Lời mở đầu
Lịch sử ra đời và phát triển của ngân hàng thương mại gắn liền với quá trình phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, trước hết nó đáp ứng các nhu cầu về vốn của các cá nhân và tập thể, muốn phát triển sản xuất kinh doanh nhưng lại thiếu vốn, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các ngân hàng thương mại ngày càng xâm nhập sâu sắc hơn vào mọi hoạt động của nền kinh tế, trở thành một trung gian tài chính quan trọng bậc nhất, "bà đỡ" của mọi nền kinh tế.
Trong các h
83 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1403 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng phân tích tài chính khách hàng vay vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) chi nhánh chợ Mơ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oạt động của ngân hàng thì tín dụng đóng một vai trò quan trọng. Tín dụng là tài sản chiếm tỷ trọng cao nhất, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro nhất. Vì thế đảm bảo và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng vừa là mục tiêu, là nhân tố quan trọng để cạnh tranh và phát triển của mỗi ngân hàng thương mại. Trước mỗi quyết định tài trợ, ngân hàng luôn phải cân nhắc kỹ lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lời dựa trên phân tích các khía cạnh tài chính, phi tài chính theo một quy trình nghiệp vụ nghiêm ngặt, mang tính khoa học cao phân tích tài chính khách hàng là một trong những nội dung đó.
Như vậy, quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng (đặc biệt là các doanh nghiệp) ngày càng gắn bó, tương tác lẫn nhau. Khách hàng không trả được nợ đến hạn, doanh thu của ngân hàng giảm, ảnh hưởng đến việc cho khách hàng khác vay vốn, ảnh hưởng đến sự tồn tại của ngân hàng. Để tránh được những rủi ro tín dụng này, trong quá trình thẩm định cho vay, ngân hàng cần nâng cao chất lượng trong khâu phân tích đánh giá tài chính đối với khách hàng - khâu quyết định đánh giá điều kiện vay vốn của khách hàng có phù hợp với ngân hàng không?
Đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam, hoạt động cho vay luôn chiếm tỷ trọng từ 85% - 95% doanh thu, tuy nhiên công tác phân tích tín dụng, trong đó có phân tích tài chính khách hàng vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến hiệu quả cho vay chưa cao, tỷ lệ nợ quá hạn còn cao. Đặc biệt NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ mới đi vào hoạt động, cán bộ tín dụng là cán bộ trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm. Do vậy qua thực tập tại NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ, em đã chọn đề tài:
"Nâng cao chất lượng phân tích tài chính khách hàng vay vốn tại NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ".
Kết cấu luận văn như sau:
Chương I: Tín dụng ngân hàng và hoạt động phân tích tài chính khách hàng tại ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng hoạt động phân tích tài chính khách hàng vay vốn tại NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính khách hàng đối với khách hàng vay vốn tại NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ
Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu em xin đưa ra một vài đóng góp nhỏ góp phần nâng cao chất lượng phân tích tài chính khách hàng tại NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ. Vì trình độ kiến thức và thời gian hạn chế, luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong muốn được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo và sự đóng góp của toàn thể các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn TS. Đặng Ngọc Đức đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo em trong suốt quá trình làm luận văn tốt nghiệp. Em xin cảm ơn các cán bộ trong chi nhánh, đặc biệt là các cô chú cán bộ phòng Tín dụng đã hết sức nhiệt tình tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình thực tập và hoàn thành bài viết này.
Hà Nội, năm 2004
Chương I
tín dụng Ngân hàng và hoạt động phân tích
tài chính khách hàng tại Ngân hàng thương mại
1.1. Tín dụng ngân hàng
1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Lịch sử phát triển cho thấy, tín dụng là một phạm trù kinh tế và cũng là sản phẩm hàng hoá. Nhưng chính nó lại là động lực quan trong thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển lên giai đoạn cao hơn. Tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội, ngày nay tín dụng được hiểu theo những định nghĩa cơ bản sau: tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng trọng một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn thành theo thời hạn đã thoả thuận
Quan hệ tín dụng có thể diển tả theo mô hình sau:
T
Giá trị tín dụng
T+L
Người cho vay
(Lender)
Người đi vay
(Borrower)
Giá trị tín dụng + lãi
Giá trị tín dụng + lãi
Trong quan hệ giao dịch này thể hiện những nội dung sau:
Người đi vay chỉ được quyền sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định
Giá trị được hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay hay nói cách khác, người đi vay phải trả thêm phần lợi tức. Marx viết "Đem tiền cho vay với tư cách là một việc có đặc điểm sẽ quay trở về điểm xuất phát của nó, mà vẫn giữ được nguyên vẹn giá trị của nó và đồng thời lại lớn lên thêm trong quá trình vận động"
Đặc trưng của Tín dụng ngân hàng là lòng tin, tính thời hạn và tính hoàn trả. Chính nhờ hoạt động tín dụng mà ngân hàng trang trải được mọi chi phí phát sinh và là nguồn thu chủ yếu của ngân hàng.
Đối với ngân hàng thương mại cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt để tạo ra lợi nhuận. Kinh tế càng phát triển, lực lượng cho vay của các ngân hàng thương mại càng tăng, loại hình và cách thức cho vay cũng trở nên vô cùng đa dạng. Hiện nay, ở những nước đang phát triển, khi một ngân hàng được thành lập và đi vào hoạt động, mối quan tâm chính và thường xuyên của nó là sẽ cho ai vay và sẽ đầu tư vào đâu, cho vay ngắn hạn vẫn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn. Ngược lại, ở những nước đã phát triển, vấn đề đặt ra ở những nước này là lợi tức cao và an toàn. Tuy nhiên song hành với lợi nhuận thu được là độ rủi ro cao. Vì vậy, chất lượng của hoạt động là nhân tố quyết định tới sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Để tăng trưởng và phát triển, quy mô của hoạt động cho vay mới chỉ là điều kiện cần, còn điều kiện đủ chính là chất lượng của hoạt động này.
1.1.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng
Trong các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại, cho vay là nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro nhất và rủi ro cũng dễ xảy ra nhất. Có nhiều loại rủi ro tác động tới ngân hàng: rủi ro tín dụng, rủi ro hối đoái, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản trong đó rủi ro tín dụng là loại rủi ro gắn liền với hoạt động cho vay. Khi thực hiện một hoạt động tài trợ cụ thể, ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là cao nhất. Nhìn chung ngân hàng quyết định cho vay khi thấy rằng rủi ro tín dụng sẽ không xảy ra. Tuy nhiên, không thể dự đoán chính xác các khả năng sẽ xảy ra hơn nữa không phải mọi cán bộ ngân hàng có khả năng phân tích tín dụng tốt. Do vậy, trên quan điểm ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan chỉ có thể đề phòng hạn chế chứ không thể loại trừ.
Rủi ro tín dụng là tình trạng người vay không trả hoặc không hoàn trả đúng hạn hoặc không trả đầy đủ gốc và lãi cho ngân hàng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng nhưng có những nguyên nhân chính sau:
Những nguyên nhân bất khả kháng: như thiên tai, chiến tranh những thay đổi tầm vĩ mô vượt quá tầm kiểm soát của người vay lẫn cho vay.
Những nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay: liên quan đến trình độ, khả năng quản lý kinh doanh của khách hàng, cũng có cả trường hợp người vay chây ì không trả nợ.
Những nguyên nhân thuộc về ngân hàng: trước hết do sự yếu kém về chuyên môn nghiệp vụ nên có nhiều thiếu sót trong quá trình thu thập thông tin và hạn chế trong quá trình phân tích thông tin về khả năng tài chính, kỹ thuật, khả năng quản lý kinh doanh của người vay, đạo đức người vay dẫn đến quyết định cho vay không đúng. Sự yếu kém trong quá trình quản lý giám sát các khoản vay cũng tạo nguy cơ không thu được tiền. Ngoài ra có nhiều cán bộ ngân hàng đã tiếp tay với khách hàng, chiếm dụng vốn của ngân hàng.
Trong ba nhóm nguyên nhân trên thì nhóm đầu khó phòng nhưng ít xảy ra, chiếm tỷ trọng nhỏ. Nhóm thứ hai thường xuyên xảy ra nhất chiếm tỷ trọng lớn. Nhóm thứ ba không nhiều nhưng khó khắc phục, thường kết hợp với nhóm thứ hai.
Đứng trước thực trạng cho vay là nghiệp vụ chủ đạo mà rủi ro tín dụng thì luôn thường trực, hơn nữa lại diễn ra hết sức phức tạp khó phòng tránh nên việc cho vay đối với các ngân hàng thương mại luôn phải được thực hiện theo một quy trình chặt chẽ với những bước phân tích tỉ mỉ về các mặt tài chính, phi tài chính của khách hàng, kết quả của những phân tích ấy cho thấy khả năng sinh lời, mức độ rủi ro của phương án hoặc dự án sử dụng vốn vay, có ảnh hưởng trực tiếp tới quyết định cho vay hay không của ngân hàng do đó phân tích tài chính khách hàng có vai trò rất quan trọng.
Trên thực tế, việc xác định các thông số phi tài chính như uy tín, năng lực, đạo đức, mục đích sử dụng vốn vay, triển vọng của khách hàng là rất khó, mang tính chất định tính. Vì vậy, những thông tin tài chính định lượng là rất quan trọng đối với ngân hàng trong đánh giá, lựa chọn khách hàng. Phân tích tài chính khách hàng cho ngân hàng xác định được các yếu tố về lưọng của nhu cầu vay vốn tín dụng, xác định được thời hạn hợp lý của khoản vay, xác định các kỳ hạn trả nợ đối với từng khách hàng. Như vậy phân tích tài chính khách hàng không chỉ là nhu cầu thiết thân mà còn là đòi hỏi bắt buộc đối với mỗi ngân hàng thương mại.
1.2. Phân tích tài chính đối với khách hàng vay vốn tại ngân hàng thương mại
Có thể hiểu phân tích tài chính khách hàng đối với ngân hàng thương mại là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và công cụ cho phép thu thập xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực của khách hàng giúp ngân hàng đưa ra quyết định tài trợ.
Phân tích tài chính khách hàng tại các ngân hàng thương mại nhằm đạt được những mục tiêu sau:
Xác định rõ hiện trạng tài chính của khách hàng: giá trị tài sản, tình hình nợ, nhu cầu tài trợ, khả năng thanh toán.
Dự báo về tài chính trong tương lai của khách hàng: khả năng hoạt động kinh doanh, khả năng sinh lời, khả năng hoàn trả nợ vay.
Dự đoán được những trường hợp xấu có thể xảy ra làm giảm khả năng trả nợ của khách hàng.
1.2.1. Các thông tin sử dụng trong phân tích tài chính khách hàng
Phân tích tình hình tài chính cụ thể là phân tích các báo cáo tài chính, hoạt động của khách hàng được cụ thể hoá qua các chỉ tiêu về tình hình tài chính và chúng được thể hiện trên các báo cáo của kế toán vào cuối mỗi kỳ kinh doanh, thường là một niên độ. Nội dung của các báo cáo tài chính phản ánh tình hình tổng quát về tài sản, sự hình thành tài sản, sự vận động và thay đổi của chúng qua mỗi kỳ kinh doanh của khách hàng.
Các thông tin được dùng để phân tích tài chính khách hàng là:
Bảng cân đối kế toán: Còn gọi là bảng tổng kết tài sản là báo cáo tài chính tổng hợp, mô tả thực trạng tài chính của một khách hàng tại một thời điểm nào đó. Nội dung của bảng cân đối kế toán khái quát tình trạng tài chính của một khách hàng tại một thời điểm nhất định thường là cuối kỳ kinh doanh. Kết cấu của bảng được chia thành hai phần luôn bằng nhau: tài sản và nguồn vốn tức nguồn hình thành nên tài sản gồm nợ phải trả cộng với vốn chủ sở hữu.
Bảng cân đối kế toán là một tư liệu quan trọng bậc nhất giúp các nhà phân tích đánh giá được tổng quát tình hình tài chính, khả năng thanh toán, cơ cấu vốn và trình độ sử dụng vốn của khách hàng. Tuy nhiên mặt hạn chế của bảng cân đối kế toán cũng như các báo cáo tài chính nói chung làm ảnh hưởng đến công tác phân tích tình hình tài chính đó là dữ liệu mà chúng cung cấp thuộc về quá khứ trong khi phân tích lại hướng đến tương lai. Người ta luôn muốn biết liệu một kết quả nào đó của năm nay có được lập lại vào năm tới hay không.
Bảng 1.1: Bảng cân đối kế toán (rút gọn) của Tổng công ty phát triển nhà và đô thị:
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
A- Tài sản
436391
831901
1128010
I.Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
315779
703027
997489
1. Tiền
128985
165983
192861
2. Các khoản đầu tư tài chính NH khác
15
15
15
3. Các khoản phải thu
123190
443468
610495
4. Tài sản lưu động khác
4603
11105
-10348
5. Hàng tồn kho
58985
82454
204466
II. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn
120612
128874
130521
1.Tài sản cố định
65914
72107
85120
Nguyên giá
70902
79676
97790
Hao mòn (luỹ kế)
(4988)
(7569)
(12670)
2.Các khoản đầu tư tài chính dài hạn
17
17
17
3. Chi phí xây dựng dở dang
54681
56751
45384
B. Nguồn vốn
436391
831901
1128010
I. Nợ phải trả
287591
390830
679831
Nợ ngắn hạn
80975
103041
146115
Trong đó: Phải trả người bán
15421
24109
35215
Phải trả khác
42402
59807
35215
II. Nguồn vốn chủ sở hữu
148800
441071
448179
(Theo số liệu của NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ)
Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh: Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh là báo cáo tổng hợp cho biết tình hình tài chính và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng tại những thời kỳ nhất định. Nó cung cấp các thông tin tổng hợp về tình hình tài chính và kết quả sử dụng các tiềm năng về sử dụng vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của khách hàng. Đồng thời, nó cũng giúp phân tích so sánh được doanh thu và số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng, dịch vụ với tổng chi phí phát sinh và số tiền thực xuất quỹ để vận hành kinh doanh. Ngoài ra theo quy định ở Việt Nam, báo cáo thu nhập còn có thêm phần kê khai tình hình thực hiện nghĩa vụ của khách hàng đối với ngân sách Nhà nước và tình hình thực hiện thuế giá trị gia tăng - VAT.
Hạn chế của báo cáo thu nhập là kết quả thu nhập sẽ lệ thuộc rất nhiều vào quan điểm của kế toán trong quá trình hạch toán. Đồng thời cũng do nguyên tắc kế toán về ghi nhận doanh thu, theo đó doanh thu được ghi nhận khi nghiệp vụ mua bán hoàn thành, tức là khi sở hữu hàng hoá có thể xảy ra vào một thời điểm khác. Nhược điểm này dẫn đến sự cần thiết của báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Bảng 1.2: Báo cáo kết quả kinh doanh qua ba năm của Công ty đầu tư phát triển nhà và đô thị:
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
Tổng doanh thu
356421
608816
813259
Doanh thu thuần
355141
604503
812857
Giá vốn hàng bán
274207
292201
744989
Lợi nhuận gộp
80934
312302
67868
Chi phí bán hàng
61654
315
38313
Chi phí quản lý doanh nghiệp
8680
28469
29376
Lợi nhuận từ HĐKD
10600
283517
9932
Lợi nhuận khác
9564
8646
29791
Tổng lợi nhuận trước thuế
20164
292163
39724
Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp
5105
4155
9743
Lợi nhuận sau thuế
15058
288007
29981
(Theo số liệu tại NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ)
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ:
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc hình thành và sử dụng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của khách hàng.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp các thông tin giúp người sử dụng đánh giá khả năng thanh toán của khách hàng, phân tích mối quan hệ giữa lợi tức ròng và lưu chuyển tiền tệ ròng, dự đoán trong tương lai lượng tiền mang lại từ hoạt động của khách hàng.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ gồm ba phần:
Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh
Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư
Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính
Có hai phương pháp lưu chuyển tiền tệ: Phương pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp.
Thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh báo cáo tài chính được lập nhằm cung cấp các thông tin về tình hình sản xuất, kinh doanh chưa có trong hệ thống báo cáo tài chính đồng thời, giải thích thêm một số chỉ tiêu mà trong các báo cáo tài chính chưa được trình bày, giải thích rõ ràng, cụ thể như các thông tin về đặc điểm hoạt động của khách hàng, chế độ kế toán áp dụng, tình hình và lý do biến động một số tài sản và nguồn vốn quan trọng.
1.2.2. Các phương pháp được sử dụng trong phân tích tài chính khách hàng
Hoạt động tín dụng của ngân hàng ngày càng được mở rộng cho nhiều đối tượng trong xã hội, đó là các doanh nghiệp, cá nhân, hộ sản xuất kinh doanh. Trong số đó, khách hàng lớn nhất, thường xuyên nhất, quan trọng nhất vẫn luôn là các doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp, hoạt động kế toán tuân thủ theo những nguyên tắc chung luật đề ra, các báo cáo tài chính trình ngân hàng phải tuân theo những chuẩn mực nhất định, đây là thuận lợi cho quá trình phân tích của ngân hàng. Trong phương pháp phân tích khách hàng nêu sau đây, tập trung nêu các phương pháp phân tích đối với các báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
Phương pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ và biện pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối quan hệ bên trong và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết nhằm đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp qua chất lượng hoạt động và mức độ rủi ro trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Về lý thuyết có các phương pháp để phân tích tài chính khách hàng là: phương pháp so sánh, phương pháp tỷ lệ, phương pháp Dupont.
* Phương pháp so sánh:
Để áp dụng phương pháp so sánh cần đảm bảo tính có thể so sánh được của các chỉ tiêu tài chính (Thống nhất về mặt không gian, thời gian, nội dung, tính chính xác và đơn vị tính toán) và theo mục đích phân tích mà xác định gốc so sánh. Gốc so sánh được chọn là gốc thời gian và không gian, kỳ phân tích được chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể được lựa chọn bằng số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình quân. Nội dung so sánh gồm:
So sánh giữa số thực hiện kỳ này và số thực hiện kỳ trước để thấy rõ hướng thay đổi về tài chính doanh nghiệp
So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy mức độ phấn đấu của doanh nghiệp
So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu của nghành, của các doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp mình đang phân tích tốt hay xấu, được hay là chưa được.
So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể, so sánh chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về số lượng và chất lượng của một chỉ tiêu nào đó.
* Phương pháp tỷ lệ
Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính. Sự biến động của các tỷ lệ, cố nhiên là sự biến động của các đại lượng tài chính. Về nguyên tắc phương pháp này yêu cầu phải xác định được các ngưỡng, các định mức để nhận xét đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của khách hàng với tỷ lệ tham chiếu. Như vậy, phương pháp so sánh luôn được phối hợp với phương pháp tỷ lệ. Các tỷ lệ tài chính được phân thành những nhóm đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp đó là:
Nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán nhanh: gồm các chỉ tiêu như: tỷ lệ thanh toán ngắn hạn, tỷ lệ thanh toán nhanh, tỷ lệ thanh toán hiện hành.
Nhóm tỷ lệ về cơ cấu tài chính: hệ số nợ trên tổng tài sản, hệ số cơ cấu nguồn vốn, hệ số cơ cấu nợ.
Nhóm tỷ lệ về khả năng hoạt động: gồm vòng quay hàng tồn kho, vòng quay vốn lưu động, hiệu suất sử dụng tài sản.
Nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời: hệ số doanh lợi doanh thu, hệ số doanh lợi tài sản, hệ số doanh lợi vốn chủ sở hữu.
* Phương pháp phân tích tài chính Dupont:
Những thông tin quan trọng về điều kiện tài chính của một doanh nghiệp thể hiện ở một số hệ số tài chính chứ không chỉ riêng ở một hệ số. Bản chất của Phương pháp Dupont là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh mức sinh lợi của doanh nghiệp như thu nhập/tài sản (ROA), thu nhập sau thuế/vốn chủ sở hữu (ROE), thành tích số của chuỗi các tỷ số có mối quan hệ nhân quả với nhau, cho phép phân tích ảnh hưởng của các tỷ số đó với tỷ số tổng hợp. Cụ thể có thể tách ROE như sau:
ROE = ROA x Đòn bẩy tài chính
Trong đó
Vậy phương trình Dupont được viết lại là:
Tác dụng của phương trình:
Cho thấy mối quan hệ và tác động của các nhân tố là các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản (vốn).
Cho phép phân tích lượng hoá những nhân tố ảnh hưởng đến suất sinh lời của vốn chủ sở hữu bằng phương pháp loại trừ.
Đề xuất các quyết sách phù hợp và hiệu quả căn cứ trên mức độ tác động khác nhau của từng nhân tố khác nhau để làm tăng tỷ suất sinh lời.
1.2.3. Quy trình phân tích tài chính khách hàng
* Phân tích trước khi cho vay
Trước bất kỳ một yêu cầu vay vốn nào, ngân hàng luôn phải xem xét, phân tích kỹ khách hàng, về phương án dự án xin tài trợ. Quá trình này gọi là phân tích tín dụng hay thẩm định tín dụng và thẩm định tài chính khách hàng là một nội dung trong đó. Dựa trên những nguồn thông tin thu thập được, ngân hàng tiến hành phân tích tài chính khách hàng nhằm xác nhận được tình hình sản xuất kinh doanh hiện tại, tiềm năng tương lai và dự báo khả năng trả nợ của khách hàng. Việc phân tích này có ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định cho vay của ngân hàng. Phân tích tình hình tài chính bao gồm nhiều nội dung nhưng tập trung vào phân tích khả năng sinh lời và phân tích rủi ro từ đó xác định khả năng trả nợ.
Khả năng sinh lời của khách hàng là khả năng lâu dài và liên tục của một khách hàng trong việc đáp ứng các nghĩa vụ tài chính gắn liền với khả năng tạo lợi nhuận. Khả năng sinh lợi là vấn đề quan tâm đầu tiên của ngân hàng. Nếu người vay kinh doanh không có lãi thì ngay cả việc trả nợ gốc cho ngân hàng cũng là điều khó khăn chưa nói đến việc trả lãi. Khả năng sinh lợi cao thì khả năng trả nợ cao và ngược lại. Nghiên cứu khả năng sinh lợi của khách hàng trong quá khứ và hiện tại sẽ giúp ngân hàng sự đoán khả năng trả nợ trong tương lai. Để phân tích khả năng sinh lợi của khách hàng ngân hàng phân tích một số chỉ tiêu như: doanh lợi doanh thu, doanh lợi tài sản, hệ số quay vòng tài sản, các thông số để phân tích được lấy từ báo kết quả kinh doanh, bảng cân đối kế toán.
Rủi ro là khả năng mà một sự kiện không thuận lợi nào đó sẽ xuất hiện, rủi ro xảy ra cho khách hàng cũng chính là rủi ro cho ngân hàng vì nguy cơ không thu hồi được món vay. Tình trạng sản xuất kinh doanh không hiệu quả, sản xuất sản phẩm không tiêu thụ được, kinh doanh không có lãi thua lỗ kéo dài sẽ làm mất khả năng chi trả các khoản nợ đến hạn của khách hàng. Trong trường hợp người vay vốn bị phá sản thì nguy cơ không thu hồi được nợ của ngân hàng sẽ rất cao. Phân tích rủi ro là việc ngân hàng dựa vào số liệu trên bảng cân đối để tính toán đánh giá các chỉ tiêu như: tỷ lệ thanh khoản, năng lực hoạt động, khả năng cân đối vốn để xác định tính lành mạnh, an toàn của tài chính khách hàng.
* Phân tích trong khi cho vay
Phân tích trước khi cho vay là cơ sở để ngân hàng ra quyết định tín dụng, nếu qua phân tích ngân hàng chấp nhận cho vay vì thế theo ngân hàng phải thực hiện phân tích trong khi cho vay. Khi cho vay, quyền sử dụng vốn của ngân hàng đã chuyển giao cho khách hàng nhưng ngân hàng vẫn có quyền và nghĩa vụ kiểm tra theo dõi món vay. Kiểm tra theo dõi món vay dưới giác độ công tác phân tích tài chính khách hàng bao gồm các công việc xác định nguồn vốn trả nợ, phân tích lại các chỉ tiêu tài chính căn cứ vào các báo cáo tài chính trong các kỳ kế toán tiếp theo mà khách hàng có nghĩa vụ phải gửi cho ngân hàng. Việc phân tích này giúp ngân hàng thấy được hiệu quả việc đầu tư bằng vốn vay ngân hàng của khách hàng, thấy tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng có diễn ra đúng theo điều kiện hay không, có xu hướng biến động tốt hay xấu từ đó là cơ sở hay yêu cầu khách hàng bổ sung thêm tài sản thế chấp hay tìm cách hối thúc trả nợ sớm.
* Phân tích sau khi cho vay
Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi đủ gốc và lãi. Các khoản tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn, ngân hàng sẽ chuyển toàn bộ hồ sơ liên quan đến khoản vay không hoàn trả hay không hoàn trả đúng hạn, ngân hàng phải phân tích các nguyên nhân và đề ra biện pháp xử lý, ngân hàng vẫn phải theo sát hoạt động của khách hàng để khi thấy khách hàng có nguồn thu bằng cách hối thúc trả nợ ngay.
1.2.4. Nội dung hoạt động phân tích tài chính đối với khách hàng vay vốn
1.2.4.1. Phân tích các chỉ tiêu tài chính trong báo cáo tài chính
Khi cho vay điều mà ngân hàng quan tâm nhất là khả năng thanh toán và trả nợ của khách hàng vay vốn. Do đó, khi phân tích tài chính, ngân hàng quan tâm nhiều hơn tới việc đánh giá rủi ro thanh khoản của khách hàng tức là phân tích các chỉ tiêu về khả năng thanh toán, cơ cấu tài chính, khả năng hoạt động, khả năng sinh lời và báo cáo lưu chuyển tiền tệ nhằm đánh giá rủi ro của doanh nghiệp trong tương lai. Do vậy ngân hàng đặc biệt quan tâm tới các chỉ tiêu tài chính từ báo cáo kết quả kinh doanh và bảng cân đối kế toán.
Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán
Đây là nhóm chỉ tiêu mà không riêng gì ngân hàng mà rất nhiều đối tượng khác quan tâm tới, bất kỳ đối tượng nào liên quan đến doanh nghiệp như nhà đầu tư, công ty tài chính, cán bộ công nhân viên. Phân tích tình hình thanh toán của doanh nghiệp đối với các khoản nợ trước đây rất quan trọng vì nó phản ánh được phần nào mức độ tín nhiệm hay sự sẵn sàng chi trả của doanh nghiệp
- Chỉ tiêu thanh toán ngắn hạn
Chỉ tiêu này là thước đo khả năng có thể trả nợ của doanh nghiệp bằng cách chuyển đổi những tài sản lưu động thành tiền trong thời kỳ phù hợp với thời kỳ trả nợ.
Tài sản lưu động gồm: Tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu và dự trữ. Nợ ngắn hạn bao gồm: vay ngắn hạn, nợ ngắn hạn cả tài sản lưu động và nợ ngắn hạn đều có thời hạn dưới một năm.
Trong thực tiễn, người ta thường yêu cầu chỉ tiêu này của doanh nghiệp là lớn hơn 1, còn lớn hơn bao nhiêu là tốt thì tuỳ vào từng loại hình doanh nghiệp ở từng ngành nghề khác nhau.
- Chỉ tiêu thanh toán nhanh
Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán ngay tức thì của doanh nghiệp bằng nguồn vốn bằng tiền, không bị chi phối bởi thời gian chuyển đổi của hàng hoá tồn kho và các khoản phải thu. Về mặt lý thuyết, hệ số này lớn hơn 0,5 là dấu hiệu tốt. Nếu quá lớn tức là vốn bằng tiền của doanh nghiệp quá lớn, chi phí cho việc lưu trữ, ghi chép, kiểm đếm, phân loại khá lớn, mặt khác không sinh lời nên cũng không phải là tốt.
Hệ số khả năng thanh toán
Nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động
Hệ số này cho biết thời gian quay vòng của hàng tồn kho. Bất kỳ doanh nghiệp nào đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh đều tất yếu có hàng tồn kho. Tuy nhiên số lượng nhiều hay ít tuỳ vào nhiều yếu tố khác như lĩnh vực kinh doanh, quy mô kinh doanh.
Chỉ tiêu này cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, song ba chỉ tiêu này phản ánh rất rõ tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có. Nếu sản xuất kém hiệu quả, vòng quay vốn lưu động nhỏ, doanh thu thuần, lãi thuần trong một kỳ kinh doanh thấp kéo theo nhiều chỉ tiêu khác kém đi như: nhóm chỉ tiêu về lợi nhuận, có những trường hợp bị lỗ, tài sản cố định còn trích khấu hao không đủ dẫn đến việc đầu tư cho trang thiết bị lỗ, tài sản cố định kém, hậu quả kéo theo là tiếp tục sản xuất kinh doanh kém tạo ra vòng xoáy liên tiếp.
Nếu kỳ thu tiền bình quân lớn hơn các khoản phải thu nhiều chứng tỏ doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn hoặc do danh nghiệp thu tiền bình quân một ngày nhỏ, chứng tỏ sự tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp kém. Những điều trên đều tác động tới khả năng thu hồi vốn của ngân hàng.
* Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu vốn của doanh nghiệp
Vốn của doanh nghiệp bao gồm vốn tự có và vốn đi vay. Nguồn gốc và cấu thành hai loại vốn này xác định sự ổn định tài chính và khả năng thanh toán dài hạn của doanh nghiệp. Nhìn chung, trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp thường muốn sử dụng vốn tự có nhỏ nhất bởi vì: chi phí của vốn chủ sở hữu lớn hơn so với chi phí của vốn vay, do khi sử dụng vốn vay doanh nghiệp được hưởng một khoản tiết kiệm nhờ thuế, mặt khác, nếu doanh nghiệp chỉ góp một phần nhỏ trong toàn bộ vốn hoạt động thì rủi ro trong kinh doanh chủ yếu do người cho vay gánh chịu. Trong khi đó, doanh nghiệp nắm phần lợi rõ rệt, doanh nghiệp chỉ cần bỏ ra một số vốn ít nhưng được quyền sử dụng một lượng tài sản lớn để kinh doanh đang phát triển, chia sẻ quyền kiểm soát. Đặc biệt khi hoạt động của doanh nghiệp đang phát triển, lãi thu được trên tiền vay lớn hơn lãi suất tiền vay, lợi nhuận dành cho chủ doanh nghiệp tăng lên gấp bội. Doanh nghiệp càng vay càng có hiệu quả và khi đó rủi ro đến với người cho vay cũng càng lớn.
Bất cứ ngân hàng nào cũng muốn mở rộng doanh số hoạt động nhất là mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Song nếu càng lấn sâu vào hoạt động của doanh nghiệp, ngân hàng sẽ càng trở thành người gánh chịu rủi ro thay cho doanh nghiệp. Do đó, ngân hàng phải tự hạn chế mình, chỉ cho vay trong khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Chỉ tiêu thường được ngân hàng sử dụng khi xem xét cơ cấu vốn của doanh nghiệp là:
Hệ số này cho thấy mức độ độc lập hay phụ thuộc của doanh nghiệp đối với chủ nợ, mức độ tự tài trợ của đơn vị đối với tổng nguồn vốn kinh doanh của mình. Tỷ lệ này càng lớn thể hiện doanh nghiệp có nhiều vốn tự có, tính độc lập cao với chủ nợ, khả năng an toàn về trả nợ cao. Khi đơn vị vay có vốn tự có trong tổng nguồn vốn kinh doanh thì họ sẽ có trách nhiệm cao hơn khi sử dụng vốn, tức là họ sẽ bị ràng buộc với vốn vay hơn. Mặt khác trong trường hợp có rủi ro xảy ra thì vốn tự có sẽ là một nguồn vốn quan trọng để trả một phần nợ vay ngắn hạn. Vì vậy, một điều kiện quan trọng của tín dụng ngân hàng là: các đơn vị vay phải có vốn tự có, ngân hàng chỉ cho vay nhằm bổ sung vốn lưu động thiếu của các đơn vị vay, hoặc cho vay bổ sung vốn đầu tư trong các dự án sản xuất kinh doanh.
Trong quá trình phân tích thông qua các nhóm chỉ tiêu trên, ngân hàng có thể phát hiện được các khoản nợ có vấn đề khi có những dấu hiệu khó khăn về tài chính, như: tỷ suất lợi nhuận giảm, tỷ suất tự tài trợ giảm, số dư tiền gửi giảm sút, gia tăng bất thường số hàng tồn kho, gia tăng các khoản nợ thương mại, gia tăng các khoản phải thu.
Tỷ số này cho biết tổng số vốn của doanh nghiệp chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong tổng số vốn của doanh nghiệp đưa ra sản xuất kinh doanh. Tỷ số càng lớn, càng có sự đảm bảo cao cho các khoản nợ vay. Trong tình huống xấu nhất, khi doanh nghiệp không còn khả năng đối đầu với những cam kết trên thị trường và bị đặt vào tình trạng thanh lý thì số vốn tự có sẽ dùng để trang trải những khoản tổn thất phát sinh khi chuyển nhượng tài sản của doanh nghiệp. Ngoài ra còn dùng để trang trải những cam kết của doanh nghiệp như phí thanh lý, tiền phạt do không thực hiện hợp đồng, hoặc trả tiền trợ cấp cho người lao động nếu doanh nghiệp giải thể.
Mức tối thiểu của tỷ số này tuỳ thuộc vào từng ngành hoạt động. Ví dụ, những doanh nghiệp thuộc ngành sản xuất kinh doanh tương đối ổn định có thể chấp nhận được tỷ số này ở mức thấp hơn doanh nghiệp thuộc các ngành sản xuất không ổn định. Những ngành mà tài sản cố định mang tính đặc thù chuyên dùng, có tính chuyên môn hoá cao hơn các doanh nghiệp bình thường khác.
Nói tóm lại, trong hoạt động của bất kỳ doanh nghiệp nào, nguồn vốn chủ sở hữu thường phải đảm bảo những khoản mục có mức độ rủi ro cao như TSCĐ vô hình, TSCĐ có tính chuyên dùng, các bá._.n thành phẩm.
Tỷ số này cao phản ánh doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào chủ nợ, đó là cấu trúc vốn mạo hiểm. Tỷ số này càng cao thì sự an toàn trong đầu tư càng giảm và do đó rủi ro của doanh nghiệp càng tăng, tuy nhiên tỷ số này cũng thay đổi theo ngành hoạt động. Ví dụ: giá trị của nó rất cao đối với ngành công nghiệp nguyên liệu, còn các ngành chế tạo máy, công nghiệp hàng tiêu dùng thì giá trị của nó thấp hơn nhiều. Theo kinh nghiệm ở một số nước, người ta cho vay chỉ chấp nhận chỉ số này nhỏ hơn 1. Tức là tỷ số này càng gần 1, doanh nghiệp càng ít có khả năng được vay dài hạn.
Trong đó, nguồn vốn dài hạn là tổng hợp của hai nguồn: nguồn vốn chủ sở hữu và nợ dài hạn trên bảng cân đối kế toán
Tỷ số tài trợ TSCĐ luôn phải lớn hơn 1 mới mang lại cho doanh nghiệp sự ổn định và an toàn tài chính. Vì TSCĐ thể hiện năng lực sản xuất lâu dài của doanh nghiệp không thể thu hồi nhanh chóng nên nguyên tắc nguồn vốn dài hạn trong doanh nghiệp phải đảm bảo đủ tài trợ cho TSCĐ và một phần tài sản lưu động tối thiểu, thường xuyên, cần thiết, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành bình thường không bị gián đoạn. Tỷ số trên nhỏ hơn 1 có nghĩa là doanh nghiệp đã dùng nguồn vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn. Tình hình tài chính của doanh nghiệp không bình thường, nếu ngân hàng đầu tư vốn vào doanh nghiệp trong tình trạng trên thì sẽ quá mạo hiểm.
* Nhóm chỉ tiêu sinh lợi
Chỉ tiêu này cho thấy sau khi đầu tư vào tài sản bằng nguồn vốn mới huy động sẽ đem lại hiệu quả cao hay thấp hơn so với lúc chưa đầu tư. Vì vậy, trong phân tích tài chính khách hàng để ra quyết định cho vay thì đây là tỷ lệ được ngân hàng quan tâm.
Ngân hàng sử dụng chỉ tiêu này để đánh giá một đồng vốn chủ sở hữu bỏ ra đem về bao nhiêu doanh thu, từ đó đánh giá doanh nghiệp làm ăn như vậy có hiệu quả hay không.
* Nhóm tỷ lệ về khả năng trả nợ
Để đánh giá khả năng trả nợ của doanh nghiệp, các hệ số sau đây có thể được xét:
Vì nguồn vốn trả nợ dài hạn là khả năng tự tài trợ. Tỷ số này nêu lên thời hạn lý thuyết tối thiểu cần thiết để hoàn trả toàn bộ nguồn kinh phí vay muợn với giả thiết cho rằng khả năng tự tài trợ được dùng toàn bộ vào hoàn trả nợ vay. Nếu hệ số này bằng 3, điều đó có nghĩa là trong vòng 3 năm doanh nghiệp có khả năng tích luỹ được số tiền đủ để trả nợ dài hạn.
Khả năng thanh toán lãi vay thường xuyên được tính để đánh giá độ an toàn của việc hoàn trả nợ cho chủ nợ. Số tiền thu nhập trước khi trả thuế TNDN và các khoản tiền lãi cố định là số tiền sẵn sàng để thanh toán tiền lãi cho các khoản nợ vay dài hạn, hệ số này càng lớn càng tốt. Thông thường khả năng thanh toán lãi vay được xem là an toàn, hợp lý, nếu doanh nghiệp tạo ra khoản thu nhập gấp hơn hai lần khoản lãi cố định phải trả hàng năm.
Ngoài ra có thể xem xét khả năng trả nợ bằng cách so sánh lãi vay với doanh thu thuần. Theo kinh nghiệm thực tế người ta cho rằng tỷ lệ này phải dưới mức 3 % tỷ lệ cao sẽ làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp
Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư trung và dài hạn:trước đây khi trình bày các chỉ tiêu này, có một điểm cần lưu ý là: đối với các chỉ tiêu này, việc thẩm định của ngân hàng chỉ là thẩm định lại những gì đã có mà chủ dự án đã thẩm định, việc tính toán các chỉ tiêu này cũng là ngân hàng đứng trên quan điểm của doanh nghiệp để tính toán, bởi vì các chỉ tiêu này mà hấp dẫn đối với doanh nghiệp thì chắc chắn là hấp dẫn đối với ngân hàng. Còn các chỉ tiêu thuộc nhóm này đối với ngân hàng là hoàn toàn khác so với doanh nghiệp.
Các chỉ tiêu chủ yếu được sử dụng để đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư trung và dài hạn:
Giá trị hiện tại ròng (NPV)
Công thức tính:
Trong đó:
CFI phản ánh dòng chi (liên quan đến sự giảm sút ngân quỹ của doanh nghiệp)
CFi = Bi - C i với là khoản thu nhập ròng của năm thứ i
Là vốn đầu tư thực hiện tại năm thứ i
R là lãi suất chiết khấu
I là thứ tự các năm, i = (0, n), n là thứ tự các năm.
NPV càng lớn càng tốt, nhưng nhất thiết NPV phải lớn hơn 0 thì dự án mới được chọn. Đối với ngân hàng, NPV của dự án dù có lớn đến mấy thì ngân hàng cũng chỉ thu được gốc lẫn lãi vay, nhưng nếu NPV mà càng lớn thì ngân hàng có khả năng thu hồi được gốc và lãi nhanh hơn vì lúc đó lợi nhuận cho dự án tạo ra chắc chắn trang trải được chi phí và gốc, lãi vay cho ngân hàng. Nếu tỷ giá có thay đổi thì khả năng chống đỡ của dự án tốt nên khả năng thu hồi gốc và lãi vay tốt.
Chỉ tiêu NPV được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước do nó phản ánh chính xác nhất quy mô tiền lời của một dự án sau khi đã hoàn trả vốn đầu tư, tức là nó phản ánh chính xác hiệu quả của đầu tư về phương diện tài chính.
Để sử dụng phương pháp này cần lưu ý một số quan điểm sau:
Phải lập được dòng tiền phát sinh hàng năm là âm hoặc dương cho dự án, khi đó cần phải tính được doanh thu và chi phí hàng năm của dự án dựa trên công suất thực tế của năm đó cùng với mức giá ước tính, cuối cùng là quy tất cả số tiền phát sinh trong cùng một kỳ vào cuối kỳ để đánh giá và tính toán. Phải xác định được tỷ suất chiết khấu hợp lý cho từng loại dự án, muốn vậy phải xác định được các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất chiết khấu, đó là các nhân tố:
Tỷ lệ lạm phát hàng năm: tỷ lệ này có ảnh hưởng trực tiếp tới r, nếu tỷ lệ lạm phát tăng thì r cũng phải tăng một tỷ lệ tương ứng và ngược lại.
Tỷ lệ gia tăng do sử dụng phương án này mà không sử dụng phương án khác dựa trên việc xác định chi phí cơ hội. Nhân tố ảnh hưởng này thường xuất hiện khi có các phương án loại trừ nhau cùng giúp nhà đầu tư được chọn phải thể hiện được tỷ lệ gia tăng do việc quyết định chọn phương án đầu tư này mà không phải là phương án khác.
Tỷ lệ tăng hoặc giảm do việc thu được hoặc mất đi một lượng giá trị do các yếu tố rủi ro hoặc may mắn. Đây chính là yếu tố đã quy định một việc xác định rủi ro cho từng dự án thuộc từng lĩnh vực, ngành nghề sản xuất kinh doanh là khác nhau, chẳng hạn trong sản xuất nông nghiệp do phải chịu nhiều ảnh hưởng của yếu tố rủi ro khách quan hơn là so với các dự án trong các lĩnh vực khác như công nghiệp, thương nghiệp.
Tỷ suất thu hồi nội bộ IRR
IRR chính là tỷ suất chiết khấu sao cho NPV= 0 hay IRR được xác định bằng công thức:
Để đánh giá dự án, ta có thể đánh giá IRR của dự án bằng cách so sánh nó với giá trị IRR định mức. Tuỳ theo từng dự án mà IRR định mức có thể là lãi suất cho vay dài hạn, tỷ suất lợi nhuận bình quân của ngành, lợi tức cổ phần, chi phí cơ hội.
Để tính IRR ta phải làm như sau:
Chọn lãi suất chiết khấu r1, thường lấy bằng lãi suất vay vốn ta sẽ tính được NPV1.
Chọn lãi suất chiết khấu i2, tính được NPV2, giá trị này cần chọn sao cho NPV2 < 0.
Dùng phương pháp nội suy ta tính được:
* Ưu điểm của phương án này
IRR cho biết lãi suất mà tự bản thân dự án có thể mang lại cho nhà đầu tư, IRR càng lớn thì càng tốt. Nếu có hai hay nhiều dự án cần so sánh thì dự án nào có tỷ suất thu hồi nội bộ tối đa thì sẽ chọn.
IRR còn đặc biệt quan trọng trong trường hợp đầu tư bằng vốn vay. Giả sử lãi suất vay là i % thì:
Nếu IRR < i thì dự án không đủ tiền để trả nợ
Nếu IRR > i thì nhà đầu tư không những sẽ trả được nợ mà còn có lời
Do vậy đối với ngân hàng, ngân hàng sẽ cho vay khi IRR lớn hơn lãi vay và càng lớn càng tốt (thường thì IRR > 15 %)
Hệ số lợi ích trên chi phí
Tỷ số này cho biết một đồng vốn bỏ ra thu được bao nhiêu đồng thu nhập. Tỷ số này càng lớn càng tốt nhưng nhất thiết phải lớn hơn 1 thì dự án mới được chọn.
Thời gian hoàn vốn đơn và thời gian hoàn vốn có chiết khấu
Thời gian hoàn vốn đơn (PP): là khoảng thời gian mà tại đó:
ồti=0CFi = 0ị t = thời gian hoàn vốn đơn
Thời gian hoàn vốn chiết khấu: là khoảng thời gian mà tại đó
ồt*i=0CFI/(1 + r)i = 0 ị t* = thời gian hoàn vốn có chiết khấu
Thời gian hoàn vốn cho biết thời gian tối thiểu, cần thiết để chủ dự án thu về số vốn đã bỏ ra. Đối với ngân hàng, thời gian hoàn vốn càng ngắn càng tốt, bởi vì, doanh nghiệp càng mau chóng thu hồi lại số vốn đầu tư ban đầu và sau khoảng thời gian nào đó là khoảng thời gian mà doanh nghiệp chắc chắn thu được lợi nhuận càng dài. Và như vậy, khoản vay của ngân hàng dành cho doanh nghiệp càng được đảm bảo và doanh nghiệp càng nhanh chóng trả cho ngân hàng cả gốc lẫn lãi.
Nhóm chỉ tiêu về đo lường độ rủi ro của dự án
Điểm hoà vốn
Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó mức doanh thu vừa đủ trang trải mọi phí tổn
* Điểm hoà vốn lãi lỗ
Gọi R: doanh thu bán hàng; F : tổng chi phí cố định; V: chi phí biến đổi một sản phẩm. X: lượng sản phẩm tiêu thụ; P: giá bán đơn vị sản phẩm; C: tổng chi phí trong kỳ
Ta có R = P x X
C = F + (V x X)
Theo khái niệm hoà vốn: R = CÛ P x X = F + (V x X)
Vậy
Sản lượng hoà vốn đạt từ 50% đến 60% công suất của dự án là tốt.
* Điểm hoà vốn trả nợ
Điểm hoà vốn trả nợ là điểm mà tại đó doanh thu do dự án tạo ra vừa đủ để trang trải gốc và lãi vay cho ngân hàng.
Sản lượng tại điểm hoà vốn trả nợ đạt từ 30% đến 40% công suất của dự án là tốt.
Đòn bẩy hoạt động kinh doanh:
Phân tích điểm hoà vốn cũng chưa thấy hết được tầm quan trọng của sự thay đổi doanh số bán đối với lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì vậy đòn bẩy hoạt động sẽ cho ta biết mức độ chi phí cố định mà doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động kinh doanh của nó, mà chi phí thì ảnh hưởng tới lợi nhuận. Mức độ đòn bẩy (DOL) là chỉ sự thay đổi theo tỷ lệ phần trăm của thu nhập trước lãi và thuế (EBIT) do sự thay đổi 1% doanh số bán. Nếu chi phí cố định trong tổng chi phí càng cao thì cũng có nghĩa là mức độ đòn bẩy hoạt động của doanh nghiệp càng cao và khi các nhân tố khác không đổi thì một thay đổi nhỏ trong số lượng bán hàng sẽ dẫn đến một sự thay đổi trong thu nhập trước thuế và lãi vay.
DOL =
Tỷ lệ phần trăm thay đổi của EBIT
Tỷ lệ phần trăm thay đổi doanh số bán
=
Q (P-V)
Q(P-V) - F
Q: Sản lượng
P: Giá bán
F: Chi phí cố định
V: Chi phí biến đổi
Một doanh nghiệp ở tình hình mạo hiểm khi tình hình kinh doanh ở gần điểm hoà vốn và hệ số đòn bẩy hoạt động cao vì khi đó lợi nhuận thu được trước thuế và lãi vay của doanh nghiệp rất nhạy cảm với sự thay đổi của doanh số bán. Bất cứ một lý do nào về chính trị, kinh tế hay thị hiếu có thể làm lợi nhuận trước thuế và lãi giảm mạnh. Do đó, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ ngân hàng, cho nên ngân hàng vẫn thận trọng khi cho doanh nghiệp vay vốn.
Phân tích độ nhạy:
Phân tích độ nhạy là kỹ thuật chỉ ra chính xác giá trị hiện tại ròng NPV thay đổi như thế nào khi một biến đầu tư vào thay đổi. Các giá trị dễ thay đổi làm ảnh hưởng tới dòng tiền từ đó làm ảnh hưởng tới NPV là sản lượng bán hàng, giá bán, chi phí cố định, chi phí biến đổi.
Để phân tích ta cho một trong các yếu tố trên thay đổi, từ đó tính được các NPV mới, rồi tập hợp các NPV tính được để biểu diễn nó trên đồ thị. Đường biểu diễn NPV càng dốc thì mức độ nhạy cảm của NPV đối với sự thay đổi của biến số càng lớn, khi đó dự án càng dễ gặp rủi ro.
1.2.4.2. Phân tích Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ thể hiện lưu lượng tiền vào, ra của doanh nghiệp trong một chu kỳ kinh doanh. Kết quả phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ sẽ cho biết được sự vận động sản xuất kinh doanh, lượng tiền bình quân trong kỳ. Bản chất sự vận động như sau:
Nguồn thu tăng do giảm tài sản này hay tăng nợ phải trả và vốn chủ sở hữu
Nguồn chi tăng do tăng tài sản, trả các khoản nợ đến hạn hay trả cho đồng sở rút vốn
Tiền mặt đầu kỳ + tiền phát sinh trong kỳ = tiền mặt cuối kỳ
Sự vận động của dòng tiền thể hiện qua ba hoạt động:
Dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh: là hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp. Dòng tiền này lớn hơn hoặc bằng 0 do: doanh thu tăng, bán chịu ít, tốc độ tăng doanh thu bằng tiền lớn hơn tốc độ tăng sản phẩm được sản xuất ra, tăng phải thu kỳ trước. Đây là dấu hiệu sản xuất kinh doanh ổn định phát triển. Dòng tiền lớn hơn 0 do nguyên nhân ngược lại.
Dòng tiền từ hoạt động đầu tư: Dòng tiền này lớn hơn 0 do: thu lãi đầu tư, thu tiền bán tài sản cố định, thu hồi đầu tư không có hiệu quả, tăng vốn chủ sở hữu, tìm nguồn hoạt động từ bên ngoài; dòng tiền này nhỏ hơn 0 do: Doanh nghiệp mới đầu tư vào tài sản hay đầu tư ra ngoài doanh nghiệp, cán bộ tín dụng phải xem xét nguồn vốn để đầu tư, nếu không phải vốn chủ sở hữu hay vốn dài hạn thì chức tỏ doanh nghiệp đã đầu tư bằng vốn ngắn hạn như vậy tiềm ẩn rủi ro tín dụng.
Dòng tiền từ hoạt động tài chính: dòng tiền này liên quan tới vốn chủ sở hữu, vay vốn, nhận vốn liên doanh, phát hành cổ phiếu. Dòng tiền này nhỏ hơn hoặc bằng 0 do trả lãi, chủ sở hữu rút vốn. Trường hợp lớn hơn 0. Tăng vay vốn, góp thêm vốn.
Dtiền từ
SXKD
Dtiền HĐĐT
Dtiền HĐTC
Tổng
Đánh giá
+
+
+
+
DN thừa tiền, chỉ cho vay mở rộng SXKD
+
+
-
+
DN gặp khó khăn về tài chính, chỉ cho vay mở rộng SXKD
-
DN có vấn đề, cẩn trọng trong cho vay mới
+
-
+
+
DN có đầu tư lớn, chỉ xem xét cho vay bổ sung vốn lưu động
-
DN đầu tư quá lớn, cẩn trọng trong cho vay mới
-
+
+
+
DN gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, cẩn trọng trong cho vay mới
-
DN rất khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, cẩn trọng trong cho vay
-
-
+
+
DN đầu tư lớn, gặp khó khăn tiêu thụ sản phẩm, cẩn trọng trong cho vay, chỉ cho vay giải quyết khó khăn này.
-
Không cho vay nữa
-
-
-
-
DN có khó khăn rất lớn nguy cơ không trả được nợ, không cho vay nữa
Tóm lại: thông qua phân tích tình hình tài chính khách hàng, ngân hàng thương mại có thể biết được một phần tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính khả quan hay không khả quan, xu hướng phát triển của đơn vị như thế nào để từ đó có quyết định cho vay đúng, đảm bảo thu hồi nợ đúng hạn, đầy đủ gốc và lãi.
Tuy nhiên, việc phân tích tình hình tài chính khách hàng chỉ hữu ích khi các số liệu báo cáo phải được đảm bảo tính chính xác. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, khi mà việc thực hiện pháp lệnh kế toán thống kê chưa được chấp hành nghiêm chỉnh thì đòi hỏi cán bộ tín dụng phải thẩm định tính chính xác của các số liệu báo cáo và cần phải kết hợp chặt chẽ giữa phân tích tình hình tài chính với các thông số phi tài chính để đưa ra những kết luận xác đáng về khác hàng mà ngân hàng đã quan hệ làm ăn.
Chương II
Thực trạng hoạt động phân tích tài chính đối với khách
hàng vay vốn tại NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ
2.1 Tổng quan về NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ
2.1.1 Sự hình thành và phát triển, mô hình tổ chức và khái quát nội dung hoạt động của NHNo& PTNT chi nhánh Chợ Mơ
Sự hình thành và phát triển của NHNo& PTNT chi nhánh Chợ Mơ
Trong điều kiện nền kinh tế phát triển hiện nay, nhu cầu gửi tiền, vay vốn và sử dụng các dịch vụ do ngân hàng cung cấp là khá lớn, đặc biệt tại Thành phố Hà Nội - Trung tâm buôn bán và giao dịch lớn, trong đó có các doanh nghiệp chiếm phần lớn, thì việc ra đời các Chi nhánh ngân hàng, các phòng Giao dịch, các Quỹ tiết kiệm của các ngân hàng Thương mại ở mọi đường phố, ngõ ngách là điều tất yếu. Mặt khác, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay, chỉ xét riêng các Ngân hàng Thương mại Quốc Doanh, thì các ngân hàng đã nắm các chốt ở tất cả các điểm có thể. Trong điều kiện đó, NHNo&PTNT Thăng Long quyết định thành lập NHNo & PTNT chi nhánh Chợ Mơ nhằm khai thác khu vực thị trường tại đây còn đang bỏ ngỏ, với vị trí đặt tại 486 Bạch Mai - Hà Nội. Nói chung là Chi nhánh còn nhiều hạn chế về trình độ công nghệ và các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, nhất là dịch vụ thanh toán quốc tế, ngoại tệ, thanh toán chuyển tiền điện tử. Nhờ có sự chỉ đạo, quan tâm, giúp đỡ và sự hỗ trợ về mọi mặt của Ban lãnh đạo NHNo&PTNT Thăng Long, ngày 12/5/2001, NHNo&PTNT chi nhánh Chợ Mơ được thành lập và chính thức khai trương hoạt động từ ngày 08/02/2002.
Thời gian đầu, bên cạnh những thuận lợi nói trên, Chi nhánh còn gặp rất nhiều khó khăn, thách thức, cụ thể là: Chi nhánh ra đời trong điều kiện cơ sở vật chất lúc ban đầu, khách hàng còn chưa biết nhiều về địa điểm cũng như phuơng thức hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Điều đó cũng tạo cho ngân hàng thế cạnh tranh non kém và khó khăn. Về con người thì hầu hết là cán bộ được điều động từ Trung tâm Điều hành ra, chưa va chạm với thương trường và một số chưa qua thực tế nghiệp vụ kinh doanh cụ thể. Số được điều động từ các ngân hàng tỉnh, huyện lên thì bỡ ngỡ với môi trường kinh doanh mới, một số lại phải làm những công việc mới, không phát huy được năng lực sở trường từng người. Tóm lại, Chi nhánh ra đời trong điều kiện thuận lợi nhưng cũng gặp nhiều khó khăn cần phải khắc phục từ từ.
Đến nay, Chi nhánh mới thành lập nhưng các hoạt động cơ bản hoạt động rất tích cực, số lượng cán bộ công nhân viên chưa nhiều nhưng trong tương lai sẽ phát triển khá mạnh.
Chức năng nhiệm vụ của NHNo & PTNTchi nhánh Chợ Mơ
Chi nhánh NHNo & PTNT Chợ Mơ có nhiệm vụ:
- Huy động vốn:
Khai thác và nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài bằng đồng Việt Nam;
Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng và thực hiện các hình thức kinh tế; cá nhân và hộ gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế theo phân cấp uỷ quyền.
- Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng đồng Việt Nam đối với các tổ chức kinh tế; cá nhân và hộ gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế theo phân cấp uỷ quyền.
- Hướng dẫn khách hàng xây dựng dự án, thẩm định các dự án tín dụng vượt quyền phán quyết; trình ngân hàng nông nghiệp cấp trên quyết định.
Kinh doanh các nghiệp vụ ngoại hối khi được Tổng giám đốc Ngân hàng nông nghiệp cho phép.
Kinh doanh dịch vụ: thu, chi tiền mặt; két sắt, nhận cất giữ các loại giấy tờ trị giá được bằng tiền; thẻ thanh toán; nhận uỷ thác cho vay của các tổ chức tài chính, tín dụng, các tổ chức, cá nhân khác trong và ngoài nước; các dịch vụ ngân hàng khác được Ngân hàng nhà nước, Ngân hàng nông nghiệp quy định.
Thực hiện hạch toán kinh doanh và phân phối thu nhập theo quy định của Ngân hàng Nông nghiệp.
Thực hiện kiểm tra, kiểm toán nội bộ việc chấp hành thể lệ, chế độ nghiệp vụ trong phạm vi địa bàn theo quy định.
Tổ chức thực hiện việc phân tích kinh tế liên quan đến hoạt động tiền tệ, tín dụng và đề ra kế hoạch kinh doanh phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.
Phòng tín dụng
Phòng kế toán - ngân quỹ
Phòng kinh tế - kế hoạch
Phòng tổ chức cán bộ đào tạo
Phòng kiểm tra, kế toán nội bộ
Ban Giám Đốc
*Cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ của các phòng tại NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ
Qua sự khái quát sự ra đời và điều kiện hiện nay của Chi nhánh số liệu được thống kê đến 05/01/2004 cho thấy, ngay từ khi đi vào hoạt động, Ban lãnh đạo NHNo&PTNT Chi nhánh Chợ Mơ đã xác định công tác huy động vốn được đưa lên hàng đầu. Do vậy, Chi nhánh đã tăng cường hoạt động tiếp thị, tuyên truyền, quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng của các phường xung quanh nơi Chi nhánh đóng trụ sở. Tập trung chỉ đạo bằng các biện pháp tích cực để thu hút các nguồn vốn lớn, rẻ ở các đơn vị, tổ chức kinh tế trong và ngoài địa bàn, góp phần tăng trưởng nguồn vốn để NHNo&PTNT Việt Nam điều hoà cho các Chi nhánh khác.
*Nhiệm vụ của các phòng thuộc chi nhánh NHNo& PTNT:
Phòng kinh tế kế hoạch.
Nghiên cứu, đề xuất chiến lược khách hàng, chiến lược huy động vốn tại địa phương.
Xây dựng kế hoạch kinh doanh ngắn, trung và dài hạn theo định hướng kinh doanh của Ngân hàng nông nghiệp.
Tổng hợp, theo dõi các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh và quyết toán kế hoạch đến các chi nhánh NHNo& PTNT trên địa bàn.
Cân đối nguồn vốn, sử dụng các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh đối với các chi nhánh NHNo& PTNT.
Tổng hợp, phân tích hoạt động kinh doanh quý, năm. Dự thảo các báo cáo sơ kết, tổng kết.
Đầu mối thực hiện thông tin phòng ngừa rủi ro và xử lý rủi ro tín dụng.
Tổng hợp, báo các chuyên đề theo quy định.
Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp giao.
Phòng tín dụng.
Nghiên cứu xây dựng chiến lược khách hàng tín dụng, phân loại khách hàng và đề xuất các chính sách ưu đã đối với từng loại khách hàng nhằm mở rộng theo hướng đầu tư tín dụng khép kín: sản xuất, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu và gắn tín dụng sản xuất, lưu thông và tiêu dùng.
Phân tích kinh tế theo ngành, nghề kinh tế kỹ thuật, danh mục khách hàng
Thẩm định và đề xuất cho vay các dự án tín dụng theo phân cấp uỷ quyền.
Thẩm định các dự án, hoàn thiện bộ hồ sơ trình Ngân hàng nông nghiệp cấp trên theo phân cấp thẩm quyền.
Tiếp nhận và thực hiện các chương trình, dự án thuộc nguồn vốn trong nước, nước ngoài. Trực tiếp làm dịch vụ uỷ thác nguồn vốn thuộc Chính phủ, Bộ, ngành khác và các tổ chức kinh tế, các cá nhân trong và ngoài nước.
Xây dựng và thực hiện các mô hình tín dụng thí điểm, thử nghiệm trong địa bàn, đồng thời theo dõi, đánh giá, sơ kết, tổng kết; đề xuất Tổng giám đốc cho phép nhân rộng.
Thường xuyên phân loại dư nợ, phân tích nợ quá hạn, tìm nguyên nhân và đề xuất hướng khắc phục.
Giúp Giám đốc chi nhánh chỉ đạo, kiểm tra hoạt động tín dụng của các chi nhánh NHNo& PTNT.
Phòng kế toán - ngân quỹ.
Trực tiếp hạch toán kế toán, hạch toán thống kê và thanh toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng nông nghiệp.
Xây dựng chỉ tiêu kế hoạch tài chính, quyết toán kế koạch thu, chi tài chính, quỹ tiền lương đối với các chi nhánh NHNo& PTNT trên địa bàn trình Ngân hàng nông nghiệp cấp trên phê duyệt.
Quản lý và sử dụng các quỹ chuyên dùng theo quy định của NHNo& PTNT trên địa bàn.
Tổng hợp, lưu trữ hồ sơ, tài liệu về hạch toán, kế toán, quyết toán và các báo cáo theo quy định.
Thực hiện các khoản nộp ngân sách Nhà nước theo luật định
Thực hiện nghiệp vụ thanh toán trong và ngoài nước.
Chấp hành quy định về an toàn kho quỹ và định mức tồn quỹ theo quy định.
Quản lý, sử dụng thiết bị thông tin, điện toán phục vụ nghiệp vụ kinh doanh theo quy định của NHNo& PTNT
Phòng kiểm tra, kế toán nội bộ
Kiểm tra công tác điều hành của chi nhánh NHNo& PTNT và các đơn vị trực thuộc theo Nghị quyết của Hội đồng quản trị và chỉ đạo của Tổng Giám đốc ngân hàng Nông nghiệp
Kiểm tra giám sát việc chấp hành quy trình nghiệp vụ kinh doanh theo quy định của pháp luật, ngân hàng Nông nghiệp
Giám sát việc chấp hành các quy định của Ngân hàng Nhà nước về đảm bảo an toàn trong hoạt động tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng
Kiểm tra độ chính xác của báo cáo tài chính, báo cáo cân đối kế toán, việc tuân thủ các nguyên tắc chế độ về chính sách kế toán theo quy định của Nhà nước, ngành ngân hàng
2.1.2 Tình hình cho vay tại NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ
Bảng 2.1: Tình hình cho vay tại NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ trong hai năm 2002, 2003
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2002
2003
Tổng dư nợ (không tính TK29 và các khoản chuyển) từ TK 29 sang TK28
16158
154571
1. Nội tệ
14550
129425
2. Ngoại tệ
1608
25146
Dư nợ phân theo thời gian
16158
154571
1. Ngắn hạn
12917
143699
2. Trung dài hạn
3241
10872
Dư nợ theo thành phần kinh tế
16158
154571
1. Dư nợ DNNN
13251
134716
2. Dư nợ ngoài quốc doanh
1343
5631
3. Dư nợ hợp tác xã
0
0
4. Dư nợ kinh tế hộ
1564
14224
Nợ quá hạn (không tính dư nợ trên tài khoản 28;29)
12
143
(Theo báo cáo kết quả hoạt động của NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ)Để hiểu rõ hơn về hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ trong thời gian qua, chúng ta xem xét bảng tình hình sử dụng vốn:
Bảng 2.2: Tình hình sử dụng vốn tại NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2002
2003
2003/2002
Doanh số cho vay
27370
477060
17,4 lần
Doanh số cho vay nội tệ
24562
430339
17.5 lần
Doanh số cho vay ngoại tệ
8208
46721
5,7 lần
Doanh số thu nợ
11212
338647
30,2 lần
Doanh số thu nợ nội tệ
10012
317073
31,67 lần
Doanh số thu nợ ngoại tệ
1200
21574
17,98 lần
Tổng dư nợ
16158
154571
9,6 lần
Dư nợ nội tệ
14550
129425
8,9 lần
Dư nợ ngoại tệ
1608
25146
15,6 lần
(Theo báo cáo kết quả hoạt động của NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ)
Nợ quá hạn 1.774 triệu đồng chiếm 1,15% trên tổng dư nợ và chiếm 1,37 % trên dư nợ nội tệ. Xét về thực chất nợ quá hạn là 143 triệu đồng chiếm 0,9% trên tổng dư nợ và 1.582 triệu đồng nợ quá hạn theo quy định quyết định 72. Như vậy, doanh số cho vay năm 2003 tăng 17,5 lần, doanh số thu nợ tăng 30,2 lần, tổng dư nợ đến 31/12/2003 tăng 9,6 lần so với đầu năm. Tập trung chủ yếu vào 3 lĩnh vực sau:
Đầu tư các mặt hàng xuất khẩu như cao su, cà phê, tiêu, sắt, thép, máy móc công cụ , hoá chất chế biến thức ăn gia súc.
Thu mua và tiêu thụ nội địa các mặt hàng nông sản, ngô, mía đường, tiêu, cà phê.
Đầu tư (VLĐ) trong lĩnh vực XDCB xây dựng các khu đô thị mới như đền bù và giải phóng mặt bằng; tham gia các dự án Phủ Mỹ 2, Thuỷ điện Phả lại.
Đã góp phần đáng kể cho các doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ sản xuất kinh doanh và hoàn thành kế hoạch năm 2003. Đặc biệt đã hỗ trợ cho gần 200 hộ kinh doanh, cá thể vay vốn và cho vay tiêu dùng để mua nhà ở, sửa chữa và mua sắm các phương tiện sinh hoạt gia đình nhằm từng bước ổn định và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho một bộ phận dân cư địa bàn thành phố.
Tuy nhiên công tác đầu tư tín dụng chưa chú trọng đúng mức vào khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh, cá thể và cho vay tiêu dùng. Tính đến 31/12/2003, dư nợ ngoài quốc doanh chỉ chiếm 3,6% cho vay hộ kinh doanh và tiêu dùng chiếm 9,2% trên tổng dư nợ là quá thấp; cho vay theo dự án triển khai quá chậm. Nguyên nhân chính do một bộ phận cán bộ chưa nhận thức đúng tầm quan trọng và xu thế phát triển các khu vực trên trong cơ chế mở - hội nhập cộng vào đó là tính ngần ngại và lo lắng do thiếu kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Mặt khác tính năng động sáng tạo tìm kiếm khách hàng, dự án khả thi còn thiếu và ít được chú trọng.
Giải pháp khắc phục:
Mở rộng và tăng trưởng cho vay khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, hộ kinh doanh, cá thể và cho vay tiêu dùng có phương án khả thi nhằm thay đổi cơ cấu tín dụng hợp lý có lợi cho tăng trưởng tín dụng khi các doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi hình thức quản lý mới.
Đổi mới cách nghĩ, cách làm và không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn và thực tiễn hoạt động tín dụng trên địa bàn Hà Nội cho cán bộ tín dụng.
Coi trọng chất lượng tín dụng. Lưu ý các doanh nghiệp nhà nước thuộc diện cổ phần hoá từ nay đến 2005.
2.2. Thực trạng hoạt động phân tích tài chính đối với khách hàng vay vốn tại NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ
2.2.1. Khái quát về hoạt động phân tích tài chính đối với khách hàng vay vốn tại NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ
Cũng như hoạt động của bất kỳ ngân hàng thương mại nào khác, đối với NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ, công tác phân tích, đánh giá đối với tài chính khách hàng là một khâu quan trọng cơ bản của toàn bộ quá trình thẩm định cho vay vốn nhằm phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động Tín dụng nói riêng. Đây là công tác thường xuyên liên tục phải làm đối với khách hàng vay vốn tại chi nhánh, kết quả đưa ra từ công tác trợ giúp đắc lực cho việc ra quyết định cho vay.
* Các báo cáo tài chính sử dụng
Bảng cân đối kế toán
Báo cáo kết quả kinh doanh
Thuyết minh báo cáo tài chính
Các thông tin trong hệ thống cung cấp.
* Phương pháp sử dụng
Phương pháp so sánh
Phương pháp tỷ lệ
Phương pháp Dupont
* Nội dung sử dụng trong phân tích đánh giá tài chính khách hàng vay vốn
Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn
Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh
Phân tích các nhóm chỉ tiêu tài chính chủ yếu
2.2.2. Nội dung phân tích tài chính khách hàng vay vốn tại NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ
Tên khách hàng: Tổng công ty đầu tư và phát triển nhà và đô thị
Hình thức sở hữu vốn: sở hữu Nhà nước
Lĩnh vực kinh doanh: Đầu tư phát triển các khu dân cư, khu đô thị, khu công nghiệp tập trung; tư vấn đầu tư xây dựng; kinh doanh nhà và hạ tầng khu đô thị, khu công nghiệp; thi công xây lắp; sản xuất kinh doanh vật tư thiết bị; quản lý khai thác dịch vụ tổng hợp khu công nghiệp; hợp tác đầu tư các dự án phát triển đô thị nước ngoài;
Số công nhân viên: 2144 người
Trong đó: Nhân viên quản lý: 307 người
Những ảnh hưởng quan trọng đến tình hình kinh doanh: trong những năm qua, do triển khai hoạt động theo mô hình Tổng công ty 90, Tổng công ty đã có một cơ chế phù hợp về triển khai và quản lý dự án, có một môi trường phát triển chung cư cao tầng, huy động được nguồn kinh doanh, được các cấp các ngành Phân tích các chỉ tiêu trong báo cáo tài chính ủng hộ; bên cạnh đó còn nhiều khó khăn: Thị trường kinh doanh nhà và hạ tầng cạnh tranh ngày càng gay gắt, việc giải phóng mặt bằng ngày càng gặp nhiều khó khăn do đó ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng hoạt động của Tổng công ty.
Như đã đề cập ở trên: ta có bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh của Tổng công ty đầu tư phát triển nhà và đô thị
Bảng 2.3: Báo cáo kết quả kinh doanh qua ba năm của Công ty đầu tư phát triển nhà và đô thị:
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
Tổng doanh thu
356421
608816
813259
Doanh thu thuần
355141
604503
812857
Giá vốn hàng bán
274207
292201
744989
Lợi nhuận gộp
80934
312302
67868
Chi phí bán hàng
61654
315
38313
Chi phí quản lý doanh nghiệp
8680
28469
29376
Lợi nhuận từ HĐKD
10600
283517
9932
Lợi nhuận khác
9564
8646
29791
Tổng lợi nhuận trước thuế
20164
292163
39724
Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp
5105
4155
9743
Lợi nhuận sau thuế
15058
288007
29981
(Theo số liệu tại NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ )
Bảng 2.4: Bảng cân đối kế toán trong 3 năm của Tổng công ty đầu tư phát triển nhà và đô thị:
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
A- Tài sản
436391
831901
1128010
I.Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
315779
703027
997489
1. Tiền
128985
165983
192861
2. Các khoản đầu tư tài chính NH
15
15
15
3. Các khoản phải thu
123190
443468
610495
4. Tài sản lưu động khác
4603
11105
-10348
5. Hàng tồn kho
58985
82454
204466
I. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn
120612
128874
130521
1. Tài sản cố định
65914
72107
85120
Nguyên giá
70902
79676
97790
Hao mòn (luỹ kế)
(4988)
(7569)
(12670)
2. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn
17
17
17
3. Chi phí xây dựng dở dang
54681
56751
45384
B. Nguồn vốn
436391
831901
1128010
I. Nợ phải trả
287591
390830
679831
Nợ ngắn hạn
80975
103041
146115
Trong đó: Phải trả người bán
15421
24109
35215
Phải trả khác
42402
59807
35215._. cáo tài chính được kiểm toán bởi cơ quan kiểm toán độc lập, có uy tín, một báo cáo tài chính được kiểm toán sẽ cho độ chính xác cao hơn. Do vậy, ngân hàng nên yêu cầu điều kiện này trước khi nghiên cứu các bước tiếp theo.
Tuy nhiên việc sử dụng dịch vụ kiểm toán độc lập không đơn giản do chi phí cho mỗi lần kiểm toán là cao, vì vậy để giữ khách hàng, ngân hàng nên xem xét độ tin cậy của thông tin dựa vào uy tín của doanh nghiệp có quan hệ với ngân hàng, có nợ quá hạn không, nếu có thì số lượng và thời gian nợ quá hạn như thế nào nhưng việc dựa trên uy tín này chưa phải là tối ưu, ngân hàng vẫn phải kiểm tra và củng cố lòng tin. Còn các trường hợp khác ngân hàng phải tự kiểm tra báo cáo tài chính bằng nhiều phương pháp khác nhau như:
So sánh đối chiếu thông tin với số liệu của Trung tâm thông tin tín dụng NHNN - CIC.
Kiểm tra dựa trên tính logic cũng như mối quan hệ giữa các chỉ tiêu trình bày trong báo cáo tài chính.
Kiểm tra đối chiếu với sổ sách kế toán thống kê của doanh nghiệp.
Đặc biệt hiện nay, NHNN đang có mạng thông tin phòng ngừa rủi ro thực hiện khá hiệu quả và đã tư vấn, giúp đỡ cho khách hàng vay vốn trong việc lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh, vì vậy ngân hàng cần phải kết hợp giữa việc lấy thông tin từ trung tâm này và từ trung tâm CIC của NHNN vì hiện nay các thông tin do CIC cung cấp cũng là từ các tổ chức tín dụng khác cung cấp nên đều không đầy đủ và thiếu đi tính thời sự, vì vậy cần phải lựa chọn những thông tin cần thiết chính xác từ hai trung tâm này.
Bên cạnh đó, ngân hàng cũng phải đối chiếu với thông tin của các cơ quan tài chính khác nhằm tránh tình trạng có một số doanh nghiệp cung cấp thông tin không thống nhất cho các bên có liên quan với mục đích trục lợi, gây thiệt hại cho những người sử dụng thông tin, trong đó có ngân hàng.
Thứ ba, ngân hàng cần phải thường xuyên tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ trong ngân hàng không chỉ nhằm vào phía đơn thuần là kiểm tra khách hàng mà quan trọng hơn là kiểm tra, thanh lọc những cán bộ tín dụng thông đồng với khách hàng nhằm mục đích chiếm dụng vốn và tài sản của ngân hàng nên đã thu thập thông tin qua loa, đại khái, phân tích sơ sài hay cố tình tiếp nhận thông tin không trung thực, đầy đủ nhanh chóng có được quyết định cho vay.
Thứ tư, ngân hàng nên mở sổ theo dõi với từng khách hàng vay vốn về tất cả các lĩnh vực có liên quan đến điều kiện và tình hình sản xuất kinh doanh của người vay, từ đó sẽ giúp ngân hàng dễ dàng trong quản lý hơn và sẽ giảm thời gian trong việc kiểm tra các thông tin khi khách hàng xin vay lần sau.
Khách hàng vay vốn của ngân hàng ngày càng phong phú và đa dạng không chỉ tập trung vào các doanh nghiệp mà còn các hộ kinh doanh, cá nhân nhưng việc phân tích khách hàng vay vốn đối với mỗi nhóm khách hàng có khác nhau ví dụ: từ khi Luật Doanh nghiệp đi vào thực thi, có hiệu lực, các loại hình doanh nghiệp đa dạng ra đời, rất nhiều các công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập. Phần lớn những công ty này đều có quy mô nhỏ, thời gian, ngành nghề kinh doanh phong phú, các báo cáo tài chính có thể còn nhiều thiếu sót, đơn giản, sơ sài, trong đó các công ty liên doanh hoặc công ty có 100% vốn nước ngoài, các công ty Nhà nước có thời gian hoạt động dài, quy mô kinh doanh lớn, các báo cáo tài chính phức tạp.
3.2.2. Đối với hoạt động phân tích các thông tin và ra quyết định
Về các chỉ tiêu tài chính đang phân tích, ngân hàng cần phải chú ý một số điểm sau:
Đối với tỷ lệ hiện hành:
Để sử dụng tốt tỷ lệ này, ngân hàng nên loại trừ ra khỏi tử số các khoản hàng tồn kho ứ đọng, kém phẩm chất, các khoản nợ phải thu khó đòi, các chứng khoán giảm giá.
Trường hợp các doanh nghiệp lập các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng phải thu khó đòi và dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán đúng và đầy đủ thì không có gì khó khăn gì cho việc xác định chỉ tiêu tài chính này. Nhưng thực tế cho thấy, chỉ có một phần các khoản dự phòng được lập và phản ánh trên BCĐKT của doanh nghiệp.
Theo thông tư số 64 TC/TCDN ngày 15/9/1997 của Bộ tài chính hướng dẫn về chế độ trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng công nợ khó đòi, dự phòng giảm giá các chứng khoán tại DNNN, thì chỉ có một bộ phận khoản phải thu quá hạn được lập dự phòng, đó là các khoản nợ phải thu từ hai năm trở lên, đã đòi nhiều lần nhưng chưa thu hồi được, mới được lập dự phòng. Và mức lập dự phòng không vượt quá 20% tổng dư nợ phải thu của doanh nghiệp tại 31/12 hàng năm và phải đảm bảo doanh nghiệp không lỗ. Như vậy, rõ ràng có một bộ phận các khoản phải thu khó đòi sẽ không được lập dự phòng. Đồng thời quy định trên chỉ được áp dụng cho các DNNN còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại chưa được thực hiện.
Trong khi chưa có quy định mới về vấn đề trên, khi thẩm định, ngân hàng có thể yêu cầu các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, phản ánh đầy đủ các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng
phải thu khó đòi và dự phòng giảm giá chứng khoán. Như vậy, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân tích tài chính khách hàng một cách chính xác hơn và tạo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp.
Đối với chỉ tiêu “chu kỳ thu hồi vốn trung bình” và chỉ tiêu “vòng quay hàng hoá” ngân hàng nên quy định cách tính tiền bán hàng trung bình một ngày và giá trị trung bình vật tư, hàng tồn kho theo số bình quân thứ tự thời gian sẽ chính xác hơn.
Đối với các tỷ lệ đo lường khả năng sinh lời của doanh nghiệp có liên quan tới LNST, khi tính toán ngân hàng cần phải phân tích các yếu tố ảnh hưởng gián tiếp tới LNST như đã trình bày ở phần thu thập thông tin phía trên.
Riêng đối với tỷ lệ khả năng sinh lời của tài sản, xin trình bày một số điểm cần chú ý sau:
Phần tử nên thay bằng “lợi nhuận trước thuế và lãi vay”, có như thế mới thể hiện được hiệu quả xã hội của đồng vốn sản xuất, không phụ thuộc vào cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp. Lúc đó, chỉ tiêu này sẽ phản ánh hiệu quả sản xuất khách quan hơn.
Khi đó, chỉ tiêu này cho biết trong kỳ kinh doanh một đồng vốn nói chung tạo ra bao nhiêu đồng lãi hoạt động biểu hiện năng lực của doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn sản xuất để tạo ra lợi nhuận, trong đó, một phần dùng để trả lãi vay, một phần nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho ngân sách và phần còn lại là lãi ròng tích của doanh nghiệp.
Với ý nghĩa trên, ngân hàng cần quan tâm đến chỉ tiêu này khi thẩm định. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt và bắt buộc phải cao hơn lãi vay.
Về việc xác định “lợi nhuận trước thuế và lãi vay”:
Chỉ tiêu “lợi nhuận trước thuế và lãi vay” là một chỉ tiêu không có trong các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Chỉ tiêu “lợi nhuận trước thuế” trong bảng “Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh” là chỉ tiêu phản ánh lợi nhuận trước thuế và sau khi trả lãi tiền vay. Do đó, để xác định được phần tử số của công thức, Ngân hàng buộc phải lấy lợi nhuận trước thuế cộng với chi phí trả lãi tiền vay. Trong khi chi phí trả lãi tiền vay được gộp chung với chi phí quản lý doanh nghiệp phản ánh trong bảng “Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh”.
Như vậy, để biết chi phí trả lãi tiền vay, ngân hàng cần yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp thêm thông tin này bằng cách: sau chỉ tiêu “Chi phí quản lý doanh nghiệp” trong BCKQKD, bổ sung thêm chỉ tiêu trong đó là “chi phí lãi vay”, việc này đối với các doanh nghiệp không phải là điều khó khăn vì các doanh nghiệp đều tổ chức kế toán chi tiết và trong điều kiện sử dụng máy vi tính trong công tác hoạch toán kế toán.
Đối với chỉ tiêu lợi nhuận ròng:
LN = ồD- ồC- ồT
Chỉ tiêu này có nhược điểm là được tính toán trên cơ sở mức chi phí cũng như đơn giá hiện nay đã không tính đến sự thay đổi của môi trường kinh doanh và đồng tiền thanh toán. Do vậy, ngân hàng nên dần dần loại bỏ đi chỉ tiêu này và thay vào đó, tập trung vào tính toán chỉ tiêu NPV.
Để đánh giá khả năng hoàn vốn vay: Ngân hàng chỉ sử dụng chỉ tiêu: thời gian hoàn vốn vay mà không xem xét tới chỉ tiêu Thời gian hoàn vốn đầu tư. Trong đó, công thức tính thời gian hoàn vốn đầu tư như sau:
Trong đó, ồV là tổng vốn đầu tư
T là thời gian thu hồi vốn đầu tư
Cho nên, có thể nói: hiệu quả của hoạt động đầu tư gần như đã bị xem nhẹ so với vấn đề thu hồi vốn của ngân hàng, làm cho việc thẩm định, xem xét dự án phần nào đã giảm đi tính khách quan, trong khi thực tế Thời gian hoàn vốn đầu tư của chủ dự án có đạt được tiêu chuẩn đủ ngắn thì khả năng hoàn trả vốn vay đầy đủ, đúng hạn mới chắc chắn.
Do vậy bên cạnh chỉ tiêu thời gian hoàn trả vốn vay, ngân hàng cũng phải nghiên cứu chỉ tiêu thời gian hoàn trả vốn đầu tư và phải so sánh sự hợp lý giữa hai chỉ tiêu này. Trong đó, Thời gian hoàn trả vốn đầu tư luôn phải dài hơn Thời gian hoàn trả vốn vay, vì về nguyên tắc chủ dự án phải hoàn trả hết các dự án tạo ra; nếu ngược lại thì chắc chắn có sự gian lận của chủ dự án hoặc sự tính toán sai lầm của ngân hàng về các nguồn trả nợ của doanh nghiệp
Từ những thông tin về tình hình và khả năng tài chính của khách hàng hiện tại, dự đoán nhu cầu tài chính của khách hàng trong tương lai để đi đến quyết định tài trợ hay không tài trợ cho doanh nghiệp vay.
Quyết định này phải đảm bảo nguyên tắc lấy dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả làm căn cứ cho vay và quyền tự chủ, chịu trách nhiệm của Giám đốc ngân hàng. Trên thực tế cho thấy, khoản vay chỉ được cấp trên cơ sở dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì chưa đủ mà còn cần phải thể hiện được trách nhiệm vật chất của cán bộ tín dụng thẩm định và Giám đốc ngân hàng quyết định cho vay, khi đó tính chất kinh tế - xã hội và tính chất pháp lý của tín dụng ngân hàng mới được bảo đảm.
Tuy nhiên, khi đặt ra vấn đề trách nhiệm vật chất nếu rủi ro xảy ra thì chắc chắn tín dụng sẽ bị co cụm lại và vấn đề bảo đảm tín dụng sẽ được đặt ra một cách khắc nghiệt. Dẫn đến, khối lượng tín dụng không thể vượt qua giá trị tài sản thế chấp, cầm cố. Hiện nay, theo quy định: giá trị tài sản thế chấp, cầm cố phải lớn hơn giá trị khoản vay ít nhất từ 20% trở lên.
Tài sản thế chấp, cầm cố được trong nền kinh tế chủ yếu là giá trị của tài sản đã được tích luỹ trong doanh nghiệp như máy móc, nhà xưởng, nguyên liệu. Như vậy, một doanh nghiệp không thể vay một số tiền nhều hơn giá trị của mình. Trong khi đó nhu cầu vay vốn lưu động của một doanh nghiệp là lớn hơn nhiều lần bản thân vốn tự có của doanh nghiệp. Sự biến tướng của việc gia tăng tín dụng dùng chính tài sản tạo ra vốn vay để đảm bảo cho nợ vay.. tất cả những biến tướng này mang rủi ro đến cho ngân hàng và đặc biệt là rủi ro rất lớn nếu xảy ra vốn được tập trung vào một khách hàng quá nhiều.
Để giải quyết nhược điểm trên, ngân hàng nên mở rộng phương thức chiết khấu thương phiếu cho các doanh nghiệp, phương thức này có một số những ưu điểm sau:
Hàng hoá đã được sản xuất và bán được thực sự.
Việc bán chịu cho phép hai bên tiến hành ngay khi có cơ hội vì nó không đòi hỏi phải thanh toán ngay.
Đến hạn thương phiếu phải được thanh toán ngay không được trì hoãn nếu trì hoãn có nghĩa là doanh nghiệp đã rơi vào tình trạng phá sản.
Với những ưu điểm này, khi ngân hàng chiết khấu các thương phiếu, việc thu hồi vốn trở nên dễ dàng hơn là cho vay theo hình thức ứng trước như hiện nay. Hơn nữa, việc chiết khấu thương phiếu không đòi hỏi phải có tài sản đảm bảo. Thương phiếu là một công cụ trên thị trường tiền tệ, nên khi cần, ngân hàng có thể tái chiết khấu ở NHNN hoặc ở các ngân hàng khác. Trong cho vay chiết khấu những tiêu cực gần như không xảy ra vì đây là một nghiệp vụ mua bán các công cụ tài chính.
Trở lại vấn đề quyết định cho vay, thực tế cho thấy: việc cho vay không đánh giá được khả năng tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ tạo ra từ vốn vay là nguyên nhân quan trọng dẫn đến rủi ro tín dụng hiện nay. Khi cho vay để sản xuất hoặc cung cấp một dịch vụ thì trước hết cán bộ tín dụng và Giám đốc ngân hàng phải quyết định xem liệu rằng sản phẩm hoặc dịch vụ sản xuất ra có được thị trường chấp nhận không và nếu có thì ở mức giá nào. Khi xác định được một sản phẩm, dịch vụ được thị trường chấp nhận, thì lúc đó quyết định cho vay mới được đưa ra, ngược lại thì không cho phép đưa ra một quyết định nào cả.
Cuối cùng, ngân hàng cũng nên ưu tiên cho các lĩnh vực ngành nghề thuộc tiểu thủ công nghiệp, điện nước, xây dựng nhà ở, đường xá… đây là những lĩnh vực có khả năng mở rộng sản xuất trong tương lai. Ngoài ra, những doanh nghiệp sản xuất chuyên môn hoá vào một mặt hàng thì cũng ít gặp rủi ro hơn so với những doanh nghiệp đa dạng hoá sản phẩm, vì vậy khi quyết định cho vay, ngân hàng cũng nên ưu tiên cho những doanh nghiệp sản xuất chuyên môn hoá và ngăn không cho những khách hàng cũ của mình được sử dụng vốn vay vào việc mở rộng sản xuất một cách tràn lan tuỳ tiện ra nhiều ngành nghề quá trái ngược với nhau.
3.2.3. Xây dựng hệ thống các chỉ tiêu trung bình ngành đối với từng ngành nghề lĩnh vực
Hiện nay, mặc dù cán bộ tín dụng của chi nhánh được cung cấp nhiều tài liệu về phân tích tài chính khách hàng để tham khảo, song nhiều khi giữa các tài liệu lại không có sự thống nhất về tên gọi cho việc tính toán cùng một chỉ tiêu, thậm chí về một nội dung của chỉ tiêu, điều này gây lúng túng cho cán bộ tín dụng đặc biệt là cán bộ tín dụng còn ít kinh nghiệm khi lựa chọn các chỉ tiêu để phân tích.Ví dụ: Hệ số thanh toán tức thời có tài liệu tính bằng công thức = Vốn bằng tiền/ Nợ đến hạn, có tài liệu tính bằng = Vốn bằng tiền/ Nợ ngắn hạn. Mặt khác chi nhánh vẫn áp dụng về các tiêu chuẩn tài chính cho mọi loại hình doanh nghiệp, lĩnh vực kinh doanh như sau:
Hệ số thanh toán ngắn hạn lớn hơn 1
Hệ số thanh nhanh lớn hơn hoặc bằng 1
Hệ số thanh toán tức thời lớn hơn 0,5
Điều này không chính xác đối với tất cả các doanh nghiệp. Do đó, để nâng cao chất lượng phân tích đánh giá tài chính đối với doanh nghiệp vay vốn, chi nhánh cần sớm xây dựng một hệ thống chỉ tiêu tài chính chuẩn mực làm cơ sở cho các cán bộ tín dụng trong quá trình làm việc.
3.2.4. Nâng cao trình độ của cán bộ tín dụng
Ngày nay, vấn đề này không chỉ của riêng chi nhánh mà là vấn đề bức xúc của toàn ngành kinh tế trên toàn cầu. Đất nước ta đang trong thời kỳ phát triển mạnh mẽ, trong xu hướng toàn cầu hoá, mở của thông thương với quốc tế, nhân tố con người đang trở nên vô cùng quan trọng.
Để thực hiện được giải pháp này, chi nhánh đã và đang từng bước nâng cao trình độ cho cán bộ tín dụng. Hiện nay, các cán bộ tín dụng tại chi nhánh có hai thế hệ rõ rệt: một là lớp trẻ mới công tác được vài năm, kinh nghiệm chưa nhiều, hai là cán bộ tín dụng có trình độ chuyên môn cao vì vậy để giảm thiểu độ chênh lệch đó chi nhánh nên khuyến khích việc học thêm ở ngoài giờ bằng nhiều hình thức khác nhau: tăng lương trợ cấp cao hơn cho việc đi học thêm ngoài các chỉ tiêu của chi nhánh để vừa phục vụ tốt cho công việc của cán bộ, vừa đem lại sự thịnh vượng, thắng thế trong cạnh tranh và phát triển của ngân hàng như ngoại ngữ, tin học.
Có những chính sách thưởng phạt công bằng nghiêm minh: mục đích của chính sách này là gắn kết trách nhiệm của cán bộ tín dụng với hoạt động thẩm định phân tích khách hàng. Theo đó, ngân hàng nên định kỳ tổ chức hội nghị tổng kết tình hình đánh giá rút kinh nghiệm về công tác thẩm định nói chung và phân tích tài chính khách hàng nói riêng.
3.2.5.Tăng thêm các chỉ tiêu trong phân tích khách hàng
Mặc dù đối với ngân hàng một số chỉ tiêu như hệ số khả năng thanh toán, hệ số vốn chủ sở hữu trong tổng tài sản là những chỉ tiêu chính, chủ yếu và vô cùng quan trọng đối với ngân hàng. Nhưng bên cạnh đó, các loại phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn, các chỉ tiêu số vòng quay hàng tồn kho, vòng quay vốn lưu động cũng nên đưa vào sử dụng. Các chỉ tiêu số vòng quay hàng tồn kho, kỳ thu tiền bình quân, vòng quay vốn lưu động, hiệu suất sử dụng tổng tài sản cũng nên đưa vào sử dụng. Các chỉ tiêu này mặc dù không phải là mối quan tâm hàng đầu của ngân hàng nhưng thông qua việc tính toán và phân tích nó một phần sẽ giải trình nhiều hơn về tình hình tài chính của doanh nghiệp nó sẽ bổ sung, kết hợp các chỉ tiêu chính, đặc biệt với báo cáo lưu chuyển tiền tệ để phản ánh một bức tranh toàn diện về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Thí dụ nếu vốn lưu động thường xuyên lớn hơn nhu cầu vốn lưu động thường xuyên thì chứng tỏ nợ ngắn hạn tài trợ cho các khoản khác ngoài tài sản lưu động và các khoản phải thu. Tức là, nếu phần này lớn thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp có thể chưa tốt.
Tuy nhiên, trong một báo cáo thẩm định có rất nhiều phần thẩm định khác nhau như: thẩm định tư cách pháp nhân, thẩm định phương án vay vốn , thẩm định tài sản đảm bảo. Nếu khâu phân tích tài chính quá đi sâu hoặc quá dài dòng thì có thể gây thừa và lặp, chồng chéo. Với những doanh nghiệp có quy mô lớn, phức tạp các báo cáo tài chính cũng phức tạp và sáng tỏ tình hình tài chính của doanh nghiệp. Ngược lại, với những doanh nghiệp có báo cáo tài chính đơn giản thì chỉ cần sử dụng các chỉ tiêu tài chính chủ yếu mà ngân hàng quan tâm, không gây chồng chéo, trùng lắp mà không nêu bật được vấn đề cần quan tâm..
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo phản ánh toàn diện tình hình tài chính của khách hàng, nhưng vẫn chưa được chú trọng nhiều.
3.2.6. Lập quỹ hỗ trợ cho công tác phân tích khách hàng
Hiện nay, chưa có một ngân hàng nào lập quỹ hỗ trợ cho quá trình thẩm định tín dụng khách hàng của cán bộ tín dụng bởi việc thẩm định tài chính khách hàng chủ yếu chỉ dựa vào những giấy tờ, báo cáo tài chính mà khách hàng nộp, từ trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước CIC và linh cảm, kinh nghiệm của cán bộ tín dụng đúc kết lại. Việc điều tra tận cơ sở sản xuất kinh doanh hay phỏng vấn khách hàng diễn ra còn lẻ tẻ, mang tính hình thức chưa thực sự khai thác tiềm năng nguồn này. Thông tin từ điều tra thực tế có ý nghĩa quan trọng giúp cán bộ tín dụng loại trừ những báo cáo tài chính "ma". Hơn nữa thu thập thông tin thực tế còn rất quan trọng trong giai đoạn phân tích trong cho vay vì có theo sát thực tế khách hàng cán bộ tín dụng mới nắm bắt được tình hình sản xuất kinh doanh thực diễn ra, thấy được doanh nghiệp sử dụng vốn vay có đúng mục đích và hiệu quả. Vì lẽ đó, nguồn thông tin này cần được chú trọng khai thác. Và để tạo điều kiện cũng như khuyến khích các cán bộ tín dụng tích cực xuống cơ sở điều tra, phỏng vấn trực tiếp thì Chi nhánh nên xem xét thành lập quỹ riêng hỗ trợ kinh phí điều tra trực tiếp cho cán bộ tín dụng của Chi nhánh.
3.3. Kiến nghị với cơ quan hữu quan
3.3.1. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
* Nâng cao chất lượng hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng CIC
Trong mối quan hệ của ngân hàng và khách hàng, ngân hàng luôn có thông tin về khách hàng. Việc nắm bắt thông tin về khách hàng giúp cho ngân hàng hạn chế rủi ro. Nhận thức được vai trò và yêu cầu thông tin phòng ngừa rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại, kiến nghị xin đề cập tới nâng cao chất lượng hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC)
Để nâng cao hơn chất lượng hoạt động của CIC có thể xem xét thực hiện một số biện pháp sau:
Từng bước hoàn thiện mô hình tổ chức hoạt động
Tuyển chọn và nâng cao trình độ của cán bộ và đào tạo các cán bộ của CIC. Chế độ hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng.
Xây dựng các văn bản đủ hiệu lực, quy định cụ thể về tác nghiệp như nguồn cung cấp thông tin, người sử dụng thông tin, các chỉ tiêu thu thập, quy trình thu thập, các tiêu thức phân tích đánh giá.
* Xây dựng các chỉ tiêu trung bình ngành
Các chỉ tiêu trung bình ngành là một căn cứ quan trọng làm tiêu chuẩn cho kết quả cuối cùng của công tác phân tích đánh giá tình hình tài chính, nó giúp cho cán bộ tín dụng không làm theo cảm tính, kinh nghiệm mà không có căn cứ cụ thể. Do đó, kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước xây dựng hệ thống các chỉ tiêu trung bình ngành cho toàn bộ các ngành ngân hàng Việt Nam áp dụng, không gây ra sai lệch giữa các ngân hàng trong hệ thống hoặc giữa các chi nhánh trong cùng ngân hàng, giải pháp có thể là:
Ngân hàng Nhà nước cùng các cơ quan hữu quan cùng phối hợp để đưa ra các chỉ tiêu trung bình ngành.
Trong trường hợp chưa đủ điều kiện để có các chỉ tiêu trung bình ngành sử dụng cho toàn quốc thì bản thân Ngân hàng Nhà nước có thể tự nghiên cứu, cùng với sự đóng góp của các ngân hàng thương mại để đưa ra hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành.
* Ban hành văn bản quy định về quy trình phân tích tài chính khách hàng vay vốn tại ngân hàng thương mại
Hiện nay, đã có quy trình thẩm định cụ thể hướng dẫn đến từng ngân hàng thương mại nhưng chưa có một văn bản hướng dẫn nào về quy trình phân tích đánh giá tài chính khách hàng nói chung và doanh nghiệp nói riêng. Vì phân tích tài chính doanh nghiệp là khâu quyết định cho vay hay không cho vay, khâu lớn trong quy trình thẩm định cho vay, một khâu phức tạp đòi hỏi tốn nhiều thời gian và công sức. Do đó, cần có văn bản hướng dẫn sơ bộ từ Ngân hàng Nhà nước, sau đó sẽ có hướng dẫn cụ thể của từng ngân hàng thương mại. Trình tự có thể qua các khâu như sau:
Tiếp nhận hồ sơ
Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Thuyết minh báo cáo tài chính
Biên bản kiểm tra, kiểm soát và phương hướng hoạt động kỳ tiếp theo.
Kiểm tra tính chính xác, độ trung thực của hồ sơ kinh tế
Tiến hành phân tích:
Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn trong doanh nghiệp
Phân tích kết cấu tài sản và nguồn vốn trong bảng cân đối kế toán
3.3.2. Kiến nghị với ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
Trong giai đoạn đất nước đang chuyển mình hội nhập với khu vực và quốc tế hiện nay, không chỉ riêng cán bộ ngân hàng mà tất cả mọi người, những ai muốn theo kịp sự phát triển của xã hội và làm việc có hiệu quả đều phải không ngừng trau dồi và trang bị kiến thức mới. Nhận thức được vấn đề này, Ban lãnh đạo ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam xem xét và thực hiện chương trình cử cán bộ đi học nâng cao trình độ và trang bị mới về kiến thức. Tuy nhiên, các chỉ tiêu nằm trong chương trình vẫn còn nhỏ so với nhu cầu hiện tại. Do đó, kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xem xét và thực hiện chương trình cử cán bộ đi học nâng cao trình độ và trang bị mới về kiến thức. Tuy nhiên các chỉ tiêu nằm trong chương trình vẫn còn rất nhỏ so với nhu cầu hiện tại. Do vậy, kiến nghị với ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam tăng thêm chỉ tiêu cử cán bộ đi học nói chung và đối với NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ nói riêng. Vì điều kiện mới thành lập, trình độ và kinh nghiệm của cán bộ vẫn còn chưa đều cho nên cần phải được cử đi học để tạo thêm mặt bằng cơ bản cho phòng nói chung. Ngoài ra, kiến thức về ngoại ngữ và tin học không phải là yếu tố quyết định nhưng lại là rất cần thiết cho công việc, nó nâng cao hiệu quả mà việc đi học không ảnh hưởng đến công việc, đề nghị ban lãnh đạo xem xét thời gian cử đi học mà không ảnh hưởng đến công việc.
Kết luận
Khả năng tài chính bao giờ cũng là điều kiện trước tiên cho mọi hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Do vậy, bất kỳ chủ thể nào muốn vay vốn tại ngân hàng thấy khả năng tài chính của mình, kết hợp với xem xét mục đính vay và thẩm định hiệu quả của dự án sản xuất kinh doanh của khách hàng, ngân hàng có thể xác định được khả năng trả nợ và nguồn trả nợ của khách hàng trong tương lai. Tất cả những khía cạnh đó đều được thể hiện đầy đủ trong nội dung của công tác phân tích tài chính khách hàng tại ngân hàng khi thẩm định và quyết định cho vay.
Mặt khác, cho vay là một nghiệp vụ chứa đựng rất nhiều rủi ro và rủi ro tín dụng từ lâu đã trở thành nỗi ám ảnh của hoạt động kinh doanh ngân hàng mà một trong những biện pháp bắt buộc để hạn chế là tiến hành phân tích tài chính khách hàng trước khi quyết định cho vay và trong suốt quá trình sử dụng vốn vay, cho nên phân tích tài chính khách hàng tại ngân hàng đã không chỉ trở thành yêu cầu tự thân của mỗi ngân hàng mà còn là đòi hỏi của Ngân hàng Nhà nước và toàn xã hội đối với ngân hàng thương mại.
Qua khảo sát thực tế tại NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ, em đã chọn đề tài: “Nâng cao phân tích tài chính khách hàng trong hoạt động cho vay tại NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ ”, đề tài gồm ba chương: Chương I: Lý thuyết trực tiếp liên quan tới hoạt động phân tích tài chính khách hàng tại ngân hàng thương mại nói chung, Chương II: Thực trạng hoạt động phân tích tài chính tại NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ nói riêng và Chương III: Một số những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng phân tích tài chính khách hàng tại NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ.
Tóm lại, hoạt động kinh doanh của ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Một trong những con đường để nâng cao chất lượng của mối quan hệ đó và phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng là nâng cao chất lượng phân tích tài chính khách hàng, vì vậy đề tài hoạt động phân tích tài chính khách hàng sẽ luôn có ý nghĩa thiết thực và mang tính thời sự.
Tài liệu tham khảo
TS. Lưu thị Hương, Giáo trình tài chính doanh nghiệp, NXB. Giáo dục, 2002
PTS. Vũ Duy Hào - Đàm Văn Huệ, Quản trị tài chính doanh nghiệp, NXB. Thống kê, 1998.
TS. Phan Thị Thu Hà - TS. Nguyễn Thị Thu Thảo, Ngân hàng thương mại quản trị và nghiệp vụ, NXB. Thông kê, 2002.
Feredric S. Miskin, Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính, NXB. Khoa học và kỹ thuật, 1994.
TS. Hồ Diệu, Giáo trình tín dụng Ngân hàng, học viện Ngân hàng, NXB. Thống kê, 2001.
TS. Nguyễn Văn Công, Lập đọc, kiểm tra và phân tích báo cáo tài chính của doanh nghiệp, NXB. Tài chính, 1997.
Các văn bản pháp luật liên quan.
Các tạp chí Ngân hàng, Tài chính năm 2001, 2002, 2003.
Các tạp chí Kế toán, kiểm toán năm 2001, 2002, 2003.
10. Luận văn khoá 40, 41 khoa Ngân hàng – Tài chính, ĐHKTQD.
11. Các văn bản quy định, hướng dẫn liên quan đến quy chế cho vay của NHNo&PTNT.
Phụ lục i: Báo cáo tài chính của Tổng công ty đầu tư phát triển nhà và đô thị :
Kết quả hoạt động kinh doanh
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Mã
2001
2002
2003
Tổng doanh thu
01
356421
608816
813259
Trong đó: Doanh thu hàng xuất nhập khẩu
02
Cáckhoản giảm trừ
03
1280
4312
401346
+Giảm giá hàng bán
05
45
54
361176
+Hàng bán bị trả lại
06
1134
4225
40170
+Thuế TTĐB, thuế xuất nhập khẩu phải nộp
07
1
2
Doanh thu thuần
10
355141
604503
812857
Giá vốn hàng bán
11
274207
292201
744989
Lợi nhuận gộp
20
80934
312302
67868
Chi phí bán hàng
21
61654
315
38313
Chi phí quản lý doanh nghiệp
22
8680
28469
29376
Lợi nhuận từ HĐKD
30
10600
283517
9932
lợi nhuận khác
50
9564
8646
29791
Tổng lợi nhuận trước thuế
60
20164
292163
39724
Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp
70
5105
4155
9743
Lợi nhuận sau thuế
80
15058
288007
29981
(Theo số liệu tại NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ)
Bảng cân đối kế toán
Tài sản
Mã
2001
2002
2003
436391
831901
1128010
A.tài sản lưu động và đầu tư
ngắn hạn
100
315779
703027
997489
I. Tiền
110
128985
165983
192861
1.Tiền mặt tại quỹ
111
7101
10360
192861
2. Tiền gửi Ngân hàng
112
121883
155622
8966
3. Tiền đang chuyển
113
183894
II. Các khoản đầu tư tài chính NH
120
15
15
15
1. Đầu tư chứng khoán ngắn hạn
121
2. Đầu tư ngắn hạn khác
128
15
15
15
3. Dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn
129
III. Các khoản phải thu
130
123190
443468
610495
1. Phải thu của khách hàng
131
67074
242221
344020
2. Trả trước người bán
132
49081
172911
239434
3. Thuế GTGT được khấu trừ
133
186099
1074
402
4. Phải thu nội bộ
134
3745
25648
25498
5. Các khoản phải thu khác
138
3127
1647
1175
6. Dự phòng giảm giá các khoản phải thu khó đòi
139
(35031)
(35031)
(35031)
IV. Hàng tồn kho
140
58985
82454
204466
1. Hàng mua đang đi trên đường
141
2. Nguyên liệu, vật liệu tồn kho
142
352
693
178754
3. Công cụ dụng cụ trong kho
143
42
20
47
4. Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
145
58443
81311
204000
5. Thành phẩm tồn kho
146
58
6. Hàng gửi bán
147
87
283
239651
7. Dự phòng giảmgiá hàng tồn kho
146
V. Chi phí sự nghiệp
160
1. Chi phí sự nghiệp năm trước
161
2. Chi phí sự nghiệp năm nay
162
VI. Tài sản lưu động khác
150
4603
11105
-10348
B. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn
200
120612
128874
130521
I. Tài sản cố định
210
65914
72107
85120
1. Tài sản cố định hữu hình
211
Nguyên giá
212
70902
79676
97790
Hao mòn (luỹ kế)
213
(4988)
(7569)
(12670)
2. Tài sản cố định thuê tài chính
214
Nguyên giá
215
Hao mòn (luỹ kế)
216
3. Tài sản cố định vô hình
217
Nguyên giá
218
Hao mòn (luỹ kế)
219
III. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn
220
17
17
17
1. Đầu tư chứng khoán dài hạn
221
2. Vốn góp liên doanh
222
3. Các khoản đầu tư dài hạn khác
228
4. Dự phòng giảm giá đầu tư dài hạn
229
III. Chi phí xây dựng dở dang
230
23054681
56751
45384
IV Các khoản ký quỹ, ký cược dài hạn
240
Tổng tài sản
250
141104
231546
453154
Nguồn vốn
260
436391
831901
1128010
A. Nợ phải trả
300
287591
390830
679831
I. Nợ ngắn hạn
310
80975
103041
146115
1. Vay ngắn hạn
311
3186
2949
5524
2. Nợ dài hạn đến hạn trả
312
3. Phải trả người bán
313
15421
24109
35215
4. Người mua trả tiền trước
314
14937
10853
22166
5. Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước
315
18571
17626
12848
6. Phải trả công nhân viên
316
3731
13473
21830
7. Phải trả trong các đơn vị nội bộ
317
11024
38857
35597
8. Các khoản phải trả, phải nộp khác
318
4166
2112
4830
II.Nợ dài hạn
320
1988
1. Vay dài hạn
321
1988
2. Nợ dài hạn khác
322
III. Nợ khác
330
204627
287788
533715
1. Chi phí phải trả
332
2004527
287622
533602
2. Nhận ký quỹ, ký cược dài hạn
333
100
102
107
B. Nguồn vốn chủ sở hữu
148800
441071
448179
I. Nguồn vốn, quỹ
410
145502
433517
448179
1. Nguồn vốn kinh doanh
411
72977
101778
120775
2. Quỹ đầu tư phát triển
414
9872
235
240014
3. Quỹ dự phòng tài chính
415
3115
31635
34481
4. Nguồn vốn xây dựng cơ bản
417
59536
65064
43384
II. Nguồn kinh phí, quỹ khác
420
3297
7554
9524
1. Quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc
421
1552
5288
6711
2. Quỹ khen thưởng và phúc lợi
422
1737
2257
2804
3. Quỹ quản lý của cấp trên
423
4. Nguồn kinh phí sự nghiệp năm trước
424
8217
8217
8217
Tổng nguồn vốn
430
141104
231546
453154
(Theo số liệu tại NHNo&PTNT chi nhánh chợ Mơ)
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33825.doc