Nâng cao chất lượng phân tích tài chính Doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội (MB)

Tài liệu Nâng cao chất lượng phân tích tài chính Doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội (MB): ... Ebook Nâng cao chất lượng phân tích tài chính Doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội (MB)

doc93 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1418 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng phân tích tài chính Doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội (MB), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Những năm gần đây, chịu tác động lớn của kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều biến cố lớn : gia nhập tổ chức thương mại thế giới, biến động mạnh trên thị trường chứng khoán, thị trường vàng, thị trường bất động sản, thị trường nhà đất…Môi trường đầu tư Việt Nam thực tế có xu hướng không còn ổn định như trước đây. Thành phần kinh tế cũng hết sức đa dạng và ngày càng phức tạp.Là một đối tượng của nền kinh tế, ngân hàng với mục đích đảm bảo sinh lời và khả năng thanh khoản ngày càng phải tự nỗ lực và hoàn thiện các công tác để có thể tồn tại lâu dài và phát triển lớn mạnh được trong điều kiện đó. Hiện nay, hoạt động cho vay vẫn là hoạt động lớn nhất của ngân hàng, lợi nhuận của ngân hàng phần lớn vẫn là thu từ các khoản vay. Tuy nhiên, dưới tình hình bất lợi như hiện nay khi là nguồn vốn huy động được thì hết sức khó khăn, các khoản cho vay thì lại có quá nhiều rủi ro, mục tiêu ngân hàng hướng tới sẽ là sử dụng nguồn vốn sao cho hiệu quả đồng thời hạn chế được nợ xấu , nợ quá hạn. Để thực hiện được điều đó thì việc thẩm định các khoản vay để đưa ra quyết định có cho vay hay không là vô cùng quan trọng. Qua thời gian thực tập tại phòng Quản lý Dự Án của ngân hàng TMCP Quân đội, nhờ tiếp cận được với thực tế hoạt động cho vay của ngân hàng, một lần nữa tầm quan trọng của việc phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay được khẳng định. Ngân hàng TMCP Quân đội là một ngân hàng chỉ mới hơn 10 năm hoạt động đã có nhiều thành tích xuất sắc, hoạt động thẩm định các khoản vay tại ngân hàng có chất lượng cao. Đó là một nhân tố góp phần giúp cho tổng dư nợ của mà ngân hàng tăng qua các năm mà vẫn đảm bảo tỷ lệ nợ quá hạn ở mức chấp nhận. Tuy nhiên trong công tác phân tích tài chính doanh nghiệp vẫn tồn tại những hạn chế cần sớm khắc phục để ngân hàng có thể từng bước hoàn thiện mình để luôn luôn giữ vững hình ảnh là một ngân hàng hàng đầu trong nền kinh tế. Ngay cả khi phải đối diện với sự cạnh tranh khốc liệt của các ngân hàng khác đặc biệt khi có sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài với ưu thế về tiềm lực tài chính mạnh, đội ngũ nhân viên chất lượng cao và sự hỗ trợ đắc lực của khoa học công nghệ ; ngay cả khi phải đối diện với những biến động tiêu cực của thị trường thì với một sự chuẩn bị kỹ lưỡng, chắc chắn ngân hàng sẽ hạn chế được mọi rủi ro. Nhận thức được điều này, đề tài «  Nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của ngân hàng TMCP Quân đội » được lựa chọn nghiên cứu như là khoá luận tốt nghiệp. Nội dung khoá luận bao gồm những nội dung chính như sau : Chương 1 : Những lý luận chung về nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Chương 2 : Thực trạng chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của ngân hàng TMCP Quân đội Chương 3 : Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay tại ngân hàng TMCP Quân đội CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY Hoạt động cho vay của ngân hàng Khái quát về ngân hàng thương mại 1.1.1.1 Khái niệm Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Tuy nhiên các yếu tố trên lại không ngừng thay đổi. Các công tổ chức tài chính thì cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng, và ngược lại, ngân hàng cũng mở rộng phạm vi hoạt động sang chứng khoán, bảo hiểm và bất động sản… Nếu xét trên phương diện loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì : Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Nếu xét trên phương diện hoạt động chủ yếu thì : Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm có ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại ngân hàng khác.( Theo điều 20, mục 2 của luật tổ chức tín dụng 2004- sửa đổi luật TCTD năm 1997) Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật các TCTD năm 2004- sửa đổi luật TCTD năm 1997) Có thể định nghĩa Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính thực hiện kinh doanh tiền tệ với nội dung cơ bản là nhận tiền gửi, sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán Thực ra Ngân hàng thương mại chính là một doanh nghiệp, nhưng đối tượng kinh doanh của ngân hàng thương mại là tiền tệ. Nói chung, nhóm NHTM có hai nhóm nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ chính, đó là nhóm nghiệp vụ kinh doanh tín dụng và nhóm nghiệp vụ trung gian thanh toán. 1.1.1.2 Đặc trưng của ngân hàng thương mại Tính chất : Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính, một doanh nghiệp hoạt động bằng các nguồn vốn Tiền gửi của công chúng ( có kỳ hạn, không kỳ hạn, và tiết kiệm) Vốn tự có của ngân hàng do các cổ đông góp Vốn vay từ các tổ chức kinh tế Vốn vay của công chúng bằng cách phát hành phiếu nợ Vốn hoặc tài sản do các đơn vị đem lại cầm cố.. Đối tượng cho vay của NHTM chủ yếu là Thương mại, sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp Đầu tư hoặc góp vốn xây dựng xí nghiệp, khu công nghiệp.. Ngoài ra NHTM được quyền tạo ra lợi nhuận bằng cách đầu tư vào các loại hình tài sản sinh lời khác như mua chứng khoán, bất động sản hay chiết khấu thương phiếu, hối phiếu hay đầu tư vào các loại hàng hoá khác. Sở hữu : Một NHTM có nhiều dạng sở hữu. NHTM có thể được thành lập bằng 100% vốn tư nhân, 100% vốn nhà nước, hay là sự chung vốn giữa tư nhân với nhà nước hoặc nước ngoài Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại Ngân hàng cung cấp dịch vụ là chuyển một loại tài sản thành một loại tài sản khác cho công chúng. Điều này được thể hiện thông qua các hoạt động cụ thể của ngân hàng Mua bán ngoại tệ : Một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ Nhân tiền gửi : Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản tiền cho khách hàng với cam kết hoàn trả đúng hạn, trả lãi cho khoản tiền gửi Bảo quản vật có giá : Ngân hàng lưu giữ vàng và vật có giá cho khách hàng trong kho bảo quản. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết viết giấy chi trả cho khách, khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Thanh toán không dùng tiền mặt an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh nhân. Quản lý ngân quỹ : Ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn doanh nghiệp và nhiều cá nhân. Ngân hàng quản lý việc thu và chi cho một công ty kih doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các khoản chứng khoán sinh lời và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán Tài trợ các hoạt động của Chính phủ : Các ngân hàng mua trái phiếu Chính phủ trên theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được, hoặc phải cho chính phủ vay với các điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp của Chính phủ khi họ phát sinh nhu cầu chi tiêu lớn và cấp bách. Bảo lãnh : Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn các tổ chức tín dụng khác Cho thuê tài chính ( Leasing) : Ngân hàng cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Hợp đồng cho thuê thường phải đảm bảo yêu cầu khách hàng phải trả tới 2/3 giá trị của tài sản cho thuê. Uỷ thác và tư vấn : Nhiều các nhân doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp. Môi giới đầu tư chứng khoán : Ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu, và các chứng khoán khác. Các ngân hàng còn tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty mô giới chứng khoán. Bảo hiểm : Ngân hàng bán bảo hiểm cho khách hàng, bảo đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán. Ngân hàng đại lý : Ngân hàng thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ. Cho vay Hoạt động cho vay của NHTM 1.1.3.1 Khái niệm : Cho vay là tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng. Cho vay thường được định lượng theo hai chỉ tiêu : Doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ. Doanh số cho vay trong kỳ là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho vay trong kỳ. Dư nợ cuối kỳ là số tiền mà ngân hàng hiện đang còn cho vay vào thời điểm cuối kỳ 1.1.3.2 Phân loại Thấu chi  Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội ( vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này gọi là hạn mức thấu chi. Để được thấu chi khách hàng làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và thời gian thấu chi ( có thể trả phí cam kết cho ngân hàng). Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể ký séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ séc.. vượt quá số dư tiền gửi để chi trả ( xong trong hạn mức thấu chi). Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà ngân hàng phải trả là Lãi suất thấu chi x Thời gian thấu chi x Số tiền thấu chi Các khoản chi trả quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này. Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và qui mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán dựa vào ngân quỹ song không chính xác. Do vậy, hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán : chủ động, nhanh, kịp thời Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng…Hình thức này sử dụng với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn. Cho vay trực tiếp từng lần Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh. Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay, xác định qui mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ (khế ước nhận nợ) khác nhau. Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả. Nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi. Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt. Cho vay theo hạn mức Đây là nghiệp vụ tín dụng mà theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạng mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Trong kỳ khách hàng có thể vay trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Một số ngân hàng qui địh hạn mức cuối kỳ. Dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiêun, đến cuối kỳ, khách hàng phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối kỳ không được vượt quá hạn mức Mỗi lần vay, khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng. Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh.trong nghiệp vụ này, ngân hàng không xác định trước kỳ hạn nợ và thời hạn tín dụng. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên do các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính hoặc dư nợ lâu không giảm sút. Cho vay luân chuyển Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc quý, người vay sẽ làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thoả thuận trong 1 hoặc vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng và quyết định có cho vya nữa hay không tuỳ mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng cũng như tình hình tài chính của khách hàng. Việc cho vay dựa trên luân chuyển của hàn háo nên cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới Người vay sẽ cam kết ác khoản vay sẽ được trả cho người bán và mọi khoản thu bán hàng đều dùng để trả vào tài khoản tiền vay trước khi được trích trả lại tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng. Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hoá đơ n nhập hàng và số tiền cần vay. Ngân hàng cho vay và trả tiền cho người bán. Theo hình thức này, giá trị hàng hoá mua vào ( có hoá đơn, hợp pháp, hợp lệ, đúng đối tượng) đều là đối tượng được ngân hàng cho vay ; thu nhập bán hàng đều là nguồn để chi trả cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo khối lượng và chất lượng quan hệ nợ nần của người vay. Các khoản phải thu và cả hàng oá trong kho trở thành vật đảm bảo cho khoản cho vay. Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng. Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho khách hàng. Thủ tục vay chỉ cần thực hiện một lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì vậy, việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn. Nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ ( hàng hoá tồn đọng..) thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được quy định rõ ràng. Cho vay trả góp  Là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép ngân hàng trả gốc làm nhiều lẩntong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ ( thường là từ khấu hao và thu nhập sau thuế của dự án, hoặc từ thu nhập hàng kỳ của người tiêu dùng) Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán lẻ về số hàng hoá mà khách đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhân ngay tiền sau khi bán hàng từ phía ngân hàng hoặc khách hàng trả trực tiếp cho ngân hàng. Đây là hình thức tín dụng tài trợ cho người mua ( qua đó đến người bán nhằm khuyến khích tiêu thụ hàng hoá. Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường xuyên thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Nếu người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng. Cho vay gián tiếp Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp.Bên cạnh đó ngân hàng cũng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp, hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian Ngân hàng cho vay qua các tổ, đội, hội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội Nông dân, Hội cựu chiến binh, hội Phụ nữ… Các tổ chức này thường liên kết các thành viên theo một mục đích riêng, song chủ yếu đều hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho mỗi thành viên. Vì vậy, việc phát triển kinh tế, làm giàu, xoá đói giảm nghèo luôn được các trung gian rất quan tâm. Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian, như thu nợ, như phát tiền vay…Tổ chức trung gian cũng có thể đứng ra tín chấp cho các thành viênvay, hoặc các thành viên trong nhóm bảo lãnh cho một thành viên vay. Điều này rất thuận tiện khi người vay không có hoặc không đủ tài sản thế chấp. Để bù đắp một phần chi phí của trung gian, ngân hàng trích một phần thu nhập để lịa cho trung gian. Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này sẽ hạn chế người vay sử dụng tiền sai mục đích. Cho vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Trong trường hợp như vậy, cho vay qua trung gian có thể tiết kiệm chi phí cho vay ( phân tích, giám sát, thu nợ…) Cho vay qua trung gian đều nhằm giảm bớt rủi ro, chi phí của ngân hàng. Tuy nhiên, nó cũng bộc lộ các khiếm khuyết. Nhiều trung gian sẽ lợi dụng vị thế của mình và nếu ngân hàng không kiểm soát tốt sẽ tăng lãi suất để cho vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác cho riêng mình. Các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán hàng kém chất lượng hoặc với giá đắt cho người vay vốn. Phân tích tài chính doanh nghiệp  Khái niệm Phân tích tài chính là việc sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó. Tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp đối với việc cho vay của ngân hàng Ngân hàng cần thiết phải phân tích tài chính để nhận biết khả năng vay và trả nợ của khách hàng. Qua đó, người cho vay xem xét là doanh nghiệp thực sự có nhu cầu vay hay không và khả năng trả nợ của doanh nghiệp như thế nào. Quy trình phân tích tài chính doanh nghiệp của ngân hàng trong cho vay 1.2.3.1 Thu thập thông tin sử dụng trong phân tích tài chính Trong phân tích tài chính, nhà phân tích phải thu thập, sử dụng mọi nguồn thông tin. Từ những thông tin nội bộ doanh nghiệp đến những thông tin bên ngoài doanh nghiệp, từ thông tin số lượng đến thông tin giá trị. Nhờ có những thông tin này, nhà phân tích mới có thể đứa ra nhận xét, kết luận đầy đủ và xác đáng. Trong những thông tin bên ngoài, lưu ý thu thập những thông tin chung ( thông tin liên quan đến trạng thái nền kinh tế, cơ hội kinh doanh, chính sách thuế, lãi suất), thông tin về ngành kinh doanh ( thông tin liên quan đến vị trí của ngành trong nền kinh tế, cơ cấu ngành, các sản phẩm của ngành, Tình trạng công nghệ, thị phần…) và các thông tin về pháp lý, kinh tế đối với doanh nghiệp ( các thông tin mà các doanh nghiệp phải báo cáo cho các cơ quan quản lý như tình hình quản lý, tình hình kiểm toán, kế hoạch sử dụng kết quả kinh doanh của doanh nghiệp…) Tuy nhiên để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của doanh nghiệp, có thể sử dụng thông tin trong nội bộ doanh nghiệp như là một nguồn thông tin quan trọng bậc nhất. Thông tin kế toán được phản ánh đầy đủ trong các báo cáo kế toán. Phân tích tài chính được thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài chính được hình thành thông qua việc xử lý các báo cáo kế toán chủ yếu. Đó là Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Bảng cân đối kế toán Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đây là một báo cáo tài chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh và quan hệ quản lý đối với doanh nghiệp. Thông thường bảng cân đối kế toán được trình bày dưới dạng bảng cân đối số dư các tài khoản kế toán : Một bên phản ánh tài sản và một bên phản ánh nguồn vốn của doanh nghiệp Bên tài sản của Bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản hiện có đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp. Bên tài sản của Bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản hiện có đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp : Đó là tài sản cố định, tài sản lưu động. Bên nguồn vốn phản ánh số vốn để hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo : Đó là vón của chủ ( vốn tự có ) và các khoản nợ Các khoản mục trên Bảng cân đối kế toán được sắp xếp theo khả năng chuyển hoá thành tiền giảm dần từ trên xuống Bên tài sản  Tài sản lưu động ( tiền và chứng khoán ngắn hạn dễ bán, các khoản phải thu, dự trữ) ; tài sản tài chính, tài sản cố định, hữu hình và vô hình. Bên nguồn vốn  Nợ ngắn hạn ( nợ phải trả nhà cung cấp, các khoản phải nộp, phải trả khác, nợ ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác) ; nợ dài hạn ( nợ vay dài hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, vay bằng cách phát hành trái phiếu) ; vốn chủ sở hữu ( thường bao gồm : vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, phát hành cổ phiếu mới) Về mặt kinh tế, bên tài sản phản ánh quy mô và kết cấu các loại tài sản ; bên nguồn vốn phản ánh cơ cấu tài trợ, cơ cấu vốn cũng như khả năng độc lập về tài chính của doanh nghiệp Bên tài sản và bên nguồn vốn của Bảng cân đối kế toán đều có các cột chỉ tiêu : Số đầu kỳ, số cuối kỳ. Ngoài các khoản mục trong nội bảng còn có một số khoản mục ngoài bảng cần dối kế toán như Một số tài sản thuê ngoài, vật tư, hàng hoá nhận giữ hộ, nhận gia công, hàng hoá bán hộ, ngoại tệ các loại… Nhìn vào bảng cân đối kế toán, nhà phân tích có thể nhận biết được loại hình doanh nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp. Bảng cân đối kế toán là một tư liệu quan trọng bậc nhất giúp cho các nhà phân tích đánh giá được khả năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán và khả năng cân đối vốn của doanh nghiệp. Báo cáo kết quả kinh doanh Một thông tin không kém phần quan trọng được sử dụng trong phân tích tài chính là thông tin phản ánh trong báo cáo kết quả kinh doanh. Khác với Bảng cân đối kế toán, báo cáo Kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của tiền trong quá trình sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo kết quả kinh doanh cũng giúp nhà phân tích so sánh doanh thu với số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hoá, dịch vụ ; so sánh tổng chi phí phát sinh với số tiền thực xuất quỹ để vân hành doanh nghiệp. Trên cơ sở doanh thu và chi phí, có thể xác định được kết quả sản xuất kinh doanh : lãi hay lỗ trong năm. Như vậy, báo cáo Kết quả kinh doanh phản ánh kết quả hoạt đọng sản xuất – kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Những khoản mục chủ yếu được phản ánh trên báo cáo kết quả kinh doanh : Doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh ; doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh ; doanh thu từ hoạt động tài chính ; doanh thu từ hoạt động bất thường và chi phí tương ứng với từng hoạt động đó. Những loại thuế như VAT, Thuế tiêu thụ đặc biệt, vầ bản chất, không phải là doanh thu và không phải là chi phí của doanh nghiệp nên không phản ánh trên báo cáo kết quả kinh doanh. Toàn bộ các khoản thuế đối với doanh nghiệp và các khoản thuế phải nộp khác được phản ánh trong phần : Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà Nước. Ngân quỹ ( Báo cáo lưu chuyển tiền tệ) Để đánh giá một doanh nghiệp có đảm bảo được chi trả hay không, cần tìm hiểu tình hình Ngân quỹ của doanh nghiệp. Ngân quỹ thường được xác định cho thời hạn ngắn ( thường là từng tháng) Xác định hoặc dự báo dòng tiền thực nhập quỹ ( thu Ngân quỹ) bao gồm : Dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động kinh doanh ( từ bán hàng hoặc dịch vụ) ; dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động đầu tư, tài chính ; dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động bất thường. Xác định hoặc dự báo dòng tiền thực xuất quỹ ( chi Ngân quỹ) bao gồm : Dòng tiền xuất quỹ thực hiện sản xuất kinh doanh ; dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động đầu tư, tài chính, dòng tiền ; dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động bất thường Trên cơ sở dòng tiền nhập quỹ và dòng tiền xuất quỹ, nhà phana tích thực hiện cân đối ngân quỹ với số dư ngân quỹ đầu kỳ để xác định số dư ngân quỹ cuối kỳ. Từ đó, có thể thiết lập mức ngân quỹ dự phòng tối thiểu cho doanh nghiệp nhằm mục tiêu đảm bảo chi trả. Tóm lại, để phân tích tình hình tài chính của một doành nghiệp, các nhà phân tích cần phải đọc và hiểu được các báo cáo tài chính, qua đó, họ nhận biết được và tập trung vào các chỉ tiêu tài chính liên quan trực tiêp tới mục tiêu phân tích tài chính của họ. 1.2.2 Phương pháp và nội dung phân tích tài chính 1 .2.2.1 Phương pháp phân tích tài chính Phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến trong phân tích tài chính là phương pháp tỷ số.Phương pháp tỷ số là phương pháp trong đó các tỷ số được sử dụng để phân tích. Đó là các tỷ số đơn được thiết lập bởi chỉ tiêu này so với chỉ tiêu khác. Đây là phương pháp hiện thực cao với các điều kiện áp dụng ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Bởi lẽ, thứ nhất : Nguồn thông tin kế toán và tài chính được cải tiến và được cung cấp đầy đủ hơn. Đó là cơ sở để hình thành những tỷ lệ tham chiếu tin cậy cho việc đánh giá một tỷ số của một doanh nghiệp hya một nhóm doanh nghiệp ; thứ hai : việc áp dụng công nghệ thông tin cho phép thúc đẩy nhanh quá trình tính toán hàng lạot các tỷ số ; thú ba : Phương pháp phân tích này giúp nhà phân tích khai thác có hiệu quả nhưng số liệu và phân tích một cách hệ thống hàng loạt tỷ số theo chuỗi thời gian liên tục hoặc theo từng giai đoạn. Về nguyên tắc, với phương pháp phân tích tỷ số, cần xác định các ngưỡng, các tỷ số tha mchiếu. đẻ đánh giá tình hình tài chính cỷa một doanh nghiệp cần so sánh các tỷ số của doanh nghiệp với các tỷ số tham chiếu. Như vậy, phương pháp so sánh luôn được sử dụng, kết hợp với các phương pháp phân tích tài chính khác. Khi phân tích, nhà phân tích thường so sánh theo thời gian ( so sánh kỳ này với kỳ trước) để nhận biết xu hướng thay đổi tình hình tài chinh của doanh nghiệp, theo không gian ( so sánh với mức trung bìh ngành) để đánh giá vị thế của doanh nghiệp trong ngành. Bên cạnh đó, các nhà phân tích còn sử dụng phương pháp phân tích tài chính Dupont. Với phương pháp này, các nhà phân tích sẽ nhận biết được các nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tốt xấu trong hoạt động của doanh nghiệp. Bản chất của phương pháp này là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh mức sinh lợi của doanh nghiệp như thu nhập trên tài sản ( ROA), thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu ( ROE) thành tích số của chuỗi các tỷ số có mối quan hệ nhân quả với nhau. Điều đó cho phép phân tích ảnh hưởng của các tỷ số đó đối với tỷ số tổng hợp. 1.2.2.2 Nội dung phân tích tài chính Phân tích các tỷ số tài chính Trong phân tích tài chính, các tỷ số tài chình chủ yếu thường được phân thành 4 nhóm chính : + Tỷ số về khả năng thanh toán : Đây là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp + Tỷ số về khả năng cân đối vốn hoặc cơ cấu vốn của doanh nghiệp : Nhóm chỉ tiêu này phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp. + Tỷ số về khả năng hoạt động : Đây là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho việc sử dụng tài nguyên, nguồn lực của doanh nghiệp. + Tỷ số về khả năng sinh lãi : Nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sản xuất- kinh doanh tổng hợp nhất của một doanh nghiệp. Tuỳ theo mục tiêu phân tích tài chính mà nhà phân tích chú trọng nhiều hơn tới nhóm tỷ số ngày hay nhóm tỷ số khác. Chẳng hạn, các chủ nợ ngắn hạn đặc biệt quan tâm tới tình hình khả năng thanh toán của người vay. Trong khi đó, các nhà đầu tư dài hạn quan tâm nhiều hơn đến khả năng hoạt động và hiệu quả sản xuất – kinh doanh. Họ cũng cẩn nghiên cứu tình hình về khả năng thanh toán để đánh giá khả năng của doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu thanh toán hiện tại và xem xét lợi nhuận để dự tính khaảnăng trả nợ cuối cùng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, họ cũng chú trọng tới tỷ số về cơ cấu vốn vì sự thay đổi tỷ số này sẽ ảnh hưởng đáng kể tới lợi ích của họ. Mỗi nhóm tỷ số trên bao gồm nhiều tỷ số và trong tứng trường hợp các tỷ số được lựa chọn sẽ phụ thuộc vào bản chất, quy mô của những hoạt động phân tích. Phần tiếp theo sẽ đề cập đến nhưũng tỷ số chủ yếu nhât, phổ biến nhất được dùng trong phân tích, đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp. Tuy nhiên việc phân tích các tỷ số này sẽ có ý nghĩa hơn nếu sử dụng số liệu trong các báo cáo tài chính để minh hoạ bản chất, cách tính toán và ý nghĩa của các tỷ số. Các tỷ số về khả năng thanh toán Tài sản lưu động + Khả năng thanh toán hiện hành = ____________________________ Nợ ngắn hạn Tài sản lưu động thông thường bao gồm tiền, các chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển nhượng ( tương đương tiền), các khoản phải thu và dự trữ ( tồn kho) ; còn nợ ngắn hạn thương bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, các khoản phải trả nhà cung cấo, các khoản phải trả, phải nộp khác…Cả tài sản lưu động và nợ ngắn hạn đều có thời hạn nhất định - tới một năm. Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, nó cho biêt mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó. + Để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn khi đến hạn, các n._.hà phân tích còn quan tâm đến chỉ tiêu vốn lưu động ròng ( net working capital) hay vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cũng là một yếu tố quan trọng và cần thiết cho việc đánh giá điều kiện cân bằng tài chính của một doanh nghiệp. Vốn lưu động ròng = tổng tài sản lưu động - tổng nợ ngắn hạn Khả năng đáp ứng nghĩa vụ thanh toán, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và khả năng nắm bắt thời cơ thuận lợi của nhiều doanh nghiệp phụ thuộc phần lớn vào vốn lưu động ròng. Do vậy, sự phát triển của không ít doanh nghiệp còn được thể hiện ở sự tăng trưởng vốn lưu động ròng. + Tỷ số khả năng thanh toán nhanh : Là tỷ số giữa các tài sản quay vòng nhanh với nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đối thành tiền bao gồm : Tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Tài sản dự trữ ( tồn kho) là các tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu động và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Do vậy, tỷ số khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ ( tồn kho) Tài sản lưu động - Dự trữ Khả năng = ------------------------------------------------------ thanh toán nhanh Nợ ngắn hạn + Tỷ số dự trữ ( tồn kho) trên vốn lưu động ròng : Tỷ số này cho biết dự trữ chiếm bao nhiêu phần trăm vốn lưu động ròng. Các tỷ số về khả năng cân đối vốn Tỷ số này được dùng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ đối với doanh nghiệp và có ý nghĩa quan trọng trong phân tích tài chính. Bởi lẽ, các chủ nợ nhìn vào số vốn của chủ sở hữu công ty để thể hiện mức độ tin tưởng vào sự đảm bảo an toàn cho các món nợ. Nếu chủ sở hữu doanh nghiệp chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng số vốn thì rủi ro xảy ra trong sản xuất – kinh doanh chủ yếu do các chủ nợ gánh chịu. Mặt khác, bằng cách tăng vốn thông qua vay nợ, các chủ doanh nghiệp vẫn nắm quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Ngoài ra, nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận từ tiền vay thì lợi nhuận dành cho các chủ doanh nghiệp sẽ gia tăng đáng kể. Tỷ số nợ trên tổng tài sản ( hệ số nợ ) : Tỷ số này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với các chủ nợ trong việc góp vốn. Thông thường các chủ nợ thích tỷ số nợ trên tổng tài sản vừa phải vì tỷ số này càng thấp thì khoản nợ càng được đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đó, các chủ sở hữu doanh nghiệp ưu thích tỷ số này cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng nahnh và muốn toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Song, nếu tỷ số nợ quá cao, doanh nghiệp dễ bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Khả năng thanh toán lãi vay hoặc số lần có thể trả lãi : Thể hiện ở tỷ số giữa lợi nhuận trước thuế và lãi trên lãi vay. Nó cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng thanh trả lãi hàng năm như thế nào. Việc không trả nợ các khoản này sẽ thể hiện khả năng doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản. Các tỷ số về khả năng hoạt động Các tỷ số hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Vốn của doanh nghiệp được dùng để đầu tư cho các loại tài sản khác nhau như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm đến việc đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài sản mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành tổng tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh thu được sử dụng chủ yếu trong tính toán các tỷ số này để xem xét khả năng hoạt động của doanh nghiệp Vòng quay tiền Tỷ số này được xác định bằng cách chia doanh thu ( DT) trong năm cho tổng số tiền và các loại tài sản tương đương tiền bình quân ( chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển nhượng) ; nó cho biết số vòng quay của tiền trong năm. Vòng quay dự trữ ( tồn kho)Là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh cảu doanh nghiệp, vòng quay dự trữ được xác định bằng tỷ số giữa doanh thu trong năm và giá trị dự trữ (nguyên vật liệu, vật liệu phụ, sản phẩm dở dang, thành phẩm) bình quân. Kỳ thu tiền bình quân = các khoản phải thu x 360/DT Trong phân tích tài chính, kỳ thu tiền được sử dụng để dánh giá khả năng thu tiền trong thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu bình quân một ngày. Các khoản phải thu lớn hay nhỏ phụ thuộc vào chính sách tín dụng thương mại của doanh nghiệp và các khoản trả trước. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định tào ra được bao nhiêui đồng doanh thu trong một năm. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định = DT/TSCD Tài sản cố định ở được được xác định theo giá trị còn lại đến thời điểm lập báo cáo. Hiệu suất sử dụng tổng tài sản : Chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay của toàn bộ tài sản, nó được đo bằng tỷ số giữa donah thu và tổng tài sản và cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = DT/TS Các tỷ số về khả năng sinh lãi Nếu như các nhóm tỷ số trên đây phản ánh hiệu quả từng hoạt động riêng biệt của doanh nghiệp thì tỷ số về khả năng sinh lãi phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất – kinh doanh và hiệu năng quản lý doanh nghiệp. Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = TNST/DT Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia thu nhập sau thuế ( lợi nhuận sau thuế) cho doanh thu. Nó phản ánh số lợi nhuận sau thuế trong một trăm đồng doanh thu Tỷ số thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu ( doanh lợi vốn chủ sở hữu) : ROE ROE = TNST/ VCSH Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu được xác định bằng cách chia thu nhập sau thuế cho vốn chủ sở hữu. Nó phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là một mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp Doanh lợi tài sản : ROA ROA = TNTT và L/ TS ROA = TNST / TS Đây là một chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư. Tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể cảu doanh nghiệp được phân tích và phạm vi so sánh mà người ta lựa chọn thu nhập trước thuế và lãi hoặc thu nhập sau thuế để so sánh với tổng tài sản Ngoài các tỷ số trên đây, các nhà phân tích cũng đặc biệt chú ý tới viêc jtính toán và phana tích những tỷ số liên quan tới các chủ sở hữu và giá trị thị trường. Thu nhập sau thuế Tỷ lệ hoàn vốn cổ phần = ___________________ Vốn cổ phần Thu nhập sau thuế Thu nhập cổ phiếu = ______________________ Số lượng cổ phiếu thường Lãi cổ phiếu Tỷ lệ trả cổ tức = ____________________ Thu nhập cổ phiếu Giá cổ phiếu Tỷ lệ giá/ lợi nhuận = ___________________ Thu nhập cổ phiếu Lãi cổ phiếu Tỷ lệ _____________  ; …….. Giá cổ phiếu  Phương pháp phân tích tài chính DUPONT nhằm đánh giá tác động tương hỗ giữa các tỷ số tài chính, nhà phân tích có thể thực hiện việc tách ROE (Thu nhập sau thuế/ Vốn chủ sở hữu) như sau : Tách ROE ROE = TNST/ VCSH = TNST/TS x TS/VCSH = ROA x EM ( số nhân vốn) ROE phản ánh mức sinh lời của một đồng vốn chủ sở hữu - Mức tăng giá trị tài sản cho các chủ sở hữu. Còn ROA ( Thu nhập sau thuế/ Tài sản) phản ánh mức sinh lời của toàn bộ danh mục tài sản của doanh nghiệp - Khả năng quản lý tài sản của các nhà quản lý doanh nghiệp. EM là hệ số nhân vốn chủ sở hữu, nó phản ánh mức độ huy động vốn từ bên ngoài của doanh nghiệp. Nếu EM tăng, điều đó chứng tỏ doanh nghiệp tăng vốn huy động từ bên ngoài. Tách ROA ROA = TNST/TS = TNST/DT x DT/TS = PM x AU PM : Doanh lợi tiêu thụ phản ánh tỷ trọng lợi nhuận sau thuế trong doan hthu của doanh nghiệp. Khi PM tăng, điều đó thể hiện doanh nghiệp quản lý doanh thu và quản lý chi phí có hiệu quả AU : hiệu suất sử dụng tài sản của doanh nghiệp Như vậy, qua hai lần phân tích, ROE có thể được biến đổi như sau : ROE = PM x AU x EM Đến đây, có thể nhận biết được các yếu tố cơ bản tác động tới ROE của một doanh nghiệp. Đó là khả năng tăng doanh thu, công tác quản lý chi phí, quản lý tài sản, và đòn bẩy tài chính. Tách PM và AU PM = TNST /DT TNST = Doanh thu – chi phí - Thuế thu nhập doanh nghiệp Doanh thu = Doanh thu từ hoạt động kinh doanh, từ hoạt động đầu tư, tài chính, từ hoạt động bất thường. Tài sản = Tài sản lưu động + Tài sản cố định Các thành phần trên lại được phân tách chi tiết hơn tuỷ theo mục tiêu cần đạt của nhà phân tích. Với trình tự tách đoạn như trên, có thể xác định các nguyên nhân làm tăng giảm ROE của doanh nghiệp. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn Trong phân tích nguồn vốn và sử dụng vốn, người ta thường xẽmét sự thay đổi của các nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của một doanh nghiệp trong một thời kỳ theo số liệu giữa hai thời điểm lập Bảng cân đối kế toán. Một trong những công cụ hữu hiệu của nhà quản lý tài chính là bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn ( bảng tài trợ). Nó giúp nhà quản lý xác định rõ các nguồn cung ứng vốn và việc sử dụng các nguồn vốn đó. Để lập được bảng này, trước hết phải liệt kê sự thay đổi các khoản mục trên Bảng cân đối kế toán từ đầu kỳ đến cuối kỳ. Mỗi sự thay đổi được phân biệt ở hai cột : Sử dụng vốn và nguồn vốn theo nguyên tắc : Nếu các khoản mục bên tài sản tăng hoặc các khoản mục bên nguồn vốn giảm thì điều đó thể hiện việc sử dụng vốn. Nếu các khoản mục bên tài sản giảm hoặc các khoản mục bên nguồn vốn tăng thì điều đó thể hiện việc tạo nguồn. Ngoài việc phân tích việc sử dụng vốn và nguồn vốn, người ta còn phân tích tình hình tài chính theo luồng tiền để xác định sự tăng ( giảm) tiền và nguyên nhân tăng giảm tiền. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp sẽ có những biện pháp quản lý ngân quỹ tốt hơn. Phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian : Trong phân tích tài chính, các nhà phân tích thường kết hợp chặt chẽ những đánh giá về trạng thái tĩnh với những đánh giá vè trạgn thái động để đưa ra một bức tranh toàn cảnh về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu như trạng thái tĩnh được thể hiện qua Bảng cân đối kế toán thì trạng thái động ( sự dịch chuyển của các dòng tiền) được phản ánh qua bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn ( Bảng tài trợ), qua báo cáo kết quả kinh doanh. Thông qua các báo cáo tài chính này, các nhà phân tích có thể đánh giá sự thay đổi về vốn lưu động ròng, về nhu cầu vốn lưu động, từ đó, có thể đánh giá những thay đổi về ngân quỹ của doanh nghiệp. Như vậy, giữa các báo cáo tài chính có mối liên quan rất chặt chẽ : những thay đổi trên Bảng cân đối kế toán được lập đầu kỳ và cuối kỳ cùng với khả năng tự tài trợ được tính từ báo cáo Kết quả kinh doanh được thể hiện trên Bảng tài trợ và liên quan mật thiết tới ngân quỹ của doanh nghiệp. Khi phân tích trạng thái động, trong một số trường hợp nhất định, người ta còn chú trọng tới các chỉ tiêu quản lý trung gian nhằm đánh giá chi tiét hơn tinh hình tài chính và dự báo những điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp. Những chỉ tiêu này là cơ sở để xác lập nhiều hệ số ( tỷ lệ) rất có ỹ nghĩa về hoạt động, cơ cấu vốn, …của doanh nghiệp. Lãi gộp = Doanh thu – Giá vốn hàng bán Thu nhập trước = Lãi gộp – Chi phí bán hàng, quản lý khấu hao và lãi (không kể khấu hao và lãi vay) Thu nhập trước = Thu nhập trước – Khấu hao thuế và lãi khấu hao và lãi Thu nhập = Thu nhập trước _ Lãi vay trước thuế thuế và lãi Thu nhập = Thu nhập _ Thuế thu nhập sau thuế trước thuế doanh nghiệp Trên cơ sở, nhà phân tích có thể xác định mức tăng tuyệt đối và mức tăng tương đối của các chỉ tiêu qua các thời kỳ để nhận biết tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Đồng thời, nhà phân tích cũng cần so sánh chúng với các chỉ tiêu cùng loại của các doanh nghiệp cùng ngành để đánh giá vị thế của doanh nghiệp. 1.3 Chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của ngân hàng 1.3.1Khái niệm : Chất lượng nói chung là giá trị về mặt lợi ích Theo thuật ngữ kinh tế học : Chất lượng là toàn bộ các đặc tính của một hàng hoá hoặc dịch vụ đáp ứng được yêu cầu của người mua. Vật liệu, kiểu dáng và chế biến là những đặc điểm quan trọng của chất lưọng, ảnh hưởng đến việc tiêu dùng sản phẩm đó. Như vậy, có thể định nghĩa chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại là toàn bộ các đặc tính của phân tích đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng. Thông tin và phương pháp xử lý thông tin, sự phù hợp của các chỉ tiêu phân tích là những đặc điểm quan trọng của chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp, ảnh hưởng đến việc sử dụng kết quả phân tích đó. Chất lượng trong phân tích tài chính doanh nghiệp là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động cho vay. Chất lượng phân tích tài chính tốt sẽ hạn chế được nhiều rủi ro, giảm bớt được các chi phí kiểm soát trong khi cho vay, chi phí thui hồi nợ xấu, chi phí phát mãi tài sản trong trường hợp xấu nhất, đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. 1.3.2 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp Độ chính xác của kết quả phân tích : Sự chính xác bao giờ cũng là thiết yếu trong mọi hoạt động nói chung phục vụ việc đưa ra các quyết định. Độ chính xác trong hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp được thể hiện ở số liệu đầu vào để phân tích, các chỉ tiêu và các phương pháp phân tích. Kết quả phân tích tài chính doanh nghiệp chính xác, có chất lượng cao giúp cho doanh nghiệp có thể dễ dàng giám sát và quản lý hơn đối với các khoản vay. Tuy nhiên, ngoài sự chính xác về mặt con số, chất lượng phân tích tài chính còn phụ thuộc rất nhiều vào sự phù hợp của các chỉ tiêu với mục đích sử dụng kết quả phân tích đó. Thời gian và chi phí phân tích tài chính doanh nghiệp : Dù độ phân tích có chính xác, tỷ mỷ nhưng không nhanh chóng kịp thời thì ngân hàng không thể phục vụ khách hàng kịp thời, khách hàng sẽ mất cơ hội kinh doanh, như vậy việc phân tích không đạt yêu cầu, trở lên vô nghĩa. Chất lượng phân tích tốt còn được đánh giá cả trên góc độ thời gian thực hiện phân tích. Bên cạnh việc giảm thời gian phân tích, tối thiểu hoá chi phí cũng là yếu tố góp phần nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp. Tối đa hoá lợi nhuận, hạn chế rủi ro là mục tiêu hàng đầu của các ngân hàng, nên việc cân đối chi phí cho các mục tiêu khác nhau cũng được ngân hàng hết sức chú trọng Tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn / tổng dư nợ : Chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp được phản ánh trực tiếp bằng tỷ lệ nợ quá hạn hoặc tỷ lệ nợ quá hạn/ tổng dư nợ. Kết quả phản ánh được phần lớn quá trình. Trong hoạt động cho vay, phân tích tài chính doanh nghiệp tốt hạn chế được tối đa rủi ro, và tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn / tổng dư nợ thấp. Nhờ thế, doanh thu và lợi nhuận của ngân hàng cũng tăng. Các phân tích không tốt sẽ làm tăng thời gian và chi phí cho việc kiểm soát khoản vay, tăng khả năng rủi ro đối với các khoản vay. Doanh số và lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay : Doanh số và lợi nhuận của một ngân hàng cao thể hiện năng lực hoạt động và uy tín của ngân hàng trên thị trường. Chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp là một yếu tố góp phần làm nâng cao doanh số và lợi nhuận của ngân hàng thu được từ hoạt động cho vay. Ngoài các yếu tố khách quan từ thị trường ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả doanh thu của ngân hàng thì một ngân hàng có chất lượng phân tích tốt sẽ có kết quả tốt hơn. Xác định các chỉ tiêu phản ánh chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp giúp cho ngân hàng xác định được các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng phân tích. 1.4 Các nhân tố ảnh hưởng tới phân tích tài chính doanh trong hoạt động cho vay của ngân hàng 1..4.1 Nhân tố chủ quan từ phía ngân hàng 1.4.1.1 Nội dung phân tích Mỗi một ngân hàng tự lập ra một quy trình tín dụng làm chuẩn và thực hiện theo đó dựa trên những mục tiêu và giá trị của mỗi ngân hàng. Theo đó, khi phân tích tài chính doanh nghiệp, mỗi ngân hàng cũng sẽ có những tiêu chí đánh giá có sự khác biệt, và chú trọng đặc biệt vào một số chỉ tiêu chính. Tuy nhiên tựu chung lại, nội dung phân tích tài chính cần thiết đáp ứng được tối thiểu yêu cầu ngắn gọn nhưng đầy đủ các chỉ tiêu để có thể phản ánh đúng được năng lực tài chính của khách hàng, từ đó ngân hàng mới đưa ra các quyết định. Các chỉ tiêu được đưa ra phân tích trên các phương pháp khác nhau tuỳ theo đối tượng, và hoàn cảnh. Một cán bộ tín dụng giỏi phân tích là một cán bộ biết áp dụng linh hoạt quy trình, phương pháp phân tích cho đúng đối tượng, đúng hoàn cảnh. Thế nên, đối với các khoản vay khác nhau, mục đích khác nhau, lĩnh vực khác nhau thì quy trình và phương pháp cần lựa chọn phù hợp để đạt được hiệu quả cao nhất. 1.4.1.2 Trình độ, phẩm chất của cán bộ tín dụng Trong mọi hoạt động, con người luôn đóng vai trò trung tâm, có thể nói là quyết định.Do đó, hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay cũng vậy phụ thuộc rất nhiều vào nhân tố con người, là các cán bộ tín dụng trực tiếp phụ trách thực hiện hoạt động này. Trong một điều kiện hỗ trợ, tức là mọi thông tin về doanh nghiệp đều được cung cấp đầy đủ, minh bạch thì chất lượng phân tích hoàn toàn phụ thuộc vào cán bộ tín dụng. Nếu trình độ chuyên môn hay phẩm chất đạo đức của cán bộ tín dụng không tốt, chất lượng phân tích thấp, ngân hàng sẽ gặp phải rủi ro lớn trong việc thu lãi và nợ gốc do năng lực tài chính của người đi vay không được đánh giá chính xác. 1.4.2 Nhân tố thuộc về doanh nghiệp Các nhân tố chủ quan từ phía doanh nghiệp như chất lượng thông tin do doanh nghiệp cung cấp, đạo đức của người đi vay cũng ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp của ngân hàng. Xác định được các nhân tố bên ngoaiù sẽ giúp ngân hàng đưa ra các biện pháp thích hợp để nâng cao chất lượng phân tích. Xác định được các nhân tố bên ngoài sẽ giúp ngân hàng đưa ra được các biện pháp thích hợp để nâng cao chất lượng phân tích. 1.4.2.1 Chất lượng thông tin do doanh nghiệp cung cấp Thông tin đầu vào phân tích là vô cùng quan trọng. Thông tin cho phân tích đòi hỏi chính xác, đầy đủ và kịp thời. Một phân tích với đầy đủ các điều kiện hỗ trợ, thông tin đầu vào là yếu tố mấu chốt để đưa ra một kết quả chính xác. Nếu ngân hàng không nắm được cụ thể được tình hình tài chính của doanh nghiệp, kể cả nhưng thay đổi bất thường trong hoạt động của doanh nghiệp sẽ dễ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời là cơ sở để cán bộ phân tích đưa ra các kết luận đúng đắn và phù hợp. Không phải bao giờ ngân hàng cũng có thể tiếp cận được thông tin khách quan chính xác từ phía doanh nghiệp một cách dễ dàng. Cán bộ tín dùng cần tham khảo các thông tin bên ngoài, những thông tin được lưu giữ tại ngân hàng, những thông tin từ trung tâm tín dụng CIC, hoặc những thông tin từ các nguồn khác. Thu thập được thông tin cũng mời chỉ là bước đầu, việc xác minh và lựa chọn thông tin mới là bước cốt yếu phục vụ quá trình phân tích. Thực tế, không phải hiếm các trường hợp người đi vay làm giả số liệu, giả hồ sơ, dựng lên các dự án không có thật, làm sai sự thật với mục đích vay tiền ngân hàng để chi tiêu cho các mục đích khác nhau mà nếu ngân hàng không có sự kiểm soát chặt chẽ không tránh khỏi gặp rủi ro. Không loại trừ trường hợp, doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính, làm ăn thua lỗ muốn chiếm dụng vốn của ngân hàng nên cung cấp các thông tin sai lệch. Việc thông tin sai phản ánh vào kết quả phân tích, lúc này kết quả phân tích hoàn toàn vô giá trị trong khi ngân hàng phải tốn thời gian, công sức, chi phí. Vấn đề đạo đức là một vấn đề khá khó khăn mà các nhà ngân hàng thường xuyên gặp phải, do vậy, cán bộ tín dung luôn phải tỉnh táo để lựa chọn ra những thông tin chính xác nhằm phục vụ mục đích phân tích để ra quyết định có cho vay hay không, làm giảm rủi ro cho ngân hàng. 1.4.3 Các nhân tố khác 1.4.3.1 Các nhân tố bất khả kháng Dù có mọi điều kiện thuận lợi, về thông tin cung cấp bới doanh nghiệp, sự đảm bảo về trình độ chuyên môn cũng như phẩm chất đạo đức của cán bộ tín dụng thì chất lượng của phân tích cũng chưa hoàn toàn đảm bảo chắc chắn nếu như các biến số về kinh tế thay đổi không như dự đoán ban đầu. Một số tác nhân bất khả kháng như thiên tai, dịch bệnh, … dẫn đến biến động thị trường. Trong trường hợp đó thì thiệt hại không phải chỉ một người phải chịu nên khó tránh khỏi những thiệt hại không đáng có, dẫn đến tình trạng doanh nghiệp mất khả năng chi trả. Với kết quả như vậy thì không thể nói chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp được đảm bảo. 1.4.3.2 Các quy định của pháp luật Vì hoạt động của ngân hàng có liên hệ mật thiết với nhau, nếu một ngân hàng có rủi ro thì ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống, ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Do đó, Chính phủ và ngân hàng nhà nước phải đặt ra các quy định nhằm hạn chế các rủi ro này, kể cả đối với quy tình cho vay và phân tích. Nhờ đó, các ngân hàng thương mại khi cho vay đều phải tuân thủ các quy trình này. Chính sách tốt, quy định chặt chẽ đối với hoạt động cho vay, quy trình phân tích sẽ góp phần nâng cao chất lượng phân tích tài chình doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại. 1.4.3.3 Khoa học kỹ thuật Ngân hàng áp dụng những công nghệ mới hiện đại sẽ giúp cho quá trình phân tích nhanh chóng, chính xác hơn. Ngoài ra hệ thống thông tin hiện đại giúp cho việc lưu trữ thông tin về các doanh nghiệp được đầy đủ hơn, ngân hàng có thể tra cứu dễ dàng, ít tốn thời gian và tiền bạc. Chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay nhờ vậy được nâng cao. Trên đây là phần lý thuyết cơ bản liên quan đến chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại. Thực trạng vấn đề này tại ngân hàng thương mại cổ phần quân đội sẽ được trình bày ở chương tiếp theo. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI 2.1 Khái quát về ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội : 2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng cổ phần quân đội Ngân hàng cổ phần quân đội được thành lập năm 1994 theo quyết định thành lập số 00374/GB – UB của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội. Ngày 4/11/1994, ngân hàng chính thức đi vào hoạt động theo giấy phép số 0054/NH – GB của Ngân hàng nhà nước Việt Nam với số vốn điều lệ là 20 tỷ đồng, thời gian hoạt động là 50 năm. Mục tiêu ban đầu của ngân hàng là đáp ứng nhu cầu về vốn của các Doanh nghiệp quân đội làm kinh tế.Cùng với quá trình phát triển kinh tế của đất nước, với đường lối chính sách đúng đắn, Ngân hàng Quân đội đã gặt hái được nhiều thành công. Ngân hàng không những đã đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp Quân Đội mà còn phục vụ hiệu quả tất cả các thành phần kinh tế, đóng góp một phần quan trọng vào sự phát triển của khách hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Trong suốt hơn 12 năm vừa qua, Ngân hàng Quân Đội luôn đảm bảo sự phát triển liên tục và ổn định, thể hiện ở một số chỉ tiêu: - Tổng vốn điều lệ của ngân hàng đến 31/12/2006 đạt 1045,2 tỷ đồng, tăng 132,2% so với đầu năm và tăng 52,26 so với ngày đầu thành lập. - Tổng tài sản của ngân hàng đến ngày 31/12/2006 đạt 13 529 tỷ đồng, tăng 64,7% so với đầu năm và tăng 420 lần so với ngày đầu thành lập. - Tổng vốn huy độn đạt 11 940 tỷ, tăng 60,9% so với đầu năm và tăng 1124 lần so với ngày đầu thành lập. - Tổng dư nợ đạt 6 195 tỷ, tăng 38,6% so với đầu năm và tăng 411 lần so với ngày đầu thành lập. - Lợi nhuận trước thuế năm 2006 đặt 252,8 tỷ, tăng 69% so với cùng kỳ và tăng gấp 1100 lần so với ngày đầu thành lập.Như vậy, tổng lợi nhuận trước thuế của Ngân hàng kể từ khi thành lập đạt đến 910 tỷ đồng. Với kết quả hoạt động như vậy ngân hàng Quân Đội luôn duy trì tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản và tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu ở mức cao, đảm bảo tốt quyền lợi của cổ đông, duy trì mức cổ tức hàng năm từ 15-20%. - Mạng lưới ngân hàng Quân đội liên tục phát triển. Từ một điểm giao dịch đầu tiên, đến nay ngân hàng đã có 40 chi nhánh và điểm giao dịch trên toàn quốc, có hơn 500 ngân hàng đại lý trên toàn thế giới. - Đội ngũ nhân viên của ngân hàng không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Từ 20 nhân viên ngày đầu mới thành lâp, hiện nay ngân hàng đã có hơn 800 nhân viên với trình độ và tính chuyên nghiệp ngày càng cao. Nếu tính các công ty trực thuộc thì Ngân hàng có hơn 1000 người. 2.1.2 Vị thế trong ngành ngân hàng  Hiện nay, vị thế của ngân hàng trong khối các Ngân hàng cổ phần ngày càng được tăng lên. Tại Việt Nam, đến 12/2006 có 5 NHTMNN, 2 Ngân hàng chính sách (Ngân hàng chính sách xă hội và Ngân hàng Phát triển Việt Nam), 38 NHTMCP, 4 Ngân hàng Liên doanh, 35 Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 46 văn phòng đại diện của các định chế tín dụng nước ngoài và hệ thống hơn 900 quỹ tín dụng nhân dân, 11 công ty cho thuê tài chính và 6 công ty tài chính. Như vậy, số lượng các ngân hàng là khá nhiều so với quy mô nền kinh tế Việt Nam, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các Ngân hàng, nhất là trong giai đoạn Việt Nam đang hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Tính đến cuối năm 2006, 5 NHTM lớn của Nhà nước ước tính chiếm khoảng 70% vốn huy động và 70% dư nợ cho vay toàn thị trường. Các NHTM còn lại và các ngân hàng nước ngoài chia sẻ thị huy động vốn và 30% thị phần cho vay còn lại. Như vậy, thị trường ngân hàng vẫn có độ tập trung cao vào các NHTMNN. Nếu so trong khối các NHCP có trụ sở chính tại Hà Nội thì Ngân hàng Quân đội có thị phần huy động vốn từ thị trường cấp 1 cao nhất, chiếm 21,24%. Cho vay chiếm 14,52% thị phần, vốn điều lệ chiếm 14,94%, tổng tài sản chiếm 15,44%. Nếu so với khối NHCP nói chung thì Ngân hàng Quân đội chiếm 6,8% vốn huy động từ thị trường 1, chiếm 4,7% dư nợ. Có được những kết quả đáng ghi nhận trên là do Ngân hàng Quân đội đã tập trung khai thác tốt thế mạnh của mình tạo dựng vị thế trên thị trường. Cụ thể : Về huy động vốn, Ngân hàng Quân đội không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ, triển khai nhiều sản phẩm huy động vốn mới, đặc biệt là các chương trình Tiết kiệm dự thưởng trong các năm qua được khách hàng đánh giá rất cao. Thương hiệu MB ngày càng được củng cố và tăng cường, được khách hàng tin tưởng. Về hoạt động tín dụng, so với các ngân hàng CP khác, Ngân hàng Quân đội đã triển khai thành công các sản phẩm cho vay mua ô tô trả góp, cho vay đồng tài trợ.. Về thanh toán Quốc tế, Ngân hàng Quân Đội đã triển khai thành công các chương trình tài trợ đổi hàng liên chính phủ, thiết lập được nhiều mối quan hệ hợp tác đối với các Ngân hàng đại lý. Trong những năm gần đây, hạn mức thanh toán L/C mà các Ngân hàng đại lý cấp cho Ngân hàng Quân đội liên tục tăng. Về hoạt động bảo lãnh, Ngân hàng Quân đội là ngân hàng cổ phần có số phí bảo lãnh cao nhất trong số các NHCP Về hoạt động kinh doanh vốn và ngoại tệ, quan hệ giao dịch interbank của Ngân hàng Quân đội trong những năm qua đã được mở rộng mạnh mẽ. Đến nay có thể khẳng định Ngân hàng Quân đội đã mở rộng và tăng cường mối quan hệ này với tất cả các định chế tài chính hoạt động hiệu quả tại VN. Vị thế giao dịch interbank của Ngân hàng Quân đội đã được củng cố mạnh mẽ qua việc được các đối tác giao dịch tăng hạn mức cho năm 2005 từ 2-5 lần so với năm 2004. 2.1.3 Cơ cấu bộ máy của ngân hàng TMCP Quân đội Sơ đồ bộ máy của ngân hàng TMCP Quân đội Ban kiểm soát Hội đồng quản trị Tổng giám đốc Các uỷ ban cao cấp Phòng kiểm tra, kiểm sóat nội bộ Công ty quản lý quỹ chứng khoán Hà Nội Công ty chứng khoán Thăng Long Công ty AMC Phòng Đầu tư và Dự Án Khối Mạng lưới bán hàng Khối Treasury Khối khách hàng cá nhân Khối khách hàng doanh nghiệp Khối quản lý tín dụng Phòng KHTH & pháp chế Trung tâm CNTT Khối TC – NS - HC Phòng Tài chính - Kế Toán Phòng NCPT và xây dựng chính sách Sở giao dịch và chi nhánh Đại hội đồng cổ đông (Nguồn : Báo cáo thường niên năm 2006 của NH TMCP Quân Đội) 2.2 Kết quả đạt được 2.2.1 Hoạt động huy động vốn: Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng rất đa dạng, linh hoạt, nhằm đáp ứng tốt nhu cầu gửi tiền của khách hàng bao gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh toán của khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp Tiền gửi tiết kiệm Ngân hàng nhận các khoản tiền gửi tiết kiệm bằng VNĐ, USD, EUR với các kỳ hạn khác nhau : Không kỳ hạn, kỳ hạn 1,2,3,6,9,12,13,24,36 tháng với các hình thức trả lãi khác nhau : trả lãi trước, trả lãi cuối kỳ, trả lãi theo yêu cầu của khách hàng, và hình thức tiết kiệm tích luỹ : Là hình thức trong đó khách hàng gửi một khoản tiền cố định đều đặn theo kỳ 1, 3 hoặc 6 tháng trong thời hạn từ 1 đến 18 năm theo thoả thuận để có một khoản tiền thực hiện dự án trong tương lai. Ngoài ra, Ngân hàng Quân đội còn nhận vốn uỷ thác và đầu tư của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước Tiền gửi thanh toán Mở tài khoản tại ngân hàng, khách hàng sẽ được sử dụng các dịch vụ tài khoản: nhận tiền, chuyển tiền và gửi tiền tiện ích, nhanh chóng và hiện đại Hoạt động huy động vốn của ngân hàng Quân đội đều có bước tăng trưởng tốt, ổn định. Trong những năm qua, ngân hàng đã tích cực mở rộng quan hệ, tìm kiếm khách hàng, đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Đồng thời, ngân hàng cũng tăng cường quảng bá hình ảnh, thương hiệu MB, mở rộng các điểm giao dịch trên các địa bàn chiến lược, đông dân cư. Tính đến 31/12/2006, tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng đạt 11.511,42 tỷ đồng, tăng 64% so với đầu năm, bằng 125% kế hoạch năm. Lượng vốn huy động từ dân cư tăng trưởng tốt, đạt 4576,84 tỷ tăng 91,2% so với đầu năm. Đây là một kết quả tăng trưởng khá, thể hiện uy tín và hình ảnh tốt của ngân hàng đối với khách hàng. Đặc biệt, lượng tiền gửi không kỳ hạn của cá nhân tăng trưởng cao, đạt 158,31 tỷ đồng, tăng 165, 8% so với đầu năm.Tiền gửi của các tổ chức kinh tế tính đến 31/12/2006 đạt 5174,92 tỷ đồng, tăng 66% so với đầu năm.Trong năm 2006, thị trường vốn liên ngân hàng có sự dư thừa. Tuy vậy, ngân hàng đã tham gia khá tích cực vào thị trường liên ngân hàng nâng số dư tiền gửi tại các tổ chức tín dụng lên 5716 tỷ đồng và đã tạo ra nguồn thu đáng kể từ hoạt động kinh doanh vốn trên thị trường liên ngân hàng Trong hai năm qua, ngân hàng quân đội đã triển khai thành công các chương trình Tiết kiệm dự thưởng, góp phần thu hút một lượng lớn tiền gửi của khách hàng. Lượng tiền gửi dân cư trong những năm qua cũng có sự tăng trưởng vượt bậc. Trong đó, năm 2005, lượng tiền gửi của dân cư tăng 60% so với năm 2004, năm 2006 tăng 91,2% so vớ._.ng phân tích tài chính doanh nghiệp. Kết quả phân tích tài chính cũng là một trong số những nguyên nhân chủ yếu gây ra thiệt hại do nợ xấu. Giống như hầu hết các ngân hàng, ngân hàng TMCP Quân đội khi cho vay yêu cầu tài sản đảm bảo nên nhiều khi chưa chú trọng vào phân tích tài chính của doanh nghiệp, chưa chú trọng phân tích cá yếu tố khác. Không chỉ đối với các dự án lớn, do muốn hạn chế tối đa rủi ro các khoản vay nên các khâu trong quá trình thẩm định mất khá nhiều thời gian, điều này đôi khi gây khó khăn cho chủ đầu tư. 2.4.2 Nguyên nhân : Chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp cần thiệt phải luôn luôn được cải thiện nhằm hạn chế những thiếu sót còn tồn tại trong hoạt động này tại ngân hàng. Để thực hiện điều này, ta phải chỉ ra một số nguyên nhân chủ yếu để tìm cách khắc phục : Đầu tiên phải kể đến phần nội dung phân tích, dù quy trình phân tích đã được xây dựng chi tiết và tỉ mỉ nhưng trên thực tế trong mọi hoàn cảnh những nội dung này không được tuân thủ tuyệt đối. Trong số 4 báo cáo tài chính ( bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính) thì cơ sở dựa trên chủ yếu thường chỉ là bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh còn báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính thường không được chú trọng. Phần vì, doanh nghiệp cố tình không cung cấp, do nhiều lý do, nhưng đa số là do trình độ chuyên môn còn hạn chế nên ko thường xuyên theo dõi các báo cáo này. Phần vì ngân hàng cũng không chú trọng vào những báo cáo này trong khi dựa vào báo lưu chuyển tiền tệ, người ta có thể theo dõi sự chênh nhau giữa doanh thu và thực thu, chi phí và thực chi. Ngoài ra, việc so sánh các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp đi vay với các doanh nghiệp khác trong cũng một ngành không phải là một việc đơn giản khi thông tin không được cung cấp đầy đủ, nên ngân hàng cũng không nhất thiết tiến hành cẩn thận. Về phương pháp để sử dụng trong phân tích, ngân hàng áp dụng chủ yếu phương pháp tỉnh tỷ số, ngoài ra chưa chú ý khai thác một số phương pháp khác như phương pháp phân tích Dupont ( phương pháp có thể cho thấy sự ảnh hưởng tương đối của từng tỷ số tới các tỷ số tổng hợp ROA, ROE) Thứ hai, nguyên nhân từ phía doanh nghiệp, chất lượng thông tin do doanh nghiệp cung cấp chưa cao. Chất lượng thông tin này chưa đảm bảo do trình độ, năng lực của doanh nghiệp còn hạn chế, ngoài ra còn do đạo đức của người đi vay. Doanh nghiệp nào cũng mong muốn vay được tiền của ngân hàng trong khi năng lực trả nợ kém. Do đó một số doanh nghiệp do muốn thực hiện được mục đích của mình đã tìm mọi cách để làm sai lệch thông tin nhằm chiếm dụng vốn vay của ngân hàng. Nếu không cảnh giác, ngân hàng khó có thể tránh khỏi những tổn thất không đáng có, và ảnh hưởng đến tiêu cực đến nền kinh tế nói chung. Vì thế, CBTD ngân hàng cần nâng cao cảnh giác và thận trọng trong việc thẩm tra các thông tin do doanh nghiệp cung cấp, nhất là các doanh nghiệp lần đầu tiên có mối quan hệ tín dụng với ngân hàng. Thứ ba, mặc dù cán bộ tín dụng của ngân hàng đều có trình độ chuyên môn tương đối cao, phẩm chất đạo đức tốt nhưng tuổi đời vẫn còn rất trẻ và chưa có nhiều kinh nghiệm. Dù trong công tác nhanh nhẹn và sáng tạo nhưng cũng còn thiếu sót. Hơn nữa, họ cũng phải gánh vác một khối lượng công việc tương đối lớn, áp lực về thời gian, công việc đôi khi không cho kết quả mong muốn. Thứ tư, cơ sở vật chất kỹ thuật đang được dần đầu tư và hoàn thiện nhưng chưa hoàn toàn đạt yêu cầu. Thực tế hệ thống mạng nội bộ và mạng internet còn rất chậm, không hỗ trợ tối ưu công tác phân tích của cán bộ. Thứ năm, những quy định của Chính phủ và của ngân hàng nhà nước chưa hoàn toàn đầy đủ và có tính cưỡng chế cao do còn nhiều sơ hở. Vấn đề minh bạch tài chính chưa được thực hiện nghiêm chỉnh, ngoài những doanh nghiệp lớn hoặc niêm yết chứng khoán trên sàn mới tự giác kiểm toán báo cáo tài chính. Tuy nhiên các báo cáo kiểm toán này cũng còn nhiều hạn chế vì công ty kiểm toán cũng không thể xác minh toàn bộ nội dung thông tin để đưa ra ý kiến xác đáng nhất. Tóm lại, chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp của ngân hàng TMCP Quân đội đã tương đối tốt. Tuy nhiên bên cạnh các kết quả đạt được, ta không thể phủ nhận nhiều hạn chế cần phải khắc phục. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG TMCP QUÂN ĐỘI 3.1 Định hướng chung của ngân hàng TMCP Quân đội Trở thành một trong những ngân hàng TMCP hàng đầu ở Việt Nam trong các mảng thị trường đã lựa chọn tại các khu vực đô thị trọng điểm, tập trung vào: Giữ vững và khai thác có hiệu quả mảng thị trường các doanh nghiệp truyền thống. Phát triển một cách lựa chọn mảng thì trường các Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tạo dựng một vị thế mạnh trong mảng thị trường tiêu dùng. Mở rộng hoạt động kinh doanh Treasury Phát triển hoạt động kinh doanh chứng khoán - Hoàn thiện mô hình tổ chức Mô hình tổ chức của Ngân hàng Quân đội đã liên tục được củng cố và hoàn thiện theo định hướng khách hàng và tăng cường hiệu quả quản lý rủi ro. Theo đó, khách hàng sẽ luôn ở vị trí trung tâm của mọi hoạt động của Ngân hàng Quân đội.Các chi nhánh, sở giao dịch, phòng giao dịch sẽ có nhiệm vụ chủ yếu là phục vụ, chăm sóc khách hàng, còn hội sở sẽ đóng vai trò hỗ trợ và giám sát, quản lý rủi ro. Mục tiêu chủ yếu: Kết thúc giai đoạn 1 trong chiến lược 2004- 2010, hoàn thành nhiệm vụ đã đề ra 2004 – 2008. Trong đó tập trung: Phát triển nhân lực có chất lượng tốt, ổn định các vị trí nhân sự cao cấp và cán bộ quản lý trung gian, ưu tiên bổ sung nguồn nhân lực có chất lượng cao, thay đổi cơ bản chính sách và công tác quản trị nhân sự. Đồng thời, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, đảm bảo sự ổn định cho đến khi kết thúc nhiệm kỳ. Ngân hàng Quân đội đã quyết định triển khai thực hiện Dự án phát triển nguồn nhân lực bền vững, xây dựng và thông qua chiến lược phát triển nguồn nhân sự giai đoạn 2007- 2010 Việc thực hiện dự án này cũng nhằm để thực hiện cam kết của Ngân hàng Quân đội đối với người lao động Ngân hàng cam kết sẽ liên tục phát triển đội ngũ cán bộ nhân viên đến trình độ cao nhất về tính chuyên nghiệp và đãi ngộ theo kết quả công việc Ngân hàng cam kết sẽ tạo ra môi trường làm việc hấp dẫn để phát huy được hết tài năng của người lao động Tiếp tục hoàn thiện Dự án CNTT giai đoạn 1.Khai thác một cách có hiệu quả những ưu việt của hệ mới của Dự án Treasury, mở rộng hoat động trên thị trường vốn, nâng cao chất lượng triển khai nghiệp vụ Ngân hàng đầu tư Phát triển nhanh các sản phẩm mới Đưa mạng lưới trên toàn bộ hệ thống 100 điểm Hoàn thiện những giá trị cốt lõi của văn hoá Ngân hàng Tiếp tục củng cố tổ chức và cơ sở hạ tầng kiểm soát rủi ro, từng bước hoàn thiện tổ chức tiến tới hình thành mô hình MB Group - Đảm bảo kinh doanh an toàn, hiệu quả, thực hiện tốt Quyết định 18 của Ngân hàng Nhà nước, phấn đấu đưa mức nợ xấu nhóm 3+4+5<2% - Tập trung đầu tư để phát triển khu vực TP Hồ Chí Minh với các tỉnh lân cận - Tiếp tục cơ cấu lại cổ đông, chú trọng xây dưng nhóm cổ đông chiến lược, đồng thời củng cố tổ chức bộ máy Hội đồng quản trị, Ban điều hành. 3.2 Định hướng hoạt động cho vay của Ngân hàng TMCP Quân đội trong thời gian tới Một số chỉ tiêu phát triển chính của ngành ngân hàng đến năm 2010 như sau : - Tốc độ huy động tăng huy động vốn : 18 – 20%/năm - Tốc độ tăng tín dụng : 18 – 20%/ năm - Tỷ trọng nguồn vốn trung, dài hạn : 33 – 35% ( trong tổng nguồn vốn huy động) - Tỷ lệ nợ xấu : 5- 7 % ( so với tổng dư nợ ) - Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu : 8% Định hướng của ngân hàng phù hợp định hướng của ngành, chính sách của nhà nước và xu hướng chung của thế giới : Với mục tiêu trở thành một trong những Ngân hàng TMCP hàng đầu trong lĩnh vực đã lựa chọn, Ngân hàng Quân đội đã đặt ra và theo đuổi những mục tiêu sau Trở thành một trong những ngân hàng TMCP hàng đầu ở Việt Nam trong các mảng thị trường đã lựa chọn tại các khu vực đô thị trọng điểm, tập trung vào: Giữ vững và khai thác có hiệu quả mảng thị trường các doanh nghiệp truyền thống. Phát triển một cách lựa chọn mảng thì trường các Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tạo dựng một vị thế mạnh trong mảng thị trường tiêu dùng. Đảm bảo kinh doanh an toàn, hiệu quả, thực hiện tốt Quyết định 18 của Ngân hàng Nhà nước, phấn đấu đưa mức nợ xấu nhóm 3+4+5<2% Năm 2008, MB đặt mục tiêu hoàn tất công cuộc cải tổ trong chiến lược phát triển 2004-2008, đồng thời xác định mục tiêu tăng trưởng toàn diện đạt tối thiểu 1.4 lần đến 2 lần so với năm 2007. Mạng lưới MB sẽ phát triển tối thiểu là 100 điểm giao dịch, tổng tài sản năm 2008 đạt trên 47.000 tỷ đồng (trong đó MB là hơn 40.000 tỷ đồng). 3.3 Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay 3.3.1 Hoàn thiện nội dung phân tích Nội dung phân tích tại ngân hàng có thể được coi là khá đầy đủ và chi tiết. Cán bộ tín dụng chịu trách nhiệm mỗi hồ sơ vay vốn, vừa gặp gỡ khách hàng, vừa xử lý thông tin và đưa ra quyết định rồi xin ý kiến cấp trên. Như vậy để hoàn thành một bộ hồ sơ cán bộ tín dụng cùng chịu nhiều áp lực, hơn nữa lại mất khá nhiều thời gian hơn. Nên chăng lập ra một nhóm chuyên thực hiện phân tích các chỉ tiêu, hệ số tài chính cho cán bộ tín dụng. Sau đó những tài liệu này sẽ được sử dụng kết hợp với các kết quả thẩm định khác để cán bộ tín dụng có thế đưa ra quyết định cuối cùng. Nhiều doanh nghiệp khi đến vay vốn chưa được kiểm toán các báo cáo tài chính bởi kiểm toán, điều này cũng gây khó khăn đối với cán bộ tín dụng khi phải bỏ thêm nhiều thời gian để tìm hiểu từ nhiều nguồn khác nhau. Thêm vào đó , việc phân tách giữa người thực hiện thẩm định và người trực tiếp làm việc với khách hàng càng giúp nâng cao tính lành mạnh trong quan hệ giữa khách hàng với cán bộ tín dụng. Quy trình tín dụng đã được xây dựng từ năm 2001 cho đến nay đã hơn 7 năm, nền kinh tế cũng có nhiều thay đổi, nhiều chính sách mới cũng đã được áp dụng, nên chăng xem xét bổ sung sửa đổi lại quy trình tín dụng để phù hợp với điều kiện kinh tế mới. Trong phần nội dung phân tích, giống như hầu hết các ngân hàng hiện nay, phương pháp để sử dụng phân tích chủ yếu là phương pháp tỷ số, phương pháp so sánh. Sau khi cán bộ tín dụng tính toán được các tỷ số tài chính, đem so sánh với tiêu chuẩn của ngân hàng. Để có thể so sánh được chính xác chỉ số của các doanh nghiệp với nhau đòi hỏi ngân hàng phải xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu đánh giá theo từng ngành nghề, từng lĩnh vực kinh doanh trên cơ sở hệ thống thông tin được cập nhật thường xuyên, đầy đủ và tin cậy được. Ngoài việc sử dụng phương pháp phân tích và so sánh, muốn nâng cao hơn nữa độ tin cậy của kết quả phân tích để đưa ra phán xét nên sử dụng thêm phương pháp Dupont. Nhờ có phương pháp này, tác động của các tỷ số tài chính tới tỷ số tổng hợp ROA, ROE thể hiện rõ ràng hơn. Như đã nêu ở chương 1, phương pháp phân tích Dupont là việc tách các tỷ số tổng hợp ROA, ROE thành tích chuỗi cái tỷ số có liên hệ với nhau. Nhờ đó, cán bộ tín dụng thấy được mức độ ảnh hưởng của các tỷ số thành phần đến các chỉ tiêu tổng hợp. TNST TNST DT ROA = __________ = _________ x ________ = PM x AU TS DT TS Trong đó PM là mức doanh lợi doanh thu, còn AU là hiệu suất sử dụng tài sản của doanh nghiệp. DT DT VCSH AU = ______ =__________x _________ TS VCSH TS TNST TNST TS ROE = ____________ = ______ x _______ = ROA x EM VCSH TS VCSH EM là hệ số nhân vốn chủ sở hữu, nó phản ánh mức độ huy động vốn từ bên ngoài của doanh nghiệp. Nếu EM tăng, điều đó chứng tỏ doanh nghiệp tăng vốn huy động bên ngoài. Nếu ROE tăng do ROA nghĩa là việc tăng hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp sẽ tác động làm tăng doanh lợi vốn chủ sở hữu. ROE ROA AU = Vòng quay tổng tài sản EM = Tài sản/VCSH PM = Tỷ lệ lãi gộp Thu nhập sau thuế Doanh thu Doanh thu Tổng tài sản X X : : Ngoài việc cần tăng cường thêm các phương pháp phân tích tài chính, giống như hầu hết các ngân hàng hiện nay, cán bộ tín dụng chỉ tập trung phân tích bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh mà chưa chú ý tới báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Trong khi báo cáo này rất giúp ích cho việc phân tích rõ nét hơn tình hình tài chính của doanh nghiệp khi xem xét, kết hợp hai báo cáo với nhau. Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ cho thấy rõ nét hơn khả năng chi trả của doanh nghiệp trong từng thời kỳ nghiên cứu. Trong phương pháp tỷ số, xu hướng biến động của các tỷ số là rất quan trọng. Sau khi tính toán các tỷ số, thay vì so sánh với bình quân ngành, chúng ta còn có thể so sánh các tỷ số của các năm với nhau và so sánh qua nhiều năm bằng cách vẽ đồ thị. Đó là thực hiện phương pháp phân tích xu hướng. Phân tích xu hướng thực chất là kỹ thuật phân tích bằng cách so sánh các tỷ số tài chính của công ty qua nhiều năm để thấy được xu hướng tốt lên hay xấu đi. Muốn đạt được điều này, ngân hàng cần thiết phải lưu trữ một khối lượng thông tin thống kê để có thể tính toán số liệu trong nhiều năm. Xác định được những biến động về các đặc điểm và hoạt động kinh doanh của của doanh nghiệp từng giai đoạn góp phần hoàn thiện, bổ sung cho chất lượng phân tích. 3.3.2 Nâng cao chất lượng thông tin phục vụ cho phân tích  Thông tin chính xác là cơ sở cho việc phân tích có đảm bảo hay không. Vì vậy ngân hàng muốn có được những thông tin này từ phía doanh nghiệp cần có văn bản hướng dẫn cụ thể và chi tiết về nội dung những thông tin mà doanh nghiệp phải cung cấp cho ngân hàng khi muốn vay vốn. Đối với các doanh nghiệp xin vay vốn có báo cáo kiểm toán có thể có những chính sách hỗ trợ hợp lý song vẫn phải thận trọng kiểm tra lại. Bên cạnh đó, cán bộ tín dụng cần thường xuyên giám sát tình hình doanh nghiệp, tăng cường phỏng vấn, trao đổi tiếp xúc trực tiếp với khách hàng để kiểm tra đối chiếu thông tin. Ngân hàng cũng không nên chỉ hài lòng với thông tin mà doanh nghiệp cung cấp mà cần thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. Thông tin mà doanh nghiệp cung cấp thì cần yêu cầu doanh nghiệp cung cấp đầy đủ các báo cáo tài chính của ít nhất hai năm gần nhất, khuyến khích khách hàng kiểm toán các báo cáo tài chính vì những báo cáo tài chính được kiểm toán độc lập sẽ có độ tin cậy cao hơn rất nhiều. Và trong quá trình doanh nghiệp sử dụng vốn vay, ngân hàng cũng luôn luôn theo dõi và giám sát tình hình bằng cách yêu cầu doanh nghiệp cung cấp số liệu báo cáo hàng tháng, hàng quý về tình hình hoạt động kinh doanh cũng như tình trạng sử dụng nợ. Ngân hàng cũng nên thu thập thông tin từ những doanh nghiệp khác cũng kinh doanh trong cùng lĩnh vực với khách hàng để có thế so sánh khi cần thiết. Ngân hàng cần chú trọng hơn nữa việc thống kê các số liệu liên quan đến doanh nghiệp bằng các ứng dụng các phần mềm công nghệ thông tin hỗ trợ để có thể xây dựng một ngân hàng dữ liệu về doanh nghiệp để sử dụng khi cần thiết. Hiện nay cũng có xuất hiện một số doanh nghiệp có năng lực trong việc thu thập thông tin và định giá doanh nghiệp. Với việc mua lại thông tin đảm bảo chất lượng, ngân hàng có thể sử dụng hiệu quả và chính xác, nhanh chóng và kịp thời. Bên cạnh đó, việc giữ mối quan hệ với các ngân hàng khác để chia sẻ thông tin về các khách hàng cũng là điều hết sức quan trọng và cần thiết để hạn chế rủi ro thấp nhất có thể. 3.3.3 Nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ phân tích Thực tế thì đội ngũ cán bộ công nhân viên ngân hàng Quân đội đều có năng lực chuyên môn tương đối cao, phẩm chất tốt và đều được tuyển dụng qua kỳ thi đầu vào rất gắt gao. Với lịch sử hơn 10 năm trong ngành tài chính ngân hàng, đội ngũ cán bộ của Quân đội tương đối trẻ và chưa có nhiều kinh nghiệm Mà một cán bộ phân tích giỏi là một cán bộ có đủ các tố chất sau như trình độ chuyên môn, đạo đức, tinh thần trách nhiệm và cả kinh nghiệm có thế đưa ra những sản phẩm tốt là những báo cáo phân tích chuẩn mực và chính xác. Điều đó giúp cho cải thiện hơn thêm kết quả hoạt dộng của ngân hàng bằng cách tăng lợi nhuận trong hoạt động cho vay này. Vì thế các cán bộ của ngân hàng cần phải không ngừng nâng cao chuyên môn, bổ sung, cập nhật những kiến thức mới, những thông tin mới. Ngân hàng cần khuyến khích và có những chính sách hỗ trợ hợp lý cho cán bộ công nhân viên có điều kiện học t ập để bổ sung kiến thức thêm phong phú và hoàn chỉnh hơn với điều kiện cam kết phục vụ ngân hàng trong thời hạn tối thiểu. Đối với đội ngũ trẻ khát khao học hỏi, nâng cao chuyên môn, tích luỹ kinh nghiệm thì chính sách hỗ trợ cho đào tạo là cấp thiết. Thế nhưng ngân hàng Quân đội chưa chú trọng nhiều lắm vào khâu này. Ngoài các chính sách về đào tạo, ngân hàng Quân đội cũng nên chú trọng hơn nữa vào các chính sách đãi ngộ cũng như chính sách lương thưởng và khen thưởng phù hợp vì hiện nay đang có sự cạnh tranh rất khốc liệt giữa các ngân hàng nói riêng và các doanh nghiệp nói chung về việc tuyển dụng nhân sự, nhất là những cá nhân có năng lực và có thành tích tốt. Ngân hàng cũng nên xét đến việc phân công chuyên môn hoá cho một nhóm các cán bộ chuyên phụ trách việc phân tích nghiên cứu các thông tin tài chính của các doanh nghiệp, hỗ trợ cho các cán bộ tín dụng tập trung vào các chuyên môn còn lại như là tiếp xúc với khách hàng, thực hiện giao dịch, tổng hợp các báo cáo thẩm định để ra quyết định và tiến hành các thao tác giải ngân theo quy trình… Về công tác tổ chức cán bộ trong cho vay, Ngân hàng Quân đội đã thực hiện phân chia cán bộ theo khối lượng khoản vay đó là khối khách hàng cá nhân, khách hàng doanh nghiệp, ngoài ra còn có phòng quản lý dự án trực tiếp nhận hồ sơ xin vay vốn của các dự án lớn có tổng vốn đầu tư lớn. Mặt khác, ngân hàng cũng nên bố trí cán bộ phụ trách các khoản vay của các doanh nghiệp theo các ngành nghề kinh doanh khác nhau. Điều này vừa giúp cho các cán bộ nắm rõ được đặc thù của từng ngành vừa so sánh, đối chiếu được năng lực hoạt động, tình hình hoạt động của các doanh nghiệp trong cùng một ngành nghề, do đó tiết kiệm được thời gian thẩm định các khoản vay mà hiệu quả lại cao hơn. Ngoài ra, việc tổ chức sắp xếp làm việc nhóm là một phương thức làm việc khá hiệu quả và đang được áp dụng tại nhiều doanh nghiệp. Hoạt động tín dụng tại ngân hàng, nhất là việc kết hợp giữa phân tích thẩm định và tổng hợp lại để ra quyết định cuối cùng là việc phù hợp với làm việc nhóm. Cán bộ quản lý không chỉ là bậc thầy về chuyên môn mà còn có năng lực lãnh đạo, có khả năng đánh giá được ưu khuyết điểm của nhân viên để có thể bố trí sắp xếp công việc phù hợp, vừa phát huy được tối đa khả năng của nhân viên vừa khuyến khích mỗi cá nhân đóng góp hết mình vào sự phát triển chung của toàn ngân hàng. Dù cán bộ tín dụng ở Ngân hàng Quân đội không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn phẩm chất tư cách đạo đức tốt nhưng việc giám sát các cán bộ tín dụng nói chung và cán bộ phân tích nói riêng vẫn cần thiết phải chú ý tăng cường để phòng tránh những rủi ro không đáng có khi xảy ra việc thông đồng giữa cán bộ ngân hàng và khách hàng hay việc thực hiện giải ngân, xử lý nợ không đúng quy trình. Ngoài việc kiểm tra kết quả phân tích, cán bộ quản lý cần phải kiểm tra giám sát chặt chẽ hơn nữa, kiểm tra ngay từ khi cán bộ thu thập thông tin đến khi xử lý thông tin : Thông tin có tin cậy hay không, có đầy đủ và chính xác hay không, các nội dung phân tích có đầy đủ và tuân theo quy trình hay không, các chỉ tiêu phân tích đã chính xác và phù hợp hay chưa, điểm nào tập trung phân tích kỹ, còn điểm nào chưa được chú trọng ; hơn nữa chú ý cả mối quan hệ của cán bộ và khách hàng. Công tác kiểm tra giám sát đòi hỏi người sự tham gia từ hai phía, sự hỗ trợ tích cực của cán bộ phân tích, sự nghiêm khắc và kinh nghiệm của cán bộ quản lý. Cải thiện cơ sở vật chất kỹ thuật Hoạt động Ngân hàng là một lĩnh vực hoạt động kinh doanh cần có sự tham gia đắc lực nhất của công nghệ. Tuy nhiên, do năng lực kinh tế có hạn, cơ sở vật chất kỹ thuật tại ngân hàng Việt Nam nói chung và ngân hàng Quân đội nói riêng chưa được trang bị như tiêu chuẩn của các ngân hàng hiện đại trên thế giới. Trong đó, việc bảo mật của ngân hàng là tối quan trọng nên hệ thống an ninh mạng vẫn cần phải nâng cấp hơn nữa. Hệ thống thông tin mạng nội bộ thực tế chưa đáp ứng được yêu cầu. Cơ sở vật chất nếu được cải thiện sẽ góp phần đáng kể trong việc giảm chi phí, thời gian tìm kiếm thông tin, từ đó nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay tại ngân hàng.Thực tế, ngân sách phục vụ cho việc nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật rất hạn hẹp nên việc chưa đạt được yêu cầu là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, về lâu dài, ngân hàng cần nỗ lực hơn nữa để cải thiện cơ sở vật chất để áp dụng những thành tựu tiên tiến nhất, xây dựng ngân hàng dữ liệu, nâng cao tính bảo mật của thông tin. Trên đây là một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp của ngân hàng TMCP Quân đội. Những giải pháp này cần phải thực hiện đồng bộ để phát huy tối đa hiệu quả công tác này. Các biện pháp này có khả thi và duy trì thực hiện lâu dài hay không cũng cần sự hỗ trợ của nhiều ban ngành và đối tượng có liên quan Đề xuất, kiến nghị  3.4.1 Kiến nghị với các cơ quan bộ ngành có liên quan Kiến nghị với Nhà nước Với tư cách là nhà lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhà nước đóng vai trò tạo lập ra môi trường kinh tế chính trị và xã hội. Muốn kinh tế phát triển ổn định, điều đầu tiên là nhà nước cần thiêt lập hành lang pháp lý hoàn chỉnh và đồng bộ nhưng không được quá phức tạp làm nền tảng. Cụ thể việc ban hành ra những chính sách đúng đắn, kịp thời ; việc xây dựng hệ thống văn bản pháp lý sao cho chặt chẽ, đầy đủ và thống nhất, việc sửa đổi bổ sung những điều luật không còn hợp thời gây phiền hà cho doanh nghiệp. Điều này sẽ là một trợ lực rất lớn cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng yên tâm tiến hành hoạt động kinh doanh cho hiệu quả cao hơn góp phần vào sự phát triển chung của đất nước. Trong tình hình kinh tế thế giới hiện nay đang diễn ra hết sức phức tạp, kinh tế Việt Nam còn chịu ảnh hưởng nhiều bởi nền kinh tế của các nước phát triển thì việc ban hành các văn bản hợp lý, kịp thời là một việc không phải đơn giản nhằm tránh những biến động bất thưởng ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, gây tổn hại cho ngân hàng, dễ gây ra sụp đổ của toàn thị trường. Hiện nay minh bạch tài chính là một vấn đề cấp thiết của nền kinh tế Việt Nam. Chưa được như các nước phát triển trên thế giới, các doanh nghiệp phải công bố các báo cáo tài chính được kiểm toán công khai trên các mạng thông tin, ngoài doanh nghiệp đã niêm yết thì doanh nghiệp Việt Nam chưa thấy được tầm quan trọng và ích lợi của việc minh bạch hoá thông tin doanh nghiệp.Do đó, Nhà nước nên bổ sung các khoản luật nhằm cưỡng bức các doanh nghiệp công bố thông tin tài chính, tinh hình hoạt động kinh doanh và những biến động trong doanh nghiệp mình nhằm tạo ra một môi trường kinh tế minh bạch, hấp dẫn dòng vốn đầu tư nước ngoài chảy vào, tạo điều kiện cung cấp thông tin một cách nhanh nhất cho hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp của ngân hàng. Đó cũng là bước đầu để xây dựng một ngân hàng dữ liệu doanh nghiệp, làm đơn giản hoá việc thiết lập chỉ số trung bình ngành. Một lợi ích khác xuất phát từ minh bạch hoá tài chính doanh nghiệp là tạo động lực cho các doanh nghiệp làm ăn đàng hoàng trung thực hơn, đào thải những cá thể yếu kém và thiếu ý thức tôn ng pháp luật ra khỏi thị trường. Về chế độ kế toán, thống kê và lập các báo cáo tài chính, bộ tài chính sau khi đã đưa ra một chuẩn mực thống nhất, hợp thông lệ quốc tế vẫn phải đưa ra các hướng dẫn, chỉ đạo để doanh nghiệp có thể tuân thủ áp dụng theo đúng quy trình đã đề ra. Và sau đó đến lượt tổng cụ thống kê giữ vai trò thu thập thông tin để phối hợp cùng với cơ quan giám sát thực hiện công tác thanh tra kiểm tra việc lập và gửi các báo cáo của doanh nghiệp. Các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước như cơ quan thuế, thanh tra, quản lý thị trường cố gắng hỗ trợ các ngân hàng bằng cách cung cấp các thông tin cần thiết về doanh nghiệp.Qua đó, các cơ quan chức năng sẽ ngày càng nâng cao hiệu quả giám sát, quản lý đối với thị trường. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Trung tâm thông tin tín dụng của Nhà Nước_ trung tâm CIC hiện nay là một kênh thông tin quan trọng cung cấp thông tin về mối quan hệ của khách hàng doanh nghiệp với các tổ chức tín dụng. Nhờ có sự thống kê này mà các ngân hàng có thể xác định một cách chung nhất về uy tín của doanh nghiệp để có thể nhanh chóng thực hiện thao tác chấm điểm tín dụng. Sự nâng cao hiệu quả hoạt động của trung tâm cũng là một sự hỗ trợ lớn cho các ngân hàng trong việc thu thập thông tin phân tích, giúp ngân hàng hạn chế rủi ro. Một mặt, ngân hàng Nhà nước cần phải củng cố hơn nữa thông tin tín dụng. Mặt khác, CIC có thể mở rộng nguồn thông tin, bổ sung cả thông tin về mảng kinh tế và tài chính phục vụ cho hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp của ngân hàng. Vấn đề nâng cấp hệ thống mạng thông tin phục vụ cho hoạt động của trung tâm lúc nào cũng là một trong những mục tiêu trọng tâm do tầm quan trọng của việc bảo mật thông tin và lợi ích của việc lưu trữ thông tin. Mạng thông tin cần được nâng cấp để đáp ứng yêu cầu tra cứu thông tin ngay lập tức của cán bộ tín dụng. Vì vậy ngân hàng nhà nước nên sớm có chính sách đầu tư nâng cấp hạ tầng cơ sở nhất là mạng lưới thông tin giữa các ngân hàng thành viên, từ đó nâng cao hiệu quả cho ngành ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước tích cực hỗ trợ các NHTM trong việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng cán bộ, trình độ quản lý và việc xây dựng cơ sở hạ tầng 3.4.2Kiến nghị với các đối tượng có liên quan Kiến nghị với các ngân hàng thương mại khác Các ngân hàng thương mại cần có sự hỗ trợ, hợp tác lẫn nhau trong việc cung cấp các số liệu nếu cần thiết. Nếu doanh nghiệp nào đã từng có quan hệ tín dụng với một ngân hàng và thể hiện một năng lực tài chính yếu kém, qua theo dõi thấy nguy cơ không trả nợ cao thì nên thông báo cho các ngân hàng khác biết để tránh những rủi ro không đáng có. Kiến nghị với các doanh nghiệp  Các doanh nghiệp cần thực hiện, chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về việc lập báo cáo tài chính theo chế độ kế toán doanh nghiệp được ban hành thống nhất trong cả nước. Thực hiện kiểm toán các báo cáo tài chính. Tuân thủ quy định về minh bạch hoá tài chính, đảm bảo trung thực các thông tin cung cấp cho ngân hàng, có thái độ hợp tác tích cực, cung cấp tất cả những thông tin mà ngân hàng yêu câu. Điều này giúp cho ngân hàng tiết kiệm được chi phí, giảm được thời gian cho việc tìm kiếm và xác minh các thông tin phục vụ cho phân tích. Như vậy, ngân hàng giảm được chi phí, tăng lợi nhuận, doanh nghiệp nhanh chóng tiếp cận được khoản vay. Kiến nghị với các công ty kiểm toán : Thực hiện đúng vai trò và trách nhiệm của mình, thực hiện kiểm toán thực chất chứ không chỉ dừng lại ở hình thức. KẾT LUẬN Hoạt động cho vay từ trước đến nay vẫn là hoạt động chính mang lại nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng. Trong quá trình hoạt động, là một trung gian tài chính thì mục tiêu hoạt động của ngân hàng không chỉ là sinh lời như các doanh nghiệp trong nền kinh tế mà còn bao gồm cả sự đảm bảo an toàn. Do đó, ngân hàng trong mọi công tác luôn luôn đi kèm với hoạt động phân tích để hạn chế rủi ro tối đa nhất có thể. Trong những biện pháp làm hạn chế rủi ro khi cho vay thì việc phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động này rất được chú trọng. Một khi ngân hàng có thể phân tích và đánh giá một cách chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp, năng lực kinh doanh của doanh nghiệp và khả năng trả nợ của doanh nghiệp thì quyết định có cho vay hay không được đưa ra đúng đắn nhất. Vì vậy, chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp cần thiết không ngừng được nâng cao do yêu cầu ngày càng gắt gao của những điều kiện mới phát sinh. Việc nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp sẽ giúp cho ngân hàng đưa ra các quyết định cho vay hợp lý, hạn chế được rủi ro. Trong khoá luận này, ngoài những lý luận về chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay tại ngân hàng thương mại, thực trạng chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp của ngân hàng TMCP Quân đội cũng như những giải pháp cho ngân hàng để nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp cũng được nghiên cứu. Tuy nhiên, do kinh nghiệm và kiến thức hạn chế nên những nghiên cứu ban đầu trong khoá luận không tránh khỏi thiếu sót. Những bổ sung và góp ý của các thầy cô là những động viên lớn nhất cho em tiếp tục những nghiên cứu về sau về mảng phân tích tài chính doanh nghiệp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1, PGS.TS Lưu Thị Hương ( chủ biên), 2005, Giáo trình tài chính doanh nghiệp, NXB Thống Kê 2, PGS.TS Phan Thị Thu Hà, 2006, Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê 3, TS Nguyến Minh Kiều, 2006, Tài chính doanh nghiệp, NXB Thông kê 4, Mishkin, 2001, Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính ( sách dịch), NXB Khoa học và kỹ thuật. 5, Luật các tổ chức tín dụng 6, Báo cáo thường niên của ngân hàng TMCP Quân đội năm 2005, 2006 7, Bản cáo bạch chào bán cổ phiếu đợt 1 năm 2007 của ngân hàng TMCP Quân đội 8, Thông tin trên website : www.militarybank.com.vn DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1 Vốn huy động Bảng 2.2 Các khoản cho vay theo hạn mức thời gian Bảng 2.3 Dư nợ Bảng 2.4  Cơ cấu tài sản của ngân hàng năm 2006 Bảng 2.5 Báo cáo kết quả kinh doanh hai năm 2005, 2006 Bảng 2.6 Bảng một số chỉ tiêu của ngân hàng Bảng 2.7 Các chỉ tiêu tài chính của công ty cổ phần Nam Vinh Bảng 2.8 So sánh một số chỉ tiêu các NHTMCP Bảng 2.9 Một số kết quả của NHTMCP Quân đội Biểu đồ 2.1 Tổng vốn huy động Biểu đồ 2.3 Cơ cấu tài sản Biểu đồ 2.2 Tổng dư nợ Biểu đồ 2.4 Lợi nhuận trước thuế qua các năm Biểu đồ 2.5 ROE (LNST/ VCSH) DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BQ : Bình quân CBTD : Cán bộ tín dụng CTCP : Công ty cổ phần DT : Doanh thu DTBH : Doanh thu bán hàng ĐTNH : Đầu tư ngắn hạn HĐQT : Hội đồng quản trị LNST : Lợi nhuận sau thuế NV : Nguồn vốn NH TMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần TNST : Thu nhập sau thuế TMCP : Thương mại cổ phần TS : Tài sản TSLĐ : Tài sản lưu động VCSH : Vốn chủ sở hữu MỤC LỤC Trang DANH MỤC BẢNG BIỂU DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32980.doc
Tài liệu liên quan