Lời mở đầu
Ngân hàng là một bộ phận của tổ chức tài chính trung gian với nhiệm vụ là kênh chuyển vốn, dẫn vốn trong nền kinh tế. Trong đó, Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển . Ngân hàng giúp vốn trong nền kinh tế chu chuyển một cách trôi chảy, điều hoà giữa cung, cầu về vốn. Do đó, mối quan hệ giữa Ngân hàng với các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, với khách hàng rất gắn
93 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1293 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng phân tích tài chính đối với doanh nghiệp vay vốn tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bó, có tác động qua lại tương hỗ lẫn nhau.
Từ khi đất nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì cơ cấu, tổ chức hệ thống Ngân hàng Việt Nam cũng có sự thay đổi tương ứng và phù hợp. Bắt đầu từ quyết định số 218/QĐ-CP của Chính phủ năm 1987 cho đến Nghị định số 53/NĐ- CP năm 1988 đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam, hình thành hệ thống Ngân hàng hai cấp và chuyển sang hoạt động hạch toán kinh doanh. Các Ngân hàng được tự chủ tài chính, chủ động huy động vốn và cho vay theo khuôn khổ pháp luật. Do đó, đã nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế, đáp ứng một cách nhanh chóng kịp thời tình trạng thừa thiếu vốn trong nền kinh tế với chi phí hợp lý. Sức cạnh tranh của Ngân hàng nói riêng và của nền kinh tế nói chung ngày càng mạnh hơn, các quan hệ tài chính được lành mạnh hoá.
Như vậy, quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và khách hàng (đặc biệt là các Doanh nghiệp) ngày càng gắn bó, tương tác lẫn nhau. Doanh nghiệp không trả được nợ đến hạn, doanh thu của Ngân hàng giảm , ảnh hưởng đến việc cho doanh nghiệp khác vay vốn, ảnh hưởng đến sự tồn tại của Ngân hàng. Để tránh được rủi ro tín dụng này, trong quá trình thẩm định cho vay, Ngân hàng cần nâng cao chất lượng trong khâu phân tích đánh giá tài chính đối với doanh nghiệp vay vốn tại Ngân hàng – khâu quyết định xem doanh nghiệp có đủ điều kiện vay vốn của Ngân hàng hay không .
Qua quá trình học tập, nghiên cứu và thực tập tại Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội, em chọn đề tài: “ Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính đối với doanh nghiệp vay vốn tại Chi nhánh NHNo &PTNT Nam Hà Nội” làm Luận văn Tốt nghiệp của mình.
Kết cấu của Luận Văn như sau:
Chương I: Lý luận chung về Tín Dụng Ngân hàng và chất lượng phân tích tài chính đối với doanh nghiệp vay vốn.
Chương II: Thực trạng hoạt động phân tích tài chính đối với doanh nghiệp vay vốn tại Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính đối với doanh nghiệp vay vốn tại NHNo & PTNT Nam Hà Nội.
Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu, em xin đưa ra một vài đóng góp nhỏ góp phần hoàn thiện công tác phân tích tài chính doanh nghiệp tại Chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội đối với doanh nghiệp vay vốn.Vì trình độ kiến thức còn nhiều hạn chế, bài viết không thể tránh được những thiếu sót, em rất mong được sự đóng góp của các thầy cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn TS. Vũ Duy Hào đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo em trong suốt quá trình viết Luận Văn Tốt nghiệp. Em xin cảm ơn các cán bộ trong Chi nhánh, đặc biệt là các cô chú cán bộ của phòng Kế hoạch- Kinh doanh đã hết sức nhiệt tình tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình thực tập và hoàn thành bài viết này.
Hà Nội, năm 2002.
Chương I. lý luận chung về tín dụng ngân hàng và chất lượng phân tích tài chính đối với doanh nghiệp vay vốn
tổng quan về tín dụng ngân hàng
1.1.1 Khái niệm về Ngân hàng Thương mại:
Thuật ngữ “ Ngân hàng” đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử, gần 3500 năm trước Công nguyên trở về trước, từ khi xuất hiện xã hội loài người, chính nhu cầu phát triển của xã hội và nền kinh tế đã thúc đẩy hoạt động Ngân hàng không ngừng phát triển từ mức thô sơ cho đến đa dạng và phức tạp như ngày nay. Mỗi thời kỳ phát triển của xã hội loài ngưòi, hoạt động của Ngân hàng ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp, ở mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ, mỗi dân tộc khác nhau, luật pháp, tập quán khác nhau dẫn đến một cách nhìn nhận và quan niệm về Ngân hàng Thương mại là khác nhau. Do đó, không có một định nghĩa chung cho các quốc gia về Ngân hàng Thương mại. Riêng ở Việt Nam, theo tinh thần Luật tổ chức tín dụng của Việt Nam: Ngân hàng Thương mại là tổ chức kinh tế hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi , sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Tuy nhiên, dù theo kiểu cách nào thì chắc chắn: Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh tế hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ với hai nội dung chính: nhận tiền gửi và cho vay. Đây cũng là điểm đặc trưng để phân biệt Ngân hàng thương mại với các loại hình Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác .
Hoạt động của Ngân hàng bao gồm ba loại nghiệp vụ chính: nghiệp vụ nợ (huy động vốn), nghiệp vụ có (cho vay kinh doanh) và nghiệp vụ môi giới trung gian ( dịch vụ thanh toán, đại lý, tư vấn, thông tin, giữ hộ chứng từ, vật quý giá...). Ba loại nghiệp vụ này có mối quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ, thúc đẩy nhau phát triển, tạo uy tín cho Ngân hàng. Có huy động được vốn thì mới có nguồn vốn cho vay; chỉ cho vay có hiệu quả thúc đẩy phát triển kinh tế thì mới có nguồn vốn để huy động vào; đồng thời muốn cho vay và huy động vốn tốt thì Ngân hàng phải làm tốt nghiệp vụ môi giới trung gian; ngược lại, nghiệp vụ môi giới trung gian tốt sẽ tạo việc thu hút nguồn vốn huy động vào và có thể cho vay ra. Do đó cho vay thế nào để có hiệu quả nhất đối với người đi vay và với Ngân hàng cho vay là một trong những vấn đề cơ bản nhất của Ngân hàng hiện nay, đó luôn là vấn đề làm đau đầu các cán bộ Ngân hàng trong việc tìm ra phương pháp giải quyết cho mỗi thời kỳ khác nhau, mỗi quốc gia khác nhau.
1.1.2 Tín dụng Ngân hàng:
Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt của Ngân hàng Thưong mại để tạo ra lợi nhuận. Kinh tế càng phát triển, lực lượng cho vay của các Ngân hàng Thương mại càng tăng nhanh, loại hình và cách thức cho vay cũng trở nên vô cùng đa dạng. Hiện nay, ở những nước đang phát triển, khi một Ngân hàng được thành lập và đi vào hoạt động, mối quan tâm chính và thường xuyên của nó là sẽ cho ai vay và sẽ đầu tư vào đâu, cho vay ngắn hạn vẫn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn. Ngược lại, ở những nước đã phát triển, vấn đề đặt ra ở những nước này là lợi tức có cao không và an toàn không.
Cho vay của Ngân hàng Thương mại, nói rộng ra là Tín dụng của Ngân hàng Thương mại, là một lĩnh vực phức tạp và thường xuyên phải cập nhật theo những biến chuyển của môi trường kinh tế. Do đó, tìm hiểu thêm về lĩnh vực này, ta cần biết thêm khái niệm về “Tín dụng”.
Danh từ Tín dụng để chỉ một hành vi kinh tế rất phức tạp, như: bán chịu hàng hoá, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, ký thác, phát hành giấy bạc. Nhà kinh tế Pháp, ông Luis Baundin, đã định nghĩa tín dụng như là “ một sự trao đổi tài hoá hiện tại lấy một tài hoá tương lai”, như vậy yếu tố thời gian đã xen lẫn vào nên có thể có sự bất trắc rủi ro xảy ra nên cần có sự tín nhiệm của hai bên đương sự đối với nhau, hai bên đương sự dựa vào sự tín nhiệm, sử dụng sự tín nhiệm của nhau nên mới có danh từ “Tín dụng”. Những hành vi tín dụng có thể do bất cứ ai, chẳng hạn hai người thường có thể cho nhau vay tiền. Tuy nhiên, với thời gian, chúng ta thấy có một sự chuyên nghiệp đã xảy ra và ngày nay, khi nói tới Tín dụng, người ta nghĩ ngay tới các Ngân hàng.
Tóm lại, Tín dụng Ngân hàng có thể hiểu cơ bản là việc Ngân hàng tin tưởng nhường quyền sử dụng vốn cho khách hàng trong một khoảng thời gian nhất định và kết thúc thời gian đó, Ngân hàng sẽ thu về cả vốn lẫn lãi. Đặc trưng của tín dụng là lòng tin, tính thời hạn và tính hoàn trả. Chính nhờ hoạt động này mà Ngân hàng trang trải được mọi chi phí phát sinh và là nguồn thu chủ yếu của Ngân hàng. Tuy nhiên, song hành với lợi nhuận thu được là độ rủi ro cao. Vì vậy, chất lượng của hoạt động là nhân tố quyết định tới sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Để tăng trưởng và phát triển, quy mô của hoạt động cho vay mới chỉ là điều kiện cần, còn điều kiện đủ chính là chất lượng của hoạt động này.
1.2 Vai trò của công tác phân tích tài chính khi cho vay của Ngân hàng thương mại:
Phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và công cụ cho phép thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác trong quản lý Doanh nghiệp, nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực của Doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ, chất lượng và hiệu quả hoạt động của Doanh nghiệp đó. Bất kỳ một Doanh nghiệp nào khi được thành lập và đi vào hoạt động đều phải thành lập sổ sách kế toán và các loại sổ sách khác. Những sổ sách này phản ánh tình hình hoạt động mọi mặt của Doanh nghiệp, vấn đề là người sử dụng sổ sách đó phải khai thác thế nào, ở góc độ nào, khía cạnh nào để phục vụ cho hoạt động, công tác, cương vị của mỗi người. Tức là có phân tích tài chính doanh nghiệp mới thấy hết vai trò ý nghĩa của nó.
Trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các Doanh nghiệp thuộc loại hình sở hữu khác nhau đều bình đẳng trước pháp luật trong việc lựa chọn lĩnh vực, nghành nghề kinh doanh, mỗi Doanh nghiệp khi kinh doanh đều có quan hệ với nhiều đối tượng khác nhau như: nhà cung cấp, nhà tiêu thụ, Ngân hàng, Nhà nước, các nhà quản lý, những người lao động. Do đó, mỗi đối tượng đó sẽ quan tâm tới tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các góc độ khác nhau, sẽ tập trung vào những khía cạnh riêng trong bức tranh tài chính của một Công ty. Mặc dù vậy, họ vẫn có cái chung là thường sử dụng các công cụ và kỹ thuật cơ bản là giống nhau để phân tích báo cáo tài chính. Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp, mối quan tâm hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ, bởi vì có lợi nhuận thì Doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển, khả năng trả nợ tốt thì Doanh nghiệp mới có khả năng cạnh tranh trên thương trường ở cả đầu ra và đầu vào, tức là phải có tiềm lực tài chính đủ mạnh. Các chủ Doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp trong nghĩa vụ và quyền hạn của mình, họ cần quan tâm tới đảm bảo đủ nguồn tài chính cho Doanh nghiệp bằng cách huy động mọi nguồn vốn bên trong và bên ngoài, đảm bảo cho tiền tệ đuợc đầu tư vào sản xuất kinh doanh một cách hợp lý nhất, hiệu quả nhất, tiết kiệm nhất.
Đối với các nhà cung cấp vật tư, thiết bị, hàng hoá, dịch vụ, họ phải quyết định xem sắp tới có cho khách hàng được mua chịu hàng, thanh toán chậm hay không, bởi vì nếu khả năng thanh toán hiện tại và tương lai, tiềm lực tài chính của Doanh nghiệp không đủ mạnh thì dẫn đến nợ thương mại của Doanh nghiệp đối với Doanh nghiệp khác lên cao thì không có khả năng trả nợ.
Đối với các nhà đầu tư, mối quan tâm của họ hướng vào các yếu tố như: sự rủi ro, thời gian hoàn vốn, mức sinh lãi, khả năng thanh toán vốn... Vì vậy, họ cần những thông tin về điều kiện tài chính, tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh và các tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp. Đồng thời, các nhà đầu tư cũng rất quan tâm tới việc điều hành hoạt động và tính hiệu quả của công tác quản lý. Những điều đó nhằm đảm bảo sự an toàn và tính hiệu quả cho các nhà đầu tư.
Ngoài ra, các cơ quan tài chính khác như cơ quan thuế, thống kê, cơ quan chủ quản, các nhà phân tích tài chính, những người lao động...Những nhóm người này có nhu cầu thông tin về cơ bản giống như các chủ Ngân hàng, các nhà đầu tư, các chủ doanh nghiệp...bởi vì nó liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm, đến khách hàng hiện tại và tương lai của họ.
Đặc biệt với các chủ Ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, mối quan tâm của họ chủ yếu hướng vào khả năng trả nợ của Doanh nghiệp . Phân tích tài chính Doanh nghiệp là một khâu quan trọng trong quy trình thẩm định cho vay của Ngân hàng. Mục đích của công tác phân tích này giúp Ngân hàng có thể nhìn nhận một cách lôgic tình hình sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và xu hướng phát triển trong tương lai. Qua phân tích tài chính Doanh nghiệp, Ngân hàng trả lời các câu hỏi:
- Doanh nghiệp có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn hay không?
Khả năng tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của Doanh nghiệp đến mức độ nào?
Mức doanh thu Doanh nghiệp thực hiện so với số đầu tư về các tài sản lưu động và cố định của nó?
Doanh nghiệp đạt được mức lợi nhuận là bao nhiêu và mức lợi nhuận đó có thể giảm bao nhiêu trước khả năng không thể đáp ứng được các chi phí cố định?
Nếu Doanh nghiệp thua lỗ, các tài sản sẽ mất giá bao nhiêu so với con số trong bảng tổng kết tài sản trước khi các chủ nợ được Bảo hiểm chấp nhận thiệt hại?
Bên cạnh đó, thông qua việc phân tích tài chính Doanh nghiệp, Ngân hàng có thể tư vấn kịp thời cho các Doanh nghiệp về quyết định tài chính nhằm tháo gỡ khó khăn, ổn định và phát triển Doanh nghiệp. Phân tích, đánh giá tài chính Doanh nghiệp trong Ngân hàng góp phần kiểm tra lại tính trung thực của kiểm tra tài chính nội bộ. Từ đó, chủ doanh nghiệp có cái nhìn khách quan hơn về nội lực Doanh nghiệp mình. Như vậy, phân tích tài chính doanh nghiệp có thể đánh giá được rủi ro của Doanh nghiệp, đặc biệt là rủi ro về khả năng thanh toán ở hiện tại và tương lai, và quyết định cho Doanh nghiệp có nên vay không và mức độ tủi ro mà Ngân hàng gánh chịu khi chấp nhận cho Doanh nghiệp vay , cho vay với số lượng là bao nhiêu. Có thể đưa ra những nhận định tinh tế hơn như mục đích vay vốn của doanh nghiệp có thực sự trung thực không( thông qua phân tích nhu cầu vốn và khả năng vốn hiện tại của doanh nghiệp). Phân tích tài chính không chỉ giúp Ngân hàng đưa ra những quyết định đúng đắn khi tiến hành xét duyệt các khoản cho vay mà còn trong cả quá trình cho vay. Trong thời hạn cho vay, Doanh nghiệp vẫn có nghĩa vụ cung cấp cho Ngân hàng các báo cáo tài chính, các thông tin về tình hình tài chính của mình, qua đó, Ngân hàng có thể phát hiện những dấu hiệu xấu về tình hình tài chính của doanh nghiệp đó và thu hồi các khoản vay trước hạn.
Ngoài ra còn giúp Ngân hàng xây dựng kế hoạch cho vay, trên cơ sở đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh và tài chính của mỗi doanh nghiệp, Ngân hàng có thể đánh giá nhu cầu vốn ngắn hạn, trung và dài hạn... Từ đó có chiến lược huy động vốn phù hợp, tránh lãng phí và đạt hiệu quả cao nhất. Đồng thời, Ngân hàng có thể biết được xu hướng phát triển của từng giai đoạn, từng lĩnh vực kinh tế, lập kế hoạch cung cấp tín dụng hướng vào lĩnh vực có khả năng phát triển mạnh trong tương lai. Xây dựng kế hoạch tín dụng phù hợp sẽ giúp Ngân hàng nâng cao hiệu quả cho vay, đem lại lợi nhuận cao cũng như góp phần thực hiện chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước.
Nội dung công tác phân tích tài chính đối với doanh nghiệp vay vốn
Các thông tin được sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp vay vốn:
Các báo cáo tài chính phản ánh một cách hệ thống tình hình tài sản của đơn vị tại những thời điểm khác nhau, kết quả hoạt động kinh doanh và tinh hình sử dụng vốn trong những thời kỳ nhất định, Đồng thời được giải trình, giúp cho các đối tượng sử dụng thông tin tài chính nhận biết được thực trạng tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị để ra các quyết định phù hợp.
* Bảng cân đối kế toán :
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính tổng hợp, mô tả thực trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nào đó. Kết cấu của bảng được chia làm hai phần: phần tài sản phản ánh toàn bộ tài sản hiện có đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyên sở hữu và sử dụng của doanh nghiệp. Bên nguồn vốn phản ánh nguồn hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo.
Bảng cân đối tài sản là một tư liệu quan trọng bậc nhất giúp các nhà phân tích đánh giá được tổng quát tình hình tài chính, khả năng thanh toán, cơ cấu vốn và trình độ sử dụng vốn của doanh nghiệp.
* Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh:
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là báo cáo tổng hợp cho biết tình hình tài chính và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tại những thời kỳ nhất định. Nó cung cấp các thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về sử dụng vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời, nó cũng giúp nhà phân tích so sánh được doanh thu và số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng, dịch vụ với tổng chi phí phát sinh và số tiền thực xuất quỹ để vận hành Doanh nghiệp. Ngoài ra, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh còn cho biết tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước của Doanh nghiệp đó.
*Báo cáo lưu chuyển tiền tệ:
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc hình thành và sử dụng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp các thông tin giúp người sử dụng đánh giá khả năng tạo tiền của doanh nghiệp, đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp, phân tích mối quan hệ giữa lợi tức ròng và lưu chuyển tiền tệ ròng, dự đoán trong tương lai lượng tiền mang lại từ các hoạt động của Doanh nghiệp.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ gồm 3 phần:
Lưu chuyển từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư.
Lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính.
Có hai phương pháp lưu chuyển tiền tệ: phương pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp, mỗi phương pháp có ưu điểm riêng.
* Thuyết minh báo cáo tài chính:
Thuyết minh báo cáo tài chính được lập nhằm cung cấp các thông tin về tình hình sản xuất, kinh doanh chưa có trong hệ thống các báo cáo tài chính, đồng thời, giải thích thêm một số chỉ tiêu mà trong các báo cáo tài chính chưa được trình bày, giải thích rõ ràng, cụ thể như các thông tin về đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp , chế độ kế toán áp dụng, tình hình và lý do biến động một số tài sản và nguồn vốn quan trọng...
* Các thông tin khác liên quan đến tình hình tài chính của Doanh nghiệp.
1.3.2. Các phương pháp được sử dụng trong phân tích tài chính:
Phương pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ và biện pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối quan hệ bên trong và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết nhằm đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp.
Về lý thuyết, có nhiều phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp nhưng trên thực tế, người ta thường sử dụng phương pháp so sánh và phương pháp tỉ lệ.
* Phương pháp so sánh:
Để áp dụng phương pháp so sánh cần đảm bảo tính có thể so sánh được của các chỉ tiêu tài chính ( thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính chính xác và đơn vị tính toán...) và theo mục đích phân tích mà xác định gốc so sánh. Gốc so sánh được chọn là gốc thời gian và không gian, kỳ phân tích được chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể được lựa chọn bằng số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình quân. Nội dung so sánh gồm:
So sánh giữa số thực hiện kỳ này và số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu hướng thay đổi về tài chính doanh nghiệp.
So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy mức độ phấn đấu của Doanh nghiệp.
So sánh giữa số liệu của Doanh nghiệp với số liệu của nghành, của các Doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính của Doanh nghiệp mình đang phân tích tốt hay xấu, được hay chưa được.
So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể, so sánh chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về số lượng tuyệt đối và số tương đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp.
* Phương pháp tỷ lệ:
Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính. Sự biến đổi các tỷ lệ cố nhiên là sự biến đổi các đại lượng tài chính . Về nguyên tắc, phương pháp tỷ lệ yêu cầu phải xác định được các ngưỡng, các định mức, để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính tài chính doanh nghiệp, trên cơ sở so sánh các tỷ lệ doanh nghiệp với giá trị các tỷ lệ tham chiếu.
Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính đựơc phân thành các nhóm đặc trưng , phản ánh những nội dung cơ bản theo các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn và nguồn vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt động kinh doanh, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời.
Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều tỷ lệ phản ánh riêng lẻ, từng bộ phận của hoạt động tài chính trong mỗi trường hợp khác nhau, tuỳ theo giác độ phân tích, nguời phân tích lựa chọn các nhóm chỉ tiêu khác nhau để phục vụ mục tiêu phân tích tài chính của mình.
1.3.3. Nội dung công tác phân tích tài chính đối với Doanh nghiệp vay vốn :
Khi Doanh nghiệp vay vốn, điều mà Ngân hàng quan tâm nhất là khả năng thanh toán và trả nợ của khách hàng (DN) vay vốn. Do đó, khi phân tích tài chính, Ngân hàng quan tâm nhiều hơn tới việc đánh giá rủi ro thanh toán của Doanh nghiệp. Tức là phân tích các chỉ tiêu về khả năng thanh toán, cơ cấu nợ, báo cáo lưu chuyển tiền tệ cũng như trạng thái tài chính của Doanh nghiệp nhằm đánh giá rủi ro trong tương lai. Do đó Ngân hàng đặc biệt quan tâm tới việc phân tích khái quát một số chỉ tiêu tài chính trung gian và cuối cùng trong báo cáo kết quả kinh doanh .
1.3.3.1. Phân tích các chỉ tiêu tài chính trong báo cáo kết quả kinh doanh đối với Doanh nghiệp vay vốn tại Ngân hàng:
Mục tiêu của phân tích này là xác định, phân tích mối liên hệ và đặc điểm các chỉ tiêu trong báo cáo kết quả kinh doanh, đồng thời so sánh chúng qua một số niên độ kế toán liên tiếp và với số liệu trung bình của nghành (nếu có) với các Doanh nghiệp khác. Từ đó mà đánh giá được một phần của xu hướng giai đoạn tiếp theo của Doanh nghiệp, có thể giúp Ngân hàng tránh đựơc những rủi ro không có khả năng thanh toán của Doanh nghiệp do xu hướng hoạt động kinh doanh không tốt của Doanh nghiệp.
Các chỉ tiêu đã được chuẩn hoá trong mẫu bảng phân tích như sau:
Chỉ tiêu
Năm N-1
Năm N
Năm N/ Năm N-1
Lưọng
Tỷ trọng
Lượng
Tỷ trọng
Lượng
Tỷ trọng
1.Doanh thu thuần
2.Giá vốn hàng bán
Trong đó:KHTSCĐ
3.Lãi gộp
4.Chi phí bán hàng và quản lý
Trong đó:- KHTSCĐ
-Lãi vay
5. Lãi trước thuế và lợi tức vay
6.Lãi trước thuế
-Thuế( TNDN)
7.Lãi sau thuế
8.Lãi không chia
* Nhóm chỉ tiêu về tình hình tài chính và khả năng thanh toán:
Đây là nhóm chỉ tiêu mà không riêng gì Ngân hàng mà rất nhiều đối tượng khác quan tâm tới, bất kỳ đối tượng nào có liên quan đến Doanh nghiệp như: các nhà đầu tư, các cán bộ công nhân viên... Phân tích tình hình thanh toán của Doanh nghiệp đối với các khoản nợ trước đây rất quan trọng vì nó phản ánh được phần nào mức độ tín nhiệm hay sự sẵn sàng chi trả của Doanh nghiệp trong việc thực hiện các nghĩa vụ nợ và khả năng tài chính của nó. Một Doanh nghiệp có lịch sử thanh toán lành mạnh, sòng phẳng sẽ an toàn hơn một Doanh nghiệp luôn có nợ khó đòi hay quá hạn. Nếu có nợ khó đòi, nợ quá hạn thì nguyên nhân khách quan hay chủ quan, bất khả kháng hay không.
Chỉ tiêu khả năng thanh toán ngắn hạn:
Tài sản lưu động
Hệ số thanh toán ngắn hạn =
Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này là thước đo khả năng có thể trả nợ của doanh nghiệp bằng cách chuyển đổi những tài sản lưu động thành tiền trong thời kỳ phù hợp với thời kỳ trả nợ.
Nợ đến hạn bao gồm các khoản trung và dài hạn. Tài sản lưu động bao gồm tiền, chứng khoán dễ chuyển nhượng, các khoản phải thu và dự trữ. Cả tài sản lưu động và nợ ngắn hạn đều có thời hạn dưới 1 năm. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng cao hay trong ngắn hạn hạn tài sản lưu động có thể chuyển đổi để trả các khoản nợ quá hạn. Về mặt lý thuyết, chỉ tiêu này bắt buộc lớn hơn 1. Nếu nhỏ hơn 1 chứng tỏ vốn lưu động ròng của doanh nghiệp là âm và có nghĩa là doanh nghiệp đã dùng nợ ngắn hạn dể tài trợ một phần cho tài sản cố định.
Chỉ tiêu khả năng thanh toán nhanh:
Vốn bằng tiền + Các khoản phải thu
Hệ số thanh toán nhanh =
Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này có ưu điểm hơn chỉ tiêu ở trên là đã loại được sự ảnh hưởng của hàng hoá tồn kho ( phần dự trữ) đến khả năng thanh toán sao cho nhanh hơn của tài sản lưu động, bởi vì, nếu cơ cấu hàng hóa tồn kho trong tổng tài sản lưu động lớn thì sẽ làm cho hệ số thanh toán ngắn hạn lớn nhưng không ảnh hưởng gì đến hệ số thanh toán nhanh, vì thanh toán nhanh cần ít thời gian hơn thanh toán ngắn hạn, thanh toán ngắn hạn cần có việc chuyển đổi của hàng hoá tồn kho mà thời gian của việc chuyển đổi này nhanh hay chậm lại còn tuỳ thuộc vào từng nghành nghề, hàng hoá và lĩnh vực kinh doanh.
Chỉ tiêu khả năng thanh toán tức thời:
Vốn bằng tiền
Hệ số thanh toán tức thời =
Nợ đến hạn
Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán ngay tức thì của doanh nghiệp bằng nguồn vốn bằng tiền, không bị chi phối bởi thời gian chuyển đổi của hàng hoá tồn kho và các khoản phải thu. Về mặt lý thuyết, hệ số này lớn hơn 0,5 là dấu hiệu tốt. Nếu quá lớn tức là vốn bằng tiền của doanh nghiệp để lại quá lớn, chi phí cho việc lưu trữ, ghi chép, kiểm đếm, phân loại khá lớn, mặt khác lại không sinh lợi cho nên cũng không phải là càng lớn càng tốt. Cũng như vậy với hệ số thanh toán ngắn hạn và hệ số thanh toán nhanh, không hẳn là càng cao càng tốt, chỉ vừa hợp lý sao cho tương ứng với các khoản nợ ngắn hạn để không gây ra hiện tượng dư thừa nguồn lực, hiệu quả tài sản lưu động kém hay tài sản lưu động quay vòng kém là không sinh lợi.
* Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính:
Tổng nợ phải trả
- Hệ số nợ tổng tài sản =
Tổng tài sản
Tổng nợ phải trả
- Hệ số nợ vốn cổ phần =
Tổng vốn chủ sở hữu
Nhóm chỉ tiêu này để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh nghiệp so với nợ vay. Chủ nợ ưa thích một hệ số nợ vừa phải, hệ số nợ càng thấp, hệ số an toàn càng cao, món nợ của họ càng được đảm bảo và họ có cơ sở để tin vào sự đáo nợ đúng hạn của con nợ. Khi hệ số nợ cao tức là chủ doanh nghiệp chỉ góp một phần nhỏ trên tổng số vốn, thì rủi ro trong kinh doanh chủ yếu chuyển sang cho chủ nợ gánh chịu, nhưng bằng cách tăng vốn thông qua vay nợ, các chủ nợ vẫn nắm được quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Tuy nhiên,vấn đề giữa vốn vay và vốn góp với cơ cấu như thế nào còn rất nhiều phức tạp, nó còn ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên tùy từng thời kỳ và đối với từng doanh nghiệp.
Lợi nhuận trước thuế + Lãi vay
Hệ số khả năng thanh toán lãi =
Lãi vay
Đây là chỉ tiêu được Ngân hàng quan tâm như là một dhỉ tiêu khả năng thanh toán lãi vay bằng kết quả hoạt động kinh doanh. Nếu lãi vay mà không trả được thì nợ gốc càng khó trả hơn.
Tài sản cố định hoặc tài sản lưu động
- Hệ số cơ cấu tài sản =
Tổng tài sản
Hệ số này còn tuỳ thuộc vào từng nghành nghề, lĩnh vực và từng doanh mghiệp vì có những nghành nghề kinh doanh quay vòng nhanh , tài sản lưu động cần nhiều, nhưng có những nghành nghề thì tài sản cố định lại chiếm phấn lớn như mày móc, trang thiết bị, công nghệ, đặc biệt ngày nay tài sản cố định vô hình chiếm tương đối lớn.
Tổng vốn chủ sở hữu
- Hệ số cơ cấu nguồn vốn =
Tổng nguồn vốn
Hệ số này nói chung tốt nhất bằng 0,5 vì nếu nhỏ hơn thì vốn chủ sở hữu chiếm rất ít, năng lực tài chính yếu, khả năng cạnh tranh thu hút vốn vay, vốn đầu tư thấp, khả năng rủi ro tương đối cao.
* Nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động:
Tổng nợ phải trả
Hệ số nợ tổng =
Tổng tài sản
Giá vốn hàng bán
- Vòng quay hàng tồn kho =
Hàng tồn kho
Hệ số này cho thấy lượng hàng hoá tồn kho có lâu hay không, có quay vòng nhanh hay không. Bất kỳ doanh nghiệp nào khi đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh đều tất yếu có hàng hoá tồn kho , tuy nhiên số lượng nhiều hay ít và hàng tồn kho quay vòng nhanh hay chậm còn tuỳ thuộc vào rất nhiều yếu tố khách quan khác nhau như: lĩnh vực kinh doanh, quy mô kinh doanh...
Doanh thu thuần
- Vòng quay vốn lưu động =
Tài sản lưu động
Doanh thu thuần
- Hiệu suất sử dụng TSCĐ =
Tổng tài sản cố định
Chỉ tiêu này cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, song hai chỉ tiêu này phản ánh rất rõ tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả hay không. Nếu sản xuất kém hiệu quả, vòng quay vốn lưu động nhỏ, doanh thu thuần, lãi thuần trong một kỳ kinh doanh thấp kéo theo nhiều chỉ tiêu khác kém đi như: nhóm chỉ tiêu về lợi nhuận, có những trường hợp bị lỗ, tài sản cố định còn trích khấu hao không đủ dẫn đến việc đầu tư cho trang bị cho tài sản cố định kém, hậu quả kéo theo là tiếp tục sản xuất kinh doanh kém tạo ra vòng xoáy liên tiếp.
Doanh thu thuần
- Hiệu suất sử dụng tổng tài sản =
Tổng tài sản
Các khoản phải thu
- Kỳ thu tiền bình quân =
Doanh thu bình quân một ngày
Nếu kỳ thu tiền bình quân lớn do các khoản phải thu nhiều chứng tỏ doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn hoặc do doanh nghiệp thu tiền bình quân một ngày nhỏ, chứng tỏ sự tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp kém. Những điều trên đều tác động tới khả năng thu hồi vốn của Ngân hàng.
* Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lợi :
Đây là nhóm chỉ tiêu phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu năng quản lý của Doanh nghiệp.
- Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lợi :
Lợi nhuận sau thuế
+ Hệ số sinh lợi doanh thu =
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng doanh thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng. Tất nhiên hệ số này càng cao càng tốt nhưng còn phụ thuộc rất nhiều vào tỷ lệ thuế thu nhập doanh nghiệp của mỗi nước và doanh thu thuần. Nếu doanh thu thuần lớn do giá bán tăng cao thì sự bền vững và khả năng cạnh tranh của sản phẩm là kém, nhưng nếu hệ số cao vì doanh thu quá thấp nói lên việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp kém hiệu quả.
Lợi nhuận trước thuế + Tiền lãi phải trả
+ Hệ số sinh lợi của tài sản =
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh trước khi phân chia cho chủ sở hữu và chủ nợ. Nó xem xét một đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế và lãi phải trả. Qua phân tích hệ số này, Ngân hàng có thể thấy được hiệu quả của việc đầu tư vào tài sản ở Doanh nghiệp.
Lợi nhuận sau thuế
+ Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu =
Vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này đặc biệt quan trọng đối với những người muốn tham gia góp vốn nhằm chia sẻ quyền sở hữu doanh nghiệp và với những người đang sở hữu Doanh nghiệp.
Nhóm chỉ tiêu về phân phối lợi nhuận:
Lợi nhuận sau thuế
+ Thu nhập cổ phần =
Số lượng cổ phiếu thường
Lợi nhuận đem chia
+ Cổ tức =
Số lượng cổ phiếu thường
Cổ tức Lãi đem chia
+ Tỷ lệ trả cổ tức = =
Thu nhập cổ phiếu Lãi sau thuế
Riêng nhóm chỉ tiêu này dành riêng cho công ty cổ phần.Nó cho biết tình hình phân phối lợi nhuận( kết quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh ) có phù hợp hay không đối với doanh nghiệp trong tình trạng hiện nay, nếu khộng phù hợp sẽ gây ra ảnh hưởng gì không tốt đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Về phía các cổ đông, đây là những chỉ tiêu rất đáng chú ý và nó ảnh hưởng đến quyền lợi riêng của họ.
1.3.3.2. Phân tích rủi ro kinh doanh:
Phân t._.ích rủi ro kinh doanh đặc biệt quan trọng khi Ngân hàng cho Doanh nghiệp vay vốn trung, dài hạn. Trong trường hợp này, Ngân hàng đã cùng Doanh nghiệp gánh chịu rủi ro trong một thời gian dài nên việc làm này là rất cần thiết.
* Phân tích điểm hoà vốn:
Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó, mức doanh thu vừa đủ trang trải mọi phí tổn. Phân tích điểm hoà vốn sẽ cung cấp những thông tin cần thiết về lượng sản phẩm tiêu thụ, doanh thu cần đạt được khi biết sản lượng và doanh thu hòa vốn, chỉ ra ngưỡng Doanh nghiệp không bị lỗ nhằm đạt được lợi nhuận mong muốn.
Tổng chi phí bất biến
- Sản lượng hoà vốn =
Giá đơn vị sản phẩm – Chi phí khả biến đơn vị
Để trực quan thuận tiện hơn cho quá trình đánh giá, người ta còn đưa ra khái niệm doanh thu hoà vốn
Doanh thu hoà vốn = Sản lượng hoà vốn * Giá đơn vị sản phẩm
Doanh thu hoà vốn
-Thời gian hoà vốn = *12 tháng
Tổng doanh thu
Thời gian hoà vốn cho biết thời gian cần thiết để có mức doanh thu đủ bù đắp chi phí sản xuất.
Khi phân tích, so sánh điểm hoà vốn kỳ này với kỳ trước, điểm hoà vốn càng cao, mức độ an toàn trong kinh doanh càng thấp.
* Đòn bẩy hoạt động kinh doanh:
Phân tích điểm hoà vốn cũng chưa thấy hết được tầm quan trọng của sự thay đổi doanh số bán đối với lợi nhuận của Doanh nghiệp. Vì vậy, đòn bẩy hoạt động sẽ cho ta biết mức độ chi phí cố định mà Doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động kinh doanh của nó, mà chi phí thì ảnh hưởng tới lợi nhuận. Mức độ đòn bẩy(DOL) là chỉ sự thay đổi theo tỷ lệ phần trăm của thu nhập trước lãi và thuế( EBIT) do sự thay đổi 1% doanh số bán. Nếu chi phí cố định trong tổng chi phí càng cao thì cũng có nghĩa là mức độ đòn bẩy hoạt động của doanh nghiệp càng cao và khi các nhân tố khác không đổi thì một thay đổi nhỏ trong số lượng bán hàng sẽ dẫn đến một sự thay đổi trong thu nhập trước thuế và trả lãi vay.
Tỉ lệ phần trăm thay đổi của EBIT Q(P-V)
DOL = =
Tỉ lệ phần trăm thay đổi của ds bán Q(P-V)-F
Q: sản lượng P: Giá bán
V: Chi phí biến đổi F: Chi phí cố định
Tóm lại, một Doanh nghiệp ở tình hình mạo hiểm khi tình hình kinh doanh ở gần điểm hoà vốn và hệ số đòn bẩy hoạt động cao vì khi đó lợi nhuận trứơc thuế và lãi của doanh nghiệp rất nhạy cảm với sự thay đổi của doanh số bán. Bất cứ một lý do nào về chính trị, kinh tế hay thị hiếu... có thể làm lợi nhuận trước thuế và lãi giảm mạnh. Do đó, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ Ngân hàng, cho nên Ngân hàng vẫn thận trọng khi cho Doanh nghiệp vay vốn.
1.3.3.3. Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ:
Bằng việc phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ, Ngân hàng có thể dự báo, ước tính lượng tiền lưu chuyển trong tương lai, đánh giá chất lượng thu nhập của Doanh nghiệp, đánh giá khả năng Doanh nghiệp duy trì một mức độ sản xuất kinh doanh nhất định, đánh giá độ linh động tài chính và thanh khoản của Doanh nghiệp. Nếu trong kỳ báo cáo, chủ doanh nghiệp tăng các khoản phải trả và nợ vay ngắn hạn để tài trợ cho nhu cầu vốn kinh doanh thì sẽ là gánh nặng lưu chuyển tiền tệ trong kỳ tới. Ngược lại, nếu hàng tồn kho kém chất lượng, luân chuyển chậm thì tình trạng thanh khoản của Doanh nghiệp trong kỳ tới sẽ gặp khó khăn, khả năng thanh toán nợ đến hạn khó, do đó Ngân hàng có thể không cho vay hoặc không cho vay thêm.
Sức mạnh tài chính của một Doanh nghiệp được đánh gía bằng khả năng tạo tiền từ hoạt động kinh doanh chứ không phải từ hoạt động đầu tư hay hoạt động tài chính, bởi vì:
- Lưu chuyển tiền tệ thuần từ hoạt động đầu tư >0 thể hiện đầu tư của Doanh nghiệp bị thu hẹp.
Lưu chuyển tiền tệ thuần từ hoạt động tài chính >0 thể hiện lượng cung ứng từ bên ngoài ra tăng.
Trên cơ sở các thông tin lưu chuyển tiền tệ từ doanh nghiệp, các Ngân hàng có thể phát hiện được hiện tượng kinh doanh vượt quá khả năng vốn khi tiền vào từ hoạt động kinh doanh không đủ bù đắp sự gia tăng tồn kho và các khoản phải thu, kết quả là lưu ngân ròng từ hoạt động kinh doanh <0. Tức là tình hình tài chính đang xấu, Doanh nghiệp phải lệ thuộc vào nguồn tài trợ bên ngoài, tình hình thanh khoản của Doanh nghiệp rất khó khăn.
Ngược lại, lưu chuyển tiền tệ ròng > 0 và đang tăng, Ngân hàng thấy rằng Doanh nghiệp không thể huy động đủ vốn trong nội bộ để trả nợ gốc và lãi vay. Tình hình vẫn khó khăn hơn khi Doanh nghiệp vẫn có nhu cầu mở rộng sản xuất. Một Doanh nghiệp đang trong thời kỳ hưng thịnh, phát triển, sự gia tăng đầu tư vào tài sản sẽ sử dụng phần lớn số tiền mà lẽ ra được dùng để trả nợ vay. Những Doanh nghiệp ấy cần được nhận tài trợ từ bên ngoài, trường hợp này Ngân hàng nên đáp ứng nhu cầu vốn của Doanh nghiệp.
Trên đây là việc phân tích những mặt và chỉ tiêu chủ yếu khi xem xét , đánh gía tình hình tài chính của doanh nghiệp vay vốn, tuỳ vào từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể mà người ta tiến hành phân tích, xem xét chú trọng vào chỉ tiêu nào để khai thác tình hình tài chính phục vụ cho mục đích của người phân tích. Ngoài ra, còn rất nhiều chỉ tiêu khác, trong những trường hợp cụ thể khác nhau thì người phân tích sẽ sử dụng đến nó.
các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp vay vốn:
Chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp được hiểu là tính chính xác của những đánh giá về tình hình tài chính một Doanh nghiệp, về rủi ro , mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của Doanh nghiệp và sự sát xao của các dự báo tài chính. Vì vậy, có rất nhiều nhân tố khác nhau gây những ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp tới chất lượng phân tích tài chính của doanh nghiệp, ở đây xin được phân chia theo 2 nhóm nhân tố chính : nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Mỗi nhân tố có mức độ tác động mạnh yếu khác nhau theo những chiều hướng khác nhau nhưng tổng hợp lại thì có tác động rất lớn tới chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp.
1.4.1 Nhân tố chủ quan:
*Nhân tố con người (Cán bộ tín dụng Ngân hàng):
Đó là trình độ nghiệp vụ, nhận thức, đạo đức, kinh nghiệm của cán bộ phân tích trong suốt quá trình đánh giá tài chính doanh nghiệp. Mỗi người cán bộ đều có kinh nghiệm thực tế, trình độ nghiệp vụ, nhận thức và hiểu biết khác nhau, do đó, ngoài việc đánh giá phân tích tài chính doanh nghiệp theo các bước quy định chung của Luật thì có độ nhạy bén, sắc sảo khác nhau. Những thế hệ đi trước có kinh nghiệm thực tế rất nhiều nhưng trì trệ, bảo thủ, trình độ nghiệp vụ nếu không được bổ sung, cập nhật thường xuyên thì sẽ không theo kịp tốc độ phát triển, cách thức hiện tại. Thế hệ trẻ mặc dù kiến thức, trình độ được cập nhật mới nhưng nóng vội, thiếu kinh nghiệm thực tế. Chưa kể tới đạo đức nghề nghiệp, tính cách của mỗi cá nhân, tất cả những vấn đề trên đều ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp.
* Chính sách tín dụng của Ngân hàng:
Thông qua các văn bản về quy trình nghiệp vụ mà Ngân hàng đề ra trong phân tích tín dụng, chính sách Tín dụng của Ngân hàng trong từng thời kỳ: mở rộng hay thu hẹp tín dụng. Trong thời kỳ Ngân hàng thu hẹp tín dụng, nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp có thể kỹ hơn, phức tạp hơn, khó khăn hơn, và ngược lại, thời kỳ Ngân hàng mở rộng tín dụng thì quy trình, điều kiện tín dụng nói chung và đánh giá phân tích tài chính nói riêng có thể thông thoáng hơn, tất nhiên không sai phạm một khâu nào trong quy trình phân tích, đánh giá đó.
1.4.2 Nhân tố khách quan:
* Bản thân doanh nghiệp vay vốn:
Các Doanh nghiệp vay vốn là những loại hình Doanh nghiệp khác nhau, lĩnh vực ngành nghề kinh doanh khác nhau, quy mô hoạt động khác nhau...đều ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng phân tích của Ngân hàng
Lĩnh vực nghành nghề kinh doanh: với những nghành nghề khác nhau thì đặc trưng của từng nghành đó là khác nhau, cho nên đối với các chỉ tiêu tài chính thì mỗi nghành cũng có những mức chuẩn khác nhau. Do đó, không thể áp dụng chuẩn của nghành này vào nghành khác để phân tích hoạt động kinh doanh. Chẳng hạn, đối với các Doanh nghiệp sản xuất, thì các chỉ tiêu về khả năng hoạt động của tài sản cố định sẽ được đề cao, trong khi đó, các Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ thương mại thì các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn lưu động sẽ được quan tâm hơn.
Loại hình doanh nghiệp: với các loại hình Doanh nghiệp khác nhau thì mức độ phức tạp của các báo cáo tài chính khác nhau, do đó sẽ gây khó dễ cho cán bộ tín dụng, ví dụ như các DNNN so với các Công ty tư nhân, góc độ phân tích là khác nhau, các chỉ tiêu quan tâm được chú trọng cũng khác nhau. Mặt khác, trong bản thân mỗi loại hình Doanh nghiệp, các Doanh nghiệp khác nhau cũng có quy mô lớn nhỏ khác nhau, do đó các báo cáo tài chính cũng có độ phức tạp khác nhau. Với những Doanh nghiệp số liệu ít phức tạp, cán bộ tín dụng càng cần thiết phải sử dụng hết số liệu, tìm mối liên quan và lời giải thích giữa các chỉ tiêu. Với Doanh nghiệp có báo cáo tài chính nhiều thông số phức tạp thì điều quan trọng hơn là bóc tách được những chỉ tiêu quan trọng, tìm được mối liên quan giữa chúng và từ đó nêu bật được tình hình tài chính hiện tại của Doanh nghiệp.
Thời hạn của khoản vay mà doanh nghiệp vay vốn đưa ra:
Tuỳ từng thời hạn của khoản vay mà Ngân hàng sẽ chú trọng đến các khía cạnh khác nhau của tình hình tài chính doanh nghiệp. Chẳng hạn, với các khoản cho vay ngắn hạn, các chỉ tiêu về khả năng thanh toán, cơ cấu vốn cũng như các nguồn có thể đáp ứng cho việc trả nợ trong ngắn hạn sẽ được Ngân hàng quan tâm hơn, vì nó ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của Doanh nghiệp. Trong khi đó, với các khoản cho vay trung và dài hạn, thì Ngân hàng lại đề cao các chỉ tiêu về khả năng sinh lợi và hiệu quả hoạt động của Doanh nghiệp, vì trong dài hạn chính lợi nhuận và sự vững mạnh về tài chính mới là yếu tố đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của Doanh nghiệp.
Hình thức bảo đảm khoản vay:
Những khoản vay được bảo đảm bằng những hình thức chắc chắn thì một phần công việc thẩm định, đánh giá sẽ nhẹ hơn ở một số nội dung nhất định, còn nếu vay không có bảo đảm thì phải tuân thủ một số quy định rất chặt chẽ. Giả sử những khoản vay mà được thế chấp bằng tài sản của Doanh nghiệp thì cần phải phân tích kỹ giá trị, khả năng chuyển đổi của tài sản thế chấp nói riêng cũng như của từng tài sản Doanh nghiệp sở hữu.
* Độ chính xác của các báo cáo tài chính :
Đây là một nhân tố đóng vai trò quyết định độ chính xác của nội dung phân tích tài chính vì toàn bộ việc phân tích tài chính được thực hiên căn cứ vào các số liệu trong các báo cáo này. Các báo cáo tài chính không trung thực sẽ làm cho việc phân tích tài chính không chính xác với thực tế hiện có dẫn đến những quyết định sai lầm. Do đó, việc kiểm tra lại độ chính xác lôgíc, phù hợp trong báo cáo tài chính là hết sức cần thiết, công sức của nguời cán bộ không lãng phí.
Ngoài ra, các nhân tố khác như công nghệ tin học, môi trường chính trị, kinh tế, xã hội và pháp luật cũng gây ra những ảnh hưởng không kém tới chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp. Việc ứng dụng công nghệ tin học sẽ giúp cho việc tính toán được chính xác hơn, không phức tạp, gây lẫn lộn không đáng có, tiết kiệm thời gian sức lực. Thông qua hệ thống máy tính, Ngân hàng có thể lưu giữ, cập nhật những thông tin mới nhất và cần thiết một cách nhanh chóng.
Các văn bản pháp luật, quy định cũng buộc công tác phân tích, đánh giá phải tuân thủ các bước, các chuẩn mực của toàn nghành và của từng nghành, của Ngân hàng, chính những yếu tố này lại tạo ra các thông tin phản hồi của các Doanh nghiệp.
Chương II. Thực trạng hoạt động phân tích tài chính đối với doanh nghiệp vay vốn
tại chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội
2.1 Tổng quan về NHNo&PTNT Nam Hà Nội:
2.1.1 Sự ra đời, phát triển, mô hình tổ chức và khái quát nội dung hoạt động:
Trong điều kiện nền kinh tế phát triển hiện nay, nhu cầu gửi tiền, vay vốn và sử dụng các dịch vụ do Ngân hàng cung cấp là khá lớn, đặc biệt tại Thành phố Hà Nội, Thủ đô của cả nước – Trung tâm buôn bán và giao dịch lớn, trong đó có các Doanh nghiệp chiếm phần lớn, thì việc ra đời các Chi nhánh Ngân hàng, các phòng Giao dịch, các Quỹ tiết kiệm của các Ngân hàng Thương mại ở mọi đường phố, ngõ ngách là điều tất yếu. Mặt khác, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay, chỉ xét riêng các Ngân hàng Thương mại Quốc doanh, thì các Ngân hàng đã cắm các chốt ở tất cả các điểm có thể. Trong điều kiện đó, NHNo&PTNT quyết định thành lập Chi nhánh Nam Hà Nội nhằm khai thác khu vực thị trường tại đây còn đang bỏ ngỏ, với vị trí đặt tại C3, phường Phương Liệt, Thanh Xuân, Hà Nội. Đây là một quận mới thành lập, các Ngân hàng Thương mại khác trên địa bàn đã có ba chi nhánh nhưng các Ngân hàng này đều có trụ sở trên trục đường Nguyễn Trãi, nói chung là các Chi nhánh còn nhiều hạn chế về trình độ công nghệ và các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng, nhất là dịch vụ thanh toán quốc tế, ngoại tệ, thanh toán chuyển tiền điện tử...Nhờ có sự chỉ đạo, quan tâm, giúp đỡ và sự hỗ trợ về mọi mặt của Ban lãnh đạo NHNo&PTNT Việt Nam, ngày 12/3/2001, NHNo&PTNT Nam Hà Nội được thành lập và chính thức khai trương hoạt động từ ngày 08/05/2001.
Thời gian đầu, bên cạnh những thuận lợi nói trên, Chi nhánh còn gặp rất nhiều khó khăn, thách thức, cụ thể là: Chi nhánh ra đời trong điều kiện cơ sở vật chất lúc ban đầu, khách hàng còn chưa biết nhiều về địa điểm cũng như phuơng thức hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Điều đó cũng tạo cho Ngân hàng thế cạnh tranh non kém và khó khăn. Về con người thì hầu hết là cán bộ được điều động từ Trung tâm Điều hành ra, chưa va chạm với thương trường và một số chưa qua thực tế nghiệp vụ kinh doanh cụ thể. Số được điều động từ các Ngân hàng tỉnh, huyệnlên thì bỡ ngỡ với môi trường kinh doanh mới, một số lại phải làm những công việc mới, không phát huy được năng lực sở trường từng người...Tóm lại, Chi nhánh ra đời trong điều kiện thuận lợi nhưng cũng gặp nhiều khó khăn cần phải khắc phục từ từ.
Đến nay, Chi nhánh mới thành lập nhưng các hoạt động cơ bản hoạt động rất tích cực, số lượng cán bộ công nhân viên chưa nhiều nhưng trong tương lai sẽ phát triển khá mạnh.
Cho đến thời điểm này, Chi nhánh đang lập đề án mở phòng Giao dịch Giảng Võ và đang từng bước hoàn thiện. Theo kế hoạch sắp tới, Chi nhánh còn mở thêm một số phòng Giao dịch khác ở một số địa điểm trong năm nay nhưng còn đang từng bước hình thành.
Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh như sau (sơ đồ tổ chức):
Phòng Kế hoạch-Kinh doanh
Phòng Kế toán – Ngân quỹ
Ban Giám đốc Phòng thanh toán quốc tế
Phòng hành chính- nhân sự
Phòng kiểm tra kiểm toán nội bộ
Qua sự khái quát sự ra đời và điều kiện hiện nay của Chi nhánh (số liệu được thống kê đến 26/11/2001 cho thấy, ngay từ khi đi vào hoạt động, Ban lãnh đạo Chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội đã xác định công tác huy động vốn được đưa lên hàng đầu. Do vậy, Chi nhánh đã tăng cường hoạt động tiếp thị, tuyên truyền, quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng của các phường xung quanh nơi Chi nhánh đóng trụ sở. Tập trung chỉ đạo bằng các biện pháp tích cực để thu hút các nguồn vốn lớn, rẻ ở các đơn vị, tổ chức kinh tế trong và ngoài địa bàn, góp phần tăng trưởng nguồn vốn để NHNo&PTNT Việt Nam điều hoà cho các Chi nhánh khác đầu tư thực hiện chỉ tiêu kế hoạch chung toàn nghành và các chương trình đầu tư của Chính phủ. Bên cạnh việc tập trung thu hút các nguồn vốn lớn ở các doanh nghiệp, Chi nhánh đã chú trọng cả việc thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ tầng lớp dân cư bằng cách tổ chức khuyến mại tặng quà cho khách hàng qua số tiền gửi tiết kiệm lớn...Kết quả đạt được như sau: tổng nguồn vốn đến ngày 26/11/2001 là 650,037 tỷ đồng, cho đến ngày 08/03/2002 là 700 tỷ đồng. Theo đánh giá khái quát thì tiền gửi dân cư chiếm tỷ trọng thấp, chủ yếu tập trung vào các tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế.
* Hoạt động Thanh toán quốc tế:
Hoạt động Thanh toán quốc tế với hoạt động của phòng Kinh doanh có mối quan hệ gắn bó mật thiết. Do đó, hoạt động đã nhanh chóng tiếp thị, mở rộng quan hệ tín dụng, tương đối có tín nhiệm và an toàn. Tính đến 27/11/2001, đã có 15 doanh nghiệp thanh toán xuất nhập khẩu qua Ngân hàng. Hoạt động chính xác, an toàn, tuân thủ quy trình, kỹ thuật nghiệp vụ về tiếp nhận, quản lý, kiểm tra, xử lý bộ hồ sơ. Kết quả là, thanh toán chuyển tiền là.49 món với số tiền là 1.135.282 USD,14.331DEM, 12.192 EUR, mở L/C :38 món với số tiền là 702.321USD, 1.786.557 DEM, 27.265 EUR, 4.200.000 JPY. Thanh toán L/C: 23 món với số tiền là 450.014 USD, 55.655 EUR,111.182 DEM. Kinh doanh ngoại tệ:
Doanh số thu mua ngoại tệ: 1.853.893 USD, 127.523 DEM, 65.874 EUR
Doanh số bán ngoại tệ: 1.486.521USD, 130.513 DEM, 65.874 EUR
* Công tác Tài chính, Kế toán- Ngân quỹ:
- Kết quả tài chính là: + Tổng thu trên cân đối là: 2.984 triệu đồng.
+ Tổng chi trên cân đối là: 9.789 triệu đồng.
Nghiệp vụ Kế toán thanh toán: do thực hiện thí điểm chương trình giao dịch mới, cán bộ lãnh đạo phòng chỉ có một nên rất khó khăn cho việc chỉ đạo điều hành công việc, Chi nhánh đã tổ chức tại chỗ cho bộ phận Kế toán- Ngân quỹ đã tham gia chuyển tiền điện tử, thanh toán bù trừ đảm bảo chuyển cho khách hàng nhanh gọn và an toàn. Mở tài khoản cho 102 đơn vị kinh tế và 225 tài khoản cá nhân, doanh số thanh toán bù trừ điện tử đi 989,706 triệu đồng, điện tử đến 252,241 triệu.
* Công tác Ngân quỹ: đảm bảo phục vụ tốt khách hàng đến giao dịch. Đảm bảo an toàn kho quỹ, không xảy ra thừa thiếu mất mát mặc dù lượng tiền mặt thường xuyên được nộp vào ngân hàng khá lớn.
* Công tác Tin học và hiện đại hoá Ngân hàng: mục tiêu kinh doanh lâu dài của Chi nhánh là trên cơ sở xây dựng mô hình thí điểm Ngân hàng hiện đại, sử dụng công nghệ Ngân hàng tiên tiến, tỷ trọng các dịchvụ và cung cấp các tiện ích Ngân hàng cao so với Tín dụng truyền thống. Để thực hiện mục tiêu này, Chi nhánh đã chú trọng trang bị cơ sở vật chất ban đầu là hệ thống máy tính có khả năng đáp ứng được yêu cầu đổi mới công nghệ thông tin và đang từng bước nâng cao trình độ tin học cho các cán bộ của Chi nhánh.
* Công tác Thanh tra, Kiểm tra: Do đặc thù là Chi nhánh mới thành lập nên Phòng Kiểm tra Kiểm toán nội bộ bước đầu là ổn định tổ chức, nghiên cứu văn bản chế độ, xây dựng quy chế làm việc của cơ quan, bắt đầu từ tháng 6, công tác Kiểm tra Kiểm toán đã thực sự phát huy tác dụng góp phần quan trọng cho việc chỉ đạo điều hành kinh doanh, chấn chỉnh kịp thời các sai sót trong thực hiện nghiệp vụ, nâng cao chất lượng kinh doanh, an toàn tài sản. Kết quả cụ thể như sau:
- Về nghiệp vụ Kế toán: kiểm tra được 15.464 chứng từ, phát hiện 207 chứng từ sai, chủ yếu sai là không đảm bảo tính hợplệ,hợp pháp của chứng từ.
Về nghiệp vụ tín dụng: kiểm tra được 87 hồ sơ với 114 món vay và phát hiện 9 hồ sơ có sai sót, chủ yếu là thiếu biên bản kiểm tra sau, thiếu chữ ký khách hàng trên phụ lục hợp đồng.
2.1.2 Tình hình cho vay tại Chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội:
Cho vay là một bộ phận trong hoạt động Tín dụng của Ngân hàng. Bất kỳ một Ngân hàng Thương maị nào khi đi vào hoạt động kinh doanh thì huy động và cho vay cũng là nghiệp vụ chính của Ngân hàng. Từ lịch sử xa xưa chho đến ngày nay, các nghiệp vụ này vẫn đóng góp phân quan trọng trong kết quả kinh doanh của Ngân hàng, mặc dù cùng với sự phát triển xã hội của xã hội và nền kinh tế và có nhiều nghiệp vụ khác ra đời.
Nằm trong hệ thống Ngân hàng Thương mại, Chi nhánh Nam Hà Nội cũng hoạt động chủ yếu trên nghiệp vụ huy động và cho vay. Nhưng có điểm đặc biệt là Chi nhánh mới được thành lập và đi vào hoạt động được gần 10 tháng, nên mặc dù là nghiệp vụ chủ yếu nhưng thực sự nhận gửi và cho vay chưa nhiều và chưa sôi động như các Ngân hàng thương mại đã đi vào hoạt động lâu năm. Mặt khác, là Chi nhánh phụ thuộc của NHNo&PTNT Việt Nam, cho nên đường đi nước bước của Chi nhánh căn cứ vào mục tiêu, phương hướng của NHNo&PTNT Việt Nam, lấy đó làm đường lối hoạt động và vận dụng vào thực tiễn của Chi nhánh, thực hiện một cách phù hợp, sáng tạo sao cho vừa thực hiện được như kế hoạch ở trên đưa ra, vừa phát huy tính chủ động, năng lực để khai thác thị trường tiềm năng.
Trong điều kiện đó, đến ngày 26/11/2001, Chi nhánh đã đặt quan hệ với 15 đơn vị doanh nghiệp, trong đó có 9 doanh nghiệp Nhà nước, 4 công ty trách nhiệm hữu hạn, và 2 đơn vị là tổ chức tín dụng khác, 81 hộ gia đình cá nhân. Tổng dư nợ đến 26/11/2001 là 70.569 triệu đồng. Trong đó:
Phân theo thời gian:
+ Cho vay ngắn hạn: 67.349 triệu đồng chiếm 95,4 % tổng dư nợ;
+ Cho vay trung dài hạn: 3.220 triệu đồng chiếm 4,6% tổng dư nợ.
Phân theo thành phần kinh tế:
+ Doanh nghiệp Nhà nước:.65.237 triệu đồng chiếm 92,43%tổng dư nợ;
+ Doanh nghiệp sản xuất ngoài quốc doanh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn 3.339 triệu đồng chiếm 4.73% tổng dư nợ.
+Hộ sản xuất, tư nhân cá thể: 2.000 triệu đồng chiếm 2,83% tổng dư nợ.
Doanh số cho vay: 200,023 tỷ đồng.
Doanh số thu nợ: 102,369 tỷ đồng.
Thống kê đến ngày 08/06/2002, tổng dư nợ là 175199 triệu đồng. Trong đó:
-Cho vay bằng đồng Việt Nam: 167551 triệu đồng chiếm 95,63% tổng dư nợ.
+ Cho vay ngắn hạn: 163.641 triệu đồng.
+ Cho vay trung dài hạn: 3.910 triệu đồng.
Cho vay bằng ngoại tệ: 7.648 chếm 4,37 % dư nợ.
+ Ngắn hạn: 85 triệu đồng.
+ Trung dài hạn: 7.503 triệu đồng.
Phân theo thành phần kinh tế:
+ Doanh nghiệp Nhà nước: 161.277 triệu đồng chiếm 92% dư nợ
+Doanh nghiệp ngoài quốc doanh:9328 triệu đồng chiếm 3,5% tổng dư nợ
+Tư nhân cá thể : 4594 triệu đồng chiếm 2,5% tổng dư nợ.
Từ số liệu trên cho thấy, tình hình cho vay của Ngân hàng đối với cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng rất cao(26/11/2001 chiếm 95,4 % tổng dư nợ, 08/03/2002 chiếm 94,6 % tổng dư nợ). Cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ lệ rất nhỏ . Như vậy giảm bớt rủi ro nợ không có khả năng chi trả của khách hàng nhưng thu nhập có được từ khoản cho vay ngắn hạn thấp( lãi suất cho vay ngắn hạn 0,65 %, lãi cho vay trung dài hạn 0,85 %). Điều này là đương nhiên vì do điều kiện Ngân hàng mới đi vào thành lập và đang trong thời gian ổn định cho một Ngân hàng hoạt động nhịp nhàng nên chưa mạnh dạn chấp nhận rủi ro cao bằng việc cho vay trung và dài hạn. Mặt khác, thời gian đầu, Chi nhánh muốn quảng bá, khuếch truơng và thu hút khách hàng mới, muốn tạo niềm tin, gây dựng ấn tượng tốt đối với khách hàng,. Tuy nhiên, cũng mạnh dạn đề xuất rằng, trong những năm tiếp theo, sau khi Chi nhánh đi vào hoạt động ổn định, mạnh dạn tăng dần về cả lượng tuyệt đối và tỷ trọng đối với cho vay trung và dài hạn.
Nếu phân theo thành phần kinh tế thì cả hai thời điểm( kết quả tích luỹ của thời kỳ) cho vay đối với doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn, 26/11/2001 chiếm 94% tổng dư nợ, 08/03/2002 chiếm 92% dư nợ. Tất nhiên đây không chỉ là xu hướng của riêng Chi nhánh mà là của toàn ngành từ trước tới nay, bởi rằng ưu điểm của nó là, cho vay Doanh nghiệp Nhà nước bao giờ độ an toàn cũng lớn. Nhưng trong thời gian sắp tới, nền kinh tế mở cửa, các thành phần kinh tế tư nhân, cá thể sẽ phát triển rất mạnh, tỷ trọng các doanh nghiệp Nhà nước sẽ bị thu hẹp lại, tất yếu tỷ trọng cho vay doanh nghiệp Nhà nước sẽ giảm đi, Doanh nghiệp ngoài quốc doanh và tư nhân sẽ tăng lên. Nhưng vấn đề là, phải có biện pháp như thế nào để độ rủi ro khi cho vay đối với loại hình khách hàng đó không tăng lên. trong giải pháp cho phương hướng đối với hoạt động cho vay của Chi nhánh đã nêu: triển khai rộng rãi cho vay tiêu dùng đối với đối tượng hưởng lương, tiếp cận với các cơ quan, doanh nghiệp, trường học,bệnh viện, đơn vị bộ đội để cho vay đến cán bộ công nhân viên có nhu cầu theo tinh thần đề án phối hợp với các tổ chức công đoàn của các đơn vị.
Bên cạnh những nhược điểm nổi bật lên thì Chi nhánh cũng có những ưu điểm đáng kể: chỉ sau hơn 3 tháng (từ 26/11/2001 đến 03/03/2001) tổng dư nợ tăng lên gấp 2,5 lần, trong khi đó nợ quá hạn dưới 0,5% - một kết quả đáng ghi nhận, một dấu hiệu đáng mừng. Thứ hai là thái độ phục vụ của cán bộ tín dụng theo đúng phương châm “Lịch sự, văn minh, tận tình, hiệu quả”, dù là cho vay hộ đến doanh nghiệp, các cán bộ đều lặn lội tìm đến địa chỉ tận nơi để khảo sát và thẩm định cho vay, thái độ này đã tạo được ấn tượng tốt cho khách hàng. Mặc dù có những khách hàng không đủ điều kiện cho vay nhưng cán bộ Ngân hàng vẫn đi lại thăm hỏi nhiệt tình- đây cũng có thể coi là một yếu tố cạnh tranh trong việc chăm sóc khách hàng.
Như vậy, mặc dù Chi nhánh còn non trẻ nhưng những hoạt động bước đầu đã tạo được niềm tin với khách hàng, có nhiều dấu hiệu rất khả quan. Dưới sự chỉ đạo, quan tâm giúp đỡ và hỗ trợ về mọi mặt của Ban lãnh đạo NHNo&PTNT Việt Nam, phương hướng năm 2002 của Chi nhánh với mục tiêu cụ thể là tổng dư nợ tăng từ 20-25%, nợ quá hạn không quá 0,5%.
2.2 Thực trạng công tác phân tích đối với doanh nghiệp vay vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội:
2.2.1 Khái quát về công tác phân tích tài chính đối với Doanh nghiệp vay vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội:
Cũng như hoạt động của bất kỳ Ngân hàng Thương mại nào khác, đối với Chi nhánh Nam Hà Nội, công tác phân tích, đánh giá đối với tài chính doanh nghiệp vay vốn đối với Ngân hàng là một khâu quan trọng cơ bản của toàn bộ qúa trình thẩm định cho Doanh nghiệp vay vốn nhằm phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động Tín dụng nói riêng. Đây là công tác thường xuyên liên tục phải làm đối với Doanh nghiệp vay vốn tại Chi nhánh, kết quả đưa ra từ công tác trợ giúp đắc lực cho việc ra quyết định cho vay hay không của Ban lãnh đạo và cán bộ tín dụng đối với doanh nghiệp.
* Thông tin được sử dụng để đánh giá tài chính doanh nghiệp vay vốn:
- Các báo cáo tài chính do doanh nghiệp vay vốn cung cấp:
+ Bảng cân đối kế toán.
+ Báo cáo kết quả kinh doanh
+ Thuyết minh báo cáo tài chính
Các thông tin trong cùng hệ thống cung cấp.
* Phương pháp được sử dụng để phân tích, đánh giá tài chính doanh nghiệp vay vốn:
Phương pháp tỷ lệ.
Phương pháp so sánh.
* Nội dung sử dụng trong phân tích, đánh giá tài chính doanh nghiệp vay vốn:
Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn (nếu cần).
Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh (nếu cần).
Phân tích các nhóm chỉ tiêu tài chính chủ yếu.
2.2.2 Thực trạng phân tích tài chính doanh nghiệp vay vốn tại Chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội:
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp, hiện nay ở nước ta có loại hình Doanh nghiệp sau : Doanh nghiệp Nhà nước, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Hợp tác xã. Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, hiện nay, Chi nhánh cho vay đối với Doanh nghiệp Nhà nước chiếm hơn 90%. Do đó, để nêu bật được thực trạng phân tích, đánh gía tài chính doanh nghiệp vay vốn, xin được phân tích qua 2 đại diện điển hình cho 2 loại doanh nghiệp: công ty thực phẩm miền Bắc- loại hình doanh nghiệp Nhà nước; công ty liên doanh TYOTA Giải Phóng.
2.2.2.1 Công ty liên doanh TYOTA Giải Phóng:
Tên khách hàng: Công ty liên doanh Toyota Giải Phóng
Loại hình doanh nghiệp: Công ty liên doanh.
Trụ sở giao dịch: số 807 đường Giải Phóng- Quận Hai Bà Trưng- Hà Nội.
Nghành nghề sản xuất kinh doanh: kinh doanh các dịch vụ sau bán hàng, làm đại lý xe hơi được sản xuất tại Việt Nam...
Tài khoản tiền gửi số: 431101000038 tại Chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội.
Báo cáo tài chính của Công ty được trình bày ở phần phục lục II.
Phân tích các chỉ tiêu tài chính chủ yếu:
* Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán:
Khả năng thanh toán phản ánh rõ nét về tình hình doanh nghiệp, nhóm chỉ tiêu này là mối quan tâm của rất nhiều đối tượng khác nhau, chỉ tiêu này là một trong những mối quan tâm hàng đầu của Ngân hàng. Cán bộ tín dụng tại Chi nhánh tiến hành phân tích như sau:
Bảng 1: Tóm tắt Bảng Cân đối Kế toán Công ty liên doanh Toyota.
Đơn vị: đồng.
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
A-Tài sản
9.761.374.972
26.472.416.829
34.621.028.617
I-Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
143.933.172
11.980.794.573
21.024.696.122
1. Tiền
55.473.339
1.302.342.322
6.853.339.475
2.Các khoản đầu tư tài chính NH khác
-
-
-
3. Các khoản phải thu
75.864.833
5.958.959.882
7.960.846.210
4. Hàng tồn kho
-
3.967.412.450
5.043.208.355
II-Tài sản cố định
9.617.441.800
14.491.622.256
13.596.332.495
B- Nguồn vốn
143.933.172
11.980.794.573
21.024.696.122
I-Nợ phải trả
11.101.394
9.097.007.219
14.985.015.116
Trong đó: Nợ ngắn hạn
11.101.394
8.974.636.848
14.524.816.212
II- Nguồn vốn chủ sở hữu
9.750.273.578
17.375.409.610
19.636.013.501
Bảng 2: Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán Cty liên doanh Toyota
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
Hệ số thanh toán ngắn hạn
12,96
1,34
1,45
Hệ số thanh toán nhanh
11,83
0,81
1,02
Hệ số thanh toán tức thời
4,99
0,15
0,47
Phân tích:
Hệ số thanh toán ngắn hạn: cả 3 năm 1998, 1999, 2000 hệ số thanh toán ngắn hạn lần lượt là 12,96; 1,34; 1,45 đều lớn hơn 1 rất nhiều chứng tỏ khả năng thanh toán ngắn hạn của Công ty là rất tốt, đặc biệt là năm 1998 và ít biến động vào năm 1999 và 2000. Hệ số này cho biết một đồng nợ ngắn hạn của Công ty được trang trải bằng 12,96 (1998); 1,34(1999); 1,45( 2000) đồng tài sản lưu động . Nợ ngắn hạn của Công ty có thể được tài trợ hoàn toàn bằng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn mà không phải sử dụng các tài sản khác.
Hệ số thanh toán nhanh: nhìn chung trong cả 3 năm là khá tốt ( vì đều cận 1), năm 1998 là 11,83, năm 2000 là 1,82, duy chỉ có năm 1999 là 0,81 nhỏ hơn 1, tức là chỉ có năm 1999 tiền và các khoản phải thu không đủ để tài trợ cho nợ ngắn hạn nhưng số thiếu hụt này nhỏ, chưa có ảnh hưởng lớn đến khả năng thanh toán và uy tín của Công ty.
Hệ số thanh toán tức thời: hệ số này cho biết một đồng nợ ngắn hạn được tài trợ bằng bao nhiêu đồng vốn bằng tiền, tốt nhất là hệ số này lớn hơn 0,5. Do đó, năm 1999, hệ số thanh toán tức thời là 0,15 << 0,5 chứng tỏ khả năng thanh toán tức thời rất yếu, vốn bằng tiền so với nợ ngắn hạn rất nhỏ. Tuy nhiên, hệ số này đối với năm 1998 và năm 2000 là tốt: 4,99 và 0,47, cho nên xu hướng chung là khả năng thanh toán tức thời chấp nhận được.
Tóm lại, khả năng thanh toán nói chung của Công ty là tốt.
* Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính:
Phân tích nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính giúp cán bộ tín dụng đánh giá trạng thái nợ cũng như khả năng tự chủ tài chính của công ty.
Bảng 3; Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính Công ty liên doanh Toyota
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
Hệ số nợ tổng tài sản
0,001373
0,3436
0,4328
Hệ số cơ cấu tài sản lưu động
0,0147
0,453
0,607
Hệ số cơ cấu nguồn vốn
0._.thông tin và từ nhiều nguồn khác nhau nên ưu điểm của nguồn này chính là tính đa dạng, tổng hợp, đầy đủ và đã được xử lý , nên có thể đáp ứng được đầy đủ và chính xác hơn. Vì vậy, Chi nhánh sẽ tiếp cận cách thức khai thác một cách hiệu quả nhất.
Để các nội dung trên đi vào thực tiễn, điều đầu tiên là bản thân Cán bộ Tín dụng phải có ý thức và được tập thành thói quen trong việc khai thác và sử dụng các thông tin ở các nguồn khác nhau (nếu cần), nâng cao hơn nữa năng lực khai thác sử dụng thông tin của các cán bộ Ngân hàng. Ngoài ra, đề nghị các Cơ quan hữu quan cần có các biện pháp quản lý chặt chẽ các nguồn thông tin trong trách nhiệm của mình để đảm bảo cho các nguồn thông tin đầu vào trở nên trung thực với độ tin cậy cao, có sự tập trung và thành một hệ thống thứ tự, giúp cho người sử dụng có thể dễ dàng khai thác hơn.
Thứ sáu, cung cấp dịch vụ tư vấn cho Doanh nghiệp nếu Doanh nghiệp cần.
Hiện nay, số lượng các Doanh nghiệp tư nhân, các Công ty trách nhiệm hữu hạn rất lớn và ngày càng ra đời với số lượng ngày càng lớn, tốc độ nhanh. Các thành viên góp vốn hoặc chủ doanh nghiệp có tiền vốn bỏ ra, có kiến thức kinh nghiệm trên nhiều lĩnh vực khác nhau như: xây dựng, kiến trúc, nghệ thuật... nhưng không có hoặc rất ít kiến thức, kinh nghiệm về các quy trình, thủ tục, giấy tờ liên quan đến việc giao dịch với các Tổ chức Tín dụng và các Tổ chức khác cũng như tham gia vào các hoạt động kinh tế khác. Khi đó, về phía Doanh nghiệp rất cần được hướng dẫn cụ thể để công việc được thuận tiện dễ dàng hơn.
Như vậy, dịch vụ tư vấn là việc Ngân hàng cung cấp cho Doanh nghiệp những lời khuyên, những hiểu biết sâu sắc về lĩnh vực mà khách hàng yêu cầu, nhờ có những lời khuyên có chất lượng của ngân hàng mà Doanh nghiệp có thể đưa ra những quyết định phù hợp nhất cho hoạt động của mình, đạt được những mục tiêu đề ra như hạn chế rủi ro, tối đa lợi nhuận, có đủ điều kiện vay vốn Ngân hàng, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh...
Về phía Ngân hàng, dịch vụ tư vấn là một trong những dich vụ Ngân hàng mà các lợi ích thu được không nhỏ
Thu lệ phí phục vụ tư vấn làm tăng thu nhập của Ngân hàng.
Thu hút khách hàng, mở rộng thị trường tăng thu nhập cho Ngân hàng, củng cố và tăng cường vị trí uy tín của Ngân hàng một cách nhanh chóng, hiện nay với các Chi nhánh lại càng rất quan trọng.
Sự phát triển, ổn định của Doanh nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của Ngân hàng. Tư vấn cho khách hàng, giúp khách hàng đạt được những mục tiêu trong hoạt động kinh doanh cũng chính là hạn chế rủi ro cho Ngân hàng, duy trì sự phát triển lẫn nhau. Từ đó, tạo tâm lý tin tưởng Ngân hàng đối với khách hàng và lôi kéo khách hàng đặt quan hệ với Ngân hàng, cho nên thực ra hoạt động này cũng là một trong những hình thức cạnh tranh tương đối lành mạnh của Ngân hàng.
Nâng cao hơn được trình độ hiểu biết kinh nghiệm và năng lực đánh giá tài chính doanh nghiệp của các Cán bộ Tín dụng trong Ngân hàng, giúp các Cán bộ nắm bắt và kiểm tra tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh của khách hàng một cách dễ dàng hơn.
Tuy nhiên, để làm được việc này:
Trước tiên Chi nhánh cần nâng cao trình độ, kiến thức và năng lực nói chung và khả năng tư vấn nói riêng cho toàn bộ cán bộ tín dụng trong Chi nhánh
Thông tin quảng bá để khách hàng ( đặc biệt là các Doanh nghiệp) biết rằng Chi nhánh có dịch vụ tư vấn này bằng các biện pháp như: truyền miệng, thông tin quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, các tờ rơi, panô, áp phích về các hoạt động của Ngân hàng, trong đó có dịch cụ tư vấn khách hàng. Do đó, công tác đào tạo tuyển dụng cán bộ sao cho có hệ thống và có chất lượng đã được trình bày ở trên phải đi trước một bước. Phong cách phục vụ chu đáo, tận tình, hiệu quả, nhanh nhẹn đúng như phương châm hoạt động của Ngân hàng. Sau đó là đến hệ thống máy móc, trang thiết bị thông tin phải đáp ứng được dịch vụ này, yếu tố này tác động đến năng suất, hiệu quả của công việc tư vấn, tạo ra sự dễ chịu và thuận lợi cho Doanh nghiệp có nhu cầu được tư vấn, phải có khả năng ứng dụng các thành tựu công nghệ hiện đại các phần mềm vi tính và việc sử dụng nó có hiệu quả.
- Sau khi đã tạo được danh tiếng đối với các khách hàng, Ngân hàng cần có các biện pháp hữu hiệu để duy trì và phát triển mối quan hệ với khách hàng, củng cố niềm tin, uy tín của khách hàng đối với chất lượng tư vấn của Ngân hàng. Đây là yếu tố đặc biệt quan trọng trong việc lôi kéo khách hàng, quyết định sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng.
Thứ bảy, mặc dù đối với Ngân hàng một số chỉ tiêu như hệ số khả năng thanh toán, hệ số vốn chủ sở hữu trong tổng tài sản là những chỉ tiêu chính, chủ yếu và vô cùng quan trọng đối với hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp vay vốn tại Ngân hàng, cần thiết phải tính toán và phân tích kỹ càng. Nhưng bên cạnh đó, các loại phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn , các chỉ tiêu số vòng quay hàng tồn kho , kỳ thu tiền bình quân, vòng quay vốn lưu động, hiệu suất sử dụng tổng tài sản cũng nên được đưa vào sử dụng. Các chỉ tiêu này mặc dù không phải là mối quan tâm hàng đầu của Ngân hàng, chỉ là các chỉ tiêu phụ nhưng thông qua viêc tính toán và phân tích nó một phần sẽ giải trình nhiều rõ hơn về tình hình tài chính của doanh nghiệp, nó sẽ bổ sung, kết hợp các chỉ tiêu chính, đặc biệt với báo cáo lưu chuyển tiền tệ để phản ánh một bức tranh toàn diện về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Thí dụ như nếu vốn lưu động thường xuyên lớn hơn nhu cầu vốn lưu động thường xuyên thì chứng tỏ nợ ngắn hạn lớn hơn hàng tồn kho và các khoản phải thu, nghĩa là một phần nợ ngắn hạn tài trợ cho các khoản khác ngoài tài sản lưu động và các khoản phải thu. Tức là, nếu phần này lớn thì khả năng thanh toán của Doanh nghiệp có thể chưa tốt.
Tuy nhiên, trong một báo cáo thẩm định có rất nhiều phần thẩm định khác nhau như: thẩm định tư cách pháp nhân; thẩm định phương án vay vốn; thẩm định tài sản đảm bảo...Nếu khâu phân tích tài chính đi quá sâu hoặc quá dài dòng thì có thể gây thừa và lặp, chồng chéo lên nhau. Cán bộ Tín dụng nên vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào từng điều kiện cụ thể, từng trường hợp khác nhau để sử dụng các chỉ tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp. Với những doanh nghiệp có quy mô lớn, phức tạp, các báo cáo tài chính cũng phức tạp cho nên cần thiết sử dụng nhiều chỉ tiêu và nội dung phân tích để làm rõ ràng và sáng tỏ tình hình tài chính của Doanh nghiệp. Ngược lại, với những Doanh nghiệp có các báo cáo tài chính đơn giản thì chỉ cần sử dụng các chỉ tiêu tài chính chủ yếu mà Ngân hàng quan tâm, không gây chồng chéo , trùng lắp mà không nêu bật được vấn đề cần quan tâm.
Trên đây là một số giải pháp nhỏ xin được đóng góp, thực ra nếu bàn sâu thì còn rất nhiều các giải pháp khác tối ưu đối với Ngân hàng, trong mỗi giải pháp lại có các giải pháp nhỏ, chi tiết, khác nhau, các giải pháp đều có các mối liên hệ quy định lẫn nhau, ràng buộc nhau và có ảnh hưởng lẫn nhau, giải quyết vấn đề này có thể kéo theo giải quyết được vấn đề kia hoặc cản trở việc giải quyết đó. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện các giải pháp, bản thân Chi nhánh phải thực hiện một cách linh hoạt, sáng tạo, vừa độc lập vừa trong mối quan hệ với nhau. Vấn đề nào giải quyết trước,vấn đề nào phải giải quyết sau phải được thực hiện đúng cách và đúng thời điểm, có những vấn đề phải chờ thời gian, cơ hội và mọi điều kiện chín muồi mới có thể giải quyết được.
3.3. Kiến nghị với cơ quan hữu quan:
3.3.1 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước:
* Nâng cao chất lượng hoạt động của Trung tâm Thông tin Tín dụng CIC:
Trong mối quan hệ giữa ngân hàng và Doanh nghiệp, Ngân hàng luôn có thông tin về Doanh nghiệp. Việc nắm bắt thông tin về Doanh nghiệp giúp cho Ngân hàng hạn chế rủi ro trong mối quan hệ với Doanh nghiệp, đảm bảo hoạt động kinh doanh của Ngân hàng được an toàn và hiệu quả. Nhận thức được vai trò và yêu cầu thông tin phòng ngừa rủi ro tín dụng của các Ngân hàng Thương mại. Kiến nghị xin đề cập tới nâng cao chất lượng hoạt động của Trung tâm Thông tin Tín dụng (CIC)
CIC được thành lập theo nghị định 88/CP và quyết định số 68/1999/QĐ_NH ngày 27/2/1999. Sự hoạt động của CIC đã bổ sung thêm một kênh thông tin, phần nào cải thiện tình trạng thiếu thông tin tín dụng của các Tổ chức Tín dụng. Tuy nhiên, sản phẩm của CIC vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về số lượng và chất lượng. Để nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của CIC, có thể xem xét thực hiện một số biện pháp sau:
-Từng bước hoàn thiện mô hình tổ chức, hoạt động.
-Tuyển chọn và nâng cao trình độ của cán bộ và đào tạo các cán bộ của CIC.
- Xây dựng hành lang pháp lý cho hoạt động thông tin tín dụng: ngoài quy chế về tổ chức và hoạt động của Trung tâm Tín dụng của Trung tâm Thông tin Tín dụng đã có (162/1999-QĐ-NHNN 9 ban hành ngày 8/5/1999) cần tìm ra, ban hành thực hiện thêm quy chế và hướng dẫn về tổ chức và hoạt động nghiệp vụ thông tin tín dụng của các Tổ chức Tín dụng.
- Xây dựng các văn bản đủ hiệu lực, quy định cụ thể về tác nghiệp như nguồn cung cấp thông tin, người sử dụng thông tin, các chỉ tiêu thu thập, quy trình thu thập, các tiêu thức phân tích đánh giá...
- Ban hành quy định bắt buộc các NHTM và các Tổ chức Tín dụng khai thác tham gia CIC, coi đó như quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Nên mở rộng thành viên của CIC, bao gồm các Doanh nghiệp lớn như các Tổng công ty. Ngoài các Tổ chức tín dụng và các Doanh nghiệp lớn là thành viên của CIC hoặc các Cơ quan quản lý Nhà nước thì mối quan hệ người sử dụng thông tin với CIC là quan hệ mua bán.
- Mở rộng phạm vi thu thập thông tin, áp dụng công nghệ hiện đại trong thu thập xử lý và cung cấp thông tin.
Đa dạng hoá thông tin đầu ra.
* Xây dựng các chỉ tiêu trung bình ngành:
Các chỉ tiêu trung bình ngành là một căn cứ quan trọng làm tiêu chuẩn cho kết quả cuối cùng của công tác phân tích đánh gía tài chính, nó giúp cho Cán bộ Tín dụng không làm theo cảm tính, kinh nghiệm mà không có căn cứ cụ thể. Do đó, kiến nghị với NHNN xây dựng hệ thống các chỉ tiêu trung bình ngành cho toàn bộ ngành Ngân hàng Việt Nam áp dụng, không gây ra sai lệch giữa các Ngân hàng trong hệ thống hoặc giữa các Chi nhánh trong cùng một Ngân hàng, giải pháp có thể là:
- Ngân hàng Nhà nước cùng các Cơ quan hữu quan cùng phối hợp để đưa ra các chỉ tiêu trung bình ngành.
Trong trường hợp chưa đủ điều kiện để có các chỉ tiêu trung bình ngành sử dụng cho toàn quốc thì bản thân NHNN có thể tự nghiên cứu, cùng với sự đóng góp của các NHTM để đưa ra hệ thông chỉ tiêu trung bình ngành.
* Ban hành văn bản quy định về quy trình phân tích tài chính doanh nghiệp vay vốn tại Ngân hàng Thương mại:
Hiện nay, đã có quy trình thẩm định cụ thể hướng dẫn đến từng Ngân hàng Thương mại nhưng chưa có một văn bản hướng dẫn nào về quy trình phân tích đánh giá tài chính khách hàng nói chung và Doanh nghiệp nói riêng. Vì phân tích tài chính doanh nghiệp là khâu quyết định cho vay hay không cho vay, khâu lớn nhất trong quy trình thẩm định cho vay, một khâu phức tạp đòi hỏi tốn nhiều thời gian và công sức. Do đó, cần có văn bản hướng dẫn sơ bộ từ Ngân hàng Nhà nước, sau đó sẽ có hướng dẫn cụ thể của từng Ngân hàng Thương mại. Trình tự có thể qua các khâu như sau:
Tiếp nhận hồ sơ (hồ sơ kinh tế ):
+ Bảng Cân đối Kế toán, Báo cáo Kết quả hoạt động kinh doanh.
+ Báo cáo Lưu chuyển tiền tệ, Thuyết minh báo cáo tài chính.
+ Biên bản kiểm tra, kiểm soát và phương hướng hoạt động kỳ tiếp theo.
- Kiểm tra tínhchính xác, độ trung thực của hồ sơ kinh tế.
- Tiến hành phân tích:
+Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn trong doanh nghiệp.
+ Phân tích kết cấu tài sản và nguồn vốn trong BCĐKT
+ Phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian và các chỉ tiêu cuối cùng trong báo cáo kết quả kinh doanh
+ Phân tích các chỉ tiêu và tỉ lệ tài chính chủ yếu.
+ Phân tích điểm hoà vốn (nếu cần).
+ Một số phân tích khác (nếu cần thiết).
- Đánh giá tổng hợp các tiêu cực tính toán, phân tích trên.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
* Mở rộng công tác đào tạo:
Trong giai đoạn đất nước đang chuyển mình hội nhập với khu vực và quốc tế hiện nay, không chỉ riêng cán bộ Ngân hàng mà tất cả mọi người, những ai muốn theo kịp sự phát triển của xã hội và làm việc có hiệu quả đều phải không ngừng trau rồi và trang bị kiến thức mới. Nhận thức được vấn đề này, Ban lãnh đạo Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam xem xét và thực hiện chương trình cử cán bộ đi học nâng cao trình độ và trang bị mới về kiến thức. Tuy nhiên, các chỉ tiêu nằm trong chương trình vẫn còn rất nhỏ so với nhu cầu hiện tại. Do đó, kiến nghị với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam tăng thêm nhiều chỉ tiêu cử cán bộ đi học nói chung và riêng đối với Chi nhánh Nam Hà Nội nói riêng. Vì điều kiện mới thành lập, trình độ và kinh nghiệm của các Cán bộ còn chưa đều cho nên rất cần thiết được cử đi học để tạo thêm mặt bằng cơ bản cho phòng nói chung. Ngoài ra, kiến thức về Ngoại ngữ và Tin học không phải là yếu tố quyết định nhưng lại rất cần thiết cho công việc, nó nâng cao hiệu quả làm việc và là một trong các phương pháp cạnh tranh lành mạnh. Tuy nhiên, để việc đi học không ảnh hưởng đến công việc, đề nghị Ban lãnh đạo xem xét thời gian cử đi học và số lượng cán bộ cho từng đợt sao cho hợp lý, số cán bộ ở lại trong mỗi đợt có thể đảm đương được số lượng công việc. Ví dụ như: thời gian đào tạo dành vào quý I của năm, lúc ấy là dịp Tết Nguyên đán, mới đầu năm ra nên công việc chưa nhiều.
Ngoài việc NHNo&PTNT cử cán bộ trong chỉ tiêu, đề nghị Ban lãnh đạo xem xét các hình thức để khuyến khích cán bộ đi học thêm ngoài những chỉ tiêu đưa xuống, đặc biệt đối với Tin học và Ngoại ngữ. Ưu điểm của việc học này là cán bộ tự nguyện đi học bằng kinh phí của mình, theo nhu cầu riêng của bản thân nên hiệu quả học tập có thể cao hơn, thời gian học đa số là ngoài giờ làm việc (buổi tối), không ảnh hưởng đến thời gian làm việc tại cơ quan. Các biện pháp có thể là: tăng lương khuyến khích đi học, cấp thêm phụ cấp, giúp đỡ về mặt kinh phí một phần hoặc có chương trình bồi dưỡng riêng....Các khuyến khích này có thể mang lại hiệu quả cao.
* Hoàn chỉnh các văn bản hướng dẫn cụ thể về phân tích tài chính doanh nghiệp vay vốn:
Mặc dù cho đến nay, hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã ban hành rất nhiều quy định, văn bản cụ thể về nhiều mặt và lĩnh vực cụ thể khác nhau, từ những quy định trong công tác thi đua đến những quy định, quyết định hướng dẫn cụ thể từng nghiệp vụ hoạt động Ngân hàng nhưng cho đến nay chưa hề có văn bản nào quy định cụ thể về một quy trình về phân tích đánh giá tài chính danh nghiệp vay vốn, hiện chỉ có quy định số 06/QĐ–HĐQT ngày18/1/2001 về việc ban hành quy định vay vốn đối với khách hàng. Vì vậy, Cán bộ Tín dụng chỉ có văn bản hướng dẫn cụ thể cho quy trình thẩm định cho Doanh nghiệp vay vốn tại Ngân hàng.
Do đó, kiến nghị với NHNo&PTNT sớm có văn bản quy định cụ thể về quy trình phân tích tài chính đối với Doanh nghiệp vay vốn tại Ngân hàng. Trên cơ sở văn bản ấy, trong quá trình thẩm định cho vay, các Cán bộ Tín dụng có một quy trình thống nhất bắt buộc đối với công tác phân tích tài chính Doanh nghiệp vay vốn. Từ đó, có thể vận dụng linh hoạt, sáng tạo kiến thức kinh nghiệm của bản thân vào công việc, tạo điều kiện cho chất lượng phân tích tài chính được chính xác, rõ ràng, thống nhất.
3.3.3 Kiến nghị với các Doanh nghiệp:
Các Doanh nghiệp hiện nay, đặc biệt là Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, các Báo cáo tài chính còn chưa chính xác, trung thực gây ra rất nhiều khó khăn không chỉ riêng cho Ngân hàng mà cho tất cả đơn vị nào thu thập, xử lý và sử dụng để phục vụ cho mục đích riêng. Đề nghị các Doanh nghiệp khi tham gia giao dịch, vay vốn tại Ngân hàng cung cấp các thông tin về tình hình tài chính của Doanh nghiệp mình một các trung thực, chính xác, tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng tiến hành công tác thẩm định, phân tích tài chính doanh vay vốn được chính xác, phản ánh đúng tình hình tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp và gắn ý thức trách nhiệm cao đối với những thông tin đã cung cấp. Nếu ngay từ ban đầu, kết quả phân tích đánh giá chính xác thì sau này trong quá trình giao dịch sẽ tạo thuận lợi về mặt thời gian và sự tín nhiệm cho cả hai bên, giảm rủi ro cho Doanh nghiệp cũng như cho Ngân hàng. Doanh nghiệp phải thường xuyên cung cấp cho Ngân hàng các thông tin về tình hình tài chính theo một định kỳ do hai bên thỏa thuận trong suốt quá trình Doanh nghiệp giao dịch với Ngân hàng. Ngân hàng có thể liên tục theo dõi được tình hình mạnh yếu của Doanh nghiệp, xem xét điều kiện Doanh nghiệp có thể vay thêm hoặc giảm bớt. Ngân hàng cũng có thể tư vấn giúp Doanh nghiệp về tình hình tài chính hiện tại của Doanh nghiệp, giúp cho công tác điều hành quản lý của Ban lãnh đạo doanh nghiệp họat động tốt hơn, khắc phục những khó khăn hiện tại, tiếp tục duy trì, phát huy những thế mạnh đã có.
Kết luận
Họat động Tín dụng là một hoạt động kinh doanh tạo ra lợi nhuận chủ yếu của các Ngân hàng Thương mại, đặc biệt là hoạt động cho vay đối với các Doanh nghiệp. Tuy nhiên, rủi ro mà các Ngân hàng thường gặp khi cho vay là không thu hồi được các khoản nợ đến hạn. Nguyên nhân dẫn tới rủi ro này phần lớn do Ngân hàng không nắm bắt được các tình hình tài chính khác hàng một cách 40
một cách chính xác, toàn diện, kịp thời.Vì vậy, nâng cao năng lực phân tích tài chính khách hàng của Ngân hàng qua phân tích tài chính doanh nghiệp là một chủ đề được nhiều sự quan tâm. Với những kiến thức nhỏ bé của mình, tác giả qua bài viết này muốn nêu ra một vài giải pháp và kiến nghị nhỏ nhằm góp phần hoàn thiện những hạn chế về nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp tại Ngân hàng. Mong rằng đây sẽ là một trong những giải pháp và kiến nghị hợp lý và có giá trị thực tiễn cho quá trình đổi mới của Ngân hàng.
Danh mục các tài liệu tham khảo
1.Những vấn đề cơ bản về quản trị tài chính doanh nghiệp
Ts. Vũ Duy Hào
2.Lập, đọc, kiểm tra và phân tích báo cáo tài chính.
Ts. Nguyễn Văn Công
3.Ngân hàng thương mại - Giáo sư. Ts Lê Văn Tư
4.Các tài liệu khác tại Chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội.
Phụ lục I : Báo cáo tài chính của công ty thực phẩm miền Bắc
Bảng cân đối kế toán
Tài sản
1999
2000
2001
A- Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
105.930.100.451
193.698.731.348
403.712.708.497
I- Tiền
16.337.081.298
22.373.817.444
11.179.326.448
1.Tiền mặt tại quỹ
8.398.700.222
8.434.381.066
4.302.443.961
2.Tiền gửi Ngân hàng
7.938.381.076
13.415.322.378
6.095.399.987
3. Tiền đang chuyển
524.114.000
781.482.500
II- Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn
-
1.Đầu tư chứng khoán ngắn hạn
-
2.Đầu tư ngắn hạn khác
-
3.Dự phòng giảm gía đầu tư NH
-
III- Các khoản phải thu
22.212.538.297
54.594.016.222
130.919.580.109
1.Phải thu của khách hàng
13.238.711.531
20.309.343.870
33.768.709.360
2.Trả trước cho người bán
3.645.830.226
30.723.092.670
52.834.215.948
3.Thuế GTGT được khấu trừ
1.068.980.584
16.078.121
8.113.289.039
4.Phải thu nội bộ
-
5.Các khoản phải thu khác
4.259.015.956
3.545.501.561
36.563.650.260
6.Dự phòng giảm giá các khoản phải thu khó đòi
-360.284.498
IV- Hàng tồn kho
64.236.550.042
114.470.806.253
255.602.950.705
1.Hàng mua đang đi trên đường
-
2.Nguyên liệu,vật liệu tồn kho
4.300.422.927
6.080.857.364
7.574.636.932
3.Công cụ, dụng cụ tồn kho
814.302.439
463.107.140
525.832.886
4.Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
307.845.827
1.959.800
2.250.260.169
5.Thành phẩm tồn kho
11.269.902.740
11.655.302.833
15.811.980.595
6.Hàng hoá tồn kho
47.544.076.109
96.269.579.116
228.102.619.923
7.Hàng gửi đi bán
1.337.620.200
8.Dự phòng giảm giá hàng tồn kho
-
V-Tài sản lưu động khác
3.143.930.814
2.260.091.429
6.010.851.235
1.Tạm ứng
905.190.145
608.006.172
2.352.615978
2.Chi phí trả trước
1.795.574.575
728.531.767
1.344.768.844
3.Chi phí chờ kết chuyển
430.081.670
874.064.160
3.500.000
4.Tài sản thiếu chờ xử lý
49.489.330
-
5.Các khoản kýquỹ, kýcược NH
13.084.424
2.309.966.413
VI- Chi sự nghiệp
-
1.Chi sự nghiệp năm trước
-
2.Chi sự nghiệp năm nay
-
B- Tài sản cố định và đầu tư dài hạn
35.174.332.246
37.845.128.729
49.441.298.938
I- Tài sản cố định
35.169.332.246
35.433.470.492
36.781.791.427
1.TSCĐ hữu hình
34.288.092.474
21.776.344.555
27.020.657.891
Nguyên giá
47.009.876.590
33.885.720.871
44.490.828.845
Giá trị hao mòn luỹ kế
-12.721.784.116
-12.109.376.316
-17.470.170.954
2.TSCĐ thuê tài chính
881.239.772
13.657.125.937
9.761.133.536
Nguyên giá
935.463.814
14.024.178.580
21.102.711.968
Giá trị hao mòn luỹ kế
-54.224.042
-367.052.643
-11.341.578.432
3.TSCĐ vô hình
-
Nguyên giá
-
Giá trị hao mòn luỹ kế
-
II- Các khoản đầu tư tài chính dài hạn
-
1.Đầu tư chứng khoán NH
-
2.Góp vốn liên doanh
-
3.Các khoản đầu tư DH khác
-
4.Dự phòng giảm giá đầu tư dài hạn
-
III- Chi phí xây dựng cơ bản dở dang
5.000.000
2.411.658.237
12.659.507.511
IV-Các khoản ký quỹ, ký cược dài hạn
-
Tổng tài sản
141.104.432.697
231.543.860.077
453.154.007.435
Nguồn vốn
A- Nợ phải trả
140.299.301.427
229.497.059.989
429.669.627.558
I-Nợ ngắn hạn
105.698.733.886
184.924.368.949
375.239.486.722
1.Vay ngắn hạn
76.134.252.067
145.503.954.385
303.148.247.205
2.Nợ dài hạn đến hạn trả
1.372.000.000
-
3.Phải trả cho người bán
21.915.062.127
32.996.506.365
55.986.730.560
4.Người mua trả tiền trước
3.382.841.692
1.014.324.253
4.494.116.228
5.Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước
120.275.061
1.695.200.722
939.894.570
6.Phải trả công nhân viên
3.236.020
5.215.724.994
7.Phải trả cho các đơn vị nội bộ
-
8.Các khoản phải trả, phải nộp khác
2.771.066.919
3.714.383.224
5.454.773.165
II- Nợ dài hạn
33.399.741.391
41.733.872.840
51.553.149.202
1.Vay dài hạn
17.240.546.884
12.136.958.429
25.961.985.591
2.Nợ dài hạn khác
16.159.194.507
29.596.914.411
25.591.163.611
III-Nợ khác
1.200.826.150
2.838.818.200
2.876.991.634
1.Chi phí phải trả
32.800.000
243.753.134
2.Tài sản thừa chờ xử lý
-
3.Nhận ký quỹ, ký cược dài hạn
1.200.826.150
2.806.018.200
2.633.238.500
B-nguồn vốn
chủ sở hữu
805.131.270
2.046.800.088
23.484.379.877
I-Nguồn vốn- quỹ
805.131.270
2.046.800.088
23.455.144.052
1.Nguồn vốn kinh doanh
14.282.123.106
14.782.123.106
23.263.587.736
2.Chênh lệch đánh giá lại tài sản
-
3.Chênh lệch tỷ giá
-
4.Quỹ đầu tư phát triển
-
5.Quỹ dự phòng tài chính
1.459.140
1.459.140
1.459.140
6.Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm
-
7.Lãi chưa phân phối
-13.595.881.547
-12.792.465.400
190.097.176
8.Quỹ khen thưởng phúc lợi
117.430.571
55.683.242
29.235.825
9.Nguồn vố đầu tư xây dựng cơ bản
-
-
-
II-Nguồn kinh phí
1.Quỹ quản lý của cấp trên
-
-
-
2.Nguồn kinh phí sự nghiệp
-
-
-
3.Nguồn kinh phí đã hình thành TSCĐ
-
-
-
Tổng cộng
nguồn vốn
141.104.432.697
231.543.860.077
453.154.007.435
Phụ lục I: Báo cáo tài chính Công ty Thực Phẩm miền Bắc.
Kết quả hoạt động kinh doanh
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Tổng doanh thu
01
1.362.347.261.881
2.053.759.283.339
Trong đó: Doanh thu hàng xuất khẩu
02
120.795.743.652
300.664.819.124
Các khoản giảm trừ (04+05+06+07)
03
488.425.028
239.811.322
Chiết khấu
04
-
Giảm giá
05
360.000
Giá trị hàng bán bị trả lại
06
431.652.925
156.314.970
Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế XK phải nộp
07
56.772.103
83.136.352
1.Doanh thu thuần (01-03)
10
1.361.858.836.853
2.053.519.472.017
2.Giá vốn hàng bán
11
1.322.722.625.157
1.992.558.537.045
3.Lợi nhuận gộp (10-11)
20
39.136.211.696
60.960.934.972
4.Chi phí bán hàng
21
11.012.826.096
28.150.042.151
5.Chi phí quản lý doanh nghiệp
22
26.242.392.319
48.408.769.391
6.Lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh (20-(21+22))
30
1.880.993.281
(15.597.876.570)
Thu nhập hoạt động tài chính
31
4.201.015
82.252.562
Chi phí hoạt động tài chính
32
152.050.031
458.232.362
7.Lợi nhuận hoạt động tài chính (31-32)
40
(147.849.016)
(375.979.800)
Các khoản thu nhập bất thường
41
11.520.056.275
37.928.910.167
Chi phí bất thường
42
11.237.872.386
4.654.360.315
8.Lợi tức bất thường (41-42)
50
282.183.889
33.274.549.852
9.Tổng lợi nhuận trước thuế (30+40+50)
60
2.015.328.154
17.300.693.482
10.Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp
70
644.905.009
583.140.177
11.Lợi nhuận sau thuế (60-70 )
80
1.370.423.145
16.717.553.305
Phụ lục II : Báo cáo tài chính của Công ty liên doanh Toyota
Bảng cân đối kế toán
Tài sản
1998
1999
2000
A- Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
143.933.172
11.980.794.573
21.024.696.122
I- Tiền
55.473.339
1.302.342.322
6.853.339.475
1.Tiền mặt tại quỹ
25.070.900
81.413.354
372.430.770
2.Tiền gửi Ngân hàng
30.402.439
1.220.928.968
6.480.908.705
3. Tiền đang chuyển
-
-
-
II- Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn
-
-
-
1.Đầu tư chứng khoán ngắn hạn
-
-
-
2.Đầu tư ngắn hạn khác
-
-
-
3.Dự phòng giảm gía đầu tư ngắn hạn
-
-
III- Các khoản phải thu
75.864.833
5.958.959.882
7.960.846.210
1.Phải thu của khách hàng
-
4.572.408.017
7.930.357.872
2.Trả trước cho người bán
75.864.833
1.288.501.498
5.000.000
3.Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ
-
73.368.629
-
4.Phải thu nội bộ
-
-
-
5.Các khoản phải thu khác
24.663.738
25.488.338
6.Dự phòng giảm giá các khoản phải thu khó đòi
-
-
-
IV- Hàng tồn kho
-
3.967.412.450
5.043.208.355
1.Hàng mua đang đi trên đường
2.Nguyên liệu, vật liệu tồn kho
-
154.865.938
314.257.357
3.Công cụ, dụng cụ tồn kho
-
-
-
4.Chi phí sx kinh doanh dở dang
-
13.034.915
28.662.398
5.Thành phẩm tồn kho
-
-
-
6.Hàng hoá tồn kho
-
3.799.511.597
4.700.288.600
7.Hàng gửi đi bán
-
-
-
8.Dự phòng giảm giá hàng tồn kho
-
-
-
V-Tài sản lưu động khác
12.595.000
752.079.919
1.167.302.082
1.Tạm ứng
-
345.577.147
339.168.827
2.Chi phí trả trước
-
7.489.825
9.495.942
3.Chi phí chờ kết chuyển
12.595.000
399.012.947
202.293.313
4.Tài sản thiếu chờ xử lý
-
-
-
5.Các khoản ký quỹ, ký cược ngắn hạn
-
-
616.344.000
VI- Chi sự nghiệp
-
-
-
1.Chi sự nghiệp năm trước
-
-
-
2.Chi sự nghiệp năm nay
-
-
-
B- Tài sản cố định
và đầu tư dài hạn
9.617.441.800
14.491.622.256
13.596.332.495
Tài sản cố định
9.617.441.800
14.491.622.256
13.596.332.495
1.TSCĐ hữu hình
160.437.800
5.383.549.854
5.019.846.708
Nguyên giá
160.437.800
5.936.411.321
6.369.948.149
Giá trị hao mòn luỹ kế
-
(552.861.467)
(1.350.101.441)
2.TSCĐ thuê tài chính
-
-
-
Nguyên giá
-
-
-
Giá trị hao mòn luỹ kế
-
-
-
3.TSCĐ vô hình
9.457.004.000
9.108.072.402
8.576.485.787
Nguyên giá
9.457.004.000
9.507.004.000
9.507.004.000
Giá trị hao mòn luỹ kế
-
-398.931.598
-930.518.213
II- Các khoản đầu tư tài chính dài hạn
-
-
-
1.Đầu tư chứng khoán dài hạn
-
-
-
2.Góp vốn liên doanh
-
-
-
3.Các khoản đầu tư dài hạn khác
-
-
-
4.Dự phòng giảm giá đầu tư dài hạn
-
-
-
III-Chi phí xây dựng cơ bản dở dang
-
-
-
IV-Các khoản kýquỹ,kýcược dài hạn
-
-
-
Tổng tài sản
9.761.374.972
26.472.416.829
34.621.028.617
Nguồn vốn
A- Nợ phải trả
11.101.394
9.097.007.219
14.985.015.116
I-Nợ ngắn hạn
11.101.394
8.974.636.848
14.524.816.212
1.Vay ngắn hạn
-
4.200.000.000
5.600.000.000
2.Nợ dài hạn đến hạn trả
-
-
-
3.Phải trả cho người bán
-
3.185.740.070
923.875.791
4.Người mua trả tiền trước
-
1.330.998.000
7.060.145.253
5.Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước
2.737.859
89.868.793
940.840.168
6.Phải trả công nhân viên
8.363.535
28.029.985
-
7.Phải trả cho các đơn vị nội bộ
-
-
-
8.Các khoản phải trả, phải nộp khác
140.000.000
II- Nợ dài hạn
-
-
-
1.Vay dài hạn
-
-
-
2.Nợ dài hạn khác
-
-
-
III-Nợ khác
-
122.370.371
460.153.904
1.Chi phí phải trả
122.370.371
460.153.904
2.Tài sản thừa chờ xử lý
-
-
-
3.Nhận ký quỹ, ký cược dài hạn
-
-
B-nguồn vốn
chủ sở hữu
9.750.273.578
17.375.409.610
19.636.013.501
I-Nguồn vốn- quỹ
9.750.273.578
17.365.409.610
19.636.009.501
1.Nguồn vốn kinh doanh
9.897.654.000
18.088.332.675
18.088.322.675
2.Chênh lệch đánh giá lại tài sản
-
-
-
3.Chênh lệch tỷ giá
-
-
-
4.Quỹ đầu tư phát triển
-
-
-
5.Quỹ dự phòng tài chính
-
-
-
6.Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm
-
-
-
7.Lãi chưa phân phối
-147.380.422
-712.923.065
1.547.686.826
8.Quỹ khen thưởng phúc lợi
-
-
-
9.Nguồn vố đầu tư xây dựng cơ bản
-
-
-
II-Nguồn kinh phí
-
-
-
1.Quỹ quản lý của cấp trên
-
-
-
2.Nguồn kinh phí sự nghiệp
-
-
-
Nguồn kinh phí sự nghiệp năm trước
Nguồn kinh phí sự nghiệp năm nay
-
-
-
3.Nguồn kinh phí đã hình thành TSCĐ
-
-
-
Tổng cộng
nguồn vốn
9.761.374.972
26.472.416.829
34.621.028.617
Phụ lục II: Báo cáo tài chính Công ty liên doanh Toyota
Kết quả hoạt động kinh doanh
Chỉ tiêu
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Tổng doanh thu
01
37.907.939.436
212.071.496.242
Trong đó: Doanh thu hàng xuất khẩu
02
Các khoản giảm trừ (04+05+06+07)
03
82.468.100
2.979.820.288
Chiết khấu
04
Giảm giá
05
82.486.100
2.977.219.888
Giá trị hàng bán bị trả lại
06
Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế XK phải nộp
07
2.600.400
1.Doanh thu thuần (01-03)
10
37.825.471.336
209.091.675.959
2.Giá vốn hàng bán
11
35.227.678.433
200.067.379.782
3.Lợi nhuận gộp (10-11)
20
2.597.792.903
9.024.296.172
4.Chi phí bán hàng
21
905.832.811
2.708.116.844
5.Chi phí quản lý doanh nghiệp
22
188.021.070
2.218.290.520
3.175.910.909
6.Lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh (20-(21+22))
30
-18.021.070
-526.330.428
3.140.268.419
Thu nhập hoạt động tài chính
31
35.640.648
15.874.827
362.123
Chi phí hoạt động tài chính
32
-
55.087.042
405.424.261
7.Lợi nhuận hoạt động tài chính (31-32)
40
35.640.648
-39.212.215
-405.062.138
Các khoản thu nhập bất thường
41
145.391.686
Chi phí bất thường
42
104.100.467
8.Lợi tức bất thường (41-42)
50
-5.000.000
41.291.219
9.Tổng lợi nhuận trước thuế (30+40+50)
60
-147.380.422
-565.542.643
2.776.497.500
10.Thuế TNDN phải nộp
70
515.893.619
11.Lợi nhuận sau thuế (60-70 )
80
-147.380.422
-565.542.643
2.260.603.891
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0098.doc