Nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế tỉnh Yên Bái

MỤC LỤC DANH MỤC HÌNH VẼ VÀ BẢNG BIỂU Hình 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế tỉnh Yên Bái Hình 2: Tốc độ tăng trưởng các nhóm ngành kinh tế tỉnh Yên Bái Hình 3: Tốc độ tăng trưởng GDP và hệ số ICOR của tỉnh Yên Bái Hình 4: Biến đổi tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh và các huyện thị trong thời gian 4 năm Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế tỉnh Yên Bái Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng của các nhóm ngành kinh tế Bảng 3: Tăng trưởng tiêu dùng và xuất khẩu trong tỉnh Bảng 4: Thu nhập BQ/người/tháng ở Yên Bái

doc96 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1693 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế tỉnh Yên Bái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
so với cả nước và các tỉnh vùng Đông Bắc Bảng 5: Cơ cấu kinh tế tỉnh Yên Bái phân theo nhóm ngành (giá hiện hành) Bảng 6: Năng suất lao động của tỉnh Yên Bái Bảng 7: Hệ số ICOR của Yên Bái, giai đoạn 2005-2008 Bảng 8: Xếp hạng chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2006-2008 Bảng 9: Tỷ lệ thất nghiệp, thời gian lao động không được sử dụng ở nông thôn Bảng 10: Tổng số và tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới (QĐ 170) của tỉnh Yên Bái Bảng 11: Thu nhập BQ/người/tháng của nhóm 20% dân số nghèo nhất và giàu nhất ở cả nước và các tỉnh vùng Đông Bắc năm 2006 Bảng 12: Số sinh viên và học sinh trung học chuyên nghiệp của tỉnh Bảng 13: Một số chỉ tiêu về hệ thống y tế tỉnh Yên Bái Bảng 14: Các chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế tỉnh Yên Bái DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT SNA: Hệ thống tài khoản quốc gia GO: Tổng giá trị sản xuất GDP: Tổng sản phẩm quốc nội GNP: Tổng sản phẩm quốc dân GNI: Tổng thu nhập quốc dân NI: Thu nhập quốc dân GDI: Thu nhập được quyền chi OXFAM: Tổ chức nhân đạo Anh WB: Ngân hàng Thế giới (World Bank) W: Tiền công và tiền lương R: Thu nhập của người có đất cho thuê Pr: Thu nhập của người có vốn In: Thu nhập của người có tiền cho vay Dp: Khấu hao vốn cố định Ti: Thuế kinh doanh C: Chi cho tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình I: Đầu tư tích luỹ tài sản G: Chi tiêu của chính phủ (X – M): Chi tiêu qua thương mại quốc tế ICOR: Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư PCI: Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh VCCI: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VNCI: Dự án Nâng cao Năng lực cạnh tranh Việt Nam NQ: Nghị quyết PPP: Giá sức mua tương đương QĐ: Quyết định BQ: Bình quân CMC - PCGDTH: Chống mù chữ - Phổ cập giáo dục tiểu học GDTHCS: Giáo dục trung học cơ sở THCS: Trung học cơ sở PCTHCS: Phổ cập trung học cơ sở PCGDTH: Phổ cập giáo dục tiểu học THPT: Trung học phổ thông WTO: Tổ chức thương mại thế giới ODA: Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức FDI: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ASEAN: Khu vực Thương mại Tự do (AFTA) APEC: Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương IMF: Quỹ tiền tệ Quốc tế LỜI NÓI ĐẦU Trong 5 năm qua, nhìn trên mặt lượng, bức tranh kinh tế Việt Nam dường như ngày càng sáng sủa, đẹp đẽ hơn, tăng trưởng kinh tế đạt ở mức cao so với các nước trong khu vực, thế nhưng những dấu hiệu yếu kém như tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm vào năm 2007-2008, thậm chí giảm sút về chất lượng kinh tế ngày càng rõ rệt. Có thể nói tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua chưa đáp ứng được yêu cầu gay gắt của cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế, của mục tiêu đòi hỏi thoát khỏi tình trạng tụt hậu và tăng trưởng bền vững. Nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế là mục tiêu lớn chung của Việt Nam trong nhiều năm qua, là đề tài nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu, công trình khoa học. Nhưng để có thể nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam nói chung, thì nhất thiết phải đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế cuả những hạt nhân kinh tế được coi là tế bào đóng góp trực tiếp cho chất lượng tăng trưởng kinh tế, đó chính là nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế của các tỉnh, thành phố trong cả nước. Đó là lý do cần thiết, để tôi nghiên cứu về vấn đề chất lượng tăng trưởng kinh tế của tỉnh Yên Bái. Do vậy, nghiên cứu đề tài này, để có được cái nhìn toàn diện, tổng thể về chất lượng tăng trưởng kinh tế của tỉnh, tìm ra những rào cản đối với tăng trưởng kinh tế trên cả hai mặt lượng và chất, để từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế của tỉnh trong thời gian tới, và cũng có thể áp dụng cho các tỉnh miền núi phía Bắc có điều kiện điạ lý và kinh tế tương đồng. Đây chính là lý do tôi nghiên cứu đề tài “Giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế tỉnh Yên Bái”. Kết cấu của đề tài ngoài phần mở đầu kết luận và kiến nghị, gồm ba chương: Chương I Cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng tăng trưởng kinh tế Chương II Thực trạng tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng kinh tế của tỉnh Yên Bái giai đoạn 2005-2008 Chương III Giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế tỉnh Yên Bái CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ I.1. KHÁI NIỆM CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ I.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi của lý luận về phát triển kinh tế. Việc nghiên cứu tăng trưởng kinh tế ngày càng có hệ thống và hoàn thiện hơn. Nhận thức đúng đắn về tăng trưởng kinh tế và sử dụng có hiệu quả những kinh nghiệm về nghiên cứu, hoạch định chính sách tăng trưởng kinh tế là rất quan trọng. Các nhà khoa học đều thống nhất cho rằng, tăng trưởng kinh tế trước hết là một vấn đề kinh tế, song nó mang tính chính trị, xã hội sâu sắc. Tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu của tất cả các nước trên thế giới, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ trong mỗi giai đoạn của mỗi quốc gia. Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập hay sản lượng được tính cho toàn bộ nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Tăng trưởng kinh tế có thể biểu thị bằng số tuyệt đối (quy mô tăng trưởng) hoặc số tương đối (tỷ lệ tăng trưởng). Trong phân tích kinh tế, để phản ánh mức độ mở rộng quy mô của nền kinh tế, khái niệm tốc độ tăng trưởng kinh tế thường được dùng. Đây là tỷ lệ phần trăm giữa sản lượng tăng thêm của thời kỳ nghiên cứu so với mức sản lượng của thời kỳ trước đó hoặc thời kỳ gốc. Tăng trưởng kinh tế được xem xét dưới góc độ số lượng và chất lượng. Mặt số lượng của tăng trưởng kinh tế là biểu hiện bên ngoài của sự tăng trưởng, nó thể hiện ở ngay trong khái niệm về tăng trưởng như đã nói ở trên và được phản ánh thông qua các chỉ tiêu đánh giá quy mô và tốc độ tăng trưởng thu nhập. Đứng trên góc độ toàn nền kinh tế, thu nhập thường được thể hiện dưới dạng giá trị: có thể là tổng giá trị thu nhập, hoặc có thể là thu nhập bình quân trên đầu người. Các chỉ tiêu giá trị phản ánh tăng trưởng theo hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) bao gồm: tổng giá trị sản xuất (GO); tổng sản phẩm quốc nội (GDP); tổng thu nhập quốc dân (GNI); thu nhập quốc dân (NI); thu nhập được quyền chi (GDI); trong đó chỉ tiêu GDP thường là chỉ tiêu quan trọng nhất. Mặt lượng của tăng trưởng kinh tế thể hiện cụ thể ở quy mô (mức) và tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu giá trị nói trên. Nếu quy mô và tốc độ tăng của các chỉ tiêu phản ánh tổng thu nhập và thu nhập bình quân đầu người cao, có thể nói, đó là biểu hiện tích cực về mặt lượng của tăng trưởng kinh tế. I.1.2. Khái niệm chất lượng tăng trưởng kinh tế I.1.2.1. Khái niệm Từ khi kinh tế học ra đời đến nay, nhiều lý thuyết và mô hình về tăng trưởng kinh tế đã được hình thành và hoàn thiện. Tuy nhiên, các lý thuyết và mô hình này chủ yếu tập trung phân tích và đánh giá sự tăng trưởng về số lượng. Một vấn đề rất quan trọng của tăng trưởng kinh tế ngoài tốc độ tăng trưởng, đó là chất lượng tăng trưởng, nhưng tăng trưởng về mặt chất lượng hầu như mới được nhắc đến nhiều trong một thập kỷ trở lại đây. Hiện vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về chất lượng tăng trưởng. Có quan điểm cho rằng, chất lượng tăng trưởng kinh tế đánh giá ở đầu ra, thể hiện bằng kết quả đạt được qua tăng trưởng kinh tế như chất lượng cuộc sống được cải thiện, sự bình đẳng trong phân phối thu nhập, bình đẳng về giới trong phát triển, bảo vệ môi trường sinh thái… Quan điểm khác lại nhấn mạnh đến khía cạnh đầu vào của quá trình sản xuất, như việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, nắm bắt và tạo cơ hội bình đẳng cho các đối tượng tham gia đầu tư, quản lý hiệu quả các nguồn lực đầu tư. Nhìn từ một góc độ khác, theo cách hiểu rộng, chất lượng tăng trưởng có thể tiến tới nội hàm về phát triển bền vững, chú trọng tới tất cả ba thành tố kinh tế, xã hội và môi trường. Theo cách hiểu hẹp, chất lượng tăng trưởng có thể chỉ được giới hạn ở một khía cạnh nào đó, ví dụ như chất lượng đầu tư, chất lượng giáo dục, chất lượng dịch vụ công… I.1.2.2. Các quan niệm khác nhau về chất lượng tăng trưởng kinh tế a. Chất lượng tăng trưởng kinh tế là cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao hiệu quả Cơ cấu tăng trưởng thể hiện ở chỉ tiêu điểm phần trăm đóng góp của các ngành vào tăng trưởng và chỉ tiêu tỷ trọng đóng góp của mỗi bộ phận trong 100% mức tăng trưởng. Cơ cấu tăng trưởng có thể xét theo khu vực thể chế, thành phần kinh tế, vùng, miền và theo yếu tố sản xuất (vốn, lao động, năng suất nhân tố tổng hợp). Tính hợp lý của quan niệm này coi chất lượng sự vật là sự biến đổi cơ cấu bên trong của sự vật, không gắn chất lượng sự vật với mục đích tồn tại, bối cảnh, môi trường, điều kiện mà sự vật tồn tại hoặc các sự vật có mối liên hệ tác động mật thiết với nhau. b. Chất lượng tăng trưởng theo quan niệm hiệu quả Tăng trưởng hình thành theo hai phương thức: - Tăng trưởng theo chiều rộng, tức là tăng thêm nhiều vốn, tăng lao động và tăng cường khai thác tài nguyên. - Tăng trưởng theo chiều sâu, thể hiện ở tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sử dụng vốn sản xuất, tăng cường chất lượng quản lý, nâng cao hiệu quả áp dụng khoa học công nghệ; hoàn thiện môi trường kinh doanh, môi trường pháp lý… Có thể thấy, tăng trưởng theo chiều sâu hiện nay khá phổ biến ở các nước công nghiệp, nơi mà các yếu tố chiều rộng đã được khai thác ở mức cao. Còn đối với các nước đang phát triển, tăng trưởng theo chiều rộng vẫn là chủ đạo. Trong quá trình phát triển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, yếu tố chất lượng nhân lực và khoa học công nghệ có vai trò vượt trội so với các yếu tố truyền thống (tài nguyên thiên nhiên, vốn vật chất, lao động nhiều và rẻ...). Chất lượng tăng trưởng kinh tế được hiểu theo quan niệm hiệu quả (tăng trưởng theo chiều sâu) rất cụ thể và tạo thuận lợi cho mục tiêu tìm kiếm giải pháp thúc đẩy tăng trưởng. c. Quan niệm chất lượng tăng trưởng kinh tế là năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp hoặc hàng hóa sản xuất trong nước Tăng trưởng đi liền với việc nâng cao năng lực cạnh tranh là tăng trưởng có chất lượng cao và ngược lại. Trong bất kỳ một quốc gia, một vùng lãnh thổ nào, khi nói đến phát triển kinh tế không thể không nói đến vai trò của các doanh nghiệp. Muốn có một nền kinh tế mạnh thì phải có khu vực doanh nghiệp phát triển và có sức cạnh tranh cao. Nói cách khác, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung được quyết định bởi năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. d. Chất lượng tăng trưởng kinh tế là nâng cao phúc lợi của công dân và gắn liền tăng trưởng với công bằng xã hội Tăng trưởng kinh tế là nguồn gốc tạo thêm của cải cho xã hội. Theo quan điểm này, thước đo của chất lượng tăng trưởng kinh tế được thể hiện ở chỗ tăng trưởng kinh tế đáp ứng phúc lợi cho nhân dân như thế nào. Phúc lợi không chỉ thể hiện ở thu nhập bình quân đầu người mà còn là chất lượng cuộc sống, môi trường xã hội, môi trường tự nhiên, cơ hội học tập và chăm lo sức khoẻ… Còn công bằng xã hội thể hiện ở khoảng cách giàu - nghèo được thu hẹp và tỷ lệ người nghèo trong xã hội giảm bớt. Các nghiên cứu cho thấy nếu quá quan tâm đến tăng trưởng mà ít chú ý đến công bằng xã hội sẽ dẫn đến bất ổn xã hội và tăng trưởng không thể bền vững. Ngược lại, nếu quá đề cao công bằng xã hội thì không có động lực và tiềm lực vật chất để thúc đẩy tăng trưởng. Sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội sẽ tạo ra chất lượng của tăng trưởng kinh tế. e. Quan niệm chất lượng tăng trưởng kinh tế là phát triển bền vững Đặc trưng của tăng trưởng kinh tế có chất lượng được biểu hiện qua việc phát triển bền vững. Theo WB, thuật ngữ “phát triển bền vững” là phát triển theo nguyên tắc “sự thoả mãn nhu cầu của thế hệ hôm nay không làm tổn hại tới sự thoả mãn nhu cầu của các thế hệ mai sau”. Phát triển bền vững phải bảo toàn và phát triển ba nguồn vốn: tài nguyên môi trường (bao gồm cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội), vốn nhân lực (chất lượng của người lao động) và vốn vật chất (cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế). Trong đó, tài nguyên môi trường thiên nhiên hiện nay được quan tâm đặc biệt, vì công nghiệp hoá, hiện đại hoá của các quốc gia thời gian qua thường dẫn tới huỷ hoại về môi trường. Các nghiên cứu của WB cho thấy, mức độ ô nhiễm lúc đầu tăng cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế cho tới khi thu nhập bình quân đầu người đạt tới 12.000 USD/năm. Thu nhập bình quân đầu người tiếp tục tăng thì chất lượng môi trường giai đoạn tiếp theo được cải thiện rõ rệt. f. Quan niệm chất lượng tăng trưởng kinh tế là thể chế dân chủ trong môi trường chính trị - xã hội của nền kinh tế Tác động của tăng trưởng kinh tế đối với quá trình đổi mới hệ thống chính trị từ lâu đã được nhìn nhận là vừa có tính tích cực, lại vừa có tính trực tiếp. Các công trình nghiên cứu của Huntington (1991) về “Democracy's Third Wave”, Rueschemeyer và Stephens (1992) với “Capitalist Development and Democracy”… cho thấy có mối tương quan chặt chẽ giữa thu nhập đầu người và mức độ dân chủ hoá của thể chế chính trị xã hội. Cụ thể hơn, tính minh bạch, ít tham nhũng và sự tham gia của người dân vào quản lý kinh tế - xã hội sẽ tác động mạnh tới tăng trưởng kinh tế và ngược lại. Theo cách diễn giải của trường phái này, dân chủ chính là biểu hiện mặt chất của tăng trưởng kinh tế. I.2. ĐO LƯỜNG TĂNG TRƯỞNG VÀ CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ I.2.1. Các thước đo tăng trưởng kinh tế Theo mô hình kinh tế thị trường, thước đo được dùng để đánh giá tăng trưởng kinh tế là các chỉ tiêu trong hệ thống tài khoản quốc gia (SNA). I.2.1.1. Tổng giá trị sản xuất (GO) Tổng giá trị sản xuất là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ được tạo nên trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định. Đây chính là tổng doanh thu bán hàng thu được từ các đơn vị, các ngành trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân hoặc GO có thể tính trực tiếp từ sản xuất và dịch vụ gồm chi phí trung gian (IC) và giá trị gia tăng (VA) từ sản phẩm và dịch vụ đó. I.2.1.2. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và tổng sản phẩm quốc dân (GNP) Tổng sản phẩm quốc nội đo lường tổng giá trị của các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Tổng sản phẩm quốc dân là chỉ tiêu đo lường tổng giá trị bằng tiền của các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng mà một quốc gia sản xuất ra trong một thời kỳ (thường là một năm) bằng các yếu tố sản xuất của mình. GDP có nhiều cách tính khác nhau dưới các góc độ sản xuất, tiêu dùng và phân phối. - Nếu tiếp cận từ sản xuất, GDP được đo bằng tổng giá trị gia tăng của tất cả các đơn vị sản xuất - kinh doanh thường trú trong nền kinh tế. - Nếu tiếp cận từ thu nhập nghĩa là GDP = W + R + Pr + In+ Dp + Ti. - Nếu tiếp cận từ chi tiêu tức là GDP = C + I + G + (X – M). I.2.1.3. Tổng thu nhập quốc dân (GNI) GNI - Tổng thu nhập quốc dân: đây là chỉ tiêu xuất hiện trong SNA 1993 thay cho chỉ tiêu GNP trong SNA 1968. Về nội dung thì GNP và GNI là như nhau. Tuy nhiên, GNI tiếp cận dưới góc độ từ thu nhập chứ không phải dưới góc độ sản phẩm sản xuất như GNP. I.2.1.4. Thu nhập bình quân đầu người Lưu ý rằng, để đánh giá xác thực hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia dưới góc độ mức sống dân cư, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu bình quân đầu người, chẳng hạn như GDP bình quân đầu người (hay GNI bình quân đầu người). Khi đó, tốc độ tăng trưởng lại phụ thuộc hai yếu tố: tốc độ tăng trưởng thu nhập (sản lượng) và tốc độ tăng trưởng dân số: Tốc độ tăng trưởng GDP/người = Tốc độ tăng trưởng GDP − Tốc độ gia tăng dân số I.2.2. Các thước đo chất lượng tăng trưởng kinh tế I.2.2.1. Các chỉ tiêu phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau: Dưới góc độ ngành, cơ cấu kinh tế xem xét số lượng và chất lượng các ngành tạo nên nền kinh tế, cũng như các mối quan hệ giữa chúng với nhau. Thông thường nền kinh tế được phân chia thành ba nhóm ngành lớn là Nông - lâm nghiệp - Thuỷ sản, Công nghiệp - Xây dựng và Dịch vụ. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái khác theo hướng hiện đại hơn và tiên tiến hơn, mà cụ thể là tăng tỷ trọng của nhóm ngành công nghiệp và dịch vụ, đồng thời giảm tỷ trọng nhóm ngành nông nghiệp trong GDP. Dưới góc độ lãnh thổ, cơ cấu kinh tế được nhìn nhận theo sự bố trí lực lượng sản xuất giữa các vùng. Quá trình chuyển dịch cơ cấu vùng cần đảm bảo sự phát triển cân đối, hài hòa giữa các vùng để đảm bảo tính bền vững trong quá trình phát triển. Tuy nhiên cũng cần phải phải xem xét vai trò động lực của từng vùng để lôi kéo và thúc đẩy các vùng khác phát triển. I.2.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế a. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng lao động - Năng suất lao động Để tính năng suất lao động cho toàn bộ nền kinh tế, có thể đơn giản lấy GDP (theo giá cố định) chia cho số lao động (hoặc giờ lao động). Nếu GDP bình quân trên mỗi lao động càng lớn, thì năng suất lao động xã hội càng cao. WBQ = (1) Trong đó, WBQ là năng suất lao động bình quân cho toàn bộ nền kinh tế. Y là GDP của năm nghiên cứu. Ltt là số lao động thực tế đang làm việc tại năn nghiên cứu. b. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn - Hệ số ICOR Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (ICOR) là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp cho biết để tăng thêm một đơn vị GDP đòi hỏi phải tăng thêm bao nhiêu đơn vị vốn đầu tư thực hiện. Vì vậy, hệ số này phản ánh hiệu quả của việc sử dụng vốn đầu tư dẫn tới tăng trưởng kinh tế. Với nội dung đó, hệ số ICOR được coi là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế. (2) Trong đó, I1 là tổng vốn đầu tư của năm nghiên cứu, Y1 là GDP của năm nghiên cứu, và Y0 là GDP của năm trước đó. Các chỉ tiêu về vốn đầu tư và GDP để tính hệ số ICOR theo phương pháp này phải được đo theo cùng một loại giá (giá thực tế hoặc giá so sánh). Thường sử dụng hệ số ICOR vào kế hoạch hóa kinh tế ngắn hạn (quý, nửa năm hoặc một năm). ICOR giúp xác định xem để kinh tế kỳ này cứ tăng 1% so với kỳ trước thì cần tăng vốn đầu tư trong kỳ này lên bao nhiêu phần trăm so với kỳ trước. Qua hệ số này người ta có thể thấy được vốn đầu tư so với các nhân tố tăng trưởng khác có ý nghĩa thế nào đối với tăng trưởng sản lượng. Một cách sử dụng ICOR để so sánh khác là so sánh hiệu quả sử dụng vốn (hay hiệu quả đầu tư) giữa các thời kỳ hoặc giữa các nền kinh tế. I.2.2.3. Các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh tăng trưởng a. Chỉ số cạnh tranh tăng trưởng Mục tiêu chính của GCI là phân tích tiềm năng của các nền kinh tế nhằm đạt được tốc độ phát triển kinh tế bền vững qua các giai đoạn trung và dài hạn. Chỉ số này dựa trên sự hiểu biết của các nhà kinh tế về các nhân tố quyết định trong quá trình phát triển và tăng trưởng kinh tế đầy phức tạp. GCI được xây dựng dựa trên ba yếu tố cơ bản. Quá trình tăng trưởng kinh tế có thể được phân tích trên cơ sở ba phạm trù là: môi trường kinh tế vĩ mô, chất lượng của các định chế công và khoa học công nghệ. Một quốc gia khó có thể phát triển bền vững trong một môi trường kinh tế vĩ mô không thuận lợi. GCI đo lường chất lượng của thể chế kinh tế và coi đó là yếu tố quan trọng thứ hai trong ba yếu tố cơ bản của tăng trưởng và phát triển kinh tế. Cũng như đối với khoa học công nghệ, không có lý do nào để nói rằng các ý tưởng mới lại mang lại ngày càng ít lợi ích kinh tế, mà thực tế có thể hoàn toàn ngược lại, con người dường như ngày càng có nhiều ý tưởng mới với tốc độ phát triển ngày càng nhanh. Do vậy, GCI sử dụng các số liệu thống kê chính thức và kết quả điều tra của Diễn đàn kinh tế thế giới để xác định ba “chỉ số cấu thành” nhằm biểu thị ba tiêu chí chất lượng tăng trưởng kinh tế đã được đề cập ở trên. Ba yếu tố này được gọi là “chỉ số công nghệ”, “chỉ số thể chế” và “chỉ số kinh tế vĩ mô”, và được tổng hợp lại để tính “chỉ số cạnh tranh tăng trưởng” chung.  b. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) là chỉ số đánh giá và xếp hạng chính quyền các tỉnh, thành của Việt Nam trong việc xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho việc phát triển doanh nghiệp dân doanh. PCI được đưa ra dựa trên 10 tiêu chí quan trọng, gồm: tiêu chí chính sách phát triển kinh tế tư nhân; tính minh bạch; đào tạo lao động; tính năng động và tiên phong của lãnh đạo; chi phí thời gian để thực hiện quy định của Nhà nước; thiết chế pháp lý; ưu đãi đối với doanh nghiệp Nhà nước; chi phí không chính thức; tiếp cận đất đai và sự ổn định gia nhập thị trường. PCI nhằm khuyến khích sự năng động sáng tạo của địa phương để hướng các thành phần dễ bị tổn thương nhất: các DN vừa và nhỏ. Đóng góp cụ thể nhất cho phát triển bền vững chính là lắng nghe họ, xem họ cần gì để phục vụ. PCI trở thành thước đo quan trọng để các địa phương tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, chỉ số PCI giúp khoanh vùng các khoảng trống để các địa phương tiếp tục cải cách. I.2.2.4. Các thước đo chất lượng tăng trưởng kinh tế liên quan đến phúc lợi xã hội Các thước đo này phản ánh hiệu quả xã hội, hay nói cách khác, thể hiện sự tác động lan toả của tăng trưởng đến các đối tượng chịu ảnh hưởng trong xã hội. Quá trình tăng trưởng kinh tế phải kéo theo sự gia tăng các chỉ tiêu phúc lợi xã hội dưới các mặt: Tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm: tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với việc tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị và thời gian nông nhàn ở khu vực nông thôn. Các thước đo chất lượng tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm bao gồm so sánh tốc độ tăng số lao động trong nền kinh tế quốc dân với tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thời gian lao động không được sử dụng ở nông thôn... Tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo: trong một nền kinh tế tăng trưởng có chất lượng, tăng trưởng kinh tế phải đi kèm xoá đói giảm nghèo. Các chỉ tiêu như tỷ lệ nghèo đói của quốc gia và của các vùng, tốc độ giảm tỷ lệ nghèo đói, % giảm nghèo so với % tăng trưởng kinh tế... thường được sử dụng để phản ánh mối quan hệ giữa tăng trưởng và giảm nghèo. Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội: tiến bộ xã hội được thể hiện rõ nhất ở hai lĩnh vực giáo dục - đào tạo và y tế. Những tiêu chí về cơ sở vật chất, số lượng học sinh, giáo viên, số cán bộ ngành y... gia tăng thể hiện sự tăng trưởng kinh tế đã dẫn đến nâng cao phúc lợi xã hội cho người dân. Sự nâng cao về trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật, cũng như những cải thiện về mặt sức khoẻ và chăm sóc y tế đối với người dân (tuổi thọ, tỷ lệ chết ở trẻ sơ sinh, tỷ lệ suy dinh dưỡng...) có thể coi là kết quả của sự gia tăng phúc lợi xã hội và thể hiện rõ nét chất lượng tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội: các công trình nghiên cứu, các báo cáo phát triển chính thức ở cấp độ quốc gia cũng như quốc tế thường sử dụng một số công cụ và thước đo chủ yếu như: Đường cong Lorenz; Hệ số Gini; Mức độ thoả mãn nhu cầu cơ bản của con người; Chỉ số phát triển xã hội tổng hợp; Chỉ số chất lượng vật chất của cuộc sống... Tuy vậy, trên thực tế, chúng ta rất khó định lượng chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mối quan hệ với các vấn đề xã hội. I.2.2.5. Các thước đo chất lượng tăng trưởng kinh tế liên quan đến bảo vệ và cải thiện môi trường Tăng trưởng kinh tế cùng việc tổ chức sản xuất của con người luôn gắn liền với việc khai thác các nguồn tài nguyên và môi trường thiên nhiên để sản xuất. Tăng trưởng kinh tế và sử dụng tài nguyên môi trường có mối quan hệ với nhau và được xem xét qua rất nhiều chỉ tiêu, trong đó có các chỉ tiêu chính sau đây: nhịp độ tăng trưởng của GDP cả nước; giá trị gia tăng của các ngành trong tương quan so sánh với mức độ cạn kiệt tài nguyên và tình hình ô nhiễm môi trường. I.3. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ I.3.1. Tác động của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Trong các tiêu thức đánh giá sự phát triển, cơ cấu kinh tế được xem như là tiêu thức phản ánh sự thay đổi về chất, là dấu hiệu đánh giá, so sánh các giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau như: cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu khu vực thể chế v.v... Trong đó, cơ cấu ngành là quan trọng nhất vì nó phản ánh sự phát triển của khoa học công nghệ, phân công lao động chuyên môn hóa và sự phát triển của lực lượng sản xuất. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành chính là một nội dung quan trọng của quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành là một quá trình diễn ra liên tục và gắn liền với sự phát triển kinh tế. Ngược lại nhịp độ phát triển, tính chất bền vững của quá trình tăng trưởng lại phụ thuộc vào khả năng chuyển dịch cơ cấu ngành linh hoạt, phù hợp với các điều kiện bên trong, bên ngoài và các lợi thế tương đối của nền kinh tế. I.3.2. Hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Trong bất kỳ một quốc gia, một vùng lãnh thổ nào, khi nói đến phát triển kinh tế không thể không nói đến vai trò của các doanh nghiệp. Muốn có một nền kinh tế mạnh thì phải có khu vực doanh nghiệp phát triển và có sức cạnh tranh cao. Nói cách khác, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung được quyết định bởi năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Vì vậy, hiệu quả kinh tế và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế cao là một trong những nhân tố tác động đến chất lượng của tăng trưởng kinh tế. Sự thay đổi của yếu tố năng suất lao động của nền kinh tế và hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế là những nhân tố cơ bản quyết định đến hiệu quả của nền kinh tế. Thông qua sự thay đổi của yếu tố hiệu quả kinh tế sẽ tác động đến chất lượng của tăng trưởng của nền kinh tế, đây là một trong những yếu tố nội tại của nền kinh tế. Năng suất là phần tăng GDP sau khi đã trừ đi việc tăng số lượng lao động và tăng tài sản cố định trong sản xuất. Phần thặng dư này phản ánh việc tăng chất lượng tổ chức lao động, chất lượng máy móc, vai trò của quản lý tổ chức sản xuất. Có thể thấy, việc tăng hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu phản ánh đích thực và khái quát nhất hiệu quả sử dụng nguồn lực sản xuất, là cơ sở đánh giá tính chất phát triển bền vững xã hội, nói lên hiệu quả sản xuất xã hội, tiến bộ khoa học công nghệ, trình độ tổ chức quản lý sản xuất… Thông qua đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và tác động trực tiếp đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. I.3.3. Phúc lợi và tiến bộ xã hội Tiến bộ và phúc lợi xã hội là những vấn đề liên quan đến lao động, thất nghiệp, xóa đói giảm nghèo, bất bình đẳng và giáo dục - y tế. Phát triển con người vừa là phương tiện vừa là mục tiêu của phát triển kinh tế. Các chỉ tiêu như HDI hay GNI/người được sử dụng như một thước đo đánh giá sự tác động của phát triển kinh tế đến sự tiến bộ trong phát triển con người. So sánh thứ hạng các nước thông qua HDI hay GNI/người phản ánh được các nước đã chú trọng (nhiều hay ít) trong sử dụng thành quả tăng trưởng kinh tế để cải thiện đời sống. Chất lượng tăng trưởng thể hiện thông qua việc tăng trưởng đi đôi với giải quyết việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, giảm tỷ lệ nghèo đói, nâng cao chất lượng giáo dục và y tế chăm sóc sức khỏe cho người dân. Khi nghiên về phúc lợi cho con người, trong mối quan hệ giữa thu nhập và tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, quan điểm của các nhà kinh tế Kuznets và lewis cho rằng: sự bất bình đẳng sẽ tăng lên lúc đầu và sau đó giảm bớt khi nền kinh tế đã đạt tới mức độ phát triển nhất định. Do đó, thông qua sự khác nhau về các chỉ tiêu trên của mỗi quốc gia, có thể đánh giá được chất lượng tăng trưởng của từng quốc gia. I.3.4. Môi trường với phát triển kinh tế Tăng trưởng và phát triển luôn đi liền với quá trình khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên như: đất đai, nguồn nước, khoáng sản và năng lượng v.v... Hệ quả của việc khai thác và sử dụng tài nguyên đó, để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh đã có những ảnh hưởng không tốt đối với môi trường tự nhiên như: ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí... Quá trình phát triển kinh tế là quá trình làm thay đổi đối tượng lao động, biến các tài nguyên thiên nhiên thành các sản phẩm tiêu dùng phục vụ nhu cầu của con người. Chính vì vậy, khi bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao thường dẫn đến sử dụng cạn kiệt nguồn tài nguyên, chất thải rắn, chất thải khí tăng lên và gây ra ô nhiễm môi trường. Cải thiện chất lượng môi trường, bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên là một trong nhóm các mục tiêu nâng cao chất lượng tăng trưởng hướng tới phát triển bền vững. Môi trường bền vững phản ánh một khía cạnh của chất lượng tăng trưởng bao gồm 3 chức năng: là không gian sinh tồn của con người, là nơi cung cấp tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản xuất của con người, là nơi chứa đựng, xử lý, tái chế các phế thải của con người. Do đó, chất lượng chất lượng môi trường tác động cùng chiều với chất lượng trưởng kinh tế trong đó con người có cuộc sống chất lượng cao trên nền tảng sinh thái bền vững. I.4. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG I.4.1. Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc Trung Quốc là một nước liên tục đạt được mức tăng trưởng cao trong hơn 20 năm qua. Nghiên cứu về tăng trưởng ở Trung Quốc để tìm ra các giải pháp, vận dụng nhằm nâng cao tốc độ và chất lượng tăng trưởng ở Việt Nam là việc làm rất có ý nghĩa. Sự tăng trưởng nhanh ở Trung Quốc có ba đặc điểm đáng chú ý, đó là: Thứ nhất, sự tăng trưởng cao tập trung ở một số khu vực. Miền Đông Bắc có điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, về giao thông, có nhiều cơ sở công nghiệp hơn miền Trung và miền Tây nên có nhịp độ phát triển cao hơn. Các tỉnh duyên hải có mức tăng trưởng cao hơn mức trung bình cả nước, nhưng nhiều tỉnh khác cũng có mức phát triển khá cao. Thứ hai, tăng trưởng diễn ra theo chu kỳ. Chu kỳ này lập lại theo trình tự gắn liền với sự điều chỉnh chính sách: Nới lỏng - Tăng trưởng quá nóng - Thắt chặt - Trì trệ. Các năm 1986 và 1993 là những đỉnh điểm tăng trưởng kinh tế. Sau khi các chính sách được nới lỏng theo hướng tự do hoá, nền kinh tế phát triển cao, đôi khi quá cao, dẫn đến những mất cân đối trong cung cầu, mất cân đối trong cung ứng tiền tệ… nền kinh tế trở ._.nên quá nóng làm nảy sinh yêu cầu điều chỉnh, thắt chặt, hay tăng cường kiểm soát, điều này đến lượt nó lại dẫn đến trì trệ. Các chu kỳ tăng trưởng thường đi kèm những biến động về lạm phát và phơi bày một số yếu kém về quản lý vĩ mô thường thể hiện trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, cung ứng nguyên vật liệu… Thứ ba, tăng trưởng dựa vào tăng năng suất. So với các nền kinh tế Châu Á tăng trưởng nhanh khác, tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc ít phụ thuộc hơn vào việc gia tăng lượng đầu vào về vốn và lao động. Chẳng hạn ở Nhật Bản trong thời gian 1960-1993, trong khi mức tăng GDP bình quân là 5,5% thì mức tăng vốn vật chất đạt tới 8,7%. Với trường hợp Hàn Quốc, cũng trong thời gian này, khi mức tăng GDP đạt 8,6% thì mức tăng vốn vật chất lên tới 12,5%. Trong khi ở Trung Quốc, trong thời gian 1978-1995, mức tăng bình quân năm GDP đạt 9,4% thì mức tăng vốn vật chất chỉ là 8,8%; mức tăng vốn nhân lực (tính bằng số năm đi học trên một công nhân) là 2,7% và mức tăng lực lượng lao động là 2,4%. Theo tính toán của WB, việc tăng vốn đầu vào chỉ đóng góp khoảng 37% vào mức tăng trưởng chung ở Trung Quốc. Việc cải thiện chất lượng và số lượng lao động đóng góp 17%, còn lại gần một nửa mức tăng GDP (khoảng 4,3 điểm %) là nhờ các yếu tố khác. I.4.1.1. Những vấn đề liên quan đến chất lượng tăng trưởng của Trung Quốc Thứ nhất: chênh lệch giàu nghèo gia tăng. Sự chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn biểu hiện rõ rệt ở sự không cân xứng giữa tỷ lệ cư dân và thu nhập của mỗi bộ phận. Năm 1978, cư dân thành phố chiếm 18% dân số cả nước, có thu nhập chiếm 34% tổng thu nhập. Năm 1996, tỷ lệ dân thành phố tăng lên 28% nhưng tỷ lệ thu nhập lại chiếm tới 50%, tức một nửa tổng thu nhập cả nước. Sự chênh lệch giàu nghèo giữa các khu vực cũng ngày càng trầm trọng. Năm 1978, tổng thu nhập của dân miền Đông cao hơn mức của dân miền Trung 1,38 lần. Năm 1995, GDP tính theo đầu người của miền Đông đã gấp 2,41 lần ở miền Tây. Thứ hai: hiểm hoạ môi trường suy thoái. Sự phát triển nhanh và liên tục của Trung Quốc trong 20 năm qua mang trong mình những tiềm ẩn về hiểm hoạ ô nhiễm môi trường sinh thái. Trước hết, sự tàn phá rừng tự nhiên diễn ra nhanh chóng. Nạn chặt phá rừng đầu nguồn đã gây nên nhiều tác động tiêu cực đến đời sống xã hội như: nhiều loại động - thực vật bị tuyệt chủng, đất đai bị sa mạc hoá, nguồn nước ngầm bị cạn kiệt, hiệu ứng nhà kính, hạn hán và lũ lụt gia tăng… Kể từ năm 1981 đến nay, Trung Quốc đã đối mặt với 11 trận lụt lớn mà khủng khiếp nhất là trận lụt “thế kỷ” giữa năm 1998. I.4.1.2. Các biện pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng. a. Duy trì mức tăng trưởng vừa phải nhưng ổn định Trong những năm 1992-1994, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng với tốc độ cao trên hai con số. Tăng trưởng quá nóng, chính vì vậy, từ năm 1996, tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đã chuyển từ trạng thái “nóng” đến ổn định: tăng trưởng 8,4% giai đoạn 1996-2001; 9,4% năm 2004; 9,9% năm 2005; 10,4% năm 2008. b. Tăng đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực Từ những năm 1990, Trung Quốc rất coi trọng công tác giáo dục cho phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng các yêu cầu nâng cao chất lượng tăng trưởng. Việc điều chỉnh cơ cấu giáo dục được thể hiện ở những điểm sau đây: (1) Tăng cường giáo dục cơ sở, coi trọng giáo dục phổ cập 9 năm bắt buộc trên toàn quốc, trước mắt xoá bỏ về cơ bản nạn mù chữ cho dân ở lứa tuổi dưới 50; (2) Phát triển giáo dục kỹ thuật và dạy nghề cũng như các chương trình đào tạo chuyên tu, tại chức, nâng cao chất lượng lành nghề của công nhân và cán bộ trung cấp; (3) Mở rộng giáo dục đại học và sau đại học, nâng cao chất lượng giáo dục, điều chỉnh các tổ chức quản lý khoa học, tăng hiệu quả dạy học. c. Tăng đầu tư cho bảo vệ môi trường Trung Quốc đã đưa ra kế hoạch tăng chi phí hàng năm cho bảo vệ môi trường từ 0,7% GDP năm 1995 (tương đương 1,7 tỷ USD) lên 1,5% năm 2000 (tương đương 40 tỷ USD) nhằm kiểm soát tình trạng suy thoái môi trường hiện nay. Tuy nhiên, để có thể bảo vệ môi trường một cách có hiệu quả, ước tính Trung Quốc cần phải chi từ 5 đến 10% GDP, vì thế ngoài vốn ngân sách của Nhà nước, chính sách môi trường của Trung Quốc còn dựa theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” nhằm buộc các xí nghiệp phải tìm cách tránh lãng phí tài nguyên, phải hạn chế tác động xấu của sản xuất đối với môi trường. d. Sửa đổi, điều chỉnh chính sách luật pháp; cải cách hành chính và tăng cường dân chủ Một số sửa đổi trong Hiến pháp trước hết nhằm tập hợp các lực lượng, các thành phần kinh tế, khuyến khích kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân phát triển. Năm 1988, hiến pháp sửa đổi dã quy định “Nhà nước cho phép các thành phần kinh tế kinh doanh tồn tại và phát triển trong phạm vi quy định của pháp luật”, rằng “kinh tế tư doanh là thành phần kinh tế bổ sung cho kinh tế công hữu xã hội chủ nghĩa”. Ngày 15/03/1999, tại kì họp thứ 2, Quốc hội khoá IX, Trung Quốc đã thông qua Dự thảo sửa đổi Hiến pháp nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, trong đó ghi rõ: “Kinh tế phi công hữu được quy định trong phạm vi luật pháp như kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh… là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Nhà nước bảo hộ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh. Nhà nước thực hiện sự chỉ đạo, giám sát và quản lý kinh tế cá thể và kinh tế tư doanh”. Cải cách để tinh giản bộ máy hành chính cũng là một nội dung quan trọng, có tác động mạnh đến nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế. e. Phát triển cân đối, hài hoà giữa các vùng, khu vực. Từ cuối những năm 1990, trong sự phát triển kinh tế Trung Quốc, một vấn đề nổi cộm là có sự chênh lệch lớn về mức phát triển giữa miền Đông với các miền Trung và Tây. Do vậy, từ nhiều năm nay Trung Quốc đã và đang thực hiện chiến lược phát triển miền Trung và miền Tây, tăng đầu tư từ ngân sách và ưu tiên thu hút từ đầu tư nước ngoài vào các khu vực này. Năm 2000, Trung Quốc dành 70% đầu tư bán công trái, 70% khoản vay ưu đãi của các tổ chức tiền tệ quốc tế đầu tư vào miền Tây. Hiện nay, Trung Quốc đã đưa ra mô hình và trọng điểm phát triển cho mỗi khu vực. I.4.2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam Từ những biện pháp Trung Quốc đã áp dụng nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế, Việt Nam cần chú trọng đến việc nâng cao tốc độ phát triển kinh tế nhưng nằm trong sự kiểm soát và ổn định. Tăng cường đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực: tăng cường giáo dục cơ sở, nâng chuẩn phổ cập; phát triển giáo dục dạy nghề cũng như các chương trình đào tạo chuyên tu và tại chức nhằm nâng cao chất lượng lành nghề của công nhân và cán bộ trung cập; mở rộng giáo dục đại học và sau đại học, mở rộng các tổ chức quản lý khoa học, tăng hiệu quả dạy học. Tăng cường chi đầu tư cho vấn đề bảo vệ môi trường, sử lý ô nhiễm và chất thải công nghiệp. Bên cạnh đó Việt Nam cần phải điều chỉnh các chính sách pháp luật, cải cách hành chính và tăng cường dân chủ. Tập trung phát triển các vùng kinh tế mũi nhọn để tạo hiệu ứng lan tỏa nhưng cũng cần có các chính sách phát triển cân đối, hài hòa giữa các vùng, khu vực. I.5. SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG Chất lượng tăng trưởng được thể hiện ở tính hiệu quả của việc đạt được các chỉ tiêu tăng trưởng và khả năng duy trì các chỉ tiêu đó trong dài hạn. Chất lượng tăng trưởng thể hiện năng lực sử dụng các yếu tố đầu vào, tạo nên tính chất, sự vận động của các chỉ tiêu tăng trưởng và ảnh hưởng lan tỏa của nó đến các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Số lượng và chất lượng tăng trưởng là hai mặt của một vấn đề, trong đó vai trò của chất lượng tăng trưởng ngày càng quan trọng. Chính vì vậy, sự cần thiết nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế là hoàn toàn phù hợp với xu thế tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế, bởi vì: Thứ nhất, chính việc quan tâm đến các tiêu chí về nâng cao chất lượng tăng trưởng lại là cơ hội để đạt được mục tiêu tăng trưởng về số lượng, đó là: sự gia tăng tổng mức thu nhập của nền kinh tế và mức gia tăng thu nhập bình quân trên một đầu người. Thứ hai, vì mục tiêu cuối cùng của quá trình phát triển là vì con người. Nên, hiệu ứng của việc nâng cao chất lượng tăng trưởng có tác động lan tỏa trực tiếp đến các khía cạnh khác của phát triển bền vững quốc gia như: chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng tích cực, cải thiện các chỉ tiêu xã hội như nâng cao mức sống dân cư (nhu cầu mức sống vật chất, tinh thần, thu nhập bình quân GNI/người); giảm nghèo đói và bất bình đẳng; suy dinh dưỡng, sự tăng lên của tuổi thọ bình quân, khả năng tiếp cận đến các dịch vụ y tế, nước sạch, trình độ dân trí, giáo dục của đại bộ phận quần chúng nhân dân v.v... CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG VÀ CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA TỈNH YÊN BÁI GIAI ĐOẠN 2005–2008 II.1. TIỀM NĂNG KINH TẾ XÃ HỘI CỦA TỈNH YÊN BÁI II.1.1. Giới thiệu chung Vị trí địa lý: tỉnh Yên Bái là tỉnh miền núi, nằm sâu trong nội địa thuộc vùng núi phía Bắc, cách thủ đô Hà Nội 180 km. Phía Bắc giáp tỉnh Lào Cai, phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía Ðông giáp tỉnh Hà Giang - Tuyên Quang, phía Tây giáp tỉnh Sơn La. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 6.882,922 km2, chiếm 2,09% tổng diện tích tự nhiên cả nước. Yên Bái có 8 đơn vị hành chính cấp huyện và 1 đơn vị cấp Thành phố, với tổng 180 số xã, phường, thị trấn; trong đó Nhà nước công nhận 70 xã vùng cao, bằng 38,9% tổng số xã, chiếm 67,56% diện tích tự nhiên toàn tỉnh và có 61 xã đặc biệt khó khăn. Khí hậu: mang khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 22oc–23oc, độ ẩm không khí khoảng 85%-87%. Dân số - Dân tộc: hiện nay, tỉnh Yên Bái có 869.406 người. Trong đó, dân số trong độ tuổi lao động là 435.312 người, chiếm 50,07% dân số toàn tỉnh. Trên địa bàn tỉnh có 30 dân tộc, đông nhất là dân tộc Kinh có 389.075 người, chiếm 54%. Tài nguyên du lịch: Yên Bái là tỉnh miền núi, phong cảnh thiên nhiên đa dạng và phong phú, có nhiều hang động như hang Thẩm Lé (huyện Văn Chấn), Khẩm Khuôi, động Thuỷ Tiên (huyện Yên Bình)..., có nhiều sông hồ lớn như hồ Thác Bà, du lịch sinh thái Suối Giàng... và nhiều di tích cách mạng, có nhiều dân tộc thiểu số cùng sinh sống mang đậm bản sắc dân tộc truyền thống.  II.1.2. Các tiềm năng phát triển Các tiềm năng thế mạnh của tỉnh có thể huy động vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững gồm: - Tỉnh Yên Bái có vị trí địa lý là cửa ngõ vùng Tây Bắc, có hệ thống giao thông đa dạng với các loại hình: đường bộ, đường sắt, đường thuỷ… - Các vùng nguyên liệu tập trung phục vụ cho phát triển công nghiệp chế biến: giấy, bột giấy, ván nhân tạo, tinh dầu quế, chè, tinh bột sắn, hoa quả… - Nguồn tài nguyên đa dạng phục vụ công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản, vật liệu xây dựng: đá quý, cao lanh, fenspat, đá xẻ ốp lát, đá mỹ nghệ, bột cácbonnát canxi, quặng sắt, xi măng, gạch, sứ điện… - Tài nguyên nhân văn phong phú với 30 dân tộc anh em có bản sắc văn hoá dân tộc khác nhau là tiềm năng để kết hợp phát triển du lịch văn hoá. - Nguồn lao động dồi dào khoảng 450.000 ngàn lao động năm 2008, trung bình mỗi năm nguồn lao động của tỉnh tăng 17.000 ngàn lao động đáp ứng nhu cầu cho các ngành trong tỉnh và cho xuất khẩu lao động. - Diện tích đất trống, đồi núi trọc cần phủ xanh là 301.088 ha, chiếm tới 94% diện tích đất chưa sử dụng, là tiềm năng để phát triển kinh tế đồi rừng. - Diện tích mặt nước lớn 322,6 ha nên thuận tiện cho nuôi trồng thuỷ sản. - Hệ thống khe, suối với độ dốc lớn thuộc các huyện Văn Chấn, Trạm Tấu, Mù Cang Chải (với 76 khe suối và 134 hồ lớn nhỏ) là tiềm năng để phát triển thuỷ điện vừa và nhỏ. - Các danh lam thắng cảnh, di tích văn hoá lịch sử được đầu tư khai thác, kết hợp với bản sắc văn hoá dân tộc các vùng để phát triển ngành du lịch như: hồ Thác Bà, vùng chè Suối Giàng, cánh đồng Mường Lò, Chiến khu Vần, khu di tích lịch sử Nguyễn Thái Học, Căng Đồn Nghĩa Lộ, Đền Đông Cuông, Đền Tuần Quán, Đền Đại Cại… II.1.3. Các thành tựu về kinh tế - xã hội Thành tựu kinh tế - xã hội của tỉnh đạt được những năm qua là tiền đề để phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững trong thời kỳ mới. - Nền kinh tế giữ được sự phát triển ổn định, tăng trưởng kinh tế đạt khá, trong 5 năm trở lại đây tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn đạt được trên hai con số luôn tăng từ 10,2%-12,5%, cơ cấu kinh tế dịch chuyển đúng hướng. - Phát triển công nghiệp đã khai thác được tiềm năng thế mạnh của tỉnh về nguồn nguyên liệu, thúc đẩy được sản xuất nông lâm nghiệp phát triển. - Cơ cấu sản xuất nông lâm nghiệp đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực đó là tăng tỷ trọng chăn nuôi và thuỷ sản. - Diện tích rừng hàng năm liên tục tăng lên, nâng cao dần tỷ lệ che phủ của rừng. - Hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn, vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn được cải thiện đáng kể. - Hoạt động kinh tế đối ngoại được tăng cường và mở rộng. - Du lịch bước đầu khởi sắc và có triển vọng phát triển trong thời kỳ tới. - Các lĩnh vực văn hoá xã hội có nhiều chuyển biến tích cực: các phong tục tập quán lạc hậu đang dần được thay đổi, trình độ dân trí được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. II.2. THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA TỈNH YÊN BÁI GIAI ĐOẠN 2005-2008 II.2.1. Thực trạng tốc độ tăng trưởng kinh tế tỉnh Yên Bái giai đoạn 2005-2008 II.2.1.1. Tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế Tăng trưởng kinh tế có tầm quan trọng hàng đầu, không chỉ do xuất phát điểm của tỉnh Yên Bái còn thấp so với 64 tỉnh thành trong cả nước, mà còn đứng sau cả 10 tỉnh miền núi phía Bắc. Do đó, phải tăng trưởng nhanh để chống nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, để sớm thoát khỏi tình trạng kém phát triển, mà còn làm tiền đề để thực hiện nhiều mục tiêu kinh tế - xã hội khác của tỉnh như chống lạm phát, giảm thất nghiệp, tăng thu ngân sách, phát triển giáo dục, y tế, văn hoá, xóa đói giảm nghèo... Thời kỳ 1991-1995 tăng trưởng kinh tế bình quân của tỉnh là 7,5% đến thời kỳ 1996-2000 tốc độ tăng trưởng xấp xỉ đạt 9,5%, giai đoạn 2001-2005 tốc độ tăng trưởng của tỉnh bình quân là 9,52% và giai đoạn 2005-2008 là 11,38%, tốc độ tăng trưởng kinh tế thể hiện qua các con số của từng thời kỳ tăng trưởng vô cùng ấn tượng, và dường như tăng trưởng của tỉnh Yên Bái trong giai đoạn 2005-2008 là một bước nhảy đột phá. Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế tỉnh Yên Bái Đơn vị: % Năm 2005 2006 2007 2008 Tốc độ tăng trưởng kinh tế 10,15 11,20 11,66 12,50 Nguồn: Cục thống kê Yên Bái Hình 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế tỉnh Yên Bái Nguồn: Cục thống kê Yên Bái Từ những giai đoạn phát triển kinh tế của tỉnh Yên Bái, các thời kỳ 1991-1995; 1996-2000; 2001-2005 tốc độ tăng trưởng bình quân của cả tỉnh luôn tăng lên qua các giai đoạn. Thời kỳ 2005-2008 chứng kiến nền kinh tế của tỉnh đang trên đà tăng trưởng nhanh. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, và ổn định, năm sau tăng cao hơn so với năm trước. Năm 2006 là năm đầu thực hiện kế hoạch 5 năm 2006-2010, tốc độ tăng trưởng đạt 11,2% (NQ trên 11%). Năm 2007 là năm thứ 2 đạt tốc độ tăng trưởng cao. Các ngành sản xuất và dịch vụ đều có tốc độ tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước. So với 9 tỉnh cùng Tây Bắc thì Yên Bái có tốc độ tăng trưởng chậm. Năm 2008 mặc dù gặp nhiều khó khăn như: diễn biến không thuận lợi của kinh tế thế giới, khó khăn trong nước, do tác động của thời tiết rét đậm đầu năm, tình hình bão lũ trong tháng 8/2008, nhưng tỉnh vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế 12,5%, đây là mức cao nhất từ trước tới nay. Chính vì tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh luôn đạt cao từ năm 2005-2008 trên hai con số, nhờ đó, quy mô GDP của Yên Bái tăng nhanh chóng, năm 2008 đã gấp 1,82 lần so với năm 2005. II.2.1.2. Tốc độ tăng trưởng của các nhóm ngành kinh tế a. Nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp của tỉnh Yên Bái tăng giảm không đồng đều trong cả giai đoạn 2005-2008. Giá trị sản xuất của ngành tăng bình quân 5,38%/năm đạt chỉ tiêu kế hoạch đặt ra là (5,35%-5,47%). Trong quá trình phát triển, duy nhất chỉ có năm 2008 tốc độ tăng trưởng của ngành nông lâm nghiệp, thuỷ sản không đạt được mục tiêu 4,38%/5,5% do ảnh hưởng lạm phát chung của nền kinh tế cả nước, làm cho tốc độ tăng chi phí trung gian cao hơn so với tốc độ tăng của giá trị sản xuất, ngoài ra ảnh hưởng của diễn biến thời tiết làm mất trắng trên 2.130 ha lúa và màu, làm sản lượng lương thực giảm đáng kể. Trong chăn nuôi số lượng thiệt hại lớn trên 10.000 con trâu, bò, lợn. Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng của các nhóm ngành kinh tế Đơn vị: % Năm 2005 2006 2007 2008 Nông lâm nghiệp 5,85 5,65 5,71 4,38 CN xây dựng 9,68 14,15 14,50 18,95 Dịch vụ 10,90 14,89 15,41 14,10 Nguồn: Cục thống kê Yên Bái b. Công nghiệp và xây dựng Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân của 4 năm đạt 2 chữ số, bình quân tăng 14,32%/năm. Năm 2008 so với năm 2005, quy mô giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp gấp 1,92 lần, qua đó thấy được quy mô giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp của tỉnh Yên Bái tăng khá nhanh chỉ sau 4 năm. Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân toàn tỉnh giai đoạn 2005-2008 đạt chỉ tiêu kế hoạch (14%-14,5%). Nhưng năm 2005 sản xuất công nghiệp gặp nhiều khó khăn, không đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra 9,68%/15% mặc dù giá trị sản xuất công nghiệp tăng 9,9% so với năm 2004, nguyên nhân là do giá xăng dầu tăng cao dẫn đến giá nguyên liệu đầu vào của các ngành sản xuất và chi phí lưu thông tăng theo. Mặt khác do mất và thiếu điện nên nhiều doanh nghiệp không thể sản xuất theo đúng kế hoạch. Nhiều dự án đã được chấp thuận đầu tư, tiến hành khởi công, song do thiếu vốn đã hạn chế về năng lực và ảnh hưởng đến tiến độ thi công của một số dự án sản xuất công nghiệp. Tăng trưởng cao của công nghiệp đạt được ở cả ba khu vực (khu vực doanh nghiệp nhà nước, khu vực ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài). Tăng trưởng cao của công nghiệp cũng đạt được trên một số địa bàn quan trọng, với tốc độ cao hơn tốc độ tăng trưởng chung, như huyện Yên Bình, Lục Yên, thành phố Yên Bái. Tăng trưởng cao cũng đạt được ở một số sản phẩm chủ yếu như: đá bột, xi măng, sứ công nghiệp, chè, gạch… c. Dịch vụ Trong thời kỳ 2005-2008, ngành dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khá cao, qua 4 năm tốc độ tăng liên tục và đạt trên 2 chữ số. Giá trị sản xuất của ngành tăng bình quân 13,83%/năm. Tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành dịch vụ luôn đạt cao hơn chỉ tiêu kế hoạch đề ra trong từng năm của cả giai đoạn (13,37%/năm theo NQ). Tuy tốc độ tăng này có giảm sút vào năm 2008 nhưng hoạt động thương mại dịch vụ năm 2008 vẫn phát triển ổn định và tiếp tục tăng cao hơn so với năm 2007, và vượt 2,4% so với chỉ tiêu Nghị quyết đề ra. II.2.2. Tăng trưởng kinh tế nhìn từ yếu tố đầu ra Trước thời kỳ đổi mới, ngay cả những năm 1986-1996, sản xuất chưa đủ để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, tình trạng nhập siêu, và nền kinh tế kém phát triển. Nhưng bắt đầu từ những năm 1996 và nhất là trong giai đoạn 2005-2008, nền sản xuất của tỉnh Yên Bái đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao, xuất khẩu cũng ngày một tăng. Bảng 3: Tăng trưởng tiêu dùng và xuất khẩu trong tỉnh Đơn vị: % Năm Tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu Tốc độ tăng danh nghĩa Tốc độ tăng sau khi trừ tỷ lệ lạm phát 2005 23,19 14,99 17,70 2006 16,86 9,26 22,10 2007 22,42 13,82 5,30 2008 26,57 18,47 13,50 Nguồn: Niên giám thống kê Yên Bái Tiêu thụ trong nước, dưới tác động của chính sách kích cầu đã gia tăng cả về quy mô và tốc độ, trở thành động lực của tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2008 của Yên Bái tăng 26,57%. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá tiêu dùng bình quân so với năm trước thì vẫn còn tăng trên 18,47%, gấp 1,48 lần tốc độ tăng GDP. Điều này không chỉ thể hiện kết quả tăng trưởng kinh tế, thu nhập và sức mua có khả năng thanh toán cao lên, tiêu dùng thông qua thị trường nhiều hơn, mà còn có tác dụng mời gọi các nhà đầu tư và tài trợ nước ngoài, khi thị trường tiêu thụ trong tỉnh không chỉ có dân số đông mà còn đang tiềm ẩn một thị trường có dung lượng lớn. Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu so với GDP đạt trên 17,83% giai đoạn 2005-2008, chứng tỏ độ mở cửa của nền kinh tế với các tỉnh lân cận và với nước ngoài đạt trung bình, vẫn còn khá chậm trong quá trình giao lưu, hợp tác xuất khẩu với bên ngoài chưa phù hợp với định hướng xuất khẩu ngày càng tăng của nền kinh tế. Kim ngạch xuất khẩu giảm liên tục từ 2006 đến nay, với tốc độ tăng giảm thất thường. Nhưng hầu như luôn cao hơn tốc độ tăng GDP (năm 2005 gấp 1,7 lần; năm 2006 gấp 1,97 lần, năm 2008 gấp 1,08 lần). Tuy nhiên, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu năm 2007 giảm đáng kể so với các năm trước, thấp hơn 2,46% so với Nghị quyết đề ra nguyên nhân là do thiên tai (cơn bão số 5) làm ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân, thiệt hại do thời tiết gây ra là 35,5 tỷ đồng cho nền kinh tế. II.2.3. Nhận xét chung về tăng trưởng kinh tế của Yên Bái Tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh Yên Bái trong thời gian qua dù theo xu thế tích cực nhưng với quy mô nền kinh tế còn quá nhỏ bé, điểm xuất phát thấp, thì tốc độ tăng trưởng như vậy là quá chậm để có thể rút ngắn khoảng cách phát triển với các tỉnh miền núi phía Bắc và so với các tỉnh thành trong cả nước. Năm 2005, quy mô GDP bình quân đầu người mới đạt 4,26 triệu đồng, nếu tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái mới đạt 251 USD, nếu tính bằng USD theo tỷ giá sức mua tương đương (PPP) mới đạt trên 1062 USD. Đó là những chỉ số còn thấp xa so với mức bình quân chung của 10 tỉnh miền núi phía Bắc, và của cả nước. Nói cách khác, Yên Bái thuộc nhóm các tỉnh có thu nhập thấp theo tiêu chuẩn phân loại của WB. Theo phân loại của WB về thu nhập, các quốc gia và vùng lãnh thổ được chia thành 4 nhóm: (1) Thu nhập thấp, bao gồm các nước và vùng lãnh thổ có tổng sản phẩm trong nước bình quân từ 765 USD/người/năm trở xuống; (2) Thu nhập trung bình thấp 766-3035 USD/người/năm; (3) Thu nhập trung bình cao 3036-9385 USD/người/năm; và (4) Thu nhập cao từ 9386 USD/người/năm trở lên. Bảng 4: Thu nhập BQ đầu người 1 tháng ở Yên Bái so với cả nước và các tỉnh vùng Đông Bắc Tỉnh Thu nhập BQ đầu người 1 tháng (nghìn đồng) Chia theo nguồn thu (%) Thu từ tiền lương, tiền công Thu từ nông lâm nghiệp, thuỷ sản Thu từ phi nông nghiệp Thu khác Cả nước 636 34,3 24,8 22,8 18,1 Vùng Đông Bắc 511 32,3 32,5 15,7 19,6 1 Quảng Ninh 867 46,9 16,1 18,0 19,0 2 Thái Nguyên 555 30,6 28,8 16,9 23,6 3 Phú Thọ 520 30,0 29,0 15,4 25,4 4 Bắc Giang 490 28,2 40,6 14,9 16,3 5 Lạng Sơn 455 22,0 41,1 18,2 18,9 6 Tuyên Quang 450 26,7 42,0 18,4 14,9 7 Yên Bái 424 27,4 38,0 13,2 21,5 8 Lào Cai 400 29,8 44,5 12,8 13,0 9 Cao Bằng 395 33,2 34,7 10,4 21,8 10 Bắc Cạn 388 32,5 44,8 11,1 11,6 11 Hà Giang 329 25,2 54,7 10,3 9,7 Nguồn: Kết quả điều tra mức sống năm 2006, Tổng cục thống kê 2007 Tóm lại, có thể khẳng định rằng tăng trưởng kinh tế của tỉnh Yên Bái đã đạt được những thành tựu quan trọng xét dưới góc độ số lượng. Nhìn tổng quan, bức tranh tăng trưởng kinh tế tỉnh Yên Bái trong 4 năm trở lại đây, năm sau càng sáng sủa hơn năm trước, tạo tiền đề để thực hiện các mục tiêu cao hơn để hoàn thành, vượt chỉ tiêu trong 5 năm 2006-2010, và định hướng phát triển đến năm 2020, nhằm sớm đưa Yên Bái ra khỏi tình trạng kém phát triển. Tuy vậy, để sớm đưa tỉnh Yên Bái ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, sớm thoát khỏi khu vực các tỉnh có thu nhập thấp, Yên Bái cần phải duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong dài hạn, và điều này chỉ có thể đạt được nếu sự tăng trưởng đó có chất lượng cao. II.3. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TỈNH YÊN BÁI GIAI ĐOẠN 2005-2008 II.3.1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Bên cạnh tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế của tỉnh Yên Bái trong những năm qua, ở một chừng mực nào đó, đã có sự chuyển dịch tích cực, với tỷ trọng các lĩnh vực kinh tế có giá trị gia tăng cao ngày càng tăng. Xem xét cơ cấu kinh tế theo ba nhóm ngành thì thấy rằng tỷ trọng nông - lâm - thuỷ sản trong GDP đã giảm đều đặn và tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ đã tăng lên tương ứng. Điều này phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao chất lượng tăng trưởng và phát triển kinh tế chung của đất nước. Bảng 5: Cơ cấu kinh tế tỉnh Yên Bái phân theo nhóm ngành (giá hiện hành) Đơn vị tính: % Năm Tổng số Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản Công nghiệp và xây dựng Dịch vụ 2005 100 38,99 27,76 33,25 2006 100 37,50 28,82 33,68 2007 100 36,58 29,48 33,94 2008 100 35,05 31,93 33,02 Nguồn: Niên giám thống kê Yên Bái, 2008 Có thể thấy rõ, cơ cấu kinh tế của Yên Bái chuyển dịch đúng hướng tích cực, tỷ trọng của nhóm ngành nông nghiệp trong GDP của tỉnh Yên Bái giảm dần theo thời gian, từ 38,99% xuống 35,05% trong thời kỳ 2005-2008, trong khi công nghiệp đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế, từ 27,76% tăng lên 31,93% trong cùng thời kỳ. Khu vực dịch vụ chưa chiếm tỷ trọng lớn nhất trong ba khối ngành và lại có xu thế đi xuống, chỉ ở mức 33,47% trong 4 năm trở lại đây. Hình 2: Tốc độ tăng trưởng các nhóm ngành kinh tế tỉnh Yên Bái Nguồn: Cục thống kê Yên Bái Do chiếm tỷ trọng lớn trong GDP, nên năm 2008 công nghiệp và xây dựng vẫn là khu vực có đóng góp lớn vào tốc độ tăng trưởng chung, chiếm tới 31,93% trong cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng đạt 18,95% (đóng góp 6,05% vào mức tăng chung). Khu vực nông - lâm - thủy sản chịu nhiều tác động bất lợi của thời tiết, dịch cúm gia cầm và biến động của thị trường; tốc độ tăng trưởng của khu vực nông - lâm - thủy sản đạt 4,38%, đóng góp 9,92% hay 1,24 điểm phần trăm tốc độ tăng trưởng GDP. Trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, kết quả là khu vực dịch vụ đóng góp tới 33,47% trong tăng trưởng cả giai đoạn, tốc độ tăng trưởng các ngành dịch vụ bình quân đạt 13,83% (đóng góp 4,63% vào mức tăng chung). II.3.2. Thực trạng hiệu quả kinh tế I.3.2.1. Năng suất lao động của nền kinh tế Bảng 6: Năng suất lao động của tỉnh Yên Bái Năm Năng suất lao động (giá thực tế) (triệu VND/người/năm) Tốc độ tăng năng suất lao động (giá so sánh) (%) Tốc độ tăng trưởng GDP (%) 2005 7,49 7,29 10,15 2006 8,80 8,48 11,20 2007 10,45 9,33 11,66 2008 13,01 8,67 12,50 Nguồn: Niên giám thống kê Yên Bái Năng suất lao động xã hội (được tính bằng GDP theo giá thực tế chia cho tổng số lao động đang làm việc) của tỉnh Yên Bái còn rất thấp: năm 2005 đạt khoảng 7,49 triệu đồng/người/năm, hay 474 USD/người/năm. Đó là những con số rất khiêm tốn so với cả nước (19,6 triệu đồng/người/năm hay 1240 USD/người/năm). Trong cả giai đoạn 2005-2008 năng xuất lao động của tỉnh cũng có xu hướng tăng lên nhưng còn chậm và đặc biệt năng xuất lao động năm 2008 vẫn còn thấp hơn năng xuất lao động của cả nước năm 2005 rất nhiều. Khi năng suất lao động thấp và tăng chậm, thì chẳng những tác động không tốt tới tăng trưởng GDP mà còn chứng tỏ giá trị thặng dư tạo ra thấp, ảnh hưởng đến tích lũy tái đầu tư để tái sản xuất mở rộng cũng như nâng cao mức sống. II.3.2.2. Hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế Nhìn trên góc độ cả nước, năng lực sản xuất của vốn đầu tư trên cả nước đang giảm thấp đến mức báo động, năm 2005 hệ số ICOR cả nước là 4,6. Trong khi đó hệ số ICOR của tỉnh Yên Bái có thể nói là ở mức khá lý tưởng. ICOR có xu hướng tăng lên trong năm 2007 và gần bằng của năm 2005 là 3,31; nhưng vẫn được coi là không quá cao. Hệ số ICOR bắt đầu giảm vào năm 2008 còn 2,91. Bảng 7: Hệ số ICOR của Yên Bái, giai đoạn 2005-2008 Năm Tăng trưởng GDP (%) ICOR 2005 10,15 3,31 2006 11,20 2,81 2007 11,66 3,30 2008 12,50 2,91 Nguồn: Cục thống kê Yên Bái Hệ số ICOR ở mức trung bình (khoảng 3,3 năm 2005 và 2007) hệ số này chỉ ở mức 2,8-2,9 năm 2006-2007 đây là tín hiệu đáng mừng của nền kinh tế cho hiệu quả đầu tư. Năm 2008, hệ số ICOR tính được là 2,91 (nghĩa là đầu tư gần 3 đồng thì GDP tăng lên 1 đồng), trong khi năm 2005, hệ số này là 3,3. Vậy là trong vòng 4 năm, hệ số ICOR đã giảm 1,14 lần. Hình 3: Tốc độ tăng trưởng GĐP và hệ số ICOR của tỉnh Yên Bái Nguồn: Cục thống kê Yên Bái Qua hình (3) có thể thấy hệ số ICOR khá thấp, phản ánh hiệu quả đầu tư ở mức cao, và hiệu quả đầu tư được cải thiện qua các năm. ICOR thể hiện tính chu kỳ rõ rệt cùng với tăng trưởng của GDP, chính vì vậy, năm 2008 kinh tế Yên Bái đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh 12,5% với hệ số của vốn đầu tư thấp 2,91. II.3.3. Thực trạng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh Dựa vào đánh giá Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) là chỉ số đánh giá và xếp hạng chính quyền các tỉnh, thành của Việt Nam trong việc xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho việc phát triển doanh nghiệp dân doanh. Bảng8: Xếp hạng chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2006-2008 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Thứ tự/tỉnh Đánh giá Thứ tự/tỉnh Đánh giá Thứ tự/tỉnh Đánh giá 1.  Bình Dương Rất tốt 1. Bình Dương Rất tốt 1. Đà Nẵng Rất tốt 2.  Đà Nẵng Rất tốt 2. Đà Nẵng Rất tốt 2. Bình Dương Rất tốt 3.  Vĩnh Long Tốt 3. Vĩnh Long Rất tốt 3. Vĩnh Phúc Rất tốt 4.  Bình Định Tốt 4. Bình Định Rất tốt 4. Vĩnh Long Tốt 5.  Đồng Nai Tốt 5. Lào Cai Tốt 5. Đồng Tháp Tốt 6.  Lào Cai Tốt 6. An Giang Tốt 6. Long An Tốt 7.  TP. HCM Tốt 7. Vĩnh Phúc Tốt 7. Bến Tre Tốt 8.  Vĩnh phúc Tốt 8. BR - VT Tốt 8. Lào Cai Tốt 9.  An Giang Tốt 9. Đồng Tháp Tốt 9.  An Giang Tốt 10. Cần Thơ Khá 10. TP.HCM Tốt 10. TT-Huế Tốt 11. Đồng Tháp Khá 11. Sóc Trăng Tốt 11. Bình Định Tốt 12. Yên Bái Khá 12. Tiền Giang Tốt 12. BR - VT Tốt 13. Trà Vinh Khá 13. Quảng Nam Tốt 13. Tp.HCM Tốt 14. Quảng Nam Khá 14. Bến Tre Tốt 14. Quảng Nam Khá 15. Bắc Giang Khá 15. TT-Huế Tốt 15. Đồng Nai Khá 16. Hưng Yên Khá 16. Đồng Nai Tốt 16. Bắc Ninh Khá 17. BR-VT Khá 17. Cần Thơ Tốt 17. Bình Thuận Khá 18. Ninh Bình Khá 18. Yên Bái Khá 18. Cà Mau Khá 19. Sóc Trăng Khá 19. Hậu Giang Khá 19. Yên Bái Khá v.v... Nguồn: www.vcci.com.vn Với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và của sản phẩm còn rất thấp, nhưng năng lực cạnh tranh trên bình diện quốc gia của tỉnh Yên Bái so với 64 tỉnh thành ._.du lịch. Tại các điểm du lịch cần có nhiều hình thức dịch vụ, sản phẩm đặc trưng để khuyến khích và tạo điều kiện cho khách du lịch mua sắm, tiêu tiền. Đối với du lịch sinh thái, tập trung vào du lịch sinh thái hồ Thác Bà, vùng chè đặc sản Suối Giàng, suối nước nóng ở Văn Chấn, Trạm Tấu; khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu (Văn Yên), Khau Phạ (Mù Cang Chải)… Du lịch văn hóa lịch sử tập trung vào văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc, mà trọng điểm là văn hóa Mường Lò. Tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa, nơi thờ các anh hùng dân tộc có công dựng nước và giữ nước qua các thời kỳ. Phát triển du lịch theo hướng hiện đại, bền vững, bảo đảm hài hoà gắn bó thiên nhiên với con người. Đẩy mạnh xã hội hóa du lịch, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia hoạt động du lịch; có bước đi thích hợp và phù hợp với điều kiện của từng địa phương; trong dó khuyến khích các hộ gia đình làm du lịch, gắn với du lịch ngay tại cộng đồng. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ cho hoạt động du lịch, tạo được một đội ngũ cán bộ quản lý du lịch, hướng dẫn viên du lịch chuyên nghiệp, am hiểu lịch sử, văn hóa của tỉnh. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về du lịch; phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa tỉnh với các địa phương trong tỉnh, trong quản lý và phát triển du lịch. Và cuối cùng là hoàn chỉnh cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển du lịch thông thoáng, cởi mở để thu hút các doanh nghiệp đầu tư phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh. III.2.2. Tăng cường huy động vốn cho tăng trưởng Để thực hiện được mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân 12%-13%/năm trong giai đoạn 2006-2020, ước tính nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế hơn 10 năm tới lên đến 76.000 tỷ đồng; vốn ngân sách nhà nước chiếm 35%, vốn tín dụng chiếm 28%, vốn đầu tư trực tiếp nức ngoài chiếm 3%, vốn của tư nhân và dân chiếm 29,5%. Tốc độ tăng tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội (kể cả yếu tố trượt giá) dự kiến 30,82%/năm, đảm bảo được tốc độ tăng trưởng kinh tế đề ra. Để đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển nền kinh tế, rất cần xây dựng và thực hiện các chiến lược huy động vốn hợp lý trong bối cảnh các luồng vốn đầu tư trong, và ngoài tỉnh có nhiều biến động. Sau đây là một số giải pháp nhằm huy động các nguồn vốn cho tăng trưởng kinh tế tỉnh Yên Bái đến năm 2020. III.2.2.1. Đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp Để có thể thu hút được nguồn vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế, đảm bảo được tốc độ tăng trưởng kinh tế đã đề ra, trong khi hàng năm các doanh nghiệp trong tỉnh Yên Bái đóng góp khoảng 50% vào nguồn thu ngân sách và giải quyết việc làm cho gần 10.000 lao động. Với chủ trương đưa các doanh nghiệp hoạt động tại thị trường tài chính vào diện cổ phần hóa, các giải pháp liên quan đến cổ phần hóa doanh nghiệp được đưa ra như sau: Thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương III, và Nghị quyết số 04/NQ-TU của ban thường vụ tỉnh uỷ về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá trong tất cả các lĩnh vực, áp dụng với tất cả các doanh nghiệp nhà nước có quy mô khác nhau (trừ những doanh nghiệp liên quan đến an ninh - quốc phòng). Mở rộng diện các doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần hóa, kể cả một số tổng công ty và doanh nghiệp lớn trong các ngành như điện lực, luyện kim, cơ khí, hóa chất, phân bón, xi măng, xây dựng, vận tải đường bộ, đường sông, hàng không, hàng hải, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm... Xây dựng một nhóm các doanh nghiệp của tỉnh phát triển mạnh (đáp ứng các tiêu chí về quy mô kinh doanh: vốn kinh doanh từ 200 tỷ đồng trở lên, lao động từ 1000 người trở lên, doanh thu kinh doanh trên 100 triệu đồng/năm) làm động lực thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp khác. Hướng một số doanh nghiệp có đủ điều kiện đăng kí ra nhập thị trường chứng khoán. Hoạt động thu hút vốn đầu tư thông qua thị trường chứng khoán là giải pháp nhanh nhất giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn về vốn; do đó, các doanh nghiệp phải coi việc mua bán cổ phiếu trên thị trường là một hoạt động bình thường của doanh nghiệp. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Yên Bái phải gắn với các tổng công ty và tậo đoàn kinh tế lớn trong nước để tranh thủ sự giúp đỡ, là động lực thu hút đầu tư trong những năm tới. Tiếp tục thực hiện và hoàn thành công tác sắp xếp đổi mới doanh nghiệp. Mục tiêu là thực hiện chuyển đổi sở hữu đối với toàn bộ các doanh nghiệp không cần thiết phải duy trì 100% vốn nhà nước, hướng hoạt động của doanh nghiệp theo sự điều tiết của thị trường như các vấn đề: huy động vốn, mua bán nợ, giải thể, phá sản. Nhà nước không can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp mà chỉ giúp đỡ bằng tạo điều kiện về cơ chế chính sách trong khuôn khổ pháp luật cho phép. III.2.2.2. Huy động nguồn vốn trong dân cư thông qua phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ Huy động để xã hội hoá các nguồn lực phục vụ cho đầu tư phát triển. Tiếp tục tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân và trú trọng trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trên cơ sở Luật Doanh nghiệp và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, khuyến khích đầu tư vào các ngành, lĩnh vực nhằm tạo sự chuyển đổi cơ cấu sản xuất trong từng ngành, từng sản phẩm thuộc các ngành công nghiệp, nông lâm ngư nghiệp và dịch vụ. Nhìn chung, cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư thông qua một số giải pháp: Thứ nhất: đảm bảo tính đồng bộ giữa quyền tự do, tự chủ kinh doanh và thể chế kinh tế thị trường. Các giải pháp mở rộng quy mô “thị trường hoá” nền kinh tế như xây dựng kết cấu hạ tầng, cung cấp thông tin, hỗ trợ phát triển và nâng cao năng lực của các tác nhân thị trường sẽ góp phần "hiện thực hoá" quyền tự do kinh doanh. Thứ hai: tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ khởi nghiệp doanh nghiệp, Tạo điều kiện thuận lợi về mặt bằng kinh doanh cùng các dịch vụ hạ tầng với thủ tục nhanh chóng và chi phí hợp lý thông qua xây dựng khu và cụm công nghiệp vừa và nhỏ là biện pháp tương đối hiệu quả trong “cạnh tranh” thu hút đầu tư. Thứ ba: tạo lập môi trường thuận lợi đi cùng với các điều kiện trợ giúp doanh nghiệp, nhất là đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tạo lập môi trường thuận lợi là chưa đủ cho sự phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp nói chung và của từng doanh nghiệp nói riêng, mà phải có trợ giúp tích cực nhiều mặt của tỉnh, nhất là đào tạo nâng cao năng lực quản lý cho chủ sở hữu và người quản lý doanh nghiệp... Thứ tư: nâng cao tính chủ động, sáng tạo của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc huy động vốn phát triển sản xuất. Trước những khó khăn trong việc vay vốn ngân hàng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (mà nguyên nhân chủ yếu là khả năng cho vay, năng lực đánh giá hiệu quả dự án của cán bộ ngân hàng còn yếu, nguồn lực của các ngân hạn chế...), một mặt cần có các giải pháp đối với ngành ngân hàng, mặt khác các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng cần năng động, sáng tạo trong việc tạo ra và tiếp cận các nguồn tài chính khác quan trọng hơn rất nhiều, thay vì phải cố sức đi vay ngân hàng như hiện nay. III.2.2.3. Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài Ngoài nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thúc (ODA), một nguồn vốn quan trọng đóng góp vào tổng vốn đầu tư toàn xã hội đó là FDI. Trong số những nguồn vốn này, vai trò của FDI luôn được chú trọng. Trong giai đoạn 2006-2020, chúng ta cần có một số giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút FDI. Thứ nhất: xây dựng chiến lược và quy hoạch thu hút FDI, trong đó xác định rõ những ngành, lĩnh vực, địa bàn cần khuyến khích thu hút FDI. Để nâng cao chất lượng quy hoạch thu hút FDI, cần chú trọng công tác dự báo, cập nhật thông tin thị trường trong nước, quốc tế bảo đảm sự thống nhất giữa quy hoạch và kế hoạch, bảo đảm sự thống nhất giữa quy hoạch giữa ngành và các địa phương trong việc thu hút của FDI. Xây dựng danh mục dự án kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài trong những năm tới. Thứ hai: cải thiện môi trường đầu tư thông qua các giải pháp khác nhau đó là hoàn thiện hệ thống luật liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài; đổi mới hoàn thiện chính sách về đầu tư nước ngoài; đẩy mạnh xúc tiến đầu tư; đổi mới, hoàn thiện quản lý nhà nước, cải tiến thủ tục hành chính đối với FDI. III.2.3. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư Để nền kinh tế tăng trưởng cao và có chất lượng, tỉnh Yên Bái không những cần phải tăng vốn đầu tư mà quan trọng hơn, phải sử dụng vốn có hiệu quả. Vốn đầu tư của địa phương và Trung Ương tăng thêm chắc chắn không thể được nhiều như yêu cầu. Do đó một mặt, cần hết sức phát huy khả năng đầu tư của nhân dân và kinh tế tư nhân, thu hút mạnh hơn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, mặt khác cần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của nhà nước, ngăn chặn tình trạng đầu tư không hiệu quả, vốn đầu tư bị thất thoát... Đây là điều kiện cực kỳ quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. III.2.3.1. Đối với nguồn vốn đầu tư nhà nước Để nâng cao hiệu quả đầu tư vốn, chống thất thoát nguồn vốn của Nhà nước, cần có những giải pháp sau: Thứ nhất: tăng cường và đổi mới công tác quản lý về đầu tư. Trước hết về cơ chế chính sách cần tổ chức nghiên cứu, bổ sung các cơ chế, chính sách theo hướng loại bỏ dần tình trạng khép kín, tách chức năng quản lý Nhà nước với quản lý kinh doanh trong xây dựng ở từng tỉnh, thành phố, địa phương ở tất cả các khâu. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và kiên quyết quản lý đầu tư theo quy hoạch được duyệt, đầu tư tập trung, theo mục tiêu, theo quy hoạch và hiệu quả. Tăng cường công tác quản lý đầu tư đối với các nguồn vốn của Nhà nước. Xác định đầy đủ trách nhiệm và thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, vai trò chủ đầu tư và chỉ đạo thực hiện nghiêm ngặt quy chế đầu tư và xây dựng, đặc biệt là quy chế đấu thầu, quy chế giám sát đầu tư. Khắc phục tình trạng tiêu cực, lãng phí, thất thoát trong đầu tư bao gồm các khâu thông qua chủ trương đầu tư, chuẩn bị đầu tư, thẩm định và phê duyệt quyết định đầu tư, tổ chức đấu thầu, triển khai thực hiện dự án, theo dõi và đánh giá dự án. Củng cố và chấn chỉnh lại các cơ quan quản lý đầu tư, các ban quản lý dự án. Tăng cường công tác giám sát đầu tư, kiểm tra, kiểm soát ở tất cả các ngành, các cấp, phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm các qui định về quản lý đầu tư, nhằm kịp thời ngăn chặn tiêu cực, thất thoát trong đầu tư. Thứ hai: tăng cường và đổi mới công tác quản lý về xây dựng. Nâng cao năng lực và trách nhiệm của các tổ chức tư vấn trong khâu khảo sát, thiết kế kỹ thuật, thiết kế thi công, tăng cường giám sát thi công theo đúng qui trình, theo đúng thiết kế kỹ thuật, đúng vật tư thiết bị trong nội dung thiết kế được phê duyệt. Chấm dứt tình trạng đơn vị thi công và tổ chức giám sát thi công đều thuộc một cơ quan quản lý. Rà soát, xây dựng bổ sung các định mức, đơn giá xây dựng; tăng cường quản lý xây dựng; đặc biệt là các công trình sử dụng vốn ngân sách. Qui định rõ trách nhiệm của cá nhân, đơn vị liên quan đến chất lượng sản phẩm công trình như chủ đầu tư, tổ chức tư vấn, thiết kế, đơn vị thi công. Thứ ba: công khai hoá vốn đầu tư bằng vốn ngân sách. Các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách phải được công bố rộng rãi để nhân dân biết và tham gia giám sát việc thực hiện; tạo điều kiện cho các cơ quan dân cử làm tốt chức năng giám sát việc thực hiện đầu tư. III.2.3.2. Đối với nguồn vốn ngoài khu vực nhà nước Để thực sự nâng cao hiệu quả đầu tư, một biện pháp rất hữu hiệu là khuyến khích phát triển khu vực kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài. Thực tế cho thấy kinh tế nhiều thành phần, bình đẳng, các thành phần liên kết không phân biệt đối xử, không đặc quyền đặc lợi cho quốc doanh là nền tảng vững chắc nhất để phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, một khía cạnh rất quan trọng đối với các doanh nghiệp là việc đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để tăng hiệu quả đầu tư. Đây là mục tiêu rất quan trọng, ảnh hưởng đến khả năng tái tạo vốn cho chính doanh nghiệp. III.2.4. Gắn tăng trưởng với công bằng xã hội và xoá đói giảm nghèo III.2.4.1. Gắn tăng trưởng với tạo công ăn việc làm Để có thể thực hiện được các mục tiêu đề ra trong nhiệm vụ kế hoạch 2006-2020 về lĩnh vực lao động - việc làm, cần phải tiếp tục nghiên cứu bổ sung chính sách, cơ chế; tháo gỡ các rào cản nhằm thúc đẩy, khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế, mọi nguồn lực, huy động nguồn nội lực trong dân cho đầu tư phát triển sản xuất, dịch vụ, tạo mở việc làm; hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi thành bộ Luật Lao động sửa đổi; nghiên cứu đổi mới chính sách, cơ chế về lao động, bảo hộ lao động, dạy nghề, chuyển đổi nghề nghiệp ở các vùng đô thị hoá nhanh. Để tận dụng sức lao động còn dư thừa, phải khuyến khích phát triển những ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, sản xuất xi măng, giấy, tạo điều kiện cho người dân không còn đất sản xuất có kế sinh nhai. Phát triển đào tạo nghề, chú trọng đào tạo có trọng điểm các lĩnh vực công nghệ mới để đáp ứng nhu cầu học nghề, tìm việc làm đa dạng trên từng địa bàn; từng bước đẩy mạnh xuất khẩu lao động có chất lượng cao. III.2.4.2. Gắn tăng trưởng với xoá đói giảm nghèo Đáp ứng yêu cầu cao hơn về xoá đói giảm nghèo, một mặt, cần tiếp tục nâng cao nhận thức, quyết tâm vượt nghèo vươn lên làm giàu của hộ nghèo, xã nghèo; nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác giảm nghèo và đề cao trách nhiệm của các ngành, các cấp và tăng cường sự tham gia của đoàn thể và người dân. Mặt khác, cần huy động đa nguồn lực từ gồm doanh nghiệp, cộng đồng, cá nhân và vận động tài trợ quốc tế. Phải có sự hỗ trợ của nhà nước, doanh nghiệp về giải quyết việc làm, về vốn và công nghệ mới có thể tạo ra bước phát triển ở khu vực nông thôn. Bởi vậy, cần sớm ban hành các cơ chế, chính sách để khuyến khích các địa phương và người nghèo, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, trên cơ sở đầu tư hỗ trợ của Nhà nước, tự lực phấn đấu vươn lên thoát khỏi đói, nghèo một cách bền vững; có chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư vào các vùng nghèo, xã nghèo. Hỗ trợ đầu tư cho những vùng nông thôn chậm phát triển để phát huy các tiềm năng tại chỗ và giảm bớt khó khăn bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn viện trợ không hoàn lại, vốn vay ưu đãi của nước ngoài, III.2.4.3. Gắn tăng trưởng với nâng cao phúc lợi giáo dục, y tế Giải pháp then chốt là đổi mới và nâng cao năng lực quản lý trong giáo dục và đào tạo. Cải cách giáo dục toàn diện nhằm làm cho hệ thống giáo dục gắn kết với yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước. Đẩy mạnh đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục theo hướng hiện đại và phù hợp với thực tiễn từng vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn, cùng với đổi mới cơ chế quản lý giáo dục. Khẩn trương triển khai đề án phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; cơ cấu lại hệ thống đào tạo, hoàn thiện hệ thống đào tạo thực hành định hướng nghề nghiệp. Tăng cường đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp bao gồm cả tái đào tạo nghề, nhằm giúp cho người trong độ tuổi lao động có thể dễ dàng thích ứng với những đòi hỏi thường xuyên biến đổi của thị trường lao động. Nhằm mục đích thu hẹp dần khoảng cách giữa đầu ra của đào tạo với nhu cầu hiện có của thị trường lao động, các biện pháp cần sớm được thực hiện là: xác định rõ ràng các lĩnh vực ngành nghề hiện đang thiếu nhân công, thiếu người lao động có trình độ chuyên môn, tay nghề để tăng cường đầu tư, hỗ trợ; tiêu chuẩn hoá các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tay nghề, bồi dưỡng kỹ năng, với những chỉ tiêu chất lượng được quy định rõ ràng; phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các bên tham gia thị trường lao động (các xí nghiệp có nhu cầu về lao động, các cơ quan đào tạo, bồi dưỡng tay nghề) trong quá trình hoạch định các chính sách về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực. Nhiệm vụ trọng tâm trong vấn đề y tế, là đẩy mạnh việc phòng chống dịch bệnh, đặc biệt là các dịch bệnh mới phát sinh. Tiếp tục phát triển và hoàn thiện hệ thống khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Tăng chi phí cho y tế, kinh phí xây dựng cơ bản tập trung các tuyến huyện xã, thực hiện đề án nâng cấp bệnh viện xã huyện đã được phê duyệt, tạo điều kiện cho người nghèo vùng sâu xa được tiếp cận các dịch vụ cao, giảm áp lực cho tuyến trên. Nâng cao chất lượng phục vụ của các cơ sở khám, chữa bệnh và y đức của các y, bác sĩ và nhân viên y tế. Đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa các hoạt động y tế. Giảm gia tăng dân số, nâng cao chất lượng dân số, giảm nhanh tỉ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em. III.2.5. Gắn tăng trưởng với bảo vệ môi trường Nhiều năm qua, do quá quan tâm đến mục tiêu tăng trưởng mà ít chú ý đến việc bảo vệ môi trường sinh thái. Tình trạng ô nhiễm ở đô thị, hồ ao, sông suối đã đến mức báo động. Hậu quả của nó đối với quá trình phát triển là không tính hết được. Tỉnh Yên Bái cần tránh quan điểm tăng trưởng trước, khắc phục hậu quả sau mà một số quốc gia đã gặp phải trên thế giới trong thời gian qua. Phải đặt vấn đề môi trường trong các chiến lược phát triển, lựa chọn giải pháp thiết thực làm cho kinh tế, xã hội và môi trường phát triển hài hoà, thực sự coi môi trường là một quốc sách cơ bản. Để đạt được mục tiêu đó yêu cầu trọng điểm là trong xây dựng, công nghiệp và đổi mới kỹ thuật (hàng năm đổi mới 15-20% thiết bị công nghệ), khởi điểm kỹ thuật phải cao, phải phù hợp với yêu cầu hiện đại hóa, phải lựa chọn công nghệ kỹ thuật tiêu hao nguyên vật liệu thấp, gây ô nhiễm ít, hiệu quả cao, thực hiện sản xuất sạch, kiên quyết loại bỏ các công nghệ tiêu hao nhiều nguyên vật liệu, bố cục hợp lý, cơ sở hạ tầng hoàn thiện, tăng cường sử dụng năng lượng sạch, xử lý nước thải, tích cực thay đổi tình trạng thải bừa bãi gây ô nhiễm môi trường như hiện nay. Trong đầu tư cho bảo vệ môi trường, phải không ngừng nâng cao tỷ lệ đầu tư cho môi trường trong GDP. Về mặt môi trường sinh thái, phải tiếp tục duy trì xu thế tốt đẹp trong mấy năm gần đây là trồng cây gây rừng, không ngừng tăng tỷ lệ che phủ của rừng. Hướng tới việc khoán đất khoán rừng, cho thuê đất trống đồi núi trọc, đất hoang để kết hợp giữa xây dựng sinh thái với việc xóa đói giảm nghèo của của nông dân. Về nông nghiệp, phải có giải pháp kiên quyết ngăn chặn xu thế canh tác quảng canh hoặc thâm canh với cường độ lớn, sử dụng hợp lý phân hóa học, thuốc trừ sâu, không ngừng nâng cao chất lượng đất đai. Trong quản lý môi trường và tài nguyên phải không ngừng nâng cao pháp chế, chuyển từ phương thức quản lý hành chính là chủ yếu sang phương thức quản lý bằng kinh tế, luật pháp làm cho công tác quản lý môi trường có hiệu lực mạnh mẽ. III.2.6. Hoàn thiện môi trường kinh doanh để nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh III.2.6.1. Về cơ chế chính sách Các cấp, các ngành phải thống nhất về nhận thức và quan điểm chỉ đạo phát triển các thành phần kinh tế. Coi trọng sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, thực hiện đầy đủ cơ chế chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp. Nghiên cứu xây dựng môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng thực sự có tính hấp dẫn. Tạo điều kiện cho sự hình thành và đồng bộ các yếu tố thị trường làm sơ sở cho sự phát triển của các doanh nghiệp. Nghiên cứu xây dựng và ban hành cơ chế chính sách khuyến khích thu hút đầu tư của tỉnh trên cơ sở chính sách ưu đãi đầu tư của Chính phủ đã ban hành và trong phạm vi quyền hạn của tỉnh không trái với qui định của pháp luật. Tiếp tục bố trí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng các khu sản xuất công nghiệp, cụm công nghiệp theo qui hoạch để dần đưa các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất ra khỏi khu tập trung đông dân, hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường. Nâng cao vai trò và hiệu lực công tác quản lý nhà nước bằng việc định hướng cho sự nghiệp phát triển của các doanh nghiệp, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và của doanh nghiệp; tỉnh tạo điều kiện về cơ chế chính sách trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác qui hoạch và kế hoạch, đảm bảo các cân đối vĩ mô, nhằm định hướng và tạo sự hỗ trợ cho phát triển doanh nghiệp. Trong lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài: phải đổi mới hoạt động thu hút, vận động đầu tư cả về nội dung và hình thức, trên cơ sở duy trì và tăng cường các quan hệ sẵn có với các nước trong khu vực thông qua các tham tán và đại sứ quán các nước, các tổ chức phi chính phủ, mở các hội nghị vận động thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước. Làm tốt công tác xúc tiến thương mại, quảng cáo giới thiệu sản phẩm. III.2.6.2. Về đổi mới quản lý và tổ chức sản xuất kinh doanh Tiếp tục hoàn thiện công tác sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp cần phải nhận thức sự đổi mới là yêu cầu sống còn đối với doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp cần nhận thức sâu sắc vấn đề trên để có kế hoạch xây dựng bước tiến cho doanh nghiệp mình cụ thể như: Phát triển doanh nghiệp cần gắn với nền tảng chính trị xã hội ổn định trong mỗi doanh nghiệp. Đảm bảo quyền lợi và chế độ cho người lao động, giải quyết tốt các vấn đề phúc lợi xã hội, xây dựng các tổ chức đoàn thể doanh nghiệp vững mạnh. Về vấn đề tổ chức sản xuất yêu cầu mỗi doanh nghiệp cần xây dựng kế hoạch tổ chức sản xuất cho phù hợp, tiết kiệm chi phí không cần thiết để hạ giá thành nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Trong sản xuất cần chú trọng vấn đề chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ thiết bị tiên tiến, cải tiến mẫu mã bao bì vì hiện nay đây cũng là khâu các doanh nghiệp đầu tư còn ít. Hoạt động quản lý lãnh đạo và điều hành cần có sự đổi mới nhanh chóng. Xây dựng chính sách thưởng phạt nghiêm minh, tôn vinh những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh giỏi, song cũng sử lý kỷ luật nghiêm những trường hợp vi phạm làm thiệt hại cho nền kinh tế. Áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, dần đưa các hoạt động sản xuất và quản lý doanh nghiệp theo tiêu chuẩn ISO. Thúc đẩy nhu cầu đổi mới công nghệ và đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp. Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia đầu tư đổi mới công nghệ trong sản xuất, thông qua các hình thức như: hỗ trợ vốn để thực hiện các dự án đổi mới công nghệ của doanh nghiệp, hỗ trợ chuyên gia tư vấn thực hiện các dịch vụ như dịch vụ công nghệ, dịch vụ bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, dịch vụ thông tin công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực về công nghệ… hỗ trợ các hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ tổ chức các hoạt động tuyên truyền, thông tin về công nghệ, đổi mới công nghệ. III.2.6.3. Về cải cách thủ tục hành chính Đẩy mạnh công tác đấu tranh chống tham nhũng, kiên quyết xử lý những cán bộ yếu kém về phẩm chất đạo đức. Thực hiện hiệu quả cải cách thủ tục hành chính nhất là ở những cơ quan, những lĩnh vực liên quan đến doanh nghiệp và người dân. Rà soát bãi bỏ những thủ tục hành chính không cần thiết nhằm đẩy nhanh tiến độ giải quyết việc làm thời gian chờ đợi. Triển khai thực hiện “Mở cửa liên thông” ở cơ quan cấp đăng kí kinh doanh. Công tác đào tạo cán bộ, đội ngũ quản lý ở các cấp ngành cũng như doanh nghiệp phải đánh giá nghiêm túc còn yếu về công tác quản lý thị trường, nhất là trong giai đoạn hội nhập; hiểu biết luật pháp quốc tế và ngoại ngữ cần được nâng cao. Vì vậy phải có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ hàng năm. Kinh phí đào tạo phải kết hợp bằng nhiều nguồn trong đó có sự tham gia đóng góp của người đi học và của doanh nghiệp, để hoạt động quản lý kinh doanh của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao hơn, nâng cao năng lực cạnh tranh trên so với các tỉnh vùng Đông Bắc và của cả nước. KẾT LUẬN Nền kinh tế Việt Nam lựa chọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy tăng trưởng kinh tế mà Việt Nam xác định là tăng trưởng bền vững, tăng trưởng vì con người, vì một xã hội ngày càng công bằng hơn, dân chủ hơn, tăng trưởng gắn với bảo vệ môi trường. Chính vì thế mà mục tiêu phát triển kinh tế của tỉnh Yên Bái cũng không nằm ngoài mục tiêu chung của cả nước. Tăng trưởng kinh tế của tỉnh Yên Bái trong những năm gần đây đã đạt được những thành tích đầy ấn tượng về tốc độ tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo. Về cơ bản, những thành tích tăng trưởng đã đến được với đại bộ phận người dân, thể hiện ở mức tăng thu nhập và tiêu dùng của tất cả các nhóm dân cư trong thời gian qua. Một trong những nguyên nhân tạo ra được thành tích đó là những cơ sở phát triển con người được tạo dựng từ những năm trước cũng như những nỗ lực cải cách nhiều mặt tạo ra những cơ hội việc làm và thu nhập đáng kể trong những năm qua. Tuy nhiên, có những lo ngại không phải không có căn cứ về chất lượng và sự bền vững của những thành tích tăng trưởng của tỉnh Yên Bái. Tăng trưởng cao chỉ là một điều kiện cần nhưng còn xa mới là “đủ” để có một nền kinh tế mạnh. Mặc dù Yên Bái đã đạt được những thành tựu phát triển kinh tế rất đáng khích lệ trong giai đoạn 2005-2008 (11,38%), đặc biệt là sự vượt khó khăn vươn lên trong những năm vừa qua, nhưng nền kinh tế của tỉnh Yên Bái vẫn phát triển dưới mức tiềm năng và hiện đang phải đối mặt với nhiều yếu kém về chất lượng tăng trưởng, xét cả về trung hạn và dài hạn. Tuy các bằng chứng thực tế có nhiều điểm cần phải làm rõ thêm, những phân tích trong nghiên cứu này cho thấy: Thứ nhất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra chậm chạp. Cơ cấu kinh tế tỉnh Yên Bái vẫn còn lạc hậu, với tỷ trọng nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản vẫn chiếm tới 30,5% GDP (giá hiện hành), gần 57% lực lượng lao động của tỉnh. Thứ hai, hiệu quả kinh tế còn thấp, thậm chí có chiều đi xuống. Hiệu quả đầu tư ngày càng thấp so với cả nước và vùng Đông Bắc. Thứ ba, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong toàn nền kinh tế còn rất thấp, thể hiện qua tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp, tuy có chiều hướng gia tăng, nhưng còn thấp kém. Thứ tư, về mặt xã hội, cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế, sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ nét và có chiều hướng gia tăng trong thời gian tới. Chất lượng nguồn nhân lực cũng chưa theo kịp yêu cầu tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Thứ năm, về mặt môi trường, tăng trưởng kinh tế đang kéo theo tốc độ suy thoái môi trường tự nhiên nhanh chóng, tài nguyên thiên nhiên ngày càng bị khai thác cạn kiệt, ô nhiễm môi trường gia tăng. Có thể nói, để đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng và nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế, một tỉnh miền núi nghèo như Yên Bái đã, đang và sẽ phải vượt qua rất nhiều rào cản. Với những nhóm giải pháp được đưa ra, tôi chỉ mong muốn góp phần vào việc tìm ra hướng đi đúng đắn, vượt qua những rào cản đang kìm hãm sự phát triển của kinh tế tỉnh Yên Bái trong những năm qua và có thể cả trong tương lai. KIẾN NGHỊ Tham gia hoàn chỉnh hệ thống chính sách và văn bản quy phạm pháp luật về phát triển bền vững thông qua việc góp ý điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung các văn bản hiện hành phục vụ việc hoàn thiện thể chế phát triển bền vững. Chú trọng việc lồng ghép vấn đề môi trường vào các quy hoạch, kế hoạch, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; khuyến khích việc nghiên cứu khoa học phục vụ việc lập kế hoạch cho phát triển kinh tế. Cần tập trung nguồn lực ưu tiên phát triển, củng cố, kiên cố hoá cơ sở hạ tầng các xã huyện vùng cao hiện nay còn thiếu, còn yếu. Trong hoạch định chính sách đầu tư, cần quan tâm đến kinh phí quản lý, duy tu, bảo trì công trình. Tránh thực trạng hiện nay, do địa hình, thời tiết khắc nghiệt rất nhiều công trình hạ tầng ở nông thôn vùng cao hư hỏng nặng nhưng không có tiền tu sửa. Thực hiện luân chuyển cán bộ nhằm tạo ra yếu tố đột phá trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo từ tỉnh, huyện đến xã, thôn bản. Công tác quy hoạch kế hoạch cần tập trung vào những khu vực trọng điểm, những thế mạnh của vùng, hơn là đầu tư một cách dàn chải trong khi nguồn vốn còn hạn chế. Các ngành cần nâng cao hơn nữa vai trò quản lý nhà nước về công tác kế hoạch hoá. Trong nông lâm nghiệp nên tập trung vào các cây, con giống thích hợp với điều kiện địa phương. Đồng thời kỹ thuật sản xuất trong nông nghiệp cần phải được đổi mới và phổ biến rộng rãi cho bà con nông dân. Các dự án đầu tư sản xuất nên đầu tư vào các lĩnh vực sản phẩm mà tỉnh có lợi thế so sánh hơn là đầu tư sản xuất đa dạng sản phẩm. Công tác kiểm tra giám sát việc thực hiện các chương trình, dự án cần phải được đẩy mạnh để hạn chế sự thất thoát vốn đầu tư. TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo cáo thực hiện kế hoạch các năm 2005-2008 và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2020. Cục Thống kê (2008), Niên giám thống kê tỉnh Yên Bái năm 2007, Nxb. Thống kê, Hà Nội. Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững tỉnh Yên Bái, Uỷ ban nhân dân tỉnh Yên Bái, tháng 12 năm 2006. Đảng cộng sản Việt Nam (2003), Với công cuộc đổi mới đất nước, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Hoàng Đức Vượng “Báo cáo kết quả đề tài thực trạng và giải pháp giảm nghèo bền vững ở tỉnh Yên Bái”, tháng 11 năm 2008. Huntington, S. P. (1991), “Democracy's Third Wave”, Journal of Democracy, Vol. 2. No. 2, pp.12-34. Kuznets, S. (1966), Modern Economic Growth: Rate, Structure and Spread, New Haven, CT: Yale University Press. Lê Huy Đức (2004), “Nâng cao chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Công nghiệp, số 4/2004. [] Lâm Ngọc (2006), “Chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam?”, Kinh tế 2005-2006 Việt Nam và Thế giới, Thời báo Kinh tế. Nghị quyết của ban thường vụ tỉnh uỷ về xây dựng, phát triển doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập giai đoạn 2006-2010. Nguyễn An Nguyên, 14/12/2008 Lựa chọn thành công, bài học từ Đông Á và Đông Nam Á cho tương lai của Việt Nam. Một khuôn khổ chính sách phát triển kinh tế - xã hội cho Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020, []. Rueschemeyer, D., Stephens, E.H. và Stephens, J.D. (1992), Capitalist Development and Democracy, Chicago: University of Chicago Press. Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh Yên Bái, Báo cáo kết quả rà soát hộ nghèo trên địa bàn tỉnh Yên Bái, năm 2005-2008. Tổng cục thống kê 2008, Niên giám thống kê 2007. Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội, 2008. Vũ Thị Ngọc Phùng (2005), Giáo trình Kinh tế phát triển, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Văn kiện Đại biểu Đảng bộ tỉnh Yên Bái lần thứ XVI (2/2006), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Văn kiện Hội nghị lần IX Ban chấp hành Trung Ương khóa X (1/2009), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Các webside: ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2540.doc