Nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Cầu Giấy

LỜI MỞ ĐẦU Đầu tư là một hoạt động quan trọng của bất kỳ tổ chức nào trong nền kinh tế. Đó là hoạt động bỏ vốn với hy vọng đạt được lợi ích tài chính, kinh tế xã hội trong tương lai. Ngày nay, nhằm tối đa hóa hiệu quả đầu tư, các hoạt động đầu tư đều được thực hiện theo dự án. Dự án đầu tư có vai trò rất quan trọng đối với các chủ đầu tư, các nhà quản lý và tác động trực tiếp tới tiến trình phát triển kinh tế xã hội. Nếu không có dự án, nền kinh tế sẽ khó nắm bắt được các cơ hội phát triển. Nhữ

doc98 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1236 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Cầu Giấy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng công trình thế kỷ của nhân loại trên thế giới luôn là những minh chứng về tầm quan trọng của dự án. Dự án là căn cứ quan trọng để quyết định bỏ vốn đầu tư, xây dựng kế hoạch đầu tư và theo dõi quá trình thực hiện đầu tư. Ngân hàng thương mại – một trong những nhà tài trợ chủ yếu cho các dự án đầu tư thì nghiệp vụ mang lại lợi nhuận chủ yếu chính là hoạt động cho vay. Cho vay để kiếm được lợi nhuận cũng là cơ sở để các ngân hàng thương mại tiến hàng hoạt động huy động vốn. Nếu không có triển vọng mở rộng cho vay thì các ngân hàng thương mại cũng không dám đẩy mạnh huy động vốn để tránh rủi ro ứ đọng vốn. Thế nhưng, dẫu biết rằng cho vay là để thu lãi nhưng các ngân hàng thương mại đều phải đối mặt với một rủi ro nữa là khách hàng không có khả năng hoàn trả vốn vay do làm ăn thua lỗ. Lúc đó, chẳng không thu được lãi mà còn “mất cả chì lẫn chài”. Để đề phòng với loại rủi ro này, một trong các biện pháp truyền thống của ngành ngân hàng là yêu cầu các khoản bảo đảm cho món vay như cầm cố, thế chấp các loại tài sản khác nhau nhưng rõ ràng biện pháp này là một biện pháp “chữa cháy” có tính tiêu cực. Biện pháp tích cực hơn là phải làm sao bảo đảm nguồn vốn tài trợ của ngân hàng không “nhầm địa chỉ”, cho vay đúng các phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Do vậy, hoạt động thẩm định dự án đầu tư có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động cho vay nói riêng và toàn bộ hoạt động kinh doanh nói chung của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, thực tế thời gian qua, công tác đầu tư cho vay các dự án của các NHTM đạt hiệu quả không cao, Nguyên nhân chính xuất phát từ những yếu kém, chủ quan trong công tác thẩm định. Hậu quả là nhiều dự án được lựa chọn đầu tư có hiệu quả thấp, không trả được nợ cho ngân hàng, hoặc có khi bỏ qua các cơ hội tốt. Thời gian qua đã xảy ra nhiều vụ việc đổ vỡ tín dụng gây thất thoát của Nhà nước hàng chục ngàn tỷ đồng, làm ảnh hưởng không nhỏ tới nền kinh tế nói chung và sự phát triển của từng doanh nghiệp, từng ngân hàng nói riêng. Trước thực tế đó, đòi hỏi các NHTM không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng mà trọng tâm là chất lượng thẩm định dự án đầu tư. Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với sự tồn tại và phất triển của ngân hàng mà còn góp phần tiết kiệm vốn cho toàn xã hội, thúc đẩy mở rộng, phát triển nền kinh tế. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, sau một thời gian thực tập tại Chi nhánh NHĐT&PT Cầu Giấy, em đã chọn đề tài : “Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Chi nhánh NHĐT&PT Cầu Giấy” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình. Ngoài lời mở đầu và kết luận, chuyên đề của em có những nội dung chính sau: - Chương I: Lý luận chung về thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại các NHTM. - Chương II: Thực trạng thẩm định dự án đầu tư tại Chi nhánh NHĐT&PT Cầu Giấy. - Chương III: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Chi nhánh NHĐT&PT Cầu Giấy Do trình độ và kinh nghiệm bản thân còn nhiều hạn chế, chắc chắn chuyên đề của em còn nhiều thiếu sót, em rất mong sự góp ý từ phía các thầy cô giáo để em có thể hoàn thiện kiến thức cũng như chuyên đề tốt nghiệp của mình. Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ths Phan Thị Hạnh cùng toàn bộ tập thể cán bộ Chi nhánh NHĐT&PT Cầu Giấy đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 1.1. Dự án đầu tư và sự cần thiết của việc lập dự án đầu tư. 1.1.1. Khái niệm dự án đầu tư. Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về dự án đầu tư. Tùy theo từng mục tiêu nghiên cứu mà dự án đầu tư được nhìn nhận dưới những góc độ khác nhau. World Bank xem dự án đầu tư là tổng thể các chính sách hoạt động và chi phí liên quan đến nhau được hoạch định nhằm đạt được những mục tiêu nào đó trong một thời gian nhất định. Theo tổ chức tiêu chuẩn quốc tế (ISO 8402): “Dự án là một quá trình bao gồm các hoạt động được phối hợp thực hiện và quản lý trong một giai đoạn xác định nhằm đạt được một mục tiêu cụ thể trong điều kiện giới hạn về nguồn lực. Theo qui chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành theo Nghị định 52/1999/NĐCP ngày 8/7/1999: “Dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định. Như vậy, về bản chất, “Dự án đầu tư được hiểu là tập hợp kết quả nghiên cứu các nội dung liên quan đến sự vận hành và tính sinh lời của công cuộc đầu tư”. Về mặt hình thức trình bày, “Dự án đầu tư là tài liệu do chủ đầu tư chịu trách nhiệm lập, trong đó trình bày một cách khoa học và đầy đủ các nội dung liên quan đến công cuộc đầu tư, nhằm khẳng định tính đúng đắn của chủ trương đầu tư và đảm bảo hiệu quả của vốn đầu tư”. Với những khái niệm này, dự án đầu tư là một trong những căn cứ quan trọng nhất để quyết định việc bỏ vốn đầu tư, là phương tiện tìm đối tác đầu tư, là phương tiện thuyết phục các tổ chức tài chính tiền tệ trong nước và nước ngoài tài trợ hoặc cho vay vốn. 1.1.2. Các đặc trưng của dự án đầu tư. Các định nghĩa trên đã thể hiện các quan điểm khác nhau trong khi tiếp cận với khái niệm dự án đầu tư. Tuy nhiên, điều cần phải chú ý nhất đó chính là các đặc trưng của dự án đầu tư. Một dự án sẽ thành công nếu các đặc trưng của dự án được các nhà quản lý dự án nhận biết và đánh giá một cách đúng đắn. - Dự án không chỉ là một ý tưởng hay phác thảo mà còn hàm ý hành động với mục tiêu cụ thể. Nếu không có hành động thì dự án chỉ vĩnh viễn tồn tại ở trạng thái tiềm năng. - Dự án không phải là một nghiên cứu trừu tượng hay ứng dụng mà phải nhằm đáp ứng một nhu cầu cụ thể đã được đặt ra, tạo nên một thực tế mới. - Dự án tồn tại trong một môi trường không chắc chắn. Môi trường triển khai dự án thường xuyên thay đổi, chứa đựng nhiều yếu tố bất định nên trong dự án rủi ro thường là lớn và có thể xảy ra. Đặc điểm này có ảnh hưởng rất lớn đến mức độ thành công của dự án và là mối quan tâm đặc biệt của các nhà quản lý dự án. - Dự án bị khống chế bởi thời hạn. Là một tập hợp các hoạt động đặc thù phải có thời hạn kết thúc. Mọi sự chậm trễ trong thực hiện dự án sẽ làm mất cơ hội phát triển, kéo theo những bất lợi, tổn thất cho nhà đầu tư và cho nền kinh tế. - Dự án chịu sự ràng buộc về nguồn lực. Thông thường, các dự án bị ràng buộc về vốn, vật tư, lao động. Đối với dự án quy mô càng lớn, mức độ ràng buộc về nguồn lực càng cao và càng phức tạp; mọi quyết định liên quan đến các vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện dự án đều bị chi phối bởi nhiều mối quan hệ, chẳng hạn, chủ đầu tư, nhà tư vấn, nhà thầu, các nhà tài trợ, nhân công, các nhà kỹ thuật,…Xử lý tốt các ràng buộc này là yếu tố quan trọng góp phần đạt tới mục tiêu của dự án. 1.1.3. Phân loại dự án đầu tư. 1.1.3.1. Phân loại theo ngành, lĩnh vực đầu tư: Dự án đầu tư phát triển công nghiệp. Dự án đầu tư phát triển nông, lâm, ngư nghiệp. Dự án đầu tư phát triển dịch vụ. Dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. 1.1.3.2. Phân loại theo nguồn vốn đầu tư: Dự án đầu tư bằng nguồn vốn trong nước như: vốn Ngân sách Nhà nước, vốn tự có, vốn vay Ngân hàng,… Dự án đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài như: vốn đầu tư trực tiếp, vốn vay, vốn hỗ trợ phát triển chính thức,… 1.1.3.3. Phân loại theo tính chất đầu tư: Dự án đầu tư mới: là hoạt động bỏ vốn để xây dựng các công trình mới hoặc hình thành các đơn vị sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân. Dự án đầu tư mở rộng: là hoạt động bỏ vốn để mở rộng công trình đang hoạt động, nhằm nâng cao công suất, tăng thêm mặt hàng, hoặc nâng cấp, hiện đại hóa dây chuyền sản xuất, dịch vụ trên cơ sở các công trình sẵn có. 1.1.3.4. Phân loại theo chức năng quản trị vốn đầu tư: Dự án đầu tư trực tiếp: là hoạt động đầu tư trong đó chủ đầu tư trực tiếp tham gia quản trị và sở hữu vốn đã bỏ ra. Dự án đầu tư gián tiếp: là hoạt động đầu tư trong đó người bỏ vốn không trực tiếp tham gia quản trị vốn đã bỏ ra. 1.1.3.5. Phân loại theo chủ thể đầu tư: Đầu tư của Nhà nước Đầu tư của doanh nghiệp Đầu tư cá nhân Ở Việt Nam, theo “Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng” ban hành kèm theo Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07 tháng 02 năm 2005 của Chính Phủ, dự án đầu tư được phân loại cụ thể như sau: Bảng 1: Phân loại dự án đầu tư Loại dự án đầu tư xây dựng công trình Tổng mức đầu tư I Dự án quan trọng quốc gia Theo Nghị quyết của Quốc hội II Nhóm A 1 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: thuộc lĩnh vực bảo vệ an ninh, quốc phòng có tính chất bảo mật quốc gia, có ý nghĩa chính trị - xã hội quan trọng Không kể mức vốn. 2 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: sản xuất chất độc hại, chất nổ; hạ tầng khu công nghiệp. Không kể mức vốn. 3 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp điện, khai thác dầu khí, hóa chất, phân bón, chế tạo máy, xi măng, luyện kim, khai thác chế biến khoáng sản, các dự án giao thông (cầu, cảng biển, cảng sông, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ), xây dựng khu nhà ở. Trên 600 tỷ đồng 4 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: thủy lợi, giao thông (khác ở điểm II-3), cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị thông tin, điện tử, tin học, hóa dược, thiết bị y tế, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính, viễn thông. Trên 400 tỷ đồng 5 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp nhẹ, sành sứ, thủy tinh, in, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, chế biến nông, lâm sản. Trên 300 tỷ đồng 6 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: y tế, văn hóa, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân dụng khác (trừ xây dựng khu nhà ở), kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác. Trên 200 tỷ đồng III Nhóm B 1 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp điện, khai thác dầu khí, hóa chất, phân bón, chế tạo máy, xi măng, luyện kim, khai thác chế biến khoáng sản, các dự án giao thông (cầu, cảng biển, cảng sông, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ), xây dựng khu nhà ở. Từ 30 đến 600 tỷ đồng 2 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: thủy lợi, giao thông (khác ở điểm II-3), cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị thông tin, điện tử, tin học, hóa dược, thiết bị y tế, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính, viễn thông. Từ 20 đến 400 tỷ đồng 3 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: hạ tầng kỹ thuật khu đô thị mới, công nghiệp nhẹ, sành sứ, thủy tinh, in, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, chế biến nông, lâm sản. Từ 15 đến 300 tỷ đồng 4 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: y tế, văn hóa, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân dụng khác (trừ xây dựng khu nhà ở), kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác. Từ 7 đến 200 tỷ đồng IV Nhóm C 1 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp điện, khai thác dầu khí, hóa chất, phân bón, chế tạo máy, xi măng, luyện kim, khai thác chế biến khoáng sản, các dự án giao thông (cầu, cảng biển, cảng sông, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ). Các trường phổ thông nằm trong quy hoạch (không kể mức vốn), xây dựng khu nhà ở Dưới 30 tỷ đồng 2 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: thủy lợi, giao thông (khác ở điểm II-3), cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị thông tin, điện tử, tin học, hóa dược, thiết bị y tế, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính, viễn thông. Dưới 20 tỷ đồng 3 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp nhẹ, sành sứ, thủy tinh, in, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, chế biến nông, lâm sản. Dưới 15 tỷ đồng 4 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: y tế, văn hóa, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân dụng khác (trừ xây dựng khu nhà ở), kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác. Dưới 7 tỷ đồng 1.1.4. Yêu cầu đối với một dự án đầu tư. Soạn thảo dự án là một công việc khó khăn, phức tạp. Không thể xem soạn thảo dự án là việc làm chiếu lệ để tìm đối tác hoặc vay vốn đầu tư. Để một dự án đầu tư có tính thuyết phục và thu hút các bên tham gia, khi soạn thảo dự án cần đảm bảo đầy đủ những yêu cầu cơ bản sau: * Tính khoa học: Đây là yêu cầu quan trọng hàng đầu của dự án đầu tư. Đảm bảo yêu cầu này sẽ tạo tiền đề cho việc triển khai và thực hiện thành công dự án. Tính khoa học của dự án được thể hiện trên những khía cạnh chủ yếu sau: Về số liệu thông tin: Những dữ liệu, thông tin để xây dựng dự án phải đảm bảo trung thực, chính xác, tức là phải chứng minh được nguồn gốc và xuất xứ của những thông tin và những số liệu đã thu thập được. Về phương pháp lý giải: Các nội dung của dự án không tồn tại độc lập, riêng rẽ mà chúng luôn nằm trong một thể thống nhất, đồng bộ. Vì vậy, quá trình phân tích, lý giải các nội dung đã nêu trong dự án phải đảm bảo lôgic và chặt chẽ. Về phương pháp tính toán: Khối lượng tính toán trong một dự án thường rất lớn. Do đó, khi thực hiện tính toán các chỉ tiêu cần đảm bảo đơn giản và chính xác. Đối với các đồ thị, các bản vẽ kỹ thuật phải đảm bảo chính xác về kích thước, tỷ lệ. Về hình thức trình bày: Dự án chứa đựng rất nhiều nội dung, nên khi trình bày phải đảm bảo có hệ thống, rõ ràng và sạch đẹp. * Tính pháp lý: Để đảm bảo yêu cầu quản lý Nhà nước một cách thống nhất trong lĩnh vực đầu tư, dự án cần có tính pháp lý. Vì vậy, việc triển khai thực hiện dự án phải được phép của các cơ quan có thẩm quyền. Muốn vậy, dự án đầu tư không được chứa đựng những điều trái với luật pháp và chính sách của Nhà nước về đầu tư. Nói khác đi là dự án cần có cơ sở pháp lý vững chắc, tức là phù hợp với chính sách và luật pháp của Nhà nước. Điều này đòi hỏi người soạn thảo dự án phải nghiên cứu kỹ chủ trương, chính sách của Nhà nước và các văn bản luật pháp có liên quan đến các hoạt động đầu tư đó. * Tính khả thi: Tính khả thi của dự án đầu tư thể hiện ở chỗ nó phải được xuất phát từ thực tế và có khả năng ứng dụng và triển khai trong thực tế. Thật vậy, một dự án đầu tư khi không có tính khả thi, tức là một dự án không phản ánh đúng hiện thực, thiếu các yếu tố cần thiết để định lượng được biên độ an toàn khi bỏ vốn đầu tư. Vì vậy muốn bảo đảm yêu cầu tính khả thi đòi hỏi dự án phải phản ánh đúng môi trường đầu tư tức là phải được xây dựng trong những hoàn cảnh và điều kiện cụ thể về thị trường, mặt bằng, vốn, nguồn nguyên liệu…Đặc biệt đối với những dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài, để đảm bảo tính khả thi của nó đòi hỏi việc soạn thảo dự án phải hết sức tranh thủ ý kiến tư vấn của các phòng làm dịch vụ đầu tư ở các nước tiếp nhận đầu tư vì họ là người am hiểu đầy đủ mọi đặc điểm của môi trường đầu tư ở nước họ. * Tính thống nhất: Lập và thực hiện dự án đầu tư là một quá trình gian nan, phức tạp. Đó không chỉ là công việc độc lập của chủ đầu tư mà nó còn liên quan đến nhiều bên như cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, các nhà tài trợ…Vì vậy, dự án phải biểu hiện sự thống nhất về lợi ích giữa các bên có liên quan đến dự án. Muốn các bên đối tác hiểu và quyết định tham gia dự án đầu tư, các tổ chức tài chính quyết định tài trợ hay cho vay đối với các dự án và muốn được cơ quan có thẩm quyền xem xét cấp giấy phép đầu tư thì việc xây dựng dự án từ các bước tiến hành đến nội dung, hình thức, cách trình bày dự án cần phải tuân thủ theo những quy định chung mang tính thống nhất trong quốc gia và quốc tế. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho các bên chấp thuận dự án. * Tính hiệu quả: Được phản ánh thông qua chỉ tiêu lợi nhuận và những chỉ tiêu về lợi ích kinh tế xã hội mà dự án mang lại. Thật vậy, không một nhà đầu tư nào khi bỏ vốn đầu tư vào một lĩnh vực kinh doanh mà không nghĩ đến phần lợi nhuận mà mình được hưởng. Song, phần lợi ích mà nhà đầu tư được hưởng đó chỉ được coi là có hiệu quả khi nó không gây ảnh hưởng xấu hoặc vi phạm đến lợi ích của xã hội. * Tính giả định: Xuất phát từ tính phức tạp của hoạt động đầu tư nên người soạn thảo dự án dù đã có nhiều kinh nghiệm và chuẩn bị kỹ lưỡng đến đâu cũng không thể lường hết được những yếu tố sẽ chi phối hoạt động đầu tư trong tương lai. Những nội dung, tính toán về quy mô sản xuất, chi phí, giá cả, doanh thu, lợi nhuận…trong dự án chỉ có tính chất dự trù, dự báo. Thực tế thường xảy ra không hoàn toàn đúng như dự báo. Thậm chí, trong nhiều trường hợp, thực tế xảy ra lại khác xa so với dự kiến ban đầu trong dự án. Vì vậy, trong quá trình lập dự án cần chú ý đến tính giả định. Có nghĩa là người lập dự án cần đưa ra những tình huống giả định có tính rủi ro trên một số phương diện như thị trường, công nghệ, quản trị…của dự án, từ đó, tiến hành việc phân tích, đánh giá xem những rủi ro đó sẽ tác động đến dự án như thế nào để có biện pháp phòng ngừa hiệu quả. 1.1.5. Sự cần thiết của dự án đầu tư. * Đối với chủ đầu tư: Dự án đầu tư có ý nghĩa quan trọng đối với nhiều đối tượng khác nhau, trong đó có thể nói quan trọng nhất và trực tiếp nhất là đối với các chủ đầu tư Trước hết, dự án đầu tư là một căn cứ quan trọng nhất để nhà đầu tư quyết định có nên tiến hành đầu tư hay không bởi vì sau khi thiết lập và thẩm định dự án đầu tư, nhà đầu tư sẽ thấy rõ được tất cả những lợi hại do dự án mang lại. Dự án đầu tư sẽ là công cụ giúp nhà đầu tư xác định được cơ hội đầu tư tốt, giảm thiểu rủi ro, chi phí cơ hội. Ngoài ra, sau khi đã quyết định đầu tư, dự án đầu tư sẽ là cơ sở cho các nhà đẩu tư xây dựng kế hoạch đầu tư, theo dõi, đôn đốc và kiểm tra quá trình thực hiện dự án. Dự án đầu tư cũng sẽ là công cụ để tìm kiếm các đối tác liên doanh, tài trợ vốn cho dự án thông qua việc các đối tác này có điều kiện đánh giá triển vọng hợp tác đầu tư qua những giải trình chi tiết, đầy đủ trong dự án. Dự án đầu tư lại là căn cứ để soạn thảo hợp đồng liên doanh ngay sau khi quyết định hợp tác với nhau cũng như là căn cứ để giải quyết các mối quan hệ tranh chấp giữa các đối tác trong quá trình thực hiện dự án. * Đối với Nhà nước: Dự án đầu tư là tài liệu để các cấp có thẩm quyền xét duyệt cấp giấy phép đầu tư, là căn cứ pháp lý để tòa án xem xét, giải quyết khi có sự tranh chấp giữa các bên tham gia đầu tư. * Đối với các tổ chức tài trợ vốn: Đối với các tổ chức tài trợ vốn, ví dụ như các NHTM – một nhà tài trợ lớn, thường xuyên và quan trọng, ngoài những ý nghĩa được chú trọng trên thì dự án đầu tư là căn cứ để các tổ chức này xem xét tính khả thi của dự án, từ đó quyết định có nên tài trợ hay không, tài trợ đến mức độ nào nhằm đảm bảo thu hồi được vốn, hạn chế tối đa mọi rủi ro. Trong thực tế có thể nói đó chính là điều bận tâm lớn nhất, điều quan tâm tập trung nhất và cũng hầu như là duy nhất đối với các chủ ngân hàng trong hoạt động cho vay. Để đạt được mục tiêu đó, trên cơ sở các dự án đầu tư thì các nhà tài trợ, các chủ ngân hàng sẽ xem xét, thẩm định một cách kỹ lưỡng trên nhiều phương diện dự án bằng các phương pháp, nghiệp vụ khác nhau. 1.1.6. Cơ cấu, nội dung của một dự án đầu tư. Thông thường, một dự án đầu tư phải được trình bày theo những nội dung sau: Một là: Nghiên cứu về sự cần thiết phải đầu tư. Dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất – kinh doanh, phát triển kinh tế, làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và hoạt động tài trợ. Tùy theo từng dự án cụ thể để nghiên cứu, xác định những cơ sở về sự cần thiết phải tiến hành đầu tư theo dự án đó. Tuy nhiên, do hoạt động đầu tư mang tính phức tạp, có liên quan, ảnh hưởng và chịu sự chi phối của rất nhiều yếu tố, trong đó đặc biệt là tình hình kinh tế của mỗi vùng, mỗi khu vực và mỗi quốc gia. Vì vậy, có thể nói rằng, tình hình kinh tế tổng quát là cơ sở chủ yếu nhất để nghiên cứu sự cần thiết phải thực hiện các dự án đầu tư. Khi nghiên cứu tình hình kinh tế tổng quát có liên quan đến dự án đầu tư cần xem xét trên các khía cạnh chủ yếu sau: Điều kiện về địa lý, tự nhiên. Điều kiện về dân số và lao động. Tình hình chính trị, các chính sách và hệ thống luật pháp của Nhà nước. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, thực trạng sản xuất – kinh doanh của ngành, của cơ sở. Hai là: Nghiên cứu về phương diện thị trường của dự án. Nghiên cứu về phương diện thị trường là nội dung quan trọng đầu tiên và có ý nghĩa sống còn của dự án. Thị trường là nơi phát ra những tín hiệu rất cần thiết đối với chủ đầu tư, là nhân tố quyết định việc lựa chọn mục tiêu và quy mô của dự án. Nghiên cứu thị trường dự án bao gồm các vấn đề chính sau: Lựa chọn sản phẩm dự án. Xác định nhu cầu thị trường hiện tại. Dự báo nhu cầu tương lai sản phẩm dự án. Phân tích khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Xây dựng các biện pháp tiếp thị và mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của dự án. Ba là: Nghiên cứu phương diện kỹ thuật – công nghệ của dự án. Tùy thuộc vào từng loại dự án cụ thể mà nội dung nghiên cứu kỹ thuật – công nghệ có nội dung và mức độ phức tạp khác nhau. Tuy nhiên, những nội dung cơ bản cần tập trung nghiên cứu bao gồm các vấn đề chính sau: Lựa chọn hình thức đầu tư Nghiên cứu lựa chọn công suất của dự án. Xác định chương trình sản xuất và nhu cầu các yếu tố đầu vào cho sản xuất. Lựa chọn địa điểm xây dựng dự án. Nghiên cứu về công nghệ và trang thiết bị. Nghiên cứu kỹ thuật xây dựng công trình của dự án. Bốn là: Nghiên cứu phương diện quản trị nhân lực dự án. Năm là: Nghiên cứu phương diện tài chính dự án. Đầu tư là hoạt động sử dụng vốn nên quyết định đầu tư trước hết và thường là quyết định tài chính. Trên thực tế hoạt động đầu tư, các quyết định như chọn địa điểm xây dựng, mua máy móc, thiết bị, xây dựng công trình…luôn được cân nhắc, xem xét từ khía cạnh tài chính. Nếu dự án có thể khả thi ở một số phương diện nhưng không khả thi ở phương diện tài chính sẽ không thể thực hiện trên thực tế. Điều đó khẳng định tầm quan trọng của việc thẩm định, đánh giá về phương diện tài chính của dự án. Mục đích chủ yếu của việc thẩm định, đánh giá về mặt tài chính của dự án đầu tư nhằm: Kiểm tra nhu cầu và sự đảm bảo các nguồn lực tài chính cho việc thực hiện có hiệu quả các dự án đầu tư. Kiểm tra tình hình, kết quả và hiệu quả hoạt động của dự án để đánh giá khả năng sinh lời của vốn đầu tư, thời gian hoàn vốn, độ rủi ro của dự án… Để đạt được mục tiêu trên, cần tiến hành thẩm định thông qua các nội dung chủ yếu sau: Xác định tổng vốn đầu tư và nguồn vốn Nghiên cứu giá thành sản phẩm dự án. Nghiên cứu doanh thu của dự án. Nghiên cứu các chỉ tiêu hiệu quả tài chính chủ yếu của dự án. Đánh giá mức độ rủi ro của dự án. Sáu là: Nghiên cứu lợi ích kinh tế - xã hội của dự án. Cần đánh giá, so sánh giữa lợi ích do dự án tạo ra và cái giá mà xã hội phải trả trong việc sử dụng các nguồn lực trên các mặt chủ yếu sau: Khả năng tạo nguồn thu Ngân sách. Tạo công ăn, việc làm. Mức phù hợp với mục tiêu của Chính Phủ. Nâng cao mức sống người dân. Tăng thu và tiết kiệm ngoại tệ. Yếu tố môi trường. Bảy là: Kết luận và kiến nghị. Thông qua nội dung nghiên cứu trên cần kết luận tổng quát về khả năng thực hiện của dự án, những khó khăn và thuận lợi trong quá trình chuẩn bị và thực hiện dự án, đồng thời đề xuất kiến nghị đối với các tổ chức có liên quan đến dự án. 1.2. Thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của NHTM. 1.2.1. Hoạt động cho vay theo dự án đầu tư của NHTM. Dự án đầu tư có tầm quan trọng vô cùng to lớn không những đối với các doanh nghiệp, đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung mà còn đối với các NHTM. Cho vay theo dự án là một hoạt động tín dụng hỗ trợ cho các doanh nghiệp có được lượng vốn ban đầu để đầu tư, tư vấn cho họ về tính hợp lý hay không hợp lý của dự án đầu tư, về những thay đổi có thể xảy ra trong tương lai của dự án và về những rủi ro mà dự án có thể gặp phải. Đây là hoạt động mang lại phần lớn lợi nhuận cho ngân hàng nhưng lại chứa đựng rủi ro rất cao. Tuy nhiên, đã là một NHTM đa năng trong nền kinh tế thị trường đầy biến động và thách thức thì phải xác định luôn chung sống với rủi ro, và tìm cách hạn chế, phòng ngừa nó. Họat động cho vay theo dự án đầu tư của NHTM có những đặc trưng chủ yếu sau: Là hoạt động cho vay trung dài hạn, nhưng thời hạn cho vay không được vượt quá thời gian khấu hao tài sản hình thành từ vốn vay đó. Là hoạt động cho vay với quy mô lớn. Là hoạt động cho vay có mức rủi ro cao vì thời hạn dài, quy mô lớn, và dự án chịu nhiều tác động bởi các yếu tố môi trường, kinh tế, xã hội, kỹ thuật… 1.2.2. Khái niệm về thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của NHTM. NHTM là một tổ chức trung gian tài chính hoạt động trên lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Trong kinh doanh của ngân hàng hiện đại, việc đa dạng hóa các hoạt động nghiệp vụ là hết sức cần thiết. Cùng với nhiều nghiệp vụ khác, tài trợ dự án là một trong những lĩnh vực căn bản và quan trọng nhất trong các nghiệp vụ của NHTM. Tại Việt Nam, thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại hóa, rất nhiều dự án đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, mọi ngành nghề và lĩnh vực đang được thực hiện. Để công cuộc đầu tư triển khai được thuận lợi thì việc đảm bảo đầy đủ vốn đầu tư là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt. Đầu tư là hoạt động kinh tế – kỹ thuật phức tạp, đòi hỏi một thời gian dài với khối lượng vốn đầu tư sử dụng rất lớn. Đứng trên góc độ doanh nghiệp, chủ đầu tư phải huy động mọi nguồn tài chính của mình để thực hiện dự án. Tuy nhiên, trên thực tế, nguồn tài chính của chủ đầu tư thường không thể đáp ứng hoàn toàn nhu cầu vốn của dự án. Điều này không chỉ xảy ra đối với các doanh nghiệp ở nước ta, một quốc gia đang phát triển, mà còn là tình trạng chung của nhiều nước trên thế giới, kể cả một số nước công nghiệp phát triển. Để đáp ứng nguồn tài chính cho hoạt động đầu tư, nhất là đối với các dự án có quy mô lớn, các chủ đầu tư phải tìm kiếm nguồn tài chính hỗ trợ từ bên ngoài. Việc thu hút vốn đầu tư xã hội để tài trợ cho dự án có thể thông qua nhiều con đường khác nhau. Trong đó, nguồn vốn tài trợ cho dự án từ các NHTM có vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là trong điều kiện Việt Nam hiện nay, khi các kênh dẫn vốn khác còn rất hạn chế hoặc hoạt động chưa mấy hiệu quả. Hoạt động tài trợ dự án của NHTM có thể thực hiện thông qua nhiều hình thức khác nhau như tín dụng trung, dài hạn, đồng tài trợ, cho thuê tài chính, …Trong quá trình tài trợ, điểm mấu chốt nhất mà các NHTM đều quan tâm đó là tính hiệu quả và an toàn của khoản tài trợ cho dự án. Trên thực tế, đầu tư dự án là lĩnh vực tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Do đó, vừa đảm bảo hiệu quả đồng thời đảm bảo an toàn vốn đầu tư là một bài toán hết sức phức tạp đối với các NHTM. Hướng tới mục tiêu này, NHTM đã sử dụng nhiều phương thức khác nhau để đánh giá tính khả thi và quản trị khoản tài trợ sao cho đạt được yêu cầu mong muốn. Trong đó, thẩm định dự án đầu tư luôn luôn được các NHTM coi như một công cụ hữu hiệu và đặc biệt quan trọng trong hệ thống các biện pháp đảm bảo cho hoạt động tài trợ vốn của ngân hàng đối với dự án. Các doanh nghiệp khi có định hướng đầu tư sẽ tiến hành thuê các cơ quan tư vấn để cùng phối hợp xây dựng dự án. Do có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực lập dự án nên các dự án có sự tham gia của tư vấn đều đảm bảo được những yêu cầu cơ bản trong lập dự án. Tuy nhiên, bất cứ một dự án nào trong quá trình soạn thảo cũng có thể mắc phải những sai sót, khiếm khuyết mang tính khách quan và chủ quan. Những sai sót này nếu không được phát hiện và kịp thời điều chỉnh sẽ gây ra những hậu quả khôn lường khi dự án được triển khai và nhất là giai đoạn đi vào vận hành khai thác. Một thông tin sai trong quá trình lập dự án có thể buộc chủ đầu tư và NHTM trả một giá rất đắt khi dự án được đưa vào vận hành. Chính vì lý do nói trên, trước khi quyết định tài trợ vốn cho dự án, NHTM nhất thiết phải tiến hành công tác thẩm định để có thể nắm bắt một cách cụ thể và rõ ràng tất cả các vấn đề có liên quan đến dự án. “ Thẩm định dự án là quá trình NHTM phân tích và đánh giá lại dự án một cách khoa học, độc lập và khách quan trên cơ sở các thông tin do ngân hàng thu thập được nhằm khẳng định tính hiệu quả, tính an toàn, tính khả thi của dự án. Qua đó, NHTM có cơ sở chắc chắn để quyết định về quy mô và hình thức tài trợ cho dự án ”. 1.2.3. Ý nghĩa của công tác thẩm định dự án đầu tư đối với NHTM. Hỗ trợ về mặt tài chính cho các dự án là hoạt động cần thiết đối với các NHTM, các chủ đầu tư cũng như với nền kinh tế nói chung. Trên quan điểm ngân hàng, đây là hoạt động có rủi ro rất cao đồng thời cũng có lợi nhuận kỳ vọng rất lớn. Vấn đề ngân hàng quan tâm nhất là nhà đầu tư có khả năng trả đủ và trả đúng thời hạn những khoản vay hay không. Để có câu trả lời chính xác thì ngân hàng cần thẩm định lại những dự án đầu tư đó. Việc thẩm định dự án đầu tư sẽ góp phần không nhỏ tránh được rủi ro và thiệt hại không chỉ về vật chất, uy tín mà còn ảnh hưởng đến cả nền kinh tế và xã hội, đồng thời không bỏ lỡ cơ hội thu về lợi nhuận. Về cơ bản, thẩm định dự án trước mắt sẽ tránh được hai vấn đề: Một là: Nếu dự án vay vốn mà khả thi nhưng ngân hàng lại không cho vay thì sẽ mất cơ hội sử dụng đồng vốn hiệu quả, mất khách hàng tốt và giảm uy tín của chính mình. Hai là: Nếu dự án vay vốn mà không khả thi nhưng ngân hàng vẫn đầu tư thì rủi ro mất vốn, thua lỗ, mất an toàn trong kinh doanh tất yếu sẽ xảy ra. Do đó, hoạt động thẩm định dự án sẽ giúp ngân hàng: - Đưa ra những cơ sở, những kết luận vững chắc về tính khả thi, tính hiệu quả của dự án, và quan trọng hơn cả là khả năng hoàn trả vốn vay của chủ đầu tư để từ đó đưa ra những quyết định đúng đắn nhất. - Dự đoán những rủi ro có thể xảy ra ảnh hưởng tới quá trình triển khai, thực hiện dự án như các yếu tố về sự biến động thị trường, nguyên liệu đầu vào, chi phí sản xuất, các yếu tố về môi trường, chính sách quản lý,…Trên cơ sở này, phát hiện và bổ sung thêm các biện pháp phòng ngừa hoặc hạn chế rủi ro, đồng thời tham gia ý kiến với các cơ quan Nhà nước và chủ đầu tư, từ đó nâng cao tính khả thi trong việc thực hiện dự án. - Lựa chọn phương án tốt nhất, xác định được lợi nhuận ._.của dự án khi đưa vào hoạt động. - Xác định chính xác chi phí sử dụng vốn, thời gian thực hiện cũng như thời gian hoàn vốn để từ đó ngân hàng có thể đưa ra thời hạn cho vay và lãi suất hợp lý để thu hồi vốn đúng hạn. Trên cơ sở đó tạo ra căn cứ để kiểm tra việc sử dụng vốn đúng mục đích, đối tượng và tiết kiệm trong quá trình thực hiện dự án. - Một dự án đầu tư dù được tiến hành soạn thảo kỹ lưỡng đến đâu cũng vẫn mang tính chủ quan của người soạn thảo. Người soạn thảo thường đứng trên góc độ hẹp để nhìn nhận các vấn đề của dự án. Các nhà thẩm định thường có cái nhìn rộng hơn trong việc đánh giá dự án, xuất phát từ lợi ích của ngân hàng và của nền kinh tế nói chung để nhìn nhận một cách khách quan về dự án. - Khi soạn thảo dự án có thể có những sai sót, các ý kiến có thể mâu thuẫn, không lôgic, thậm chí có những câu văn, những từ dùng sơ hở có thể gây ra những tranh chấp giữa các đối tác tham gia đầu tư. Thẩm định dự án sẽ phát hiện và sửa chữa được những sai sót đó. - Qua mỗi lần thẩm định dự án đầu tư, ngân hàng sẽ rút ra được những kinh nghiệm trong hoạt động đầu tư, cho vay để chất lượng hoạt động của ngân hàng ngày càng được nâng cao. Như vậy, thẩm định dự án đầu tư là cần thiết và trên thực tế, nghiệp vụ này đã trở thành một bộ phận quan trọng mang tính quyết định trong hoạt động tín dụng trung dài hạn của mỗi NHTM. 1.2.4. Nội dung thẩm định dự án đầu tư. 1.2.4.1. Thẩm định tính đầy đủ, hợp pháp, hợp lệ của hồ sơ xin vay vốn. a. Giấy đề nghị vay vốn. b. Danh mục hồ sơ pháp lý. Hồ sơ pháp lý mà khách hàng phải gửi đến ngân hàng bao gồm: * Đối với khách hàng hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước: Quyết định thành lập doanh nghiệp. Điều lệ doanh nghiệp. Quyết định bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, giám đốc, quyết định bổ nhiệm kế toán trưởng. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh Giấy phép hành nghề đối với những ngành nghề có giấy phép. Giấy phép xuất nhập khẩu trực tiếp nếu ngành nghề có qui định hoặc đăng ký mã số xuất nhập khẩu. Văn bản ủy quyền hoặc xác định về thẩm quyền trong quan hệ vay vốn như: văn bản của Hội đồng quản trị, ủy quyền của Tổng giám đốc, Giám đốc cho người khác ký hợp đồng. Trường hợp khách hàng vay vốn là đơn vị hạch toán hụ thuộc của pháp nhân thì phải có văn bản pháp lý như quyết định thành lập, quy chế tổ chức và hoạt động, xác định rõ thẩm quyền hoặc ủy quyền vay vốn tại Ngân hàng. Nội dung ủy quyền phải thể hiện cụ thể số tiền vay hoặc số tiền được vay cao nhất, thời hạn vay vốn, mục đích vay vốn, bảo đảm tiền vay,…và có cam kết chịu trách nhiệm trả nợ thay khi đơn vị phụ thuộc không trả được nợ vay. Người ủy quyền phải có đủ thẩm quyền pháp lý. Đăng ký mã số thuế. Các văn bản khác theo quy định của pháp luật. * Đối với khách hàng hoạt động theo luật doanh nghiệp. Quyết định thành lập doanh nghiệp. Điều lệ doanh nghiệp. Giấy chứng nhận dăng ký kinh doanh. Giấy phép hành nghề đối với doanh nghiệp cần giấy phép. Giấy phép xuất nhập khẩu trực tiếp nếu ngành nghề có quy định. Giấy chứng nhận phần vốn góp của từng thành viên. Biên bản bầu thành viên Hội đồng quản trị, Chủ tịch, văn bản bổ nhiệm Tổng giám đốc, Giám đốc, Kế toán trưởng Quyết định của Hội đồng thành viên hoặc Hội đồng quản trị về việc ủy quyền cho người đaị diện doanh nghiệp vay vốn ngân hàng. Các giấy tờ khác liên quan. * Đối với khách hàng là doanh nghiệp hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài: Giấy phép đầu tư. Hợp đồng liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh. Điều lệ doanh nghiệp. Văn bản bổ nhiệm hoặc bầu Hội đồng quản trị, Chủ tịch, Tổng giám đốc, Giám đốc, kế toán trưởng hoặc một chức danh quản lý về tài chính. Văn bản ủy quyền hoặc xác định về thẩm quyền trong quan hệ vay vốn. Các giấy tờ khác liên quan. c. Danh mục hồ sơ đảm bảo tiền vay * Trường hợp cho vay không có tài sản đảm bảo: Giấy cam kết của khách hàng về việc thực hiện đảm bảo bằng tài sản khi được đơn vị trực tiếp cho vay yêu cầu Chỉ định của Chính Phủ về việc cho vay không có đảm bảo đối với khách hàng * Trường hợp đảm bảo bằng tài sản của khách hàng: Giấy tờ pháp lý chứng nhận quyền sở hữu tài sản: Giấy chứng nhận bảo hiểm tài sản Các giấy tờ khác có liên quan * Trường hợp bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay: Giấy cam kết thế chấp, cầm cố tài sản hình thành từ vốn vay trong đó nêu rõ quá trình hình thành tài sản và bàn giao ngay các giấy tờ liên quan đến tài sản khi được hoàn thành hoặc hợp đồng thế chấp cầm cố, dự phòng. Văn bản của Chính Phủ cho phép được bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay (nếu việc bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay theo chỉ định của Chính Phủ). * Trường hợp bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba: Ngoài các giấy tờ như ở trường hợp thứ hai còn có hợp đồng, văn bản bảo lãnh của bên thứ ba. 1.2.4.2. Thẩm định về tư cách và năng lực pháp lý, năng lực điều hành và quản lý sản xuất kinh doanh của khách hàng. * Đánh giá chung về khách hàng: Lịch sử công ty. Những thay đổi về vốn góp. Những thay đổi trong cơ chế quản lý. Những thay đổi về công nghệ hoặc thiết bị. Những thay đổi về sản phẩm. Lịch sử về các quá trình liên kết, hợp tác, giải thể. Loại hình kinh doanh hiện tại. Khía cạnh chính trị và xã hội đằng sau các hoạt động kinh doanh Điều kiện địa lý kinh tế Những thông tin này được dùng để đánh giá chung về khả năng hiện tại cũng như tính cạnh tranh cuả công ty trong tương lai. Đây là điều cần thiết để biết liệu công ty có thể đứng vững trước những thay đổi bên ngoài cũng như khả năng mở rộng hoạt động. * Đánh giá tư cách và năng lực pháp lý. Khách hàng vay vốn có trụ sở tại địa bàn nơi Ngân hàng cho vay có trụ sở không? Khách hàng vay vốn là pháp nhân có năng lực pháp luật dân sự không? Khách hàng vay vốn là doanh nghiệp tư nhân, chủ doanh nghiệp có đủ hành vi năng lực dân sự, năng lực pháp luật dân sự và hoạt động theo luật doanh nghiệp? Khách hàng vay vốn là công ty hợp danh có hoạt động theo luật doanh nghiệp? Thành viên công ty có đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự? Điều lệ, quy chế tổ chức của khách hàng vay vốn có thể hiện rõ về phương thức tổ chức, quản trị, điều hành? Giấy phép đầu tư, chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép hành nghề có còn hiệu lực trong thời hạn cho vay? Khách hàng vay vốn là đơn vị hạch toán phụ thuộc có giấy ủy quyền vay vốn của pháp nhân trực tiếp? Mẫu dấu, chữ ký * Mô hình tổ chức, bố trí lao động của doanh nghiệp: Quy mô hoạt động của doanh nghiệp Cơ cấu tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh Số lượng lao động, trình độ lao động, cơ cấu lao động trực tiếp và gián tiếp Tuổi trung bình, thời gian công việc, mức thu nhập trung bình Chính sách và kết quả tuyển dụng Chính sách tăng lương, thưởng Hiệu quả sản xuất Trình độ kỹ thuật, trình độ học vấn, kinh nghiệm và lĩnh vực của các kỹ sư chính trong doanh nghiệp Tình hình đầu tư vào công tác nghiên cứu và phát triển về doanh số và thiết bị, phát triển các sản phẩm mới, kiểu dáng, mẫu mã, hợp tác công nghệ * Quản trị điều hành của Ban lãnh đạo Danh sách Ban lãnh đạo, tuổi, sức khỏe, thời gian đã đảm nhiệm chức vụ Trình độ chuyên môn Kinh nghiệm, cách thức quản lý, đạo đức của người lãnh đạo cao nhất và ban điều hành Khả năng nắm bắt thị trường, thích ứng hội nhập thị trường Uy tín của lãnh đạo trong và ngoài doanh nghiệp Ai là người ra quyết định thực sự của doanh nghiệp Những biến động về nhân sự lãnh đạo của công ty Ban quản lý có khả năng ra các quyết định dựa vào các thông tin tài chính không Việc ra quyết định có phải được tập trung vào một người và cách thức quản lý của họ hay không? 1.2.4.3. Thẩm định sự cần thiết phải đầu tư và mục tiêu của dự án. - Mỗi một dự án, đánh giá được sự cần thiết phải đầu tư và những mục tiêu mà dự án cần đạt được là mối quan tâm hàng đầu của người thẩm định. Cụ thể, người thẩm định cần phải nắm bắt được những nội dung chủ yếu sau đây: - Mục tiêu của dự án có phù hợp và đáp ứng mục tiêu của ngành, của địa phương và của cả nước không? - Đánh giá về sự cần thiết phải phát triển doanh nghiệp trước những đòi hỏi ngày càng cao và đa dạng của thị trường? Dự án nếu được thực hiện sẽ mang lại lợi ích cho chủ đầu tư, cho nền kinh tế - xã hội như thế nào? - Đánh giá quan hệ cung cầu của sản phẩm hiện tại và dự đoán trong tương lai, từ đó xác định được khả năng tham gia thị trường cũng như tiềm năng phát triển của dự án. Nếu là đầu tư để cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất của doanh nghiệp hiện có thì đánh giá về trình độ sản xuất, chất lượng quy cách, giá cả sản phẩm trước và sau khi đầu tư. Phân tích năng lực máy móc, thiết bị, quy mô sản xuất hiện có so với nhu cầu thị trường hiện tại, từ đó, nêu bật lên sự cần thiết phải đầu tư để đáp ứng nhu cầu đổi mới công nghệ, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm. Nếu dự án được thực hiện thì sẽ đem lại những lợi ích cụ thể gì cho địa phương, cho ngành và cho nền kinh tế quốc dân? Nhìn một cách tổng thể, các dự án có rất nhiều mục tiêu khác nhau cần phải đạt được. Tuy nhiên, đối với một dự án sản xuất kinh doanh thì mục tiêu quan trọng nhất là tối đa hóa giá trị doanh nghiệp từ đồng vốn đầu tư. Bên cạnh đó, dự án có thể giải quyết nhiều mục tiêu khác như tăng cường khả năng cạnh tranh của sản phẩm, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tạo sản phẩm thay thế nhập khẩu, xuất khẩu tăng thu ngoại tệ hoặc đem lại những lợi ích kinh tế xã hội khác,… 1.2.4.4. Thẩm định phương diện thị trường của dự án. Nghiên cứu thị trường trong dự án đầu tư xuất phát từ việc nắm bắt các thông tin và nhu cầu của giới tiêu thụ để quyết định sản xuất mặt hàng gì, quy cách phẩm chất thế nào, khối lượng là bao nhiêu, lựa chọn phương thức bán, phương thức tiếp cận thị trường như thế nào để tạo chỗ đứng cho sản phẩm trên thị trường hiện tại và tương lai. Thực tế cho thấy, trong nền kinh tế thị trường, sức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là rất lớn, khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng chiếm lĩnh và mở rộng thị trường quyết định trực tiếp đến sự thành bại của dự án. Do đó, việc chủ đầu tư nghiên cứu kỹ về nội dung thị trường và NHTM thẩm định lại những luận cứ của chủ đầu tư đã đưa ra là hết sức cần thiết để có thể khẳng định tính vững chắc về mặt thị trường của dự án. Mục đích của việc thẩm định thị trường là xác định và đánh giá xem dự án đầu tư sẽ khai thác sản phẩm nào là có triển vọng nhất, khu vực nào sẽ tiêu thụ các sản phẩm đó. Trên cơ sở nghiên cứu về thị trường như quy mô tiêu thụ hiện tại, tình hình cạnh tranh,…cán bộ thẩm định sẽ khẳng định được về khả năng tiêu thụ của sản phẩm đồng thời đánh giá được tính đúng đắn về chiến lược sản phẩm, chiến lược giá cả, chiến lược phân phối sản phẩm và chiến lược khuyến thị của dự án. Nội dung thẩm định thị trường bao gồm các vấn đề sau: a. Đánh giá tổng quan về nhu cầu sản phẩm dự án. Cần xác định rõ thị trường của dự án là thị trường trong nước, nước ngoài hay cả hai thị trường đó. Trên cơ sở định hướng thị trường cần tiếp tục nghiên cứu phân tích đến tình hình dân số, tốc độ tăng dân số, khả năng thu nhập và thị hiếu, tập quán tiêu dùng của người dân từng khu vực,…Từ đó hình thành nên định hướng sản xuất sản phẩm cũng như cách thức phân phối bán hàng đến từng khu vực để đạt hiệu quả cao nhất. Phân tích quan hệ cung – cầu đối với sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án. Định dạng sản phẩm của dự án. Đặc tính của nhu cầu đối với sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án. Tình hình sản xuất, tiêu thụ các sản phẩm, dịch vụ thay thế đến thời điểm thẩm định. Xác định tổng nhu cầu hiện tại và dự đoán nhu cầu tương lai đối với sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án, ước tính mức tiêu thụ gia tăng hàng năm của thị trường nội địa và khả năng xuất khẩu sản phẩm dự án trong đó lưu ý liên hệ với mức gia tăng trong quá khứ, khả năng sản phẩm dự án có thể bị thay thế bởi các sản phẩm khác có cùng công dụng. Trên cơ sở phân tích quan hệ cung cầu, tín hiệu của thị trường đối với sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án, đưa ra nhận xét về thị trường tiêu thụ đối với sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án, nhận định về sự cần thiết và tính hợp lý của dự án đầu tư trên các phương diện như: Sự cần thiết phải đầu tư trong giai đoạn hiện nay Sự hợp lý của quy mô đầu tư, cơ cấu sản phẩm Sự hợp lý về việc triển khai thực hiện đầu tư (phân kỳ đầu tư, mức huy động công suất thiết kế) b. Đánh giá về cung sản phẩm. Xác định năng lực sản xuất, cung cấp đáp ứng nhu cầu trong nước hiện tại của sản phẩm dự án như thế nào, các nhà sản xuất trong nước đã đáp ứng được bao nhiêu phần trăm, phải nhập khẩu bao nhiêu. Việc nhập khẩu là do sản xuất trong nước chưa đáp ứng được hay sản phẩm nhập khẩu có ưu thế cạnh tranh hơn. Dự đoán biến động của thị trường trong tương lai khi có các dự án khác, đối tượng khác cùng tham gia vào thị trường sản phẩm và dịch vụ đầu ra của dự án. Sản lượng nhập khẩu trong những năm qua, dự kiến khả năng nhập khẩu trong thời gian tới. Dự đoán ảnh hưởng của các chính sách xuất nhập khẩu khi Việt Nam gia nhập các tổ chức khu vực và quốc tế như AFTA, WTO, APEC, Hiệp định thương mại Việt – Mỹ đến thị trường sản phẩm của dự án. Đưa ra số liệu dự kiến về tổng cung, tốc độ tăng trưởng về tổng cung sản phẩm, dịch vụ. c. Thị trường mục tiêu và khả năng cạnh tranh của sản phẩm dự án. Trong nền kinh tế thị trường, khả năng độc quyền sản xuất và phân phối một mặt hàng nào đó là rất hiếm có. Thường có rất nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất và kinh doanh một số sản phẩm tương tự như nhau. Ngoài ra, xu hướng tự do hóa thương mại trên thế giới phát triển một cách nhanh chóng dẫn đến khả năng hàng hóa của các nước khác nhau có cơ hội thâm nhập vào thị trường Việt Nam ngày càng nhiều. Điều này tạo nên một sức cạnh tranh gay gắt trên thị trường nước ta hiện nay và trong những năm sắp tới. Xuất phát từ thực tiễn trên, trong công tác thẩm định dự án đầu tư, cán bộ thẩm định cần tập trung phân tích một số điểm sau đây: Đối với thị trường nội địa: Đã có những sản phẩm của các doanh nghiệp nào đang được tiêu thụ trên thị trường, hình thức, mẫu mã, chất lượng sản phẩm của dự án so với các sản phẩm đó, có ưu điểm gì không. Các doanh nghiệp đó đang áp dụng phương thức cạnh tranh chủ yếu nào, cạnh tranh qua giá bán hay qua chất lượng sản phẩm, qua phương thức phân phối, qua chế độ hậu mãi,… Đối với thị trường nước ngoài: Cán bộ thẩm định cần nắm bắt tình hình và triển vọng trong quan hệ kinh tế và chính trị giữa Việt Nam và những nước dự kiến sẽ nhập khẩu sản phẩm của dự án. Những quy định và mức độ khắt khe của thị trường nhập khẩu về tiêu chuẩn chất lượng, về bao bì, về vệ sinh thực phẩm,… Mức độ gay gắt về cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu, yếu tố nào được các nhà sản xuất khác sử dụng trong cạnh tranh trên thị trường đó: giá cả, chất lượng hàng hóa, phương thức phân phối, phương thức thanh toán hay sức mạnh quảng cáo. Trên cơ sở các thông tin thu thập được, đối với Ngân hàng, khi thẩm định phương diện thị trường phải tập trung phân tích: Khả năng tiêu thụ sản phẩm, xem xét tính chính xác, trung thực của các số liệu thông tin dựa vào luận chứng kinh tế kỹ thuật trên các mặt: giá cả, quy cách phẩm chất, mẫu mã hàng hóa, thị hiếu người tiêu dùng, đặc biệt đối với thị trường nước ngoài. Tình hình tiêu thụ sản phẩm cùng loại trong thời gian qua. Kinh nghiệm của đơn vị trong quan hệ thị trường về sản phẩm, khả năng nắm bắt các thông tin về thị trường quản lý xuất nhập khẩu của các nước có quan hệ. Các hợp đồng tiêu thụ hoặc bao tiêu sản phẩm về số lượng, chủng loại, giá cả, thời gian và phương thức thanh toán. Các văn bản giao dịch về sản phẩm như đơn đặt hàng, hiệp định đã ký, các biên bản đàm phán. Chú ý tính hợp lý, hợp pháp và mức độ tin cậy của các văn bản nói trên, tránh những trường hợp giả mạo, rủi ro có thể xảy ra. Về phương thức tiêu thụ hàng hóa cần tính toán để không nên chỉ bán hàng cho một thị trường hoặc một nhà tiêu thụ duy nhất mà cần chiếm lĩnh nhiều thị trường, tạo lập nhiều đầu mối tiêu thụ để chủ động bán được nhiều hàng hóa, tránh ép giá và ứ đọng hàng. Nếu các kết quả phân tích trên cho thấy nhu cầu của thị trường chỉ mang tính nhất thời hay đang dần dần bị thu hẹp lại thì cần phải hết sức thận trọng khi bỏ vốn đầu tư cho dự án. d. Phương thức tiêu thụ và mạng lưới phân phối: Xem xét, đánh giá trên các mặt: - Sản phẩm của dự án dự kiến được tiêu thụ theo phương thức nào, có cần hệ thống phân phối không. - Mạng lưới phân phối của sản phẩm dự án đã được xác lập hay chưa, mạng lưới phân phối có phù hợp với đặc điểm của thị trường hay không. Cần lưu ý trong trường hợp sản phẩm là hàng tiêu dùng, mạng lưới phân phối đóng vai trò khá quan trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm nên cần được xem xét, đánh giá kỹ. Cán bộ thẩm định cũng phải ước tính chi phí thiết lập mạng lưới phân phối khi tính toán hiệu quả của dự án. - Phương thức bán hàng trả chậm hay trả ngay để dự kiến các khoản phải thu khi tính toán nhu cầu vốn lưu động ở phần tính toán hiệu quả dự án. Nếu việc tiêu thụ chỉ dựa vào một số đơn vị phân phối thì cần có nhận định xem có thể xảy ra việc bị ép giá hay không. Nếu đã có đơn hàng cần xem xét tính hợp lý, hợp pháp và mức độ tin cậy khi thực hiện. e. Đánh giá, dự kiến khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án. Trên cơ sở đánh giá thị trường tiêu thụ, công suất thiết kế và khả năng cạnh tranh của sản phẩm dự án, cán bộ thẩm định phải đưa ra được các dự kiến về khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án sau khi đi vào hoạt động theo các chỉ tiêu chính sau: Sản lượng sản xuất, tiêu thụ hàng năm, sự thay đổi cơ cấu sản phẩm nếu dự án có nhiều loại sản phẩm. Diễn biến giá bán sản phẩm, dịch vụ đầu ra hàng năm. 1.2.4.5. Nghiên cứu và thẩm định phương diện kỹ thuật. Đảm bảo kỹ thuật cho một dự án là một nội dung quan trọng. Trong điều kiện nhất định về vốn, về thị trường, về điều kiện xã hội, lựa chọn công nghệ và trang thiết bị, nguyên liệu phù hợp, lựa chọn địa điểm xây dựng của dự án tối ưu chẳng những thỏa mãn các yêu cầu kinh tế kỹ thuật dự án đề ra mà còn tránh gây ô nhiễm môi trường và thuận lợi trong việc tiêu thụ sản phẩm. Cho nên, nghiên cứu kỹ thuật của dự án thực sự góp phần rất quan trọng vào việc đảm bảo tính khả thi của dự án. Khi nghiên cứu và thẩm định phương diện kỹ thuật phải xem xét, phân tích trên các mặt chính sau: a. Thẩm định về địa điểm xây dựng Đây là một khâu quan trọng ban đầu và cũng rất khó khăn. Để đảm bảo sự hoạt động của công trình về sau thì việc lựa chọn địa điểm xây dựng phải đảm bảo được các yêu cầu sau: Gần nơi cung cấp nguyên vật liệu chủ yếu hoặc nơi tiêu thụ chính. Giao thông thuận tiện, chi phí vận chuyển, bốc dỡ hợp lý. Thuận tiện đi lại cho cán bộ công nhân viên nhà máy. Tận dụng được cơ sở hạ tầng sẵn có: đường sá, bến cảng, điện, nước,…để tiết kiệm chi phí đầu tư. Mặt bằng phải phù hợp với quy mô hiện tại và dự phòng khả năng dự án phát triển, mở rộng trong tương lai. Đảm bảo yêu cầu vệ sinh công nghiệp, xử lý ô nhiễm môi trường, phòng cháy, chữa cháy,… Địa điểm xây dựng phải tuân thủ các văn bản quy định của Nhà nước về quy hoạch, đất đai, kiến trúc xây dựng (có giấy phép của cấp có thẩm quyền). Cần tính toán đầy đủ chi phí đền bù, di dân, giải phóng mặt bằng, san lấp tạo nền móng cho công trình có thể đi vào xây dựng. Thông thường một dự án có thể dự kiến nhiều địa điểm xây dựng khác nhau. Mỗi địa điểm có những thuận lợi và khó khăn riêng. Cần tập trung phân tích những thuận lợi và khó khăn theo các tiêu chuẩn đã nêu trên, từ đó lựa chọn được phương án tối ưu. b. Thẩm định quy mô công suất của dự án. Công suất của dự án là khả năng tạo ra sản lượng sản phẩm và dịch vụ trong một khoảng thời gian nhất định như một tháng, một quí hoặc một năm. Công suất của dự án bao gồm các loại sau: Công suất lý thuyết: Công suất lý thuyết là công suất lớn nhất mà dự án có thể thực hiện được trong điều kiện sản xuất lý thuyết. Điều kiện sản xuất lý thuyết được hiểu theo giả thiết là máy móc hoạt động liên tục, không bị gián đoạn vì bất kỳ lý do nào. Công suất lý thuyết mang tính chất tham khảo, khó có thể đạt được. Công suất thiết kế: Công suất thiết kế là công suất mà dự án đạt được trong điều kiện sản xuất bình thường. Điều kiện sản xuất bình thường được hiểu là máy móc thiết bị hoạt động theo đúng quy trình công nghệ, không bị ngừng vì những lý do không được dự tính trước, các yếu tố đầu vào được cung cấp đầy đủ, kịp thời. Công suất thiết kế của dự án được tính dựa vào công suất thiết kế của máy móc, thiết bị chủ yếu trong một giờ cùng với số giờ, số ca và số ngày làm việc. Khi tính công suất thiết kế một năm, thông thường số ngày làm việc trong năm lấy bằng 360 ngày, còn số ca/ngày, số giờ/ca lấy theo dự tính trong dự án. Công suất thực tế: Công suất thực tế là công suất đạt được trong điều kiện sản xuất cụ thể của dự án. Điều kiện sản xuất cụ thể của dự án được hiểu là sự chi phối của các yếu tố như: sự thành thạo của người công nhân, kinh nghiệm tổ chức sản xuất, khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào và các trục trặc kỹ thuật khác. Công suất thực tế được xác định trên cơ sở công suất thiết kế. Công suất tối thiểu: Công suất tối thiểu là công suất tạo ra mức sản phẩm tối thiểu cần thiết để dự án không bị lỗ. Đây là công suất tương ứng với điểm hòa vốn. Nếu sản lượng sản phẩm dưới mức sản lượng hòa vốn thì chi phí cố định cho một đơn vị sản phẩm sẽ gia tăng, khiến giá thành cao, từ đó việc sản xuất trở thành không kinh tế nữa, mặc dù về mặt chất lượng kỹ thuật có thể vẫn đảm bảo. Phân tích về quy mô công suất của dự án chủ yếu căn cứ vào các yếu tố sau: Mức độ yêu cầu của thị trường hiện tại và tương lai đối với các loại sản phẩm của dự án. Khả năng chiếm lĩnh thị trường của dự án. Khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào của sản xuất, nhất là các loại nguyên vật liệu phải nhập khẩu. Khả năng mua được các thiết bị công nghệ có công suất phù hợp. Khả năng đáp ứng về vốn đầu tư và năng lực quản lý của doanh nghiệp. c. Thẩm định về công nghệ và trang thiết bị. Công nghệ và thiết bị của dự án là nhân tố quyết định chủ yếu đến chất lượng sản phẩm. Do đó, trong thẩm định dự án đầu tư, đây là vấn đề cần được đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, đối với cán bộ thẩm định của NHTM, quá trình phân tích về công nghệ và thiết bị thường gặp phải những khó khăn nhất định chủ yếu là do không được đào tạo chuyên môn kỹ thuật và thiếu các thông tin cần thiết về công nghệ - kỹ thuật. Để khắc phục tình trạng này, có thể áp dụng cơ chế thuê chuyên gia trong thẩm định nội dung kỹ thuật tuy nhiên, cán bộ thẩm định cũng cần phân tích, đánh giá được một số vấn đề như sau: Lý do lựa chọn công nghệ thiết bị hiện tại. Công nghệ thiết bị đó là của nước nào. Quy trình công nghệ có tiên tiến, hiện đại không, ở mức độ nào của thế giới. Công nghệ có phù hợp với trình độ hiện tại của Việt Nam hay không, có khả năng tạo ra sản phẩm có chất lượng phù hợp với yêu cầu của thị trường đòi hỏi không. Phương thức chuyển giao công nghệ có hợp lý hay không, có đảm bảo cho chủ đầu tư nắm bắt và vận hành được công nghệ hay không. Giá cả thiết bị và phương thức thanh toán có hợp lý, đáng ngờ không. Thời gian giao hàng và lắp đặt thiết bị có phù hợp với tiến độ thực hiện dự án dự kiến hay không. Uy tín của các nhà cung cấp thiết bị, các nhà cung cấp thiết bị có chuyên sản xuất các thiết bị của dự án hay không. Nếu là thiết bị cũ thì có đảm bảo các tiêu chuẩn mà Nhà nước đã quy định với các loại công nghệ và thiết bị đã qua sử dụng không. Thẩm định số lượng, công suất, quy cách, chủng loại danh mục thiết bị, tính đồng bộ của dây chuyền sản xuất, năng lực hiện có của doanh nghiệp so với quy mô của dự án. Đối với thiết bị nhập ngoại cần qua đấu thầu cạnh tranh quốc tế hoặc chọn thầu nhằm bảo đảm chất lượng và giá cả. Kiểm tra các hợp đồng cung ứng, các bản chào hàng, xem xét phương thức thanh toán,…tránh các sơ hở gây thiệt hại cho chủ đầu tư và Ngân hàng tài trợ vốn. d. Thẩm định về việc cung cấp nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào khác. Trên cơ sở hồ sơ dự án (báo cáo chất lượng, trữ lượng tài nguyên, giấy phép khai thác tài nguyên, nguồn thu mua bên ngoài, nhập khẩu,…) và đặc tính kỹ thuật của dây chuyền công nghệ, đánh giá khả năng cung cấp nguyên vật liệu đầu vào cho dự án: Nhu cầu về nguyên vật liệu đầu vào để phục vụ sản xuất hàng năm. Các nhà cung ứng nguyên vật liệu đầu vào: một hay nhiều nhà cung cấp, đã có quan hệ từ trước hay mới thiết lập, khả năng cung ứng, mức độ tín nhiệm. Chính sách nhập khẩu đối với các nguyên liệu đầu vào (nếu có). Biến động về giá mua, nhập khẩu nguyên vật liệu đầu vào, tỷ giá trong trường hợp phải nhập khẩu. Tất cả những phân tích, đánh giá trên nhằm kết luận được hai vấn đề chính sau: Dự án có chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào hay không. Những thuận lợi, khó khăn đi kèm với việc để có thể chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào. e. Thẩm định về quy mô, giải pháp xây dựng công trình. Những vấn đề cần quan tâm phân tích trong thẩm định nội dung này là: Xem xét quy mô xây dựng, giải pháp kiến trúc có phù hợp với dự án hay không, có tận dụng được các cơ sở vật chất hiện có hay không. Tổng dự toán/dự toán của từng hạng mục công trình, có hạng mục nào cần đầu tư mà chưa được dự tính hay không, có hạng mục nào không cần thiết hoặc chưa cần thiết phải đầu tư hay không. Tiến độ thi công có phù hợp với việc cung cấp máy móc thiết bị, có phù hợp với thực tế hay không. Vấn đề hạ tầng cơ sở: giao thông, điện, cấp thoát nước,… f. Thẩm định về môi trường, phòng cháy chữa cháy. Xem xét, đánh giá các giải pháp về môi trường, phòng cháy chữa cháy của dự án có đầy đủ, phù hợp chưa, đã được các cơ quan có thẩm quyền chấp thuận trong trường hợp yêu cầu phải có hay chưa. Trong phần này, cán bộ thẩm định cần phải đối chiếu với các quy định hiện hành về việc dự án có phải lập, thẩm định và trình duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường, phòng cháy chữa cháy hay không. g. Kiểm tra tính hợp lý về kế hoạch tiến độ thực hiện dự án. Đây là yếu tố quan trọng liên quan đến kế hoạch sử dụng vốn, kế hoạch sản xuất và kế hoạch giải ngân, thu nợ của ngân hàng. Xác định thứ tự ưu tiên, tập trung vốn đầu tư hoàn thành dứt điểm từng phần để đưa vào sử dụng; trước hết là để các hạng mục công trình sản xuất, tiếp đến các hạng mục phụ trợ, cuối cùng đến các hạng mục phi sản xuất. Tính toán để hoàn thành các hạng mục cần thiết có thể đưa dự án vào hoạt động từng bộ phận, cố gắng đảm bảo thi công xong đến đâu đưa vào sản xuất đến đó. Tránh hiện tượng thi công dàn đều không hiệu quả, thậm chí có khả năng thiếu vốn, thiếu nguyên liệu. 1.2.4.6. Thẩm định phương diện tổ chức quản trị nhân sự của dự án. Con người và bộ máy tổ chức hoạt động của nó là những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của kinh doanh. Bởi vậy, tính khả thi của một dự án phụ thuộc rất nhiều vào công tác tổ chức điều hành, vào việc xác định chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ tác nghiệp giữa các bộ phận chức năng. Ngoài ra còn phụ thuộc vào số lượng, chất lượng và cơ cấu nhân sự xác định cho dự án. Từ những nguyên nhân trên, bất cứ một luận chứng kinh tế kỹ thuật nào cũng phải được nghiên cứu nghiêm túc nội dung tổ chức quản trị và nhân sự bao gồm: a. Hình thức kinh doanh Là doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp của các đoàn thể, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn,…Các văn bản pháp lý chi phối loại hình kinh doanh. b. Cơ chế điều hành Dự án có nhiều hay một đơn vị tham gia xây dựng điều hành, quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ, sự phối hợp các bên, thành phần Hội đồng quản trị, quyền hạn, trách nhiệm. c. Nhân sự. Trên cơ sở mô hình tổ chức được lựa chọn xuất phát từ nhu cầu sản xuất kinh doanh và nhu cầu vận hành của dự án, chủ đầu tư cần thuyết minh các giải pháp bố trí nhân sự cho dự án: Dự trù cơ cấu ngành nghề và năng lực người lao động (như kỹ sư, các cán bộ điều hành, các công nhân lành nghề, công nhân phổ thông,…). Mỗi loại có bao nhiêu người, số người này được bố trí cụ thể và các bộ phận như thế nào. Trên cơ sở lao động đã được phân loại, phải dự kiến được mức lương cơ bản theo từng chức danh, bậc thợ cụ thể. Từ đó xác định được tổng quỹ lương của doanh nghiệp. Xác định sự cần thiết phải đào tạo các cán bộ quản lý, các kỹ thuật viên, công nhân sản xuất,…cho dự án. Xem xét kế hoạch đào tạo một cách cụ thể: cần đào tạo bao nhiêu người, đào tạo ở đâu, thời gian và kinh phí là bao nhiêu. Xác định sự cần thiết phải thuê chuyên gia cho dự án. Cụ thể là phải thuê chuyên gia cho những vị trí công tác nào, số chuyên gia cần thuê, thời gian và chi phí là bao nhiêu. Khi thẩm định về quản trị và nhân sự của dự án, cần xem xét khả năng chuyên môn, kinh nghiệm quản lý của các thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, ban Giám đốc, và các thành viên quan trọng khác…Đó chính là những điều kiện quan trọng góp phần đảm bảo thành công cho dự án. 1.2.4.7. Thẩm định phương diện tài chính của dự án. Tài chính là nội dung quan trọng của dự án vì xét cho cùng, nó thể hiện được hiệu quả của việc đầu tư dự án thông qua các chỉ tiêu tài chính. Do đó, nội dung tài chính của dự án được chủ đầu tư và NHTM tài trợ vốn đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, vấn đề tài chính của dự án phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, mà trước hết là yếu tố thị trường, các giải pháp công nghệ - kỹ thuật và quản trị quá trình thực hiện dự án. Như vậy, thẩm định tốt nội dung thị trường và kỹ thuật của dự án là cơ sở quan trọng để đảm bảo cho thẩm định tài chính được tiến hành một cách thuận lợi. Nghiên cứu và thẩm định phương diện tài chính cần đi sâu vào các nội dung sau: a. Thẩm định tổng mức vốn đầu tư cho dự án. Tổng mức vốn đầu tư là toàn bộ chi phí đầu tư và xây dựng (kể cả vốn sản xuất ban đầu) và là giới hạn chi phí tối đa của dự án được xác định trong quyết định đầu tư. Tổng mức vốn đầu tư được xác định dựa trên cơ sở năng lực sản xuất theo thiết kế, khối lượng các công tác chủ yếu và sản xuất đầu tư, giá chuẩn hay đơn giá tổng hợp do cơ quan có thẩm quyền ban hành. Việc thẩm định tổng vốn đầu tư là rất quan trọng để tránh việc khi thực hiện, vốn đầu tư tăng lên hoặc giảm đi quá lớn so với dự kiến ban đầu, dẫn tới việc không cân đối được nguồn, ảnh hưởng đến hiệu quả và khả năng trả nợ của dự án. Xác định tổng ._.ng cơ sở quan trọng giúp các cán bộ thẩm định tính toán chính xác chi phí dự án. Ngoài ra, đối với các dự án được xây dựng theo phương thức đấu thầu, ngân hàng cần tính toán chi tiết các khoản chi phí dự thầu, đồng thời phải xác định được tiết kiệm chi phí nhờ giảm giá thành thông qua phương thức chọn thầu. - Do khấu hao là một chỉ tiêu nhạy cảm của dự án nên việc lựa chọn phương pháp tính khấu hao có vai trò rất quan trọng khi tính toán dòng tiền dự án. Việc tính khấu hao phải ăn cứ vào đặc điểm hoạt động và vòng đời dự án. Phương pháp được lựa chọn phải đảm bảo khả năng thu hồi vốn của chủ đầu tư, khả năng sinh lời và trả nợ của dự án. - Vốn lưu động ròng và giá trị tài sản cố định thu hồi là nguồn thu ở năm cuối của dự án. Việc tính toán các chỉ tiêu này khi xác định dòng tiền của dự án sẽ đảm bảo khả năng bao quát dự án một cách toàn diện trong suốt thời gian kinh tế của nó. Còn luồng tiền thu hồi được sẽ được xác định trên giá trị còn lại của tài sản và giá bán nó khi thanh lý. * Hoàn thiện việc sử dụng các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính dự án. Đối với công tác thẩm định dự án đầu tư, một nhân tố quan trọng quyết định tính chính xác của các chỉ tiêu hiệu quả tài chính dự án đó chính là lãi suất chiết khấu. Lãi suất chiết khấu phản ánh chi phí cơ hội của vốn đầu tư hay thể hiện giá trị thời gian của tiền và biểu thị mức doanh lợi tối thiểu mà dự án cần đạt được. Vì vậy, để tính toán các chỉ tiêu hiệu quả tài chính, trước hết ngân hàng cần xác định một lãi suất chiết khấu hợp lý. Thông thường, lãi suất chiết khấu được xác định chính xác nhất là bằng chi phí vốn bình quân gia quyền. Tuy nhiên, trong điều kiện ở Việt Nam hiện nay, việc xác định chi phí này là rất khó thực hiện, đặc biệt là việc xác định chi phí vốn tự có của các doanh nghiệp Nhà nước. Vì vậy, với các dự án có tỷ lệ sử dụng vốn vay cao, ngân hàng sẽ chọn lãi suất cho vay dự kiến đã được điều chỉnh rủi ro làm lãi suất chiết khấu. Trên cơ sở lãi suất chiết khấu được lựa chọn, ngân hàng sẽ tiến hành việc tính toán các chỉ tiêu hiệu quả tài chính dự án như NPV, IRR, PI,…Bên cạnh đó, với tư cách là người tài trợ vốn cho dự án, ngân hàng cũng cần quan tâm tới khả năng trả nợ của dự án tức là phải xem xét dòng tiền dùng để trả nợ của dự án. Để đảm bảo dự án sẽ hoàn trả vốn vay đúng hạn và đầy đủ, ngân hàng nên tiến hành phân tích tài chính dự án qua các năm thông qua các chỉ tiêu như ROI, ROE, khả năng thanh toán,…của dự án. Các phương pháp thẩm định dự án đầu tư cần được thực hiện một cách chủ động và linh hoạt tùy theo từng điều kiện cụ thể và từng dự án riêng biệt. Vì vậy, các cán bộ thẩm định cần phải nhạy bén trong việc lựa chọn và kết hợp các nội dung thẩm định một cách hợp lý nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong công việc. Trong thời gian tới, ngân hàng cần hoàn thiện chiến lược khách hàng cho công tác thẩm định dự án đầu tư nhằm không ngừng mở rộng và nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư. Để làm được điều này, trước hết các cán bộ ngân hàng cần tích cực chủ động trong việc tìm kiếm khách hàng và tiến hành phân loại khách hàng. Sau đó, trên cơ sở kết quả phân loại, ngân hàng sẽ lựa chọn các khách hàng có độ tín nhiệm cao với những dự án khả thi để tiến hành thẩm định rồi ra quyết định cho vay. Đây là điều kiện cần thiết để ngân hàng có được những khoản tài trợ an toàn và hiệu quả. 3.2.3. Giải pháp về nội dung thẩm định. Khi tiến hành thẩm định một dự án thì có hai nội dung chính cần hết sức quan tâm: Một là: thẩm định khách hàng vay vốn. Trước khi tiến hành thẩm định, ngân hàng cần xác minh tính trung thực của các số liệu do khách hàng cung cấp. Chẳng hạn, khoản phải thu trong báo cáo tài chính của khách hàng thì có bao nhiêu phần trăm là khó đòi; trong hàng tồn kho có bao nhiêu phần trăm hàng kém phẩm chất, bị ứ đọng; Vốn cố định biểu hiện dưới dạng máy móc, nhà xưởng, thiết bị là lạc hậu hay hiện đại; Trong công nợ có bao nhiêu phần trăm nợ quá hạn, nợ khó đòi,… Khi tính toán các chỉ tiêu tài chính, ngân hàng nên đánh giá, kết hợp với đặc thù sản xuất kinh doanh của lĩnh vực ngành liên quan. Bên cạnh đó, cần phân tích, đánh giá Báo cáo lưu chuyển tiền tệ để đánh giá chính xác năng lực quản lý ngân quỹ cũng như khả năng thanh toán hiện tại và trong tương lai của khách hàng. Bên cạnh những biện pháp định tính được coi như “kỹ thuật” thẩm định, nên áp dụng các phương pháp định lượng, hay “nghệ thuật” thẩm định. Đây là một biện pháp hữu hiệu giúp ngân hàng đánh giá một cách khách quan nhất về khách hàng. Nghĩa là, chỉ cần qua tiếp xúc trực tiếp doanh nghiệp, cán bộ thẩm định có thể thu thập được nhiều thông tin hơn so với những gì thể hiện trên giấy tờ. Tuy nhiên, làm thế nào để không gây khó cho khách hàng mà ngân hàng vẫn có đủ thông tin để đánh giá khách hàng. Lúc đó. ngân hàng cần đánh giá năng lực lãnh đạo quản lý doanh nghiệp của Ban giám đốc điều hành vì đây là yếu tố năng động nhất. Bên cạnh đó ngân hàng cũng phải đánh giá hình ảnh, vị trí, uy tín của doanh nghiệp trên thương trường thông qua dư luận xã hội trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong quan hệ với khách hàng, với nhà cung cấp. Hai là phương án, dự án vay vốn. Một dự án vay vốn đòi hỏi phải được xem xét đầy đủ các nội dung cần thiết để đảm bảo đánh giá một cách toàn diện và giúp cho việc ra quyết định đầu tư một cách chính xác. Cần nhận thức rằng, mọi nội dung của dự án đều có mối quan hệ mật thiết với nhau: Kết quả thẩm định phương diện thị trường là cơ sở để đánh giá việc lựa chọn kỹ thuật, quy mô, công suất của dự án; kết quả thẩm định phương diện kỹ thuật lại là cơ sở để tính toán các dòng thu nhập, chi phí, xác định nên hiệu quả tài chính của dự án. Trong khi hiệu quả tài chính dự án lại là cơ sở để thẩm định lợi ích kinh tế, xã hội và quyết định phương án cho vay, thu nợ của ngân hàng. Khi thẩm định phương diện thị trường, cần thu thập các thông tin về: số lượng doanh nghiệp sản xuất cùng loại sản phẩm trong cùng một khu vực thị trường (kể cả những doanh nghiệp sắp thành lập); Mức cầu sản phẩm cùng loại trong năm qua (ít nhất là 5 năm) để thấy được tốc độ tăng trưởng trong thời gian qua, làm cơ sở cho việc dự báo tốc độ tăng trưởng trong thời gian tới; Mức cung thực tế của các doanh nghiệp trên thị trường; Thông tin giá cả, dự báo thị trường trong nước và quốc tế. Ngoài ra, còn phải nắm được quy hoạch, kế hoạch đầu tư, định hướng phát triển do Bộ, ngành công bố để đảm bảo dự án là các công trình được tiến hành theo đúng kiến trúc quy hoạch của Nhà nước. Khi tiến hành thẩm định phương diện kỹ thuật, với những dự án phức tạp, vượt ra ngoài khả năng của cán bộ thẩm định, thì việc thuê chuyên gia là hết sức cần thiết, tránh tình trạng chấp nhận ngay những kết quả kỹ thuật doanh nghiệp. Đồng thời, bản thân ngân hàng cũng phải nghiên cứu, tìm hiểu về những ngành nghề, sản phẩm của dự án do mình phụ trách. Thẩm định phương diện tài chính dự án luôn được coi là khâu quan trọng nhất, quyết định đến việc ngân hàng có đầu tư cho vay dự án hay không. Khi xem xét phương diện tài chính của dự án có một số điểm cần lưu ý sau: - Dự toán và nguồn vốn đầu tư của dự án: kiểm tra tính hợp lý về chi phí đầu tư dựa trên cơ sở tham khảo những dự án tương tự điển hình, không nên chỉ dựa vào kế hoạch dự trù chi phí do chủ đầu tư đưa ra như hiện nay nhằm tránh tình trạng tính thừa hoặc thiếu. - Vấn đề xác định dòng tiền của dự án: Dòng tiền ròng của dự án cần được tính toán nhất quán theo quan điểm tổng mức đầu tư bao gồm cả vốn chủ sở hữu và vốn vay. Đối với dòng tiền hoạt động, nếu vòng đời của dự án được tính toán vượt quá thời gian khả dụng của máy móc, thiết bị thì sẽ phải tính thêm chi phí nâng cấp máy móc thiết bị và khi đó, thời gian khấu hao cũng phải tăng lên tương ứng. - Đánh giá dự án trong điều kiện có lạm phát: Thẩm định dự án đầu tư chủ yếu trong dài hạn mà trong dài hạn luôn có sự thay đổi giá cả tức là ảnh hưởng của lạm phát đối với dự án. Lạm phát dự tính có ảnh hưởng nhất định tới NPV của dự án đầu tư bởi vì nó làm biến đổi cả dòng tiền kỳ vọng và tỷ lệ chiết khấu. Cho nên, khi đánh giá dự án phải luôn tuân thủ nguyên tắc: tỷ lệ lãi suất danh nghĩa chỉ áp dụng đối với những khoản thu nhập danh nghĩa và tỷ lệ lãi suất thực tế chỉ áp dụng với những khoản thu nhập thực tế. 3.2.4. Giải pháp về nguồn thông tin. Bước đầu tiên trong quá trình thẩm định dự án đầu tư là việc thu thập thông tin liên quan và có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình vận hành của dự án nhưng vấn đề khó khăn đặt ra cho công tác thẩm định từ phía ngân hàng là thông tin tư dự án đầu tư do khách hàng xây dựng để vay vốn thường có nhiều thiếu sót, thông tin thị trường thường mang tính chung chung, các thông tin bất lợi cho dự án thường được che dấu, lĩnh vực chuyên môn của các ngành nghề ngày càng đa dạng,…Do đó, vấn đề tìm kiếm thông tin để phục vụ cho công tác thẩm định dự án thường chiếm rất nhiều thời gian, bên cạnh đó việc cập nhật thông tin không đầy đủ, kịp thời, phiến diện cũng sẽ dễ dàng dẫn đến những sai lầm trong công tác thẩm định như bác bỏ một dự án mà nó thật sự tốt hoặc chấp nhận một dự án mà nó không hiệu quả. Quá trình cạnh tranh ngày càng gay gắt trong nền kinh tế nói chung và đối với ngành ngân hàng nói riêng đã tạo nên những lỗ hổng khá lớn trong công tác thẩm định từ đó dẫn đến những sai lầm trong các quyết định đầu tư đã làm cho tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng ngày càng gia tăng. Do đó, vấn đề thu thập thông tin hiện nay được đánh giá là bước quan trọng nhất có tính chất quyết định đến chất lượng của công tác thẩm định. Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, với sự đa dạng của các nguồn thông tin cùng với cách thức và các phương tiện xử lý thông tin ngày càng hiện đại, việc thu thập đầy đủ, chính xác, kịp thời thông tin để phục vụ cho công tác thẩm định dự án đầu tư không còn là điều quá khó và chiếm nhiều thời gian trong công tác thẩm định, nhưng cái khó ở đây là ngân hàng phải biết cách chắt lọc những thông tin chính xác và trung thực. * Đối với thông tin từ phía khách hàng xin vay: Bên cạnh những tài liệu khách hàng cung cấp, cán bộ thẩm định cần thường xuyên xuống cơ sở, trao đổi trực tiếp với cán bộ công nhân viên, khảo sát đánh giá máy móc thiết bị đang vận hành, từ đó, cán bộ thẩm định có cái nhìn toàn diện và kỹ lưỡng về tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng quản lý, những tài sản hiện có cũng như đời sống của người lao động. * Đối với nguồn thông tin từ nội bộ Ngân hàng: Ngân hàng cần xây dựng một hệ thống lưu trữ và cung cấp thông tin nội bộ hiện đại, khoa học. Tất cả các bộ phận thuộc ngân hàng có trách nhiệm và nghĩa vụ phải cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác và thường xuyên cho hệ thống thông tin nội bộ này. Đặc biệt, cần tiến hành phân loại thông tin thành các thông tin bắt buộc và các thông tin tham khảo. Bên cạnh đó, cần phải tăng cường trao đổi thông tin, học hỏi kinh nghiệm giữa các cán bộ thẩm định và giữa các bộ phận trong toàn ngân hàng. * Đối với nguồn thông tin từ bên ngoài: Đây là nguồn thông tin rất đa dạng, phong phú nhưng cũng khó chọn lọc vì tính chính xác không cao. Ngân hàng cần cân nhắc chọn lựa để tập hợp những thông tin đáng tin cậy. Nguồn thông tin này gồn có: Thông tin từ khách hàng mà ngân hàng có quan hệ: thông qua các khách hàng của mình, nhất là những khách hàng cùng kinh doanh trên lĩnh vực mà dự án sẽ hoạt động, cán bộ thẩm định sẽ thu thập được những thông tin cần thiết như: thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra, thị trường các nguyên liệu đầu vào, giá thành của sản phẩm,… Thông tin từ đối tác của khách hàng: thông qua đối tượng này, cán bộ thẩm định sẽ biết được tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong quá khứ và hiện tại, uy tín và năng lực của doanh nghiệp. Thông tin từ các chuyên gia kỹ thuật: các thông tin về kỹ thuật của dự án là những thông tin rất khó kiểm chứng đối với cán bộ thẩm định. Họ cần phải tham khảo ý kiến của các chuyên gia kỹ thuật để có được thông tin chính xác nhất về tính hợp lý, khả thi cũng như độ chính xác, an toàn của các máy móc, trang thiết bị liên quan đến dự án đầu tư. Thông tin từ các công ty kiểm toán: đây là nguồn thông tin rất đáng tin cậy vì độ chính xác là rất cao tuy nhiên, do chi phí cho một cuộc kiểm toán là khá lớn nên hiện nay, rất ít doanh nghiệp muốn kiểm toán và công tác kiểm toán trở chưa trở nên phổ biến. * Đối với nguồn thông tin từ Ngân hàng Nhà nước: Hiện nay, mạng thông tin tín dụng (CIC) của Ngân hàng Nhà nước có thể cung cấp thông tin tương đối đầy đủ về mức độ tín nhiệm tín dụng của khách hàng. Tuy nhiên, độ tin cậy của các thông tin này phụ thuộc rất lớn vào tính chính xác của các báo cáo do các NHTM cung cấp. Vì vậy, ngoài nguồn thông tin này, ngân hàng cần chủ động khai thác thêm thông tin từ các bộ phận khác của Ngân hàng Nhà nước như Vụ chiến lược khách hàng, Vụ tín dụng, Vụ quản lý ngoại hối,…Bên cạnh đó, ngân hàng cần liên kết chặt chẽ với các chi nhánh cùng hệ thống và các NHTM khác vì lợi ích của cả hai bên và vì lợi ích chung của toàn ngành ngân hàng. Ngoài ra, ngân hàng có thể thu thập thông tin từ báo chí, từ mạng Internet,… 3.2.5. Gải pháp về công tác tổ chức điều hành Công tác tổ chức quản lý điều hành cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng góp phần nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư. Tổ chức quản lý điều hành tốt giúp cho công việc được tiến hành một cách có khoa học, trình tự công việc giữa các bộ phận liên quan không bị chồng chéo, mâu thuẫn nhau. Bên cạnh đó, còn phát huy tối đa tính sáng tạo, năng lực, sở trường của mỗi cán bộ thẩm định, giảm bớt chi phí, thời gian và nâng cao hiệu quả thẩm định dự án đầu tư. Để công tác quản lý điều hành có hiệu quả, ngân hàng cần xem xét những giải pháp sau: Kiện toàn bộ máy tổ chức phù hợp, dễ kiểm tra, kiểm soát, tạo điều kiện cho cán bộ thẩm định phát huy hết khả năng của mình. Bộ máy nhân sự cần sắp xếp gọn nhẹ mà vẫn đáp ứng nhu cầu công việc. Xây dựng kế hoạch hoạt động quý, năm. Phân công, quy định nhiệm vụ rõ ràng cho mỗi cán bộ thẩm định căn cứ theo khả năng, kinh nghiệm của từng người. Công tác thẩm định dựa trên sự tăng cường phối hợp giữa phòng tín dụng và các phòng ban khác để cùng nhau phối hợp hoạt động. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát nội bộ để ngăn ngừa sai sót trong quá trình thẩm định. Cán bộ thẩm định phải nắm vững chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, của ngành và của địa phương Xác định và kiểm tra toàn diện tất cả các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật trong dự án, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn để có ý kiến đánh giá xác đáng. 3.2.6. Đảm bảo tính độc lập trong công tác thẩm định dự án. Công tác thẩm định, xem xét cho vay dự án đầu tư trong thời gian qua tại các NHTM còn bị động về mặt thời gian, về nguồn tài liệu và đôi khi chịu sự chi phối của chính quyền địa phương. Cơ chế vận hành hiện nay của ta là Ủy ban nhân dân các cấp vừa thực hiện quản lý Nhà nước về hành chính, vừa thực hiện quản lý Nhà nước về kinh tế và hoạt động sản xuất – kinh doanh. Hầu hết các dự án khi đến tay ngân hàng đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Nhiều nơi, vì lợi ích địa phương, đã yêu cầu các NHTM phải cho vay với một mức vốn cố định, mặc dù ngân hàng chưa hề thẩm định dự án, chưa biết hiệu quả của dự án ra sao. Điều đó có ảnh hưởng đến tính độc lập của ngân hàng trong thẩm định các dự án đầu tư. Muốn phát huy tính chủ động va độc lập của NH trong quá trình thẩm định dự án đầu tư cần thực hiện một số vấn đề chủ yếu sau: Bản thân lãnh đạo ngân hàng các cấp phải kiên định, giữ vững vai trò độc lập khi xem xét, thẩm định dự án đầu tư. Nêu cao vai trò tham mưu của ngân hàng cho các cấp ủy, chính quyền địa phương trong quá trình xây dựng, thẩm định và lựa chọn dự án. Phân biệt rõ chức năng quản lý Nhà nước với quản lý hành chính về kinh tế. Tránh sự can thiệp sâu của các cơ quan quản lý Nhà nước vào hoạt động chuyên môn của các đơn vị sản xuất – kinh doanh. 3.2.7. Thực hiện tốt các quy định về đảm bảo tiền vay. Các NHTM nói chung và Chi nhánh NHĐT&PT Cầu Giấy riêng đều áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản đầu tư cho vay. Các biện pháp bảo đảm tiền vay hiện nay đang áp dụng bao gồm: cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay; Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ 3; Bảo lãnh bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Căn cứ vào năng lực tài chính của khách hàng, tính khả thi và hiệu quả của khoản vay, ngân hàng có thể lựa chọn áp dụng một hoặc một số biện pháp bảo đảm tiền vay nêu trên. Chi nhánh cần chỉ đạo các phòng có liên quan quán triệt và thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo của cấp trên về bảo đảm tiền vay. Các dự án cho vay mới nhất thiết phải có đủ tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Các hợp đồng thế chấp, cầm cố phải qua công chứng. đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định. Khi nhận tài sản thế chấp, cầm cố, ngoài các thủ tục về giấy tờ, cần đi kiểm tra thực tế từng tài sản để xác định chính xác quyền sở hữu tài sản của khách hàng vay vốn nhằm ngăn chặn và tránh hiện tượng lừa đảo làm giả các giấy tờ sở hữu. Tài sản bảo đảm thế chấp phải đáp ứng đủ các điều kiện pháp lý và kinh tế theo quy định hiện hành, đảm bảo không tranh chấp. Khi thực hiện nội dung này, ngân hàng cần yêu cầu khách hàng vay, bên bảo lãnh cam kết bằng văn bản về việc tài sản không có tranh chấp về quyền sở hữu và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về cam kết của mình. Nâng tỷ lệ cho vay có bảo đảm bằng tài sản nhằm mục đích giảm thiểu tối đa rủi ro dài hạn. Thực hiện các biện pháp bảo đảm tài sản bổ sung đối với các khoản cho vay dự án chưa đủ tài sản thế chấp theo quy định. Tài sản nhận đảm bảo phải được phép giao dịch và có tính thanh khoản cao, khi xử lý thu hồi nợ dễ dàng, nhanh chóng. 3.2.8. Phát huy vai trò tư vấn của ngân hàng đối với chủ đầu tư dự án. Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp nước ta gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đó là thiếu vốn, thiết bị, công nghệ lạc hậu, thiếu kinh nghiệm quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Để tồn tại và vươn lên, đòi hỏi các doanh nghiệp phải thực hiện đầu tư, đổi mới thiết bị và công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành, tăng cường khả năng cạnh tranh. Do đó, vai trò tư vấn của ngân hàng đối với chủ đầu tư là hết sức cần thiết, thể hiện ở chỗ: Giúp chủ đầu tư xây dựng một dự án, lựa chọn việc sản xuất sản phẩm gì, cung cấp thông tin về thị trường sản phẩm đó, các phương án kỹ thuật, nhập các thiết bị công nghệ, tính toán nguồn tài trợ cho dự án với lãi suất như thế nào. Bên cạnh đó, cán bộ thẩm định cũng cần giúp đỡ các chủ đầu tư tính toán hiệu quả kinh tế trên cơ sở dự kiến quá trình kinh doanh, thu lợi nhuận, đồng thời có cảnh báo đối với chủ đầu tư về những rủi ro mà dự án có thể gặp để chủ đầu tư đề ra những biện pháp hạn chế rủi ro, đảm bảo dự án hoạt động hiệu quả, trả nợ ngân hàng đầy đủ cả gốc và lãi. 3.2.9. Thường xuyên thực hiện kiểm tra, kiểm soát đối với công tác thẩm định dự án. Để đảm bảo các quy trình, quy chế thẩm định được tuân thủ đúng đắn, đầy đủ, Chi nhánh cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, bao gồm 3 giai đoạn: - Kiểm soát trước: Giai đoạn này dựa vào sự thành thạo về quy chế mà tiến hành kiểm tra, mục đích phát hiện ra những điểm bất hợp lý của nghiệp vụ thẩm định trước khi thực hiện. Cụ thể: các điều kiện vay vốn ngân hàng theo cơ chế tín dụng hiện hành đã đầy đủ chưa; Hồ sơ khách hàng, hồ sơ vay vốn đã đầy đủ và hợp lệ chưa; Đã thu thập đủ thông tin cần thiết liên quan đến dự án chưa. - Kiểm soát trong: tác dụng của giai đoạn này là giám sát quá trình thực hiện, hạn chế những thiếu sót, thực hiện không đúng trình tự nghiệp vụ, sai sót về thủ tục,…nhằm ngăn chặn kịp thời những thiệt hại sau này. - Kiểm soát sau: được thực hiện khi nghiệp vụ thẩm định về cơ bản đã được hoàn thành, kiểm tra hồ sơ, chứng từ, tính hợp pháp, hợp lệ của nghiệp vụ ở giai đoạn trước. Mục đích là để phát hiện ra những hiện tượng bất thường, đảm bảo tính đúng đắn trước khi ra quyết định cho vay. Tóm lại, để nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư phải tiến hành đồng thời các giải pháp nêu trên. Tuy nhiên, để đạt được điều đó còn phải có sự đóng góp của các nhân tố khác không thuộc phạm vi kiểm soát của ngân hàng, đó là sự quan tâm, phối hợp của các cấp, các ngành có liên quan trong việc ban hành các chính sách cũng như những quy chế cho toàn ngành ngân hàng. 3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư tại Chi nhánh NHĐT&PT Cầu Giấy. 3.3.1. Kiến nghị với Nhà nước. Nhà nước cần nhanh chóng tạo lập môi trường pháp lý ổn định, đặc biệt các quy chế pháp luật liên quan đến đầu tư, sản xuất kinh doanh, tài chính kế toán, xử lý tranh chấp, … tạo ra một môi trường đầu tư ổn định. Điều này tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư kinh doanh, ngân hàng có có sở pháp lý vững chắc xử lý những vấn đề liên quan đến thẩm định dự án. Nhà nước cần có các biện pháp nhằm đưa công tác kiểm toán phát huy vai trò của minh hơn nữa, tạo ra sự phổ biến trong các doanh nghiệp. Vì hiện nay các báo cáo tài chính của các doanh nghiệp xin vay vốn thường không chính xác do đó ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định. Cần sửa đổi, bổ sung quy định về kiểm toán độc lập trong đó bổ sung đối tượng kiểm toán bắt buộc là các công ty cổ phần. Đó cũng là những doanh nghiệp có doanh số hoạt động lớn, nhất là các công ty cổ phần chuyển đổi từ doanh nghiệp Nhà nước, hiện có số dư nợ vốn vay ngân hàng chỉ sau doanh nghiệp Nhà nước. Điều này giúp cho ngân hàng thẩm định năng lực tài chính của doanh nghiệp vay vốn được an toàn trước, trong và sau khi cho vay và tạo điều kiện để các doanh nghiệp thích ứng với quá trình hội nhập khi mà nước ta đang trong quá trình gia nhập WTO. Bên cạnh đó Nhà nước cần phải có biện pháp xử phạt nghiêm khắc đối với doanh nghiệp báo cáo tài chính không đúng sự thật, đồng thời bắt buộc các doanh nghiệp phải công khai quyết toán của mình. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, Chính phủ phải giảm bớt tình trạng bao cấp để các doanh nghiệp này từng bước tự chủ kinh doanh. Tạo điều kiện cạnh tranh công bằng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp quốc doanh mà hiện nay chưa công bằng trong việc xét duyệt cho vay tại hầu hết các ngân hàng. Nhà nước không nên can thiệp sâu vào hoạt động tín dụng của ngân hàng để các ngân hàng tự chủ trong vấn đề phát triển nghiệp vụ, nâng cao chất lượng kinh doanh. Mỗi quyết định đầu tư của ngân hàng phải được dựa trên đánh giá của họ chứ không phải chịu một sức ép nào. Ban hành nghị định về thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế cho phù hợp với tình hình mới, nghiên cứu phát triển hệ thống lưu thông séc, hối phiếu và hệ thống thanh toán thay thế thanh toán bằng tiền mặt giúp cho việc quản lý, sử dụng vốn vay đúng mục đích. Kiến nghị với NHNN Việt Nam. NHNN cần tăng cường vai trò chỉ đạo của mình trong họat động của hệ thống các NHTM Việt Nam. Trước hêt, NHNN cần tiếp tục hoàn thiện Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) thông qua việc liên kết chặt chẽ với các NHTM nhằm thu thập các thông tin cần thiết về các khách hàng. Trên cơ sở các thông tin đó, trung tâm tiến hành phân loại khách hàng, chấm điểm theo trọng số và đưa ra mức độ rủi ro cho các ngành nghề kinh doanh. Đây là căn cứ để các ngân hàng lựa chọn khách hàng và các dự án có hiệu quả nhằm hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư. Bên cạnh đó, NHNN cần hỗ trợ các NHTM trong việc nâng cao nghiệp vụ thẩm định, phát triển đội ngũ nhân viên, trợ giúp về thông tin và kinh nghiệm thẩm định. Hàng năm, NHNN cần tổ chức các buổi hội nghị rút kinh nghiệm trong toàn ngành để tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa các NHTM trong công tác thẩm định. Để sự hợp tác này đạt hiệu quả cao thì bản thân các ngân hàng cũng cần nỗ lực và phát huy tính chủ động trong việc hợp tác, trao đổi thông tin và kinh nghiệm trong công tác thẩm định. Vì mỗi ngân hàng có những đặc điểm và thế mạnh riêng nên sự hợp tác này rất có ý nghĩa nhằm bổ sung và hỗ trợ nhau cùng phát triển, đặc biệt là trong các dự án đồng tài trợ. 3.3.3. Kiến nghị với NHĐT&PT Việt Nam. - Từ các chính sách của Chính phủ và NHNN, NHĐT&PT Việt Nam cần xây dựng một hệ thống, quy trình mới phải đầy đủ các nội dung, cập nhật liên tục những thông tin, phương pháp tiên tiến trên thế giới. Ngoài ra cần cố gắng đưa ra một số chỉ tiêu tài chính cơ bản cho toàn hệ thống để cán bộ thẩm định so sánh đánh giá. Đây là những biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng thẩm định, vì thực tế các ngân hàng hình thành thói quen làm việc theo văn bản, áp dụng cứng nhắc so với thực tế. - Hỗ trợ các chi nhánh trong việc thu thập thông tin bằng cách tăng cường hơn nữa hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro (TPR) của hệ thống. Cần nâng cao hiệu quả thu thập, xử lý dữ liệu thông tin từ các chi nhánh. - Xây dựng phương pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định. Bằng các hình thức phong phú đa dạng như đào tao, tập huấn, tham quan, hội thảo trong và ngoài hệ thống.. - Có kế hoạch bố trí, sắp xếp, tuyển dụng những nhân viên làm công tác thẩm định trong toàn hệ thống nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. - Nên nghiên cứu và quan tâm nhiều hơn nữa đến việc trang thiết bị đưa toàn bộ kỹ thuật tiên tiến, phương tiện vật chất cần thiết phục vụ cho hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và kỹ thuật nghiệp vụ thẩm định dự án đầu tư tín dụng nói riêng. - Đề ra những giải pháp cụ thể, hỗ trợ cho việc thẩm định phương diện kỹ thuật dự án đối với các ngân hàng trong hệ thống như: đào tạo nâng cao trình độ, tổ chức dịch vụ tư vấn kỹ thuật hoặc có thể tuyển một số nhân viên chuyên ngành kỹ thuật, sau đó thực hiện đào tạo nghiệp vụ ngân hàng, …. - Trong quá trình cho vay, để tránh rủi ro, ngân hàng có thể chuyển khoản thẳng vào tài khoản của tổ chức cung ứng vật tư, hàng hóa, dịch vụ hoặc đơn vị thi công công trình theo các hợp đồng kinh tế đã ký kết, theo hóa đơn bán hàng, biên bản nghiệm thu từng hạng mục công trình, không phát tiền mặt hoặc chuyển vào tài khoản của khách hàng vay trừ các món nhỏ. 3.3.4. Kiến nghị với chủ đầu tư. Để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định dự án đầu tư tại các ngân hàng, các chủ đầu tư cần thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán và kiểm toán. Bên cạnh đó, chủ đầu tư cần chủ động tích cực cung cấp thông tin chính xác về tình hình hoạt động kinh doanh của mình cho ngân hàng vì đây là một cơ sở quan trọng để ngân hàng tiến hành việc phân tích tài chính doanh nghiệp và thẩm định tài chính dự án đầu tư. Mặt khác, các chủ đầu tư cần áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm nâng cao năng lực lập và thực hiện các dự án. Việc lập dự án đầu tư phải dựa trên những cơ sở khoa học và phải bám sát thực tế. Để đảm bảo được điều này, các chủ đầu tư phải thường xuyên tiến hành việc nghiên cứu thị trường, phân tích và dự báo xu hướng biến động của nhu cầu, cập nhật thông tin về kỹ thuật công nghệ. Khi dự án đi vào hoạt động, các chủ đầu tư phải nỗ lực để đảm bảo cho dự án được thực hiện theo đúng tiến độ và kế hoạch đã dặt ra. Cuối cùng, các chủ đầu tư phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trong việc sử dụng đồng vốn của ngân hàng, phối hợp với ngân hàng trong việc kiểm soát vốn vay, sử dụng vốn đúng mục đích và tiết kiệm, tránh tình trạng lãng phí vốn. Đây là cơ sở để ngân hàng có được khoản tài trợ an toàn, hiệu quả, hạn chế được rủi ro đạo đức. KẾT LUẬN Cho vay luôn là hoạt động mang lại phần lớn lợi nhuận cho các NHTM nhưng nó cũng là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của ngân hàng. Chính vì vậy, bên cạnh việc mở rộng hoạt động cho vay, thì các NHTM cũng không ngừng nâng cao chất lượng công tác quản trị rủi ro. Đây được coi như một biện pháp chủ động nhất trong việc giảm thiểu tổn thất cho ngân hàng. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay, khi mà cạnh tranh ngày càng gay gắt và môi trường kinh doanh luôn diễn biến rất phức tạp thì chất lượng công tác quản trị rủi ro đã trở thành một phần quan trọng giúp ngân hàng đứng vững được trong cạnh tranh. Cho vay theo dự án là hoạt động cho vay có mức độ rủi ro cao, vì vậy, các ngân hàng luôn cố gắng kiểm soát các dự án mà mình tài trợ. Và một biện pháp quan trọng để quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay này đó là thẩm định dự án đầu tư trước khi ra quyết định cho vay.Việc thẩm định dự án đầu tư sẽ giúp ngân hàng biết được hiệu quả và tính khả thi của dự án, khả năng và phương án trả nợ tối ưu của dự án. Từ đó, ngân hàng sẽ tư vấn cho khách hàng về những vấn đề liên quan đến việc lập và thực thi dự án để dự án đạt được hiệu quả tối ưu cho cả ngân hàng và khách hàng. Với việc nghiên cứu đề tài “Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Chi nhánh NHĐT&PT Cầu Giấy ”, em đã đi sâu phân tích những vấn đề cơ bản sau: Lý luận chung về thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại các NHTM. Thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư tại Chi nhánh NHĐT&PT Cầu Giấy . Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư tại Chi nhánh NHĐT&PT Cầu Giấy. Với kết quả của chuyên đề này, bản thân em hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ bé kiến thức của mình vào việc giải quyết những khó khăn của thực tiễn đặt ra. Tuy nhiên đây là vấn đề rất phức tạp, rộng lớn trong khi thời gian thực tập, kinh nghiệm thực tế cũng như khả năng nhận thức còn nhiều hạn chế. Vì vậy chuyên đề này không tránh khỏi những khiếm khuyết. Bản thân em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô và các cô chú trong Chi nhánh NHĐT&PT Cầu Giấy để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn. Danh mục tài liệu tham khảo. 1. Federic S. Mishkin, tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính. 2. Peter Rose, Quản trị ngân hàng thương mại. 3. PGS.TS. Lưu Thị Hương, Giáo trình Thẩm định tài chính dự án. 4. TS. Trương Quốc Cường, Trần Trọng Sinh, Giáo trình tài trợ dự án. 5.Tài liệu của Chi nhánh NHĐT&PT Cầu Giấy: Báo cáo tổng kết các năm 2003, 2004, 2005. Quy trình thẩm định. Sổ tay tín dụng. Dự án Đầu tư dây chuyền sản xuất bánh kẹo của công ty Thủ Đô. 6. Tạp chí ngân hàng. 7. Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ. 8. Luận văn các khóa 42, 43. MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0063.doc
Tài liệu liên quan