trường đại học kinh tế quốc dân
Khoa ngânhàng - tài chính
_________ u _________
Luận văn tốt nghiệp
Đề tài:
Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng công thương ba đình
Giáo viên hướng dẫn : Th.s Trần đăng khâm
Sinh viên thực hiện :
Lớp : Cao đẳng NHTC - K1
Hà Nội - 8/2003
Lời nói đầu
Phát triển là mục tiêu của tất cả các quốc gia trên thế giới, kể cả các nước phát triển và chậm phát triển. Việt Nam vừa chuyển đổi cơ chế từ nền kinh tế tập chung quan
81 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1162 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng công thương ba đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
liệu bao cấp sang cơ chế thị trường có quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đặc biệt là đang tiến hành công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã đặt đất nước trước những thử thách lớn lao. Việt Nam có điểm xuất phát thấp, từ nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu. Đổi mới toàn diện và yêu cầu khách quan và bức thiết. Nhu cầu đầu tư cho tăng trưởng và phát triển rất lớn. Thời gian qua số lượng các dự án đầu tư cho tất cả các ngành càn càng gia tăng chứng tỏ tính hấp dẫn cũng như năng lực của thị trường Việt Nam.
Hoà mình với nhịp độ phát triển chung còn thấp, rủi ro trong cho vay của các tổ chức tín dụng còn cao, đặc biệt là dư nợ tín dụng quá hạn trong đó có cả nợ khó đòi hiện đang là vấn đề nổi cộm. Cũng như nền kinh tế nói chung, hoạt động cua hệ thống ngân hàng đã đến lúc cần có các giải pháp để thực hiện việc chuyển từ giai đoạn phát triển theo chiều rộng sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu. Các dự án đầu tư phải thực sự mang lại hiệu quả, đem lợi nhuận cho chủ đầu tư, cho ngân hàng, tạo nên sự tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Muốn đạt được kết quả đó, cần phải hội đủ rất nhiều yếu tố song chủ đạo là chiến lược khách quan hoàn hảo đi kèm cơ chế quản lý có hiệu quả và đặc biệt là phương pháp thẩm định khoa học.
Sau một thời gian thực tập tại Ngân hàng Công thương Ba Đình, em nhận thấy rằng thẩm định dự án dầu tư là vấn đề hiện đang còn nhiều điều đáng bàn, không chỉ của riêng Ngân hàng Công thương Ba Đình mà của tất cả các Ngân hàng thương mại Việt Nam. Vì vậy, với nhiệt tình và tâm huyết của bản thân, cộng với sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo Trần Đăng Khâm và sự giúp đỡ của các cán cán bộ ngân hàng Công thương Ba Đình, em mạnh dạn chọn đề tài:
"Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Công thương Ba Đình"
Chuyên đề kết cấu theo ba chương:
Chương I: Vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng thẩm định dự án đầu trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng chất lượng thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Công thương Ba Đình.
Chương III: Giải pháp và nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Công thương Ba Đình.
Do giới hạn về thời gian nghiên cứu, cộng với kinh nghiệm thực tế chưa có và tài liệu không đủ, chuyên đề sẽ khó tránh khỏi những khiếm khuyết. Mặc dù vậy, em hy vọng rằng đề tài này sẽ một lần nữa khẳng định được vai trò của công tác thẩm định và góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng thẩm định dự án đầu tư ở các Ngân hàng thương mại Việt Nam.
Chương I: Vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
I. Thẩm định dự án đầu tư trên góc độ ngân hàng.
1. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong đầu tư trung và dài hạn.
a. Khái niệm về tín dụng.
Tín dụng là một phạm trù kinh tế tồn tại qua các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. Theo mối quan hệ kinh tế trong đó một người chuyển cho người khác quyền sử dụng một lượng giá trị hoặc hiện vật nào đó với những điều kiện nhất định mà hai bên thoả thuận, những điều kiện đó thường về số lượng, chất lượng tiền tệ, thời hạn cho vay và khối lượng phải trả thêm. Đứng trên phương diện nghiệp vụ là bất cứ động tác nào đó, một người đưa vốn hoặc hứa đưa vốn cho người khác sử dụng và được cam kết trên giấy tờ, văn bản dưới hình thức như là đảm bảo, bảo chứng hay bão lãnh có thu tiền. Hình thức sơ khai và đầu tiên là tín dụng nặng lãi đã trải qua một thời gian dài đến nay nó vẫn tồn tại ở nhiều vùng ở nước ta, đặc biệt là ở nông thông. Loại tín dụng nặng lãi đã không thúc đẩy mà còn kìm hãm quá trình sản xuất và kinh doanh hàng hoá. Song sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, cùng với sự ra đời của hình thức này, các nhà tư bản kinh doanh với mục đích lợi nhuận, nên không thể vay vốn có mức lãi xuất cao hơn tỷ xuất lợi nhuận. Chính vì vậy, xuất hiện hình thức tín dụng phù hợp hơn, đó là tín dụng thương mại. Tín dụng thương mại là quan hệ mua bán chịu lẫn nhau giữa các nhà sản xuất hàng hoá nhỏ, giữa các thương nhân với nhau, giữa các thương nhân với nhà sản xuất hàng hoá.
Theo Các - Mác thì: "Tín dụng thương mại không phải là cho vay bằng hàng hoá mà cho vay bằng tiền của hàng hoá đem bán chịu" trong quan hệ mua bán chịu, thông thường giá bán chịu hàng hoá cao hơn giá bán bằng tiền mặt. Phần chênh lệch này chính là lãi xuất của hàng hoá đem bán chịu. Quan hệ mua bán chịu hàng hoá chỉ diễn ra giữa các đơn vị có liên quan trực tiếp với nhau. Do vậy nó không đáp ứng được nhu cầu vay mượn hàng ngày càng tăng của nền sản xuất hàng hoá, khắc phục được những nhược điểm của tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng ra đời.
b. Tín dụng ngân hàng.
Tiền thân của tín dụng ngân hàng xuất phát từ hoạt động của người thợ vàng. Những người thợ vàng ngoài việc chế tạo ra đồ trang sức vàng bạc mà còn đảm nhận việc giữ bảo hộ vàng bạc để được hưởng một khoản thù lao nhất định nào đó. Lúc đầu trong việc bảo quản, người thợ vàng phải đánh dấu họ tên người gửi vào thỏi vàng để sau này trả họ đúng chỗ vàng đó. Về sau nhờ nhận biết được tính vô danh của tiền tệ , những người thợ vàng chỉ xác định khối lượng và chất lượng của khối vàng họ nhận giữ nó, để sau này trả đúng khối lượng và chất lượng như cũ. Trong quá trình bảo quản, người thợ vàng nhận thấy có thể sử dụng một phần số tiền vàng mình giữ hộ đó để cho vay sinh lời. Sau này, hoạt động nhận gửi tiền và cho vay phát triển, những người thợ vàng làm thêm việc thanh toán và chi trả cho người gửi. Đó là tiền thân của một ngân hàng thương mại. Như vậy, ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế có ba nghiệp vụ chính đó là: Nhận tiền gửi, cho vay và làm nghiệp vụ thanh toán hộ. Còn tín dụng ngân hàng là Nhận tiền gửi, cho vay và làm nghiệp vụ thanh toán hộ. Còn tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác, các doanh nghiệp và cá nhân. Cụ thể hơn, tín dụng ngân hàng cũng có thể được hiểu là các khoản cho vay của ngân hàng Thương mại đối với một mức lãi xuất nhất định được quy định trong hợp đồng tín dụng sữ được ngân hàng thu hồi. Trên thực tế, hoạt động tín dụng rất phong phú và đa dạng, nhưng dù ở bất kỳ dạng nào, tín dụng cũng thể hiện hai mặt là: người sở hữu một số tiền, hàng hoá chuyển giao cho người sử dụng một thời gian nhất định và đến thời hạn do hai bên thoả thuận, người sử dụng hoàn trả lại cho người sở hữu một giá trị lớn hơn, phần tăng thêm gọi là phần lời (lãi suất).
c. Phân loại tín dụng.
* Căn cứ vào mục đích hoặc việc sử dụng vốn vay gồm nhiều hình thức là:
- Cho vay bất động sản là những khoản cho vay nhằm mục đích mua sắm đất đai, nhà cửa.
- Cho vay thương mại, công nghiệp và nông nghiệp là những khoản cho vay nhằm mục đích sản xuất, kinh doanh trong ngành thương mại - dịch vụ, ngành nông nghiệp và ngành công nghiệp.
- Cho vay cá nhân là những khoản cho các cá nhân và hộ gia đình vay mà chủ yếu họ dùng để mua sắm hàng tiêu dùng cá nhân.
- Cho vay khác và thuê mua chủ yếu bao gồm những khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính, chính quyền địa phương hay mua và chuyển nhượng các chứng khoán.
* Căn cứ vào luật thế chấp bao gồm:
- Cho vay có đảm bảo được biểu hiện việc cho vay có cầm giữ các vật thế chấp nào đó như: Bất động sản, nhà máy và máy móc, các vật đơn có thể chuyển hoá được, các cổ phiếu Công ty và các trái khoán. Yêu cầu cơ bản của các tài sản này là chúng có thể bán được. Lý do chủ yếu đòi hỏi một khoản cho vay phải được bảo đảm là nhằm tạo điều kiện để người cho vay giảm bớt rủi ro mất mát trong trường hợp người đi vay không muốn hoặc không thể trả nợ vay khi đáo hạn. Bảo đảm không có nghĩa là món nợ sẽ được hoàn trả vì ngân hàng trong trường hợp trở thành chủ nợ ưu tiên trong chi trả, và cũng có quyền ưu tiên so với tất cả các chủ nợ khác trong trường hợp thanh lý các tài sản đã được thế chấp vào ngân hàng, mà chủ yếu có tác dụng làm giảm bớt rủi ro.
- Cho vay không có đảm bảo có biểu hiện ngược lại với cho vay có đảm bảo. Phương pháp cho vay này dựa trên sự tin tưởng và tình hình tài chính của người cho vay, lợi tức có thể được trong tương lai và tình hình trả nợ trước đây. Trái với điều mà người ta vẫn tin, những khoản cho vay lớn nhất được một số ngân hàng thực hiện lại được dựa trên cơ sở không đảm bảo. Một số Công ty được các ngân hàng xem là người vay chủ yếu, trong nhiều trường hợp họ được hưởng lãi xuất ưu đãi nhất. Những Công ty ấy có cách quản lý hiệu quả, có các sản phẩm, và các dịch vụ được thị trường sẵn sàng chấp nhận, có lợi nhuận tương đối ổn định và với một tình hình tài chính vững mạnh. Nhiều cá nhân cũng được hưởng đặc quyền này. Những người có nhà riêng, công ăn việc làm ổn định, trả nợ sòng phẳng thể hiện trên sổ sách theo dõi, thường được vay trên cơ sở không cần bảo đảm.
* Căn cứ vào kỳ hạn nợ được quy định trong hợp đồng tín dụng:
- Cho vay ngắn hạn được thực hiện cho một quãng thời gian riêng biệt lên tới một năm.
- Cho vay theo yêu cầu là khoản cho vay không có kỳ hạn nhất định, và phải được trả khi có yêu cầu, vào bất cứ lúc nào. Đối với các doanh nghiệp đây là những khoản cho vay để bổ xung vốn lưu động và hoàn trả sau một cho một kỳ sản xuất kinh doanh.
- Cho vay trung và dài hạn bao gồm các khoản cho vay trên một năm.
* Căn cứ vào phương pháp hoàn trả:
- Các khoản cho vay được hoàn trả một lần được quan niệm như những khảon cho vay theo hợp đồng yêu cầu hoàn trả toàn bộ một lần vào thời gian đáo hạn cuối cùng.
- Cho vay trả góp hỏi việc hoàn trả theo định kỳ có thể là hàng tháng, hàng qu, nửa năm hoặc hàng năm, nó được thực hiện theo nguyên tắc trả dần trong suốt kỳ hạn thực hiện hợp đồng. Nhờ vậy, việc hoàn trả không trở thành một gánh nặng lớn đối với người vay như trong trường hợp toàn bộ khoản vay phải được trả một lần.
* Căn cứ vào nguồn gốc:
Khoản mục cho vay của các ngân hàng thương mại bắt nguồn từ bốn nguồn chủ yếu: trựctiếp từ người vay, qua việc mua các trái phiếu từ những người tiêu dùng, mua những khoản đóng góp trong những khoản cho vay có nguồn từ các ngân hàng khác cho vay có số lượng nhiều nhất được thực hiện trực tiếp với người xin vay tại trụ sở ngân hàng.
2. Vai trò của thẩm định dự án đầu tư trong cho vay trung và dài hạn.
a. Thẩm định dự án đầu tư.
Bất kỳ một công việc kinh doanh nào muốn bắt đầu hay mỏ rộng, nâng cấp, phát triển đều cần có vốn. Nguồn vốn đầu tiên được đưa ra sử dụng là vốn tự có được tích luỹ đến thời điểm dự kiến đầu tư. Trường hợp nguồn này không đủ đáp ứng, chủ thể muốn kinh doanh sẽ buộc phải tìm đến các nguồn vốn khác từ bên ngoài. Đó là nguồn do nhà nước cấp vốn đầu tư từ nước ngoài, vốn huy động bằng phát hành và vốn vay ngân hàng.
Tuy nhiên, cho dù hình thức nào được lựa chọn thì chủ yếu đầu tư cũgn chỉ đầu tư khi họ biết chắc rằng số tiền mà họ bỏ ra phải đem lại lợi ích như mong muốn. Để công việc kinh doanh của mình được tài trợ, cá nhân hay tổ chức thiếu vốn phải chứng minh được tính hiệu quả của công việc đầu tư của họ. Biện pháp thông thường và hiệu qủa nhất chính là lập dự án đầu tư. Đó là một văn bản phản ánh trung thực kết quả nghiên cứu cụ thể toàn bộ các vấn đề kinh tế, kỹ thuật, thị trường, tổ chức… Có ảnh hưởng trực tiếp đến sự vận hành, khai thác và khả năng sinh lợi của các công cuộc đầu tư. Có thể nói dự án đầu tư (Được soạn thảo tốt) là kim chỉ nam, là cơ sở vững chắc, là tiền đề cho việc thực hiện các công cuộc đầu tư đạt kết quả kinh tế xã hội mong muốn. Hơn nữa, đối với ngân hàng, đây là căn cứ để tiến hành công việc thẩm định.
Thẩm định cho vay vốn cố định (trung và dài hạn) là quá trình thu nhập xử lý các thông tin về một dự án, phương án, biện pháp đầu tư trên nhiều phương diện, phục vụ cho việc ra quyết định trong nghiệp vụ cho vay trung hạn và dài hạn của ngân hàng.
Thẩm định là một giai đoạn quan trọng trong quá trình tín dụng, giúp cho ngân hàng đánh giá chính xác sự cần thiết, tính khả thi và hiệu quả của dự án để ra quyết định đúng, có biện pháp hữu hiệu và đảm bảo thu nợ tốt, hạn chế rủi ro và mang lại hiệu quả cao. Qua thẩm định ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng về một số mặt như thanh toán, giá cả sản phẩm, chiến lược kinh doanh, quản lý.
b. Vai trò thẩm định dự án đầu tư.
Tín dụng ngân hàng được chia thành nhiều loại theo những tiêu thức khác nhau. Về thời hạn của tín dụng thì có hai loại: Tín dụng dưới một năm là ngắn hạn, tín dụng trung dài hạn là có thời hạn từ một năm trở lên. Do có đặc điểm thời gian dài và vốn lớn nên tín dụng trung dài hạn phức tạp hơn nhiều. Việc tiến hành công tác thẩm định dự án đầu tư cũng nhằm phục vụ cho các dự án trung và dài hạn.
- Thứ nhất: Hoạt động đầu tư có tính hai mặt. Điều đó có nghĩa là muốn phát triển kinh tế buộc phải đầu tư, song đầu tư không hiệu quả sẽ dẫn đến tốn kém, thậm chí mất vốn ảnh hưởng đến kinh tế xã hội.
Hoạt động đầu tư là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung, của địa phương, của ngành và các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng. Khi một dự án được tiến hành, nó liên quan tới nhiều khía cạnh của đời sống kinh tế xã hội, chẳng hạn như sự phân công lao động, phânbổ nguồn lực, trình độ kỹ thuật công nghệ, trình độ quản lý, vấn đề môi sinh, mức sống và thúc đẩy sự phát triển kinh tế, sự tiến bộ của xã hội.
Mặt khác, nếu có bất trắc xảy ra mà dự án không được thực thi như kế hoạch dự kiến hoặc không mang lại hiệu quả như mong muốn thì không những không có lợi ích gì mà còn tác động tiêu cực đến nhiều khía cạnh. Một dự án đang thi công mà bị gián đoạn, bỏ dở thì rõ ràng vốn đầu tư trở nên lãng phí vô ích. Ngay cả một công trình đã hoàn thành và được đưa vào sử dụng, cho dù có đem lại nguồn lợi nhuận lớn thế nào đi chăng nữa nhưng có ảnh hưởng không tốt đến môi trường, hay đơn giản chỉ là phá vỡ tính thống nhất của cảnh quan thì cũng không thể chấp nhận được, tổn thất lúc này mới lớn chừng nào.
Đầu tư là cần thiết, song đầu tư phải đem lại hiệu quả mới có ý nghĩa. Công tác thẩm định xuất phát từ mục đích này.
Thứ hai: Rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng là rủi ro lớn nhất. Đó là rủi ro không thu hồi được các khoản cho vay. Rủi ro tín dụng xảy ra sẽ gây khó khăn cho ngân hàng do: Phải dánh chịu chi phí đầu vào quá lớn, đối mặt với luồng tiền rút ra lớn hơn mức dự kiến có khả năng đáp ứng, làm giảm lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng… Nếu trường hợp rủi ro lớn và đồng thời có thể dẫn đến sự phá sản của ngân hàng, thậm chí sự sụp đổ của thị trường tài chính.
Cho nên, hơn các đối tượng khác ngân hàng đặc biệt quan tâm đến các biện pháp hạn chế và phòng ngừa rủi ro. Thẩm định dự án đầu tư đã trở nên một khâu không thể thiếu trong quá trình xét duyệt cho vay của ngân hàng. Nhờ công tác thẩm định mà các ngân hàng có thể tự mình kiểm soát mức độ hiệu quả của công việc kinh doanh trong tương lai.
xét trên quan điểm cho vay và thu hồi vốn nói chung, vốn trung và dài hạn nói riêng thì vấn đề thẩm định dự án đầu tư là một nhiệm vụ quan trọng của mọi ngân hàng trước khi ra quyết định đầu tư. Để công việc được tiến hành chặt chẽ, cán bộ tín dụng cần nắm vững chủ trương chính sách phát triển kinh tế của nhà nước, ngành địa phương và các quy chế quản lý kinh tế, quản lý đầu tư xây dựng cơ bản. Ngoài ra còn phải nắm vững tình hình kinh tế, chính trị của thế giới, khu vực và của nước có liên quan đến việc thực hiện dự án đầu tư. Đồng thời, trong quá trình thẩm định, cán bộ tín dụng phải nghiên cứu và kiểm tra một cách khách quan khoa học và toàn diện về nội dung dự án, tình hình đơn vị vay vốn khi cần thiết sẽ phối hợp với các cơ quan chuyên môn và chuyên gia để đưa ra các nhận xét, kết luận kiến nghị chính xác. Với tư cách là bên thẩm định dự án để cho vay, ngân hàng quan tâm nhất đến mức độ an toàn vốn.
Do đó, kết qủa thẩm định sẽ là những kết luận chính xác về tính khả thi hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xảy ra của dự án để những quyết định cho vay hoặc từ chối. Trường hợp dự án được chấp nhận, kết quả này còn làm cơ sở để xác định số tiền cho vay, thời gian cho vay, mức thu nợ hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho Doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả.
ở đây, chúng ta có thể kể đến một số biện pháp được đánh giá có hiệu quả trong công việc thẩm định dự án đầu tư. Đó là:
Trước tiên, Cán bộ tín dụng cần tham gia, khảo sát hiện trạng hoạt động của Doanh nghiệp hiện có (nếu dự án là đầu tư mở rộng) hoặc địa điểm để xây dựng, lắp đặt nhà xưởng mới, các máy móc thiết bị mà dự án sẽ đầu tư.
Sau đó, cán bộ tín dụng sẽ tiến hành thu thập thông tin, số liệu từ nhiều nguồn khác nhau để có số liệu so sánh, đối chiếu và xử lý thông tin. Nếu cần thiết phải phối hợp với các cơ quan chuyên môn, các chuyên gia để kiểm tra tính chính xác của các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật quan trọng của dự án.
Cuối cùng: Cần nhấn mạnh là khi tiến hành thẩm định, cán bộ tín dụng cần kiểm tra nhiều lần trong suốt cả quá trình từ khi có chủ chương đầu tư, xây dựng dự án tiền khả thi, xây dựng luận chứng kinh tế kỹ thuật cho đến khi luận chứng kinh tế kỹ thuật được duyệt. Mỗi lần kiểm tra thẩm định như vậy, cán bộ thẩm định đều phải có văn bản trả lời chủ đầu tư, báo cáo lãnh đạo chi nhánh và ngân hàng cấp trên (nếu vượt mức phán quyết) để chủ đầu tư biết mà triển khai các công việc cần thiết, bổ sung hoàn chỉnh hồ sơ, đồng thời giúp lãnh đạo chi nhánh, ngân hàng cấp trên biết để còn kịp thời chỉ đạo.
Như vậy, công việc thẩm định dự án đầu tư giúp cho ngân hàng ra quyết định có cho vay hay không? Nếu cho vay thì cho vay như thế nào, với mức là bao nhiêu. Điều này đảm bảo an toàn cho ngân hàng trong sử dụng vốn, giảm thiểu nợ quá hạn khó đòi. Bên cạnh đó, công tác thẩm định còn giúp cho chủ đầu tư lựa chọn những phương án tốt nhất hoặc đưa ra ý kiến xác đang gợi ý cho chủ đầu tư để dự án có tính khả thi cao hơn. Nó còn giúp các cơ quan quản lý nhà nước đánh giá sự cần thiết và phù hợp của dự án với quy hoạch phát triển chung của ngành, địa phương và của cả nước trên các mặt: Mục tiêu, quy hoạch, quy mô và hiệu quả.
II. Trình tự và nội dung của công tác thẩm định dự án đầu tư.
1. Cơ sở và phương pháp thẩm định.
Khi tiến hành thẩm định cần thu thập các tài liệu sau để làm cơ sở cho công tác thẩm định:
- Các tài liệu nói về chủ trương nhiệm vụ phát triển kinh tế của Nhà nước, địa phương, của ngành kinh tế, xu hướng phát triển ngành kinh tế.
- Các tiêu chuẩn, định mức kinh tế kỹ thuật.
- Thông báo giá cả hàng hoá, thiết bị trên thị trường trong nước, ngoài nước và diễn biến của thị trường.
- Các văn bản pháp lý có liên quan.
- Các dự án tương tự.
- Các tài liệu về tài chính, hoạt động và uy tín của pháp nhân vay vốn 2 năm trước và các qúy trong năm xin vay.
- Hồ sơ xin vay của chủ đầu tư.
- Ngoài ra còn có các thông tin về pháp nhân vay vốn thu thập được qua thăm dò, phỏng vấn từ các đối tác của chủ đầu tư, chủ yếu là người mua sản phẩm, nhà cạnh tranh cùng loại hình Doanh nghiệp.
Sau khi thu thập đầy đủ các thông tin, cán bộ tín dụng có thể sử dụng các phương pháp sau đây để phân tích, đánh giá:
a. Phương pháp so sánh:
Khi sử dụng phương pháp này cần đảm bảo tính so sánh được giữa các chỉ tiêu, nghĩa là phải thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính chất và đơn vị thanh toán… Trong khi so sánh cần chọn một gốc thời gian để so sánh nội dung so sánh có thể xem xét trên một số điểm.
* So sánh giữa năm này với năm trước để thấy được xu hướng thay đổi của chỉ tiêu, qua đó đánh giá tốc độ tăng trưởng hay thụt lùi của một hoạt động, ví dụ như hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
* So sánh dự án này với dự án tương tự để đánh giá mức độ khả thi, tính cạnh tranh.
* So sánh theo chiều dọc để thấy được tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể.
Qua so sánh chúng ta có thể phân tích đánh giá về hiệu quả cũng như xu hướng của hoạt động sản xuất doanh nghiệp.
b. Phương pháp phân tích tài chính qua các chỉ tiêu kinh tế.
Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ trọng trong quanhệ tài chính. Phương pháp này chỉ có ý nghĩa nếu ta xác định được các định mức yêu cầu đối với các chỉ tiêu tài chính. Chúng ta có thể thực hiện phân tích tài chính giản đơn qua các chỉ tiêu lợi nhuận, thời gian hoàn vốn, điểm hoà vốn, các chỉ tiêu về khả năng thanh toán… Hoặc thực hiện phân tích tài chính bằng phương pháp giá trị hiện tại dòng (NPV), phương pháp tính tỷ xuất hoàn vốn nội bộ (IRR) hay phương pháp tỷ suất hoàn vốn nội bộ điều chỉnh (MIRR). Trong thực tế, chúng ta áp dụng cả 2 phương pháp so sánh và phân tích tỷ lệ để có cách phân tích, đánh giá toàn diện và hiệu quả.
1. Thẩm định doanh nghiệp vay vốn.
a. Tư cách pháp nhân.
Về thực chất đây là bước cán bộ thẩm định cần thẩm định về cơ sở pháp lý và tình hình hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp cần vay vốn.
Giấy tờ chứng nhận về tư cách pháp nhân bao gồm: Giấy phép thành lập, đăng ký kinh doanh, điều lệ hoạt động, quyết định bổ nhiệm giám đốc, kế toán trưởng… Các giấy tờ này phải phù hợp với quy định trong luật Doanh nghiệp nhà nước, luật Doanh nghiệp tư nhân luật công ty, luật hợp tác xã, luật đầu tư nước ngoài… Cán bộ tín dụng phải kiểm tra đối chiếu bản gốc của các nội dung đã kê khai trong đơn vị xin vay vốn và lưu lại các bản sao. Mục đích của bước thẩm định này là đưa ra kết luận mức độ tin cậy về tư cách pháp nhân của Doanh nghiệp cũng như sở trường và uy tín trong kinh doanh.
b. Phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của Doanh nghiệp.
Để phântích được tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của Doanh nghiệp, cán bộ tín dụng sẽ phải lấy số liệu ít nhất là 3 năm gần nhất của đơn vị hoạt động sản xuất lỗ lãi của từng đơn vị qua từng thời kỳ. ở đây, cán bộ tín dụng sẽ quan tầmn đến mức độ tự chủ về tài chính, khả năng thanh toán và chỉ tiêu sinh lời.
- Khả năng tự cân đối tài chính được đánh giá thông qua 2 chỉ tiêu: Hệ số tài trợ và năng lực đi vay.
Trong đó:
Hệ số tài trợ
=
Nguồn vốn hiện có của Doanh nghiệp
ắắắắắắắắắắắắắắắắ
S nguồn vốn Doanh nghiệp đang sử dụng
Năng lực đi vay
=
Nguồn vốn hiện có của Doanh nghiệp
ắắắắắắắắắắắắắắắắ
Vốn thường xuyên
Nếu các hệ số này: Kỳ sau > kỳ trước > 0,5 là tốt
Tình hình tài chính doanh nghiệp được thể hiện khá rõ nét qua các chỉ tiêu về khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh khả năng tài chính của doanh nghiệp trong việc đáp ứng các khoản nợ. Để đánh giá chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp ở lĩnh vực này, người ta sử dụng các chỉ tiêu sau:
Hệ số thanh toán ngắn hạn
=
Tài sản lưu động
ắắắắắắắắắ
Nợ ngắn hạn
Hệ số thanh toán nhanh
=
(Vốn bằng Tiền + Các khoản phải thu)
ắắắắắắắắắắắắắắắắ
Nợ ngắn hạn
Hệ số thanh toán tức thời
=
Vốn bằng tiền
ắắắắắắắắ
Nợ đến hạn
Hệ số thanh toán cuối cùng
=
Tài sản có lưu động
-
Tài sản thiếu chờ xử lý
-
Chênh lệch tỷ giá và chỉ số giá chưa xử lý
Nợ ngắn hạn
Các hệ số trên ³ 1 là bình thường và càng cao càng tốt. Nếu hệ số 0,5 là tốt. Nếu hệ số khả năng thanh toán thì xác định tình hình công nợ cũng đòi hỏi đối với cán bộ tín dụng. Cán bộ tín dụng phải xem xét và đánh giá tình hình quan hệ tín dụng tình hình quan hệ tín dụng. Cán bộ tín dụng phải xem xét và đánh giá tình hình quan hệ tín dụng tình hình thanh toán với người mua và người bán, tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với ngân hàng nhà nước.
Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lợi gồm có:
Hệ số sinh lời doanh thu
=
Lợi nhuận ròng sau thuế
ắắắắắắắắắ
Doanh thu thuần
Hệ số sinh lời của tài sản
=
Lợi nhuận trước thuế
ắắắắắắắắắ
Tổng tài sản
Hệ số sinh lời vốn chủ sở hữu
=
Lợi nhuận dòng sau thuế
ắắắắắắắắắ
Vốn chủ sở hữu
Nhóm chỉ tiêu này càng cao càng hiệu quả.
Từ kết quả đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp, cán bộ tín dụng sẽ đưa sẽ đưa ra được bản kết luận trong đó nêu rõ các ưu nhược điểm của Doanh nghiệp tập trung trên các mặt: Khả năng tài chính, khả năng quản lý điều hành kinh doanh, sự tín nhiệm và năng lực sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Đó là mục tiêu của bước thẩm định này.
3. Thẩm định dự án đầu tư.
3.1. Sự cần thiết của dự án.
Mỗi dự án đầu tư là mắt xích quan trọng trong chương trình phát triển trung, dài hạn của ngành hay vùng lãnh thổ. Mặt khác, việc một dứan được đầu tư sẽ có ảnh hưởng không nhỏ tới toàn bộ đời sống kinh tế, xã hội như cung - cầu hàng hoá, hoạt động xuất nhập khẩu, môi trường tự nhiên… vì vậy, việc thẩm định sự cần thiết cua dự án là rất quan trọng, trước hết, cán bộ tín dụng phải xem xét mục tiêu của dự án có phù hợp với các đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, các ngành, các cấp, các địa phương, dự án nằm trong phạm vi khuyến khích phát triển sẽ được ưu tiên hơn. Sau đó, cán bộ tín dụng cần xem xét dự án có thực sự cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp, có mang lại lợi ích cho chủ đầu tư, cho nền kinh tế xã hội? Nhờ đó, cán bộ tín dụng tìm và nắm được động lực thúc đẩy. Sự hình thành dứan đầu tư để kịp thời phát hiện những trường hợp đầu tư tự phát, chạy theo lợi ích trước mắt.
3.2. Thẩm định về phương diện thị trường.
Thị trường là nhân tố quyết định việc lựa chọn mục tiêu và quy mô của dự án. Ngay cả trong trường hợp dự án đã ký được các hợp đồng bao tiêu, cũng phải nghiên cứu thị trường nơi người bao tiêu sẽ bns sản phẩm và uy tín của người bao tiêu trên thị trường.
Khi phân tích khả năng tiêu thụ sản phẩm phải xem xét tính chính xác, trung thực của các số liệu, thông tin đưa vào luận chứng kinh tế kỹ thuật trên các mặt giá cả, quy cách phẩm chất, mẫu mã hàng hoá, thị hiếu người tiêu dùng, đặc biệt đối với thị trường nước ngoài. Mục đích nghiên cứu thị trường ở đây là nhằm xác định thị trường sản phẩm, khả năng cạnh tranh và các biện pháp khuyến thị.
Cung cầu của sản phẩm tuỳ phạm vi tiêu thụ sản phẩm của dự án mà cán bộ tín dụng phải lập dự án về:
- Tình hình tiêu thụ sản phẩm cùng loại trên địa bàn mà dự án dự kiến sẽ xâm nhập, chiếm lĩnh trong thời gian qua.
- Dự báo nhu cầu trong tương lai và mức độ đáp ứng các nguồn nói chung, các kênh đáp ứng của các sản phẩm tương tự, sản phẩm thay thế.
- Tính hợp lý, hợp pháp và mức độ tin cậy của các hợp đồng bao tiêu sản phẩm, các văn bản giao dịch về sản phẩm, tránh giả mạo, rủi ro có thể xảy ra. Sản phẩm của dự án cũng không nên bán cho một thị trường hay một nhà tiêu thụ duy nhất mà cần nhiều thị trường, nhiều nhà tiêu thụ để chủ động, tránh khỏi ép giá và ứ đọng hàng.
Khả năng cạnh tranh của dự án cán bộ tín dụng phải hiểu xu hướng cạnh tranh, mức độ cạnh tranh cũng như các đói thủ cạnh tranh chủ yếu trên thị trường.
- Nghiên cứu so sánh khả năng cạnh tranh là xem xét, đánh giá, so sánh loại sản phẩm của dự án với các sản phẩm hiện có trên thị trường về quy cách, chất lượng, giá cả, bao bì, điều kiện thanh toán... Để thấy ưu thế sản phẩm của dự an.
- Nghiên cứu so sánh khả năng cạnh tranh gián tiếp là đánh giá, so sánh uy tín, kinnh nghiệm... của doanh nghiệp với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
- Các biện pháp khuyến thị : Để hỗ trợ cho quá trình tiêu thụ sản phẩm, cán bộ tín dụng cũng nghiên cứu các biện pháp khuyến thị và tiếp thị cần thiết bao gồm cả chính sách giá cả, tổ chức hệ thống phân phối, bao bì, tranh trí, quảng cáo...
Với các phân tích trên sẽ đưa ra được kết luận: Với các điều kiện như vậy khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án ra sao.
3.3. Thẩm đinh về phương diện kỹ thuật
Thẩm định dự án về phương diện kỹ thuật là việc kiển tra phân tích các yếu tố kỹ thuật và các công nghệ của dự án để đảm bảo tính khả thi cả về mặt thi công xây dựng dự án lẫn việc vận hàng dự án theo đúng các mục tiêu dự kiến. Các vấn đề kỹ thuật chính cần kiểm tra bao gồm:
- Thẩm định về mặt lựa chọn địa điểm xây dựng dự án. Thông thường các dự án đầu tư theo chiều sâu nghĩa là các dự án đổi mới thiết bị công nghệ, cải tạo nhà xưởng, trên cơ sở của doanh nghiệp hoạt động thì nói chung không cần xác định vấn đề lựa chọn địa điểm. Ngược lại, đối với các dự án đầu tư xây dựng mới hoặc mở rộng quy mô sản xuất lớn thì cằn phải có phương án về địa điểm để lựa chọn và cân nhắc.
Yêu cầu việc lựa chọn địa điểm:
- Gần nơi cung cấp nguyên vật liệu chủ yếu hoặc nơi tiêu thụ chính.
- Giao thông thuận tiện, chi phí vận chuyển, bốc dỡ hợp lý.
- Thuận tiện đi lại cho cán bộ công nhân viên nhà máy.
-Tận dụng cơ sở hạ tầng sẵn có: đường xá, bến cảng, điện, nước...
- Mặt bằng phù hợp quy mô hiện tại và dự phòng cho phát triển mở rộng trong tương lai, đạt yêu cầu về vệ sinh công nghiệp, sử lý ô nhiễm môi trường, phòng cháy chữa cháy . . .
Địa điểm xây dựng phải tuân thủ các văn bản quy định của nhà nước về quy hoạch đất đai, kiến trúc. xây dựng (có giấy phép của cấp có thẩm quyền). Chi phí đền bù, công tác di dân, giải phóng mặt bằng cần được thật sự quan tâm để ước lượng được chi phí và thời gian thực hiện.
Tất cả các vấn đề trên cần được kiểm tra tính toán, lựa chọn phương án tối ưu
Thẩm định về lựu chọn hình thức đầu tư và công xuất dự án. Thực chất, lựa chọn hình thức đầu tư và công xuất dự án là nhiệm vụ của chủ đầu tư còn cán bộ tín dụng chỉ có nhiệm vụ xem xét và phát hiện các vấn đề trên cơ sở kinh nghiệm và các thông tin hiện có để kiến nghị với chủ dự án.
Cán bộ tín dụng sẽ đề xuất một hình thức đầu tư thích hợp trên cơ sở nghiên cứu năng lực và điều kiện sản xuất của doanh nghiệp.
- Cán bộ tín dụng sẽ đề xuất biện pháp hình thức đầu tư chiều sâu, đổi mới trang thiết bị công nghệ nếu những công nghệ thiết bị sản xuất hiện có tỏ ra lạc hậu, do đó chất lượng và năng xuất lao động thấp, chi phí sản xuất lại cao dần dẫn đến hiệu quả kinh doanh thấp hoặc vấn đề vệ sinh an toàn không được đảm bảo làm ô nhiễm môi trường mà không có biện pháp khắc phục.
- Phương án đầu tư bổ xung thêm thiết bị sẽ được đề xuất nếu năng lực sản xuất của doanh nghiệp còn thấp so với nhu cầu trên thị trường , thiết bị sản xuất lại thiếu đồng bộ .
- Phương án đầu tư mở rộng (Cả nhà xưởng và thiết bị) hoặc đầu tư mới nói chung chỉ đặt ra khi năng lực hiện có không đáp ứng được nhu cầu thị trường mà các hình thức đầu tư chiều sâu, đầu tư bổ xung nếu thực hiện sẽ rất tốn kém, không mấy hiệu quả.
Còn việc lựa chọn công xuất dự án được quyết định trên cơ sở cầu về sản phẩm, khả năng về thiết bị , nguyên vật liệu cũng như vốn đầu tư.
Về thực chất, công xuất thực tế của dự án là khả năng hoạt động của ._.dự án trong các điều kiện sản xuất bình thường, có tính đến yếu tố chủ quan và khách quan như: Thời tiết trình độ quản lý vận hành của công nhân, điều kiện cung ứng vật tư, nguyên liệu, năng lượng cho sản xuất cũng như chất lượng chế tạo và lắp đặt thiết bị, chế độ làm việc' của máy móc...
Công suất được chọn cho dự án sẽ là công suất mà tại đó, tất cả các yếu tố được sử dụng hợp lý nhất đảm bảo cho dự án sẽ hoạt động nhịp nhàng, có hiệu quả, đáp ứng được mức cầu trên thị trường. Nghiên cứu về dây truyền công nghệ và việc lựa chọn thiết bị. Dây truyền công nghệ và thiết bị là những vấn đề sống còn của dự án đầu tư bởi chúng quyết định cả chất lượng lẫn năng suất của sản phẩm. Dây truyền công nghệ lệch lạc, thiết bị quá cũ kỹ sẽ cho ra những sản phẩm kém chất lượng với năng suất thấp. Đồng thời, quá trình sản xuất lại hay bị gián đoạn, không đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy, cần tiến hành các công việc sau:
* Đã đưa ra mấy phương án để so sánh lựa chọn công nghệ, thiết bị chưa? ưu nhược điểm của từng phương án là gì?
* Lý do lựa chọn công nghệ thiết bị hiện tại
* Nếu công nghệ thiết bị mới và phức tạp có được đảm bảo bằng các hợp đồng chuyển giao công nghệ hay không? "
Hợp đồng chuyển giao công nghệ bao gồm hai phần:
+ Phần cứng: Máy móc thiết bị.
+ Phần mềm: Bí quyết, công thức
* Thẩm định số lượng, công suất, quy cách, chủng loại, danh mục thiết bị, tính đồng bộ của dây truyền sản xuất, năng lực hiện có của doanh nghiệp so sánh với quy mô dự án.
* Đối với thiết bị nhập ngoại cần qua đấu thầu cạnh tranh quốc tế hoặc trộn thầu, nhằm đảm bảo chất lượng và giá cả. Kiểm tra các hợp đồng cung ứng, các bên chào hàng, các điều kiện giao hàng, thời gian giao hàng, phương thức thanh toán... Tránh sơ hở, thiệt hại cho chủ đầu tư và ngân hàng.
Thẩm định việc cung cấp nguyên liệu và các yếu tố đầu vào khác. Nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào khác có một vai trò rất quan trọng trong quá trình vận hành dự án. Dù vị trí xây dựng dự án là thuận lợi, các trang thiết bị có hiện đại và phù hợp đến đâu mà các yếu tố đầu vào bị đình trệ thì quá trình sản xuất nhất định sẽ bị gián đoạn, ảnh hưởng đến các hoạch định của đầu ra. Cho nên, thẩm định việc cung cấp nguyên vật liệu, bán thành phẩm, năng lượng và các yếu tố đầu vào khác là cần thiết
Nó bao gồm các mục:
* Kiểm tra về tính toán tổng nhu cầu hàng năm về nguyên vật liệu chủ yếu, năng lượng, điện nước... Trên cơ sở các định mức kinh tế, kỹ thuật, so sánh mức tiêu hao thực tế.
* Đối mới các nguyên vật liệu thời vụ hoặc nhập khẩu cần tính toán mức dự chữ hợp lý đề đảm bảo cung cấp thường xuyên, tránh lãng phí.
* Đối với các nguyên vật liệu nhập khẩu hoặc khan hiếm cần xem xét khả năng cung ứng thực tế trong và ngoài nước thông qua các hợp đồng hoặc các văn bản cam kết của doanh nghiệp với các nhà cung cấp về số lượng giá cả, số lượng quy cách, phẩm chất, điều kiện giao hàng, phương thức thanh toán... Cần tìm nhiều nguồn cung cấp, không nên lệ thuộc một nhà cung cấp
- Đối với các dự án khai khác sử dụng tài nguyên khoáng sản, phải kiểm tra tính đúng đắn của các tài liệu điều tra, thăm dò khảo sát, đánh giá phân tích về trữ lượng, hàm lượng, chất lượng tài nguyên kiểm tra giấy phép khai khác khoáng sản của cấp có thẩm quyền để đảm bảo cho dự án hoạt động lâu dài.
* Riêng đối với dự án sản xuất các sản phẩm đòi hỏi nghiêm ngặt tiêu chuẩn nguyên vật liệu cũng như chất lượng sản phẩm ( Thuốc tân dược, đồ hộp, nước giải khát...) Cần phải kiểm tra chặt chẽ về quy cách tiêu chuẩn nguyên liệu cho sản xuất.
Thẩm định về quy mô, giải pháp kiến trúc và kết cấu xây dựng. Công tác thẩm định này xuất phát từ yêu cầu tận dụng tối đa các hạng mục công trình đã có, tiết kiệm vốn đầu tư và thời gian thi công.
Quy mô xây dựng hợp lý sẽ là hiệu số của quy mô xây dựng dự án với quy mô các hạng mục công trình còn sử dụng hay tận dụng được. Cần xem xét kỹ các phương án về kết cấu xây dựng để đảm bảo tính hợp lý giữa kết cấu, cấp công trình và tuổi thọ kinh tế, đặc điểm sản xuất cũng như điều kiện về tự nhiên, khí hậu của dự án để tránh được những lãng phí do thiết kế quá phô trương, hình thức…
Thẩm định để xác định các mục tiêu cấp bách thực sự cần đầu tư sẽ giúp cho chủ đầu tư tránh hình thức đầu tư tràn lan án lu hưởng đến tiến độ thi công cũng như hiệu quả đầu tư của dự án.
Thẩm định về tiến độ và chương trình thực hiện dự án. Khi xem xét hồ sơ dự án đầu tư, tiến độ và trương trình thực hiện dự án thường bị bỏ qua. Tuy nhiên, đây là hai yếu tố quan trọng liên quan đến kế hoạch sử dụng vốn, kế hoạch sản xuất kế hoạch cho vay thu nợ của ngân hàng:
Trước hết, xác định thứ tự ưu tiên tập trung vốn đầu tư hoàn thành dứt điểm từng phần để đưa vào sử dụng, trước hết là hạng mục công trình sản xuất, tiếp đến là hạng mục phụ trợ, cuối cùng là các hạng mục khi sản xuất. Cũng cần tính toán để hoàn thành các hạng mục cần thiết, có thể đưa dự án đi vào hoạt động từng bộ phận đảm bảo việc sản xuất các bộ phận hiện có. Nhờ đó, tránh thi công dàn đều không hiệu quả, thậm chí có khả năng thiếu vốn, thiếu nguyên vật liệu dẫn tới dở dang tất cả. Để có số liệu hợp lý về chương trình sản xuất của dự án, cần phân tích kỹ hệ số phát huy công suất của dự, án trong những năm đầu hoạt động. Do độ dài về thời gian từ khi dự án hoàn thành đến khi đạt được công suất mong muốn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố cả khách quan lẫn chủ quan, cho nên cần thật thận trọng khi xác định hệ số sử dụng công suất dự án, tránh xu hướng đáng giá theo cảm tính và quá chủ quan:
Thẩm định về phương diện tổ chức, quản lý thực hiện và vận hành dự án.
- Xem xét các đơn vị thiết kế, thi công, chọn đơn vị, có đủ năng lực và tư cách hành nghề, có giấy phép hoạt động do cơ quan có thẩm quyền cấp.
- Xem xét về chủ dự án: Kinh nghiệm tổ chức quản lý thi công, quản lý sản xuất vận hành, trình độ đội ngũ công nhân kỹ thuật.
3.4. Thẩm định tính khả thi của dự án về nội dung kinh tê tài chính
Yếu tố quyết định trực tiếp đến việc lựa chọn dự án đầu tư là lợi nhuận của dự án. Tuy các khía cạnh khác cũng rất cần thiết nhưng phân tích tài chính luôn tìm ra những con số cụ thể cho phép chúng ta có cái nhìn tổng quát về hoạt động và kết quả của dự án trong tương lai. Với ý nghĩa này, việc thẩm định tài chính phải được tiến hành thật kỹ trên cơ sờ thu thập các số liệu chính xác. Do đó có thể nói đây là công đoạn cán bộ tín dụng thường lưu tâm và mất nhiều công sức nhất.
Có hai phương pháp phân tích tài chính để thẩm định tính khả thi của dự án đầu tư: Phương pháp phân tích tài chính đơn giản, phương pháp giá trị hiện tại.
Phương pháp phân tích tài chính giản đơn
Các chỉ tiêu được sử dụng:
- Lợi nhuận ròng: Là tổng lợi nhuận thu được trong thời gian hoạt động của dự án LN = SD - SC - ST
Trong đó: SD - Tổng doanh thu chính, phụ của dự án.
S C - Tổng chi phí liên quan đến sản xuất kinh doanh, dịch vụ
ST : các loại thuế dự kiến phải nộp (kể cả thuế lợi tức)
Khi tính toán nếu LN > 0 dự án có lãi, ngược lại LN < 0 dự án bị lỗ. Tuy nhiên, do không tính đến yếu tố thời gian của tiền tệ cho nên chỉ tiêu này có tính chính xác không cao. Thường chỉ áp dụng cho những dự án đầu tư ngắn hạn, môi trường kinh doanh và đông tiền thanh toán ổn định.
Thời gian thu hồi vốn đầu tư được tính bằng tông thức:
Trong đó T: Là thời gian thu hồi vốn đầu tư
SV: Tổng vốn đầu tư
LN : Lợi nhuận ròng trước thuế hàng năm của dự án.
KH : Khấu hao hàng năm của dự án
Thời gian thu hồi vốn đầu tư càng ngắn càng
Thời gian thu hồi vốn vay được tính như sau:
Trong đó : TV : Là thời gian thu hồi vốn vay
Thời gian thu hồi vốn vay càng ngắn càng
Điểm hoà vốn: Là điểm mà tại đó doanh thu bằng chi phí bỏ ra. Điểm hoà vốn thường tính cho một năm và thường tính ở năm đơn vị sản xuất kinh doanh ổn định. Điểm hoà vốn cho biết khả năng sinh lợi., và mức độ an toàn của dự án thông qua các chỉ tiêu: Điểm hoà vốn lý thuyết sản lượng hoà vốn, doanh thu hoà vốn là điểm hoà vốn trả nợ. Các chỉ tiêu này được tính như sau:
Điểm hoà vốn lý thuyết:
Trong đó: Đ - Định phí
D - Doanh thu
B - Biếu phí
Sản lượng tiêu thụ ở điểm hoà vốn (q)
Trong đó: p - Giá bán 1 đơn vị sản phẩm
b - Biến phí một đơn vị sản phẩm
Doanh thu hoà vốn ( Dhv )
Điểm hoà vốn trả nợ ( Đtn ). Từ điểm này trở đi xí nghiệp có đủ tiền trả nợ vay và nộp thuế
Điểm hoà vốn được biểu thị ở đồ thị sau
Định phí
Sản lượng
Tổng chi phí
Doan thu
Điểm hoà vốn
Điểm lỗ
Điểm hoà vốn, chi phí, doanh thu
Trong thực tiễn lập và thẩm định dự án đầu tư, người ta còn tính toán thêm chỉ tiêu điểm hoà vốn với nhiều giá bán. Điểm hoà vốn = 80% thì đầu tư không an toàn.
Đánh giá khả năng trả nợ:
Các nguồn tiền để trả nợ hằng năm
Tỷ lệ lãi càng cao thì càng và ngược lại: Tìm tỷ lệ trả nợ hàng năm để thấy được mức độ tin cậy của dự án. Từ đó xác định mức độ thu hợp lý. Đối với các dự án vay vốn ngoại tệ, cần đánh giá thêm phương án cân đối ngoại tệ để trả nợ. Tuy nhiên, trên thực tế việc phân tích trên chỉ phù hợp với các dự án nhỏ, màsự xuất hiện của các dự án đó thường không ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng rất ít đến giá trị đầu vào và đầu ra. Trong trường hợp ngược lại, sẽ cho kết quả có độ chính xác thấp.
Phân tích tài chính bằng giá trị hiện tại
Đây là phương pháp thẩm định tính khả thi của dự án các chỉ tiêu:
- Lãi kép và giá trị kép.
- Giá trị hiện tại dòng.
- Tỷ suất hoàn vốn nội bộ.
- Phân tích độ nhạy của dự án
Các chỉ tiêu trên được tính toán theo nguyên tắc tiền tệ có giá trị thời gian. Số lượng tiền tệ phải được tăng lên theo thời gian. Khi nó trở thành vốn đưa vào quá trình tái sản xuất.
Lãi kép và giá trị kép: Lãi kép là lãi sinh sôi qua các năm và lãi thu được ở năm trước gộp vào vốn để làm cơ sở tính lãi cho năm tiếp theo.
Để tính lãi kép năm thứ n, dùng công thức:
Trong đó:
Tn: Giá trị kép năm thứ n
V: Vốn đầu tư ban đầu
r : Lãi suất năm
n: Số năm đầu tư
1 + r : Chỉ số (hay ước số) lãi kép
Thẩm định dự án đầu tư qua việc đánh giá chỉ tiêu lãi kép và giá trị kép có ý nghĩa thực tiễn rất lớn bởi đó chính là cái mốc đánh giá hiệu quả tối thiểu mà người đầu tư phải đạt được khi đầu tư.
Giá trị hiện tại ròng: là tổng lãi ròng của cả đối dự án quy về thời điểm bắt đầu đầu tư Còn nhiều cách tính giá trị hiện tại ròng. Đơn giản nhất, người ta tính bằng cách lấy hiệu số giữa tổng hiện giá thu nhập ròng qua năm và tổng vốn đầu tư của dự án.
Trong đó:
NPV (net present value): Là tổng giá trị hiện tại ròng của dự án.
SPV (present value) : Là tổng hiện giá thu nhập dòng.
SV : Tổng vốn đầu từ của dự án (Quy về thời điểm bắt đầu đầu tư nếu vốn đầu tư thực hiện trong nhiều năm)
Để tính giá trị hiện tại (PV), người ta cũng có thể dùng cách tính ngược của giá trị, tức là tính giá trị của đồng tiền thu được ở một thời điểm trong tương lai quy về giá trị hiện tại. Chỉ tiêu NPV có nghĩa rất lớn trong việc thẩm định dự án đầu tư vì nó phản ánh hiệu quả đích thực của dự án. Trong điều kiện môi trường đầu tư có lạm phát lớn, đồng tiền mất giá nhanh, nếu chỉ tính thanh toán bằng phương pháp phân tích tài chính giản đơn thì kết quả sẽ có sai lệch lớn, ảnh hưởng đến kết quả đầu tư vì bỏ qua sự mất giá của đồng tiền.
Nếu NPV > 0 thì dự án hoạt động có lãi, nếu NPV : 0 thì dự án hoà vốn, và nếu NPV < 0 thì dự án bị lỗ.
Thông thường ngân hàng chỉ chọn những dự án NPV > 0 để đầu tư.
Ngoài ra, bên cạnh việc xác định giá trị hiện tại ròng của dự án, người ta còn xác định thêm tỷ lệ giá trị hiện tại ròng tỉ lệ này được biểu diễn bằng công thức:
Tỷ lệ NPVR cho biết một đồng vốn đầu tư bỏ ra sẽ đem lại bao nhiêu đồng giá trị hiện tại thực khi thực hiện dự án.
Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR) là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó NPV = 0
Trong đó:
CFI dòng tiền năm i của dự án
IRR tỷ suất hoàn vốn nội bộ
Có nhiều cách để tính IRR. Trong thực tế người ta dùng phương pháp nội suy để tính dựa vào công thức tính NPV.
Tỷ lệ IRR dùng để thẩm định và ra quyết định đầu tư. Dự án được lựa chọn để đầu tư phải có IRR > : lãi suất vay vốn thông thường. Trong trường hợp ngược lại, việc đầu tư dự án sẽ kém phàn lợi hơn việc mang vốn dự kiến dùng để đầu tư cho dự án gửi vào ngân hàng.
Phân tích độ nhạy của dự án
Phân tích độ nhạy của dự án là việc phân tích bất trắc, rủi ro của dự án do sự thay đổi của một hoặc nhiều nhân tố ( giá cả, chi phí đầu tư, doanh thu...) ảnh hưởng đến NPV và IRR. Khi tính độ nhạy của dự án người ta cho các biến số giá cả, chi phí đầu tư, doanh thu... biến đổi 1%, xem NPV và IRR thay đổi bao nhiêu Điều quan trọng trong khi đánh giá độ nhậy của dự án là dự đoán xu thế và mức độ thay đổi của các yếu tố ảnh hưởng. Việc phân tích độ nhạy của dự án giúp chủ đầu tư và đơn vị cho vay vốn khoanh được hành lang an toàn cho sự hoạt động của dự án.
Hiện nay, thẩm định tính khả thi của dự án về nội dung kinh tế tài chính cần kết hợp hài hoà hai phương pháp đã trình bày ở trên và từng bước chuyển dần sang phương pháp thứ hai
3.5. Thẩm định dự án trên các phương diện kinh tê xã hội khác
Nhìn chung các chỉ tiêu hiệu quả về mặt tài chính chưa phản ánh hết được những tác động của dự án đối với nền kinh tế và với xã hội. Không phải mọi dự án có khả năng sinh lời cao đều tạo ra những ảnh hưởng đối với nền kinh tế và xã hội. Vì vậy, đề xem xét một cách toàn diện hơn, người ta còn đánh giá dự án trên các phương diện sau:
- Về môi trường xã hội: Hiện nay, tiêu chuẩn về môi trường ở các nước đang phát triển được quy định rất khắt khe, buộc các nhà kinh doanh phải chi phí những khoản tiền rất tốn kém để chống Ô nhiễm. Trước tình hình đó, để giảm chi phí, họ chuyển những công nghệ độc hại gây Ô nhiễm nặng môi trường sang các nước kém phát triển để đầu tư.
Trong khi đó, ở các nước kém phát triển, vì nghèo nên vấn đề bảo vệ môi trường chưa được quan tâm đúng mức. Hậu quả lạ chỉ một thời gian không lâu sau chính mở cửa, vấn đề Ô nhiễm môi trường đã trở nên báo động trầm trọng khó khắc phục được. Việt Nam cũng không tránh khỏi tình trạng này. Hiện nay, những con số đo độ Ô nhiễm ở nước ta đã vượt xa mức độ báo động nhiều lần. Đương nhiên, khắc phục tình trạng này là không đơn giản. Trong khi chính phủ chưa có các văn bản pháp luật cụ thể, chi tiết về vấn đề bảo vệ môi sinh, chúng ta chỉ còn biết trông chờ vào ý thức cũng như sự tư giác của các chủ đầu tư, vào sự kiên quyết của cán bộ thẩm định dự án.
- Vấn đề công ăn việc làm: Có nhiều cách để đánh giá hiệu quả về đào tạo công ăn việc làm của dự án, nhưng về cơ bản ta phải tính được các chỉ tiêu tăng, giảm số lao động trong xã hội. Trình tự xác định số lao động (lành nghề và không lành nghề) có việc làm do thực hiện dự án như sau:
- Xác định số lao động cần thiết cho dự án
- Xác định số lao động cần thiết cho hoặc tăng thêm ở các dự án liên đối cả về phía đầu vào và đầu ra. Đây chính là số lao động có việc làm gián tiếp nhờ thực hiện dự án đang xem xét.
Tổng hợp số lao động có việc làm trên chính là tổng lao động có việc làm nhờ dự án (lành nghề và không lành nghề).
Ta có thể tính các chỉ tiêu nêu trên trên một đơn vị giá trị vốn đầu tư trực tiếp tác động đến điều tiết thu nhập. Một dự án đầu tư ra đời sẽ đóng góp cho nền kinh tế quốc dân bằng giá trị gia tăng của mình và của các dự án có liên quan Phần giá trị gia tăng này sẽ được phân phối cho các nhóm đối tượng khác nhau như: Những người làm công ăn lương, những người có vốn hưởng lợi tức, nhà nước thu thuế. . . Việc phân phối này sẽ tạo nên những ảnh hưởng của dự án đối với việc điều tiết thu nhập giữa các nhóm dân cư hoặc vùng lãnh thổ. Từ đó tác động đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Đây cũng là vấn đề mà cán bộ tín dụng phải xem xét.
Hiệu quả tiết kiệm ngoại tệ: Một nhiệm vụ cơ bản khi xem xét lợi ích kinh tế xã hội của dự án là xem xét mức độ đóng góp của dự án vào cán cân thanh toán quốc tế đất nước. Một dự án ra đời sẽ có thể giúp tăng trưởng ngoại tệ cho nền kinh tế bằng biện pháp giảm chi phí ngoại tệ cho đầu ra có giá thành rẻ hơn giá nhập khẩu hoặc tạo ra sản phẩm xuất khẩu đem lại lượng ngoại tệ cao hơn.
Các chỉ tiêu xác định hiệu quả tiết kiệm ngoại tệ bao gồm:
* Lãi ngoại tệ:
Trong đó:
PVFE - Tổng chênh lệch thu chi (lãi) ngoại tệ cả lời dự án quy về hiện tại Fli, FOI : Thu chi ngoại tệ năm i.
r: Tỷ lệ lãi xuất/ năm.
n: Thời gian hoạt động của dự án
m: Số dự án gồm dự án đang xem xét và dự án liên đới.
Nếu NVFE > 0 dự án có đóng góp tích cực làm tăng nguồn ngoại tệ của đất nước và ngược lại với NVFE < 0.
* Hiệu quả thay thế nhập khẩu: số ngoại tệ tiết kiệm do sản xuất hàng thay thế nhập khẩu.
* Hiệu quả tiết kiệm ngoại tệ thực: Giá trị hiện tại lãi ngoại tệ của dự án cộng với giá trị hiện tại số ngoại tệ tiết kiệm do thay thế nhập khẩu. Nếu kết quả lớn hơn 0 dự án làm tăng nguồn ngoại tệ cho đất nước, Nếu kết quả nhỏ hơn 0 dự án làm bội chi ngoại tệ.
* Khả năng cạnh tranh quốc tế. Chỉ tiêu này cho phép đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm của dự án trên thị trường quốc tế (Chất lượng, giá cả, khả năng, uy tín của doanh nghiệp...). Từ đó có thể xuất khẩu được hay không.
Tỷ lệ cạnh tranh quốc tê'được tính như sau:
PWC: Giá trị hiện tại của chi phí cho việc xuất khẩu, là các đầu vào trong nước dùng sản xuất sản phẩm xuất khẩu hoặc thay thế nhập khẩu.
IC >l : Sản phẩm của dự án có khả năng cạnh tranh quốc tế và càng lớn khả năng cạnh tranh càng mạnh. Nếu dự án thẩm định là sản xuất hàng xuất khẩu thì IC phải cao hơn IC định mức do các cơ quan có thẩm quyền xác lập.
Những tác động:
- Nâng cao trình độ kỹ thuật của sản xuất, trình độ nghề nghiệp của người lao động, trình độ quản lý của nhà quản lý, nâng cao năng suất lao động thu nhập của người lao động.
- Tác động về xã hội, chính trị khác như: Tận dụng và khai khác các nguồn tài nguyên chưa được quan tâm, tiếp nhận công nghệ, tạo thị trường mới, tham gia phân công lao động quốc tế, phát triển địa phương yếu kém và vùng xa xôi có tiềm năng...
3.6 Thẩm định về phương diện tổ chức, quản lý
Trong nhiều trường hợp, sự thành công hay thất bại của dự án không phải là do các yếu tố như thị trường kỹ thuật hay tài chính quyết định mà là do năng lực tổ chức quản lý cũng như tổ chức thực hiện của các bên có liên quan.
Chủ dự án: Nếu chủ dự án không phải là người có sẵn kinh nghiệm, thì phải xem xét các yếu tố đảm bảo như chuyên gia hướng dẫn, lắp đặt, vận hành, đào tạo công nhân...
Các đơn vị thiết kế thi công: Bên cạnh việc có đủ tư cách pháp nhân, có năng lực hành nghề, giấy phép hoạt động do các cơ quan có thẩm quyền cấp cần có đủ khả năng chuyên môn, năng lực và kinh nghiệm để đảm bảo thi công đúng tiến độ đạt chất lượng cao.
Các đơn vị cung ứng: Xem xét năng lực thực tế để đánh giá tính hợp pháp của hợp đồng, hợp lý giá cả. và thời hạn hợp đồng...
Người tiêu thụ: Cần xem xét khả năng được cung cấp tín dụng cũng như uy tín và mức độ chiếm lĩnh thị trường. Việc làm này rất cần thiết, nhất là trường hợp sản phẩm dự án là dễ hỏng và khó bảo quản.
Riêng đối với đơn vị trực tiếp quản lý dự án, cần thẩm định về loại hình kinh doanh, cơ chế điều hành và đội ngũ nhân sự.
3.7 Thẩm định về các khoản đảm bảo tín dụng
Các khoản đảm bảo tiền vay là nguồn thu nợ dự phòng trong trường hợp kế hoạch trả nợ của khách hàng không thực hiện được. Do đó, mục đích thẩm định là tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh khi phát mại phải dễ bán, giá trị thu được thực tế phải bù đắp đủ nợ vay cả gốc lẫn lãi và các loại thuế theo quy định.
Nội dung thẩm định phải kiểm tra thủ tục, hồ sơ pháp lý, giấy tờ sở hữu, tiêu chuẩn tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, cơ sở định giá phải đúng với các quy định hiện hành. Trên cơ sở đó, xem xét xác định lại giá so với kê khai và quy ước của đơn vị.
Những trường hợp tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh vượt quá khả năng lực thẩm định của cán bộ ngân hàng, phải thuê các cơ quan có chức năng hoặc chuyên gia có hiểu biết về lĩnh vực thẩm định.
Xem xét tài sản thế chấp này đã bị cầm cố, thế chấp, bảo lãnh ở đâu chưa. Điều đó phải dựa vào quan hệ quả khách hàng với các tổ chức tín dụng và ngân hàng khác.
Kết luận
Sau khi thẩm định đầy đủ trên mọi phương diện, cán bộ tín dụng sẽ đưa ra kết luận và ra quyết định cho vay (Hoặc trình cấp trên nếu vượt quá quyền phán quyết) hoặc công văn trả lời đơn vị nếu thấy dự án không đủ điều kiện vay vốn.
Đồng thời, cán bộ tín dụng sẽ viết tờ trình về kết quả thẩm định dự án vay vốn đầu tư theo mẫu do Ngân hàng quy định.
III CHấT LƯợNG THẩM ĐịNH Dự áN ĐầU TƯ
1. Khái niệm chất lượng thẩm định tín dụng
Theo quan điểm của cán bộ tín dụng ngân hàng. Đánh giá chất lượng thẩm định dự án đầu tư là sử dụng một hệ thống công cụ chỉ tiêu để chỉ ra kế hoạch dự án được thiết lập có phù hợp với các mục tiêu đã đặt ra hay không và có mang tính khả thi hay không.
Chất lượng thẩm định nó được thể hiện ở các yếu tố sau:
- Tính toàn diện: Là phải xem xét tất cả các khía cạnh của dự án. Trong quá trình thẩm định phải thẩm định toàn bộ các mặt: kỹ thuật, tài chính, môi trường, thị trường con người... thực tế hiện nay người ta chỉ chú trọng có một mặt là tài chính dẫn tới dự án thiếu tính khả thi vì vậy rủi ro có thể xảy ra.
- Tính trung thực chính xác: Đó là các số liệu về mặt tài chính khi lấy ra để phân tích đánh giá phải là số liệu thực thì ta mới đánh giá được đúng khả năng tài chính của doanh nghiệp. Muốn thẩm định một cách chính xác cán bộ tín dụng phải đi thực tế, giám xát và tìm hiểu nhiều thông tin có liên quan, không thể chỉ dựa vào một nguồn thông tin từ khách hàng mà đánh giá được.
- Tính phù hợp: Xem xét dự án đầu tư có phù hợp với điều kiện kinh tế hiện nay hay chưa nó mang lại cho nền kinh tế những gì? Mang lại cho doanh nghiệp những gì? Nó có ảnh hưởng tới môi trường hay không?
- Tính dự báo: Nền kinh tế hiện nay của nước ta chưa thực sự ổn định vì thế sẽ có nhiều sự thay đổi về chính sách và các thành phần kinh tế xảy ra trong tương lai như thế nào điều đó cần phải có một đầu óc tổng hợp, phân tích của cán bộ ngân hàng một cách tương đối chính xác. Muốn làm được điều này đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải có một lượng kiến thức, thông tin đáng kể thì mới đưa dự báo chính xác được.
Theo em: Nói đến chất lượng dự án đầu tư là nói đến việc xem xét mức độ an toàn của khoản vay là cao hay thấp. Trong nền kinh tế thị trường đây là phạm trù kinh tế mà các ngân hàng thường quan tâm đến nhiều hơn cả bởi tính chất cố hữu của nó là đảm bảo an toàn cho các ngân hàng. Việc nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng cũng chính là việc hạn chế rủi ro tín dụng.
Việc nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư được thể hiện ở cả hai loại ngắn hạn, trung và dài hạn. Tuy nhiên do tính quan trọng của thẩm định dự án trung và dài hạn, nên các ngân bàng thương mại thường tập trung chủ yếu vào việc nâng cao chất lượng các khoản vay này. Thời hạn thu hồi vốn của các khoản tín dụng này dài hơn và rủi ro tín dụng cao hơn so với cho vay ngắn hạn, nên việc đánh giá chất lượng thẩm định dự án cần phải chặt chẽ hơn. Do đó, cũng như khái niệm chung về thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn cũng đồng nghĩa với việc hạ thấp tối đa rủi ro tín dụng trung và dài hạn.
Hay chất lượng thẩm định dự án là ta phải thu thập thông tin và sử lý thông tin một cách chính xác, đầy đủ, kịp thời,phù hợp với nền kinh tế về mọi mặt để đưa ra một kết luận dự án có thực thi hay không. Ta phải thẩm định cụ thể và chi tiết từng khâu một thì mới có thể đưa ra kết quả đúng được. Trong quá trình thẩm định phải đánh giá chính xác khả năng của khách hàng, không được bỏ sót các chi tiết nhỏ. Để nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư, ngân hàng trước hết cần phải thấy hết những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định dự án đầu tư.
2. Nhân tố ảnh hưởng chất lượng thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn.
a. Nhân tố khách quan.
Đề cập đến nguyên nhân này có nghĩa là nói đến toàn bộ các nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng nhưng nằm ngoài khả năng điều tiết, kiểm tra của hệ thống ngân hàng nói riêng và các cơ quan quản lý nhà nước nói chung. Chính vì vậy, khả năng giảm thiểu số ảnh hưởng tiêu cực của các rủi ro này nói chung là rất hạn chế.
- Do thiên tai, dịch bệnh, tai nạn đột ngột, dịch hoạ.... gây ra.
- Nền kinh tế quốc dân phát triển quá mạnh dẫn tới những thay đổi nhanh chóng trong hoạt động của hệ thống ngân hàng, năng lực quản lý, cơ sở pháp lý không thay đổi kịp với tốc độ phát triển. Nguyên nhân này xuất phát từ một dàng buộc logic giữa chất và lượng trong sự phát triển. Nếu như lượng thay đổi quá nhanh, vượt qua sự biến đổi về chất thì tất yếu sẽ dẫn đến kết quả không tuân theo quy luật.
- Môi trường kinh tế thế giới thay đổi, tỷ giá hối đoái và các luồng vốn trở nên mất ổn định bấp bênh. Nguyên nhân này có thể dẫn đến rủi ro đối với cả hoạt động sản xuất kinh doanh. Để lý giải tại sao môi trường kinh tế thế giới thay đổi, tỷ giá ...và các luồng vốn tư nhân mất ổn định, bấp bênh lại thuộc hệ thống các nguyên nhân khách quan, bất khả kháng có thể xuất phát từ xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới.
b. Nhân tố chủ quan
* Vân đề thông tin và xử lý thông tin
Cán bộ tín dụng tiến hàng công tác thẩm định trên cơ sở những thông tin thu thập được Như vậy kết quả phụ thuộc vào chất lượng thông tin, lưu lượng thông tin đầy đủ chính xác chính là " điều kiện cần" để có kết quả thẩm định .
Hai điểm cần quan tâm hiện nay là: Nguồn thông tin và chất lượng thông tin.
Thông tin có thể thu thập được ở rất nhiều nguồn, nhưng chất lượng của các nguồn thông tin này cũng cần được đánh giá thẩm định.
- Thông tin từ chính các khách hàng vay gốc: Bất kỳ khách hàng nào xin vay cũng phải có trách nhiệm cung cấp các thông tin cần thiết theo yêu cầu của ngân hàng, đó là: Dự án xin vay vốn, các báo cáo tài chính cùng những tài liệu cần thiết khác. Nguồn thông tin từ khách hàng xin vay cũng rất quan trọng song lại khó xác định độ tin cậy của nguồn này, bởi các khách hàng muốn vay vốn bao giờ cũng đưa ra các mặt tết của dự án và thường mang tính chủ quan một chiều, tâm lý chung không muốn tiết lộ tình hình tài chính thực tế của đơn vị mình. Trong trường hợp này cán bộ tín dụng phải sử dụng kinh nghiệm nghề nghiệp và căn cứ vào quan hệ làm ăn lâu dài, có tín nhiệm để đánh giá chất lượng thông tin.
- Trước khi trình dự án xin vay, các dự án này đã qua thẩm định của các cơ quan có thẩm quyền ký duyệt dự án. Đây cũng là một cơ sở để cán bộ tín dụng yên tâm hơn về tính khả thi của dự án. Do vậy, cơ quan phê duyệt quyết định đầu tư cũng có một phần trách nhiệm về việc nhận định tính hiệu quả của dự án.
- Thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng và trung tâm phòng ngừa rủi ro cũng là một nguồn đáng tin cậy, song nguồn thông tin này cần phải có tính cập nhật và đa dạng hơn.
- Ngoài ra còn các nguồn thông tin khác như từ các ngân hàng khác đã có mối liên hệ với khách hàng xin vay, hoặc thông tin từ các doanh nghiệp cung cấp và tiêu thụ.
Trong trường hợp nguồn thông tin đã có khá đầy đủ và chính xác thì một vấn đề khó khăn đối với cán bộ tín dụng là xử lý các thông tin đó là phải thực hiện lưu trữ, phân loại thông tin một cách thường xuyên, không phải khi khách hàng đến xin vay vốn thì mới thu thập thông tin về khách hàng đó, như vậy vừa tốn thời gian mà hiệu quả lại không cao. Việc thực hiện lưu trữ, cập nhập, phân loại thông tin có sự giúp đỡ của máy vi tính là cách sử lý thông tin khao học và hiệu quả.
* Cơ sở chinh sách của nhà nước:
Chúng ta biết rằng hệ thống chính sách của nhà nước ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực xã hội như kinh tế, chính trị môi trường, văn hoá, tôn giáo... Một sự thay đổi dù nhỏ hay lớn trong chính sách của nhà nước ngay lập tức sẽ tác động đến toàn xã hội. Và công tác thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn cũng không phải ngoại lệ, luôn bị chi phối bởi các chính sách vĩ mô ở các mức độ khác nhau.
* Trình độ kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm đinh
Chất lượng thẩm định dự án chưa cao ngoài nguyên nhân khách quan đều có nhân tố chủ quan của con người. Cùng với sự phát triền kinh tế chung của đất nước, trình độ của đội ngũ cán bộ ngân hàng nói chung và đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định cần phải được nâng cao.
Muốn đánh giá được những đánh giá khách quan và toàn diện về dự án, cán bộ tín dụng ngoài trình độ chuyên môn cần phải có những kiến nghị về kinh tế thị trường, về pháp luật, có hiểu biết nhất định về các lĩnh vực có liên quan mang tính chuyên môn và điều qua trọng là phải sâu sát thực tế.
Kinh nghiệm trong công tác giúp họ vững vàng trong việc ra quyết định cho vay. Qua tiếp xúc với khách hàng, kinh nghiệm cũng giúp họ phát hiện những dấu hiệu thiếu trung thực của khách để từ đó tìm cách xác định sự thật. Qua trao đổi kinh nghiệm giữa những người làm công tác thẩm định tín dụng, có thể giúp họ tích luỹ thêm kinh nghiệm, hoàn chỉnh hơn kết quả thẩm định của mình.
3. ý nghĩ của việc nâng cao chất lượng thẩm định đối với hoạt động của NHTM
- Thẩm định là một giai đoạn quan trọng trong quy trình tín dụng, giúp cho ngân hàng đánh giá chính xác sự cần thiết, tính khả thi và hiệu quả của dự án để ra quyết định đúng, có biện pháp hữu hiệu đảm bảo thu nợ tết, hạn chế rủi ro và mang lại hiệu quả cao. Qua thẩm định ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng về một số mặt như thanh toán, giá cả sản phẩm, chiến lược kinh doanh, quản lý.
- Việc nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư nó có một ý nghĩa quan trọng đối với toàn hệ thống ngân hàng nói chung và đối với NHTM nói riêng.
Ngân cao chất lượng thẩm định đã đánh giá một cách toàn diện dự án, lường trước mọi rủi ro có thể xảy ra làm thiệt hại tới món vay. Trong hoạt động của NHTM là đi vay để cho vay, nếu khâu thẩm định kém sẽ dấn đến rủi ro khoản đi vay làm thiệt hại tới ngân hàng. Nếu khoản cho vay quá lớn mà gặp rủi ro không thu lại vốn cho vay có thể dấn tới Ngân hàng bị phá sản làm thiệt hại tới người dân. Vì vậy việc nâng cao chất thẩm định dự án đầu tư giúp cho ngân hàng tránh được nhiều rủi ro, làm ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn. Khi ngân hàng biết được dự án không khả thi, sẽ tư vấn cho doanh nghiệp tránh được bước thiệt hại lớn có thể xảy ra.
CHƯƠNG II: THựC TRạNG CHấT LƯợNG THẩM ĐịNH Dự áN ĐầU TƯ TạI NGÂN HàNG CÔNG THƯƠNG BA ĐìNH
I. Khái quát về ngân hàng công thương Ba Đình
1. Lịch sử hình thành ngân hàng Công thương Ba Đình
Ngân hàng Công thương (NHCT) Ba Đình được thành lập năm 1961 với ._.u quả của công tác thẩm định dự án phụ thuộc vào độ chính xác của thông tin. Để quết định cho vay hay từ chối khoản vay, cán bộ tín dụng phải điều tra, thu thập, tổng hợp và phân tích các nguồn thông tin về khách hàng. Thực trạng hoạt động của ngân hàng cho thấy, nguồn thông tin mới chỉ được lấy chủ yếu từ phía khách hàng, nên không mang tính khách quan, vì bị rơi vào tình trạng "thông tin không cân xứng". Có nghĩa là ngân hàng biết không đầy đủ về khách hàng của mình trong khi hoạt động của ngân hàng là công khai đối với doanh nghiệp.
Ngân hàng Công thương Ba Đình đã và đang từng bước phổ biến và nângcao hiệu quả của việc điều tra trực tiếp (theo "Quy trình nghiệp vụ cho vay" của Ngân hàng Công thương Trung ương) nhưng chỉ mới bước đầu áp dụng và chưa được coi trọng lắm. Dưới đây là hệ thống các nguồn mà ngân hàng có thể triệt để tận dụng. Đó là thông tin do điều tra trực tiếp, thông tin từ bên ngoài và thông tin từ quan hệ khách hàng lâu dài. Các nguồn này phải do cán bộ tín dụng tự điều tra mới có được
1.1.1. Điều tra trực tiếp doanh nghiệp xin vay vốn
* Phỏng vấn người vay
Hình thức này nhằm lấy những thông tin cần thiết từ ban lãnh đạo của doanh nghiệp thông qua một cuộc phỏng vấn ngắn. Tuy rằng hình thức lấy thông tin từ hồ sơ vay vốn, sổ sách kế toán và báo cáo tài chính có cùng nguồn cung cấp thông tin là khách hàng nhưng nhờ tính chất linh hoạt của việc phỏng vấn mà cán bộ tín dụng có thể khẳng định những điều ghi trong hồ sơ, tìm ra những điểm yếu hoặc khía cạnh không được đề cập trong thủ tục hồ sơ.
Mục đích phỏng vấn người vay nhằm kiểm tra:
- Quan sát thái độ, phương pháp và nội dung trả lời của khách hàng phát hiện những mâu thuẫn và những vấn đề không nhất quán, hoặc không trung thực giữa hồ sơ vay vốn và nội dung trả lời phỏng vấn.
Nhận xét tư cách, năng lực, phẩm chất đạo đức, kinh nghiệm, uy tín của người vay.
Giải trình những điểm chưa rõ hoặc còn mâu thuẫn trong hồ sơ vay vốn.
Căn cứ vào mục đích phỏng vấn nói trên, cán bộ tín dụng phải tự đặt ra các câu hỏi để phỏng vấn cụ thể. Vấn đề quan trọng nhất là nghệ thuật đặt câu hỏi, tạo ra bầu không khí thoải mái, khuyến khích khách hàng nói chuyện, khai thác được nhiều thông tin bổ ích.
Cán bộ tín dụng cần phải nghiên cứu chuẩn bị trước nội dung phỏng vấn càng chi tiết càng tết. Việc lưu dữ cẩn thận biên bản ghi chép hàng ngày nội dung các cuộc phỏng vấn cũng được xem là cần thiết để phòng trường hợp có kiện tụng.
Khi đặt ra các câu hỏi để phỏng vấn khách hàng, càn bộ ngân hàng cần đặc biệt lưu ý một số nội dung mà trong các hộ sơ vay vốn, khách hàng thường giải trình chưa đầy đủ như:
- Khả năng tạo điều kiện cần và đủ để tạo ra các nguồn thu nhập từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh (bằng vốn vay ngân hàng) để trả nợ?
- Các nguồn tiền khách thay thế có thể huy động được để trả nợ ngân hàng trong trường hợp phương án xin vay bị rủi ro không có nguồn trả nợ là những nguồn nào?
Những khó khăn, thuận lợi và những loại rủi ro có thể xảy ra trong quá trình sử dụng vốn vay là gì? Biện pháp khắc phục như thế nào?
Để các cuộc phỏng vấn đạt kết quả cao, cán bộ tín dụng cần chuẩn bị thật kỹ từ ngoại hình, đi đúng giờ, tư cách giới thiệu đến trình bày vấn đề sao cho luôn thế chủ động, có khả năng dẫn dắt người phỏng vấn theo những vấn đề mình cần làm sáng tỏ. Muốn vậy, trước hết, cán bộ tín dụng cần nắm vững tất cả các dữ kiện đã có về công ty và lưu ý đến những vấn đề chưa thoả đáng. Đồng thời phải lập ra một chương trình cân đối tỉ mỉ, chi tiết. Còn một chi tiết không thể không nói đến, là nghệ thuật nói chen của người cán bộ mà khả năng này không phải người nào cũng có. Đôi khi phải vận dụng cả những xảo thuật theo kiểu " đắc nhân tâm".
* Điều tra thực tế tại nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của người xin vay.
Song song với việc mở các cuộc phỏng vấn, cán bộ tín dụng còn cần tiến hành kiểm tra, khảo sát, tham quan thực tế tại nhà, phân xưởng hay văn phòng và gặp gỡ nhân viên ở đó để trực tiếp đánh giá khả năng và hiệu quả quản lý, trình độ kỹ thuật, chất lượng uy tín sản phẩm, các hình thái hiện vật và chất lượng của tài sản cố định, tài sản lưu động, sản phẩm hàng hoá, dịch vụ... Cán bộ tín dụng cần lưu ý đề phòng trường hợp khách hàng mượn nhà xưởng sản xuất của người khác cho họ tham gia. Theo cách này, cán bộ tín dụng không những gặp gỡ với giám đốc, kế toán trưởng, mà còn tiếp xúc với đốc công, với công nhân... Đồng thời bên cạnh những chuyến thực tế chính thức, cần bố trí sắp xếp cho các chuyến đi không chính thức (nghĩa là không với tư cách là một cán bộ của ngân hàng) để nhằm thu được các kết quả xác thực về mối quan hệ của chủ doanh nghiệp với công nhân viên chức, của doanh nghiệp với các khách hàng hay các nhà cung cấp. . . .Kết quả thu được từ việc điều tra thực tế như thế có khi làm đảo ngược hoàn toàn quyết định cho vay hay từ chối. Lý giải cho điều này rất khó bởi các chỉ tiêu đó không cân, đong, đo, đếm được nhưng hoàn toàn không phải vố căn cứ Yêu cầu này đòi hỏi ở người cán bộ có bề dày kinh nghiệm.
1.1.2. Thu thập thông tin từ những nguồn bên ngoài
Tùy theo từng nội dung, đặc điểm và tính chất từng khoản vay cụ thể, cán bộ tín dụng phải điều tra, thu nhập thêm các thông có liên quan đến khoản vay. Các nguồn bên ngoài là từ các ngân hàng có quan hệ với doanh nghiệp, trung tâm thông tin rủi ro, các khách hàng của doanh nghiệp, các công ty kiểm toán, chuyên gia kỹ thuật, chủ trương chính sách của nhà nước...
- Những thông tin từ các ngân hàng có quan hệ thanh toán, tiền gửi, tín dụng với khách hàng : Loại thông tin này lấy từ sổ sách, tài khoản kế toán của khách hàng đối ứng với các nghiệp vụ nói trên, qua tài khoản của ngân hàng hoặc từ số liệu thống kê, các nhận xét, đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính, quan hệ vay - trả, mức độ tín nhiệm của các ngân hàng có quan hệ tín dụng, thanh toán với khách hàng. Các thông tin cần phải thu nhập là: Doanh số cho vay, thu nợ, nội dung thanh toán, các quan hệ thanh toán với khách hàng liên quan...
- Các khách hàng (đặc biệt là khách hàng truyền thống) của doanh nghiệp có thể cho biết về chất lượng sản phẩm, các dịch vụ đi kèm sản phẩm nếu có khối lượng hàng hoá đã ký kết theo hợp đồng.
- Các công ty kiểm toán, như đã đề cập ở trên, có thể cung cấp những số liệu chính xác hay ít ra cũng tương đối chính xác về hoạt động tài chính của doanh nghiệp, giúp ngân hàng có căn cứ để tính toán các chỉ tiêu cần thiết.
- Các chuyên gia kỹ thuật có thể cung cấp những thông số kỹ thuật chuẩn xác về máy móc, thiết bị...
- Cán bộ tín dụng cũng có thể tham khảo các tài liệu như: Chủ trương chính sách, phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước, địa phương, ngành...., các văn bản pháp lý có liên quan, các sách báo, tạp chí....
Ngoài ra, có thể cần sự hỗ trợ của Trung tâm thông tin rủi ro của Ngân hàng Nhà nước, cơ quan thuế, hải quan, quản lý thị trường, công an kinh tế, địa chính, dư luận cán bộ công nhân viên, dư luận xã hội....
Trên thực tế, thu thập thông tin từ các nguồn bên ngoài đòi hỏi mất nhiều thời gian và không có tiêu chuẩn về độ chính xác. Nhưng nguồn này là rất cần thiết bởi các đặc trưng khách quan và đa dạng của thông tin.
1.1.3. Thu thập thông tin từ quan hệ khách hàng lâu dài
Rõ ràng là một khách hàng có quan hệ lâu dài với ngân hàng sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong việc đánh giá hơn so với các khách hàng mới. Những thông tin có thể lấy từ nguồn này là luồng tiền vào, ra trong tài khoản của doanh nghiệp, khả năng và uy tín trong thanh toán....Thông tin từ nguồn này có ưu điểm là tốn ít chi phí và thời gian trong việc tập hợp thông tin. Hơn nữa, việc xử lý thông tin từ nguồn này cũng sẽ cho ta kết quả chính xác hơn.
Tuy nhiên, việc tạo nguồn thông tin này không phải lúc nào cũng làm được Mỗi ngân hàng thường chỉ có một số ít các khách hàng được xếp vào hàng "Có quan hệ lâu dài". Mong muốn giữ chân khách hàng, làm cho khách hàng có quan hệ khăng khít với mình là của tất cả các ngân hàng, song không phải ngân hàng nào cũng thành công. Vì vậy, mỗi ngân hàng phải tin ra cho mình giải pháp riêng phù họp. Đây là mối quan tâm của ban lãnh đạo từng ngân hàngvà có liên quan đến nhiều mặt hoạt động của ngân hàng mà quan trọng nhất là chiến lược khách hàng.
1.2. Xử lý thông tin:
Công việc xử lý thông tin như ta đã thấy là vô cùng khó khăn, phức tạp, song nó cũng chỉ thực sự có ý nghĩa khi công tác xử lý thông tin là nghiêm tức và đúng đắn. Để đạt được điều đó, yêu cầu đối với cán bộ tín dụng là phải hiểu rõ bản chất, ý nghĩa của các khái niệm dùng trong phân tích và hiểu thấu đáo công việc của mình đang làm. Cuối năm 1997, ngân hàng Công thương Việt Nam đã cho lưu hành nội bộ "Quy trình nghiệp vụ cho vay". Đây là điều kiện thuận lợi cho người thẩm định nhưng cán bộ tín dụng cũng cần linh hoạt trong việc áp dụng đối với từng dự án cụ thể, có thể thêm hoặc bớt các chỉ tiêu khi cần thiết.
2. Nâng cao trình độ kiếnn thức của đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định
Như đã nêu ở chương trước, thực tế vẫn còn tình trạng các cán bộ tín dụng xem nhẹ mặt này hay coi trọng mặt khác trong khi mọi phương diện cần thẩm định của dự án đều quan trọng cần thiết, ảnh hưởng trực tiếp đến tính đúng đắn của việc ra quyết định sau này. Vì vậy, yêu cầu cần phải toàn diện trong thẩm định hiện đang là vấn đề có tính cấp bách và hướng trực tiếp vào các cán bộ tín dụng.
Các cán bộ tín dụng dường như mới chỉ có đủ trình độ và cũng chỉ quan tâm đến khía cạnh tài chính của dự án. Điều này cũng không có gì khó hiểu bởi lẽ trong nhà trường họ, chỉ được trang bị kỹ lưỡng phần kiến thức thuộc phạm vi ngân hàng mà thôi. Họ không thể có được lượng kiến thức dự án đầu tư. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của dự án về mặt tài chính là quá quen thuộc và dễ hiểu đối với cán bộ tín dụng, đó là NPV, là IRR, là thời gian hoàn vốn...cũng không thể đổ lỗi do họ không được đào tạo và các khía cạnh khác, nhất là kỹ thuật, bởi thực tế là có, song mới chỉ là vài nét chấm phá, là cưỡi ngựa xem hoa.
Tuy nhiên, yêu cầu nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư vẫn cứ đòi hỏi khả năng mọi mặt ở cán bộ tín dụng theo lý riêng của nó. Thừa nhận rằng thẩm định dự án là công việc vô cùng khó. Đòi hỏi ngay lập tức cán bộ tín dụng phải hội đủ các tố chất nêu trên là không tưởng bởi đây không phải là kết quả một sớm, một chiều mà là cả quá trình tích luỹ và bề dày kinh nghiệm.
Cho nên các ngân hàng cần thường xuyên mở các lớp đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có thể là ngắn hạn, cho cán bộ hay tổ chức các cuộc nghiên cứu, các buổi hội thảo, trao đổi kinh nghiệm trong nội bộ ngân hàng hoặc trong toàn hệ thống, sưu tầm và phổ cập các sách báo, tài liệu nước ngoài có thể áp dụng được....Các biện pháp này hoàn toàn có thể thực hiện được.
Ngoài ra, để giúp cho cán bộ ngân hàng hiểu sâu sắc nội dung của các văn bản, chứng từ của nước ngoài (Phổ biến là L/C và hợp đồng mua bán) và thuận lợi trong quá trình nghiên cứu các tài liệu tham khảo, cần trang bị cho cán bộ tín dụng vốn ngoại ngữ ở một trình độ nhất định. Nhu cầu về thông tin và xử lý thông tin trong thời đại tin học ngày nay cũng đòi hỏi ở người nhân viên khả năng thành thạo vi tính. Đó là hai nhân tố được coi là bổ trợ, cần thiết mà mỗi cán bộ tín dụng nên trau dồi.
3. Trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng tin học trong thẩm định
Ngân hàng cần sớm đưa việc tính toán các chỉ tiêu tài chính trong việc thẩm định dự án đầu tư vào chương trình phần mềm vi tính. Trước hết, cần đưa toàn bộ các thông tin tổng hợp về doanh nghiệp và dự án đầu tư vào máy tính.
Tuỳ thuộc vào cách xử lý mà thông tin sẽ đưa ra qua các kênh khác nhau. Việc làm này tạo thuận lợi cho việc tính toán các chỉ tiêu theo phương pháp phân tích độ nhạy tính tỷ suất hoàn vốn nội bộ. . . .Để thấy rõ sự cần thiết phải ứng dụng tin học troong thẩm định dự án, ta hãy xét một số khó khăn thường gặp khi tiến hành thẩm định là:
- Với mỗi sự thay đổi về công suất dự án, về các thông tin đầu vào hay doanh số. . . đều làm thay đổi hoàn toàn kết quả thẩm định - Việc tính IRR phải áp dụng phương tính gần đúng (nội suy tuyến tính) và có thể tính toán nhiều lần mới cho ra kết quả.
- Với mỗi thay đổi tỷ suất hiện tại hoá, sẽ cho ra các giá trị khác nhau của giá trị hiện tại ròng (ảnh hưởng đến tính lỗ lãi của dự án).
- Trong trường hợp dự án không khả thi cần có sự điều chỉnh (chẳng hạn về thời hạn thu nợ) vì việc tính toán để lựa chọn phương án là rất phức tạp.
Tính toán các chỉ tiêu thực chất là việc tiến hành xử lý các thông tin, nếu công việc xử lý thông tin này được đơn giản hoá, giảm chi phí và thời gian thì công việc thu thập thông tin có cơ hội được đầu tư nhiều hơn. Có như thế, nguồn thông tin sẽ có khả năng chính xác hơn, tức là công tác thẩm định có kết quả cao hơn . Đồng thời giảm thời gian đầu tư cho quá trình thẩm định sẽ làm cho ngân hàng chứng minh được năng lực của mình và tăng uy tín đối với khách hàng.
4. Lập quỹ hỗ trợ cho việc thẩm định
Hiện nay, các ngân hàng Việt Nam, đặc biệt là các ngân hàng quốc doanh dường như chưa có và cũng không cần dùng đến các khoản chi phí trợ giúp trong quá trình thẩm định bởi vì nguồn thông tin là sẵn có. Với ngân hàng công thương Ba Đình, nguồn này có thể là do khách hàng cung cấp, do tiêu chuẩn kỹ thuật của ngành và Nhà nước quy định, do Phòng dự án Hội sở Ngân hàng công thương đề ra... hoặc do linh cảm và bề dày kinh nghiệm của cán bộ tín dụng đúc kết. Ngay bản thân những người làm công tác thẩm định cũng chưa nhận thức sự cần thiết của khoản tiền này vì mặc dù có những cuộc gặp gỡ tiếp xúc trực tiếp cần chi phí nhưng nhìn chung còn lẻ tẻ và không thường xuyên. Tuy nhiên, khi nâng cao chất lượng thẩm định trở thành đòi hỏi và nhất là khi thị trường tư vấn phát triển mạnh thì nguồn tiền đáp ứng các khoản chi phí này là không thể thiếu.
Vì thế các ngân hàng nên lập riêng một quỹ hỗ trợ thẩm định và quỹ này sẽ được dùng vào việc như gặp gỡ, tiếp xúc, các chuyến đi thực tế, mua thông tin và đào tạo cán bộ nâng cao tay nghề. Hơn nữa, mỗi ngân hàng cần có biện pháp nhằm quản lý tết quỹ này để nó được sử dụng đúng mục và mang lại hiệu quả.
5. Hoàn thiện hơn nữa những nội dung cần thẩm định
Một dự án đầu tư được đánh giá là khả thi là dự án đạt các yêu cầu về thị trường , kỹ thuật . . . . và có khả năng trả nợ gốc và lãi bằng nguồn tiền dự án tạo ra. Tuy nhiên, dòng tiền cũng chưa đảm bảo rằng dự án sẽ trả nợ đúng hạn. Xét về mặt nào đó thì lợi nhuận thực tế nằm trong tay của chủ dự án mới là điều quan trọng. Do đó, cùng với báo cáo thu nhập chi phí, khi thẩm định, cán bộ tín dụng cần kết hợp bổ sung báo cáo luân chuyển tiền tệ dự kiến trong năm (thậm chí từng thang) của dự án. Mục đích của báo cáo này là dự báo luồng tiền vào ra của dự án để chỉ ra trong mỗi giai đoạn thời gian, dự án thừa hay thiếu tiền mặt. Trên cơ sở đó xác định được khả năng trả nợ gốc và lãi của dự án.
6. Cơ chế, chính sách của Nhà nước:
Chúng ta biết rằng hệ thống chính sách của nhà nước ảnh hưởng và chi phối tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, tôn giáo, môi trường.... Một sự thay đổi dù lớn hay nhỏ trong chính sách của Nhà nước ngay lập tức tác động đến toàn xã hội. Và công tác thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn cũng không phải là ngoại lệ, nó bị chi phối bởi các chính sách vĩ mô ở các mức độ khác nhau. Trong khuôn khổ bài viết này chúng ta chỉ quan tâm đến mảng chế độ có tác động đến công tác thẩm định dự án xuất phát từ những tồn tại nêu trên và những nguyên nhân của chúng.
6.1. Quy định thống nhất về công tác kê toán và nâng cao hiệu quả công tác kiểm toán
Công tác quản lý nhà nước về pháp lệnh kế toán thống kê đối với các doanh nghiệp (đặc biệt là doanh nghiệp ngoài quốc doanh) chưa được chú ý đúng mức. Hiện nay, chỉ có các doanh nghiệp nhà nước và số ít các doanh nghiệp tư nhân có hoạt động kế toán tương đối nghiêm túc và đúng theo các quy định của nhà nước. Còn lại phần lớn các doanh nghiệp tư nhân làm kế toán rất sơ sài tuỳ tiện. Đấy là chưa kể các trường hợp lập cùng lúc nhiều bộ sổ sách kế toán hòng gian lận và che mắt các cơ quan chức năng. Tình trạng này thườngxảy ra ở các doanh nghiệp tư nhân mà hoạt động của công tác kế toán không mấy phức tạp, ít nghiệp vụ. Do đó việc đánh giá tình hình tài chính ở các đơn vị này rất khó khăn. Để khắc phục vướng mắc này, cán bộ tín dụng sẽ rất vất vả nếu phải kiểm tra lại toàn bộ các chứng từ phát sinh của đơn vị. Cách làm này sẽ cho ra kết quả trung thực, chính xác về tình hình kinh doanh của đơn vị nhưng mất quá nhiều thời gian và công sức.
Trong khi đó các cán bộ có thể nhờ cậy được các công ty kiểm toán nhưng bản thân công tác kiểm toán cũng chưa thực sự được tín nhiệm. Công ty kiểm toán Nhà nước còn quá non trẻ, đội ngũ cán bộ chưa dày dạn kinh nghiệm. Các kiểm toán nước ngoài hoạt động có phần hiệu quả hơn song chủ yếu phục vụ cho các công ty liên doanh. Điều đáng nói nhất ở đây lại là về khía cạnh năng lực, trình độ. Thật thà mà nói, chuyên môn của các nhân viên kiểm toán cũng không hơn gì nhiều so với kế toán doanh nghiệp và cán bộ tín dụng ngân hàng, thậm chí không thể nắm rõ tình hình bằng kế toán viên doanh nghiệp, nhất là trường hợp họ cố ý che giấu. Thực trạng như vậy thử hỏi làm sao ngân hàng dám dựa vào số liệu của kiểm toán, có chăng chỉ là có tính chất tham khảo mà thôi.
Vì vậy Nhà nước cần ban hành những quy định có tính chất bắt buộc về sử dụng hệ thống kế toán đối với các doanh nghiệp cũng như các quy định chuẩn về mức độ tin cậy của công ty kiểm toán. Bản thân công tác kiểm toán cần nâng cao hiệu quả của mình để hỗ trợ các ngân hàng. Đồng thời nhà nước cần quy định tăng cường thanh tra, kiểm tra sổ sách phát hiện các doanh nghiệp vi phạm để có biện pháp xử lý kịp thời
6.2. Vấn đề thế chấp tài sản
Ta biết rằng, tài sản thế chấp là biện pháp chống đỡ rủi ro cho ngân hàng khi doanh nghiệp không có khả năng trả nợ. Trước đây theo luật doanh nghiệp của nhà nước thì các doanh nghiệp được phép mang tài sản thuộc quyền quản lý của mình ra thế chấp, kể cả giá trị quyền sử dụng đất được giao hoặc thuê để thế chấp vay vốn. Khi đưa vào thực tế thì quy định trên không mang lại hiệu quả. Bởi lẽ doanh nghiệp nhà nước đem tài sản của nhà nước để vay vốn ở các ngân hàng quốc doanh thực sự chẳng có ý nghĩa gì. Theo quy định mới đây thì các doanh nghiệp nhà nước không cần thế chấp tài sản, nhưng đối với khu vực tư nhân thì đây là điều kiện bắt buộc khi xin vay vốn ngân hàng. Do ít vốn và tài sản nên đa phần các doanh nghiệp tư nhân và gia đình dùng nhà cửa và đất xây dựng làm vật thế chấp. Do đó vấn đề thế chấp tài sản cũng có liên quan đến quy luật đất đai vẫn đang là điều đáng bàn.
Hiện nay, việc ngân hàng sử dụng đất đai, nhà cửa làm thế chấp còn rất nhiều vướng mắc. Thứ nhất do các điều luật còn không nhất quán, quá mơ hồ, gây lúng túng cho cán bộ tín dụng. Chẳng hạn như cũng là một bộ hồ sơ về thế chấp tài sản nhưng với món vay này cần những loại giấy tờ này nhưng với món khác thì lại hoàn toàn khác, có thêm, có bớt. Cán bộ ngân hàng không biết đâu là quy định chuẩn, cho nên với từng trường hợp cụ thể đều phải xử lý " linh hoạt".
Thông thường thì không có vấn đề gì nhưng biết đâu có lúc nào đó tình trạng này sẽ tạo ra kẽ hở cho bọn gian lận lách mình qua.
Thứ hai liên quan đến việc định giá tài sản thế chấp. Việc làm này tiến hành tương đối dễ dàng bởi vì các ngân hàng đã có khung giá chuẩn quy định đối với từng loại nhà cửa, đất đai (theo phố phường, theo cấp nhà, theo diện tích...) Tuy nhiên, khung giá này phải thường xuyên được điều chỉnh theo biến động của thị trường, tránh trường hợp quá lỗi thời, nhất là trong tình hình kinh tế xã hội nước ta chưa ổn định. Việc định giá cũng không chỉ dừng lại ở đó mà cán bộ tín dụng cần xuống tận nơi "tham quan" hiện trường, tranh thủ điều tra giá trị vô hình tài sản. Đặc điểm của người dân Việt Nam là tư tưởng mà nhất là tư tưởng mang tính truyền thống dễ gì xoá bỏ hoàn toàn. Chẳng hạn như một cái nhà thót hậu hay đã từng có án mạng thì có khi giá rẻ đến đâu cũng chẳng có ai mua. Rõ ràng đây cũng là khía cạnh mà khi phân tích cán bộ tín dụng cần lưu tâm.
Cuối cùng là việc phát mại tài sản, khi rủi ro không thu hồi được nợ. Về phía ngân hàng, họ không hề mong muốn điều này xảy ra vì trước hết, nó phản ánh chất lượng của tín dụng không cao và sau đó là việc phát mãi tài sản quá ư phức tạp. Ngân hàng phải để cho chính chủ sở hữu tự bán nhà và điều này là không thực tế chút nào. Thông thường ngân hàng phải vời đến một bên thứ ba, tức là thành lập một uỷ ban có sự tham gia của cơ quan chức năng, chính quyền sở tại và cơ quan luật pháp có liên quan. Sau tất cả các thủ tục phức tạp như vậy nhưng không phải lúc nào công việc cũng được tiến hành suôn sẻ. Có ngân hàng đã gặp phải trường hợp thế này: Khi hoàn tất thủ tục, ngân hàng cử người đến niêm phong chuẩn bị phát mại thì gặp phải cảnh cụ già ốm yếu nằm trong nhà (đó là do con cháu cụ dựng lên). Thử hỏi người Việt Nam nào có thể vô lương tâm đến độ thẳng tay đuổi cụ ra khỏi nhà, cho dù điều đó là hoàn toàn hợp lý?
Với những tình huống cá biệt như thế, chỉ còn trông chờ vào khả năng xử lý nhạy bén của cán bộ tín dụng mà thôi.
Hình thức thế chấp chủ yếu được sử dụng là thế chấp tài sản như đã trình ở trên. Hiện đã có những quy chế về bảo lãnh, cầm cố song những hình thức này còn quá mới mẻ và lạ lẫm đối với cả ngân hàng và người đi vay. Hơn nữa việc đánh giá đối với tài sản thuộc loại này còn đa dạng và phức tạp hơn nhiều và gây khó khăn cho cán bộ tín dụng.
Tóm lại, Nhà nước cần ban hành các quy định, hiệu quả rõ ràng hơn và nhất là có tính cưỡng chế cao hơn về vấn đề thế chấp vốn ngân hàng. Đồng thời các quy định không nên dừng lại ở quyền và nghĩa vụ đối với người đi vay và người cho vay, mà cần có quy định đối với các bên có liên quan, nhất là cơ quan công chứng.
Bản chất của công tác thẩm định vô cùng phức tạp và liên quan đến nhiều lĩnh vực nên nó bị chi phối bởi mỗi nhấn tố tác dụng lên mỗi lĩnh vực. Tất cả các liên quan ở tầm vĩ mô đều có ảnh hưởng như thể các hạ tầng cơ sở đối với công tác thẩm định dự án. Tuy nhiên, bản thân công tác thẩm định phải luôn tự hoàn thiện nâng và nâng cao hơn chất lượng công việc. Điều này phụ thuộc vào khả năng và sự nỗ lực của ngành ngân hàng, của hệ thống, của từng chi nhánh và của mỗi cán bộ làm công tác tín dụng.
III. Kiến nghị
Các giải pháp về nghiên cứu nghiệp vụ nêu trên là những vấn đề xuất đối với ngân hàng, song để chất lượng thẩm định, hay nói cách khác là hoàn thiện khâu "Kiểm tra trước" trong quy trình nghiệp vụ cho vay cần có sự phối hợp đồng bộ của NHNN, các Bộ, Ngành, có liên quan cùng với việc tạo dựng một môi trường kinh tế, pháp lý thuận lợi. Em xin đề xuất một số kiến nghị sau.
1. Kiến nghị NHNN:
- Trong quá trình thẩm định theo nội dung quy trình cán bộ thẩm định gặp một số khó khăn do một số quy định của NHNN và của chi nhánh chưa thực sự tạo điều kiện cho cán bộ thẩm định hoàn thiện nội dung quy trình thẩm định. Để tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh được an toàn và hiệu quả, đồng thời chia sẻ rủi ro cho Ngân hàng, cần phải quy định rõ trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền thẩm định và phê duyệt dự án, cơ quan nào chịu trách nhiệm cuối cùng về kết quả dự án.
- Cách tính lãi: Khi phân tích thẩm định dự án, các chỉ tiêu JRR, NPV được tính toán theo một tỷ lệ chiết khấu và trên cơ sở lãi kép, trong khi đó thì việc tính lãi và thu lãi khoản nợ vay ngân hàng lại tính theo lãi đơn, bởi theo quy định của Ngân hàng Nhà nước " Số tiền lãi chưa thu được bên cho vay hạch toán theo dõi ở tài khoản ngoại bảng, không nhập lãi vào gốc (thể lệ tín dụng trung và dài hạn) Như vậy có sự không thống nhất giữa hai phương pháp tính toán, mặt khác vì khoản lãi nộp chậm không phải trả lãi nên doanh nghiệp không tích cực nộp lãi đúng hạn. Vậy NHNN nên xem xét cách tính lãi cho khoản vay trung dài hạn sao cho phù hợp với thực tế.
Muốn nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ ngân hàng thì Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường vai trò trong việc hỗ trợ cho nâng cao nghiệp vụ, phát triển đội ngũ nhân viên, trợ giúp về thông tin và kinh nghiệm cho các NHTM. Hàng năm, NHNN cần tổ chức những hội nghị kinh nghiệm toàn ngành để tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa các NHTM trong công tác thẩm định.
2. Kiến nghị Ngân hàng Công thương Trung ương:
Đề nghị Ngân hàng Công thương Trung ương cần phải có tăng cường hợp giữa các bộ phận thẩm định của các chi nhánh NHCT với bộ phận thẩm định của Chi nhánh NHCT Ba Đình để trao đổi kinh nghiệm và thông tin. Vì mỗi chi nhánh đều có thế mạnh trên một số lĩnh vực cụ thể nên rất có ý nghĩa khi bổ sung hỗ trợ cho nhau nhất là trong các dự án đồng tài trợ.
- Để thu thập được nhiều thông tin chính xác, kịp thời thì Ngân hàng phải lập ra một quỹ hỗ trợ cho việc thẩm định, trích lập quỹ với ngân sách ít ỏi, không đủ cho chi phí thì Ngân hàng Công thương Trung ương cần trích lập ra một số tiền để hỗ trợ cho các quỹ hỗ trợ cho việc thẩm định của từng chi nhánh để cho nhân viên có theo đi lấy thông tin, mua thông tin một cách dễ dàng.
3. Kiến nghị với Chinh phủ và các Bộ, ngành có liên quan:
- Đề nghị Chính phủ cần sớm ban hành quy định về quy chế tài chính và hạch toán kinh doanh đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, qua đó tăng cường tính hiệu lực pháp lý, đảm bảo tính đồng bộ chuẩn mực của công tác hạch toán, kế toán, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ thẩm định khi tiến hành kiểm tra, đánh giá năng lực tài chính, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng.
- Chấn chỉnh công tác kế toán phải đi đôi với việc nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm soát. Sau hơn mười năm đổi mới, ở nước ta đã có hệ thống kiểm toán nhà nước, 15 công ty kiểm toán độc lập bao gồm cả công ty 100% vốn nước ngoài công ty liên doanh nhà nước và trách nhiệm hữu hạn, song hiệu quả của công tác kiểm toán chưa cao. Để nâng cao hiệu quả của công tác kiểm toán trước hết cần có sự thống nhất giữa các công ty kiểm toán Việt Nam. Cụ thể hoá các chuẩn mực kiểm toán Quốc tế. Chính phủ cần quy định chế độ kiểm toán bắt buộc đối với mọi loại hình doanh nghiệp, qua đó đảm bảo độ tin cậy của báo cáo tài chính.
- Các bộ, các ngành cần nâng cao trình độ, chất lượng thẩm định dự án đầu tư nhất là về các mặt công nghệ, kỹ thuật, kinh tế xã hội, thị trường, tác động môi trường để các kết quả này làm căn cứ cho Ngân hàng thẩm định.
- Các bộ chủ quản như : Công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, kế toán và đầu tư tổng cục thống kế cần hệ thống hoá các thông tin liên quan đến các lĩnh vực mà ngành mình quản. Hàng năm nên công khai qua các tài liệu chuyên ngành hoặc tập hợp ở các tầm thông tin của ngành để giúp chủ đầu tư cũng như NHTM thuận lợi hơn trong việc thu thập thông tin phục vụ cho lập và thẩm định dự án đầu tư. Nhưng thông tin này cần phải đảm bảo tính chính xác và một số có thể đem bán để tăng nguồn thu ngân sách.
- Các Bộ, ngành, các địa phương cần phối hợp chặt chẽ hơn trong việc trao đổi và cung cấp các thông tin, cần thiết lập và phát triển một mạng thông tin trong toàn quốc với sự tham gia rộng rãi của các cơ quan trong việc đổi mới hệ thống cung cấp thông tin phục vụ cho hoạt động đầu tư và công tác thẩm định.
- Các chủ đầu tư cần nâng cao năng lực lập và thẩm định các dự án đầu tư.
Khi xem xét các quyết định của dự án đầu tư cần tiến hành các nghiên cứu cụ thể chi tiết trên các mặt thị trường, kỹ thuật và tài chính. Các chủ dựa án cần phải có nhận thức đúng về vai trò, vị trí của công tác thẩm định dư án đầu tư trước khi quyết định đầu tư để có những dự án thực sự có hiệu quả, cần loại bỏ tư tưởng lấy dự án chỉ là hình thức để xin vay còn sau đó không cần biết:
Cuối cùng đề nghị chính phủ, các Bộ, ngành cho quyền quyết định đầu tư hay không đầu tư thuộc lĩnh vực ngân hàng. Đối với các NHTM để nó hoạt động theo đúng nghĩa của NHTM. Chính phủ không nên can thiệp sâu vào lĩnh vực kinh doanh của Ngân hàng.
KếT LUậN
Nhiệm vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đã được đề ra từ Đại hội Đảng VII và được cụ thể hoá qua hai lần đại hội tiếp theo. Từ đó đòi hỏi hệ thống ngân hàng phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, triệt để các mặt hoạt động.
Bất kỳ một nền kinh tế nào được coi là phát triển đều không thể thiếu bộ máy của các ngân hàng bởi vì chúng là " Các không gian tài chính, Mà cho vay lại là một trong các hoạt động cơ bản của ngân hàng. Khâu kiểm tra trước đối với các khoản vay giữ vai trò quan trọng trong việc quyết định cho vay hay từ chối khoản vay. Yêu cầu phải nâng cao và nâng cao hơn nữa chất lượng thẩm định mà quan trọng là thâm định dự án đầu tư có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi một ngân hàng.
Trước ngưỡng cứa của thế kỷ 21, các ngân hàng Việt Nam đã và đang và sẽ phải đối mặt với những thách thức lớn lao. Với hành trang sẵn có, cùng với các ngân hàng khác, ngân' hàng Công thương Ba Đình cần xác định vị trí, trách nhiệm của mình, thích nghi nhanh với cơ chế thị trường, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, hoàn thiện hệ thống tổ chức và nâng cao trình độ cán bộ, phấn đấu đưa hoạt động của ngân hàng có bước phát triển mới đúng hướng, an toàn và hiệu quả.
Sau cùng, em mong rằng một vài ý kiến của mình sẽ có thể đóng góp phần nào vào công cuộc đổi mới hoạt động của ngân hàng Công thương Ba Đình để năm 1999 sẽ gặt hái nhiều thành công hơn nữa. Ngân hàng Công thương Ba Đình sẽ luôn là một chi nhánh chủ chết trong hệ thống ngân hàng công thương, một trong bốn ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam.
Hoàn thành bài viết này em xin chân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của các cán bộ ngân hàng Công thương Ba Đình, đặc biệt là các anh chị trong phòng kinh doanh thương nghiệp.
Em xin cảm ơn Thầy Trần Đăng Khâm là người đã tận tình hướng dẫn em trong việc nghiên cứu đề tài này.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn./.
Hà Nội 8 / 1999
Tài liệu tham khảo
Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính
- Frederic Smishkin
Giáo trình lập và quản lý dự án đầu tư
- Trường Đại học kinh tế Quốc dân.
Quản trị Tài chính doanh nghiệp
- Trường Đại học kinh tế Quốc dân.
Các văn bản, thể lệ, chế độ của Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Ba Đình.
Thị trường Tài chính Tiền tệ.
Tạp chí Ngân hàng.
Một số luận văn tham khảo và tạp chí khác.
Mục lục
Trang
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4053.doc