LỜI MỞ ĐẦU
Bước vào thế kỷ XXI, nền kinh tế Việt Nam có nhiều khởi sắc sau 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới. Từ chỗ nền kinh tế không đáp ứng đủ nhu cầu cho nhân dân, đến nay Việt Nam được đánh giá là nước có mức tăng trưởng kinh tế cao nhất khu vực Đông Nam Á và đứng thứ hai thế giới sau Trung Quốc. Thành tựu to lớn trên có được một phần xuất phát từ đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong việc tập trung mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển các ngành trọng điểm, mũi nhọn, trong đó có n
118 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1284 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam giai đoạn 2006-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gành công nghiệp Dệt - May.
Với lợi thế về lao động cùng các chính sách khuyến khích đầu tư trong nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam…ngành Dệt May Việt Nam đã có những bước phát triển khá nhanh. Trong hơn 5 năm qua, Dệt May Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ với tốc độ phát triển bình quân ở mức hai con số và trở thành một trong những ngành kinh tế xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Các sản phẩm dệt may Việt Nam đã bước đầu tạo được vị thế trên thị trường trong và ngoài nước. Dệt May hiện đang sử dụng gần 5% lao động toàn quốc (hơn 20% lao động trong khu vực công nghiệp), đóng góp 8% GDP, kim ngạch xuất khẩu luôn đứng thứ hai (sau xuất khẩu dầu thô) và đóng góp hơn 16 % trong kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Tuy nhiên đằng sau tốc độ tăng trưởng cao trong suốt những năm qua, ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đã và đang mắc phải rất nhiều những hạn chế. Nguyên phụ liệu dệt may nhập khẩu đến 90%, năng suất lao động thấp, vốn đầu tư sử dụng không hiệu quả trong khi hai ngành Dệt và May phát triển thiếu cân đối một cách trầm trọng làm cho chất lượng tăng trưởng yếu kém. Hơn nữa, hiện nay Việt Nam đang trên chặng nước rút gia nhập WTO, Dệt May Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội mới nhưng cũng rất nhiều những thách thức khi mà nội lực không thể đảm bảo cho một sự tăng trưởng có chất lượng cao.
Mục tiêu phát triển ngành Công nghiệp Dệt May đến năm 2010 của Chính phủ là nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, từng bước đưa ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam thành ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu, tăng nguồn ngoại tệ, góp phẩn tăng trưởng kinh tế, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước, tạo nhiều việc làm cho xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Để thực hiện những mục tiêu nói trên thì việc nghiên cứu thực trạng chất lượng tăng trưởng ngành Dệt May Việt Nam đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành Dệt May đóng một vai trò quan trọng. Nó phù hợp với yêu cầu thực tế của ngành, trong bối cảnh Việt Nam chuẩn bị bước vào một giai đoạn lịch sử mới của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO.
Xuất phát từ thực tế yêu cầu đó, Luận văn Tốt nghiệp này đã tập trung nghiên cứu đề tài “ Nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 ”. Đề tài được thực hiện với mục đích nghiên cứu lý luận và ứng dụng vào thực tiễn ngành Dệt May Việt Nam, từ đó đề xuất các quan điểm, phương hướng và giải pháp để nâng cao chất lượng tăng trưởng cho ngành Dệt May trong thời gian tới. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong Chuyên đề bao gồm phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê mô tả, suy luận logic…
Kết cấu Luận văn bao gồm những phần sau:
Chương I: Đánh giá chất lượng tăng trưởng ngành Dệt May
Chương II: Thực trạng chất lượng tăng trưởng ngành Dệt May Việt Nam giai đoạn 2001 – 2005
Chương III: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành Dệt May Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010.
Chuyên đề được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo GS.TS Vũ Thị Ngọc Phùng, giảng viên Khoa Kế hoạch và Phát triển - trường Đại học Kinh tế Quốc dân và chú Hà Ngọc Quang, Trưởng Phòng Kinh tế Ngành - Vụ Tổng hợp Kinh tế quốc dân - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Hà Nội, ngày…tháng…năm…
Sinh viên
Lê Thị Nhật Phương
CHƯƠNG I. ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG
NGÀNH DỆT MAY
VAI TRÒ VÀ VỊ TRÍ CỦA NGÀNH DỆT MAY TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI
Vai trò của ngành Dệt May
Dệt May là một ngành sản xuất vật chất thuộc nhóm ngành công nghiệp nhẹ sản xuất các sản phẩm đáp ứng nhu cầu may mặc của con người như sợi, vải, quần áo. Ngành Dệt May gắn liền với nhu cầu thiết yếu của mỗi người. Vì thế, ngành này đã hình thành và đi lên cùng với sự phát triển ban đầu của chủ nghĩa tư bản. Đây cũng là ngành yêu cầu vốn đầu tư không lớn, thu hút nhiều lao động với kỹ năng trung bình và có điều kiện mở rộng thương mại quốc tế…Do vậy, trong quá trình công nghiệp hoá các nước tư bản đầu tiên như Anh, Pháp, Italia…đến các nước Nics (Hàn Quốc, Đài Loan…) ngành Dệt may đều có vị trí quan trọng. Năm 1994, tổng kim ngạch xuất khẩu ngành Dệt May thế giới đạt 250 tỷ USD và trong 10 năm tới sẽ tăng 60% đối với may mặc và 34% đối với hàng dệt (theo dự báo của WTO), trong đó châu Á chiếm khoảng 40% giá trị xuất khẩu. Ngành Dệt May đã và đang đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của nhiều nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. Song hiện nay, do nhiều yếu tố như thiếu lao động, tiền công cao…dẫn đến hiệu quả sản xuất thấp ở các nước phát triển nên các nước này đã và đang chuyển ngành công nghiệp Dệt May sang các nước đang phát triển.
Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, ngành Dệt May giữ một vai trò then chốt trong nền kinh tế.
Thứ nhất, ngành Dệt May khai thác những lợi thế vốn có của Vịêt Nam. Truyền thống sản xuất hàng dệt may lâu đời trải qua nhiều thế hệ đã đúc rút cho người lao động Việt Nam nhiều kinh nghiệm quý báu trong quá trình tạo ra một sản phẩm dệt may. Nguồn lao động rẻ, dồi dào cộng với bản chất bền bỉ, cần cù, cẩn thẩn rất phù hợp với đặc trưng của ngành dệt may.
Thứ hai, ngành Dệt May tạo ra một khối lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động, chủ yếu là lao động phổ thông. Nó góp phần thu hút một số lượng lao động dư thừa trong nền kinh tế (chủ yếu là lao động ở nông thôn), giải quyết phần nào nạn thất nghiệp mà kéo theo đó là các tệ nạn xã hội, những bất ổn về an ninh trật tự. Ngày nay, hầu hết các nước phát triển nắm giữ những khâu quan trọng đòi hỏi trình độ công nghệ cao trong ngành công nghiệp dệt may. Theo sự phân công lao động quốc tế, các nước đang phát triển đảm nhiệm phần gia công, ráp nối nguyên phụ liệu, những công việc không đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao nhưng cần một lượng lao động lớn. Tính đến năm 2000, hơn 100.000 doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đang hoạt động trong lĩnh vực Dệt May Việt Nam đang tạo việc làm cho gần 2 triệu lao động và năm 2005 là gần 5 triệu lao động. Tương lai, ngành Dệt sẽ thu hút đầu tư, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân và tăng thu nhập quốc dân.
Thứ ba, ngành Dệt May hiện là thị trường tiêu thụ vải và phụ liệu rất lớn cho ngành Dệt Việt Nam với nhu cầu khoảng trên 500 triệu mét vải mỗi năm. Trong khi đó sản xuất vải nội địa chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng và chủng loại mẫu mã nên phải nhập khẩu từ bên ngoài.
Thứ tư, Dệt May là ngành có đóng góp lớn vào việc tăng kim ngạch xuất khẩu, thu hút ngoại tệ cho đất nước. Từ năm 1992 đến nay, kim ngạch xuất khẩu của ngành Dệt may liên tục tăng với tốc độ cao và là một trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của cả nước và đứng thứ hai về giá trị sau dầu thô. Năm 1995 kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May Việt Nam mới đạt 800 triệu USD, đến 2001 con số này tăng lên gần 2 tỷ USD (chiếm 24% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước), năm 2002 xuất khẩu đạt trên 2,7 tỷ USD.
Thứ năm, ngành dệt may góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Dệt May là một ngành, một bộ phận cấu thành của nền công nghiệp Việt Nam. Sự phát triển của công nghiệp Dệt May có tác động tích cực đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu vùng kinh tế Việt Nam. Ngành Dệt May phát triển kéo theo sự phát triển của nhiều ngành kinh tế khác. Trước tiên là việc chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng ở một số vùng trồng nguyên liệu phục vụ cho dệt may như đay, bông, dâu, tằm…Do đó, nó đòi hỏi ngành nông nghiệp phát triển theo chiều hướng phá vỡ thế độc canh, chỉ trồng cây lương thực, hoa màu. Sau đó là tác động đến việc phát triển những ngành sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành may, và ngành cơ khí cung cấp máy móc thiết bị cho ngành Dệt May. Từ đó góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế các vùng. Vùng có ngành sản xuất Dệt May phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của các ngành sản xuất phụ trợ cho ngành Dệt May và cả những ngành sử dụng sản phẩm của ngành Dệt May như giày da, nội thất, xây dựng…từ đó tăng tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu nền kinh tế.
Thứ sáu, với kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May năm 2002 đạt trên 2,7 tỷ USD, ngành Dệt May Việt Nam đang góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Có thể khẳng định: Với lợi thế sử dụng được nhiều lao động, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, khả năng đóng góp lớn vào xuất khẩu, tạo điều kiện quân bình cán cân thu chi ngoại tệ theo hướng tích cực, ngành Dệt May đã giữ một vai trò then chốt, chẳng những trong nền kinh tế các nước đang phát triển mà vẫn tiếp tục giữ vai trò quan trọng cả trong những nước phát triển. Đặc biệt góp phần chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng kinh tế ổn định kinh tế, chính trị, xã hội.
Vị trí của ngành Dệt May
Trong đường lối phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, Công nghiệp Dệt May luôn được Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm và đặt vào vị trí quan trọng trong các chính sách phát triển chung của công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng.
Trước hết Dệt May Việt Nam được khẳng định là ngành giữ vị trí hàng đầu, một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn của nước ta trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để đạt được mục tiêu đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 cần phải có tỷ lệ tích luỹ lớn, tạo điều kiện cho quá trình đổi mới công nghệ. Và Dệt May là một trong những ngành mang trọng trách đáp ứng yêu cầu đó. Lịch sử quá trình công nghiệp hoá của các nước trên thế giới đã cho thấy rõ vị trí quan trọng của ngành Dệt May trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hoá, bắt đầu từ công nghiệp Dệt May nước Anh. Các nước công nghiệp lớn đều dùng lợi thế sử dụng nhiều lao động của ngành Dệt May làm bàn đạp phát triển công nghiệp. Việt Nam sẽ không phải là một ngoại lệ. Tính chất mũi nhọn của ngành Dệt May được luận giải ở hai tiêu chuẩn chính là năng lực tạo công ăn việc làm cao và khả năng mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn. Bên cạnh đó, việc ưu tiên phát triển ngành này còn phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu đang diễn ra trong khu vực. Hiện nay, một số cường quốc xuất khẩu hàng may mặc trong khu vực cũng như trên thế giới như Thái Lan đang từng bước nhường thị trường cạnh tranh này vì chi phí lao động tăng lên. Việt Nam có điều kiện để trở thành cường quốc mới trong lĩnh vực này do chi phí lao động thấp và các cơ sở thị trường đã được chuẩn bị và tiếp cận. Việc lực chọn may gia công xuất khẩu trong bối cảnh đó cho phép thu hút mạnh mẽ nguồn vốn và kỹ thuật của các nước đang có nhu cầu chuyển giao cơ cấu.
Ngoài ra ngành Dệt May được coi là ngành giữ vị trí nòng cốt trong chiến lược sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam. Từ năm 1991 đến nay, kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt may không ngừng tăng lên. Tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị sản lượng hàng dệt may giai đoạn 1992-1998 là 43,5%/năm. Tỷ trọng hàng dệt may xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta luôn tăng từ 7,6% năm 1991 đến 15% năm 98. Trước tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế không ngừng được nâng cao và mở rộng, đặc biệt trong thời kỳ sắp tới, ngành Dệt May Việt Nam ngày càng khẳng định vai trò là ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu, góp phần tăng trưởng kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
ĐẶC ĐIỂM NGÀNH DỆT MAY
Đặc điểm về sản phẩm
Sản phẩm của ngành dệt may không chỉ là quần áo, vải vóc và các vật dụng quen thuộc như khăn bàn, khăn tắm, chăn mền, nệm, rèm, thảm, đệm ghế, ô dù, mũ nón v.v. mà còn cần thiết cho hầu hết các ngành nghề và sinh hoạt: lều, buồm, lưới cá, cần câu, các loại dây nhợ, dây thừng, dây chão, các thiết bị bên trong xe hơi, xe lửa, máy bay, tàu bè (một chiếc xe hơi trung bình dùng đến 17 kí sợi vải), vòng đai cua-roa, vỏ săm lốp, ống dẫn, bao bì, và nói chung mọi vật liệu dùng để đóng gói, bao bọc, để lót, để lọc, để cách nhiệt, cách âm, cách điện, cách thuỷ, và cả những dụng cụ y khoa như chỉ khâu và bông băng. Có thể hiểu tại sao ngành dệt may đã đi liền với sự phát triển của các nước công nghiệp, cùng với sắt thép là hai ngành vừa được ưu tiên thừa hưởng những phát minh kỹ thuật vừa là động cơ chuyển biến cả nền kinh tế từ thủ công sang công nghiệp trong thời kỳ cách mạng kỹ nghệ. Điều này cũng giải thích tại sao các nước công nghiệp vẫn quyết tâm bảo vệ ngành dệt may nội địa trước sự cạnh tranh của các nước nghèo, từ thập niên 1970 trở đi, khi các nước này tập trung xây dựng ngành này thành trọng điểm của chiến lược phát triển. Và tại sao đó cũng là một trong những mối tranh chấp căng thẳng từ nhiều năm trong quan hệ thương mại giữa các nước giàu và nghèo.
Đặc điểm về kỹ thuật sản xuất
Dệt may là một trong những hoạt động có từ xưa nhất của con người. Sau thời kỳ ăn lông ở lỗ, lấy da thú che thân, từ khi biết canh tác, loài người đã bắt chước thiên nhiên, đan lát các thứ cỏ cây làm thành nguyên liệu. Trải qua 5 nghìn năm hình thành và phát triển, các kỹ thuật may dệt đã mau chóng đạt mức độ tinh vi, có khi thành cả nghệ thuật. Nguyên liệu của ngành dệt may chủ yếu bắt nguồn từ thiên nhiên, lấy từ cây cỏ như các sợi bông, sợi đay (jute), sợi gai dầu (hemp), sợi lanh, hay từ thực vật như da, sợi len, tơ tằm…Ngày nay, với khoa học kỹ thuật hiện đại, con người đã sáng tạo ra nhiều loại sợi nhân tạo, sợi tổng hợp với ưu điểm là có thể sản xuất hàng loạt với giá rẻ. Tuy nhiên vì dầu hoả là nguyên liệu chính của sợi hoá học và do giá dầu hoả ngày càng tăng nên khuynh hướng thay thế các sợi tự nhiên bằng sợi hoá học cũng chậm lại và ngày nay sợi tự nhiên, chủ yếu là bông, vẫn tồn tại trên thị trường, và sợi hóa học chỉ chiếm đa số với khoảng 60% .
Công nghiệp dệt may so với các ngành công nghiệp khác, đặc biệt công nghiệp nặng có suất đầu tư thấp hơn nhiều lần, chỉ bằng 1/10 so với ngành điện, 1/15 so với ngành cơ khí và 1/20 so với ngành luyện kim. So sánh ngay trong ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, để tạo ra một chỗ làm việc mới ngành công nghiệp dệt may chỉ cần đầu tư khoảng 1000 USD, trong khi đó suất đầu tư của ngành giấy là gần 3.000 USD. Bên cạnh đó, do đặc thù sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong thời gian ngắn nên thời hạn thu hồi vốn đối với ngành Dệt là 12-15 năm, ngành May là 5-7 năm, trong khi đó đối với các ngành công nghiệp khác, thời gian thu hồi vốn là 15 năm, thậm chí hàng chục năm như công nghiệp thép chẳng hạn. Do đặc điểm về công nghệ sản xuất không quá phức tạp, lao động của ngành Dệt May lại dễ đào tạo nên việc tổ chức sản xuất các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất phù hợp với điều kiện địa lý, kinh tế và xã hội của các quốc gia nhỏ bé như Việt Nam.
Đối với ngành Dệt May Việt Nam, truyền thống làng nghề, truyền thống văn hóa là một yếu tố tác động khá lớn đến đặc điểm kỹ thuật sản xuất của ngành. Lịch sử cho thấy, người dân Việt Nam có truyền thống lâu đời về Dệt May. Từ thời phong kiến đã hình thành nên các làng nghề thủ công và các tổ chức công nghiệp. Các làng Dệt ở ven Hồ Tây ngày nay như Trích Sài, Yên Thái, Nghĩa Đô đã nổi tiếng ngay từ triều Lý Công Uẩn (năm 1010). Các vùng nuôi tằm tại Hưng Yên, Thái Bình…; trồng bông tại các vùng cao nguyên miền núi phía Bắc Việt Nam và một số tỉnh như Ninh Thuận, Đồng Nai.. cũng được hình thành từ rất sớm. Năm 1989 đánh dấu sự phát triển chính thức của ngành công nghiệp Dệt tại Việt Nam kể từ khi người Pháp tiến hành xây dựng Khu công nghiệp dệt tại Nam Định.
Hiện nay song song với sự phát triển của các công ty dệt may trong nước, các làng nghề Dệt May truyền thống của Việt Nam vẫn không ngừng được bảo tồn và phát triển. Nghề dệt vải không ngừng được cải tiến và phát triển mạnh mẽ. Từ những sản phẩm lụa mộc mạc ban đầu ngày nay đã có những mặt hàng độc đáo, cao cấp như gấm, lụa, the, lĩnh…mịn, óng, mềm mại, với màu sắc và hoa văn sinh động, tinh tế… Mặt hàng vải thổ cẩm dệt thủ công, vải tơ lụa cũng không ngừng được nâng cao về chất lượng, phong phú về chủng loại, màu sắc và hoa văn…được các bạn hàng trong nước cũng như quốc tế ưa thích.
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG NGÀNH DMVN
Khái niệm về chất lượng tăng trưởng
Tăng trưởng hiện nay là một trong những mục tiêu hàng đầu của mọi nền kinh tế cũng như của các ngành bộ phận. Tăng trưởng là sự gia tăng về thu nhập của nền kinh tế hay của một bộ phận trong nền kinh tế ấy trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm. Tuy nhiên ngày nay người ta nhìn nhận khái niệm tăng trưởng kinh tế không chỉ ở mặt định lượng được biểu hiện ở quy mô, tốc độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển, mà còn nhấn mạnh bản chất của tăng trưởng kinh tế thông qua khái niệm “Chất lượng tăng trưởng”.
Hiện nay chưa có một khái niệm chính thống nào về chất lượng tăng trưởng và khái niệm này vẫn gây nhiều tranh cãi. Mặc dù người ta nhắc đến khái niệm chất lượng tăng trưởng ngày một thường xuyên hơn nhưng chưa ai định nghĩa một cách chính xác và cụ thể chất lượng tăng trưởng là gì, cũng như thước đo chất lượng tăng trưởng. Có nhiều cách hiểu chất lượng tăng trưởng khác nhau. Nhiều người muốn dùng đến chỉ số ICOR (hệ số mức gia tăng của đầu vào so với đầu ra) để làm thước đo, tuy nhiên chỉ số này chỉ phản ánh một phần chất lượng tăng trưởng thông qua hiệu quả của đầu tư mà thôi. Ở một thái cực khác, có người nói đến chất lượng tăng trưởng đồng nghĩa với tăng trưởng bền vững bao gồm sự bền vững về xã hội, về kinh tế, về môi trường v.v…Ngoài ra còn có quan điểm cho rằng xem xét chất lượng tăng trưởng phải dựa trên chỉ số phát triển con người (HDI) hay nói đến các vấn đề xã hội kèm theo. Có quan điểm nói chất lượng là phải giữ được bản sắc. Báo cáo chất lượng tăng trưởng năm 1997 của Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) còn kèm theo vấn đề về tạo việc làm cho người dân.
Luận văn xin đưa ra một cách nhìn khác về khái niệm chất lượng tăng trưởng. Chất lượng tăng trưởng được hiểu theo hai nghĩa, nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Chất lượng tăng trưởng theo nghĩa hẹp phản ánh sự biến động về cơ cấu bên trong tạo thành bản chất của sự tăng trưởng và thể hiện được hiệu quả trong sự vận động của quá trình tăng trưởng đó trong một hoàn cảnh, giai đoạn nhất định. Thông qua khái niệm theo nghĩa hẹp này có thể thấy, giống như bao hiện tượng khác, tăng trưởng cũng có mặt lượng và mặt chất. Mặt lượng thể hiện ở tốc độ tăng trưởng trong từng thời kỳ, còn mặt chất thể hiện tính hiệu quả, tính hiện đại, tính bền vững, và tính cân đối bên trong quá trình tăng trưởng.
Chất lượng tăng trưởng theo nghĩa rộng hơn còn thể hiện mối liên hệ qua lại giữa ba lĩnh vực: quá trình tăng trưởng về mặt kinh tế, các vấn đề về xã hội và môi trường. Đây chính là cách hiểu chất lượng tăng trưởng đồng nghĩa với tăng trưởng bền vững. Lâu nay ta vẫn nói tốc độ tăng trưởng cao. Nhưng vấn đề đặt ra là duy trì tốc độ này được bao lâu, nguồn tăng trưởng ấy do đâu mà có và suy cho đến cùng, liệu tốc độ tăng trưởng cao có đảm bảo một cuộc sống no đủ cho người dân.
Từ cách hiểu chất lượng tăng trưởng theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, có thể thu hẹp lại khái niệm chất lượng tăng trưởng trong phạm vi từng ngành. Đối với ngành Dệt May, khi xem xét quá trình tăng trưởng, người ta không chỉ quan tâm tới tốc độ tăng của sản lượng, của giá trị sản xuất hay giá trị xuất khẩu; mà còn quan tâm nhiều đến chất lượng tăng trưởng ngành dệt may, tức xem xét sự vận động của các yếu tố nội tại bên trong như tỷ trọng chi phí trung gian trong giá trị sản xuất, việc sử dụng lao động hay nguồn vốn đầu tư, tương quan giữa hai ngành Dệt và May; hay theo nghĩa rộng là tác động của quá trình tăng trưởng tới môi trường và tới cuộc sống của người lao động.
Một số tiêu chí đánh giá chất lượng tăng trưởng ngành Dệt May
Hiệu quả trong sử dụng chi phí trung gian
Chi phí trung gian là một bộ phận cấu thành của giá trị sản xuất bao gồm toàn bộ chi phí thường xuyên về vật chất (nguyên vật liệu, nhiên liệu, động lực, chi phí vật chất khác) và dịch vụ (công tác phí, chi phí bưu điện, chi phí vận tải thuê ngoài, thuê quảng cáo, phòng cháy chữa cháy, chi trả dịch vụ pháp lý; chi phí dịch vụ ngân hàng, tín dụng, chi thuê phương tiện máy móc, nhà cửa…) được sử dụng trong quá trình sản xuất tạo ra giá trị sản xuất ngành công nghiệp.
a. Chi phí về nguyên nhiên phụ liệu
Chi phí nguyên nhiên phụ liệu chiếm một tỷ trọng rất lớn trong giá thành của sản phẩm dệt may. Hầu hết trong thời kỳ đầu phát triển ngành công nghiệp dệt may, các nước trên thế giới đều không đáp ứng được nguồn nguyên phụ liệu trong nước mà phải nhập khẩu. Rất nhiều quốc gia tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm dệt may chiếm chưa đến 30% (trong đó có Việt Nam). Như vậy các quốc gia này đơn thuần chỉ là nơi gia công sản phẩm, nhập nguyên liệu về, chế biến rồi lại xuất khẩu, vì vậy không tạo ra nhiều giá trị gia tăng, lợi nhuận có được rất thấp.
b. Chi phí dịch vụ
- Xuất phát từ các đặc thù riêng có, ngành công nghiệp Dệt May có thêm nhiều loại chi phí khác cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng không kém chi phí dành cho nguyên phụ liệu. Cũng như nhiều ngành sản xuất hàng tiêu dùng khác, ngành công nghiệp dệt may phải tính thêm chi phí vận chuyển vào trong giá thành sản phẩm. Chi phí này cao hay thấp phụ thuộc vào cả yếu tố chủ quan như phương tiện hay vị trí của doanh nghiệp sản xuất, mà còn phụ thuộc vào cả yếu tố khách quan như chất lượng cơ sở hạ tầng (đường xá, bến cảng…).
- Bên cạnh đó riêng đối với ngành dệt may còn xuất hiện thêm nhiều loại chi phí khác như chi phí về công đoàn (khá đáng kể do ngành này sử dụng nhiều lao động), chi phí dành cho công tác quảng cáo, tiếp thị…
c. Các chi phí khác
Khác với nhiều quốc gia khác trên thế giới, ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam còn chịu thêm một khoản chi phí khác: chi phí về hạn ngạch. Đây là một khoản chi phí không chính thức nhưng lại có giá trị không nhỏ chút nào, đặc biệt đối với những nước xuất khẩu hàng dệt may mà chưa phải là thành viên của WTO như Việt Nam. Chi phí này phát sinh do các doanh nghiệp phải bỏ ra để có thêm được một phần hạn ngạch khi xuất khẩu ra thị trường thế giới. Thông thường các chi phí này không được công khai và hạch toán cụ thể nên khó có thể kiểm soát được. Chi phí này chỉ có thể được loại bỏ khi nước xuất khẩu trở thành thành viên WTO, mọi doanh nghiệp sẽ được cạnh tranh một cách bình đẳng và tránh phải tiêu tốn vào những khoản chi phí lớn nhưng không đem lại giá trị nào cho sản phẩm.
Có thể thấy, chi phí đóng vai trò quyết định đối với sự thành công của doanh nghiệp. Sản lượng làm ra dù có nhiều, kim ngạch xuất khẩu dù có lớn nhưng chi phí lại chiếm tỷ trọng khá lớn trong giá thành sản phẩm thì lợi nhuận tạo ra sẽ rất thấp, ngành công nghiệp dệt may nội địa sẽ mãi chỉ là nơi gia công sản phẩm cho thị trường nước ngoài mà thôi.
Hiệu quả trong sử dụng lao động
Lao động là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với một ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động như ngành dệt may. Lao động trong ngành Dệt May có thể chia ra làm 2 loại chủ yếu dựa trên tính chất công việc của họ, đó là lao động gián tiếp và công nhân lao động trực tiếp tạo ra sản phẩm.
Những lao động gián tiếp tạo ra sản phẩm là các cán bộ khoa học kỹ thuật, những người làm công tác quản lý và nhân viên kinh doanh. Đây là nhóm lao động trực tiếp tiếp xúc với khách hàng, vì vậy sử dụng những lao động này có hiệu quả sẽ góp phần phát triển doanh nghiệp. Trung Quốc là một cường quốc xuất khẩu hàng dệt may của thế giới. Sản phẩm dệt may của Trung Quốc có thể len lỏi mọi nơi trên thế giới ngoài nguyên nhân giá cả thấp còn xuất phát từ việc họ biết khai thác triệt để đội ngũ cán bộ quản lý, nhân viên kinh doanh có trình độ tốt cả về chuyên môn và ngoại ngữ. Đội ngũ cán bộ, nhân viên này với trình độ của mình dễ dàng thâm nhập, điều tra, nghiên cứu và khái thác thị trường may mặc của nhiều nước trên khắp thế giới. Do vậy họ nắm bắt khá nhanh, đầy đủ và chính xác các thông tin về thị trường, khách hàng và luật pháp trong khi các đối thủ cạnh tranh khác mất các cơ hội ký kết hợp đồng do không nắm được thông tin thị trường, nhu cầu khách hàng và những quy định pháp luật do ngoại ngữ giao tiếp kém.
Khác với các cán bộ quản lý hay nhân viên kinh doanh, công nhân dệt may là những người trực tiếp tạo ra sản phẩm. Hiệu quả trong việc sử dụng nguồn lao động này được thể hiện thông qua chỉ tiêu năng suất lao động. Ví dụ như năng suất lao động ngành may mặc được đo bằng số giờ để hoàn thành một chiếc áo/quần. Với công nghệ sản xuất, máy móc, trang thiết bị hiện đại; đặc biệt là với việc tổ chức sản xuất hợp lý, năng suất lao động của người công nhân sẽ tăng lên đáng kể, đảm bảo tăng trưởng bền vững cho ngành dệt may. Còn nếu tăng trưởng của ngành chỉ đơn thuần dựa trên việc tăng cường độ làm việc, tăng ca, tăng giờ thì tăng trưởng đó không có chất lượng.
Mối quan hệ giữa ngành Dệt và May trong quá trình tăng trưởng
Ngành Dệt May bao gồm nhiều ngành nhỏ, từ ngành kéo sợi, dệt thoi, dệt kim đến ngành nhuộm – hoàn tất và cuối cùng là ngành may mặc. Các ngành này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau theo chiều dọc, sản phẩm của ngành này sẽ được sử dụng làm đầu vào cho ngành kia, một ngành nhỏ phát triển sẽ làm động lực kéo các ngành khác phát triển theo tác động đến sự phát triển của toàn ngành dệt may. Để tạo ra một sản phẩm may mặc hoàn chỉnh cần trải qua rất nhiều giai đoạn, các giai đoạn này được chia theo 2 ngành chủ yếu là ngành dệt và ngành may. Thông qua ngành dệt, bông sợi được chuyển hoá thành vải. Sau đó vải tiếp tục trở thành nguyên liệu cho ngành may mặc để tạo ra sản phẩm cuối cùng. Sự phát triển cân đối, hài hoà giữa 2 ngành dệt và may sẽ đảm bảo sự phát triển bền vững, chắc chắn của toàn ngành Dệt - May. Phát triển cân đối hai ngành Dệt và May không có nghĩa là đầu tư như nhau để cùng sản xuất ra một sản lượng như nhau mà sự phát triển của ngành này phải tương xứng với ngành kia, tạo điều kiện cho ngành kia phát triển.
Lịch sử phát triển của ngành Dệt – May ở một số nước cho thấy một quy luật chung là trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, ngành dệt may của tất cả các nước đều phải nhập nguyên liệu, kể cả nguyên liệu cho ngành dệt lẫn nguyên liệu cho ngành may. Tuy nhiên để phát triển được đến như ngày hôm nay, một số nước phải tiến hành chuyên môn hoá ngành dệt trước sau đó mới tiếp tục chuyên môn hoá ngành may. Tức là ngành dệt phải đi trước một bước để tạo điều kiện phát triển ngành may. Đài Loan là một ví dụ điển hình cho việc thất bại của ngành dệt may khi không đảm bảo sự phát triển cân đối giữa 2 ngành Dệt và May. Ngành dệt sợi bông đã từng phát triển rực rỡ nhất ở Đài Loan vào những năm 60. Nhưng đến nay, do không tiếp tục chú ý đến phát triển ngành này mà Đài Loan phải nhập khẩu 100% khối lượng bông sử dụng. Bởi vậy tốc độ tăng trưởng toàn ngành đã giảm mạnh vào năm 1993, khi các nước cung cấp sợi bông chính cho Đài Loan đã đột ngột giảm lượng xuất khẩu của họ. Thực tế này cho thấy việc phát triển cân đối 2 ngành Dệt và May là một nhân tố hết sức quan trọng để đảm bảo sự phát triển ổn định, bền vững và hiệu quả ngành Dệt – May.
Đối với Việt Nam, là một nước đi sau Việt Nam có nhiều thuận lợi do có nhiều cơ hội học hỏi kinh nghiệm của những nước tiên tiến. Bên cạnh đó, những điều kiện thuận lợi về việc áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất cho phép chúng ta có thể đồng thời đầu tư phát triển cho cả ngành dệt và ngành may mà không cần phải tuân theo tuần tự như các nước đi trước. Vấn đề là Việt Nam phải luôn chú ý phát triển ngành Dệt để có đủ điều kiện nội lực cho phát triển ngành may xuất khẩu.
Khả năng cạnh tranh của sản phẩm Dệt May
Khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may của một nước có thể hiểu là những lợi thế mà sản phẩm nước đó vượt trội hơn so với sản phẩm cùng loại của nước khác, từ đó giành lấy khách hàng và chiếm lĩnh thị trường.
Khả năng cạnh tranh của một sản phẩm dệt may bao gồm: giá cả, mẫu mã, chất lượng và uy tín về nhãn mác của sản phẩm.
Giá cả là một yếu tố tác động đến sự thành công của sản phẩm khi tiếp cận thị trường. Khi giá của một sản phẩm dệt may rẻ hơn so với một sản phẩm cùng loại khác, sản phẩm đó có khả năng cạnh tranh mạnh hơn. Có nhiều yếu tố quyết định đến giá cả sản phẩm như chí phí nguyên vật liệu, chí phí nhân công, chi phí vận chuyển, nhà xưởng hay trình độ tiên tiến của công nghệ sản xuất…
Nhiều quốc gia xuất khẩu hàng dệt may sử dụng giá cả như một biện pháp để tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm dệt may của mình. Srilanca là một ví dụ. Đất nước này phát triển ngành công nghiệp dệt may từ những năm 1950 và dệt may đã trở thành ngành công nghiệp lớn nhất của nền kinh tế với kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2004 trên 900 triệu USD, chiếm trên 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của Srilanca. Để đạt được kết quả đó, Srilanca đã không ngừng đưa ra các giải pháp hiệu quả nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh với hàng may mặc của các đối thủ cạnh tranh. Một trong những biện pháp đó là giảm giá sản phẩm. Giá hàng may mặc của Srilanca có khả năng cạnh tranh so với giá hàng may mặc của nhiều đối thủ cạnh tranh khác do có giá thấp hơn. Srilanca đặt ra mục tiêu cho giá cả mang tính cạnh tranh, tạo ra sự khác biệt về giá hàng may mặc của Srilanca so với giá hàng may mạc của nhiều đối thủ cạnh tranh khác từ 10-15%. Có nhiều điều kiện giúp Srilanca thực hiện được điều này như giá nhân công khá thấp so với Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan, Malaisia. Mặt khác, để đảm bảo nguồn nguyên phụ liệu đáp ứng yêu cầu sản xuất hàng may mặc xuất khẩu, Srilanca đã ký Hiệp định tự do thương mại song phương với Ấn Độ từ năm 1998 để nhập khẩu bông, vải với giá thấp từ Ấn Độ. Bên cạnh đó, do được hưởng hiệu ứng lan toả về công nghệ sản xuất hiện đại và trình độ quản lý sản xuất tiên tiến từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, góp phần giảm giá thành trong sản xuất và giá bán trên thị trường EU. Ví dụ vào thời điểm tháng 5/2004, áo Jacket, quần áo thể thao dệt kim, đan hoặc móc của Srilanca bán với giá 7,54 Euro/chiếc, trong khi Trung Quốc bán với giá 8,98 Euro/chiếc, Ấn Độ bán với giá 8,08 Euro/chiếc, Việt Nam bán với giá 13,35 Euro/chiếc…Mặc dù yếu tố giá cả không phải là yếu tố quyết định trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh với các sản phẩm khác, nhưng với tâm lý của khách hàng nói chung thì hàng may mặc nào có giá thấp hơn vẫn mang lại một khả năng cạnh tranh tốt hơn.
Mẫu mã đa dạng và hợp mốt là một yếu tố vô cùng quan trọng để n._.âng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may, đặc biệt đối với các thị trường các nước phát triển có những khách hàng khá quan trọng trong ăn mặc như EU hay Mỹ…Nắm bắt đặc điểm này, Srilanca đã đa dạng hoá các chủng loại hàng dệt may xuất khẩu. Srilanca đã tập trung vào xuất khẩu những loại hàng may mặc mang lại giá trị gia tăng cao như váy, comple, các bộ quần áo veston, nhóm hàng này đã có sức cạnh tranh mạnh với hàng may mặc của các đối thủ cạnh tranh Malaysia, Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông, Nhật Bản nhờ giá bán thấp, chất lượng cao và nhãn hiệu nổi tiếng. Ngoài ra, những hàng may mặc được may, thêu, đan, móc..như áo len, quần áo dệt kim, váy len, dạ…và những hàng may mặc không phải thêu, đan hoặc móc như áo sơ mi, áo Jacket, quần áo, quần áo thể thao…cũng được Srilanca đẩy mạnh sản xuất. Việc đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu được sự hỗ trợ to lớn từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do các doanh nghiệp này nắm bắt rất nhanh xu hướng tiêu dùng của khách hàng EU đối với hàng may mặc về thời trang, các mẫu mốt quần áo. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trở thành các doanh nghiệp chủ lực làm đa dạng hoá các mặt hàng may mặc xuất khẩu của Srilanca. Các doanh nghiệp trong nước cũng được hưởng lợi nhờ hiệu ứng lan toả về công nghệ, thời trang và sự phát triển các mẫu mốt mới trong sản xuất hàng may mặc từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nên đã phát triển nhanh chóng đa dạng hoá hàng may mặc, nâng cao vị thế cạnh tranh của sản phẩm, đặc biệt là trên thị trường quốc tế.
Chất lượng là một tiêu chí quan trọng để đánh giá một sản phẩm may mặc, đặc biệt ở các thị trường EU hay Mỹ. Vì vậy nhiều quốc gia xuất khẩu hàng may mặc dựa trên tiêu chí này để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nước mình. Cơ sở để nâng cao chất lượng sản phẩm dệt may là dựa trên công nghệ máy móc sản xuất hiện đại cùng với trình độ quản lý tiên tiến trong lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu hàng hoá. Nhờ công nghệ sản xuất hiện đại, hàng may mặc được sản xuất theo một quy trình được kiểm soát chặt chẽ theo những tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng. Đây là yếu tố cơ bản nhằm hướng tới chiếm lĩnh nhóm khách hàng trung và cao cấp không chỉ trên thị trường trong nước mà còn cả thị trường quốc tế. Chất lượng cũng là một yếu tố khá bền vững để ngành dệt may thu hút và níu giữ khách hàng đến với sản phẩm.
Uy tín về nhãn mác sản phẩm là một yếu tố vô hình nhưng đem lại sức cạnh tranh khá lớn cho sản phẩm dệt may. Xu hướng tiêu dùng của khách hàng hiện nay thường chuộng các sản phẩm mang nhãn mác của các công ty nổi tiếng, vì vậy doanh nghiệp nào, hãng may mặc nào có uy tín sẽ có sức cạnh tranh hơn hẳn các đối thủ khác. Srilanca là một quốc gia đã khai thác rất tốt khía cạnh này để thúc đẩy khả năng cạnh tranh của sản phẩm may mặc xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Nhiều nhãn hiệu may mặc nổi tiếng trên thế giới được các nhà sản xuất Srilanca trực tiếp sản xuất thông qua hình thức nhượng quyền thương mại như Victoris’s Secret, Liz Claiborne, Pierre Cardin, Nike, GAP, Triumph, LM, Shadowline, Tommy Hilfinger…, sau đó xuất khẩu sang EU. Có tới 65% hàng may mặc xuất khẩu của Srilanca dưới những nhãn hiệu này thông qua việc nhượng quyền thương mại. Đây là một lợi thế rất lớn trong cạnh tranh của hàng may mặc Srilanca, những nhãn hiệu nổi tiếng này rất quen thuộc với khách hàng trên khắp thế giới về uy tín, chất lượng, tính thời trang, sự sang trọng trong mỗi sản phẩm nên luôn được khách hàng ưu tiên lựa chọn, tạo ra khả năng cạnh tranh to lớn trước sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh.
Tác động của tăng trưởng tới môi trường và xã hội
Đây là chỉ tiêu đánh giá chất lượng tăng trưởng theo nghĩa rộng, tức là xét tăng trưởng của ngành Dệt May trong mối liên quan với sự phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế được hiểu là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế. Nó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia. Trong vài thập niên trở lại đây, khi tăng trưởng kinh tế của nhiều nước trên thế giới đã đạt được một tốc độ khá cao nhưng bắt đầu xuất hiện những ảnh hưởng tiêu cực của sự tăng trưởng nhanh đó đến tương lai con người, người ta bắt đầu quan tâm đến “Phát triển kinh tế bền vững”, một khái niệm rộng hơn “ Phát triển kinh tế”. Phát triển kinh tế bền vững được hiểu là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: tăng trưởng kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường.
Xét trong ngành Dệt May, khi đánh giá chất lượng tăng trưởng không thể bỏ qua việc xem xét tác động của tăng trưởng tới môi trường cũng như tới đời sống của người lao động. Chất lượng tăng trưởng ở đây được thể hiện qua khía cạnh duy trì khả năng tăng trưởng và sự phân phối thành quả của tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng cao nhưng kèm theo đó là môi trường sống bị huỷ hoại nghiêm trọng. Vậy tăng trưởng nhanh nhưng lại làm nguy hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai liệu có được coi là chất lượng cao? Bên cạnh đó, tăng trưởng xét cho đến cùng cũng là để phục vụ, nâng cao đời sống con người. Vậy để đánh giá chất lượng tăng trưởng ngành Dệt May còn có thể dựa trên khả năng đáp ứng các nhu cầu cơ bản của lao động ngành Dệt May, đặc biệt là người công nhân dựa trên việc xem xét điều kiện lao động liệu có được đảm bảo, thu nhập liệu có đủ để người công nhân duy trì cuộc sống và tái sản xuất sức lao động v.v…
VÌ SAO PHẢI NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM GIAI ĐOẠN ĐẾN NĂM 2010.
Thứ nhất, ngành Dệt May là một ngành mũi nhọn trong quá trình công nghiệp hoá đất nước. Nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành dệt may, trước hết sẽ thúc đẩy phát triển chiều sâu các ngành có liên quan trực tiếp đến ngành dệt may như công nghiệp trồng bông, công nghiệp dệt, công nghiệp hoá chất…Trước yêu cầu phát triển chiều sâu ngành dệt may, các ngành công nghiệp nặng khác cũng phải vận động theo. Tiếp theo đó là các ngành khác trong nền kinh tế cũng phát triển theo. Ngành dệt may là một trong những ngành công nghiệp nhẹ đóng vai trò là đầu tầu phát triển của đất nước trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tính chất mũi nhọn của ngành Dệt May được luận giải ở hai tiêu chuẩn chính là năng lực tạo công ăn việc làm cao và khả năng mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn. Bên cạnh đó, việc ưu tiên phát triển ngành này còn phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu đang diễn ra trong khu vực.
Dệt may là một ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động nhất. Hiện nay ước tính có khoảng hơn 1100 doanh nghiệp dệt may trong toàn ngành và hàng chục ngàn cơ sở nhỏ khác nhau, thu hút một lượng lớn lao động hơn 3.100.000 người, chiếm khoảng 22,7% lao động công nghiệp toàn quốc. Theo chiến lược tăng tốc phát triển ngành Dệt May đến năm 2010, lực lượng lao động ngành Dệt May sẽ tăng lên 4.000.000 người, đó là chưa kể một lực lượng lao động khá lớn thu hút vào lĩnh vực phát triển cây bông và trồng dâu nuôi tằm (ước tính số lao động này hiện nay khoảng 180.000 người, đến năm 2010 khoảng 450.000 người).
Bên cạnh đó ngành Dệt May là ngành có kim ngạch xuất khẩu cao, chỉ đứng sau dầu khí: năm 2000 KNXK của ngành đạt gần 2000 triệu USD, năm 2005 đạt gần 5000 triệu USD và ước năm 2010 đạt khoảng 7000-8000 triệu USD. Thông qua việc xuất khẩu, ngành Dệt May góp phần vào công cuộc hội nhập vào nền kinh tế thế giới và nền kinh tế khu vực của Việt Nam, đồng thời mang về cho đất nước một khoản thu ngoại tệ lớn, đóng góp vào tích luỹ tư bản cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhưng để có được những kết quả này, ngành phải chịu một áp lực cạnh tranh rất cao trên thị trường quốc tế, phải đáp ứng những tiêu chuẩn khắt khe mà các đối tác nước ngoài đưa ra. Bởi vậy, ngành Dệt May cần phải được đầu tư thích đáng để có thể trụ vững và phát triển không ngừng trên thị trường quốc tế.
Thứ hai, thực trạng chất lượng tăng trưởng ngành Dệt May còn khá nhiều hạn chế, không đảm bảo được một ngành Dệt May phát triển bền vững trong tương lai.
Mặc dù trong những năm qua ngành Dệt May đã có những bước phát triển đáng kể thể hiện ở tốc độ tăng trưởng của giá trị sản xuất ngày càng tăng, kim ngạch xuất khẩu cũng tăng nhanh đưa ngành Dệt May vươn lên là ngành đem lại nhiều ngoại tệ thứ hai cho đất nước. Tuy nhiên bên trong quá trình tăng trưởng đó, ngành Dệt May còn khá nhiều vấn đề hạn chế. Sản phẩm Dệt May của Việt Nam thiếu tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế do chất lượng không đảm bảo với các đòi hỏi về tiêu chuẩn khắt khe của thị trường nước ngoài; mẫu mã đơn điệu, không nắm bắt được thị hiếu của người tiêu dùng và giá cả cũng không có khả năng cạnh tranh so với sản phẩm cùng loại của các nước khác như Trung Quốc, Srilanca…Thị trường của Dệt May Việt Nam còn khá khiêm tốn trên thế giới, một phần bởi quy mô của ngành còn nhỏ bé, một phần khác là do công tác tiếp thị, marketing còn yếu kém, sản phẩm chưa có thương hiệu nên không đến được với người tiêu dùng nước ngoài. Một hạn chế quan trọng trong quá trình phát triển của ngành Dệt May Việt Nam là sự mất cân đối giữa ngành Dệt và ngành May. Chúng ta có một ngành May năng động với một ngành Dệt kém hiệu quả, thiết bị công nghệ của ngành May khá hiện đại trong khi của ngành Dệt phần lớn là lạc hậu. Xuất khẩu hàng đạt kim ngạch cao nhưng chủ yếu là làm gia công do ngành Dệt vẫn phải nhập khẩu nguyên liệu, trong khi ngành May cũng chưa tự đáp ứng được nguồn phụ liệu để sản xuất…
Thứ ba, thị trường xuất khẩu hàng Dệt May trên thế giới ngày càng cạnh tranh quyết liệt, đặt ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đứng trước yêu cầu phải tự hoàn thiện mình để ngành có thể tồn tại và phát triển.
Xu hướng toàn cầu hoá trên thế giới và khả năng gia nhập vào WTO của Việt Nam trong năm 2006 này đưa ngành Dệt May Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội cũng như thách thức. Để nắm bắt được cơ hội và vượt qua thách thức, ngành Dệt May Việt Nam phải có những điều chỉnh về chiến lược phát triển, đẩy mạnh các giải pháp nhằm khắc phục tính không hiệu quả trong quá trình phát triển của ngành.
Gia nhập WTO mang lại cho Dệt May Việt Nam cơ hội có một thị trường rộng lớn để có thể tiêu thụ sản phẩm; cơ hội được tiếp cận dễ dàng hơn với các nguyên phụ liệu chưa có điều kiện sản xuất và các công nghệ sản xuất, kinh nghiệm quản lý từ các nước phát triển; cũng như cơ hội thu hút vốn đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài, các nguồn viện trợ phát triển của các nước và các định chế tài chính quốc tế . Tuy nhiên đồng hành với các cơ hội, nền kinh tế nước ta và các doanh nghiệp cũng phải đối đầu với các thách thức lớn. Đó là sự cạnh tranh quyết liệt trên cả 3 cấp độ do hàng rào bảo hộ bị dỡ bỏ, do phải thực hiện chế độ đãi ngộ tối huệ quốc và đối xử quốc gia nên các sản phẩm của Việt Nam phải cạnh tranh bình đẳng với các sản phẩm nước khác (đặc biệt là sản phẩm dệt may của Trung Quốc, sản phẩm có tính cạnh tranh cao nhất trên thế giới) không chỉ trên thị trường thế giới và ngay cả trên thị trường nội địa.
Những chi tiết cụ thể về thực trạng chất lượng tăng trưởng ngành Dệt May Việt Nam sẽ được phân tích rõ ở chương sau, nhưng có thể thấy rõ ràng một điều là quá trình phát triển của ngành Dệt May Việt Nam còn quá nhiều hạn chế. Vì vậy để có thể tồn tại và phát triển được trong bối cảnh trong nước và quốc tế hiện nay, ngành cần bám sát thị trường nội địa và thị trường xuất khẩt, tâp trung đổi mới thiết bị công nghệ, đào tạo cán bộ quản lý, kỹ thuật, công nhân lành nghề…
KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT MAY.
Đài Loan
Trong số các ngành công nghiệp truyền thống, ngành dệt là một trong những ngành ra đời sớm nhất ở Đài Loan và có tốc độ tăng trưởng cao trong những năm 1960, 1970. Trong những năm đầu của thập kỷ 80, khoảng 70% các sản phẩm dệt sản xuất ở Đài Loan được xuất khẩu. Từ năm 1987, Đài Loan chỉ đứng thứ hai sau Hoa Kỳ về sản xuất sợi tổng hợp. Năm 1990, khối lượng sợi tổng hợp sản xuất đạt 1,43 triệu tấn trong khi công suất thực tế là 1,85 triệu tấn. Khối lượng sợi tổng hợp chiếm 19% tổng giá trị sản lượng của ngành dệt trong năm 1990.
Trong ngành dệt, dệt sợi bông lại là một ngành được thành lập sớm nhất và phát triển rực rỡ nhất ở Đài Loan trong thập kỷ 60. Tuy nhiên hiện nay hầu như 100% khối lượng bông sử dụng ở Đài Loan đều phải nhập khẩu. Năm 1990, giá trị sản lượng của dệt sợi bông đạt 61,7 tỷ Đài tệ (NT$), chiếm 18% tổng giá trị sản lượng của ngành dệt.
May mặc cũng là một ngành phát triển khá mạnh. Năm 1990, ngành may mặc đã sản xuất khối lượng hàng trị giá 145,5 tỷ Đài tệ, tương đương 34% giá trị sản lượng của cả ngành dệt.
Cũng như nhiều ngành công nghiệp truyền thống khác, khối lượng sản xuất và giá trị thực hiện của ngành dệt chịu tác động của sự tăng giá đồng Đài tệ mới (NT$), tình trạng thiếu hụt và tăng giá nhân công, tăng chi phí bảo vệ môi trường…Do vậy khối lượng sản xuất và giá trị xuất khẩu của ngành giảm đáng kể trong những năm gần đây. Năm 1993, giá trị sản lượng của ngành dệt chỉ đạt 19,5 tỷ USD, giảm 7,4% so với năm trước. Trong khi đó sản xuất các sản phẩm từ sợi bông chỉ tăng dưới 1% đạt tổng giá trị 2,1 tỷ USD. Nguyên nhân là do các nước cung cấp sợi bông chính cho Đài Loan như Pakixtan, Indonexia, Trung Hoa lục địa đã giảm mạnh lượng xuất khẩu của họ, do vậy giá sợi bông trên thị trường thế giới gia tăng.
Ngành may mặc của Đài Loan vốn đứng đầu trong danh mục các ngành có khối lượng xuất khẩu cao trong năm 1962 thì đến năm 1993 có khối lượng giá trị sản phẩm chỉ đạt 2,8 tỷ USD, giảm 12% so với năm 1992. Hiện nay Mỹ là thị trường tiêu thụ hàng may mặc lớn nhất của Đài Loan.
Hàn Quốc
Với nhiệm vụ ban đầu là nhanh chóng đưa Hàn Quốc lên vị trí nước xuất khẩu lớn hàng đầu thế giới, công nghiệp dệt và may mặc của nước này bắt đầu có triển vọng ở thị trường bảo hộ mậu dịch trong nước vào những năm 50 va đạt tới mức phát triển cao vào những năm 60 và 70. Từ 1962 đến 1975, ngành công nghiệp này đã tăng trưởng với mức độ phi thường, 16% mỗi năm, phần lớn nhờ việc đẩy mạnh xuất khẩu. Đến khoảng năm 1971 nó đã đạt tới đỉnh điểm phát triển, tính ra là 53% tổng số hàng hoá xuất khẩu với trị giá 1 tỷ USD. Trong những năm 70, tốc độ tăng trưởng còn phi thường hơn, đạt tốc độ 20%/năm, mặc dầu xuất khẩu hàng dệt và may mặc bắt đầu xuống dốc, chỉ chiếm được một phần nhỏ trong tổng số hàng xuất khẩu. Cho đến đầu thập kỷ 80, ngành công nghiệp này bắt đầu rơi vào khủng hoảng với mức tăng trưởng nhỏ giọt là 5% từ 1979 đến 1984.
Vào năm 1988, mặc dù hàng điện tử đã vượt hàng dệt và hàng may mặc như một mặt hàng được xuất khẩu nhiều nhất, công nghiệp dệt và may mặc vẫn tiếp tục là một thành phần kinh tế chủ chốt dù đã suy yếu. Hiện nay nó chiếm ¼ tổng giá trị xuất khẩu của Hàn Quốc, và vào giữa những năm 80 nó đã tạo ra việc làm cho khoảng 783.000 người trong số 3,3 triệu lao động, tạo ra một thành phần kinh tế phi nông nghiệp độc lập lớn nhất. Bất chấp chế độ bảo hộ nền công nghiệp nội địa đang tăng lên ở các thị trường chính trong nước, Hàn Quốc vẫn đứng thứ ba trong số các nước xuất khẩu hàng dệt lớn nhất thế giới sau Italia và cộng hoà liên bang Đức, cung cấp 9% sản lượng hàng dệt của thế giới. Các thị trường lớn nhất của ngành công nghiệp này là Mỹ và Nhật Bản, theo tính toán, số hàng xuất sang Mỹ chiếm 37%, hàng xuất khẩu sang Nhật chiếm tới 14%.
Kể từ khi xuất hiện, các tập đoàn tư bản hàng đầu của Hàn Quốc đã bắt đầu sản xuất hàng dệt và sử dụng lợi nhuận từ ngành dệt để mở rộng sang các công việc đòi hỏi tập trung nhiều vốn hơn và mạo hiểm hơn. Đây là một hướng đi thành công của các tập đoàn Hàn Quốc mà hình mẫu nổi bật là tập đoàn Daewoo. Kết quả mà tập đoàn Daewoo đạt được là chiếm được những cổ phần lớn ở thị trường dệt của Mỹ và vươn xa hơn nữa tới các thị trường Châu Âu với các sản phẩm chất lượng. Những khoản tiền thu được từ việc kinh doanh của ngành dệt cho phép tập đoàn này đạt được những thành công mới trong công cuộc bành trướng sang các khu vực kinh doanh chiến lược và sang các sản phẩm tiêu dùng khác.
Mặc dù vậy, bất chấp sự chi phối của công việc kinh doanh lớn, trong ngành dệt và may mặc vẫn còn nhiều chỗ hơn cho các nhà sản xuất vừa và nhỏ so với các ngành công nghiệp khác. Trong ngành này, các hãng sản xuất lớn sản xuất hàng cho các thị trường nước ngoài, còn các cơ sở kinh doanh nhỏ hơn thì cung cấp cho thị trường nội địa và đôi khi tự ký hợp đồng phụ với các công ty lớn này. Người ta gọi hình thức sản xuất này là “kết cấu kép”. Các công ty nhỏ hơn chắc chắn tồn tại được là nhờ nguồn lao động rẻ chưa được khai thác hết mức. Chỉ riêng nguồn nhân công rẻ và chưa được khai thác triệt để này trong suốt những năm phát triển của nó (1970-1982) làm cho tiền công trung bình trong ngành công nghiệp may mặc chỉ chiếm 70% giá tiền nhân công trung bình trong các ngành khác.
Tuy nhiên trong thời gian gần đây, công nghiệp dệt và may mặc của Hàn Quốc cũng chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng sâu sắc do sự kết hợp của 3 yếu tố: chế độ bảo hộ gay gắt nền công nghiệp trong nước, sự cạnh tranh quyết liệt từ các nước thuộc Thế giới thứ ba với lợi thế về nguồn nhân công tương đối rẻ, và công cuộc tự động hoá rất hữu hiệu của công nghiệp dệt và may mặc của các nước công nghiệp tiên tiến.
nayy loanh nhoie
Nhật Bản
Ngành kinh tế nổi bật trong thời kỳ 1886-1911 của Nhật Bản là công nghiệp dệt bông. Vào giữa những năm 1880, sợi xe bằng máy vẫn chỉ chiếm một phần nhỏ. Tuy vậy, ngay sau khi các nhà máy xe sợi quy mô lớn được thiết lập, việc xe sợi bằng tay đã dần dần mất đi. Nhiệm vụ tiếp theo là thủ tiêu việc nhập khẩu. Năm 1891, Nhật Bản bắt đầu xuất khẩu sang Trung Quốc, và tiếp đó năm 1897, lần đầu tiên xuất khẩu đã vượt nhập khẩu. Vào cuối thời kỳ này, ngành xe sợi đã được thiết lập vững chắc như một ngành công nghiệp xuất khẩu. Hơn nữa việc xây dựng một nhà máy xe sợi Nhật Bản ở Thượng Hải vào năm 1911 đã báo trước tầm quan trọng ngày càng tăng của đầu tư nước ngoài.
Cho đến năm 1909, việc thay thế vải bông nhập khẩu đã diễn ra chậm chạp. Có lẽ do tình trạng thô sơ của máy dệt có động cơ, nên máy dệt tay vẫn còn quan trọng cho đến lúc đó. Tuy vậy, để cạnh tranh với vải nhập khẩu, cần phải chuyển sang sản xuất bằng máy. Những ngày quay tơ trong ngành dệt là những người đầu tiên tiến hành sản xuất bằng máy. Vào những năm 1890, một số người đã bắt đầu xuất khẩu sang Trung Quốc. Sản xuất bằng máy vẫn không tăng nhanh cho đến năm 1905, nhưng khi tiền lương cao hơn nhờ sự tăng trưởng trước đó, và nguồn cung cấp điện tốt hơn đã bắt đầu khuyến khích những người dệt bằng tay quy mô nhỏ cũng chuyển sang dung máy dệt có động cơ. Sau đó, cả sản lượng lẫn xuất khẩu đều tăng lên nhanh chóng, nhập khẩu giảm mạnh.
Một trong những đặc điểm có ý nghĩa nhất của công nghiệp dệt là khả năng phục hồi nhanh chóng của nó. Việc mở cửa buôn bán với phương Tây vào giữa thế kỷ XIX đã giáng một đòn nặng nề vào ngành công nghiệp dệt truyền thống của Nhật Bản, những ngành công nghiệp này đã không chịu khuất phục trước thách thức của hang nhập khẩu. Bằng cách áp dụng kỹ thuật mới, nó đã dần dần khôi phục được địa vị ở thị trường trong nước, và cuối cùng đã thành công trong việc loại dần các hang nhập khẩu mà không cần phải bảo hộ mậu dịch. Chỉ riêng thực tế này thôi cũng đã rất đáng chú ý, nhưng đáng chú ý hơn là ngành công nghiệp dệt Nhật Bản đã tự củng cố như là một ngành công nghiệp xuất khẩu ngay sau khi hoàn thành việc thay thế nhập khẩu.
Thời kỳ 1912 – 1936 sản xuất vải bông đã tăng lên nhanh chóng và vươn lên là một trong những trung tâm sản xuất dệt của thế giới. Đây là thời kỳ vinh quang nhất trong lịch sử ngành công nghiệp dệt bông của Nhật Bản. Vải tơ cũng đã trở thành một mặt hàng xuất khẩu quan trọng vì phần tơ sống được sản xuất ra bắt đầu được dệt và xuất khẩu dưới hình thức vải. Vào những năm 1930, xuất khẩu quần áo và vải tơ nhân tạo đã mở rộng nhanh chóng. Vào giữa những năm 1930, các sản phẩm của ngành công nghiệp nhẹ đã bắt đầu chi phối xuất khẩu của Nhật Bản. Nhờ nhu cầu xuất khẩu tăng lên nên sản xuất sợi đã tăng 3,2 lần, vải bông tăng 6,2 lần, vải tơ 8,6 lần và toàn bộ ngành công nghiệp nhẹ 3,6 lần.
Những bài học kinh nghiệm rút ra cho ngành Dệt May Việt Nam
Một là, ngành Dệt May đóng vai trò là ngành đi tiên phong trong quá trình công nghiệp hoá. Đây là ngành có thể giải quyết được một khối lượng lớn công ăn việc làm, lại không đòi hỏi lao động phải có trình độ cao. Ngành Dệt May sản xuất ra những mặt hàng thiết yếu cho con người, một mặt đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, đồng thời được xuất khẩu để thu về ngoại tệ, góp phần tích luỹ cho phát triển. Hơn thế nữa ngành này không đòi hỏi quá nhiều vốn, do vậy mang lại rất nhiều thuận lợi trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thứ hai là bài học về sản xuất nguyên liệu đầu vào cho ngành dệt may. Hầu hết trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, ngành dệt may của tất cả các nước đều phải nhập khẩu nguyên liệu, đặc biệt là nguyên liệu cho ngành dệt. Nó phản ánh quy luật tất yếu của quá trình phát triển. Tuy nhiên nếu kéo dài tình trạng này thì ngành dệt may các nước sẽ rất bị động trong sản xuất và kinh doanh, giá trị gia tăng sẽ không nhiều dù cho xuất khẩu cao như thế nào. Từ đòi hỏi cấp bách này, các nước đã nhanh chóng tiến hành thay thế nhập khẩu, hướng ra xuất khẩu bằng cách quan tâm nhiều hơn đến phát triển các vùng nguyên phụ liệu. Việc đảm bảo nguyên liệu đầu vào là một nhân tố hết sức quan trọng cho sự phát triển ổn định, bền vững và hiệu quả của ngành dệt may.
Thứ ba là bài học về áp dụng công nghệ tiên tiến, một bài học không thể phủ nhận, đặc biệt trong thời đại của khoa học và công nghệ như hiện nay. Nhật Bản là một điển hình cho sự tăng trưởng vượt bậc và chắc chắn nhờ áp dụng khoa học công nghệ. Thành tựu thần kỳ được cả thế giới ngưỡng mộ của Nhật Bản bắt nguồn từ khả năng áp dụng nhanh chóng các công nghệ vào tất cả các khâu của quá trình sản xuất và kinh doanh. Nhờ vậy Nhật Bản luôn đi trước các nước khác về số lượng, chất lượng cũng như mẫu mã sản phẩm.
Ngành công nghiệp dệt may là ngành kinh tế phát triển nổi bật nhất của Nhật Bản trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa. Bằng việc cơ khí hoá ngành xe sợi và ngành dệt, Nhật Bản đã chiếm lĩnh được thị trường trong nước mà không cần nhờ tới bảo hộ mậu dịch. Ngành xe sợi là ngành đầu tiên có số lượng xuất khẩu vượt nhập khẩu và trở thành ngành công nghiệp xuất khẩu, sau đó ngành dệt cũng đã nhanh chóng trở thành một ngành công nghiệp xuất khẩu, góp phần làm cho ngành công nghiệp dệt may Nhật Bản tiến một bước dài trong lịch sử phát triển của mình. Nhờ đó công nghiệp dệt may Nhật Bản đã có được mức tăng trưởng vững chắc và liên tục trong một thời gian dài.
Thứ tư là có chính sách thu hút mạnh các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực sản xuất hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường EU, nhất là đối với các nhà đầu tư từ EU. Điều này sẽ tạo điều kiện cho hàng may mặc Việt Nam nâng cao khả năng cạnh tranh nhờ chất lượng cao, đa dạng mẫu mã sản phẩm và tính thời trang do các nhà đầu tư EU dễ dàng nắm bắt xu hướng tiêu dùng hàng may mặc của khách hàng EU.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG DỆT MAY VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2005
BỐI CẢNH KHÁCH QUAN TÁC ĐỘNG TỚI NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
Tình hình trong nước
Công nghiệp DMVN ra đời tương đối muộn so với các nước công nghiệp phát triển trên thế giới. Mặc dù từ rất xa xưa Việt Nam đã có những làng nghề, vùng nghề dệt may song mới chỉ dừng lại ở trình độ sản xuất thủ công, hoạt động nhỏ lẻ manh mún, mang tính tự cấp tự túc là chính.
Sau khi hoà bình được lặp lại ở miền Bắc năm 1954, Đảng và Nhà nước đã quan tâm phát triển công nghiệp DM. Vì vậy ngành DM đã nhanh chóng mở rộng lực lượng sản xuất nhằm cung ứng đủ vải mặc và các nhu cầu khác cho nhân dân và các lực lượng vũ trang. Sau khi thống nhất đất nước, ngành DMVN đã tiếp quản toàn bộ các nhà máy, xí nghiệp Dệt – May phía Nam và tiếp tục xây dựng nhiều nhà máy lớn trên phạm vi cả nước. Cùng với sự phát triển của các ngành công nghiệp trong cả nước, công nghiệp DMVN đã phát triển nhanh chóng cả về số lượng lẫn năng lực sản xuất.
Để thực hiện chức năng làm đầu mối quản lý nhà nước theo ngành chuyên môn hoá, cơ quan được Nhà nước giao nhiệm vụ đối với ngành dệt là Tổng công ty dệt Việt Nam, đối với ngành may là Liên hiệp sản xuất nhập khẩu may. Tổng công ty dệt Việt Nam (TEXTIMEX) được thành lập theo quyết định số 149-Cnn/TCLĐ ngày 4/3/1993 của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ (nay là Bộ Công nghiệp) về việc chuyển đổi tổ chức và hoạt động của Liên hiệp sản xuất và xuất nhập khẩu dệt thành công ty dệt Việt Nam. Liên hiệp sản xuất xuất nhập khẩu may (CONFECTIMEX) được thành lập theo quyết định số 518-Cnn/TCLĐ ngày 29/12/1989 của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ (nay là Bộ Công nghiệp) về việc thành lập Liên hiệp sản xuất - Xuất nhập khẩu may trực thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ.
Đầu những năm 90, Liên Xô và các một loạt các nước xã hội chủ nghĩa tan rã khiến ngành dệt may nước ta gặp nhiều khó khăn bởi những nước này là đối tác kinh doanh truyền thống cũng như là nguồn giúp đỡ về kỹ thuật và vốn cho DMVN. Tuy qui mô công suất thiết bị đã tăng lên nhanh chóng trong thời kỳ kế hoạch hoá nhưng chỉ mới làm ra được những sản phẩm trung bình và thấp nên khi chuyển qua cơ chế thị trường phải cạnh tranh khốc liệt, ngành DMVN đứng trước vô vàn những khó khăn.
Từ năm 1991 cho đến nay, ngành DMVN đã có những thay đổi căn bản từ nhận thức đến hoạt động thực tiễn, từ thiết bị công nghệ đến sản phẩm. Từ chỗ chỉ lo sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong nước và thực hiện một phần theo nghị định thư với Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu; đầu vào và đầu ra do Nhà nước quyết định nhưng sau khi chuyển sang cơ chế thị trường các doanh nghiệp phải làm từ việc chọn mua nguyên vật liệu, tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, tự định đoạt giá mua, giá bán…Bước sang thế kỷ 21, đứng trước yêu cầu phải đổi mới thiết bị công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, từng bước mở rộng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước, phải đổi mới cơ cấu tổ chức, sắp xếp lại theo hướng liên kết các đơn vị trong ngành nhằm tạo sức mạnh tổng hợp để tạo ra thế và lực trong cạnh tranh và phát triển, Chính phủ quyết định thành lập Tổng công ty Dệt – May Việt Nam. Tổng công ty có tên giao dịch là Việt Nam National TEXTILE and GAMENT Coporation (VINATEX). Tổng công ty Dệt May Việt Nam là một trong số các Tổng công ty Nhà nước có mô hình tổ chức và hoạt động theo quyết định số 91/TTG ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ. Tổng công ty Dệt May Việt Nam được thành lập với mục đích tăng cường tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao; nâng cao khả năng và hiệu quả kinh doanh của các đơn vị thành viên và của toàn Tổng công ty; đáp ứng nhu cầu thị trường.
Ngày 8/12/2005, Tổng công ty DMVN đã tổ chức lễ công bố Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Tập đoàn Dệt may Việt Nam (VINATEX). Với Quyết định này, từ một tổng công ty có trên 60 đơn vị thành viên và công ty liên kết, VINATEX trở thành một tập đoàn có trên 10 công ty mẹ-con, công ty 100% vốn nhà nước, công ty TNHHNN một thành viên và công ty cổ phần. Mục tiêu của Tập đoàn Dệt May Việt Nam là trở thành một tập đoàn đa sở hữu hàng đầu cả về quy mô sản xuất kinh doanh lẫn sức cạnh tranh sản phẩm trong khu vực châu Á với kim ngạch xuất khẩu đạt 2,5 tỷ vào năm 2010 và 3,5 tỷ vào năm 2015. Việc Chính phủ ra quyết định thành lập Tập đoàn Dệt May thể hiện tính quy mô của tập đoàn và tạo cơ sở pháp lý vững chắc để VINATEX hoạt động, tăng cường sức mạnh liên kết trong toàn hệ thống và phát huy vai trò nòng cốt hạt nhân vào sự phát triển của toàn ngành.
Tình hình hội nhập kinh tế quốc tế trong ngành công nghiệp DMVN
Hội nhập AFTA
Từ ngày 1 tháng 1 năm 2000 tiến trình hội nhập AFTA của hàng Dệt May Việt Nam đã bắt đầu thực hiện, mức thuế thu nhập cho sợi còn 15%, vải còn 30% và may mặc còn 35%. Đến ngày 1 tháng 1 năm 2006, với việc Việt Nam tham gia hoàn toàn vào tổ chức AFTA, sẽ cắt bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan đối với hàng Dệt May nhập khẩu vào Việt Nam, mức bảo hộ hàng Dệt May Việt Nam sẽ dần giảm xuống còn bằng không. Như vậy hàng Dệt May Việt Nam sẽ bị cạnh tranh gay gắt ngay tại thị trường nội địa.¬
Bảng 1: Lộ trình giảm thuế hàng Dệt May Việt Nam
Đơn vị %
Hàng hoá
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Tơ sống (chưa xe)
5
5
5
5
5
5
Vải dệt thoi từ tơ
20
20
20
15
10
5
Lông cừu
0
0
0
0
0
0
Sợi tư lông cừu
15
10
10
5
5
5
Bông
0
0
0
0
0
0
Sợi bông (>85%)
10
10
5
5
5
5
Vải dệt thoi từ bông
40
40
20
15
10
5
Sợi lanh
3
3
3
3
3
3
Sợi đay
10
10
5
5
5
5
Sợi phi la măng
20
20
20
15
10
5
Vải dệt thoi từ sợi philamang
40
40
20
15
10
5
Xơ staple nhân tạo
0
0
0
0
0
0
Vải dệt thoi từ xơ tổng hợp
40
40
20
15
10
5
Vải dệt kim các loại
40
40
20
15
10
5
Hàng may mặc sẵn
35
20
20
20
10
5
Nguồn: Viện Chiến lược, chính sách công nghiệp - Bộ Công nghiệp
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết đã tạo cơ hội cho Việt Nam trong việc đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Mỹ, đồng thời cũng tạo điều kiện cho các nhà đầu tư Mỹ hoạt động trên thị trường Việt Nam tiếp cận tới nguồn đầu tư của Mỹ, như nguồn vốn EXIM Bank, để mở rộng đầu tư…Mặt khác, các tổ chức hỗ trợ của Mỹ cũng sẽ có điều kiện đẩy mạnh các hoạt động của mình trên lãnh thổ Việt Nam trong việc hỗ trợ sản xuất – kinh doanh.
Tuy vậy, bên cạnh cơ hội, thuận lợi vẫn có những thách thức. Cơ hội là như nhau đối với tất cả các nước, các công ty đã có hiệp định thương mại với Mỹ đang hoạt động trên thị trường Mỹ. Như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ hoạt động trên cùng một mặt bằng với các doanh nghiệp khác ở thị trường này. Điều này có nghĩa là việc tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, sẽ có ý nghĩa quyết định trong việc tận dụng các cơ hội Hiệp định song phương Viêt - Mỹ tạo ra.
Hội nhập Tổ chức Thương mại quốc tế WTO
WTO là một tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu, chiếm hơn 90% thương mại ._.ài việc củng cố và mở rộng những thị trường truyền thống, cần có các giải pháp khuyến khích các thành phần kinh tế kể cả tư nhân trong các hoạt động phát triển thị trường. Tổ chức và hỗ trợ thành lập các trung tâm tiếp thị tìm kiếm thị trường tiêu thụ và đối tượng cung cấp sản phẩm hỗ trợ trong và ngoài nước, làm cầu nối giữa các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau, đặc biệt là giữa các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp nội địa. Đồng thời hạn chế sử dụng các biện pháp hành chính để điều tiết dung lượng thị trường nội địa, nâng cao sức mua của thị trường nội địa để phát triển sản xuất chính và cũng là gián tiếp phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện các cơ sở giao thông, vận tải như các bến cảng, sân bay, đường sắt, đường bộ, giao thông đô thị, hình thành các kho tàng, điểm tập trung hàng hoá ở các vùng Kinh tế trọng điểm để gia tăng điều kiện hỗ trợ phát triển công nghiệp. Ưu tiên và ưu đãi việc xây dựng một số khu, cụm công nghiệp hỗ trợ ở các vùng kinh tế trọng điểm với mục tiêu để các dự án công nghiệp hỗ trợ nằm trong các khu, cụm công nghiệp này sẽ được ưu tiên, ưu đãi về thuế, tiền thuê đất và các dịch vụ khác với mức hấp dẫn cao hơn so với ở nơi khác.
Giải pháp về thiết bị và công nghệ
Tiếp tục duy trì thiết bị, công nghệ sử dụng nhiều lao động nhằm tận dụng ưu thế về nguồn lao động của Việt Nam.
Trong thời gian vừa qua, ngành Dệt – May đã thực hiện đầu tư công nghệ theo chính sách “ hai tầng”: tầng đầu tư vốn và tầng nhiều lao động. Bên cạnh việc đầu tư mới các thiết bị công nghệ hiện đại nhằm sản xuất các mặt hàng chất lượng cao, ngành vẫn duy trì thiết bị công nghệ cũ. Không những thế, trong những năm khủng hoảng kinh tế khu vực, do nhiều doanh nghiệp nước ngoài lâm vào tình trạng phá sản nên Việt Nam đã mua được một số thiết bị công nghệ second – hand với giá rẻ nhưng vẫn sử dụng tốt.
Trong những năm tới, chính sách này của ngành Dệt – May nên tiếp tục được thực hiện. Chúng ta không có đủ nguồn vốn để có thể đầu tư mới đồng loạt các thiết bị công nghệ tiên tiến. Việc đào tạo cán bộ, công nhân để tiếp thu công nghệ mới và sử dụng có hiệu quả các thiết bị cũng không thể thực hiện ngay được. Mặt khác các thiết bị cũ vẫn còn sử dụng được, nếu loại bỏ sẽ vô cùng lãng phí, nó còn góp phần giải quyết việc làm rất hữu hiệu. Tất nhiên, việc đầu tư thiết bị và công nghệ mới là rất cần thiết nhưng nó sẽ được thực hiện từ từ, đồng thời với việc thanh lý các thiết bị công nghệ quá cũ không thể sử dụng được nữa.
Đầu tư công nghệ mới nhằm đáp ứng những đòi hỏi của thị trường.
Nhờ công nghệ cao, ngành Dệt – May đã sản xuất được những mặt hàng cao cấp. Tuy nhiên, lượng mặt hàng này chưa nhiều, mới chiếm tỷ lệ khoảng 20 – 25%, còn lại khoảng 75-80% giá trị xuất khẩu là các mặt hàng cấp thấp và xuất dưới hình thức gia công là chủ yếu.
Giá các sản phẩm gia công trong những năm qua thường thấp, trong khi giá máy móc, thiết bị phụ tùng, hoá chất, thuốc nhuộm, phụ liệu may mặc… lại cao. Sự cố gắng đạt được cán cân thương mại thông qua xuất khẩu hàng hoá trong tình hình tiềm lực công nghệ của ngành Dệt – May nước ta không cao (thiếu kỹ năng cần thiết để xác định và đánh giá công nghệ nhập) nên rất dễ bị “ lép vế ” trong đàm phán mua bán công nghệ, dễ gặp rủi ro khi nhập công nghệ không phù hợp.
Vì vậy đối với ngành Dệt – May nước ta, việc nhập công nghệ không thể thay thế và việc tự tạo công nghệ là hai vấn đề song song cần làm. Trong quá trình chuyển giao các công nghệ mới cần chú ý:
Lựa chọn kỹ càng công nghệ nhập
Cần chủ động lập kế hoạch nhập khẩu công nghệ theo đòi hỏi của sản xuất.
Tự tìm kiếm thiết bị công nghệ kết hợp với sự giới thiệu của các hãng nước ngoài khi nhập công nghệ.
Nhập công nghệ về cần phải chú ý tới tính đồng bộ để phát huy hiệu quả sản xuất tối đa (giữa các công nghệ nhập, giữa công nghệ nhập với công nghệ đang sử dụng).
Tạo đủ điều kiện, tiền đề cần thiết trước khi nhập thiết bị công nghệ (cơ sở hạ tầng, vốn, lao động…), tránh tình trạng thiết bị công nghệ nhập về đắp chiếu nằm chờ được đưa vào sử dụng.
Nhập những thiết bị công nghệ với khoảng cách không quá xa về trình độ so với công nghệ của ngành hiện tại, nếu không sẽ rất khó duy trì và mở rộng. Trong khi nền kinh tế nước ta còn kém phát triển thì việc nhập khẩu thiết bị công nghệ quá cao thường vượt quá khả năng sử dụng khiến hiệu quả đầu tư thấp.
Tổ chức cơ quan kiểm tra, giám sát công nghệ nhập cho toàn ngành.
Thực hiện “đồng hoá” công nghệ nhập
Các máy móc nhập về cần được duy trì sản xuất hàng ngày ( gồm vận hành và bảo dưỡng định kỳ).
Tự thiết kế, chế tạo những phụ tùng hay hỏng nếu có thể.
Phát huy hết công suất của thiết bị nhập về.
Những năm trước đây, ngành Dệt – May Việt Nam đã từng thực hiện một số bước “đồng hoá” công nghệ nhập thành công. Đó là việc ngành tự chế tạo được một phần lớn phụ tùng cho máy dệt 1511M của Trung Quốc và máy dệt Sakamoto của Nhật. Một số nhà máy đã cải tiến bộ lăng trụ máy dệt khăn mặt, cải tiến máy dệt khổ hẹp thành máy dệt khổ rộng.
Ngành cũng đã tự chế tạo được một số máy ở một số công đoạn: máy xe sợi len, máy sản xuất dây go, máy sản xuất khổ dệt, máy hồ mắc, máy dệt kiểu 1511M, máy dệ kiểu Sakamoto, máy dệt to, máy dệt khăn mặt, máy kiểm vải, máy tẩy nhuộm BC-3, máy dập nút đồng, máy hồ cổ áo, máy xé khổ, máy cắt vòng…Tuy nhiên, lượng máy này không nhiều (chỉ chiếm khoảng 2,4%) lại mới chỉ chế tạo theo loại hình đơn chiếc.
Các máy móc dù là nhập về hay tự chế tạo đều phải mang tính ứng dụng cao. Nó phải tạo ra những sản phẩm không chỉ để xuất khẩu mà còn đáp ứng được thị trường trong nước.
Coi trọng phần mềm trong phát triển công nghệ.
Tăng cường phần thông tin sẽ cho phép hiểu thấu đáo thiết bị và giúp con người sử dụng nó một cách có hiệu quả. Có làm chủ được kỹ thuật mới, sử dụng một cách thành thạo thì từ đó mới nảy ra các sáng chế, cải tiến được.
Bởi vậy khi tiếp nhận máy móc cần phải tiếp nhận cả kiến thức và kinh nghiệm của bên giao. Tất nhiên khi tiếp nhận máy móc, thiết bị ta biết cách vận hành và bảo trì chúng theo đúng quy trình. Nhưng như thế vẫn chưa đủ, việc chuyển giao công nghệ mới chỉ là chuyển giao năng lực vận hành và bảo dưỡng các hệ thống sản xuất chứ chưa thể có năng lực thiết lập hoặc mở rộng hệ thống sản xuất, chưa thể phát triển các mặt hàng và quy trình sản xuất.
Việc tiếp nhận công nghệ đầy đủ nhiều khi rất tốn kém nếu mua trực tiếp từ bên giao ngoài hợp đồng mua thiết bị. Ngành có thể thực hiện nhiều cách khác rẻ hơn như mua tư liệu về tự nghiên cứu, thuê chuyên gia đào tạo cán bộ, công nhân về các lĩnh vực cần thiết, về phần tổ chức quản lý có thể đi tham quan khảo sát nước ngoài.
Việc tiếp nhận công nghệ có thể thực hiện dưới nhiều hình thức như mua, nhận viện trợ, nhận công nghệ cùng nguyên liệu làm gia công sản phẩm cho các công ty nước ngoài, chuyển giao bằng hình thức liên doanh…Trong nước cũng cần thực hiện chuyển giao công nghệ với mọi thành phần kinh tế. Điều đó có nghĩa là những thiết bị công nghệ được thay thế ở khu vực doanh nghiệp Nhà nước nên chuyển giao lại cho các cơ sở sản xuất ngoài quốc doanh, đặc biệt là các cơ sở sản xuất tư nhân. Với tính năng động vốn có, các doanh nghiệp tư nhân thường thành công trong việc cải tiến các thiết bị cũ và đưa vào hoạt động sản xuất một cách hiệu quả.
Bên cạnh đó ngành Dệt – May cũng cần chú ý tạo ra công nghệ nội sinh bằng cách:
Tự thiết kế lấy máy móc để phát triển sản xuất ( trừ trường hợp máy làm ra đắt hơn máy nhập khẩu), cải tiến, nâng cao năng suất máy cho phù hợp với điều kiện Việt Nam và phù hợp với đặc trưng của thị trường.
Khuyến khích tạo ra các bí quyết sản xuất những mặt hàng mới.
Ngoài ra còn một số giải pháp khác đối với việc đầu tư phát triển công nghệ:
Tăng cường các viện nghiên cứu.
Tập trung vốn nghiên cứu ứng dụng và phát triển các công nghệ đã được chuyển giao.
Tổ chức hệ thống thông tin kinh tế - xã hội công nghệ ngành Dệt – May
Xây dựng kho thông tin khoa học công nghệ ngành Dệt – May.
Tăng cường các trường đào tạo, đẩy mạnh liên kết giữa ngành Dệt – May với các trường đào tạo.
Củng cố đầu tư trang thiết bị, đầu tư chất xám cho các nhà máy cơ khí trong ngành.
Hình thành thị trường công nghệ dệt may và có các chính sách khuyến khích phát triển thị trường công nghệ Dệt – May.
Giải pháp về nguồn nhân lực
Nhân lực là nền tảng của tăng trưởng. Kinh nghiệm của các quốc gia phát triển trên thế giới đã chỉ rõ điều đó. Ngành dệt may có lực lượng lao động dồi dào, giá rẻ nhưng năng suất lao động còn thấp. Hàng triệu lao động nhưng chủ yếu là tự đào tạo, thiếu bài bản nên tình trạng thiếu lao động có tay nghề tiếp tục phổ biến. Số lượng công nhân có tay nghề cao còn thấp, số cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật được đào tạo đúng với thực tiễn càng hiếm hơn. Các cơ sở đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp. Vì vậy tăng cường đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn lao động là chiến lược lâu dài để nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành dệt may.
Để đáp ứng yêu cầu của khách hàng về chất lượng sản phẩm, thời gian giao hàng và để tăng năng suất thì việc trang bị các kỹ năng quản lý là rất cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Cán bộ quản lý kinh tế - kỹ thuật cần thường xuyên được bồi dưỡng và sát hạch nghiệp vụ; áp dụng các kỹ năng quản lý tiên tiến để nâng cao hiệu quả quản lý ở các doanh nghiệp dệt may.
Cung cấp các khoá đào tạo về kỹ năng bán hàng. Đào tạo các chuyên gia marketing ( bao gồm các kỹ năng thiết kế, làm mẫu, bán hàng ) là rất quan trọng đối với các nhà máy sản xuất hàng may mặc ở Việt Nam để tăng giá trị gia tăng.
Đối với khâu thiết kế sản phẩm: Đây là khâu yếu của ngành dệt may Việt Nam. Đội ngũ các nhà thiết kế mẫu, mốt mới được đào tạo trong những năm gần đây và còn ít kinh nghiệm thực tế. Để nhanh chóng nắm bắt với trình độ quốc tế, cần tập trung đầu tư mạnh cho đội ngũ thiết kế cả trình độ kiến thức và cơ sở vật chất cho thực hành, đẩy mạnh các hoạt động giao lưu cả trong và ngoài nước để học hỏi và trao đổi kinh nghiệm.
Mở rộng hệ thống đào tạo chuyên ngành dệt may. Xây dựng mới trường đào tạo cán bộ quản lý kinh tế - kỹ thuật chuyên ngành dệt may với các nội dung tập trung cho quản lý sản xuất, quản lý chất lượng, phát triển sản phẩm, thương hiệu và kỹ thuật bán hàng v.v…Việc thiết lập và đưa vào hoạt động tổ chức đào tạo mới này phải căn cứ trên cơ sở các yêu cầu và tiềm năng trong tương lai, trong đó giải quyết các vấn đề khó khăn trong hệ thống đào tạo: thiếu tài liệu về quản lý trong lĩnh vực dệt may; đào tạo những chuyên gia đào tạo; bổ sung các thiết bị đào tạo.
Đối với người lao động: cần được quan tâm để không ngừng nâng cao tay nghề, đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của thị trường cả trong và ngoài nước; đẩy mạnh hoạt động đào tạo công nhân lành nghề trong từng lĩnh vực trong dây chuyền sản xuất; cải thiện điều kiện làm việc và nâng cao thu nhập cho người lao động.
Khuyến khích các doanh nghiệp lớn tổ chức các trung tâm đào tạo để tự đào tạo lực lượng lao động cho doanh nghiệp mình và các doanh nghiệp cùng ngành nghề khác trong khu vực.
Bên cạnh đó, để mở rộng thị trường xuất khẩu cần đào tạo những chuyên gia pháp luật những người có khả năng am hiểu kinh doanh quốc tế, có đầy đủ trình độ để tư vấn và hỗ trợ trong hợp tác và kinh doanh quốc tế (am hiểu về khung pháp luật, đặc biệt các luật của Mỹ như luật bản quyền, luật chống phá giá, luật chống độc quyền, luật bảo vệ người tiêu dùng, các quy định về an toàn sản phẩm, bảo vệ môi trường và hải quan…)
Hợp tác với các đơn vị, trường học trong và ngoài nước để thường xuyên tổ chức các khoá đào tạo những kỹ sư chuyên ngành, công nhân kỹ thuật để bổ sung cho nguồn nhân lực hiện tại và cung cấp nhân lực cho các khu công nghiệp dệt may.
Thực trạng thiếu nguồn cung cấp cán bộ kỹ thuật, kỹ sư công nghệ sản xuất trong lĩnh vực sợi - dệt - nhuộm cho các doanh nghiệp cũng lỹ giải cho khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam thời gian qua. Do đó cần đẩy mạnh việc đào tạo kỹ sư, công nhân trong lĩnh vực sợi - dệt - nhuộm. Phối hợp với các trường đại học để có chương trình đào tạo phù hợp với những dự án đầu tư theo chiều sâu. Các doanh nghiệp và trường cần có chính sách khuyến khích sinh viên theo học các ngành thuộc lĩnh vực dệt may ( công nghiệp sợi, dệt, nhuộm, hoá…) và chú trọng phát triển đội ngũ thiết kế thời trang.
Hợp tác với nước ngoài mở trường đào tạo kỹ sư, nhà thiết kế, công nhân lành nghề cho ngành dệt may. Bên cạnh đó cần đầu tư nâng cao khả năng đào tạo, cơ sở vật chất cho giảng dạy và thực hành.
Ngoài những chính sách về đào tạo, nâng cao tay nghề cho người lao động, vấn đề ổn định, chăm lo và cải thiện đời sống công nhân qua cơ chế lương thưởng cũng là một vấn đề quan trọng không chỉ tạo cơ hội cho người lao động nâng cao năng suất lao động của bản thân mà còn tạo sự gắn kết lâu dài giữa người lao động với doanh nghiệp.
Giải pháp về vốn
Để ngành Dệt May thực hiện được các mục tiêu tăng trưởng trong giai đoạn 2006 – 2010 đòi hỏi cần phải có một lượng vốn đủ lớn, khoảng 3 tỷ USD, trong đó:
Vốn đầu tư phát triển nguyên liệu dệt: 180 triệu USD
Vốn cho các dự án dệt nhuộm: 2275 triệu USD
Vốn cho các dự án may: 443 triệu USD
Vốn cho các trung tâm thương mại dịch vụ: 14 triệu USD
Vốn cho các trung tâm nghiên cứu triển khai, đào tạo: 96 triệu USD
Việc tìm ra giải pháp huy động vốn cho đầu tư phát triển là vấn đề lớn và cấp thiết, có tính quyết định tới việc đạt mục tiêu của ngành. Các nguồn vốn quan trọng được tính đến là từ các nhà đầu tư nước ngoài, nguồn vốn vay từ các quỹ đầu tư, vốn từ sử dụng quỹ đất khi di dời và một phần vốn rất đáng kể là từ thị trường chứng khoán khi các doanh nghiệp được phát hành cổ phiếu. Các doanh nghiệp cần thực hiện các giải pháp sau để huy động vốn vào đầu tư sản xuất:
Sử dụng hiệu quả nguồn vốn tự có, vốn khấu hao để lại, vốn phát sinh từ bán hoặc cho thuê các thiết bị không sử dụng, bán giảm giá hàng hóa tồn kho, huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ cán bộ công nhân viên, người lao động.
Nghiên cứu, áp dụng hình thức phát hành trái phiếu, cổ phiếu để huy động vốn cho đầu tư phát triển. Trong 10 năm tới, thị trường chứng khoán là giải pháp quan trọng để các doanh nghiệp dệt may nói chung và doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may nói riêng huy động vốn.
Đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá sở hữu và tạo sự liên kết về vốn giữa các thành phần kinh tế thông qua cổ phần hoá, giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp ngành dệt may.
Khuyến khích, kêu gọi đầu tư cả trong và ngoài nước; kêu gọi vốn đầu tư từ các kiều bào nước ngoài.
Phát huy hiệu quả hoạt động của Công ty tài chính dệt may, tăng vốn pháp định để tăng khả năng cho các doanh nghiệp dệt may vay trung và dài hạn, đa dạng hoá khách hàng, điều chỉnh lãi suất phù hợp để huy động vốn…
Đẩy mạnh hoạt động thuê tài chính: Đây là giải pháp hấp dẫn đối với các doanh nghiệp thiếu vốn. Thuê tài chính là hình thức đầu tư tín dụng trung hạn và dài hạn bằng hiện vật đối với doanh nghiệp thiếu vốn, trên cơ sở lựa chọn các máy móc, thiết bị phù hợp với yêu cầu sử dụng của mình. Kết thúc thời gian thuê, bên thuê có thể mua lại các máy móc, thiết bị này theo thảo thuận.
Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nên phát triển uy tín, thương hiệu và chất lượng sản phẩm và dùng uy tín, thương hiệu của mình để thuê những thiết bị công nghệ nước ngoài.
Trong bối cảnh Việt Nam đang đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, các hình thức hỗ trợ, lãi suất cho vay, đối tượng nhận hỗ trợ của tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước hiện tại về cơ bản đều không phù hợp với quy định của WTO nên cần có sự điều chỉnh bổ sung, nhất là theo quy định tại Nghị định 106/2004/NĐ-CP, danh mục đối tượng được vay vốn đầu tư chỉ có hiệu lực đến 31/12/2005. Để có được sự hỗ trợ từ Nhà nước cho các dự án đầu tư trọng điểm, ngành dệt may cần sớm hoàn thành quy hoạch, qua đó cần có sự đồng ý của chính phủ về danh mục các dự án được vay vốn đầu tư.
Giải pháp về thị trường
Thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là nguồn đầu tư của quá trình sản xuất kinh doanh, thị trường là vấn đề hết sức quan trọng mang tính sống còn của các doanh nghiệp. Để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh hàng may mặc trước tiên phải nghiên cứu thị trường một cách chu đáo. Mục tiêu đầu tiên khi quyết định đầu tư vào đâu, thị trường bao giờ cũng là yếu tố nghiên cứu hàng đầu.
Thị trường trong nước
Việt Nam có số dân khoảng 80 triệu người và có thể lên đến 100 triệu người vào năm 2010, là một thị trường rất rộng lớn và đầy tiềm năng về tiêu thụ hàng dệt may. Vì vậy việc phát triển thị trường nội địa cần phải có một chiến lược phát triển lâu dài và ổn định với phương châm hàng hoá ngành Dệt May là phải đảm bảo chất lượng, số lượng, giá cả hợp lý phù hợp người tiêu dùng. Để làm được điều đó ngành Dệt May cần đổi mới công nghệ, nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm tốt, mẫu mã đẹp và đa dạng. Mặt khác, đẩy mạnh công tác quảng cáo, marketing, hoàn thiện mạng lưới bán hàng, đặc biệt ưu tiên vùng sâu vùng xa, biên giới hải đảo; mở các cửa hàng phục vụ đại chúng và siêu thị bán hàng cao cấp, thực hiện chương trình khuyến mãi, giảm giá phục vụ khách hàng để chiếm lĩnh thị trường nôi địa.
Bảo vệ thị trường trong nước thông qua các biện pháp chống gian lận thương mại, hàng giả, hàng nhập lậu. Đồng thời nghiên cứu, áp dụng các công cụ bảo vệ thị trường nội địa mà luật pháp quốc tế cho phép như các hàng rào kỹ thuật, các biện pháp vệ sinh dịch tễ, bảo vệ môi trường, thuần phong mỹ tục, an ninh quốc gia.
Thị trường nước ngoài
Mở rộng thị trường xuất khẩu là khâu đột phát trong chiến lược phát triển xuất khẩu hàng dệt may, là một trong những nhân tố quyết định sự tăng trưởng của ngành dệt may Việt Nam.
Trong thời gian tới khi Việt Nam chưa trở thành thành viên chính thức của WTO, xuất khẩu dệt may Việt Nam được mở rộng hơn nữa ra thị trường thế giới và sẽ phải đối mặt với cạnh tranh khốc liệt từ các nước xuất khẩu hàng dệt may như Ấn Độ, Pakistan, Srilanca và đặc biệt là Trung Quốc. Để nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt may nước ta trên thị trường quốc tế, cần thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ từ hạ giá thành sản xuất, đa dạng hoá kiểu dáng, mẫu mã cho tới liên kết hợp tác trong ngành, xây dựng thương hiệu, tập trung phân khúc thị trường mà Việt Nam có thế mạnh, hình thành các trung tâm giao dịch…
Để cạnh tranh và thâm nhập vào thị trường, các nhà xuất khẩu đặc biệt là Trung Quốc đã thành công trong việc giảm giá thành sản phẩm và mở rộng quy mô hoạt động. Khả năng cạnh tranh về giá thành của Việt Nam bị hạn chế bởi quy mô sản xuất không lớn, còn hạn chế, công nghệ lạc hậu, nguồn nguyên liệu phải nhập khẩu nên không thể áp dụng chính sách như Trung Quốc. Có thể thấy khả năng tiếp thị, tiếp cận thị trường bên ngoài cũng là yếu tố quan trọng để tăng thị phần xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam. Do đó, giải pháp chung để mở rộng thị trường xuất khẩu là:
Về phía doanh nghiệp: phải nắm vững và xử lý cho được những yêu cầu của từng thị trường trong tổng thể chung.
Một đặc điểm mà các doanh nghiệp Việt Nam cần phải quan tâm khi tham gia vào thị trường Hoa Kỳ là các doanh nghiệp thương mại của Mỹ chỉ nhập khẩu trọn gói các sản phẩm dệt may ( nhập theo hình thức FOB ) mà không thích nhập khẩu theo hình thức gia công. Do đó để mở rộng khả năng tiếp cận thị trường Mỹ, các doanh nghiệp cần tìm hiểu kỹ thị trường, thói quen tiêu dùng, mẫu mốt sản phẩm để có cách chào hàng phù hợp. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may cần phải tìm hiểu các nguyên tắc, luật lệ chung của liên bang cũng như của từng bang trong các hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu…khi xâm nhập vào thị trường này.
Để có thể thâm nhập sâu hơn vào thị trường EU, cần nhanh chóng đổi mới công nghệ để có thể đáp ứng được nhu cầu phức tạp và đa dạng của sản phẩm của khu vực thị trường này. Bên cạnh đó, cần phải tìm và hiểu các chính sách, biện pháp quản lý xuất nhập khẩu của EU mặc dù đây là việc rất khó, thường xuyên mất nhiều thời gian và tốn kém.
Muốn xâm nhập sau hơn nữa vào thị trường Nhật Bản, vấn đề cốt yếu nhất là phải nâng cao chất lượng sản phẩm trong quá trình sản xuất và kiểm tra chất lượng sản phẩm. Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may phải nghiên cứu kỹ tiêu chuẩn chất lượng JIS và áp dụng vào quá trình sản xuất hàng dệt may xuất sang Nhật Bản. Bên cạnh đó cần phải tăng cường quan hệ để mở rộng bạn hàng, nắm lấy một số nhà phân phối chính.
Về vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế, hàng DMVN không thể cạnh tranh về giá cả với các nước như Trung Quốc, Ấn Độ hay Inđonêsia vì các nước này không phải nhập nhiều nguyên liệu các sản phẩm dệt may như Việt Nam. Vì vậy, Việt Nam cần phải có chiến lược phát triển bằng việc nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua việc đẩy mạnh áp dụng hệ thống CSM (hệ thống được các nhà bán lẻ hàng đầu tại các thị trường Châu Âu, Nhật Bản, Mỹ công nhận rộng rãi) và đảm bảo thời gian giao hàng nhanh. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần chú ý đến khâu thiết kế sản phẩm với mẫu mã phù hợp. Mỗi doanh nghiệp nên học tập các nhà phân phối hàng dệt may lớn nhất trên thế giới để thiết lập một loại sản phẩm nổi bật cho mình và các bộ sưu tập theo mùa.
Các doanh nghiệp nên chú ý đến việc xây dựng và đăng ký thương hiệu cho sản phẩm của mình, cả trong nước và thị trường mục tiêu, tự tìm cho mình một mặt hàng chuyên biệt khi thâm nhập vào thị trường thế giới, tăng cường các chuỗi liên kết giữa các doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh.
Về phía ngành Dệt May:
Thành lập các văn phòng đại diện hoặc các trung tâm thương mại ở những thị trường tiềm năng như Mỹ, Hồng Kông, Nhật Bản, Eu…để hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng, tiếp thị, triển lãm, giới thiệu và quảng cáo nhãn hiệu hàng hóa. Cần có sự phối hợ, trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp và các tham tán thương mại ở các nước.
Mở rộng quan hệ và hợp tác chặt chẽ với các kiều bào ở nước ngoài để tìm kiếm, tiếp thị và mở rộng thị trường tiêu thụ.
Tổ chức các chuyến khảo sát, thăm viếng các hội chợ quốc tế, thu thập thông tin để tiếp cận người tiêu dùng và khuếch trương sản phẩm Việt Nam trên thị trường thế giới.
Giải pháp về vấn đề bảo vệ môi trường
Xây dựng và ban hành chiến lược môi trường dệt may và thể chế hoá bằng các văn bản pháp quy cho ngành Dệt May phù hợp với quy hoạch môi trường tổng thể.
Tập trung xử lý triệt để 100% các nguồn ô nhiễm nước nghiêm trọng tại các khu công nghiệp hoặc tại các công ty dệt may. Đánh giá kiểm soát chất lượng nước cấp và nước thải tại các khu công nghiệp, doanh nghiệp, đề ra các biện pháp xử lý và tái sử dụng nhằm hạn chế lượng nước thải công nghiệp. Triển khai chương trình 100% các khu công nghiệp dệt may có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường.
Có cơ chế, chính sách và biện pháp đồng bộ để xử lý triệt để với các cơ sở may dệt may đang gây ô nhiễm về nước, không khí, tiếng ồn.
Triển khai thực hiện chương trình sản xuất sạch hơn trong ngành Dệt May, sử dụng hợp lý các nguồn nguyên liệu đầu vào, áp dụng tiêu chuẩn môi trường, tiêu chuẩn sản phẩm, tạo môi trường lao động tốt cho người lao động như SA8000, ISO14000.
Xây dựng và thực hiện lộ trình đổi mới công nghệ trong ngành dệt may theo hướng thân thiện với môi trường. Các cơ sở sản xuất môi trường mới xây dựng phải có công nghệ sạch hoặc có các thiết bị giảm thiểu ô nhiễm, xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường.
Tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học công nghệ về môi trường. Từ đó có thế đánh giá chính xác hiện trạng môi trường cũng như hoạch định các chính sách quản lý môi trường, giải quyết các suy thoái và sự cố môi trường.
7. Giải pháp nâng cao đời sống cho lao động ngành dệt may
Để giải quyết những khó khăn trước mắt về lao động, các doanh nghiệp phải chấp nhận lỗ để nâng lương cho công nhân. Có như vậy mới đảm bảo sản xuất đúng tiến độ và tránh được những rủi ro do vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, đây cũng chỉ được xem là biện pháp tạm thời.
Giải pháp lâu dài đối với mỗi doanh nghiệp, để giữ và thu hút được lao động cần đảm bảo thu nhập ổn định cho người lao động. Mức lương trung bình của mỗi công nhân ở thành phố phải tối đa khoảng 1,2 – 1,5 triệu đồng/tháng. Như vậy đời sống người lao động mới được đảm bảo và họ mới yên tâm làm việc lâu dài. Đồng thời chuẩn bị tốt kế hoạch lương thưởng cho đội ngũ công nhân. Nếu thực hiện tốt khâu này, công nhân sẽ phấn khởi hơn và tiếp tục duy trì công việc. Mặt khác điều này thể hiện sự quan tâm của doanh nghiệp đối với người lao động. Từ đó doanh nghiệp sẽ tạo được sự an tâm và tin cậy cho công nhân để gắn bó với nghề, với xí nghiệp. Còn doanh nghiệp ổn định được việc sản xuất, kinh doanh, đồng thời tạo thêm nhiều thu nhập cho người lao động cũng như cho chính bản thân công ty.
Ở tầm chiến lược, ngoài những nỗ lực của bản thân các doanh nghiệp như tăng lương, tăng phúc lợi cho người lao động thì chính quyền cũng như chính doanh nghiệp đóng trên địa bàn đó cũng cần quan tâm giải quyết tới vấn đề nhà ở cho công nhân.
Về lâu dài, Nhà nước cũng cần quy hoạch và di dời ngành sản xuất may về một số vùng phù hợp. Không nên để các nhà máy dệt và may gia công tập trung phát triển mạnh ở đô thị như hiện nay.
- Sở Lao động thương binh và Xã hội phối hợp cùng các cơ quan chức năng khác tăng cường kiểm tra, thanh tra về việc sử dụng lao động của các doanh nghiệp nhằm đảm bảo thực hiện đúng theo các quy định của Luật Lao động.
KẾT LUẬN
Dệt – May là một ngành truyền thống lâu đời của nhân dân ta và là ngành có nhiều triển vọng trong tương lai. Suất đầu tư của ngành dệt may không lớn nhưng lại là ngành đòi hỏi nhiều lao động, đây cũng chính là lợi thế so sánh của Việt Nam để cùng hợp tác và phát triển trong xu thế phát triển chung của nền kinh tế toàn cầu và thực hiện chính sách xã hội, xoá đói giảm nghèo. Với vai trò to lớn của mình cùng những thành quả về tốc độ tăng trưởng trong kim ngạch xuất khẩu những năm qua, ngành công nghiệp Dệt May được đánh giá là một trong những mặt hàng chủ lực xuất khẩu trong ít nhất là 15 – 20 năm tới. Theo báo cáo “Đánh giá tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam” của Trung tâm thương mại thế giới UNCTAD/WTO (ITC) và Cục xúc tiến thương mại (Bộ Thương mại): Dệt May là một trong những ngành có tiềm năng xuất khẩu cao nhất của Việt Nam ở thời điểm hiện tại về mặt doanh thu xuất khẩu và sẽ vẫn giữ vững vai trò này trong tương lai. Vì vậy việc đẩy mạnh phát triển ngành dệt may để làm cơ sở phát triển chung của đất nước là hướng đi đúng và cần thiết.
Tuy nhiên chất lượng tăng trưởng ngành DMVN còn thấp, chứa đựng rất nhiều hạn chế bên trong vấn đề tăng trưởng như năng suất lao động không cao, nguyên phụ liệu chủ yếu phải nhập khẩu, chi phí trung gian có xu hướng ngày càng tăng cùng với sự mất cân đối nghiêm trọng giữa hai ngành Dệt và May, biến ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam vô hình chung trở thành nơi gia công sản phẩm cho các nước khác. Việc gia nhập WTO của Việt Nam trong những năm tới càng đặt ra nhiều thách thức đòi hỏi ngành Dệt May Việt Nam phải nhanh chóng cải thiện chất lượng tăng trưởng của ngành để có thế cạnh tranh với các cường quốc trong lĩnh vực Dệt May của thế giới khác như Trung Quốc, Ấn Độ…
Như vậy có thể thấy ngành Dệt May Việt Nam với cơ sở vật chất kỹ thuật nhỏ bé, hầu hết nguyên vật liệu, hoá chất, thuốc nhuộm, máy móc, thiết bị, phụ tùng…phải nhập khẩu nhưng lại phải cạnh tranh quốc tế sớm nhất, gay gắt nhất so với các ngành khác. Do vậy để Dệt May Việt Nam nhanh chóng tăng tốc phát triển, bên cạnh các giải pháp đã đề cập tới, luận văn xin đưa ra một số kiến nghị:
Trong khi Việt Nam sắp trở thành thành viên của WTO, đề nghị Chính phủ cho tiếp tục áp dụng các nội dung phù hợp với quy định của WTO trong cơ chế chính sách hỗ trợ chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010.
Để có thể tiếp nhận được là sóng di chuyển dệt may từ các nước phát triển, kiến nghị Chính phủ cho phép các doanh nghiệp mua các thiết bị đã qua sử dụng nếu đảm bảo các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật và môi trường.
Cải cách các thủ tục hành chính, hải quan xuất nhập khẩu theo hướng tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý để thực hiện cơ chế một dấu, một cửa, đơn giản hoá các thủ tục rút ngắn thời gian hơn nữa, và quy định thời gian các cơ quan chức năng phải thực hiện rõ ràng.
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống buôn lậu, trốn thuế làm ảnh hưởng tới môi trường cạnh tranh lành mạnh.
Hỗ trợ vốn ngân sách cho củng cố và nâng cao năng lực của Viện Kinh tế - Kỹ thuật Dệt May trở thành trung tâm thiết kế, kiểm tra chất lượng sản phẩm dệt may, thông tin và tư vấn chuyên ngành dệt may ngang tầm quốc tế.
Hỗ trợ vốn ngân sách cho xây dựng một trường Quản trị Kinh doanh Dệt May Thời trang và cho công tác đổi mới chương trình đào tạo công nhân lành nghề dệt may cung ứng nhân lực chất lượng cao cho nhu cầu phát triển ngành dệt may.
Hỗ trợ giá, giống, thuỷ lợi phí cho các cá nhân, đơn vị đầu tư phát triển vùng nguyên liệu, ưu tiên đầu tư các công trình thuỷ lợi thuộc các vùng chuyên canh, thâm canh bông, dâu tằm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế Phát triển, Khoa Kế hoạch và Phát triển - Trường ĐH KTQD.
Chiến lược “tăng tốc” phát triển ngành Dệt May đến năm 2010.
Báo cáo tổng quan Tập đoàn Dệt – May Việt Nam.
Quy hoạch phát triển ngành Dệt – May Việt Nam đến năm 2015 - Tầm nhìn đến năm 2020, Tập Đoàn Dệt May Việt Nam, Bộ Công nghiệp.
Các tạp chí Kinh tế Phát triển, Con số & Sự kiện, Nghiên cứu Kinh tế, Công nghiệp, Thương mại, Thời báo Kinh tế Việt Nam.
Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi gia nhập WTO của Uỷ Ban Quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế.
Tổng quan về Hiệp định công tác công nghiệp ASEAN.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá và Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam, tầm nhìn tới 2020 của Bộ Công nghiệp.
Cơ sở khoá học của một số vấn đề trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
Quyết định số 55/2001/QĐ-TTg ngày 23 tháng 4 năm 2001 Phê duyệt Chiến lược phát triển và một số cơ chế, chính sách hỗ trợ thực hhiện Chiến lược phát triển ngành Dệt May Việt Nam năm 2010.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29335.doc