Lời nói đầu
Việt nam đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Để thực hiện mục tiêu dân giàu,nước mạnh,xã hội công bằng,văn minh tiến bộ thì cần phải phát triển nền kinh tế của đất nước và tăng trưởng kinh tế. Muốn thực hiện được điều đó thì một trong những biện pháp đó là cần phải có những dự án đầu tư tốt để có thể tiến hành sản xuất kinh doanh một cách có hiệu qủa.
Trong quá trì
73 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1207 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trung & dài hạn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hàng loạt các dự án đầu tư được hình thành, trong khi các nguồn lực của nền kinh tế còn hạn hẹp. Để lựa chọn dự án đầu tư phù hợp, có hiệu quả, vấn đề thẩm định dự án đầu tư là một vấn đề cần thiết hơn bao giờ hết.Đầu tư theo dự án là một trong những phương thức đầu tư được đánh giá là có hiệu quả nhất. Dự án là điều kiện, là tiền đề của sự đổi mới và phát triển. Để dự án mang lại hiệu quả thực sự, cần phải thẩm định chính xác các khía cạnh của dự án về các mặt : pháp lý, thị trường, tài chính, kỹ thuật, tổ chức quản lý kinh tế - xã hội... Bởi vậy, nghiên cứu về vấn đề "thẩm định dự án đầu tư" luôn thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư, chủ dự án cũng như các nhà quản lý. Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế nước ta chuyển đổi theo cơ chế thị trường và thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhu cầu đòi hỏi cấp bách về vốn đầu tư theo dự án ngày càng mở rộng cả về số lượng, chất lượng, quy mô.Trong bối cảnh khả năng huy động vốn trong nước cho đầu tư đã và đang gặp phải những khó khăn nhất định, thì trình độ quản lý dự án nói chung và thẩm định dự án đầu tư nói riêng chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội và nhu cầu quản lý.
Mặt khác,do đặc thù của ngành ngân hàng là kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, chủ yếu là dựa trên tiền của người khác để kinh doanh nên rủi ro cho hoạt động tín dụng là rất lớn, vì nó không những phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của ngân hàng mà còn phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.Do vậy,công tác thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng đòi hỏi phải xem xét một cách cẩn thận trước khi cho vay vốn,trước hết là đảm bảo thu hồi vốn cho ngân hàng, sau là đảm bảo đồng vốn phát huy được hiêu quả kinh tế -xã hội trong hiện tại cũng như trong tương lai. Nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề, sau một thời gian thực tập, tìm hiểu thực tế tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội.Em đã chọn đề tài : “Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội” cho chuyên đề thực tập của mình.
Chuyên đề thực tập này gồm ba chương :
Chương 1 : Những vấn đề cơ bản về thẩm định dự án đầu tư
Chương 2 : Thực trạng vấn đề thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội
Chương 3 : Một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội.
Em xin chân thành cảm ơn Thầy Đặng Ngọc Đức cùng toàn thể Cán bộ công nhân viên công tác tại Phòng kinh doanh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Hà nội và các Thầy, Cô giáo trong Khoa Ngân hàng - Tài chính - Trường Đại học kinh tế Quốc dân đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành bản chuyên đề này.
Chương 1
Những vấn đề cơ bản về thẩm định dự án đầu tư
1.1. Tổng quan về dự án đầu tư
1.1.1. Khái niệm về dự án đầu tư :
Hiện nay,có rất nhiều khái niệm về dự án đầu tư được nêu ra nhưng chưa có một khái niệm nào được đồng nhất.
Theo Ngân hàng thế giới (WB) thì : “Dự án là tổng thể các chính sách, hoạt động và chi phí liên quan với nhau được hoạch định nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong một thời gian nhất định”.
Giáo trình quản trị dự án đầu tư trong nước và quốc tế của Phó giáo sư - Tiến sĩ Võ Thanh Thu đưa ra khái niệm : “Dự án đầu tư hay còn gọi là Luận chứng kinh tế kỹ thuật là văn kiện phản ánh trung thực kết quả nghiên cứu cụ thể các vấn đề : thị trường, kinh tế, kỹ thuật... có ảnh hưởng trực tiếp đến sự vận hành khai thác và tính sinh lợi của các công cuộc đầu tư”.
Theo nghị định 42/CP của Chính phủ ngày 16/7/1996 thì : “Dự án đầu tư là tập hợp các đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian nhất định”.
ở trên là những khái niệm nêu nên bản chất của dự án, còn về hình thức thì “Dự án đầu tư là tài liệu do chủ đầu tư chịu trách nhiệm lập,trong đó thể hiện một cách khoa học,đầy đủ và toàn diện, toàn bộ nội dung các vấn đề có liên quan đến công trình đầu tư.Nhằm giúp cho việc ra quyết định đầu tư được đúng đắn và đảm bảo hiệu quả của vốn đầu tư.
Với những khái niệm này thì dự án đầu tư là một trong những căn cứ quan trọng nhất để quyết định việc bỏ vốn đầu tư, là phương tiện tìm đối tác đầu tư, là phương tiện thuyết phục các Tổ chức tài chính, tiền tệ trong và ngoài nước tài trợ hoặc cho vay vốn.
1.1.2. Vai trò của dự án đầu tư :
Trong hoạt động đầu tư, DAĐT có vai trò rất quan trọng. Về mặt thời gian, nó tác động trong suốt quá trình đầu tư và khai thác công trình sau này. Về mặt phạm vi, nó tác động đến tất cả các mối quan hệ và các đối tác tham gia vào quá trình đầu tư. Khi nhà đầu tư phát hiện cơ hội đầu tư và có ý định để bỏ vốn đầu tư vào một lĩnh vực nào đó thì phải lập dự án đầu tư. Nói cách khác, để tiến hành đầu tư nhất thiết phải có dự án đầu tư.Do đó, dự án đầu tư có vai trò quan trọng đối với chủ đầu tư,nhà nước và các bên liên quan. Vai trò của dự án đầu tư được thể hiện như sau :
Dự án là căn cứ quan trọng để quyết định sự bỏ vốn đầu tư
Dự án là cơ sở để xây dựng kế hoạch đầu tư, theo dõi, đốn đốc và kiểm tra qúa trình thực hiện đầu tư
Dự án là cơ sở quan trọng để thuyết phục các tổ chức tài chính, tín dụng xem xét tài trợ dự án
Dự án là cơ sở để các cơ quan quản lý Nhà nước xem xét, phê duyệt,cấp giấy phép đầu tư
Dự án là căn cứ quan trọng để đánh giá,có những điều chỉnh kịp thời những tồn tại và những vướng mắc trong quá trình thực hiện và khai thác công trình.
Dự án là một trong những cơ sở pháp lý để xem xét, xử lý khi có tranh chấp giữa các bên tham gia liên doanh đầu tư.
Đối với các cơ quan thiết kế và lập dự án thì dự án đầu tư là những phác thảo hoặc định hướng ban đầu,giúp cơ quan thiết kế có thể hoàn thiện bản thiết kế của mình theo đúng ý mà chủ đầu tư muốn.
1.1.3 Nội dung của dự án đầu tư :
Thông thường.một dự án đầu tư phải trình bày theo những nội dung sau:
Một là : Các căn cứ lập dự án, sự cần thiết phải đầu tư xây dựng dự án. Cần nêu căn cứ pháp lý và căn cứ thực tiễn của toàn bộ quá trình hình thành và thực hiện toàn bộ dự án.
Hai là : Nghiên cứu về thị trường của dự án. Cần đề cập tới các vấn đề:
Giới thiệu sản phẩm, dịch vụ được lựa chọn đưa vào sản xuất, kinh doanh theo dự án;
Các luận cứ về thị trường đối với sản phẩm được lựa chọn
Dự báo nhu cầu hiện tại, tương lai của sản phẩm, dịch vụ đó
Xác định nguồn và các kênh đáp ứng nhu cầu đó
Xem xét, xây dựng màng lưới để tổ chức tiêu thụ sản phẩm của dự án
Ba là : Nghiên cứu về phương diện kỹ thuật- công nghệ của dự án theo các nội dung chủ yếu sau:
Xác định địa điểm xây dựng dự án
Xác định quy mô, chương trình sản xuất
Xác định nhu cầu các yếu tố đầu vào cho sản xuất, nguồn và phương thức cung cấp;
Lựa chọn công nghệ và thiết bị.
Bốn là : Nghiên cứu về tổ chức quản trị dự án. Tuỳ theo từng dự án cụ thể để xác định mô hình tổ chức bộ máy cho thích hợp, từ đó làm cơ sở cho việc tính toán nhu cầu nhân lực.
Năm là : Nghiên cứu về phương diện tài chính của dự án. Cần giải quyết các nội dung chủ yếu sau:
Xác định tổng vốn đầu tư, cơ cấu các loại vốn và nguồn tài trợ
Đánh giá khả năng sinh lời của dự án
Xác định thời gian hoàn vốn của dự án
Đánh giá mức độ rủi ro của dự án.
Sáu là : Xem xét về các lợi ích kinh tế- xã hội của dự án. Cần đánh giá, so sánh giữa lợi ích do dự án tạo ra cho xã hội, cho nền kinh tế và các chi phí mà xã hội phải trả trong việc sử dụng các nguồn lực cho đầu tư dự án...chủ yếu xem xét trên các mặt sau:
Khả năng tạo ra nguồn thu cho ngân sách
Tạo công ăn việc làm
Nâng cao mức sống của nhân dân
Tăng thu và tiết kiệm ngoại tệ.
Phát triển cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện cho các ngành, các dự án khác phát triển theo.
Bảy là : Kết luận và kiến nghị: Thông qua những nội dung nghiên cứu trên, cần kết luận tổng quát về khả năng thực hiện của dự án, những khó khăn và thuận lợi trong quá trình chuẩn bị và thực hiện dự án, đồng thời đề xuất những kiến nghị đối với các cơ quan có liên quan đến dự án để cùng phối kết hợp trong quá trình triển khai xây dựng dự án đầu tư.
1.2 Thẩm định dự án đầu tư
1.2.1. Khái niệm thẩm định dự án đầu tư:
Một dự án đầu tư khi được soạn xong dù được nghiên cứu tính toán rất kỹ càng thì chỉ mới qua bước khởi đầu. Để đánh giá tính hợp lý, tính hiệu quả,tính khả thi của dự án và ra quyết định dự án có được thực hiện hay không, phải có một quá trình xem xét kiểm tra, đánh giá một cách độc lập và tách biệt với quá trình soạn thảo dự án. Quá trình đó gọi là thẩm định dự án.
Vậy thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách quan, khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản có ảnh hưởng tới công cuộc đầu tư để ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư.
Đây là một quá trình kiểm tra, đánh giá các nội dung của dự án một cách độc lập, tách biệt với quá trình soạn thảo dự án.Thẩm định dự án đã tạo ra cơ sở vững chắc cho hoạt động đầu tư có hiệu quả.Các kết luận rút ra từ quá trình thẩm định là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước ra quyết định đầu tư, cho phép đầu tư.
1.2.2. Sự cần thiết phải thẩm định dự án đầu tư :
Thẩm định dự án đầu tư là cần thiết bắt nguồn từ vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với các hoạt động đầu tư.Nhà nước với chức năng công quyền của mình sẽ can thiệp vào quá trình lựa chọn các dự án đầu tư.Tất cả các dự án đầu tư thuộc mọi nguồn vốn, mọi thành phần kinh tế đều phải đóng góp vào lợi ích chung của đất nước.Bởi vậy, trước khi ra quyết định đầu tư hay cho phép đầu tư, các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước cần biết xem dự án đó có góp phần đạt được mục tiêu của quốc gia hay không ?Nếu có thì bằng cách nào và đến mức độ nào ?.Việc xem xét này được gọi là thẩm định dự án.
Một dự án đầu tư dù được tiến hành soạn thảo kỹ lưỡng đến đâu cũng vấn mang tính chủ quan của người soạn thảo.Vì vậy, để đảm bảo tính khách quan của dự án,cần thiết phải thẩm định.Người soạn thảo thường đứng trên giác độ hẹp để nhìn nhận các vấn đề của dự án.Các nhà thẩm định thường có cách nhìn rộng hơn trong việc đánh giá dự án.Họ xuất phát từ lợi ích chung của toàn xã hội,của cả cộng đồng để xem xét các lợi ích kinh tế xã hội mà dự án đem lại.
Mặt khác,khi soạn thảo dự án có thể có những sai sót,các ý kiến có thể mâu thuẫn, không logic,thậm chí có thể có những câu văn,những chữ dùng sơ hở có thể gây ra những tranh chấp giữa các đối tác tham gia đầu tư.Thẩm định dự án sẽ phát hiện và sửa chữa những sai sót đó.
Như vậy, thẩm định dự án là cần thiết,nó là một bộ phận của công tác quản lý nhằm đảm bảo cho hoạt động đầu tư có hiệu quả.
1.2.3. Yêu cầu của việc thẩm định dự án đầu tư :
Thẩm định dự án được tiến hành đối với tất cả các dự án thuộc mọi nguồn vốn,thuộc các thành phần kinh tế bao gồm các dự án đầu tư thuộc nguồn vốn Nhà nước như :Vốn ngân sách,vốn tín dụng ưu đãi... và các dự án đầu tư không sử dụng vốn Nhà nước.Tuy nhiên, yêu cầu của công tác thẩm định với các dự án này cũng khác nhau.Theo Nghị định 42/CP ngày 16/7/1996 của Thủ tướng Chính phủ : Tất cả các dự án đầu tư có xây dựng thuộc mọi thành phần kinh tế đều phải thẩm định về quy hoạch xây dựng các phương án kiến trúc,công nghệ, sử dụng đất đai,tài nguyên,bảo vệ môi trường sinh thái,phòng cháy nổ và các khía cạnh của dự án.Đối với các dự án đầu tư sử dụng vốn Nhà nước còn phải được thẩm định về phương diện tài chính và hiệu quả kinh tế của dự án.Đối với các dự án đầu tư sử dụng vốn ODA phải phù hợp với quy định của Nhà nước và thông lệ quốc tế.
1.2.4. Mục đích của việc thẩm định dự án đầu tư :
Đánh giá tính hợp lý của dự án : Tính hợp lý được biểu hiện một cách tổng hợp (biểu hiện trong tính hiệu quả và tính khả thi )và được biểu hiện ở từng nội dung, cách thức tính toán của dự án.
Đánh giá tính hiệu quả của dự án : Hiệu quả của dự án được xem xét trên hai phương diện là hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế -xã hội của dự án.
Đánh giá tính khả thi của dự án :Đây là mục đích hết sức quan trọng trong thẩm định dự án.Một dự án hợp lý và hiệu quả cần phải có tính khả thi.Tất nhiện, hợp lý và hiệu quả là hai điều kiện quan trọng để dự án có tính khả thi.Nhưng tính khả thi còn phải xem xét với nội dung và phạm vi rộng hơn của dự án (xem xét các kế hoạch tổ chức thực hiện, môi trường pháp lý của dự án...)
Ba mục đích trên đồng thời cũng là những yêu cầu chung đối với mọi dự án đầu tư.Một dự án muốn được đầu tư hoặc được tài trợ vốn thì dự án đó phải đảm bảo được các yêu cầu trên.Tuy nhiên, mục đích cuối cùng của việc thẩm định dự án còn phụ thuộc vào chủ thể thẩm định dự án.
Các chủ thể đầu tư trong và ngoài nước thẩm định dự án khả thi để đưa ra quyết định đầu tư.
Các định chế tài chính (Ngân hàng, Tổng cục đầu tư và phát triển...)thẩm định dự án đầu tư để tài trợ hoặc cho vay vốn
Các cơ quan quản lý vĩ mô của Nhà nước (Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ và các Cơ quan ngang bộ, Uỷ ban nhân dân Tỉnh,Thành phố....) thẩm định dự án đầu tư để ra quyết định cho phép đầu tư hoặc cấp giấy phép đầu tư.
1.2.5. ý nghĩa của việc thẩm định dự án đầu tư :
Thẩm định dự án đầu tư giúp cho bảo vệ các dự án tốt khỏi bị bác bỏ,ngăn chặn các dự án tồi,góp phần bảo đảm cho việc sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư.
Bất kỳ một dự án đầu tư nào mà chưa được tổ chức thẩm định thì dự án đó chưa đủ độ tin cậy và sức thuyết phục thu hút nhà đầu tư mạnh dạn bỏ vốn vào đầu tư.Vì vậy thẩm định dự án đầu tư là công việc cần thiết và có nhiều ý nghĩa.ý nghĩa khác nhau tuỳ thuộc vào các chủ thể tiến hành thẩm định
Thông qua việc thẩm định dự án đầu tư giúp cho chủ đầu tư lựa chọn được phương án đầu tư tốt nhất.
Qua thẩm định sẽ giúp xác định tư cách pháp nhân của các bên tham gia đầu tư.
Giúp cho việc xác định được những cái lợi,cái hại của dự án trên các mặt khi đi vào hoạt động,từ đó có biện pháp khai thác các khía cạnh có lợi và hạn chế các mặt có hại.
Giúp cho các cơ quan quản lý vĩ mô của Nhà nước đánh giá được tính phù hợp của dự án đối với quy hoạch phát triển chung của nghành, của địa phương và của cả nước trên các mặt mục tiêu, quy mô, quy hoạch và hiệu quả.
Giúp các nhà tài chính ra quyết định chính xác về việc cho vay hoặc tài trợ dự án.
Đối với Ngân hàng, thẩm định có ý nghĩa sau :
Có quyết định chủ trương bỏ vốn đầu tư đúng đắn có cơ sở đảm bảo hiệu quả của vốn đầu tư.
Phát hiện và bổ sung thêm các giải pháp nhằm nâng cao tính khả thi cho việc triển khai thực hiện dự án, hạn chế giảm bớt các yếu tố rủi ro.
Tạo ra căn cứ để kiểm tra viêc sử dụng vốn đúng mục đích, đối tượng và tiết kiệm vốn đầu tư trong quá trình thực hiện.
Có cơ sở tương đối vững chắc để xác định được hiệu quả đầu tư của dự án cũng như khả năng hoàn vốn, trả nợ của dự án và chủ đầu tư.
Rút kinh nghiệm và bài học để thực hiện các dự án sau được tốt hơn.
1.3. Phương pháp thẩm định cho vay đối với dự án đầu tư :
Dự án đầu tư sẽ được thẩm định đầy đủ và chính xác khi có phương pháp thẩm định khoa học kết hợp với các kinh nghiệm quản lý thực tiễn và các nguồn thông tin đáng tin cậy.Việc thẩm định dự án có thể được tiến hành theo nhiều phương pháp khác nhau tuỳ thuộc vào từng nôị dung của dự án cần xem xét.Những phương pháp thường được sử dụng đó là phương pháp so sánh, phương pháp phân tích độ nhạy cảm của dự án,phương pháp thẩm định theo trình tự.
1.3.1. Phương pháp so sánh các chỉ tiêu :
Đây là phương pháp phổ biến và đơn giản,các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật chủ yếu của dự án được so sánh với các dự án đã và đang xây dựng hoặc đang hoạt động.Sử dụng phương pháp này giúp cho việc đánh giá tính hợp lý và chính xác các chỉ tiêu của dự án.Từ đó có thể rút ra các kết luận đúng đắn về dự án để đưa ra quyết định đầu tư được chính xác.Phương pháp so sánh thường sử dụng các chỉ tiêu sau để đối chiếu :
Tiêu chuẩn thiết kế xây dựng,tiêu chuẩn về cấp công trình do Nhà nước quy định hoặc điều kiện tài chính mà dự án có thể chấp nhận được.
Tiêu chuẩn về công nghệ thiết bị trong quan hệ chiến lược đầu tư công nghệ quốc gia,quốc tế.
Tiêu chuẩn đối với loại sản phẩm của dự án mà thị trường đòi hỏi,
Các chỉ tiêu tổng hợp như cơ cấu vốn đầu tư,suất đầu tư
Các định mức về sản xuất,tiêu hao năng lượng,nguyên liệu, nhân công...của ngành theo các định mức kinh tế - kỹ thuật
Các chỉ tiêu về hiệu quả đầu tư
Các tỷ lệ tài chính doanh nghiệp theo thông lệ phù hợp với hướng dẫn,chỉ đạo của Nhà nước,của Ngành đối với Doanh nghiệp cùng loại.
Các chỉ tiêu trong trường hợp có dự án và chưa có dự án.
Trong việc sử dụng phương pháp so sánh cần lưu ý các chỉ tiêu dùng để tiến hành so sánh phải được vận dụng phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của dự án và Doanh nghiệp,tránh khuynh hướng so sánh máy móc,cứng nhắc.
1.3.2. Phương pháp thẩm định theo trình tự
Việc thẩm định dự án được tiến hành theo một trình tự biện chứng từ tổng quát đến chi tiết,từ kết luận trước làm tiền đề cho kết luận sau.
*/ Thẩm định tổng quát : là việc xem xét tổng quát các nội dung cần thẩm định của dự án.Qua đó phát hiện các vấn đề hợp lý hay chưa hợp lý cần phải đi sâu xem xét.Thẩm định tổng quát cho phép hình dung khái quát dự án, hiểu rõ quy mô, tầm quan trọng của dự án. Vì xem xét tất cả các nội dung của dự án, do đó ở giai đoạn này khó phát hiện được các vấn đề cần phải bác bỏ, hoặc các sai sót của dự án cần bổ sung hoặc sửa đổi. Chỉ khi tiến hành thẩm định chi tiết, những vấn đề sai sót của dự án mới được phát hiện.
*/ Thẩm định chi tiết: Được tiến hành sau thẩm định tổng quát. Việc thẩm định này được tiến hành với từng nội dung của dự án từ việc thẩm định các điều kiện pháp lý đến phân tích hiệu quả tài chính và kinh tế- xã hội của dự án. Mỗi nội dung xem xét đều đưa ra những ý kiến đánh giá đồng ý hay cần phải sửa đổi thêm hoặc không thể chấp nhận được. Tuy nhiên mức độ tập trung cho những nội dung cơ bản có thể khác nhau tuỳ theo đặc điểm và tình hình cụ thể của dự án.
Trong bước thẩm định chi tiết, kết luận rút ra nội dung trước có thể là điều kiện để tiếp tục nghiên cứu. Nếu một số nội dung cơ bản của dự án bị bác bỏ thì có thể bác bỏ dự án mà không cần đi vào thẩm định toàn bộ các chỉ tiêu tiếp sau. Chẳng hạn thẩm định mục tiêu của dự án không hợp lý, nội dung phân tích kỹ thuật và tài chính không khả thi thì dự án sẽ không thực hiện được.
1.3.3. Phương pháp thẩm định dự án dựa trên việc phân tích độ nhạy cảm của dự án :
Phương pháp này thường dùng để kiểm tra tính vững chắc và hiệu quả tài chính của dự án.
Cơ sở của phương pháp này là dự kiến một số tình huống vững chắc có thể xảy ra trong tương lai đối với dự án, như vượt chi phí đầu tư, sản lượng đạt thấp, giá các chi phí đầu vào tăng và giá tiêu thụ sản phẩm giảm, có thay đổi về chính sách thuế theo hướng bất lợi... Khảo sát tác động của những yếu tố đó đến hiệu quả đầu tư và khả năng hoà vốn của dự án.
Mức độ sai lệch so với dự kiến của các bất trắc thường được chọn từ 10% đến 20% và nên chọn các yếu tố tiêu biểu để xảy ra tác động xấu đến hiệu quả của dự án để xem xét. Nếu dự án vẫn tỏ ra có hiệu quả kể cả trong trường hợp có nhiều bất trắc phát sinh đồng thời thì đó là những dự án vững trắc có độ an toàn cao. Trong trường hợp ngược lại, cần xem lại khả năng phát sinh bất trắc đề suất kiến nghị các biện pháp hữu hiệu để khắc phục hay hạn chế.
Nội dung biện pháp này được áp dụng với các dự án có hiệu quả cao hơn mức bình thường nhưng có nhiều yếu tố thay đổi do khách quan.
1.4. Nội dung thẩm định dự án đầu tư
(Dựa theo thông tư số 09 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, văn bản hướng dẫn thẩm định dự án đầu tư trong hệ thống Tổng cục Đầu tư Phát triển theo nghị quyết số 150 QĐ/ĐTPT/KH ngày 8-5-1996 của Tổng cục trưởng Tổng cục ĐTPT)
Tuỳ theo quy mô đầu tư, hình thức và nguồn vốn đầu tư, yêu cầu về nội dung quản lý của Nhà nước đối với nghiên cứu khả thi khác nhau vì vậy mức độ thẩm định dự án có sự khác biệt.
1.4.1. Thẩm định sự cần thiết và mục tiêu đầu tư của dự án
Cần đánh giá xem dự án có nhất thiết phải thực hiện không ? Tại sao phải thực hiện ? ( Xuất phát từ đòi hỏi cấp bách và thực tế của việc nâng cao số lượng, chất lượng sản phẩm, đảm bảo tính cạnh tranh, xuất khẩu, bảo vệ môi trường...).
Nếu được thực hiện thì dự án sẽ đem lại lợi ích gì cho chủ đầu tư, cho địa phương và nền kinh tế.
Mục tiêu cần đạt được của dự án là gì ? ( Hay chủ đầu tư mong đợi điều gì sau khi dự án hoàn thành và đi vào sản xuất ? )
Các mục tiêu của dự án có phù hợp với mục tiêu chung của ngành, của địa phương hay không ? dự án có thuộc diện nhà nước ưu tiên và khuyến khích đầu tư không ?
* Các điều kiện pháp lý để quyết định xét duyệt dự án bao gồm các văn bản và thủ tục sau:
Hồ sơ trình duyệt có đủ theo quy định và có hợp lệ hay không ?
Tư cách pháp nhân và năng lực của chủ đầu tư, gồm :
+ Quyết định thành lập, thành lập lại các doanh nghiệp nhà nước hoặc cấp giấy phép hoạt động với các thành phần kinh tế khác.
+ Người đại diện chính thức.
+ Năng lực kinh doanh : Chủ yếu thẩm định các văn bản thể hiện năng lực tài chính ( biểu hiện ở khả năng về nguồn vốn tự có, điều kiện thế chấp khi vay vốn
+ Địa chỉ liên hệ, giao dịch
Trong điều kiện dự án đầu tư của nước ngoài, cần có thêm các văn bản :
+ Bản cam kết thực hiện dự án nếu được phê duyệt.
+ Bản cam kết đã cung cấp thông tin chính xác về những vấn đề liên quan đến liên doanh
+ Một số văn bản về thoả thuận.
+ Bản cam kết tuân thủ luật pháp Việt Nam của phía nước ngoài.
1.4.2. Thẩm định nội dung tài chính của dự án :
* Thẩm định về tổng vốn đầu tư của dự án
Căn cứ vào bảng dự trù vốn,Ngân hàng cần kiểm tra mức vốn tương xứng với từng khoản mục chi phí có so sánh với quy mô công suất và khối lượng xây lắp phải thực hiện, số lượng chủng loại thiết bị cần mua sắm.Cần tính toán sát với nhu cầu thực tế.
Vấn đề đảm bảo về vốn lưu động khi đưa dự án vào hoạt động cũng cần đặc biệt chú ý vì nếu không đảm bảo nguồn này vốn đầu tư vào tài sản cố định sẽ không phát huy được tác dụng.
Điều đặc biệt có ý nghĩa trong thẩm định toàn bộ nội dung về tài chính là cán bộ thẩm định phải đảm bảo tính chính xác hợp lý và độ tin cậy của các số liệu đưa vào tính toán chứ không nên căn cứ vào số liệu sẵn có trong dự án một cách máy móc,dập khuôn...Thực chất chỉ là tính toán lại các phép tính mà chủ đầu tư đã làm.
* Thẩm định về nguồn vốn và sự đảm bảo của nguồn vốn tài trợ dự án.
Cần thẩm định rõ những nguồn nào đảm bảo cho dự án,với tỷ trọng mỗi nguồn là bao nhiêu (vốn tự có, vốn vay...).Tính đảm bảo của các nguồn vốn như thế nào.
Thẩm định về chi phí sản xuất ,doanh thu và thu nhập hàng năm của dự án.
Cần xác định giá thành của từng loại sản phẩm tương tự trên thị trường từ đó rút ra kết luận.
Doanh thu cần được xác định rõ từng nguồn dự kiến theo năm. Thông thường trong những năm đầu hoạt động, doanh thu đạt thấp hơn năm sau (50 - 60% doanh thu khi ổn định ).
Dự kiến lợi nhuận gộp và lợi nhuận ròng hàng năm (chi phí vận hành, doanh thu và lợi nhuận năm cần lập vào một bảng tổng hợp những chỉ tiêu chính để thấy mối quan hệ ).
Xác định dòng tiền hàng năm (tháng, quý )
Dòng tiền ròng = Thu nhập trong kỳ - Chi phí trong kỳ
Thu nhập trong kỳ : Gồm tất cả các khoản thu của dự án như doanh thu bán hàng, vốn đi vay, tiền thu của các hoạt động khác.
Chi phí trong kỳ : chi vốn đầu tư, chi vốn lưu động thường xuyên trả gốc và vốn vay Ngân hàng....
* Tính toán chỉ tiêu hiệu quả tài chính.
Để tính được các chỉ tiêu hiệu quả tài chính cần tính được chi phí sử dụng vốn đầu tư.
r=
m
S Ik*rk
k=1
-----------------
m
S Ik
k
Công thức :
Ik : Lượng vốn của nguồn thứ K
rk : Lãi suất tương ứng cho nguồn đó
m : Số nguồn vốn
* Tính toán chỉ tiêu thời gian hoàn vốn (PP)
Thời gian hoàn vốn giản đơn:
Công thức :
Tổng vốn đầu tư
THV = -----------------------------------
Lợi nhuận ròng + Khấu hao
Trong đó: THV là thời gian hoàn vốn giản đơn. Chỉ tiêu này cho phép tính toán nhanh nhưng không xét đến thời giá của đồng tiền nên tính chính xác thấp.
Thời gian hoàn vốn có chiết khấu
Thời gian hoàn vốn là khoảng thời gian cần thiết để cho thu nhập ròng từ dự án vừa đủ để bù đắp số vốn đầu tư ban đầu.
m m
S Bi(1+ r)-i - S Ci (1+ r)-i = 0
i =0 i =0
Công thức :
Dữ kiện khai thác : lấy từ bảng chi phí, doanh thu
Phương pháp tính : lập bảng
ý nghĩa :
T1 : cho biết sau bao lâu dự án sẽ có thu nhập đủ bù chi phí vốn đầu tư
T2 : là chỉ tiêu để xem xét ra quyết định đầu tư
Ưu và nhược điểm của phương pháp thời gian hoàn vốn chiết khấu :
Ưu điểm :
Rất đơn giản, dễ hiểu, dễ tính
Tiết kiệm chi phí do không phải dự tính ròng tiền ngoài thời gian hoàn vốn
Thu hồi vốn càng nhanh thì ròng quay vốn càng nhanh, lợi nhuận càng tăng .
Cho biết thời gian hoàn vốn để ra quyết định đầu tư,giảm thiểu rủi ro vì dữ kiện trong những năm đầu đạt độ tin cậy cao. Chỉ tiêu này được các doanh nghiệp vừa và nhỏ quan tâm nhiều.
Nhược điểm :
Không cho biết thu nhập lơn hay nhỏ sau kì hoàn vốn. Nếu 2 dự án có T1 = T2 thì rất khó lựa chọn (cần kết hợp với các chỉ tiêu khác ).
Có thể bỏ qua những dự án có lợi nhuận cao mà thời gian hoàn vốn dài
Đưa ra các chỉ tiêu mang tính chủ quan, cơ sở đưa ra không có được những con số rõ ràng.
* Tính toán chỉ tiêu NPV (Giá trị hiện tại ròng )
Phân tích tài chính dự án đầu tư là phân tích căn cứ trên các luồng tiền của dự án.Sau khi tính toán đến các yếu tố,chúng ta có thể xây dựng được một dãy các luồng tiền trong các năm của dự án như sau :
Năm 0 1 2 ..... t
Luồng tiền C0 C1 C2 .... Ct
Đối với dự án thông thường,C0 là chi phí đầu tư ban đầu,còn lại là luồng tiền ròng do dự án mang lại trong các năm hoạt động.Trên cơ sở các luồng tiền dự tính,các chỉ tiêu về tài chính được tính toán làm cơ sở cho việc quyết định đầu tư.
Giá trị hiện tại ròng (NPV) :Là chênh lệch giữa giá trị hiện tại của các luồng tiền dự tính dự án mang lại trong thời gian kinh tế của dự án và giá trị đầu tư ban đầu.Do vậy, chỉ tiêu này phản ánh giá trị tăng thêm (khi NPV dương )hoặc giảm đi (khi NPV âm) nếu dự án được chấp nhận.
Công thức : n Ci
NPV = - C0 + ồ -------------------
i=1 ( 1 + r ) i
Trong đó :
Ci là các luồng tiền ròng dự tính trong tương lai.
C0 là vốn đầu tư ban đầu
r là tỉ lệ chiết khấu
Xác định chính xác tỷ lệ chiết khấu của từng dự án đầu tư là việc làm không đơn giản. Có thể hiểu tỷ lệ chiết khấu là phần lợi nhuận thích hợp bù đắp rủi ro.
Giá trị hiện tại ròng đo lường phần giá trị tăng thêm dự tính dự án đem lại cho nhà đầu tư với mức rủi ro cụ thể của dự án. Khi NPV = 0 có nghĩa là thu nhập chỉ vừa đủ bù đắp cho giá trị theo thời gian của đồng tiền và rủi ro của dự án.
Điều kiện để dự án được lựa chọn theo NPV : NPV>0.
Dự tính vốn đầu tư ban đầu : Tức là luồng tiền tại thời điểm 0 (bắt đầu của năm thứ nhất C0).C0 là luồng tiền ra nên nó mang dấu âm.C0 bao gồm các khoản đầu tư vào tài sản,tạo ra tài sản của dự án.Nó có thể dưới dạng tiền sẵn sàng cho dự án hoạt động,tạo ra tồn kho,mua sắm tài sản cố định.Đó là các khoản chi tiêu cho dự án hoạt động.Trong thực tế, nó bao gồm các khoản chi tại các thời điểm khác nhau trong giai đoạn đầu của dự án.Để đơn giản trong tính toán,ta coi đó là các khoản chi tại một thời điểm ban đầu.
Dự tính các luồng tiền trong thời gian kinh tế của dự án(Ct).Đây là các khoản thực thu bằng tiền trong các năm hoạt động của dự án.Nó được tính bằng doanh thu ròng trừ đi các chi phí bằng tiền của từng năm,nhưng trong tính toán phân tích,người ta thường giả định các luồng tiền diễn ra vào thời điểm cuối năm.
Dự tính tỷ lệ chiết khấu : Rất khó để xác định một tỷ lệ chiết khấu hoàn toàn chính xác.Tỷ lệ chiết khấu là chi phí cơ hội của việc đầu tư vào dự án mà không đầu tư trên thị trường vốn.Tỷ lệ này thường được tính bằng tỷ lệ thu nhập của các tài sản tài chính tương đương.Đó là tỷ lệ thu nhập mà nhà đầu tư mong đợi khi đầu tư vào dự án.
ý nghĩa :
NPV phản ánh kết quả lỗ, lãi của dự án theo giá trị hiện tại (tại thời điểm 0) sau khi đã tính đến yếu tố chi phí cơ hội của vốn đầu tư. NPV dương có nghĩa là dự án có lãi.NPV = 0 có nghĩa là dự án chỉ đạt mức trang trải đủ chi phí vốn.Dự án có NPV âm là dự án bị lỗ.
Ưu và nhược điểm của phương pháp NPV:
Ưu điểm :
Tính đến giá trị thời gian của tiền (nếu tin tưởng i = 10% là chính xác thì NPV cũng chính xác).
Cho biết lợi nhuận của dự án đầu tư và giúp chủ đầu tư tối đa hoá lợi nhuận.
Nhược điểm :
Không tính đến sự khác nhau về thời gian hoạt động của các dự án.
Dùng chung lãi suất chiết khấu cho tất cả các dự án là không chính xác vì nếu xuất phát tại cùng một thời điểm cho các dự án thì chi phí cơ hội, lạm phát là giống nhau nhưng rủi ro đối với các dự án là khác nhau.
Chỉ cho biết lợi nhuận tuyệt đối của dự án đầu tư, hiệu quả đồng vốn so với vốn ban đầu .
* Tính toán chỉ tiêu Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR)
Ngoài mối quan tâm đến kết quả tuyệt đối của việc chấp nhận dự án, các chủ đầu tư có thể quan tâm đến tỷ lệ thu nhập bình quân các năm trên vốn đầu tư.Chỉ tiêu này cho phép có thể so sánh trực tiếp với chi phí của vốn đầu tư vào dự án.Đó chính là tỷ lệ nội hoàn.
Tỷ lệ nội hoàn (Tỷ suất nội hoàn ) :là tỷ lệ chiết khấu mà ứng với nó tổng giá trị hiện tại thu nhập bằng tổng giá trị hiện tại chi phí ( tức NPV = 0 ).
- Đối với một khoản đầu tư một kỳ ( năm ),tỷ lệ hoàn vốn nội bộ được tính bằng việc giải phương trình sau.
C1
NPV = C0 + ------------ = 0
1+ IRR
Đối với dự án đầu tư có thời gian T năm,công thức trên trở thành :
C1 C2 Ct
NPV = C0 + --------- + ----------- +... + -----------
1+ IRR (1+ IRR)2 (1+ IRR)t
- Phương pháp tính: Dùng nội suy toán học theo 3 bước sau:
+ Lập công thức tính NPV với r là ẩn số
+ Chọn r1 và r2 sao cho r2 > r1 và r 2 - r1 < 5%.
Thay vào để tìm NPV1và NPV2 sao cho NPV1 >0 và NPV2 <0
+ Dùng công thức nội suy toán học để tìm IRR.
NPV1
IRR = r1 + ( r2 - r1 ). ------------------
NPV1 - NPV2
ý nghĩa:
IRR cho biết khả năng sinh lợi của chính dự án đầu tư ( khả năng đem lại nguồn thu để cân bằng với vốn đầu tư và các chi phí bỏ ra ) do dó nó cũng cho biết chi phí vốn tối đa mà đự án có thể chịu đựng được.
Chọn dự án khi IRRdự án >MARR (Minimum Attractive Rate of Return)
MARR gọi là suất thu hồi tối thiểu._. hấp dẫn chủ yếu được chọn dựa vào kinh nghiệm của người chủ đâù tư hoặc ngân hàng thẩm định. Thông thường, MARR được lấy bằng chi phí thực của vốn đầu tư hoặc chi phí cơ hội. Trường hợp dự án được đầu tư bằng nhiều nguồn vốn thì MARR được tính theo phương pháp bình quân gia quyền.
Ưu và nhược điểm của phương pháp IRR :
Ưu điểm :
Chọn được những dự án có hiệu quả sử dụng một đồng vốn cao nhất ngay cả trường hợp số năm (n) của dự án là khác nhau và quy mô vốn đầu tư khác nhau.
Nhược điểm :
Cũng như NPV sự chính xác của chỉ tiêu phụ thuộc vào sự chính xác của những dự tính về luồng tiền.
IRR là chỉ tiêu mang tính tương đối ,vì rằng nó chỉ phản ánh tỷ lệ hoàn vốn nội bộ của dự án là bao nhiêu chứ không cung cấp quy mô của số lỗ hay lãi của dự án.
Khi dự án được lập trong nhiều năm, việc tính toán chỉ tiêu là rất phức tạp.Đặc biệt là loại dự án có các luồng tiền ròng vào ra xen kẽ nhau năm này qua năm khác, kết quả tính toán có thể cho nhiều IRR khác nhau gây khó khăn cho việc ra quyết định đầu tư.
Tuy nhiên, bên cạnh phương pháp IRR người ta cũng thường sử dụng phương pháp MIRR(phương pháp IRR điều chỉnh )
Phương pháp MIRR cho biết :Mỗi đồng vốn bỏ vào dự án thì sẽ có tỷ lệ sinh lời là bao nhiêu
Công thức :
n
MIRR = S CFt (1+i)n-t
t = 1
C0
* Phương pháp chỉ số doanh lợi ( Profitability Index - PI )
Chỉ số doanh lợi phản ánh tổng giá trị hiên tại được tính dựa vào mối quan hệ tỉ số giữa thu nhập ròng so với vốn đầu tư ban đầu. PI phản ánh khả năng sinh lời của dự án trên mỗi đơn vị tiền tệ được đầu tư.
PV
PI = ---------
P
Trong đó : PV là thu nhập hiện tại ròng PV = P + NPV
P là vốn đầu tư ban đầu
- Đối với các dự án độc lập phải lựa chọn dự án có PI >=1
- Đối với các dự án loại trừ phải lựa chọn dự án có PI >1 và PI max
Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp PI :
Ưu điểm :
Quyết định chấp nhận hay từ chối dự án tuỳ thuộc vào muc đích tối đa hoá lợi nhuận của chủ sở hữu.
Giả định tỷ lệ tái đầu tư do NPV đặt ra.
Nhược điểm :
Không đo lường được trực tiếp tác động của một dự án đối với lợi nhuận của chủ sở hữu.
Xếp hạng các dự án không dựa trên mục tiêu tối đa hoá thu nhập của cổ đông.
1.4.3. Thẩm định về khả năng trả nợ cho ngân hàng.
Xuất phát từ quan điểm của tín dụng là bên vay vốn (chủ đầu tư ) phải hoàn trả Ngân hàng đầy đủ và đúng hạn số vốn gốc và lãi vay để NHTM có thể trả lại cho bên được huy động vốn hoặc cho vay đối với dự án khác. Trong quá trình thẩm định DAĐT, NHTM đặc biệt quan tâm đến khả năng hoàn trả của chủ đầu tư khi đến kỳ hạn trả nợ. Khả năng trả nợ cuả một Doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Dự án đang xin vay là dự án đầu tư mới hay đầu tư chiều sâu, nguồn trả nợ chủ yếu trông đợi vào khả năng sản xuất kinh doanh của dự án hay còn có những nguồn bổ sung nào khác.
Hiện nay, các NHTM đang xác định mức trả nợ từng lần theo công thức sau:
Tổng số nợ gốc phải trả
Số kỳ trả nợ dự kiến = ---------------------------------
Số gốc trả mỗi kỳ
Tổng số nợ gốc phải trả
Số kỳ trả nợ dự kiến = -------------------------------------------------------------
Lợi nhuận ròng + KHCB tài sản CĐ + Các nguồn
dành trả nợ từ vốn vay khác
Từ công thức trên, nếu sau khi đã dự kiến số kỳ trả nợ và biết tổng số nợ gốc phải trả mỗi kỳ, NHTM có thể so sánh cân đối các nguồn thu từ dự án như lợi nhuận ròng, khấu hao cơ bản tài sản cố định và các nguồn khác xem khả năng trả nợ có đảm bảo không.
Việc phân tích dòng tiền ròng hàng năm của DAĐT sẽ cho ta biết nhiều thông tin quan trọng về khả năng trả nợ ngân hàng của DAĐT.
1.4.4. Phương pháp SWOT
SWOT ( strengths and weaknesses, opportunities and threats ) là phương pháp đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu, những cơ hội của doanh nghiệp và những thách thức đối với doanh nghiệp dựa trên những yếu tố nội tại bên trong doanh nghiệp và những yếu tố bên ngoài có ảnh hưởng đến sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp để lên kế hoạch đầu tư dài hạn.
Nhân tố liên quan đến phương pháp SWOT bao gồm một loạt các yếu tố có thể làm tăng hoặc giảm năng lực hoạt động của doanh nghiệp như độ lớn của thị trường, sự cạnh tranh, cơ hội cho sản phẩm mới của doanh nghiệp, nguồn lao động với tay nghề cao, vấn đề quản lý nguyên liệu thô...
Quy trình thẩm định sẽ đưa ra nhiều câu hỏi và ngân hàng cần sắp xếp những thông tin thu thập được thành “ bản tóm tắt về doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh trên thị trường”. Sau đó, ngân hàng cần tiến hành:
- Đánh giá điểm mạnh và yếu của doanh nghiệp: Từ bản tóm tắt trên. Ngân hàng có thể đánh giá khả năng thực sự của doanh nghiệp, độ linh hoạt trong quản lý và xác định xem môi trường, lĩnh vực mà doanh nghiệp hoạt động có tốt hay không.
- Đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp: Nhiệm vụ của thẩm định là phải lập được bản tóm tắt sơ bộ về các đối thủ cạnh tranh chính của doanh nghiệp trên thị trường, thông qua đó, ngân hàng sẽ tiến hành so sánh xem doanh nghiệp trội hơn ở lĩnh vực nào và kém đối thủ cạnh tranh ở những điểm nào.
- Đánh giá những cơ hội và thách thức đối với Doanh nghiệp: Yêu cầu đặt ra đối với ngân hàng khi thẩm định là phải lập bản nhận xét về năng lực của doanh nghiệp ( xét trong môi trường đang hoạt động và trong nền kinh tế nói chung) để có giải pháp, phương hướng giúp doanh nghiệp chuyển hướng đầu tư hoặc làm ăn có hiệu quả hơn.
Thông qua những đánh giá trên, ngân hàng sẽ chỉ ra những chiến lược đầu tư nhằm phát huy điểm mạnh và hạn chế những điểm yếu của doanh nghiệp. Theo phương pháp này, ngân hàng cần xếp hạng khách hàng dựa vào mức độ rủi ro trong lĩnh vực kinh doanh. Đối với rủi ro phi hệ thống, ta có thể loại trừ bằng phương pháp đa dạng hoá. Tuy nhiên, để đo mức rủi ro có hệ thống, ta dùng hệ số bê ta ( b ). Hệ số b cho biết mức độ rủi ro có hệ thống của một tài sản cụ thể nào đó so với mức rủi ro có hệ thống bình quân của một tài sản là bao nhiêu. Như vậy, ta có thể tính được b cho danh mục đầu tư và mức doanh lợi dự kiến.
b = b1r1 + b2r2 +...... + bvrn
E(R) = E (R1). r1 + E (R2). r2 +..... + E (Rn).rn
Với : r1 + r2 +.....rn = 1
Trong đó :
b1: Mức độ rủi ro có hệ thống của tài sản i so với mức độ rủi ro có hệ thống bình quân cho một tài sản.
ri : Trọng số của danh mục đầu tư i.
E(Ri) : Doanh lợi dự kiến của tài sản thứ i.
Căn cứ vào mức rủi ro và doanh lợi dự kiến, ngân hàng sẽ có được mức lãi suất cho vay hợp lý - phần thưởng cho sự rủi ro mạo hiểm của quyết định đầu tư.
Tựu trung lại SWOT sẽ giúp Ngân hàng dự báo được một cách chính xác những tác động của dự án khi quyết định đầu tư được thực thi bao gồm:
- Dòng tiền của dự án.
- Giá trị tài sản, thu nhập và lợi nhuận.
- Sự thay đổi các dòng tiền và lợi nhuận.
Trong đó, các chỉ tiêu NPV, IRR, PP cần được tính toán với một tỷ lệ chiết khấu thích hợp.
Ngoài các nội dung trên, khi thẩm định tài chính dự án đầu tư, các ngân hàng còn tiến hành phân tích tài chính doanh nghiệp xin vay. Có rất nhiều phương pháp dùng để phân tích tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên đối với các ngân hàng thì phương pháp tỷ lệ được coi là có hiệu quả và được áp dụng rộng rãi nhất.
* Tỷ lệ về khả năng thanh toán : Dùng để đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp.
Tài sản lưu động
Khả năng thanh toán hiện hành : = ------------------------
Nợ ngắn hạn
Tỷ lệ này > 1 là tốt, tuy nhiên nếu > tỷ lệ trung bình ngành thì chứng tỏ doanh nghiệp bị ứ đọng vốn.
Tài sản lưu động - Dự trữ
Khả năng thanh toán nhanh = --------------------------------
Nợ ngắn hạn
Tỷ lệ này phản ánh khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp mà không phụ thuộc vào việc bán các tài sản dự trữ, tồn kho. Tỷ lệ này > 1 là tốt.
Tiền + Chứng khoán ngắn hạn
Khả năng thanh toán tức thời = ------------------------------------
Nợ ngắn hạn
* Tỷ lệ về khả năng cân đối vốn: Nhóm chỉ tiêu này phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp.
Nợ
Hệ số nợ = -------------
Tổng tài sản
Hệ số này càng nhỏ càng tốt, nó phản ánh khả năng trả được nợ khi doanh nghiệp có nguy cơ phá sản.
Vốn tự có
Khả năng độc lập về tài chính = -----------------
Vay dài hạn
Hệ số này phải ³ 1. Đối với các dự án có triển vọng thì hệ số này khoảng 2/3.
Tỷ trọng vốn tự có trên tổng vốn đầu tư : Phản ánh khả năng độc lập về tài chính của doanh nghiệp.
* Tỷ lệ khả năng họat động : Là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho việc sử dụng tài nguyên, nguồn lực của doanh nghiệp.
Doanh thu thuần
Vòng quay của tiền = -----------------------------------
Tiền+ Chứng khoán ngắn hạn
Doanh thu thuần
Vòng quay dự trữ = ----------------------
Dự trữ
Doanh thu thuần
Hệ số sử dụng TSCĐ = ------------------------
TSCĐ
Doanh thu thuần
Hệ số sử dụng tài sản = ---------------------
Tổng tài sản
Tùy theo mục đích của phân tích tài chính hay tuỳ thuộc vào đặc điểm ngành nghề mà doanh nghiệp hoạt động, đặc điểm của dự án mà các ngân hàng sẽ chú trọng vào tỷ lệ này hay tỷ lệ khác.
Do một dự án chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau như : Về phương diện kỹ thuật của dự án,tác động của môi trường kinh tế - xã hội,văn hoá, pháp luật.... mà hoạt động của Ngân hàng chỉ trong một khuôn khổ nhất định, do đó không thể thẩm định được hết tất cả các yếu tố tác động đến dự án mà chỉ chủ yếu phân tích các yếu tố tài chính của dự án.
1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định dự án đầu tư
Hoạt động thẩm định dự án đầu tư bị tác động bởi nhiều nhân tố, muốn chất lượng của hoạt động này được nâng cao, các ngân hàng phải xem xét hết sức kỹ lưỡng để phát huy các mặt tích cực đồng thời hạn chế các mặt tiêu cực của các nhân tố ảnh hưởng này.
1.5.1. Nhân tố chủ quan :
* Con người :
Cán bộ của ngân hàng chính là những người trực tiếp tiến hành thẩm định dự án đầu tư. Chất lượng của đội ngũ nhân viên ngân hàng có ảnh hưởng đến việc qui trình nghiệp vụ thẩm định có được thực hiện đúng và đạt chất lượng cao hay không. Thẩm định dự án là việc đưa ra quyết định đầu tư trên quan điểm cá nhân nhưng chất lượng thẩm định lại ảnh hưởng đến tài sản của toàn ngân hàng. Nếu như ngân hàng có đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực và kinh nghiệm thì quyết định đầu tư tuy chỉ dựa trên quan điểm cá nhân cũng chính xác và hiệu quả hơn. Mặt khác, tư cách đạo đức tốt cũng là điều kiện cần cho cán bộ thẩm định dự án nhằm hạn chế rủi ro đạo đức trong ngân hàng.
Nhân tố con người luôn chi phối mọi hoạt động trong quy trình nghiệp vụ thẩm định dự án từ khâu tiếp nhận hồ sơ xin vay, thu thập, xử lý thông tin cho đến khi cho vay và thu nợ. Vì vậy, trong hoạt động thẩm định dự án thì nhân tố con người luôn đóng vai trò quyết định, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thẩm định dự án.
* Thông tin
Trong qúa trình thẩm định dự án, ngân hàng phải tiến hành thu thập các tài liệu, thông tin cần thiết cho phân tích, đánh giá doanh nghiệp, dự án và tiến hành sắp xếp thông tin, sử dụng các phương pháp xử lý thông tin một cách hợp lý theo các nội dung của qui trình thẩm định. Bên cạnh các thông tin về dự án, doanh nghiệp do chủ đầu tư cung cấp, để việc thẩm định tiến hành một cách chủ động, có những đánh giá khách quan, chính xác hơn thì khả năng tiếp cận, thu nhận và xử lý thông tin trong ngân hàng đóng vai trò quyết định.
Thông thường để thuận lợi cho việc đi vay, các dự án xin vay mà chủ dự án hoặc doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng đều mang tính khả thi và mang tính chủ quan của người lập. Nếu ngân hàng chỉ căn cứ vào những thông tin này thì ngân hàng cũng không thể có được thông tin chính xác cho dự án bởi thông tin như vậy chỉ mang tính một chiều. Sự thiếu hụt thông tin sẽ khiến cho việc thẩm định có chất lượng không tốt hoặc không thể tiến hành thẩm định được, những thông tin không cân xứng sẽ dẫn tới sự lựa chọn đối nghịch, gây thiệt hại cho ngân hàng. Do vậy, việc thiết lập một hệ thống thông tin đầy đủ, chính xác luôn được đặt ra như một yêu cầu cấp thiết đối với công tác thẩm định.
* Phương pháp thẩm định
Với nguồn thông tin có được, công việc của cán bộ thẩm định là làm thế nào, lựa chọn phương pháp nào để thẩm định dự án là rất quan trọng. Mỗi dự án có một đặc trưng nhất định, không phải bất cứ dự án nào cũng có thể áp dụng được tất cả các chỉ tiêu trong hệ thống để thẩm định. Việc sử dụng phương pháp nào cho thích hợp với từng dự án phụ thuộc vào khả năng nhanh nhậy của ngân hàng. Song dù cho áp dụng phương pháp nào đi nữa thì các ngân hàng đều phải quan tâm đến giá trị thời gian của tiền bởi đồng tiền hôm nay luôn có giá trị khác trong tương lai. Tuổi thọ của dự án càng cao thì việc xác định một tỷ lệ chiết khấu là vô cùng quan trọng. Để xác định một tỷ lệ chiết khấu hợp lý người ta thường căn cứ vào lãi suất trái phiếu kho bạc Nhà nước và tỷ lệ rủi ro. Tuy nhiên, trong điều kiện biến động của thị trường thì cần xem xét dự án trong cả trạng thái tĩnh và trạng thái động, cần phân tích độ nhạy của dự án va điều chỉnh tỷ lệ chiết khấu theo rủi ro mà sự biến động này mang lại.
* ứng dụng công nghệ tin học :
Cùng với tốc độ phát triển nhanh của công nghệ tin học, các ngân hàng không ngừng hiện đại hoá hệ thống thông tin của mình. Hệ thống công nghệ thông tin trong ngân hàng ngày càng đa dạng và phức tạp. Đến nay, hầu hết các nghiệp vụ ngân hàng đều được xử lý và lưu trữ thông qua các phương tiện điện tử. Với các phần mềm chuyên dụng cho ngành ngân hàng, cán bộ thẩm định có thể truy cập, xử lý một khối lượng thông tin lớn nhưng vẫn tiết kiệm được thời gian. Hơn nữa, với sự trợ giúp của máy tính hiện đại cùng các chương trình thẩm định mới, hiệu quả, các cán bộ tín dụng có thể dự đoán chính xác hơn về dự án, giảm được các rủi ro phát sinh qua công đoạn xử lý bằng tay. Nếu như có một mạng nội bộ hoạt động trên một giao diện rộng chất lượng thẩm định sẽ được nâng cao trong tất cả các giai đoạn của quá trình cho vay.
* Tổ chức điều hành :
Thẩm định dự án đầu tư là tập hợp của nhiều hoạt động có liên quan chặt chẽ với nhau. Hoạt động thẩm định bao trùm cả 3 giai đoạn trước, trong và sau khi cho vay nên việc phân cấp điều hành là rất cần thiết để các bước được thực hiện trong một qui trình khép kín, tránh tình trạng làm việc không khoa học. Mặt khác, phương thức điều hành hợp lý của Ban lãnh đạo ngân hàng có thể phát huy năng lực của từng cán bộ thẩm định. Việc phân định mức phán quyết cho từng chi nhánh ngân hàng, cách thức điều hành hoạt động thẩm định tốt sẽ góp phần làm giảm thời gian thẩm định nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả trong việc ra quyết định đầu tư.
1.5.2. Nhân tố khách quan
* Điều kiện kinh tế - xã hội :
Tình trạng kinh tế - xã hội cũng là một nhân tố tác động không nhỏ đến chất lượng thẩm định dự án trung và dài hạn của ngân hàng. Nếu như nền kinh tế ổn định, tăng trưởng trong thời gian của dự án thì nó sẽ không gây ra những sai sót hoặc những sai sót không nhiều trong tính toán của người thẩm định và dự án sẽ khả thi như tính toán. Ngược lại nếu như nền kinh tế không ổn định, suy thoái, có lạm phát hay xảy ra khủng hoảng kinh tế... thì nó sẽ ảnh làm sai lệch các chỉ tiêu so với tính toán của các nhà thẩm định đặc biệt là trong thẩm định tài chính của dự án,chỉ tiêu tỷ số chiết khấu sẽ bị sai lệch hoàn toàn do những dự tính sai lệch về tỷ lệ lạm phát, chi phí cơ hội....
* Điều kiện tự nhiên :
Cũng như các nhân tố trên, điều kiện tự nhiên là một nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định dự án đầu tư. Cụ thể : nếu điều kiện tự nhiên không thuận lợi nó sẽ ảnh hưởng đến thời gian thực thi dự án, thời gian hoàn thành dự án... hoặc thậm tệ hơn như trường hợp xảy ra lũ, lụt... có thể gây ra cho dự án không thể thực hiện được nữa hoặc hao tổn về vật chất, kỹ thuật, công nghệ của dự án.... Làm cho việc tính toán trước khi thực hiện dự án sai lệch hoàn toàn. Ngoài ra còn rất nhiều các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định dự án đầu tư như : sự cạnh tranh giữa các ngành, chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước....
Chương 2
Thực trạng vấn đề thẩm định dự án đầu tư của NHN0 & PTNT Hà nội
2.1. Tổng quan về NHN0 & PTNT Hà nội
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông Hà nội là một chi nhánh trực thuộc NHNo & PTNT Việt nam,đặt trụ sở tại 77 Lạc Trung -Quận Hai Bà Trưng -Hà nội.Phạm vi hoạt động trên toàn địa bàn Hà nội.
Theo quyết định số 51,ngày 27/06/1988 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt nam, NHNo & PTNT Việt nam ra đời đã đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế, kiềm chế lạm phát,ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước...Với quy mô hoạt động trên 2564 chi nhánh ngân hàng từ tỉnh đến huyện NHNo & PTNT đóng vai trò vô cùng quan trọng.Đặc biệt NHNo & PTNT Hà nội là một trong 2564 chi nhánh của NHNo & PTNT Việt nam.Đóng vai trò tạo lập vốn,cung cấp các hình thức dịch vụ ngân hàng,đáp ứng các nhu cầu tín dụng của các thành phần kinh tế trên địa bàn,góp phần thực hiện các mục tiêu,chương trình,giải pháp của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đề ra,định hướng phát triển kinh doanh của NHNo & PTNT Việt nam và công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà Đảng ta đã đề ra.
NHNo & PTNT Hà nội có tên giao dịch quốc tế như sau : “ Vietnam Bank For agriculture and Rural Developtment - Ha noi
Ngày 27/06/1988 NHNo & PTNT Hà nội được thành lập đóng vai trò quản lý các ngân hàng cấp huyện thuộc địa bàn Hà nội dựa trên các văn bản của thành uỷ và cơ quan cấp trên,đồng thời đóng vai trò là một tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng.
Tháng 9 năm 1991,Quốc hội yêu cầu tách tỉnh và quy hoạch 7 huyện thành cấp tỉnh, NHNo & PTNT Hà nội được giao quản lý 5 huyện : Từ Liêm,Đông Anh,Sóc Sơn, Thanh Trì, Gia Lâm.Với chức năng quản lý này, vai trò phát triển nông nghiệp và nông thôn bị thu hẹp,ngân hàng chủ yếu phục vụ các doanh nghiệp và hộ nông dân trên địa bàn (Dự án nuôi bò sữa ở Gia Lâm, VAC ở Đông Anh ).
Năm 1995 NHN0 & PTNT đã hoàn thiện mô hình tổ chức với hoạt động thí điểm quản lý theo mô hình 2 cấp tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà nội,theo đó các chi nhánh cấp huyện chịu sự quản lý của NHN0 & PTNT Việt nam, NHN0 & PTNT Hà nội chỉ quản lý các chi nhánh ở các quận nội thành (chi nhánh Ngân hàng cấp 2). Các ngân hàng cấp 2 này thực chất là các cơ sở giao dịch được thành lập làm tăng khả năng quy mô hoạt động của ngân hàng.Hoạt động thí điểm này đã tạo nên một bước ngoặt,một hình thức quản lý của NHN0 & PTNT Hà nội.Từ chủ yếu tập trung kinh doanh ở ngoại tỉnh chuyển về tập trung kinh doanh ở nội thành với một cơ cấu tổ chức bao gồm các phòng ban và ngân hàng cấp 3.
Những năm vừa qua, NHN0 & PTNT Hà nội đã có những hoạt động tích cực trong việc cơ cấu lại bộ máy quản lý cũng như các phòng ban.Hiện nay, với một mô hình tổ chức hợp lý,Ngân hàng đã tập trung vào việc phát huy vai trò và năng lực của từng bộ phận cũng như từng cá nhân trong việc thúc đẩy hoạt động của ngân hàng ngày càng phát triển.Đội ngũ cán bộ được trẻ hoá và có trình độ chuyên môn cao, nghiệp vụ vững vàng,100% cán bộ ngân hàng có trình độ tương đương Đại học, Đại học và trên Đại học.
Hiện tại, NHN0 & PTNT Hà nội có 7 phòng ban ;1 giám đốc, 2 phó giám đốc và 108 nhân viên.Ngoài ra, NHN0 & PTNT còn có 8 chi nhánh trực thuộc trên địa bàn các quận Cầu Giấy,Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Tây Hồ, Thanh Xuân, Ba Đình, Đống Đa và khu vực Tam Trinh với 118 cán bộ, nhân viên
2.1.2. Chức năng,nhiệm vụ của NHNo & PTNT Hà nội
* Chức năng :
+ Trực tiếp kinh doanh trên địa bàn theo phân cấp của NHNo & PTNT
+ Tổ chức điều hành kinh doanh và kiểm tra, kiểm toán nội bộ theo quyền của Tổng giám đốc NHNo & PTNT Việt nam
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác được giao và lệnh của Tổng giám đốc NHNo & PTNT Việt nam.
* Nhiệm vụ :
- Huy động vốn :
+ Khai thác và nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn,có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán của các tổ chức,cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước bằng đồng việt nam hoặc ngoại tệ.
+ Phát hành chứng chỉ tiền gửi,trái phiếu,kỳ phiếu ngân hàng và thực hiện các hình thức huy động vốn khác theo quy định của NHNo & PTNT.
+ Tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ,vốn uỷ thác của Chính phủ, Chính quyền địa phương và các Tổ chức kinh tế,Cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của NHNo & PTNT
+ Được phép vay vốn các Tổ chức tài chính, tín dụng trong nước khi Tổng giám đốc NHNo & PTNT Việt nam cho phép..
- Cho vay :
+ Cho vay ngắn, trung và dài hạn bằng đồng Việt nam,ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế.
+ Cho vay ngắn, trung và dài hạn bằng đồng Việt nam đối với các cá nhân, hộ gia đình
thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Kinh doanh ngoại hối : Huy động vốn, cho vay,mua bán ngoại tệ,thanh toán quốc tế và các dịch vụ khác về ngoại hối theo chính sách quản lý ngoại hối của Chính phủ,Ngân hàng Nhà nước và NHNo & PTNT Việt nam.
- Kinh doanh dịch vụ : Thu, chi tiền mặt ; Mua bán vàng,bạc ;Máy rút tiền tự động ;Dịch vụ thẻ tín dụng ;Két sắt ; Nhận cất trữ ; Chiết khấu các loại giấy tờ có giá,thẻ thanh toán ;Nhận uỷ thác cho vay của các Tổ chức tài chính,tín dụng, Cá nhân trong và ngoài nước ; Các dịch vụ ngân hàng khác được Ngân hàng Nhà nước,Ngân hàng Nông nghiệp Việt nam cho phép.
- Cân đối, điều hoà vốn kinh doanh nội tệ đối với các chi nhánh NHNo & PTNT trực thuộc trên địa bàn.
- Thực hiện hạch toán kinh doanh và phân phối thu nhập theo quy định của NHNo & PTNT Viêt nam.
- Thực hiện đầu tư dưới các hình thức như : hùn vốn, liên doanh,mua cổ phần và các hình thức đầu tư khác với các Doanh nghiệp, Tổ chức kinh tế khác khi được NHNo & PTNT Việt nam cho phép.
- Quản lý nhà khách, nhà nghỉ và đào tạo tay nghề trên địa bàn (Nếu được Tổng giám đốc Ngân hàng nông nghiệp giao.)
- Thực hiện công tác tổ chức cán bộ,đào tạo,thi đua,khen thưởng theo phân cấp uỷ quyền của NHNo & PTNT.
- Thực hiện kiểm tra,kiểm toán nội bộ việc chấp hành thể lệ, chế độ nghiệp vụ trong phạm vi địa bàn theo quy định của NHNo & PTNT Việt nam.
- Tổ chức phổ biến, hướng dẫn và triển khai thực hiện các cơ chế,quy trình nghiệp vụ và văn bản pháp luật của Nhà nước, Ngành ngân hàng và ngân hàng nông nghiệp liên quan đến hoạt động của các chi nhánh NHNo & PTNT.
- Nghiên cứu, phân tích kinh tế liên quan đến hoạt động tiền tệ ,tín dụng và đề ra kế hoạch kinh doanh phù hợp với kế hoạch kinh doanh của NHNo & PTNT và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội địa phương.
- Chấp hành đầy đủ các báo cáo,thống kê theo chế độ quy định và theo yêu cầu đột xuất của Tổng giám đốc NHNo & PTNT Việt nam.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác được Tổng giám đốc NHNo & PTNT Việt nam giao.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức
* Giám đốc :
- Giám đốc NHN0 & PTNT Hà nội do chủ tịch hội đồng quản trị NHN0 & PTNT Việt Nam bổ nhiệm, là người trực tiếp điều hành mọi hoạt động Ngân hàng
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Giám đốc :
+ Trực tiếp tổ chức điều hành hoạt động của chi nhánh ;chỉ đạo, điều hành theo phân cấp uỷ quyền của NHN0 Việt nam đối với các chi nhánh NHN0 & PTNT trực thuộc trên địa bàn
+ Thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình theo uỷ quyền của Tổng giám đốc NHN0 & PTNT về các mặt nghiệp vụ liên quan đến kinh doanh ; Chịu trách nhiệm trước pháp luật và Tổng giám đốc NHN0 & PTNT Việt nam về các quyết định của mình.
+ Quy định nhiệm vụ, nội dung làm việc cho các phòng nghiệp vụ.
+ Đề nghị Tổng giám đốc NHN0 Việt nam :
Quyết định thành lập, sáp nhập, giải thể các chi nhánh NHN0 & PTNT loại III trực thuộc trên địa bàn.
Quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật các chức danh phó giám đốc, trưởng phòng kế toán, kiểm tra trưởng các chi nhánh NHN0 & PTNT loại I, II.
+ Quyết định những vấn đề về tổ chức, cán bộ và đào tạo.
+ Ký kết các hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp tài sản và hợp đồng khác có liên quan đến hoạt động kinh doanh Ngân hàng theo quy định.
+ Đại diện Tổng giám đốc NHN0 Việt nam khởi kiện, công chứng, giải quyết tranh chấp tham gia tố tụng trước toà án....
* Phó Giám đốc :
- Giúp việc cho Giám đốc là hai Phó Giám đốc, do Tổng giám đốc NHN0 & PTNT Việt nam quyết định bổ nhiệm.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Phó Giám đốc :
+ Thay mặt Giám đốc điều hành một số công việc khi Giám đốc vắng mặt và báo cáo lại kết quả công việc khi Giám đốc có mặt tại đơn vị.
- Giúp Giám đốc chỉ đạo,điều hành một số nghiệp vụ do Giám đốc phân công phụ trách và chịu trách nhiệm trước Giám đốc về các quyết định của mình.
- Bàn bạc và tham gia ý kiến với Giám đốc trong việc thực hiện các nghiệp vụ của ngân hàng theo nguyên tắc tập trung dân chủ về chế độ thủ trưởng.
* Hội đồng tín dụng :
NHN0 & PTNT Hà nội thành lập Hội đồng tín dụng với nhiệm vụ xem xét việc giải trình của các thành viên, kiểm soát trước về mặt pháp lý của dự án và tham gia ý kiến để Giám đốc ra quyết định đối với :
+ Các dự án vay vốn trong và ngoài nước
+ Các dự án đầu tư (cả nội tệ và ngoại tệ) vượt quyền phán quyết
+ Các dự án thí điểm
+ Bảo lãnh khách hàng
+ Phân loại khách hàng
Thành phần của Hội đồng tín dụng
- Các thành viên cố định :
+ Giám đốc chi nhánh làm Chủ tịch Hội đồng tín dụng
+ Phó giám đốc phụ trách tín dụng
+ Trưởng phòng Kinh doanh trực tiếp thẩm định dự án
+ Trưởng phòng Kế toán
+ Trưởng phòng Ngân quỹ
+ Trưởng phòng Kế hoạch
+ Cán bộ trực tiếp làm công tác thông tin phòng ngừa rủi ro
- Thư ký Hội đồng tín dụng
Việc thành lập Hội đồng tín dụng đã góp phần nâng cao độ an toàn trong quá trình cấp tín dụng của Ngân hàng cũng như chất lượng tín dụng
Ban giám đốc
Phòng Kiểm soát
Phòng Ngân qũy
Phòng Kế toán
Phòng Thanh toán quốc tế
Phòng Kinh doanh
Phòng Hành chính nhân sự
Phòng Kế hoạch
Sơ đồ cơ cấu tổ chức Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà nội
2.1.4 Nhiệm vụ của các phòng ban
* Phòng Kế hoạch
- Nghiên cứu,đề xuất chiến lược khách hàng, chiến lược huy động vốn trên địa bàn thành phố Hà nội
- Xây dựng kế hoạch kinh doanh ngắn, trung và dài hạn theo định hướng kinh doanh của NHN0 & PTNT Việt nam.
- Tổng hợp, theo dõi các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh và quyết toán kế hoạch đến các chi nhánh NHN0 & PTNT trên địa bàn
- Cân đối nguồn vốn,sử dụng vốn và điều hoà vốn kinh doanh đối với các chi nhánh NHN0 & PTNT trên địa bàn
- Tổng hợp, phân tích hoạt động kinh doanh quý, năm và dự thảo các báo cáo sơ kết, tổng kết
- Đầu mối thực hiện thông tin phòng ngừa rủi ro và xử lý rủi ro tín dụng
* Phòng Hành chính nhân sự
- Xây dựng chương trình công tác hàng tháng, quý của chi nhánh và có trách nhiệm thường xuyên đôn đốc việc thực hiện chương trình đã được Giám đốc phê duyệt
- Xây dựng và triển khai chương trình giao ban nội bộ chi nhánh và các chi nhánh NHN0 & PTNT trực thuộc. Trực tiếp làm thư ký tổng hợp cho Giám đốc.
- Tư vấn pháp chế trong việc thực thi các nhiệm vụ cụ thể về giao kết hợp đồng, hoạt động tố tụng, tranh chấp dân sự, hình sự, kinh tế liên quan đến cán bộ, nhân viên và tài sản của chi nhánh
- Lưu trữ các văn bản pháp luật có liên quan đến ngân hàng và văn bản định chế của NHN0 & PTNT Việt nam.
- Đầu mối giao tiếp với khách hàng đến làm việc,công tác tại chi nhánh.
- Trực tiếp quản lý con dấu của chi nhánh, thực hiện công tác hành chính, văn thư, lễ tân, phương tiện giao thông, bảo vệ, y tế của chi nhánh.
- Thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền, quảng cáo, tiếp thị theo chỉ đạo của Ban lãnh đạo chi nhánh.
- Thực hiện công tác xây dựng cơ bản, sửa chữa tài sản cố định.
- Quy định lề lối làm việc trong đơn vị và xây dựng mối quan hệ với tổ chức Đảng, Công đoàn,chi nhánh trực thuộc trên địa bàn
- Thực hiện công tác quy hoạch cán bộ, đề xuất cử cán bộ, nhân viên đi công tác, học tập trong và ngoài nước.
- Đề xuất hoàn thiện và lưu trữ hồ sơ theo đúng quy định của Nhà nước, Đảng, ngành ngân hàng trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm,khen thưởng, kỷ luật cán bộ, nhân viên trong phạm vi phân cấp uỷ quyền của Tổng giám đốc NHN0 & PTNT Việt nam
- Quản lý hồ sơ của cán bộ thuộc chi nhánh và hoàn tất hồ sơ, chế độ đối với cán bộ nghỉ hưu, nghỉ chế độ theo quy định của Nhà nước và của ngành ngân hàng
- Thực hiện công tác thi đua, khen thưởng của chi nhánh
- Chấp hành công tác báo cáo thống kê, kiểm tra chuyên đề
* Phòng thanh toán quốc tế
- Thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT
- Chuyển tiền với nước ngoài (bao gồm cả chuyển tiền đi và chuyển tiền đến)
- Thanh toán biên giới
* Phòng kinh doanh
- Nghiên cứu,xây dựng chiến lược khách hàng tín dụng,phân loại khách hàng và đề xuất các chính sách ưu đãi đối với từng loại khách hàng nhằm mở rộng theo hướng đầu tư tín dụng khép kín, sản xuất, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu
- Phân tích kinh tế theo ngành, nghề kỹ thuật, danh mục khách hàng để lựa chọn biện pháp cho vay an toàn và đạt hiệu quả cao
- Thẩm định và đề xuất cho vay các dự án tín dụng theo phân cấp uỷ quyền
- Thẩm định các dự án, hoàn thiện hồ sơ trình NHN0 & PTNT cấp trên theo phân cấp uỷ quyền
- Tiếp nhận và thực hiện các chương trình, dự án thuộc nguồn vốn trong và ngoài nước. Trực tiếp làm dịch vụ uỷ thác nguồn vốn thuộc Chính phủ, Bộ, Ngành và các Tổ chức kinh tế, Cá nhân trong và ngoài nước.
- Xây dựng và thực hiện các mô hình tín dụng thí điểm, thử nghiệm trong địa bàn, đồng thời theo dõi, đánh giá sơ kết, tổng kết, đề xuất Tổng giám đốc cho phép nhân rộng.
- Thường xuyên phân loại dư nợ, phân tích nợ quá hạn, tìm nguyên nhân và đề xuất hướng khắc phục
- Giúp giám đốc chi nhánh chỉ đạo, kiểm tra hoạt động tín dụng của các chi nhánh trực thuộc trên địa bàn.
- Tổng hợp, báo cáo, kiểm tra chuyên đề theo quy định.
* Phòng Kế toán
- Trực tiếp hạch toán kế toán, hạch toán thống kê và thanh toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và NHN0 & PTNT Việt nam.
- Xây dựng chỉ tiêu kế hoạch tài chính, quyết toán kế hoạch thu, chi tài chính, quỹ tiền lương đối với các chi nhánh NHN0 & PTNT trên địa bàn trình NHN0 & PTNT Việt nam phê duyệt.
- Tổng hợp,lưu trữ hồ sơ tài liệu về hạch toán, kế toán, quyết toán và các báo cáo theo quy định.
- Thực hiện nghiệp vụ thanh toán trong nước, bao gồm các bộ phận thanh toán qua ngân hàng bằng nội tệ, thanh toán bù trừ, thanh toán liên ngân hàng
- Quản lý,sử dụng thiết bị thông tin, điện toán phục vụ nghiệp vụ kinh doanh theo quy định chung
* Phòng Ngân quỹ
- Quản lý và sử dụng các quỹ chuyên dùng theo quy định của NHN0 & PTNT Việt nam
- Thực hiện các khoản nộp Ngân sách Nhà nước theo quy định.
Chấp hành quy định về an toàn kho quỹ và định mức tồn quỹ theo quy định
* Phòng._.âu năm, luôn luôn mua gần như 100% lượng khăn bông do Công ty sản xuất ra hàng năm, nhưng hợp đồng bán hàng này chỉ ký cho từng năm một,điều này sẽ làm ảnh hưởng đến mức độ an toàn vốn vay khi công ty không tiêu thụ được sản phẩm của mình theo như dự kiến tiêu thụ 100% sản phẩm sản xuất ra.Do đó để đảm bảo an toàn hơn nữa đề nghị Công ty phải :
- Cần phải có hợp đồng bán hàng ổn định ít nhất là 04 năm đầu tiên để làm căn cứ cho việc tiêu thụ 100 sản phẩm của mình
- Doanh thu tiêu thụ của nhà máy phải được nộp hết vào NHN0 & PTNT Hà nội Nhằm mục đích cho ngân hàng quản lý được doanh thu và đảm bảo được khả năng thu nợ cho ngân hàng.
- Cần phải có một quy chế quản lý điều hành hết sức chặt chẽ,nghiêm túc tới từng bộ phận, từng con người.
V. ý kiến của cán bộ tín dụng
Đề nghị cho Công ty Dệt may Hà nội vay dài hạn đầu tư 4 máy dệt khăn bông đầu Jacka điện tử cụ thể như sau :
+ Lý do : Tuy dự án không đem lại lợi nhuân cao, sức chịu của dự án đối với giá bán giảm còn yếu nhưng chỉ có đầu tư đổi mới công nghệ cụ thể là đầu tư 04 máy dệt Jacka mới đưa ra được khăn bông thích ứng với nhu cầu của bạn hàng nước ngoài cũng như khách hàng trong nước.Đổi mới công nghệ nhằm nâng cao chất lượng mẫu mã đạt tiêu chuẩn quốc tế,tăng khả năng cạnh tranh giúp cho Công ty từng bước thực hiện theo kế hoạch tăng tốc ngành dệt may, theo kịp với sự phát triển nghành dệt may trên thế giới, tránh bị tụt hậu.
+ Số tiền vay : 7.086.400.000 (Chiếm 80% tổng mức đầu tư )
+ Lãi suất : 7,8% năm thứ nhất kể từ ngày rút vốn đầu tiên đến 31/12/2002.Các năm sau lãi suất được điều chỉnh lại trên cơ sở lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước hoặc lãi suất huy động vốn 12 tháng của NHN0 & PTNT Hà nội, điều chỉnh lãi suất mỗi năm một lần và tính từ ngày 01 tháng 01 hàng năm,mỗi lần điều chỉnh sẽ được báo trước 5 ngày.
+ Thời hạn cho vay : 120 tháng
+ Thời hạn trả nợ : 114 tháng
+ Thời gian ân hạn: 06 tháng
Kế hoạch trả nợ (Lãi suất tạm tính 7,8% /năm. Đơn vị triệu đồng)
- Phân kỳ trả nợ :
+ Trả nợ gốc theo quý (mỗi quý phải trả một khoản gốc là :178 trđ)
+ Trả lãi hàng tháng (vào ngày 25)
+ Bắt đầu thực hiện trả nợ kể từ khi hết thời hạn gia ân hạn.
2.3. Đánh giá chất lượng hoạt động thẩm định tại NHN0 & PTNT Hà nội
Cũng giống các ngân hàng khác, NHN0 & PTNT hoạt động trong nền kinh tế thị trường theo nguyên tắc “đi vay để cho vay “ nhưng trong quá trình huy động vốn và sử dụng vốn có rất nhiều vấn đề được đặt ra đặc biệt việc sử dụng vốn, nó thường gặp rất nhiều rủi ro. Chính vì vậy NHN0 & PTNT Hà nội tìm mọi cách để cho vay có hiệu quả và an toàn để ngân hàng đứng vững và chiến thắng trong cạnh tranh.Tuy NHN0 & PTNT Hà nội đã đạt được những thành tựu to lớn trong quá trình phát triển của mình nhưng nó vẫn còn những tồn tại cần giải quyết.
2.3.1. Một số thành tựu đạt được
Trong những năm gần đây công tác phân tích và thẩm định dự án đầu tư tại NHN0 & PTNT Hà nội đã được đặc biệt coi trọng. Nhờ vậy, nó đã mang lại những kết quả đáng mừng với những dự án trong tay, các cán bộ tín dụng đều đi sâu kiểm tra xem xét mọi phương diện của dự án,từ đó để phân tích, đánh giá kỹ lưỡng các dự án và đưa ra kết luận cuối cùng là dự án đó có khả thi hay không ?Nỗ lực của cán bộ tín dụng đã góp phần nâng cao hiệu quả của công tác thẩm định đầu tư, loại bỏ những dự án không có hiệu quả và đưa ra quyết định đầu tư đối với những dự án được coi là khả thi.
Mặt khác,khi chất lượng của công tác thẩm định dự án đầu tư tăng lên thì rủi ro sẽ bị hạn chế hay mức độ an toàn vốn cũng tăng lên. Từ đó tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng có hiệu quả. Cụ thể trong vài năm gần đây tình hình huy động vốn và sử dụng vốn của NHN0 & PTNT Hà nội luôn tăng hơn các năm trước, số nợ quá hạn giảm mạnh. Trong đó, nợ quá hạn từ các món cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng không đáng kế .Qua đó cho thấy công tác thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn của NHN0 & PTNT Hà nội rất có hiệu quả.
2.3.2. Những hạn chế trong hoạt động thẩm định
- Việc tính toán các chỉ tiêu NPV, IRR, PP,.... chỉ mới được đề cập và mang tính hình thức, không được coi là những chỉ tiêu trọng yếu. Giá trị thời gian của tiền không được đề cập trong nhiều dự án, điều nay ít nhiều cũng gây ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tài chính dự án.
- Việc lựa chọn lãi suất để tính NPV còn chưa thống nhất, chưa có một căn cứ khoa học rõ ràng trong việc lựa chọn mà chủ yếu dựa vào ý kiến chủ quan của cán bộ thẩm định. Việc tính doanh thu hàng năm chỉ dựa trên phương pháp so sánh đối chiếu, dựa vào kinh nghiệm và nhận định chủ quan của cán bộ thẩm định mà chưa có một phương pháp định lượng chính xác để xác định chính xác nhu cầu.Việc đánh giá dự án mới chỉ dừng lại ở việc xem xét trạng thái tĩnh chứ chưa dự trù được những thay đổi của thị trường ( như biến đổi tỷ giá hối đoái, lãi suất, lãi suất chiết khấu, lạm phát,...). Phương pháp tính toán khấu hao cơ bản, trích khấu hao trong từng dự án mà ngân hàng áp dụng còn quá chung chung, chủ yếu dựa vào giả định của cán bộ thẩm định theo quy định của Nhà nước trong khi đó khung của Nhà nước lại quá rộng. Đặc biệt việc phân bổ dự phòng một cách chung chung là phi lý và không có căn cứ. Ngân hàng cần mạnh dạn áp dụng những phương pháp thẩm định mới đang được sử dụng ở các ngân hàng, các đơn vị thẩm định trong và ngoài nước và áp dụng một cách sáng tạo vào tình hình nước ta..
- Một số tài sản tuy thời gian khấu hao đã hết nhưng khi kết thúc dự án vẫn còn giá trị sử dụng. Việc hoàn trả hay định giá tài sản cũng như hoàn trả vốn lưu động khi kết thúc dự án cũng chưa có quy định cụ thể.
- Theo quy định của NHN0 & PTNT Việt nam nhiệm vụ của cán bộ tín dụng trong giai đoạn quản lý nợ là thường xuyên đánh giá tình hình tài chính và khả năng trả nợ của khách hàng, việc trả nợ đúng hạn, đánh giá lại tài sản thế chấp nhưng việc định kỳ đánh giá tài sản thế chấp chưa được thực hiện.
- Số nhân viên thực sự có năng lực không đủ để đáp ứng cho yêu cầu công việc. Đội ngũ nhân viên của ngân hàng hoạt động chưa đồng đều, số nhân viên thực sự có năng lực vẫn thiếu dẫn đến tình trạng những người có khả năng phải làm việc quá nhiều. Số còn lại để hoàn thành tốt công việc phải cần đến sự trợ giúp của nhiều người.
- Thông tin còn thiếu hụt.
- ứng dụng tin học trong ngân hàng còn rất hạn chế. Toàn bộ quy trình thu thập, lưu trữ, xử lý thông tin trong ngân hàng chưa được tự động hoàn toàn. Vì vậy thông tin không đựơc xử lý và cung cấp chính xác, kịp thời do những sai lệch phát sinh trong giai đoạn xử lý bằng tay.
Ngoài ra, ngân hàng chưa có quy định đảm bảo việc tuân thủ các thủ tục tín dụng, ngăn ngừa rủi ro và chấm dứt các hợp đồng có khả năng gây tổn thất cho ngân hàng.
2.3.3. Những nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế trên
* Nguyên nhân từ phía ngân hàng :
Thực hiện quy trình tín dụng còn thiếu sót
Chưa xây dựng được chiến lược khách hàng
Chính sách tín dụng của ngân hàng còn nghèo nàn, Bên cạnh đó qui trình thẩm định, đánh giá khoản vay phụ thuộc chủ yếu vào bộ phận tín dụng, chưa có bộ phận thẩm định hoạt động độc lập với phòng tín dụng là những nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động tín dụng.
Hoạt động của hội đồng tín dụng chưa được đẩy mạnh, chưa thiết lập bộ phận kiểm tra, giám sát tín dụng giúp ngăn ngừa rủi ro tín dụng, chưa xây dựng được hệ thống phân loại khoản vay để đánh giá và quản lý các khoản vay theo tiêu chuẩn, việc đánh giá hiện nay chủ yếu dựa vào sự hiểu biết, kinh nghiệm của CBTD nên dễ phát sinh rủi ro và dẫn tới tình trạng đánh giá không nhất quán.
Việc chấp hành qui định cho vay chưa nghiêm, thực hiện qui trình cho vay còn mắc nhiều sơ hở
Chưa có chế độ khuyến khích CBTD hợp lý dẫn đến hiện tượng CBTD “ngại” cho vay, sợ trách nhiệm vì lý do : cho vay thu nợ đầy đủ cả gốc lẫn lãi hàng trăm tỷ không ai khen, nhưng chỉ cần một món vay phát sinh nợ quá hạn là bị “xử lý”.
Chưa có chế độ khuyến khích CBTD hợp lý dẫn đến hiện tượng CBTD “ngại” cho vay, sợ trách nhiệm vì lý do : cho vay thu nợ đầy đủ cả gốc lẫn lãi hàng trăm tỷ không ai khen, nhưng chỉ cần một món vay phát sinh nợ quá hạn là bị “xử lý”.
* Nguyên nhân từ phía khách hàng :
Trong thực tế hoạt động tín dụng đã xuất hiện một số trường hợp khách hàng lừa đảo, buôn lậu, kinh doanh trái phép, sử dụng vốn sai mục đích, nhiều trường hợp khách hàng lập kế hoạch kinh doanh giả, hoặc nhờ tư vấn lập kế hoạch kinh doanh để rút tiền ngân hàng, kế hoạch kinh doanh có đủ hợp đồng kinh tế đầu vào, đầu ra nhưng khi vay được vốn ngân hàng lại không đầu tư theo phương án đã lập mà cho vay lấy lãi cao hơn hoặc cố tình chiếm đoạt số tiền vay. Cán bộ tín dụng khi phát hiện không có biện pháp xử lý triệt để hoặc cố tình lờ đi hy vọng đến hạn khách hàng sẽ thanh toán. Những trường hợp này do đánh giá thẩm định không kỹ nên tài sản đảm bảo là hàng chậm luân chuyển khó chuyển thành tiền mặt để thu hồi nợ cho ngân hàng.
* Nguyên nhân khách quan :
- Do môi trường kinh tế không ổn định :
Nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi từ cơ chế tập chung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường nên các chính sách và cơ chế quản lý vĩ mô của nhà nước đang trong quá trình điều chỉnh, đổi mới và hoàn thiện, sản xuất kinh doanh trong nước phải cạnh tranh găy gắt với hàng lậu và hàng nhập ngoại, các doanh nghiệp chậm thích nghi với cơ chế thị trường, việc chuyển hướng và điều chỉnh phương án sản xuất kinh doanh không theo kịp với sự thay đổi của cơ chế và chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước, nhiều doanh nghiệp chưa kịp điều chỉnh KHKD phù hợp với sự thay đổi của chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước hoặc có trường hợp ngộ nhận nhu cầu thị trường dẫn đến trường hợp phát triển tràn lan quá mức. Vì vậy một số doanh nghiệp và ngành sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, thua lỗ, mất khả năng thanh toán, làm phát sinh nợ khó đòi cho ngân hàng.
- Sức ép cạnh tranh :
Sự cạnh tranh của hơn 50 NHTM và chi nhánh trên địa bàn Hà nội đã gây không ít khó khăn trong việc quản lý khách hàng do họ có thể quan hệ với nhiều tổ chức tín dụng. Trong khi đó hệ thống thông tin giữa các ngân hàng còn thiếu mặc dù đẫ có trung tâm thông tin tín dụng CIC nhưng sự hợp tác giữa các NHTM và CIC không đồng bộ, chưa thống nhất do đó chưa đạt hiệu quả cao. Thậm chí có một số NHTM vì sợ cạnh tranh nên đã không thông tin cho CIC và điều đó dẫn đến việc tìm hiểu khách hàng có quan hệ vay nợ tại nhiều tổ chức tín dụng rất khó khăn. Ngân hàng không thể xác định đúng đắn, chính xác về tình hình tài chính, tư cách pháp nhân của doanh nghiệp và sẽ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng khi cho vay.
- Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng chưa đồng bộ:
Một số văn bản pháp lý có liên quan đến vấn đề thế chấp, cầm cố vay vốn ngân hàng ở khía cạnh này hay khía cạnh khác qui định chưa đồng bộ, đầy đủ, nhất là thiếu văn bản hướng dẫn, hoặc có hướng dẫn nhưng chưa đầy đủ nên quá trình thực hiện còn nhiều khó khăn.
Chương 3
Một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trung va dài hạn tại NHN0 & PTNT Hà nội
3.1 Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn tại NHN0 & PTNT Hà nội
Trong chương 2 qua việc xem xét tình hình hoạtđộng kinh doanh của NHN0 & PTNT Hà nội, chúng ta thấy vai trò của công tác thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn. Để đảm bảo trong công tác thẩm định và hạn chế những rủi ro cho Ngân hàng cần phải có những giải pháp sau để giảm bớt những tồn tại cần giải quyết.
* Khai thác sử dụng các thông tin trong quá trình thẩm định tránh tình trạng thông tin một chiều.
Các nguồn thông tin số liệu về dự án đầu tư của doanh nghiệp xin vay vốn rất quan trọng vì nó ảnh hưởng lớn về việc xác định hiệu quả của dự án. Tuy vậy, Ngân hàng được các Doanh nghiệp cung cấp các thông tin về tình hình hoạt đông của mình hay nói cách khác, Ngân hàng thụ động trong việc cung cấp các nguồn thông tin này. Do đó, để đứng về thế chủ động, Ngân hàng phải tự mình tìm kiếm, khai thác các thông tin.
- Lấy thông tin bằng cách điều tra trực tiếp Doanh nghiệp vay vốn.
Đây là hình thức lấy thông tin cần thiết từ phía khách hàng. Mục đích của phỏng vấn trực tiếp với khách hàng là để quan sát thái độ, phương pháp và nội dung trả lời của khách hàng để phát hiện ra những mâu thuẫn và những vấn đề không nhất quán hoặc không trung thực giữa hồ sơ vay vốn và nội dung trả lời phỏng vấn. Bên cạnh việc kiểm tra lại thông tin mà khách hàng cung cấp, cán bộ tín dụng còn phải phỏng vấn khách hàng để khách hàng giải trình những điểm chưa rõ ràng hoặc còn mâu thuẫn trong hồ sơ vay vốn của khách hàng.
Để làm được điều này cán bộ tín dụng phải chuẩn bị trước những câu hỏi mình cần phỏng vấn, chi tiết những nội dung gì và sắp xếp theo một trình tự hợp lý. Thông thường cán bộ tín dụng sẽ hỏi lướt qua nhưng vấn đề như :Tên doanh nghiệp, chủ sở hữu của doanh nghiệp, thời gian thành lập doanh nghiệp, doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực gì, trình độ của các cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp... Còn các thông tin về tình hình tài chính của công ty thường ít khi được giải trình đầy đủ, do đó cán bộ tín dụng cần phải phỏng vấn chi tiết: Doanh nghiệp sẽ dùng những nguồn thu nào để trả nợ cho Ngân hàng, nếu gặp rủi ro thì ngoài nguồn thu trên doanh nghiệp sẽ dùng nguồn nào để trả nợ cho Ngân hàng và những khó khăn thuận lợi khi thực hiẹn phương án, đã có các biện pháp gì khắc phục, hạn chế rủi ro. Để thu được kết quả cao từ cuộc phỏng vấn này thì cán bộ tín dụng phải cởi mở, tạo ra bầu không khí thoải mái và quan trọng nhất là nghệ thuật đặt câu hỏi để khuyến khích được khách hàng nói chuyện, từ đó khai thác được những thông tin cần thiết.
- Thu thập thông tin từ bên ngoài.
Ngoài những thông tin có được từ phía doanh nghiệp xin vay cung cấp, cán bộ tín dụng còn cần thu thập các thông tin cần thiết từ các nguồn bên ngoài như từ cơ quan quản lý kinh tế, các chuyên gia kinh tế, kỹ thuật, các văn bản, tài liệu... Các công ty kiểm toán có thể cung cấp những số liệu chính xác về hoạt động tài chính của doanh nghiệp, các Ngân hàng đã có quan hệ tín dụng với khách hàng sẽ giúp cán bộ tín dụng biết được tình hình vay nợ của doanh nghiệp ra sao, có hoàn trả được các tổ chức tín dụng đầy đủ và đúng hạn không; Trung tâm thông tin rủi ro của Ngân hàng nhà nước có thể cung cấp thông tin về tình hình huy động đầu tư cho vay, những thay đổi về chính sách kinh tế, những biến động về thị trường... Để từ đó đánh giá xem nó ảnh hưởng như thế nào đến dự án.
Ngoài ra cán bộ tín dụng của Ngân hàng phải tự điều tra thu thập thông tin trên thị trường như: dư luận của cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp, dư luận của xã hội, báo chí, ý kiến của khách hàng có quan hệ mua bán với khách hàng mua bán; tiến hành điều tra thực tế tại nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của người vay vốn để trực tiếp đánh giá khả năng, hiệu quả quản lý, trình độ kỹ thuật, chất lượng và uy tín sản phẩm; các hình thái hiện vật và chất lượng của tài sản cố định, sản phẩm hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp.
Việc thu thập thông tin từ bên ngoài đòi hỏi khá nhiều thời gian và chi phí nhưng để nâng cao chất lượng của thẩm đinh dự án đầu tư của NHN0 & PTNT Hà nội thì việc thu thập này rất thiết thực vì các nguồn thông tin này đa dạng và khách quan.
Tóm lại thông tin là vấn đề quyết định quan trọng đến chất lượng công tác thẩm định. Đặc biệt là trong tình hình hiện nay, các điều kiện của nền kinh tế nhiều khi đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát của người vay, của cán bộ tín dụng cũng như Ngân hàng. Do đó cán bộ thẩm định hay cán bộ tín dụng phải là những người có khả năng dự đoán kinh tế thì mới có thể thu thập được thông tin liên tục về giá cả, những biến động của thị trường trong nước cũng như ngoài nước về nghành, lĩnh vực sắp thẩm định, dự án có phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội hay không... để từ đó nguồn vốn đầu tư sử dụng có hiệu quả và đúng định hướng và như vậy, để nâng cao chất lượng công tác thẩm định không thể tách rời với nâng cao chất lượng thông tin. Muốn chất lượng thông tin được nâng lên, các số liệu sử dụng được chính xác, cán bộ tín dụng phải tận dụng triệt để các nguồn có khả năng cung cấp chúng. Có như vậy số liệu thu được mới mang tính khách quan, không bị bóp méo vì mục đích của doanh nghiệp xin vay vốn.
* Cán bộ tín dụng phải thẩm định quyền sở hữu của các tài sản thế chấp.
Trong quá trình xác định quyền sở hữu các tài sản làm vật thế chấp bảo đảm cho các khoản vay, các cán bộ kỹ thuật cần chú ý:
- Tài sản thế chấp phải có đầy đủ tính pháp lý và phải chứng minh được nó là sở hữu hợp pháp của người vay (đối với đất đai là quyền sử dụng đất).
- Tài sản thế chấp phải không thuộc đối tượng pháp luật cấm mua bán, chuyển nhượng hoặc đang có tính tranh chấp hoặc đang được thế chấp của Ngân hàng khác.
- Ngân hàng phải nắm giữ các giấy tờ gốc, chứng nhận quyền sở hữu hợp pháp của tài sản thế chấp. Trong trường hợp tài sản thế chấp thuộc đồng sở hữu của nhiều người thì khi thế chấp phải có sự nhất trí bằng văn bản của tất cả các đồng sở hữu.
- Các cán bộ tín dụng phải kiểm tra chất lượng của tài sản thế chấp, khả năng dự trữ lâu dài của tài sản, đồng thời phải căn cứ vào cung cầu về tài sản đó trên thị trường tại thời điểm hiện tại cũng như xu hướng trong tương lai để tránh tình trạng giảm giá tài sản thế chấp trên thị trường.
- Việc đánh giá tài sản tài chính thường rất khó khăn vì phần lớn các tài sản đã dùng rồi, khó xác định giá trị còn lại của chúng. Trong trường hợp cụ thể Ngân hàng sẽ đưa ra quyết định tự đánh giá hay nhờ các chuyên gia về lĩnh vực này.
* Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định dự án đầu tư
Có thể nói rằng trình độ năng lực của cán bộ tín dụng là một trong những yếu tố quan trọng nhất định ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định dự án đầu tư.Do đó, ngân hàng phải luôn có chính sách đào tạo để nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng để cán bộ tín dụng bắt kịp với sự xu thế phát triển của kinh tế thị trường. Từ đó nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án, nhất là các dự án có vốn đầu tư lớn và kỹ thuật phức tạp.
Trong thực tế, các dự án đầu tư đều thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau mà cán bộ tín dụng không thể có được một hệ thống các kiến thức toàn diện để có thể phân tích, đánh giá tất cả các dự án được, vì các cán bộ tín dụng chỉ được học kỹ về cách tính toán các chỉ tiêu tài chính, còn việc nghiên cứu thị trường, đánh giá hiệu quả dự án đối với toàn xã hội và đặc biệt là các vấn đề liên quan đến kỹ thuật,rất ít khi được đề cập mà trên thực tế quá trình thẩm định dự án đầu tư đòi hỏi cán bộ tín dụng phải vận dụng cả kiến thức ở trình độ tổng hợp về kinh tế pháp luật (trong và ngoài nước ), về công nghệ, kỹ thuật, sản xuất kinh doanh, về thông tin thị trường, kiến thức về quản lý tài chính - tín dụng, ngoại hối và thanh toán quốc tế, hải quan, bảo hiểm, kiểm định, giám định có liên quan đến các phương diện của dự án.Để làm được việc này, ngân hàng cần thường xuyên đào tạo lại cán bộ tín dụng, mở các cuộc kiểm tra trình độ cán bộ một cách thường xuyên, tổ chức các buổi trao đổi kinh nghiệm trong nội bộ ngân hàng và các ngân hàng khác,tìm các nguồn tài liệu tham khảo của nước ngoài... Đây là những cách thức không mấy khó khăn, hoàn toàn nắm trong khả năng thực hiện của ngân hàng.
4.Đối với các dự án lớn, có vốn đầu tư lớn,kỹ thuật phức tạp.liên quan đến nghiều ngành, nhiều lính vực khác nhau thì ngân hàng không nên phân tích,đánh giá một mình mà nên mời các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực đó và đặc biệt trong vấn đề thẩm định dự án.Như vậy,Ngân hàng sẽ hạn chế được những hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình.
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn.
Hầu hết các lĩnh vực của kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá, giáo dục....đều bị ảnh hưởng rất lớn bởi hệ thống chính sách của Nhà nước.Vậy mà nước ta mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước cho nên các chính sách của Nhà nước chưa thể ổn định và hoàn thiện, phải thường xuyên thay đổi.Và một sự thay đổi dù nhỏ hay lớn trong các chính sách của Nhà nước thì ngay lập tức tác động đến toàn xã hội.Công tác thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn của Ngân hàng cũng không ngoại lệ, nó luôn bị chi phối bởi chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước,ở các nước khác nhau.Trong khuôn khổ chuyên đề này em đưa ra một số kiến nghị sau để nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn.Em hy vọng rằng những kiến nghị đó sẽ góp phần giúp NHN0 & PTNT Hà nội nâng cao chất lượng thẩm định trong giai đoạn hội nhập nền kinh tế cũng như quá trình phát triển nền kinh tế của đất nước.
* Cần phải chỉ đạo các Doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện các chế độ kế toán, thống kê theo đúng quy định của Nhà nước.
Hiện nay, để vay được vốn của Ngân hàng các Doanh nghiệp thường xuyên phải đưa ra các bản báo cáo về tình hình tài chính không chính xác làm ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định.Do đó, để khắc phục tình trạng này Nhà nước phải có chế độ thưởng, phạt thích hợp đối với các Doanh nghiệp lập 2 bản cân đối lỗ riêng, lãi riêng và báo cáo không đúng sự thật.Bên cạnh đó các Doanh nghiệp phải thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc và công khai quyết toán của Doanh nghiệp.
Mặt khác, Nhà nước phải luôn có chính sách đào tạo nhằm nâng cao trình độ và năng lực của cán bộ kiểm toán.Để làm công tác kiểm toán tiến hành có hiệu quả, khách quan.Nhà nước phải có biện pháp trừng phạt thích đáng đối với cán bộ kiểm toán không trung thực, ăn hối lộ.Từ đó mới đánh giá đúng tình hình tài chính cũng như tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tạo điều kiện cho những cán bộ tín dụng trong việc phân tích hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp,thẩm định các dự án được chính xác, qua đó hạn chế và phòng ngừa những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
* Cần xây dựng một hệ thống cơ chế chính sách ổn định.
Do tình trạng hệ thống các cơ chế chính sách luôn thay đổi nên tạo môi trường bất ổn , bấp bênh cho các Doanh nghiệp,các Doanh nghiệp sẽ luôn thụ động và khó thích ứng trong nền kinh tế thị trường.Do đó, Đảng và Nhà nước ta cần tạo một hệ thống cơ chế chính sách ổn định, một mặt tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp hoạt động,mặt khác thu hút vốn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài.Các cơ chế chính sách đó phải đưa ra luật đầu tư ổn định không chỉ có giá trị hôm nay mà có hiệu lực ngày mai. Vì các nhà đầu tư nước ngoài không muốn đầu tư ở một nước có nhiều biến động về kinh tế, chính trị, pháp luật cho dù có sự ưu đãi về thuế vì họ sợ đồng vốn của họ sẽ bị rủi ro.Chính vì vậy nhà nước cần phải xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh.
* Xây dựng sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Có thể nói rằng cạnh tranh là một trong những động lực quan trọng nhất của sự phát triển. Vì vậy, nhà nước cần phải tạo một môi trường cạnh tranh lành mạnh, nghĩa là Nhà nước phải tạo ra một sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trên tất cả lĩnh vực hoạt động kinh tế và hoạt động xã hội.Chủ trương của Nhà nước là thực hiện quyền bình đẳng giữa các thành phần kinh tế nhưng trên thực tế Nhà nước có nhiều quy chế rắc rối được đưa ra nhằm đặt các Doanh nghiệp quốc doanh vào vị trí thuận lợi hơn các doanh nghiệp khác.Trong mọi việc, dù là đi vay tiền hay xin cấp giấy phép hoạt động kinh doanh, làm việc với các cơ quan chức năng nhà nước... Các Doanh nghiệp quốc doanh thường được thuận lợi hơn so với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.Như vậy bằng luật pháp, chính sách của mình,Nhà nước đã tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp quốc doanh.Và chừng nào Doanh nghiệp quốc doanh còn được hưởng thuận lợi thế này thì họ sẽ còn ỉ lại, thụ động và không lỗ lực để cải tiến sản phẩm hoặc phương án sản xuất cũng như cải cách cơ cấu tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp.
Môi trường kinh doanh bất bình đẳng này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công tác thẩm định của dự án đầu tư, bởi nó tạo tâm lý thiên vị cho các Doanh nghiệp quốc doanh của cán bộ tín dụng. Cán bộ tín dụng cũng sẽ dễ dàng duyệt cho vay đối với các Doanh nghiệp quốc doanh hơn là các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.Vì các Doanh nghiệp quốc doanh là Doanh nghiệp của Nhà nước được nhà nước cấp vốn hoạt động và nếu có rủi ro gì trong hoạt động kinh doanh thì họ sẽ có thể xin tài trợ từ phía nhà nước.Để khắc phục tình trạng này, Nhà nước cần xem xét lại các cơ chế, chính sách của mình nhằm tạo ra được môi trường kinh doanh thực sự bình đẳng. Có như vậy, sự cạnh tranh trong nước mới thực sự là cạnh tranh lành mạnh,tạo ra động lực cho các Doanh nghiệp phải phấn đấu đổi mới quy cách kinh doanh cũng như bộ máy tổ chức nhằm thúc đẩy sản xuất để hiệu quả sử dụng vốn được nâng lên. Như vậy mục đích của sự sửa đổi này không chỉ nhằm hỗ trợ cho khu vực ngoài quốc doanh mà còn rất quan trọng cho sự tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế.
* Nâng cao hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng phục vụ hoạt động thẩm định dự án đầu tư và phòng ngừa rủi ro.
Như chúng ta đều biết thông tin trên thị trường cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định dự án đầu tư, nhất là nước ta mới chuyển sang nền kinh tế thị trường nên các nguồn thông tin trên thị trường càng quan trọng.Vì nền kinh tế thị trường hoạt động theo quy luật cạnh tranh.Do đó, gía cả, cung cầu...luôn luôn biến động từng ngày, từng giờ,mà các luận chững kinh tế kỹ thuật thường được lập trong thời gian dài.Do đó, hầu hết các số liệu trong luật chứng kinh tế kỹ thuật có độ chính xác phù hợp với thời điểm hiện tại là rất ít.Chính vì vậy, khi thẩm định dự án đầu tư thì cán bộ tín dụng phải thẩm định lại dự án,xem xét lại các số liệu xem có còn phù hợp với thị trường ngày hôm nay không ?và cũng phải dựa vào thị trường để dự đoán việc đầu tư có thiết thực trong tương lai không ? Nhưng trên thực tế, việc nghiên cứu thị trường rất phức tạp và khó thực hiện với một cán bộ tín dụng. Do đó, Ngân hàng nhà nước cần phải nêu cao hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng để hỗ trợ các Ngân hàng thương mại và các cán bộ tín dụng thẩm định dự án để hạn chế rủi ro.
Như vậy, thông tin rất quan trọng trong việc thẩm định dự án đầu tư vì nó ảnh hưởng đến chất lượng của công tác thẩm định dự án đầu tư và ảnh hưởng đến hoạt động của Ngân hàng thương mại.Vì vậy, Nhà nước không những cần nâng cao hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng mà còn nên thành lập các công ty tư vấn chuyên mua bán thông tin.Các Công ty này sẽ cung cấp các thông tin về tín dụng,thị trường, doanh nghiệp một cách chính xác nhất. Từ đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng thương mại hoạt động hiệu quả cao hơn và cho các cán bộ tín dụng thẩm định dự án đạt chất lượng cao hơn để ra quyết định cho vay một cách chính xác và khách quan nhất.
Kết luận
Lịch sử đã chứng minh vai trò quan trọng của hệ thống ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế quốc dân.Nó đã đóng góp rất nhiều trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo đường lối mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.Để bắt kịp cùng với tốc độ phát triển của khoa học kỹ thuật nói chung và trình độ các công cụ quản lý nói riêng, của các nước trên thế giới.Hệ thống ngân hàng thương mại của nước ta cũng ngày càng được hoàn chỉnh, bổ sung và thích ứng với nền kinh tế, một nền kinh tế vừa bước ra từ nền kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp để đến với nền kinh tế thị trường.Không những thế,hệ thống ngân hàng thương mại còn là trung tâm liên kết giữa các thành phần kinh tế với nhau.Vì vậy, để có thể thúc đẩy hơn nữa sự phát triển kinh tế của đất nước thì hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại ngày càng phải được đã dạng hoá phục vụ một cách nhanh tróng và chính xác hơn,đáp ứng nhu cầu ngày một cao của mọi thành phần kinh tế.Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển mạnh mẽ và đang trở thành trọng tâm thu hút nguồn lực của nền kinh tế.Để phục vụ tốt nhu cầu ngày càng cao và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế,Ngân hàng đã phục vụ tốt nhu cầu vốn cho thành phần kinh tế này dưới hình thức cho vay.Đối với ngân hàng thì việc sử dụng vốn có hiệu quả sẽ đem lại lợi nhuận cao,còn về phía khách hàng thì đây là hình thức giúp họ đạt được những ý tưởng,mục tiêu mà mình đề ra và đưa phương án kinh doanh của họ trở thành hiện thực.Tuy nhiên,Các thành phần phần kinh tế muốn có được vốn mà ngân hàng cho vay thì phải qua một quá trình thẩm định của ngân hàng về mục đích của việc vay vốn, các dự án đầu tư được triển khai ngày càng rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Các dự án đầu tư xin vay vốn ngân hàng có thời gian tương đối dài, số vốn tài trợ lớn và rất đa dạng do vậy việc khẳng định tính khả thi của dự án và hiệu quả của việc sử dụng vốn đầu tư là mối quan tâm hàng đầu của các ngân hàng thương mại khi tham gia tài trợ vốn.Để đảm bảo được điều đó, công tác thẩm định dự án đầu tư là hết sức quan trọng và mang ý nghĩa lớn đối với hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng. Tuy nhiên đây là một lĩnh vực hết sức phức tạp còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục trao đổi nghiên cứu để giải quyết.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn Thầy Đặng Ngọc Đức, các cô, chú, anh chị công tác tại Phòng kinh doanh Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội cùng các thầy,cô giáo trong Khoa Ngân hàng - Tài chính Trường Đại học kinh tế Quốc dân đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành Chuyên đề này.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Chương trình và dự án phát triển kinh tế - xã hội - ĐH KTQD - NXB Thống kế
Quy chế cho vay đối với khách hàng - NHN0 & PTNT Việt nam
PTS. Mai văn Bưu - Chủ biên : Giáo trình Hiệu quả và quản lý dự án Nhà nước - ĐH Kinh tế Quốc dân - NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội 1998
PTS. Đoàn Thu Hà - PTS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền : Chiính sách kinh tế xã hội- NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội 1999
Vũ Công Tuấn : Thẩm định dự án đầu tư - NXB TP HCM
Nguyễn Xuân : Quản trị DAĐT trong nước và quốc tế - NXB CTQG
PTS Lưu Thu Hương - Chủ biên : Giáo trình Tài chính doanh nghiệp - ĐH Kinh tế Quốc dân
Dự toán vốn đầu tư trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Sách dịch, NXB Thống kê
Một số tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Tạp chí Ngân hàng các năm 2001 - 2002
Mục lục
Trang
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0013.doc