tư lường hết được những thay đổi có thể xảy ra trong quá trình thực hiện đầu tư so với những dự tính ban đầu. Vì vậy, chấp nhận và xử lý rủi ro là tất yếu đối với nhà đầu tư. Nhận thức rõ điều này là cần thiết để có những cách thức, biện pháp nhằm ngăn ngừa hay hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất. Dự án đầu tư: Khái niệm: Như trên đã nói, hoạt động đầu tư có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội nhưng bản thân nó cũng chứa đựng nhiều rủi ro. Vì vậy, để đảm bảo cho các công cuộc đầu tư được tiến hành thuận lợi, đạt mục tiêu mong muốn, đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao thì trước khi bỏ vốn đầu tư phải làm tốt công tác chuẩn bị. Mọi sự xem xét, tính toán, chuẩn bị này được thể hiện trong dự án đầu tư. Dự án đầu tư có thể được xem xét trên nhiều góc độ: Về mặt hình thức, dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai. Trên góc độ quản lý, dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn, vật tư, lao dộng để tạo ra những kết quả tài chính, kinh tế - xã hội trong một thời gian dài. Trên góc độ kế hoạch hoá, dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội, làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài trợ. Dự án đầu tư là một hoạt động kinh tế riêng biệt nhỏ nhất trong công tác kết hoạch hoá nền kinh tế nói chung. Về mặt nội dung, dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động có liên quan với nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt được các mục tiêu đã định bằng việc tạo ra các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định, thông qua việc sử dụng các nguồn lực xác định. Chu kỳ của dự án đầu tư: Chu kỳ của dự án đầu tư là các bước hoặc các giai đoạn mà một dự án phải trải qua, bắt đầu từ khi dự án mới chỉ là ý đồ đến khi dự án được hoàn thành và chấm dứt hoạt động. Chu kỳ dự án bao gồm những giai đoạn chính như sau: ý đồ về dự án đầu tư ý đồ về dự án mới Chuẩn bị đầu tư Thực hiện đầu tư Đưa dự án vào vận hành SXKD Giai đoạn chuẩn bị đầu tư: Nghiên cứu về sự cần thiết phải đầu tư và quy mô đầu tư. Tiến hành tiếp xúc, thăm dò thị trường trong nước và ngoài nước để xác định nhu cầu tiêu thị, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, tìm nguồn cung ứng thiết bị, vật tư cho sản xuất, xem xét khả năng về nguồn vốn đầu tư và lựa chọn hình thức đầu tư. Tiến hành điều tra, khảo sát và chọn địa điểm xây dựng. Lập dự án đầu tư. Gửi hồ sơ dự án và văn bản trình người có thẩm quyền quyết định đầu tư, tổ chức cho vay vốn đầu tư va cơ quan thẩm định dự án đầu tư. Giai đoạn thực hiện đầu tư: Xin giao hoặc thuê đất (đối với dự án có sử dụng đất) Xin giấy phép xây dựng (nếu yêu cầu phải có giấy phép xây dựng) và giấy phép khai thác tài nguyên (nếucó khai thác tài nguyên) Thực hiện việc đền bù giải phóng mặt bằng, thực hiện kế hoạch tái định cư và phục hồi (đối với dự án có yêu cầu tái định cư và phục hồi), chuẩn bị mặt bằng xây dựng (nếu có). Mua sắm thiết bị và công nghệ. Thực hiện việc khảo sát, thiết kế xây dựng. Thẩm định, phê duyệt thiết kế và tổng dự toán, dự toán công trình. Tiến hành thi công xây lắp. Kiểm tra và thực hiện các hợp đồng. Quản lý kỹ thuật, chất lượng thiết bị và chất lượng xây dựng. Vận hành thử, nghiệm thu, quyết toán vốn đầu tư,bàn giao và thực hiện bảo hành sản phẩm. Thẩm định dự án đầu tư: Khái niệm: Thẩm định dự án đầu tư là quá trình thẩm tra, xem xét một cách khách quan, khoa học, toàn diện các vấn đề, nội dung cơ bản của dự án nhằm đánh giá tính hợp lý, tính hiệu quả, tính khả thi của dự án; làm cơ sở cho việc ra các quyết định đầu tư, cấp giấy phép đầu tư và triển khai dự án. Thực chất của công tác thẩm định dự án là nhằm phân tích, kiểm tra, đánh giá, làm sáng tỏ một loạt các vấn đề có liên quan đến tính khả thi trong quá trình thực hiện dự án (thị trường, công nghệ, kỹ thuật, khả năng tài chính, quản lý thực hiện dự án, phần đóng góp kinh tế của dự án vào sự tăng trưởng của nền kinh tế ...) trong mối liên hệ mật thiết với các thông tin có thể có và các giả thiết về môi trường trong đó dự án sẽ hoạt động; từ đó dự tính những kết quả mà dự án có thể đem lại cho chủ đầu tư cũng như cho xã hội để ra quyết định đầu tư. Thẩm định dự án bao gồm một loạt khâu thẩm định và quyết định, cuối cùng đưa tới kết quả là chấp thuận hay bác bỏ dự án. Nói chung, mục tiêu cơ bản của thẩm định dự án là nhằm tránh thực hiện đầu tư các dự án không có hiệu quả, đồng thời cũng không bỏ lỡ các cơ hội đầu tư. Vị trí của thẩm định dự án trong chu kỳ dự án: Trong chu kỳ của một dự án đầu tư, thẩm định dự án nằm trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, được tiến hành một cách độc lập với quá trình lập, soạn thảo dự án, bao gồm: Thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi: đây là bước thẩm định để phê duyệt báo cáo nghiên cứu tiền khả thi. Đối với các dự án thông thường, bước thẩm định này thường xem xét trên một số mặt cơ bản về chủ trương và các thông số chính của dự án, đánh giá xem việc nghiên cứu tiền khả thi có đưa ra được những ước tính, những bằng chứng chứng tỏ dự án có đủ hấp dẫn và đủ tin cậy hay không, trên cơ sở đó cho phép hoặc đình chỉ việc tiến hành các nghiên cứu chi tiết hơn (nghiên cứu khả thi). Thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi: đây là công việc bắt buộc đối với mọi dự án. Sau khi đã hoàn tất xong các khâu phân tích trong giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi, dự án cần được nghiên cứu để xem xét liệu nó có triển vọng đáp ứng được các tiêu chuẩn về tài chính, kinh tế - xã hội cho các khoản đầu tư hay không. Chính vào cuối giai đoạn này là lúc mà quyết định quan trọng nhất phải được xác định, đó là có nên chấp thuận dự án hay không. Thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi cần phải chỉ ra rằng đó là một dự án tốt hay tồi, khả năng thành công của nó là như thế nào. Kết quả thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi là căn cứ để cơ quan có thẩm quyền của nhà nước ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư. Trên cơ sở đó, dự án mới bước sang giai đoạn thứ 2: thực hiện đầu tư. Tuy nhiên trên thực tế, công tác thẩm định dự án được thực hiện ở 2 giai đoạn đầu của quá trình hình thành và thực hiện một dự án đầu tư. Trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư: + Thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi. + Thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi. + Thẩm định thiết kế sơ bộ. + Thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường. Trong giai đoạn thực hiện đầu tư: + Thẩm định thiết kế kỹ thuật, thiết kế thi công. + Thẩm định kế hoạch đấu thầu và kết quả đấu thầu. + Thẩm định và phê duyệt quyết toán vốn đầu tư. Ngoài việc thẩm định báo cáo tiền khả thi và báo cáo khả thi như nêu trên, những nội dung còn lại sẽ do các cơ quan chuyên môn thẩm định. Tuy nhiên, những nội dung thẩm định trên không phải là bắt buộc đối với mọi dự án đầu tư. Việc thẩm định những nội dung cụ thể nào còn tuỳ thuộc vào tính chất của dự án, nguồn vốn mà dự án sử dụng và chức năng, thẩm quyền của các chủ thể thẩm định. Do phạm vi nghiên cứu có hạn của đề tài này, thuật ngữ thẩm định dự án đầu tư được nhắc đến trong bài chủ yếu là thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư Sự cần thiết khách quan của thẩm định dự án: Trước hết, để đảm bảo đem lại thành công cho một công cuộc đầu tư thì chủ đầu tư phải lập, soạn thảo dự án. Tuy nhiên, soạn thảo, lập dự án là công việc rất phức tạp liên quan đến nhiều ngành nghề, lĩnh vực, phải huy động công sức của nhiều người, nhiều tổ chức. Do đó, quá trình soạn thảo, lập dự án dù có được chuẩn bị kỹ càng đến đâu cũng khó tránh khỏi những sai sót nhất định, có thể dẫn đến ý tưởng của các bên tham gia dự án mâu thuẫn nhau, không phù hợp, không lôgic, dễ gây ra tranh chấp. Chính vì vậy, thẩm định dự án là một công việc cần thiết để rà soát, phát hiện, điều chỉnh những mâu thuẫn này. Một dự án đầu tư, khi được thiết lập, thường mang tính chủ quan nhiều hơn là khách quan, đặc biệt là khi xem xét đến các lợi ích của cộng đồng. Thông thường, khi lập dự án, chủ đầu tư mong muốn những lợi ích thiết thân của mình phải được đảm bảo mà đôi khi xem nhẹ hoặc không tính đến việc dự án có đem lại lợi ích gì và có những ảnh hưởng bất lợi gì đối với cộng đồng xã hội (như ô nhiễm môi trường, sử dụng vốn không hiệu quả, khai thác tài nguyên bừa bãi...). Vì vậy, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thẩm định dự án để bảo vệ những lợi ích chung cho xã hội và ngăn ngừa, hạn chế những tác động có hại từ phía dự án đối với xã hội. Các công cuộc đầu tư thường chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn bởi lượng vốn và nguồn lực phải bỏ ra để đầu tư rất lớn, thời gian kể từ khi bỏ vốn cho đến khi dự án phát huy tác dụng rất dài. Do đó, những sai lầm trong quá trình quyết định và thực hiện đầu tư thường gây nên những thiệt hại to lớn và rất khó sửa chữa. Vì vậy, thẩm định dự án là một quá trình không thể thiếu để kiểm tra, xác minh lại tính khả thi của dự án, phục vụ việc ra quyết định đầu tư đúng đắn và đề xuất những phương án điều chỉnh dự án khi xảy ra rủi ro. Dự án đầu tư cần huy động một nguồn lực lớn, liên quan đến nhiều thành phần khác nhau. Thẩm định dự án chính là để phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn và phối hợp hài hoà giữa các đối tác tham gia dự án, đảm bảo cho việc chuẩn bị, thực hiện và vận hành dự án diễn ra một cách suôn sẻ. Quan điểm, mục đích, chủ thể thẩm định dự án: Bất cứ một dự án nào cũng được thẩm định không chỉ bởi một mà là nhiều chủ thể khác nhau. Nhìn chung, có ba nhóm chủ thể trực tiếp tiến hành thẩm định dự án là: chủ đầu tư, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thẩm định dự án và các tổ chức tài chính tiền tệ. Tuỳ theo chức năng, vị trí của mình mà mỗi chủ thể thẩm định có những quan điểm và mục tiêu thẩm định không giống nhau. Khi thẩm định dự án, các chủ thể sử dụng các công cụ chủ yếu là: + Phân tích tài chính: đánh giá dự án trên cơ sở giá cả tài chính như thực có trên thị trường. + Phân tích kinh tế: các dự án được xem xét trên cơ sở sử dụng các giá cả đã được điều chỉnh trong điều kiện biến dạng của thị trường để chúng phản ánh chi phí tài nguyên hay lợi ích kinh tế thực sự của dự án đối với quốc gia. + Phân tích xã hội: phân tích ảnh hưởng của các sản phẩm do dự án tạo ra đối với xã hội trên quan điểm của các chuẩn mực mà xã hội quy định (đáng khen hay đáng chê, tích cực hay tiêu cực, văn minh hay không văn minh...) a) Đối với các tổ chức tài chính tiền tệ: việc thẩm định dự án không nằm ngoài mục đích đánh giá tính khả thi về phương án tài chính và khả năng trả nợ của dự án, từ đó quyết định có cho vay hay tài trợ vốn cho dự án hay không. Khi thẩm định dự án, các tổ chức này chỉ sử dụng các phân tích tài chính để đánh giá hiệu quả chung của dự án, đánh giá mức độ an toàn của số tiền tài trợ hay cho dự án vay; xác định kế hoạch trả nợ, nguồn trả nợ và số lãi mà họ được hưởng. Chính vì vậy, các tổ chức này thường quan tâm đến các dự án có nhu cầu thu hút nguồn tài chính và có khả năng tạo ra các lợi ích tài chính. b) Chủ đầu tư: là người bỏ vốn đầu tư hoặc trực tiếp quản lý, sử dụng vốn để đầu tư. Mặc dù có nhiều mục tiêu khác nhau nhưng tựu chung lại, mục đích chủ yếu của các chủ đầu tư khi tham gia dự án là lợi ích tài chính (thu nhập bằng tiền) mà họ được hưởng. Do đó, cũng giống như ngân hàng, khi thẩm định dự án, chủ đầu tư chủ yếu sử dụng các phân tích tài chính nhằm đánh giá mức gia tăng thu nhập ròng của dự án so với lợi ích tài chính mà họ có thể nhận được trong trường hợp không có dự án. Tuy nhiên, khác với quan điểm của ngân hàng, chủ đầu tư còn quan tâm tới việc lợi ích ròng của dự án có đủ bù đắp những chi phí và nguồn lực mà họ phải gánh chịu trong quá trình đầu tư hay không, có đủ hấp dẫn để tham gia đầu tư hay không. c) Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thẩm định dự án: Là người đại diện cho lợi ích của toàn xã hội, các cơ quan này phải đứng trên quan điểm tổng thể quốc gia để xem xét, thẩm định dự án. Khi thẩm định dự án, các cơ quan này sử dụng cả ba phân tích: tài chính, kinh tế và xã hội. - Sử dụng phân tích tài chính để xem xét mỗi quan hệ giữa các khoản mà Ngân sách phải chi cho dự án (trợ cấp, trợ giá, đầu tư vốn...) với các khoản mà nhà nước có thể thu từ dự án (lãi suất định mức, phí, thuế gián thu (thuế VAT), thuế trực thu (thuế thu nhập doanh nghiệp). - Sử dụng các phân tích kinh tế để điều chỉnh các dòng thu chi của dự án theo giá kinh tế và xác định những chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của dự án đối với quốc gia (NVA, NNVA). - Bên cạnh đó, các cơ quan này còn sử dụng các phân tích xã hội nhằm đánh giá việc thực hiện dự án sẽ đem lại những lợi ích gì cho cộng đồng xã hội (như tạo công ăn việc làm, nâng cao dân trí, tăng cường tiềm lực công nghệ của đất nước, đóng góp ngân sách nhà nước, tăng thu ngoại tệ...) và có những tác động gì không có lợi cho đất nước (tiêu phí nguồn lực, tài nguyên, những tác động gây ô nhiễm môi trường, sử dụng vốn đầu tư không hiệu quả...). Tóm lại, việc đánh giá dự án theo các quan điểm khác nhau là rất quan trọng vì không có sự đồng nhất về lợi ích và chi phí giữa các quan điểm đối với một dự án. Mặt khác, một dự án có thể là khả thi nếu xét từ quan điểm này nhưng lại không khả thi nếu xem xét theo quan điểm kia. Do đó, việc phân tích, đánh giá dự án từ nhiều quan điểm khác nhau sẽ cho phép nhìn nhận dự án một cách toàn diện, phục vụ cho việc đưa ra quyết định đúng đắn: chấp thuận một dự án tốt hoặc bác bỏ một dự án tồi. Bảng 1: Mục đích, công cụ thẩm định của các chủ thể Chủ thể thẩm định Mục đích thẩm định Các phân tích Tài chính Kinh tế Xã hội Chủ đầu tư Tham gia hay không tham gia đầu tư Cơ quan nhà nước có thẩm quyền Phê duyệt hay bác bỏ dự án Tổ chức tài chính tiền tệ Tài trợ, cho vay vốn đối với dự án. Những nội dung cơ bản trong công tác thẩm định dự án: Thông thường, đối với một dự án đầu tư của chủ đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, không kể sử dụng nguồn vốn nào, đều phải được thẩm định những nội dung cơ bản sau: Pháp lý: Thẩm định về mặt pháp lý nhằm đảm bảo các hoạt động của dự án tuân thủ pháp luật, tránh vi phạm những quy định, luật lệ do nhà nước ban hành cũng như tránh đi ngược lại các định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Một dự án nếu không chứng minh được tính hợp pháp, hợp lệ của nó thì chắc chắn sẽ bị loại bỏ. Thị trường: Xem xét, kiểm tra sự chính xác của những dự tính về khả năng tiêu thụ sản phẩm; tìm hiểu, đánh giá hiện trạng và xu hướng cung cầu trên thị trường; mức độ cạnh tranh về giá, chất lượng sản phẩm, chiến lược tiêu thụ sản phẩm của dự án; các kế hoạch hỗ trợ và dự phòng... Đây là một nội dung thẩm định cơ bản quyết định quy mô đầu tư, trang thiết bị máy móc, cơ cấu tổ chức... của dự án. Kỹ thuật công nghệ: xem xét tính khả thi về thiết bị công nghệ, giải pháp kỹ thuật, địa điểm xây dựng dự án; các biện pháp kiểm soát chất thải gây ô nhiễm đã đáp ứng được nhu cầu hay chưa. Tổ chức quản lý: Số lượng, chất lượng lao động liệu có đảm bảo để dự án vận hành có hiệu quả không? Bộ phận quản lý và kỹ thuật, hệ thống phòng ban phân xưởng của dự án có được bố trí hợp lý không ? Tài chính: phân tích các dòng thu chi của dự án, tính toán các chỉ tiêu hiệu quả tài chính (NPV,IRR, B/C...) nhằm đánh giá tính hiệu quả, khả thi về tài chính của dự án. Kinh tế xã hội: Đây là khía cạnh mà cơ quan quản lý nhà nước rất quan tâm. Thẩm định kinh tế xã hội cũng giống như thẩm định tài chính dự án ở chỗ việc ra quyết định chủ yếu dựa trên sự cân nhắc, so sánh giữa thu nhập và chi phí của dự án. Tuy nhiên có một khác biệt cơ bản là: thẩm định kinh tế xã hội đứng trên phương diện xã hội chứ không phải cá nhân chủ đầu tư để xem xét, đánh giá dự án. Do vậy, giá được sử dụng trong phân tích kinh tế là giá kinh tế, một loại giá được điều chỉnh từ giá thị trường bằng cách thay đổi, thêm bớt các khoản mục chi phí - doanh thu trong phân tích tài chính (như thuế, trợ cấp...) nhằm thể hiện đầy đủ chi phí mà xã hội phải chi trả và thu nhập mà xã hội nhận được từ dự án. Sự phân chia các nội dung thẩm định trên đây chỉ là tương đối. Trên thực tế các nội dung, các mặt thẩm định luôn tồn tại một mối quan hệ mật thiết, chi phối lẫn nhau. Người cán bộ làm công tác thẩm định không thể phân chia rạch ròi và chỉ xem xét một hay một số mặt phiến diện mà phải xem xét một cách toàn diện mọi khía cạnh khác nhau trong thẩm định dự án, từ đó mới có đủ căn cứ thuyết phục để chấp nhận hay từ chối dự án. Điều khác biệt duy nhất là, mỗi chủ thể thẩm định sẽ chú trọng vào một số nội dung thẩm định cụ thể phù hợp với mục tiêu thẩm định và chức năng, nhiệm vụ của mình. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định dự án: 3.6.1. Nhân tố chủ quan: Nhân tố con người: đây là nhân tố luôn luôn chi phối hoạt động trong mọi quy trình thẩm định. Trình độ năng lực, đạo đức nghề nghiệp là yếu tố cần thiết đối với cán bộ thẩm định. Cần loại bỏ tính cá nhân hình thức trong quá trình thẩm định. Nhân tố thông tin, phương tiện thu thập và xử lý thông tin: thông tin là cơ sở dữ liệu để phân tích và đánh giá dự án. Lượng thông tin thu thập cần đầy đủ, chính xác và thường xuyên. Phương tiện thu thập và xử lý thông tin ảnh hưởng tới tiến độ và chất lượng thẩm định. Ngân hàng thông tin và công nghệ tin học ứng dụng trong công tác thẩm định rõ ràng và hiệu quả hơn phương pháp thu thập và xử lý thông tin thủ công. Nhân tố quản lý: đây là việc cấp phát, phân chia quyền hạn và trách nhiệm một cách khoa học và hợp lý, phát huy tốt vai trò độc lập đối với từng cán bộ trong công tác chung. Đánh giá tổng hợp nhằm đưa ra quyết định tối ưu bảo đảm tính khách quan công bằng và hiệu quả cho từng thành viên tham gia thẩm định. Phương pháp thẩm định: bao gồm các phương pháp và chỉ tiêu hiệu quả tài chính. Phương pháp hợp lý là phương pháp vận dụng phù hợp với loại hình, đặc điểm của dự án, thể hiện được khả năng nhanh nhậy của chủ thể thẩm định trước sự biến động của môi trường dự án. Thẩm định đúng phương pháp giúp cho quá trình đánh giá dự án có tính khoa học, dễ kiểm tra. 3.6.2. Nhân tố khách quan: Sự thiếu chính xác của các con số thống kê, báo cáo tài chính. Lênin đã từng nói: “ Thống kê là con số chính xác của những con số không chính xác”.. Các báo cáo tài chính của doanh nghiệp - chủ đầu tư trong hồ sơ đề nghị thẩm định dự án không phải lúc nào cũng phản ánh đầy đủ 100% tình hình tài chính doanh nghiệp, chưa kể chúng đã được “ chế biến”. Bên cạnh đó, các con số được lập trong dự án khả thi cũng trong tình trạng tương tự. Các con số về thu - chi, khả năng tiêu thụ là dự kiến và mang tính chất ước tính, cộng thêm nhiều yếu tố khác có thể thay đổi trong quá trình dự án đi vào hoạt động. Vì thế dù tính toán kỹ đến đâu cũng không phản ánh đầy đủ, chính xác về tình hình tài chính doanh nghiệp cũng như hiệu quả của dự án. Định hướng phát triển kinh tế ngành, vùng, quốc gia. Những biến động này rất khó lường trước được, đặc biệt trong thời gian dài. Hơn nữa đây là vấn đề nhậy cảm ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của dự án. Các nhân tố khác: đối với các dự án cho vay bằng ngoại tệ công tác thẩm định còn bị ảnh hưởng bởi tình hình tài chính quốc tế, đặc biệt là sự tăng giảm giá USD. Bởi các dự án vay bằng ngoại tệ phải trả bằng ngoại tệ. Hơn nữa hiện nay Nhà nước kiểm soát rất chặt chẽ đồng ngoại tệ. Khái quát về hệ thống quỹ hỗ trợ phát triển: Sự ra đời Quỹ Hỗ Trợ Phát Triển: Quỹ Hỗ trợ phát triển (Quỹ HTPT) được thành lập và chính thức đi vào hoạt động kể từ ngày 01/01/2000. Tuy nhiên, tiền thân của Quỹ là Tổng cục đầu tư phát triển (thuộc Bộ Tài chính) và Quỹ Hỗ trợ đầu tư quốc gia (trước đây). Nghiệp vụ cho vay tín dụng đầu tư phát triển (ĐTPT) bắt đầu từ năm 1990 với việc Thủ tướng Chính phủ quyết định dành 300 tỷ đồng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cấp cho Ngân hàng Đầu tư Phát triển Việt nam để cho vay ưu đãi. Đến năm 1995, Tổng cục đầu tư phát triển được thành lập và được giao nhiệm vụ quản lý và thực hiện cho vay tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Giữa năm 1996, thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập Quỹ Hỗ trợ đầu tư quốc gia. Đây chính là mốc quan trọng đánh dấu việc ra đời một tổ chức chuyên ngành quản lý vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước. Ngày 08 tháng 07 năm 1999, Chính phủ ban hành nghị định số 50/1999/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Quỹ HTPT, chính thức thành lập Quỹ HTPT trên cơ sở hợp nhất và mở rộng nhiệm vụ cấp tín dụng của 2 tổ chức: Tổng cục Đầu tư phát triển và Quỹ Hỗ trợ đầu tư quốc gia. phạm vi hoạt động của Quỹ: Theo Nghị định 50/1999/NĐ-CP của Chính phủ, Quỹ HTPT là một tổ chức tài chính nhà nước trực thuộc Chính phủ, có chức năng huy động vốn trung và dài hạn, tiếp nhận và quản lý các nguồn vốn của nhà nước dành cho tín dụng đầu tư phát triển để thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển của nhà nước. Quỹ HTPT hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, bảo đảm hoàn vốn và bù đắp chi phí, có tư cách pháp nhân, có vốn điều lệ, có bảng cân đối, có con dấu, được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước, các ngân hàng trong nước và ngoài nước. Quỹ được miễn nộp thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước để giảm lãi suất cho vay và giảm phí bảo lãnh. Hoạt động của Quỹ bao gồm: Cho vay, thu nợ các dự án đầu tư. Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư. Bảo lãnh vay vốn đối với các chủ đầu tư, tái bảo lãnh và nhận tái bảo lãnh cho các Quỹ đầu tư. Cho vay lại nguồn vốn ODA đối với các dự án đầu tư theo uỷ nhiệm của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Uỷ thác, nhận uỷ thác cho vay đầu tư. Huy động vốn trung và dài hạn của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Tổ chức thanh toán với khách hàng. Thực hiện một số nhiệm vụ khác do Chính phủ giao. Nguồn vốn hoạt động của quỹ: Vốn điều lệ do Ngân sách nhà nước cấp: 3000 tỷ đồng. Vốn Ngân sách nhà nước cấp hàng năm cho các mục tiêu: tăng nguồn vốn cho vay đầu tư, cấp bù chênh lệch lãi suất, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Vốn do Quỹ tự huy động: vay từ Quỹ tích luỹ trả nợ nước ngoài, Quỹ Tiết kiệm bưu điện, Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Vốn từ phát hành trái phiếu Chính phủ. Vốn nhận uỷ thác của các tổ chức trong và ngoài nước. Nguồn vốn của cá tổ chức kinh tế để đầu tư và các nguồn vốn huy động khác. Nguồn vốn ODA của Chính phủ dùng đẻ cho vay lại các dự án đầu tư phát triển. Tổ chức bộ máy Quỹ: Tổ chức và hoạt động của Quỹ tuân theo Nghị định số 50/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ. Quỹ hoạt động theo điều lệ do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trong một số trường hợp, Thủ tướng chính phủ có thể uỷ quyền cho Bộ trưởng Bộ Tài chính giám sát hoạt động của Hội đồng quản lý Quỹ hay thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể khác. Quỹ HTPT được tổ chức thành một hệ thống tập trung, thống nhất với trụ sở chính đặt tại Hà Nội. Quỹ có 61 Chi nhánh hoặc văn phòng giao dịch đặt tại 61 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trên cả nước và được mở văn phòng giao dịch ở nước ngoài theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Các Chi nhánh Quỹ, văn phòng giao dịch chịu sự quản lý trực tiếp của Cơ quan Quỹ Trung ương, Hội đồng quản lý Quỹ và Ban kiểm soát. Sơ đồ 1: Tổ chức bộ máy Quỹ HTPT Hội đồng quản lý Quỹ Thủ tướng Chính phủ Ban kiểm soát Cơ quan điều hành Cơ quan Quỹ Trung ương Chi nhánh quỹ tại các địa phương văn phòng giao dịch tại nước ngoài văn phòng giao dịch trong nước Các hình thức hỗ trợ đầu tư của Quỹ: Cho vay đầu tư: Khái niệm: Đối với toàn bộ hệ thống Quỹ hiện nay, cho vay đầu tư là hình thức hỗ trợ đầu tư chủ yếu đối với những dự án, chương trình thuộc diện khuyến khích đầu tư của nhà nước. Đây là hình thức cho vay ưu đãi về mức lãi suất, thời hạn cho vay và mức vốn cho vay. Về điều kiện để cho vay: tất cả các dự án thuộc diện khuyến khích đầu t._.ư chưa được hỗ trợ LSSĐT, chưa được bảo lãnh tín dụng đầu tư đều được xem xét để cho vay đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước. Thời hạn cho vay: Tối đa là 10 năm, có trường hợp đặc biệt có thể trên 10 năm do Hội đồng quản lý Quỹ quyết định. Trong thời hạn cho vay, dự án sẽ được hưởng thời hạn ân hạn. Thời hạn ân hạn là khoảng thời gian mà dự án chưa phải trả nợ gốc, và được tính từ khi khởi công xây dựng công trình hoặc mua sắm thiết bị đến khi hoàn thành đưa vào sản xuất kinh doanh. Lãi suất cho vay: Lãi suất cho vay được thủ tướng Chính phủ quyết định trong từng thời kỳ. Tại thời điểm hiện nay là 5,4%/năm. Ngoài ra, đối với có một số dự án thuộc diện được hưởng ưu đãi đặc biệt thì áp dụng mức lãi suất 3%/năm và 0%/năm. Mức vốn cho vay: Đối với các dự án đặc biệt, những dự án có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân (như dự án nhà máy ván MDF, dự án nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ...) thì mức vốn cho vay sẽ do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Đối với các dự án thuộc các chương trình phát triển kinh tế của nhà nước (chương trình mía đường, chương trình kiên cố hoá kênh mương...) thì mức vốn cho vay là 85-100% tổng số vốn đầu tư của dự án. Đối với các dự án khác, mức vốn cho vay là 50 - 70%. Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư: Khái niệm: Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư (Hỗ trợ LSSĐT) là một trong 3 hình thức ưu đãi đầu tư chính của Quỹ HTPT. Do nguồn vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước hạn hẹp, không đủ để đáp ứng nhu cầu vay đầu tư nên nhà nước sử dụng hình thức hỗ trợ LSSĐT như là một công cụ nhằm khuyến khích các dự án thuộc diện ưu đãi đầu tư của nhà nước chủ động tìm kiếm, huy động các nguồn vốn khác để đầu tư. Sau đó, khi dự án hoàn thành, đi vào sản xuất kinh doanh và trả nợ hàng năm thì sẽ được nhà nước cấp cho một số tiền hỗ trợ LSSĐT để giảm bớt những thiệt thòi cho chủ đầu tư (do không được vay vốn ưu đãi). Số tiền này sẽ được xác định theo số nợ gốc mà dự án đã thanh toán cho tổ chức tín dụng. Trong điều kiện nhu cầu về vốn đầu tư rất lớn như hiện nay, việc hình thành và mở rộng hình thức hỗ trợ LSSĐT là rất cần thiết, một mặt nhằm thu hút và khai thác triệt để các nguồn vốn trong xã hội cho ĐTPT, mặt khác làm giảm bớt áp lực đối với nguồn vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước. Khi lựa chọn hình thức hỗ trợ LSSĐT, các dự án tuy không được hưởng những ưu đãi như khi vay trực tiếp từ nguồn vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước nhưng có thể chủ động tìm kiếm những nguồn vốn khác phục vụ cho nhu cầu đầu tư mà vẫn được hưởng diện ưu đãi của nhà nước thông qua số tiền cấp hỗ trợ LSSĐT. Điều kiện để được hỗ trợ LSSĐT: Dự án được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Dự án chưa được vay đầu tư hoặc bảo lãnh tín dụng đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước. Được Chi nhánh Quỹ chấp thuận và ký hợp đồng hỗ trợ lãi suất sau đầu tư. Dự án chỉ được cấp hỗ trợ LSSĐT mỗi năm một lần nếu có đủ 3 điều kiện trên đồng thời đã hoàn thành quá trình thực hiện đầu tư, đưa vào sử dụng và đã hoàn trả được vốn vay cho tổ chức tín dụng. Mức hỗ trợ: Đối với các khoản vay bằng đồng Việt Nam: Mức hỗ trợ LSSĐT hàng năm = nợ gốc trong hạn thực trả trong năm x 50% lãi suất tín dụng ĐTPT của nhà nước x thời hạn thực vay (quy đổi theo năm) đối với số nợ gốc được hỗ trợ lãi suất. Đối với các khoản vay bằng ngoại tệ: Mức hỗ trợ LSSĐT hàng năm = Nợ gốc thực trả trong năm theo nguyên tệ x 50% lãi suất tín dụng ĐTPT của nhà nước x 70% lãi suất vay vốn bằng ngoại tệ/năm x thời hạn thực vay (quy đổi theo năm) đối với số nợ gốc được hỗ trợ lãi suất. Thời hạn hỗ trợ: Thời hạn hỗ trợ hỗ trợ LSSĐT tối đa bằng thời hạn quy định đối với dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước (không quá 10 năm). Bảo lãnh tín dụng đầu tư: Khái niệm: Bảo lãnh tín dụng đầu tư là hình thức hỗ trợ đầu tư bằng cách Chi nhánh Quỹ đứng ra dùng uy tín của mình để bảo lãnh cho các dự án thuộc diện khuyến khích đầu tư của nhà nước xin vay vốn tại các tổ chức tín dụng khác (trong trường hợp dự án không đủ tài sản để thế chấp tại các tổ chức tín dụng này). Chi nhánh Quỹ đảm trách việc thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay của dự án rồi đứng ra nhận bảo lãnh. Đến thời hạn trả nợ, nếu chủ đầu tư không trả được một phần hoặc toàn bộ số nợ vay mà không được tổ chức tín dụng cho hoãn, giãn nợ thì Chi nhánh Quỹ phải trả nợ thay phần còn thiếu cho tổ chức tín dụng; đồng thời chủ đầu tư phải ký khế ước nhận nợ vay với Chi nhánh Quỹ về số tiền trả nợ thay với lãi suất phạt bằng 130% lãi suất đang vay của tổ chức tín dụng. Đối tượng bảo lãnh: Đối tượng được bảo lãnh là các chủ đầu tư có dự án được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định tại Luật khuyến khích đầu tư trong nước nhưng không được hỗ trợ LSSĐT, không được vay hoặc mới vay một phần vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước. Mức bảo lãnh: Mức bảo lãnh đối với các dự án sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu, các dự án sản xuất nông nghiệp tối đa có thể lên đến 100% số vốn vay từ các tổ chức tín dụng. Mức bảo lãnh đối với các dự án khác: 50-80% trị giá khoản vay. Thời hạn bảo lãnh: Thời hạn bảo lãnh được xác định phù hợp ( không được vượt quá) với thời hạn vay vốn đã thoả thuận giữa chủ đầu tư với tổ chức tín dụng cho vay thực hiện dự án. Phí bảo lãnh: Phí bảo lãnh là 0,3%/năm tính trên số tiền đang bảo lãnh đối với các dự án sản xuất hàng xuất khẩu. Đối với các dự án khác, phí bảo lãnh là 0,5%. Phí bảo lãnh do chủ đầu tư trả cho Quỹ HTPT để được bảo lãnh. Tín dụng hỗ trợ xuất khẩu: Với Quy chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu được ban hành kèm theo Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg ngày 10/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ, Quỹ HTPT đã được Chính phủ giao thực hiện một cách tương đối đồng bộ chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, từ cho vay đầu tư trung và dài hạn, bảo lãnh tín dụng đầu tư và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư đối với các dự án sản xuất hàng xuất khẩu, trực tiếp xuất khẩu các mặt hàng thuộc chương trình khuyến khích xuất khẩu của nhà nước đến cho vay ngắn hạn, bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Như vậy tín dụng hỗ trợ xuất khẩu bao hàm cả 3 nghiệp vụ: cho vay đầu tư, hỗ trợ LSSĐT và bảo lãnh tín dụng đầu tư. Chỉ khác là chúng được áp dụng cho các dự án sản xuất hàng xuất khẩu. thẩm định dự án trong hệ thống Quỹ HTPT: Nhiệm vụ thẩm định dự án của Quỹ HTPT: Theo Nghị định 52/2000/NĐ - CP của Chính phủ về quản lý đầu tư và xây dựng, tất cả các dự án sử dụng mọi nguồn vốn của mọi thành phần kinh tế đều phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thẩm định trước khi quyết định đầu tư hoặc cấp giấy phép đầu tư. Xét về phương diện tài chính, dự án sử dụng nguồn vốn nào thì sẽ do chủ thể nguồn vốn đó thẩm định. Nguồn vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước là một nguồn vốn nằm trong trong tài khoản của ngân sách nhà nước, được ngân sách nhà nước cấp vốn điều lệ và hàng năm cấp bổ sung để Quỹ HTPT thực hiện các nghiệp vụ cho vay, bảo lãnh, hỗ trợ lãi suất. Do đó, các dự án sử dụng nguồn vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước phải được Quỹ HTPT - với tư cách là tổ chức tài chính nhà nước, thay mặt nhà nước quản lý nguồn vốn này - thẩm định về phương diện tài chính. Điều này được thể hiện tại Quyết định số 304/QĐ - HTPT ngày 17/5/2000 của Tổng Giám đốc Quỹ HTPT: “Hệ thống Quỹ HTPT có nhiệm vụ thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay đối với các dự án sử dụng vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước. Các dự án này phải được Quỹ HTPT thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ và quyết định cho vay hay nhận bảo lãnh trước khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định đầu tư ”. Trong quy định trên, thuật ngữ “các dự án sử dụng vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước” bao gồm 2 loại: 1 - Dự án xin vay vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước. 2 - Dự án đề nghị được Quỹ HTPT bảo lãnh tín dụng đầu tư. Đây cũng chính là hai loại dự án mà Quỹ HTPT có nhiệm vụ thẩm định để ra quyết định cho vay hay nhận bảo lãnh. Quan điểm, mục đích thẩm định: Là một tổ chức tài chính nhà nước nên Quỹ HTPT phải đứng trên quan điểm của một tổ chức tín dụng khi tham gia thẩm định dự án. Quỹ phải thẩm định dự án để đánh giá hệ số hoàn vốn, độ tin cậy về khả năng tài chính của dự án; từ đó quyết định có cho vay hay tài trợ vốn cho dự án hay không. Tuy nhiên, ngoài chức năng của một tổ chức tín dụng thông thường, Quỹ còn đảm trách nhiệm vụ thực hiện chính sách tín dụng hỗ trợ đầu tư của nhà nước. Do đó, mục đích thẩm định dự án của Quỹ là: 1 - Đảm bảo lựa chọn và cho vay đối với các dự án đúng đối tượng hỗ trợ đầu tư của nhà nước, đầu tư đúng chủ trương, đường lối, chính sách xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và nhà nước, của các ngành, địa phương trong từng thời kỳ kế hoạch. 2 - Đảm bảo tính khả thi của các dự án về nguồn vốn đầu tư, hiệu quả tài chính, hiệu quả kinh tế - xã hội, đảm bảo khả năng thu hồi và hoàn trả vốn đầu tư. Với quan điểm của một tổ chức tín dụng, trong quá trình thẩm định các dự án sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, Quỹ Hỗ trợ phát triển chủ yếu tập trung vào thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay nhằm kết luận về hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ của dự án. Bên cạnh đó, Quỹ HTPT cũng tham gia thẩm định kinh tế - kỹ thuật của dự án (tức là thẩm định về các mặt mục tiêu của dự án, tư cách pháp nhân, năng lực, uy tín của chủ đầu tư, thị trường- sản phẩm của dự án, địa điểm xây dựng dự án, giải pháp công nghệ, tác động môi trường...) nhằm đánh giá dự án trên nhiều mặt, đảm bảo chất lượng của các quyết định cho vay hay tài trợ dự án. Phân cấp thẩm định và thời hạn thẩm định: Đối với dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước: 3.1.1. Dự án nhóm A: Các Chi nhánh Quỹ không được tham gia thẩm định. Trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ban Kinh tế kĩ thuật và thẩm định của Quỹ HTPT Trung ương sẽ thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay và có ý kiến bằng văn bản gửi cơ quan chủ trì thẩm định dự án (Bộ Kế hoạch & Đầu tư) để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. 3.1.2. Dự án nhóm B, C: được chia thành 2 trường hợp. Trường hợp 1: Các dự án nhóm B, C do Trung ương quản lý; dự án nhóm B, C không phân cấp cho các Chi nhánh Quỹ: Quỹ HTPT Trung ương chủ trì thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay, từ đó có quyết định cho vay hay không cho vay đối với dự án và có ý kiến bằng văn bản gửi cơ quan quyết định đầu tư. Dự án nằm trên địa bàn địa phương nào thì Tổng Giám đốc Quỹ HTPT giao cho Chi nhánh Quỹ tại địa phương đó kiểm tra một số nội dung sau: Địa điểm xây dựng. Cơ sở hạ tầng phục vụ cho dự án sau khi xây dựng xong. Các yếu tố đầu vào cung cấp cho dự án vận hành. Những khó khăn, thuận lợi về môi trường, giao thông, cơ sở hạ tầng tại địa điểm xây dựng dự án. Riêng đối với các dự án đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới thiết bị công nghệ, Chi nhánh Quỹ còn phải kiểm tra thêm về: - Tình hình tài chính của doanh nghiệp - Năng lực và uy tín của chủ đầu tư. - Khả năng cạnh tranh của sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất trong thời gian qua. - Uy tín của doanh nghiệp đối với các tổ chức tín dụng. - Khả năng thanh toán công nợ của doanh nghiệp. Sau khi nhận đủ hồ sơ dự án, Chi nhánh Quỹ kiểm tra những nội dung trên. Trong thời hạn 7 ngày làm việc đối với dự án nhóm B, 4 ngày làm việc đối với dự án nhóm C, Chi nhánh Quỹ tập trung phân tích, đánh giá tình hình tài chính của chủ đầu tư, phương án tài chính, phương án trả nợ vay của dự án và có ý kiến bằng văn bản gửi lên Quỹ Trung ương. Sau khi tiếp nhận, kiểm tra tính đầy đủ, hợp pháp của hồ sơ thẩm định do Chi nhánh Quỹ gửi lên, Ban tín dụng (Trung ương hoặc địa phương) sẽ chủ trì thẩm định, phối hợp với các ban Kế hoạch nguồn vốn, Kinh tế kỹ thuật & Thẩm định; tổng hợp ý kiến của các ban này, dự thảo văn bản trình Tổng Giám đốc Quỹ HTPT quyết định cho vay hay không cho vay đối với dự án. Sau khi có quyết định của Tổng giám đốc Quỹ, Quỹ Trung ương gửi quyết định này đến cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư đồng thời thông báo cho Chi nhánh Quỹ để Chi nhánh Quỹ xúc tiến việc ký hợp đồng tín dụng với chủ đầu tư. Thời hạn thẩm định dự án trong hệ thống Quỹ HTPT tính từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ cho đến khi có quyết định cho vay hay không cho vay: với dự án nhóm B, thời hạn thẩm định là 20 ngày, với dự án nhóm C là 15 ngày. Trường hợp 2: Các dự án uỷ quyền, phân cấp cho Chi nhánh Quỹ: Đó là các dự án nhóm C do địa phương quản lý có tổng mức vốn đầu tư nhỏ hơn 50% mức vốn giới hạn tối đa tương ứng của các dự án nhóm C nói chung (quy định tại phụ lục kèm theo Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, Nghị định 52/2000/NĐ-CP) và một số dự án nhóm B theo uỷ quyền của Tổng giám đốc Quỹ. Đối với các dự án này, Chi nhánh Quỹ được toàn quyền thẩm định và quyết định trực tiếp rồi báo cáo kết quả lên Quỹ Trung ương. Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, hai phòng Tín dụng và Kế hoạch nguồn vốn phải tổng hợp và thống nhất các ý kiến thẩm định; lập báo cáo thẩm định trình Giám đốc Chi nhánh Quỹ ra quyết định cho vay hay không cho vay đối với dự án và có ý kiến bằng văn bản gửi cơ quan quyết định đầu tư. Ngoài ra, trong một số trường hợp, Tổng Giám đốc Quỹ có quyết định cụ thể giao cho một số Chi nhánh Quỹ tại một số tỉnh được quyền chủ trì thẩm định và quyết định cho vay đầu tư đối với toàn bộ các dự án nhóm C. Đối với dự án đề nghị được bảo lãnh tín dụng đầu tư: Quỹ HTPT Trung ương thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ vay của tất cả các dự án (dự án nhóm A, B, C) để quyết định bảo lãnh. Tổng giám đốc Quỹ HTPT cũng giao cho các Chi nhánh quỹ kiểm tra một số nội dung giống như trường hợp các dự án nhóm B, C vay vốn tín dụng ĐTPT không phân cấp cho Chi nhánh Quỹ. Trong thời hạn 7 ngày làm việc, Chi nhánh Quỹ phải có ý kiến thẩm định bằng văn bản báo cáo lên Quỹ Trung ương. Sơ đồ 2: Phân cấp thẩm định dự án trong hệ thống Quỹ HTPT chủ đầu tư Quỹ HTPT Trung ương cơ quan quyết định đầu tư Chi nhánh Quỹ tại địa phương Cơ quan chuyên ngành (1) Lập dự án gửi Chi nhánh Quỹ (2) Gửi ý kiến thẩm định lên Quỹ Trung ương (với dự án không được phân cấp) (4) Thẩm định lại dự án và gửi Cơ quan quyết định ĐT (3a) Trực tiếp thẩm định dự án và gửi Cơ quan quyết định ĐT (với dự án được phân cấp) (5) Thẩm định về thị trường, kỹ thuật, công nghệ... (7) Ra quyết định đầu tư (8) Ký hợp đồng tín dụng, giải ngân và thu nợ (6) Báo cáo kết quả thẩm định dự án được phân cấp lên Quỹ Trung ương (3b) Ghi chú: Đường (3b): Đối với dự án được phân cấp thẩm định cho Chi nhánh Quỹ của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, Chi nhánh Quỹ sẽ trực tiếp thẩm định và gửi ý kiến cho vay, không cho vay đến chủ đầu tư (đồng thời là người ra quyết định đầu tư). Sơ đồ phân cấp thẩm định trên được áp dụng đối với 2 loại dự án thuộc đối tượng thẩm định của Quỹ HTPT: + Dự án xin vay vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước. + Dự án đề nghị Quỹ HTPT bảo lãnh tín dụng đầu tư. Đối với các dự án xin hỗ trợ lãi suất sau đầu tư thì hồ sơ dự án sẽ do Ngân hàng thương mại thẩm định. Quỹ HTPT sẽ kiểm tra xem dự án có thuộc đối tượng được hỗ trợ LSSĐT hay không, từ đó đồng ý hay không đồng ý hỗ trợ LSSĐT cho dự án. Đối với các dự án tín dụng hỗ trợ xuất khẩu thì tuỳ theo hình thức hỗ trợ mà dự án yêu cầu (xin vay, xin được bảo lãnh hay xin được hỗ trợ LSSĐT) mà Quỹ HTPT sẽ áp dụng quy trình thẩm định phù hợp. Thẩm định trong các giai đoạn của chu kỳ dự án: Công tác thẩm định dự án sử dụng vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước tại Quỹ HTPT được thực hiện trong suốt quá trình đầu tư của dự án, từ khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư cho đến khi kết thúc xây dựng, đưa dự án vào khai thác sử dụng. Thẩm định trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư: Trong giai đoạn này, Quỹ sẽ tiếp nhận báo cáo nghiên cứu khả thi để thẩm định về phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay; thẩm định về các mặt kinh tế - kỹ thuật khác của dự án (thị trường, công nghệ, giải pháp kỹ thuật, địa điểm xây dựng dự án, tác động môi trường...). Trong đó, tính khả thi về phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay của dự án là những nội dung mà Quỹ đặc biệt quan tâm và đi sâu thẩm định. Để được thẩm định dự án, hồ sơ đề nghị thẩm định dự án do chủ đầu tư gửi đến Quỹ HTPT phải có đầy đủ những giấy tờ sau: Đối với dự án vay vốn tín dụng đầu tư: Báo cáo nghiên cứu khả thi hoặc báo cáo đầu tư phù hợp với các quy định của pháp luật về các vấn đề có liên quan đến dự án. Tờ trình phê duyệt dự án do chủ đầu tư lập ý kiến tham gia thẩm định của các cơ quan có liên quan. Phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay và phương án sản xuất kinh doanh. Các văn bản pháp lý liên quan về: xác định cơ cấu nguồn vốn tham gia đầu tư, khả năng huy động của từng nguồn, khả năng tiêu thụ sản phẩm ... Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Cam kết của chủ đầu tư về tính chính xác và hợp pháp của các tài liệu gửi đến Chi nhánh Quỹ . Các giải trình bổ sung nếu có. Riêng dự án mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị công nghệ hoặc dự án mới nhưng do chủ đầu tư là pháp nhân đã được thành lập và hoạt động thì ngoài những giấy tờ trên, chủ đầu tư phải gửi Báo cáo Tài chính của doanh nghiệp 2 năm liên tục trước khi đầu tư để Quỹ HTPT có căn cứ thẩm tra năng lực tài chính của chủ đầu tư. Đối với dự án đề nghị được bảo lãnh tín dụng đầu tư: Hồ sơ đề nghị thẩm định bao gồm các nội dung 1, 4, 7, 8, 9 giống như hồ sơ đề nghị thẩm định dự án vay vốn tín dụng đầu tư. Ngoài ra còn có các nội dung sau: Quyết định đầu tư, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đơn xin bảo lãnh của chủ đầu tư và văn bản của tổ chức tín dụng yêu cầu bảo lãnh. Văn bản thẩm định cho vay của tổ chức tín dụng. Tổng dự toán hoặc dự toán hạng mục công trình được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Thẩm định trong giai đoạn thực hiện đầu tư: Đây là giai đoạn dự án đã qua được khâu thẩm định trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, đã được chấp thuận phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay, đã có quyết định cho vay hay nhận bảo lãnh của Tổng giám đốc Quỹ HTPT hoặc Giám đốc Chi nhánh Quỹ và đã ký được hợp đồng tín dụng (hay hợp đồng bảo lãnh). Mục đích thẩm định của Quỹ ở giai đoạn này là: Kiểm tra, kiểm soát phiếu giá thanh toán khối lượng XDCB hoàn thành nhằm đảm bảo cho vay đúng giá trị khối lượng hạng mục công trình hoàn thành. Kiểm tra việc quản lý, sử dụng vốn vay đúng mục đích và có hiệu quả theo hợp đồng tín dụng đã ký. Nội dung thẩm định dự án trong giai đoạn này cụ thể như sau: Khi bước vào giai đoạn thực hiện đầu tư và đã ký được hợp đồng tín dụng với Quỹ HTPT, chủ đầu tư thường phải tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà thầu hoặc chỉ định thầu để thực hiện các công tác thiết kế, xây dựng công trình, lắp đặt máy móc thiết bị, mua sắm vật tư hàng hoá chuẩn bị cho quá trình sản xuất... Sau quá trình đấu thầu, lựa chọn được nhà thầu trúng thầu, nhà thầu sẽ thực hiện gói thầu theo yêu cầu của chủ đầu tư. Khi thực hiện xong một phần hoặc toàn bộ gói thầu, nhà thầu sẽ yêu cầu chủ đầu tư thanh toán. Để có tiền thanh toán cho nhà thầu, chủ đầu tư sẽ phải gửi đến Quỹ những giấy tờ, tài liệu sau: 1. Quyết định của cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư về việc: Phê duyệt báo cáo khả thi Phê duyệt thiết kế dự toán Phê duyệt kết quả đấu thầu. 2. Phiếu giá thanh toán khối lượng XDCB hoàn thành - một loại bảng theo dõi tình hình chi phí phát sinh có chữ ký của chủ đầu tư và nhà thầu, là căn cứ thể hiện trách nhiệm pháp lý của hai bên. Trong 2 tài liệu trên, tài liệu 1 dùng để chứng minh tính hợp lệ của quy trình đấu thầu và kết quả đấu thầu mà chủ đầu tư thực hiện. Do đó, ở lần thanh toán đầu tiên cho nhà thầu, chủ đầu tư mới cần gửi đến Quỹ HTPT cả hai tài liệu; còn từ những lần thanh toán sau, chủ đầu tư chỉ cần gửi đến phiếu giá thanh toán. Kết quả thẩm định phiếu giá thanh toán, sau khi đã thống nhất với chủ đầu tư, là căn cứ để Quỹ giải ngân thanh toán khối lượng XDCB hoàn thành cho nhà thầu. Khi kiểm tra phiếu giá thanh toán, Quỹ HTPT sẽ kiểm tra 2 nội dung: Một là: Tính hợp pháp, hợp lệ của các phiếu giá, chứng từ thanh toán; tính đầy đủ, đúng đắn của các nội dung ghi trong phiếu giá. Các nội dung trong phiếu giá được coi là hợp lệ, hợp pháp khi: + Giá trị khối lượng XDCB hoàn thành phải nằm trong dự toán được duyệt và trong hạng mục công trình được vay vốn. + Sự phù hợp của các định mức, đơn giá, chi phí với quy định hiện hành của nhà nước. + Danh mục, số lượng, giá cả các thiết bị mà chủ đầu tư đã nhận bàn giao phải nằm trong dự toán được duyệt, trong hạng mục các thiết bị được vay vốn và phải phù hợp với hợp đồng mua bán giữa chủ đầu tư và nhà thầu. Hai là: cử cán bộ xuống hiện trường kiểm tra khối lượng nghiệm thu thực tế giữa hai bên A-B (chủ đầu tư và nhà thầu). Về nguyên tắc, khối lượng nghiệm thu thực tế không được vượt quá khối lượng trong dự toán hoặc trong hợp đồng kinh tế được duyệt. Căn cứ vào khối lượng nghiệm thu thực tế đã được kiểm tra, Quỹ sẽ giải ngân vốn cho dự án để thanh toán cho nhà thầu (số tiền giải ngân không vượt quá khối lượng nghiệm thu thực tế). Thời gian thẩm định giá trị khối lượng XDCB hoàn thành thông qua việc kiểm tra phiếu giá thanh toán không quá 5 ngày. Trong quá trình kiểm tra, nếu phát hiện chủ đầu tư vi phạm hợp đồng tín dụng (như: sử dụng vốn sai mục đích đã ghi trong hợp đồng tín dụng, xác nhận khống khối lượng XDCB hoàn thành (khai khống khối lượng để được thanh toán nhiều) v.v...) Quỹ có quyền từ chối hoặc đình chỉ cấp tiếp tiền vay, huỷ bỏ hợp đồng tín dụng, tiến hành thu hồi vốn vay đồng thời có văn bản báo cáo với cơ quan quyết định đầu tư và các cơ quan liên quan để có biện pháp xử lý theo pháp luật. Thẩm định trong giai đoạn dự án kết thúc xây dựng, đi vào vận hành: Tài liệu cần thẩm định ở giai đoạn này là Quyết toán vốn vay tín dụng đầu tư của các công trình, hạng mục công trình hoàn thành. Theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền phê duyệt Báo cáo Quyết toán, Quỹ HTPT sẽ kiểm tra Báo cáo Quyết toán vốn đầu tư của các dự án sử dụng vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước, sau đó phải có văn bản gửi Cơ quan có thẩm quyền phê duyệt báo cáo Quyết toán về các nội dung: Xác nhận tổng số vốn đã vay của Quỹ. Số dư nợ và số lãi phát sinh đến thời điểm dự án hoàn thành và được đưa vào sử dụng. Nhận xét, đánh giá tình hình quản lý, sử dụng vốn vay của chủ đầu tư. Chương 2 Thực trạng công tác thẩm định dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước tại Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc Giới thiệu chung về Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc: Quá trình hình thành và phát triển: Tiền thân của Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc (từ đây gọi tắt là Chi nhánh Quỹ) là Chi cục Đầu tư phát triển Vĩnh Yên, được thành lập vào năm 1995, thuộc một hệ thống quản lý nhà nước theo chiều dọc: từ Bộ Tài Chính -> Tổng Cục Đầu tư -> Cục Đầu tư phát triển Vĩnh Phú đến Chi cục Đầu tư Phát triển Vĩnh Yên. Khi đó, Chi cục Đầu tư Phát triển Vĩnh Yên thực hiện 2 chức năng nghiệp vụ cơ bản: 1 - Cấp phát trực tiếp vốn Ngân sách nhà nước. 2 - Cho vay tín dụng ưu đãi đối với các chương trình dự án thuộc diện khuyến khích đầu tư của nhà nước. Ngày 30/09/1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 50/1999/NĐ-CP về Tổ chức và hoạt động của Quỹ Hỗ trợ Phát triển, chính thức thành lập hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển (HTPT). Đến ngày 21/12/1999, Tổng Giám đốc Quỹ HTPT đã ban hành Quyết định số 03/QĐ-QHTPT v/v ban hành quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của Chi nhánh Quỹ HTPT. Đây là quyết định thành lập 61 Chi nhánh Quỹ tại 61 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trên cả nước, trong đó có Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc. Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc ra đời đã kế thừa và mở rộng nhiệm vụ tín dụng ĐTPT của Chi cục Đầu tư phát triển Vĩnh Yên. Ngoài chức năng cho vay đầu tư, Chi nhánh còn thực hiện các hình thức ưu đãi đầu tư mới là hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư và tín dụng hỗ trợ xuất khẩu. Riêng chức năng cấp phát trực tiếp vốn NSNN được bàn giao cho Kho bạc Nhà nước. Bắt đầu đi vào hoạt động chính thức từ 01/01/2000, Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc là một tổ chức tài chính nhà nước hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, được thành lập để tổ chức thực hiện việc huy động vốn trung và dài hạn; tiếp nhận, quản lý, sử dụng các nguồn vốn của Nhà nước (bao gồm cả vốn trong và ngoài nước) dành cho tín dụng đầu tư nhằm thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển của Nhà nước trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc là một đơn vị trực thuộc Quỹ HTPT, hạch toán phụ thuộc Quỹ HTPT, có nhiệm vụ thu - chi tài chính theo hướng dẫn của Tổng Giám đốc Quỹ HTPT. Tình hình hoạt động: Tình hình hoạt động hàng năm của Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc được thể hiện các nghiệp vụ cơ bản sau: tiếp nhận nguồn vốn tín dụng ĐTPT theo kế hoạch hàng năm từ Quỹ HTPT Trung ương; thực hiện công tác huy động vốn trên địa bàn, tiến hành thẩm định các dự án xin vay vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước, sử dụng vốn (cho vay, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư (hỗ trợ LSSĐT), tín dụng hỗ trợ xuất khẩu) và thu hồi nợ vay. Các khâu này mang tính tuần tự, gối đầu, chất lượng của mỗi khâu có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thực hiện khâu tiếp sau cũng như chất lượng hoạt động cuả toàn Chi nhánh Quỹ. 2.1. Tình hình huy động vốn: Kể từ năm 2002, Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc được Quỹ Trung ương giao nhiệm vụ trực tiếp huy động vốn nhằm đáp ứng một phần nhu cầu về vốn tín dụng ĐTPT trên địa bàn tỉnh. Đây là một nhiệm vụ mới, có nhiều khó khăn trong việc triển khai thực hiện. Do đó, đến 30/9/2002 Chi nhánh mới chỉ huy động được 3000 triệu đồng (đạt 30% KH) và đến 31/12/2002 mới huy động được 6000 triệu, đạt 60% KH. Mặc dù chưa hoàn thành được 100% kế hoạch đề ra nhưng so với các năm trư, việc tự huy động được 6000 triệu đồng trong năm 2002 của Chi nhánh có thể nói là kết quả ban đầu đáng ghi nhận, mở hướng cho Chi nhánh Quỹ trong những năm tới tiếp tục phát huy tính tự lực, chủ động trong công tác huy động vốn, góp phần giảm bớt sức ép đối với nguồn vốn có hạn của hệ thống Quỹ HTPT. 2.2. Tình hình thực hiện kế hoạch sử dụng vốn tín dụng ĐTPT: a) Cho vay đầu tư: Cho đến nay, cho vay đầu tư vẫn là hình thức hỗ trợ đầu tư chủ yếu đối với các dự án tại chi nhánh. Thực hiện kế hoạch 2001, trong năm 2001, Chi nhánh Quỹ đã giải ngân 33.630 triệu đồng, đạt 65,9% kế hoạch 2001 sau 1 năm thực hiện. Sang năm 2002, Chi nhánh Quỹ tiếp tục giải ngân 13.972 triệu đồng cho các dự án trên, đưa tổng số vốn đã giải ngân cho các dự án thuộc kế hoạch 2001 là 47.602 triệu đồng, đạt 93,3% kế hoạch. Kế hoạch giải ngân 2002 có tất cả 24 dự án được ghi kế hoạch (10 dự án cho vay đầu tư, 14 dự án hỗ trợ LSSĐT). Kế hoạch này được thực hiện trong 2 năm 2002 và 2003 nhưng tính đến 31/12/2002, Chi nhánh Quỹ đã cho vay 10/10 dự án với tổng số vốn đã giải ngân là 46.606 triệu, đạt 91,4% kế hoạch ngay sau 1 năm thực hiện (tăng 25,5 % so với cùng kỳ năm 2001). Về số tuyệt đối thì gấp 1,4 lần số giải ngân trong năm 2001. Bảng 2: Tình hình thực hiện kế hoạch tín dụng ĐTPT 2001 - 2002. (Đơn vị: triệu đồng) Chỉ tiêu KH 2001 được giao Giải ngân %thực hiện KH 2001 KH 2002 được giao Giải ngân trong 2002 % thực hiện KH 2002 sau 1 năm Số dự án Số vốn 2001 2002 Số dự án Số vốn 1. Cho vay ĐT 15 51 000 33 630 13 972 93,3% 10 51 000 46 606 91,4% KT Trung ương 1 30 000 27 738 2 262 100% 1 21 000 21 000 100% KT địa phương 14 21 000 5 892 11 710 83,8% 9 30 000 25 606 85,4% 2. Hỗ trợ LSSĐT 5 1 532 298 853 75,1% 13 2602 2347 90,2% KT Trung ương 1 532 21 136 29,5% 2 902 847 93,9% KT địa phương 4 1 000 277 717 99,4% 11 1700 1500 88.2% Tổng số 20 52 532 33 928 14 825 92,8% 23 53 602 48 953 91,3% (Nguồn: Báo cáo tổng quát tình hình thực hiện nhiệm vụ của Chi nhánh Quỹ 2001, 2002) Ghi chú: do các dự án vay vốn tại Chi nhánh Quỹ chủ yếu là dự án nhóm C, thời hạn giải ngân vốn không quá 2 năm nên tỷ lệ % hoàn thành kế hoạch là tỷ lệ giữa số vốn giải ngân cho các dự án trong 2 năm so với kế hoạch được giao. b) Hỗ trợ LSSĐT: Kế hoạch 2001: thực hiện chủ trương đẩy mạnh hỗ trợ LSSĐT của Chính phủ và Quỹ Trung ương, Chi nhánh Quỹ đã cấp hỗ trợ LSSĐT cho 4/5 dự án được ghi kế hoạch 2001 với tổng số tiền cấp là 1151 triệu đồng (trong đó: năm 2001 cấp 298 triệu, năm 2002 cấp 853 triệu), đạt 75,1 % kế hoạch 2001. Kế hoạch 2002: Có 14 dự án được ghi kế hoạch hỗ trợ LSSĐT 2002. Trên cơ sở phối hợp với các tổ chức tín dụng (cung ứng vốn cho dự án) giám sát tình hình trả nợ của các dự án, Chi nhánh Quỹ đã ký hợp đồng hỗ trợ LSSĐT với 7/11 dự án và đã thực hiện cấp hỗ trợ LSSĐT 2347 triệu đồng, đạt 90,2% kế hoạch (tăng tới 70,7% so với cùng kỳ năm 2001), về quy mô tuyệt đối thì tăng gấp 7,9 lần. Qua 2 năm thực hiện, nghiệp vụ hỗ trợ LSSĐT đã được sử dụng như một công cụ, một đòn bẩy hữu hiệu để khuyến khích các dự án thuộc diện ưu đãi của nhà nước chủ động đi vay vốn từ các nguồn bên ngoài, từ đó giảm bớt sự căng thẳng của nhu cầu về vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước và thu hút các nguồn vốn khác trong xã hội tham gia đầu tư. Năm 2001, trên cơ sở số nợ gốc thực trả các nguồn vốn tín dụng trong năm của các dự án là 11.037 triệu đồng, Chi nhánh đã cấp hỗ trợ lãi suất 298 triệu. Điều này cũng có nghĩa là chỉ cần 298 triệu đồng tiền cấp hỗ trợ lãi suất, Chi nhánh đã góp phần giảm bớt gánh nặng đối với nguồn vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước một số tiền là 11.037 triệu đồng. Tương tự , số cấp hỗ trợ lãi suất trong năm 2002 là 3700 triệu đồng cũng đã góp phần huy động được 137.037 triệu đồng từ các nguồn vốn khác trong xã hội cho mục đích đầu tư phát triển. Tuy đây mới chỉ là những kết quả ban đầu song cũng cho thấy hỗ trợ LSSĐT là một hình thức hỗ trợ đầu tư có hiệu quả cần tiếp tục đẩy mạnh trong những năm tới. Nếu xét số vốn giải ngân theo cả 2 hình thức: cho vay đầu tư và hỗ trợ LSSĐT, ta thấy tỷ lệ hoàn thành kế hoạch tuy chưa đạt 100% nhưng đang có xu hướng tăng dần: Kế hoạch 2001 sau 2 năm thực hiện chỉ đạt 92,8% nhưng kế hoạch 2002 chỉ sau 1 năm thực hiện đã đạt được 91,3 % và có nhiều khả năng sẽ hoàn thành và vượt mức kế hoạch đề ra sau năm thực hiện thứ 2 (2003). Nếu như sau 1 năm thực hiện kế hoạch giải ngân 2001 (từ 01/01/2001 đến 31/12/2001), Chi nhánh Quỹ chỉ giải ngân được 33.928 triệu đồng (chỉ bằng 65,9% KH) thì sau 1 năm thực hiện kế hoạch 2002 (từ 01/01/2002 đến 31/12/2002), Chi nhánh Quỹ đ._. giao cho Chi nhánh Quỹ kiểm tra lại một số nội dung của dự án như: địa điểm xây dựng, cơ sở hạ tầng phục vụ cho dự án sau khi xây dựng xong, các yếu tố đầu vào cung cấp cho dự án vận hành... Để hạn chế trường hợp các Chi nhánh Quỹ đã thẩm định sơ sài rổi đẩy trách nhiệm thẩm định dự án lên Trung ương, cần quy định rõ ràng hơn về quyền và trách nhiệm của Chi nhánh Quỹ đối với các dự án này. Nên quy định toàn bộ nội dung thẩm định sẽ do Chi nhánh Quỹ thực hiện và báo cáo lên Trung ương. Quỹ Trung ương sẽ chỉ thẩm tra lại báo cáo thẩm định của Chi nhánh Quỹ. Tóm lại, cần phân công lại công tác thẩm định dự án trong hệ thống Quỹ theo hướng giao quyền chủ động, tự chịu trách nhiệm nhiều hơn cho các Chi nhánh Quỹ. Quỹ Trung ương chỉ quản lý, kiểm tra ở tầm vĩ mô còn những nội dung thẩm định cụ thể phải giao cho các Chi nhánh Quỹ nhằm góp phần chuyên môn hoá hoạt động thẩm định trong hệ thống Quỹ. Giải pháp về phương pháp thẩm định: 5.1. Đặt các số liệu tính toán tài chính của dự án trong một môi trường động, có tính đến các yếu tố lạm phát, trượt giá; tăng cường công tác dự đoán, dự báo để phòng ngừa rủi ro. Nhằm nâng cao tính thuyết phục của kết quả thẩm định, mọi tính toán tài chính đều phải được đặt trong một môi trường động, trong đó phải phản ánh đúng giá trị thực của các con số về doanh thu, chi phí, lợi nhuận... trong trường hợp chúng chịu ảnh hưởng của các yếu tố biến động như giá trị thời gian của tiền, lạm phát, trượt giá... Trong điều kiện dự án kéo dài trong nhiều năm thì ảnh hưởng của những yếu tố này là không thể tránh khỏi và có thể gây sai lệch trong kết quả phân tích tài chính. Để loại bỏ ảnh hưởng của những yếu tố này, cán bộ thẩm định có thể tham khảo các bước sau: Xây dựng các hệ số trượt giá doanh thu, hệ số trượt giá chi phí, hệ số khử lạm phát: Hệ số trượt giá doanh thu năm i = Hệ số trượt giá doanh thu năm (i-1) x (1+ Tỷ lệ trượt giá doanh thu). Hệ số trượt giá chi phí năm i = Hệ số trượt giá chi phí năm (i-1) x (1+ Tỷ lệ trượt giá chi phí). Hệ số khử lạm phát năm i = Hệ số khử lạm phát năm (i-1)/ (1+ tỷ lệ lạm phát). (Trong đó i là một năm bất kỳ trong vòng đời dự án) Xác định lại các dòng tiền trong trường hợp có lạm phát, trượt giá: + Doanh thu hàng năm (có tính trượt giá) = Doanh thu năm x Hệ số trượt giá doanh thu. + Chi phí hàng năm (có tính trượt giá) = Chi phí năm x Hệ số trượt giá chi phí. + Dòng tiền khử lạm phát = Dòng tiền sau thuế x Hệ số khử lạm phát. + Tỷ suất chiết khấu dùng để tính NPV trong trường hợp có lạm phát (rlf): 1+ Lãi suất danh nghĩa rlf = _____________________________________ - 1 1+ Tỷ lệ lạm phát Sử dụng dòng tiền khử lạm phát và rlf để xác định các chỉ tiêu hiệu quả tài chính (NPV,IRR) trong trường hợp có lạm phát, như vậy mới phản ánh chính xác hiệu quả thực sự của dự án. Dự án được kết luận là có hiệu quả tài chính trong trường hợp có lạm phát khi: NPV > 0 IRR > rlf Bên cạnh đó, công tác thẩm định của Chi nhánh Quỹ cũng cần chú trọng hơn đến việc phân loại và quản trị các rủi ro có thể xảy đến đối với dự án như rủi ro tài chính, rủi ro chính trị, rủi ro về thị trường (cầu không đủ, giá bán sản phẩm thấp), rủi ro trong giai đoạn thực hiện đầu tư (tiến độ thi công chậm, chi phí vượt dự toán...) v.v... Đây là những rủi ro ảnh hưởng trực tiếp đến tính khả thi và hiệu quả của dự án, do đó ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn và trả nợ cho Chi nhánh Quỹ. Để làm tốt công tác quản trị rủi ro, cán bộ thẩm định cần nâng cao khả năng dự đoán, dự báo, phân tích diễn biến tình hình, phát huy kinh nghiệm của bản thân, tăng cường sử dụng các phần mềm kinh tế lượng, các phương pháp thống kê dự báo, toán xác xuất, mô hình toán kinh tế... 5.2. Lựa chọn những yếu tố phù hợp để đưa vào phân tích độ nhạy dự án: Thông qua bảng phân tích độ nhạy, nếu dự án vẫn đảm bảo hiệu quả ngay cả trong những trường hợp không thuận lợi (giá bán giảm, chi phí tăng...) thì chứng tỏ hiệu quả dự án là vững chắc. Khi đó Chi nhánh Quỹ có thể dễ dàng đưa ra quyết định cho vay. Tuy nhiên, trên thực tế có rất ít những dự án như vậy. Do đó, việc phân tích độ nhạy còn có nhiệm vụ xác định những yếu tố nào là rất nhạy cảm với hiệu quả dự án, trên cơ sở đó cán bộ thẩm định có phương án cùng với chủ đầu tư kiểm soát chặt chẽ những yếu tố này nhằm đảm bảo hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ của dự án. Trong kỹ thuật phân tích độ nhạy của Chi nhánh Quỹ hiện nay, vấn đề quan trọng nhất cần giải quyết là nên lựa chọn những yếu tố nào để đưa vào phân tích độ nhạy? Mặc dù việc đưa nhiều yếu tố khác nhau vào phân tích độ nhạy sẽ giúp cán bộ thẩm định có cái nhìn đầy đủ về hiệu quả dự án nhưng không phải lúc nào có nhiều thông tin cũng là cần thiết. Nếu có quá nhiều kết quả từ vô số các tình huống thì việc đánh giá sẽ khó khăn. Do đó, trong quá trình phân tích độ nhạy, cán bộ thẩm định chỉ nên lựa chọn những yếu tố nào có độ nhạy cảm lớn đối với hiệu quả dự án (chỉ một sự thay đổi nhỏ của các yếu tố này sẽ làm cho hiệu quả dự án thay đổi lớn, có thể đưa dự án từ trạng thái hiệu quả sang không hiệu quả). Việc lựa chọn các yếu tố để phân tích độ nhạy cần chú ý những vấn đề sau: Những yếu tố mang tính chủ quan có thể kiểm soát được bằng các biện pháp quản lý như tỷ lệ hao hụt, chi phí quảng cáo, chi phí gián tiếp... thì có thể bỏ qua không tính độ nhạy mà chọn một giá trị bình quân, sau khi cân nhắc trên nhiều mặt. Những yếu tố mang tính khách quan, nằm ngoài tầm kiểm soát của dự án như giá mua, giá bán, sản lượng tiêu thụ, công suất huy động (phụ thuộc vào thị trường), tổng mức đầu tư, giá nguyên liệu chính (phụ thuộc vào nguồn cung ứng)... thì cần phân tích độ nhạy. Việc áp dụng 3 yếu tố: giá bán sản phẩm, chi phí nguyên liệu chính và chi phí đầu tư vào việc phân tích độ nhạy trong tất cả các dự án là không hợp lý, vì mỗi dự án có đặc thù kinh tế kỹ thuật khác nhau sẽ đặc biệt nhạy cảm hoặc không nhạy cảm với các yếu tố khác nhau. Để giải quyết vấn đề này, có thể phân loại các dự án theo các nhóm ngành nghề, trong đó mỗi loại dự án sẽ đặc biệt nhạy với một vài yếu tố nhất định và bảng phân tích độ nhạy sẽ được xây dựng chủ yếu dựa trên các yếu tố này. Bằng thực tiễn công tác của mình, cán bộ thẩm định có thể có nhiều cách phân loại khác nhau. Sau đây là một ví dụ: + Đối với các dự án công nghiệp có thời gian xây dựng nhanh, thiết bị lắp ráp và vận hành không phức tạp, thị trường tự do thì độ nhạy về giá bán và sản lượng tiêu thụ là đặc biệt quan trọng. Bởi vì với các dự án loại này, các đối thủ có thể nhanh chóng và dễ dàng triển khai dự án cùng loại tạo ra sự cạnh tranh mạnh làm giá cả và sản lượng tiêu thụ giảm. + Đối với các dự án mà việc tiêu thụ mang tính độc quyền hoặc đã được bao tiêu sản phẩm đầu ra thì không cần tính quá nhiều độ nhạy về giá cả, sản lượng mà nên tập trung phân tích độ nhạy về tỷ giá, lãi suất cho vay... Hoàn thiện quy chế, quy trình thẩm định của hệ thống Quỹ HTPT: Trước đòi hỏi yêu cầu của thực tiễn, việc sửa đổi bổ sung quy chế quy trình thẩm định là việc làm tất yếu. Mục tiêu của việc sửa đổi này là tổ chức nghiên cứu, soạn thảo một quy trình mới phù hợp với cơ chế, chính sách của Nhà nước trong từng thời kỳ và chức năng, nhiệm vụ được giao của Quỹ HTPT. Quy chế thẩm định của Quỹ HTPT phải được sửa đổi bổ sung theo chiều hướng đơn giản, phổ cập với những nội dung thiết thực. Tuy nhiên cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Ban Kinh tế Kỹ thuật & Thẩm định với Ban Tín dụng và các Chi nhánh Quỹ tại các địa phương để tiếp thu những ý kiến đóng góp, xây dựng, sửa đổi, bổ sung quy chế, sớm thực hiện triển khai quy chế thẩm định mới nhằm phục vụ kịp thời các dự án, các chương trình mục tiêu kinh tế của Chính phủ. Để đạt được những yêu cầu trên, việc sửa đổi, bổ sung quy chế thẩm định của Quỹ HTPT nên tập trung giải quyết những vấn đề sau: 6.1. Quy định cụ thể hơn về việc phân tích, đánh giá năng lực, uy tín của chủ đầu tư: Việc phân tích, đánh giá năng lực, uy tín về tài chính chủ đầu tư là một nội dung rất quan trọng trong thẩm định dự án. Cùng với phân tích tài chính dự án, đây là một cơ sở quan trọng để ra quyết định cho vay. Tuy nhiên trên thực tế như hiện nay, nội dung phân tích này còn tương đối sơ sài, thiếu những chỉ tiêu cần thiết để đánh giá. Trên cơ sở những tồn tại đã nêu, có thể kiến nghị Quỹ HTPT Trung ương về một số vấn đề như sau: Đề nghị bổ sung vào quy chế mới một số chỉ tiêu định lượng để có thể đánh giá, phân tích cụ thể về năng lực tài chính, năng lực SXKD của chủ đầu tư. Có thể lượng hoá một số chỉ tiêu như: tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu phải bằng lãi suất của các ngân hàng thương mại, tốc độ phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tối thiểu phải bằng tốc độ phát triển GDP bình quân chung của cả nước. Theo quy chế thẩm định hiện nay, đối với các dự án mở rộng sản xuất hay dự án đổi mới công nghệ, chủ đầu tư phải gửi báo cáo tài chính, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh trong 2 năm liên tục gần nhất để Chi nhánh có cơ sở để đánh giá uy tín, năng lực chủ đầu tư. Tuy nhiên, đối với những dự án mới của những chủ đầu tư mới thành lập pháp nhân, chưa đi vào hoạt động, chưa có báo cáo tài chính và kết quả SXKD hàng năm thì Chi nhánh lại không có cơ sở nào để đánh giá uy tín, năng lực của họ. Vì vậy, dự án của những doanh nghiệp này thường gắn liền với những rủi ro không thể lường trước, rất dễ có nguy cơ bị đổ bể. Trong điều kiện nguồn vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước hạn hẹp như hiện nay, để đảm bảo an toàn về vốn, Chi nhánh chỉ nên xem xét cho vay đối với những dự án đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất của những doanh nghiệp có kết quả SXKD tốt, có tiềm năng tăng trưởng và tình hình tài chính lành mạnh. Nên có những quy định mới chặt chẽ hơn nhằm hạn chế cho vay đối với các dự án thuộc các doanh nghiệp mới thành lập, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Bên cạnh đó trong Quy chế mới cần có những quy định bắt buộc báo cáo tài chính của doanh nghiệp phải được kiểm toán để đảm bảo độ tin cậy, chính xác của các số liệu trong báo cáo, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định và đảm bảo chất lượng thẩm định. Mặt khác, để nâng cao chất lượng thẩm định báo cáo tài chính, báo cáo sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, trong quy chế mới cần có những yêu cầu bắt buộc về tìm hiểu, điều tra tình hình thực tế của doanh nghiệp. Yêu cầu cán bộ nghiệp vụ phân tích lịch sử tín dụng của chủ đầu tư, nhận xét về uy tín của chủ đầu tư đối với Quỹ HTPT và các tổ chức tín dụng khác, từ đó khẳng định quan hệ tín dụng giữa chủ đầu tư với các tổ chức tín dụng là sòng phẳng, đúng hạn hay dây dưa, không sòng phẳng, không đúng hạn. Đối với những khoản dư nợ quá hạn phải được giải trình lý do và phương án khắc phục khả thi. Ngoài ra, nên quy định cán bộ thẩm định phải phối hợp với cán bộ tín dụng đi thực tế tại nơi SXKD của chủ đầu tư để tìm hiểu thêm thông tin về: + Tình trạng nhà xưởng máy móc thiết bị, quy trình công nghệ hiện có của chủ đầu tư. + Tình hình SXKD và năng lực thực tế của chủ đầu tư. + Thực trạng địa điểm thực hiện dự án. + Tài sản thế chấp. + Các vấn đề khác có liên quan. 6.2. Quy định thời hạn thẩm định hợp lý hơn: Như trong phần tồn tại, nguyên nhân đã đề cập, với thời gian thẩm định theo quy chế như hiện nay thì có lẽ là hơi ngắn để tiến hành một công tác thẩm định chi tiết, toàn diện về mọi vấn đề của dự án, ảnh hưởng đến chất lượng, kết quả thẩm định. Song thời gian thẩm định dự án cũng không thể tuỳ tiện kéo dài vì điều đó sẽ cản trở dự án đi vào giai đoạn triển khai, bỏ lỡ mất cơ hội đầu tư, làm nản lòng các chủ đầu tư, làm mất khách hàng của Chi nhánh. Để đưa ra một thời hạn thẩm định hợp lý, các Chi nhánh phải có trách nhiệm báo cáo đầy đủ lên Quỹ trung ương về thời gian thẩm định tại chi nhánh mình, trên cơ sở đó, Ban Kinh tế Kỹ thuật & thẩm định sẽ tổng hợp lại và xác định một thời hạn thẩm định phù hợp với tình hình chung trong toàn hệ thống Quỹ. Hiện nay, để đảm bảo chất lượng thẩm định, theo kinh nghiệm của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, thời gian thẩm định vào khoảng 3 - 5 tháng đối với một dự án nhóm B và không quá 20 ngày đối với một dự án nhóm C. Trong tương lai, cùng với sự phát triển cuả hệ thống thông tin trang thiết bị phục vụ thẩm định, thời gian thẩm định sẽ được rút ngắn hơn để đáp ứng yêu cầu thực tiễn. 6.3. Xác định chính xác thời hạn trả nợ của dự án: Việc xác định thời hạn trả nợ của dự án phải căn cứ vào kết quả tính toán của phương án tài chính, căn cứ vào nguồn trả nợ thực tế trong phương án tài chính của dự án cùng với khả năng trả nợ bằng các nguồn vốn hợp pháp khác của chủ đầu tư. Trong quá trình thẩm định phương án trả nợ cũng như giám sát, theo dõi tình hình trả nợ về sau này, cần xác minh, giám sát, theo dõi những nguồn trả nợ sau của chủ đầu tư: + Nguồn trả nợ được hình thành từ khấu hao TSCĐ. + Nguồn trả nợ từ lợi nhuận ròng của dự án. + Lãi vay vốn cố định trích trước vào giá thành. + Các khoản lợi nhuận hợp pháp khác của doanh nghiệp. Đối với các dự án được hưởng thời hạn ân hạn ưu đãi theo quy định của nhà nước (không phải trả nợ gốc và lãi trong thời gian này) thì các cán bộ thẩm định và tín dụng phải hết sức chú ý công tác kiểm soát việc sử dụng các nguồn trả nợ của chủ đầu tư nhằm kịp thời đôn đốc chủ đầu tư trả nợ đúng hạn. Trên thực tế đã có những trường hợp do được hưởng thời gian ân hạn mà chủ đầu tư sử dụng nguồn để trả nợ vào những mục đích khác, dẫn đến khả năng trả nợ của những năm sau (khi đã hết thời gian ân hạn) không được đảm bảo. Mặt khác, bằng việc thường xuyên kiểm soát nguồn trả nợ của chủ đầu tư, cán bộ thẩm định mới có thể theo dõi toàn bộ quá trình thực hiện và vận hành dự án; từ đó mới có cơ sở giám sát và đánh giá dự án, nắm và phân tích được kết quả hoạt động SXKD của doanh nghiệp, tìm ra những nguyên nhân dẫn đến sự sai lệch giữa kết quả thẩm định với tình hình thực tế khi triển khai dự án; qua đó điều chỉnh, rút kinh nghiệm để phục vụ công tác thẩm định những dự án khác, góp phần nâng cao chất lượng thẩm định. Làm tốt công tác kiểm tra nghiệp vụ thẩm định tại Chi nhánh: Cho đến nay, trải qua 3 năm hoạt động, công tác thẩm định dự án tại Chi nhánh nhìn chung vẫn đảm bảo được các yêu cầu về tính khách quan, khoa học và toàn diện, chưa có một dự án nào để xảy ra tình trạng thất thoát nghiêm trọng nguồn vốn của nhà nước. Tuy nhiên, vì phòng bệnh hơn chữa bệnh nên để phòng ngừa những rủi ro đạo đức có thể xảy ra, Chi nhánh cần phối hợp với Ban kiểm soát của Quỹ Trung ương xây dựng kế hoạch kiểm tra toàn diện, thường xuyên, định kỳ về nghiệp vụ thẩm định tại Chi nhánh nhằm kịp thời uốn nắn, khắc phục những tồn tại; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng các cán bộ thẩm định cả về trình độ, kiến thức nghiệp vụ lẫn phẩm chất đạo đức, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thẩm định nói riêng và công tác quản lý nguồn vốn tín dụng đầu tư của nhà nước nói chung trên địa bàn. Một số kiến nghị đối với nhà nước: Thực tế cho thấy chất lượng công tác thẩm định tại Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc trong những năm qua còn hạn chế một phần là do những nguyên nhân từ bản thân Chi nhánh Quỹ và hệ thống Quỹ HTPT, ngoài ra còn có một số nguyên nhân xuất phát từ điều kiện chung của nền kinh tế như: chất lượng quy hoạch kém, cơ chế quản lý đầu tư xây dựng của nhà nước còn nhiều bất cập... (đã trình bày ở phần 3.1, IV, Chương 2). Đây là những tồn tại nổi cộm trong cơ chế chung của nước ta hiện nay. Trong phạm vi nghiên cứu có hạn của đề tài, em chỉ xin đưa ra một số kiến nghị nhằm khắc phục những tồn tại này, góp phần cải thiện chất lượng công tác thẩm định tại Chi nhánh Quỹ nói riêng và thực trạng hoạt động lập - thẩm định dự án đầu tư ở nước ta nói chung. Cải thiện môi trường kinh tế, môi trường pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định: a) Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo lập môi trường pháp lý ổn định: Trước hết, Nhà nước cần rà soát lại toàn bộ hệ thống pháp luật về quản lý kinh tế và đầu tư để sửa đổi những quy định chồng chéo, mâu thuẫn; bổ sung những nội dung còn thiếu nhằm xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, rõ ràng nhằm đáp ứng được những đòi hỏi của thực tế. Việc tạo lập một môi trường pháp lý ổn định sẽ góp phần giảm được những biến động thất thường trong quá trình thực hiện và vận hành dự án, hạn chế những sai lệch giữa kết quả thẩm định, quyết định cho vay vốn với tình hình triển khai dự án trên thực tế. Cho đến nay, trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, các văn bản pháp quy cao nhất mới chỉ là các Nghị định của Chính phủ (từ Nghị định 232 tới NĐ 385, NĐ 177, NĐ 42,92/CP và hiện nay là Nghị định 52,12/CP) nên tính pháp lý còn chưa cao. Trong khi đó, hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản đã có từ rất nhiều năm và là một lĩnh vực có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội ở nước ta nhưng chưa có Bộ luật tương ứng để điều chỉnh. Vì vậy, Nhà nước cần nghiên cứu, soạn thảo và sớm ban hành một văn bản có giá trị pháp lý cao nhất là Luật đầu tư xây dựng cơ bản để tăng cường hiệu lực quản lý của nhà nước trong lĩnh vực này; đồng thời các Bộ, ngành, địa phương phải nhanh chóng ban hành những văn bản hướng dẫn để phát huy tác dụng của Luật. Đặc biệt là các văn bản phải tạo được sự đồng bộ và nhất quán về mặt pháp lý trong chính sách khuyến khích đầu tư, có như vậy mới làm cho các nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận với các ưu đãi đầu tư. b) Nâng cao chất lượng quy hoạch: Nhà nước cần đảm bảo tính hợp lý và ổn định trong việc xây dựng các quy hoạch, định hướng phát triển kinh tế xã hội của cả nước cũng như của từng ngành, từng vùng. Chú trọng sự phù hợp, thống nhất giữa quy hoạch ngành với quy hoạch vùng, quy hoạch chi tiết với quy hoạch tổng thể. Chất lượng quy hoạch có được đảm bảo thì chủ trương đầu tư của các dự án mới đúng đắn và ổn định, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thẩm định sự phù hợp của mục tiêu đầu tư của dự án với quy hoạch đã được duyệt, loại bỏ ngay được những dự án mơ hồ về chủ trương đầu tư. c) Thực hiện nghiêm túc chế độ hạch toán, kế toán: Nhà nước cần có văn bản chỉ đạo các doanh nghiệp thuộc các Bộ, ngành thực hiện nghiêm túc chế độ hạch toán, kế toán, thống kê, thông tin báo cáo theo đúng quy trình thủ tục của nhà nước. Bên cạnh đó cần ban hành những quy chế bắt buộc công khai tình hình tài chính của doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thẩm định báo cáo tài chính, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của chủ đầu tư. d) Phát triển các công ty kiểm toán: Nhà nước cần có chính sách phát triển loại hình công ty kiểm toán trên cơ sở sàng lọc, lựa chọn những công ty kiểm toán có đủ năng lực và tiêu chuẩn hoạt động. Đồng thời đưa ra chế tài xử phạt nghiêm minh đối với những doanh nghiệp cố tình cung cấp thông tin sai sự thật. Thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc đối với báo cáo tài chính, báo cáo tình hình SXKD của tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm đảm bảo độ tin cậy, tính trung thực và chính xác của những số liệu trong các báo cáo này, từ đó giúp cán bộ thẩm định đánh giá chính xác về năng lực tài chính chủ đầu tư và tài chính dự án và đưa ra những quyết định đúng đắn trong hoạt động tín dụng. Hoàn thiện quy chế thẩm định đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước: Để khắc phục tình trạng dự án của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước hoàn toàn do các Chi nhánh Quỹ tại địa phương thẩm định toàn bộ, không có sự tham gia của các cơ quan chức năng chuyên ngành, từ đó dẫn đến kết quả thẩm định thiếu khách quan, Nhà nước cần: Ban hành văn bản chính thức hướng dẫn rõ ràng về sự phối hợp và trách nhiệm của các bên tham gia thẩm định dự án của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Theo đó, Chi nhánh Quỹ HTPT sẽ chịu trách nhiệm thẩm định phương án tài chính và khả năng trả nợ của dự án. Còn các Sở, ban ngành chức năng ở địa phương có trách nhiệm cung cấp tài liệu, số liệu, và ý kiến thẩm định các khía cạnh kỹ thuật dự án bằng văn bản để Chi nhánh Quỹ có đủ căn cứ thẩm định, tổng hợp và ra quyết định cho vay. Xem xét có một hình thức thích hợp hỗ trợ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh về việc lập dự án đầu tư, chẳng hạn như hình thức tư vấn lập dự án (tương tự như tư vấn về thuế cho các doanh nghiệp hiện nay), góp phần nâng cao chất lượng lập dự án của chủ đầu tư, từ đó giảm bớt những khó khăn cho Chi nhánh Quỹ trong việc hướng dẫn chủ đầu tư bổ sung, sửa đổi dự án để có đủ cơ sở thẩm định. Quy định cụ thể hơn về trách nhiệm của cơ quan kế hoạch và đầu tư là đầu mối thẩm định tất cả các dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước, kể cả dự án của doanh nghiệp nhà nước lẫn dự án của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Chỉ có cơ quan kế hoạch và đầu tư mới có đủ thẩm quyền và điều kiện về đội ngũ cán bộ, bộ máy chức năng trực thuộc để thẩm định tất cả các nội dung của dự án, tổng hợp ý kiến thẩm định về các khía cạnh khác nhau của các Sở, ban ngành. Về phía Chi nhánh Quỹ, Chi nhánh Quỹ chỉ nên tham gia ý kiến thẩm định về phương án tài chính, phương án trả nợ của dự án. Hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư xây dựng ở nước ta: Hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư XDCB ở nước ta là một nhiệm vụ không hề đơn giản. Chính phủ cần chỉ đạo các Bộ xem xét lại cả một hệ thống và các nguyên tắc quản lý, xuất phát từ yêu cầu và chức năng quản lý của nhà nước và chức năng, vai trò của các doanh nghiệp, vai trò của các tổ chức tài chính để cải cách cơ chế quản lý đầu tư, sớm chấm dứt cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao biện làm cho bộ máy nhà nước nặng nề, kém hiệu lực như hiện nay. Có thể tập trung vào một số phương hướng chủ yếu như sau: Để hạn chế những sai lệch trong quá trình lập, thẩm định dự án và ra quyết định đầu tư với quá trình triển khai thực hiện dự án trên thực tế, Nhà nước cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động đầu tư; đồng thời cần có những quy định ràng buộc quyền hạn và trách nhiệm đối với các Ban quản lý dự án để các Ban này theo dõi, giám sát, thẩm định, ra quyết định điều chỉnh liên tục nhằm giảm bớt rủi ro, giúp dự án tiệm cận với hiệu quả. Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, Chính phủ cần chỉ đạo các Bộ ngành, cơ quan chức năng nghiên cứu thành lập các tổ chức, công ty chuyên thu thập, đánh giá thông tin, xếp hạng các doanh nghiệp của các ngành theo năng lực, uy tín trong sản xuất kinh doanh. Đây sẽ là một nguồn thông tin bổ sung quan trọng cho công tác thẩm định về uy tín, năng lực chủ đầu tư. Tổ chức này có thể tồn tại dưới dạng một cơ quan nhà nước do Nhà nước trực tiếp quản lý hoặc dưới dạng các công ty chuyên bán sản phẩm thông tin về doanh nghiệp theo đơn đặt hàng. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng nên khuyến khích sự phát triển của các loại hình công ty tư vấn và tạo điều kiện cho các công ty này tham gia ngày càng nhiều vào quá trình lập và thẩm định các dự án đầu tư. Cụ thể như sau: Đối với các dự án sử dụng vốn của các thành phần kinh tế phi nhà nước, nhà nước nên khuyến khích họ thuê các công ty tư vấn lập và thẩm định dự án trên các mặt công nghệ, tài chính, thị trường... Sau đó cơ quan chủ trì thẩm định của nhà nước sẽ kiểm tra lại. Điều này sẽ tăng tính chủ động cho chủ đầu tư, đồng thời san sẻ bớt gánh nặng thẩm định cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thẩm định. Đối với những dự án sử dụng các nguồn vốn của nhà nước (vốn Ngân sách nhà nước, vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước, vốn ĐTPT của các doanh nghiệp nhà nước) thì chủ thể thẩm định vẫn là các Bộ, Sở Kế hoạch đầu tư, các Bộ (Sở) chuyên ngành, UBND các tỉnh, thành phố... Nhưng trong trường hợp các chủ thể trên không đủ năng lực để thẩm định những nội dung kỹ thuật phức tạp của dự án (chẳng hạn như: dự án sử dụng công nghệ hiện đại lần đầu tiên có mặt tại Việt Nam, sản phẩm mới lần đầu tiên xuất hiện trên thị trường...) thì Nhà nước cũng nên tạo cơ chế cho phép họ thuê các công ty tư vấn thẩm định. Để đảm bảo chất lượng thẩm định của các công ty tư vấn, Nhà nước cũng phải xây dựng quy chế ràng buộc về trách nhiệm cụ thể đối với các công ty này. Trong điều kiện mở cửa và hội nhập như hiện nay có thể cho phép các công ty tư vấn nước ngoài, liên doanh tư vấn phát triển ở Việt Nam nhằm tư vấn cho các chủ thể về những vấn đề vượt quá trình độ của tư vấn trong nước, tạo sự cạnh tranh lành mạnh và nâng cao dần trình độ tư vấn trong nước. Kết luận Trong quá trình đổi mới và phát triển, vốn được coi là một trong những điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế. Đối với nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước, hiện nay đang diễn ra một tình trạng là nhu cầu về vốn lớn hơn nhiều so với khả năng đáp ứng. Chính vì vậy, nguyên tắc an toàn và hiệu quả của đồng vốn phải được đưa lên hàng đầu. Để đạt được điều này thì một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc nói riêng và Quỹ HTPT nói chung là không ngừng hoàn thiện và nâng cao chất lượng công tác thẩm định các dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước. Chỉ có trên cơ sở thẩm định dự án một cách thực sự khách quan, khoa học và toàn diện thì mới đưa được nguồn vốn tín dụng ưu đãi này đến đúng đối tượng được hưởng ưu đãi, khuyến khích sự phát triển những lĩnh vực, ngành nghề, vùng lãnh thổ theo định hướng của nhà nước, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH. Hiện nay, chất lượng thẩm định dự án tại Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc tuy đã dần được chú trọng và nâng cao song vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của thực tiễn. Do vậy, việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng thẩm định đang là một vấn đề cấp bách, có ý nghĩa quan trọng, quyết định hiệu quả sử dụng nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Để góp phần nâng cao chất lượng công tác thẩm định tại Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc, Luận văn đã cố gắng xây dựng, trình bày những vấn đề từ lý luận đến thực tiễn qua 3 chương như sau: Chương 1 chủ yếu làm rõ những khái niệm cơ bản về đầu tư, dự án đầu tư, thẩm định dự án đầu tư; khái quát về nhiệm vụ, quan điểm, mục đích, quy trình thẩm định dự án trong hệ thống Quỹ Hỗ trợ Phát triển để làm cơ sở nghiên cứu cho các chương sau. Chương 2 đi sâu nghiên cứu những vấn đề: Sự hình thành và tình hình hoạt động của Chi nhánh Quỹ, khái quát bức tranh chung về tình hình thẩm định dự án tại Chi nhánh Quỹ qua 3 năm hoạt động; tập trung phân tích quy trình, nội dung thẩm định dự án vay vốn tại Chi nhánh Quỹ với một ví dụ minh hoạ cụ thể;trên cơ sở đó phát hiện và đánh giá về thực trạng công tác thẩm định, những kết quả tích cực đã đạt được, những mặt hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế đó. Trên cơ sở những hạn chế và nguyên nhân đã nêu trong chương 2, chương 3 đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện chất lượng công tác thẩm định tại Chi nhánh Quỹ, trong đó có phân chia thành các nhóm giải pháp riêng cho Chi nhánh Quỹ, cho hệ thống Quỹ HTPT và một số kiến nghị đối với Nhà nước để cải thiện môi trường kinh tế, pháp lý; đổi mới quy chế quản lý đầu tư, XDCB, tăng cường sự phối hợp của các cơ quan chức năng trong hoạt động thẩm định. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng và thực hiện đề tài nhưng Luận văn chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định do thời gian không cho phép, do trình độ, nhận thức của người viết còn hạn chế. Những vấn đề nêu trong luận văn dù ít dù nhiều vẫn còn nghiêng nhiều về mặt lý thuyết, xuất phát từ cách nhìn nhận, đánh giá của một sinh viên còn ít kinh nghiệm thực tế. Vì vậy, người viết rất mong nhận được những ý kiến đóng góp xây dựng của các thầy cô giáo và các bạn để Luận văn được hoàn thiện hơn. ˜–—™ Danh mục tài liệu tham khảo PGS - TS. Nguyễn Ngọc Mai - Giáo trình Kinh tế đầu tư - NXB Giáo dục 1998. TS. Nguyễn Bạch Nguyệt - Giáo trình Lập & Quản lý dự án đầu tư - NXB Thống kê 2000. ThS. Đinh Thế Hiển - Lập và thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư - NXB Thống kê 2002. Văn phòng Thẩm định dự án (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) - Chuyên đề bồi dưỡng cán bộ về lập và thẩm định dự án đầu tư - Hà Nội 1999. Nghị định 43/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29/6/1999 về tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước. Quyết định số 231/1999/ QĐ-TTg ngày 17/12/1999 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ HTPT. Nghị định 52/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 08/07/1999 về việc ban hành Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng. Báo cáo tổng hợp tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch các năm 2000, 2001, 2002 của Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc. Thuyết minh báo cáo quyết toán tài chính Quỹ HTPT của Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc năm 2000, 2001, 2002. Các biểu thống kê về tình hình thực hiện kế hoạch tín dụng ĐTPT của Chi nhánh Quỹ các năm 2001 - 2002. Sổ theo dõi tình hình thẩm định dự án của Chi nhánh Quỹ các năm 2001, 2002. Quy trình công tác thẩm định trong hệ thống Quỹ HTPT (ban hành kèm theo Quyết định số 304/2000/QĐ-HTPT ngày 17/5/2000 của Tổng Giám đốc Quỹ HTPT). Quy chế thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay các dự án sử dụng vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước (ban hành kèm theo Quyết định số 10/2000/QĐ-HĐQL ngày 29/02/2000 của Hội đồng Quản lý Quỹ HTPT). Báo cáo thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay dự án đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất sữa tiệt trùng, sữa đậu nành và nước quả (Công ty Cổ phần Sữa Hà Nội) của phòng Tín dụng. Báo cáo thẩm định kinh tế kỹ thuật dự án đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất sữa tiệt trùng, sữa đậu nành và nước quả (Công ty Cổ phần Sữa Hà Nội) của phòng Kế hoạch nguồn vốn. Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất nhà máy sản xuất sữa tiệt trùng, sữa đậu nành và nước quả (Công ty Cổ phần Sữa Hà Nội). Báo cáo chuyên đề về công tác thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay trong hệ thống Quỹ HTPT của Ban Kinh tế kỹ thuật & Thẩm định - Quỹ HTPT. Mai Lan Hanh - Vấn đề thẩm định dự án của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - TC Hỗ trợ phát triển số 4/2002. Hoàng Liên Sơn - Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay - TC Hỗ trợ phát triển số 2/2002. Diệu Quang Phước - Nguyễn Thị Bích Vân - Một số ý kiến về công tác thẩm định dự án đầu tư trong hệ thống Quỹ HTPT - TC Hỗ trợ phát triển số 3/2002. Trần Duy Thọ - Đôi điều suy nghĩ về công tác thẩm định dự án đầu tư - TC Hỗ trợ phát triển số 1/2002. Bùi Mạnh Thắng - Thẩm định là nghiệp vụ hay hành chính ? - Báo Nhân dân số 5/2001. ˜–—™ ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37064.doc