LỜI CẢM ƠN
“Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của các thầy cô khoa Ngân hàng- Tài chính- Đại học kinh tế quốc dân, đặc biệt là của thầy giáo – PGS. TS. Đàm Văn Huệ, thầy giáo trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề này
Đồng thời em cũng xin cảm ơn Ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ nhân viên Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam – chi nhánh Thăng Long đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình thực tập tại chi nhánh, nhiệt tình giúp em trong quá trình thu thập số liệu và thực hiện chuy
72 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1427 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng phân tích tài chính Doanh nghiệp trong cho vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank) - Chi nhánh Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên đề.
Em xin chân thành cảm ơn!”
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Qui trình tín dụng tổng quát
Nguồn: Giáo trình Tín dụng ngân hàng- Học viện Ngân hàng- Nhóm tập thể biên soạn
Bảng 2: Tổng hợp dư nợ tín dụng
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thăng Long năm 2003-2007
Bảng 3: Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tín dụng( qui VNĐ)
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thăng Long năm 2003-2007
Bảng 4: Bảng tổng hợp các chỉ tiêu tài chính trong ba năm 2005-2007 của Công ty cổ phần Sông Đà 909
Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2005-2007 của công ty cổ phần Sông Đà 909
Bảng 5: Tổng hợp công tác tín dụng tại NHNT- chi nhánh Thăng Long
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thăng Long năm 2006-2007
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh Thăng Long
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2007 của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam- chi nhánh Thăng Long
Hình 1: Biểu đồ thể hiện cơ cấu huy động vốn theo loại tiền
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thăng Long năm 2003-2007
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHTM NN: Ngân hàng thương mại Nhà nước
NHNT: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
CBTD: Cán bộ tín dụng
NH ĐT & PT: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
SXKD: Sản xuất kinh doanh
TSLĐ: Tài sản lưu động
TSCĐ: Tài sản cố định
LNST: Lợi nhuận sau thuế
LỜI MỞ ĐẦU
Những năm vừa qua, hoạt động của các Ngân hàng thương mại Việt Nam đã không ngừng đổi mới cả về lượng và chất, góp phần quan trọng vào sự phát triển không ngừng của nền kinh tế đất nước nói chung và ngành ngân hàng nói riêng. Tuy nhiên, thực tế hoạt động của các NHTM Việt Nam hiện nay vẫn còn bộc lộ không ít tồn tại, hạn chế. Trước hết là chưa đáp ứng tốt nhu cầu vốn cho nền kinh tế, sau là hiệu quả kinh doanh còn chưa cao và còn bộc lộ nhiều rủi ro. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường tài chính ngày càng phát triển, mở rộng làm cho mức độ cạnh tranh giữa các NHTM trên thị trường quốc tế và ngay cả thị trường nội đia đang ngày một gay gắt. Điều kiện kinh tế xã hội mới luôn biến đổi khó lường đặt các Ngân hàng trước bài toán phải giải quyết đó là phải nâng cao năng lực quản trị Ngân hàng, đặc biệt là nâng cao năng lực quản trị rủi ro tài chính Ngân hàng. Giải quyết được bài toán trên là điều kiện tiên quyết để các NHTM Việt Nam duy trì được sự phát triển ổn định, bền vững và đảm bảo sức cạnh tranh trong giai đoạn kinh tế mới.
Trong chiến lược quản trị rủi ro tài chính của Ngân hàng thì quản trị rủi ro tín dụng là một bộ phận quan trọng luôn được các Ngân hàng xem xét, chú trọng. Muốn thực hiện tốt việc hạn chế rủi ro tín dụng thì công tác phân tích tài chính khách hàng phải được thực hiện một cách rất nghiêm túc và đạt chất lượng cao. Việc tiến hành phân tích tài chính khách hàng trong toàn bộ quá trình thực hiện tín dụng của Ngân hàng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Một mặt, nhằm cung cấp các thông tin xác thực về tình hình tài chính của khách hàng để ngân hàng có thể quản lí khoản vay hiệu quả, mặt khác cũng tạo điều kiện cho Ngân hàng có những quyết định tín dụng phù hợp, đem lại lợi nhuận từ hoạt động tín dụng cho Ngân hàng.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, trong thời gian thực tập tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam- chi nhánh Thăng Long, em đã tập trung đi sâu, nghiên cứu chuyên đề:
“ Nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong cho vay tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam- chi nhánh Thăng Long”
Nội dung chuyên đề tập trung nghiên cứu qui trình, nội dung và các phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp mà hiện tại Chi nhánh đang sử dụng để làm rõ những vấn đề cần bổ sung, hoàn thiện nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng phân tích tài chính khách hàng nói riêng và chất lượng quản trị rủi ro tín dụng Ngân hàng. Trên cơ sở đó, nội dung đề án có đưa ra những giải pháp và kiến nghị giúp nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong cho vay tại Chi nhánh.
Phương pháp chủ yếu được sử dụng trong chuyên đề là phương pháp so sánh và tổng hợp số liệu thực tế thu thập được trong quá trình thực tập, các số liệu từ các Báo cáo kết quả kinh doanh và các thông tin có được từ quá trình tiếp xúc, phỏng vấn các cán bộ tín dụng và cán bộ tại các phòng ban trong Chi nhánh. Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp khác như phương pháp tỷ số, liên hệ, cân đối…
Cấu trúc của chuyên đề bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong cho vay của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong cho vay tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam- chi nhánh Thăng Long.
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong cho vay tại NHNT VN- chi nhánh Thăng Long
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Khái niệm NHTM
Ngân hàng là tổ chức trung gian tài chính điển hình trong nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói chung. Theo chức năng có thể phân chia làm hai loại hình ngân hàng chủ yếu, đó là: Ngân hàng trung ương (Ngân hàng Nhà nước) và các ngân hàng thương mại. Trong đó,mỗi quốc gia có một ngân hàng trung ương. Ngân hàng trung ương ngoài chức năng là một trung gian tài chính còn là một công cụ hiệu quả của Chính phủ các nước trong việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. Do đó, ngân hàng trung ương có mục tiêu hoạt động không chỉ hướng đến lợi nhuận. Các NHTM cung cấp nhiều dịch vụ tài chính đa dạng hơn và là tổ chức trung gian tài chính được dân chúng lựa chọn phổ biến.
Theo Luật các tổ chức tín dụng: NHTM là một tổ chức tín dụng thực thi các dịch vụ ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan. Trong đó, tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo qui định của pháp luật và các qui định khác để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi, cho vay và cung cấp các dịch vụ thanh toán.
Một cách tiếp cận khác, dựa trên phương diện các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cấp có thể định nghĩa: NHTM là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng , tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
1.1.2. Hoạt động cho vay của NHTM
Theo Luật các tổ chức tín dụng, hoạt động cho vay(hoạt động tín dụng của ngân hàng) được xác định: Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác. Trong đó hoạt động cho vay là phổ biến nhất.
1.1.2.1. Phân loại cho vay
Phân loại cho vay là việc sắp xếp các khoản vay theo nhóm dựa trên những tiêu thức nhất định. Việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học là tiền đề để xác lập các qui trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Phân loại cho vay dựa trên các tiêu chí sau:
Mục đích sử dụng vốn vay
Dựa vào căn cứ này cho vay thường được chia làm các loại sau:
Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua và xây dựng bất động sản, nhà cửa, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu…
Cho vay các định chế tài chính( financial institution loans) bao gồm cấp tín dụng cho các ngân hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quĩ tín dụng và các định chế tài chính khác.
Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền, các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
Cho thuê của các định chế tài chính bao gồm hai loại cho thuê vận hành và cho thuê tài chính. Tài sản cho thuê bao gồm bất động sản và động sản, trong đó chủ yếu là máy móc, thiết bị.
Thời hạn cho vay
Theo căn cứ này cho vay được chia làm ba loại sau:
Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn dưới 1 năm và được sử dụng để bù đắp cho sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
Cho vay trung hạn: Theo qui định của ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cho vay trung hạn có thời hạn từ 1 đến 5 năm.
Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư, mua sắm các tài sản cố định, cải tiến và đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án có qui mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Trong nông nghiệp, chủ yếu cho vay trung hạn để đàu tư vào các đối tượng sau: máy cày, máy bơm nước, xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê, điều,…
Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, cho vay trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp mới thành lập.
Cho vay dài hạn: Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên năm năm và thời hạn tối đa có thể lên tới 20-30 năm, một số trường hợp đặc biệt có thể lên tới 40 năm.
Tín dụng dài hạn là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có qui mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
Nghiệp vụ truyền thống của các ngân hàng là cho vay ngắn hạn, nhưng từ năm 70 trở lại đây các ngân hàng thương mại đã chuyển sangkinh doanh tổng hợp và một trng các mục tiêu đó là nâng cao tỷ trọng trong cho vay trung và dài hạn trong tổng dư nợ của ngân hàng.
Mức độ tín nhiệm với khách hàng
Theo căn cứ này cho vay được chia làm hai loại: Cho vay không đảm bảo và cho vay có đảm bảo.
Cho vay không đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc không có sự bảo lãnh của người thứ ba, việc cho vay chỉ dựa trên uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của khách hàng mà không cần đến một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
Cho vay có bảo đảm là loai cho vay dựa trên cơ sở các đảm bảo như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự đảm bảo của người thứ ba.
Đối với khách hàng không có uy tín cao với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có đảm bảo. Sự đảm bảo này là căn cứ pháp lí để ngân hàng có thêm một nguồn thu nợ thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
Trong những năm 90 các ngân hàng chỉ được phép cho vay có bảo đảm trừ các doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh có hiệu quả và cho vay hộ nông dân, từ 5 triệu đồng trở xuống. Ngày 29/12/1999 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng, theo Nghị định này việc cho vay không đảm bảo được mở rộng hơn so với trước đây, cho phép các tổ chức tín dụng được lựa chọn khách hàng để cho vay không đảm bảo khi cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển hoặc phương án sản xuất kinh doanh dịch vụ và đời sống. Tuy nhiên, khách hàng vay không đảm bảo phải có đầy đủ các điều kiện sau:
Có tín nhiệm đối với tổ chức tín dụng cho vay trong việc sử dụng vốn vay và trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi.
Có dự án đầu tư, hoặc phương án sản xuất, kinh doanh dịch vụ khả thi có khả năng hoàn trả nợ, hoặc có dự án, phương án phục vụ đời sống khả thi, phù hợp với qui định của pháp luật.
Có khả năng tài chính để phục vụ nghĩa vụ trả nợ.
Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của tổ chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng; cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện pháp bảo đảm tài sản.
Tổng mức cho vay không bảo đảm và điều kiện cho vay không bảo đảm do NHNN qui định.
Phương pháp hoàn trả
Dựa vào căn cứ này cho vay của các NHTM được chia thành:
Cho vay có thời hạn: Là loại cho vay có thỏa thuận về thời hạn trả nợ cụ thể theo hợp đồng. Cho vay có thời hạn bao gồm:
Cho vay chỉ có một kì hạn trả nợ (hay còn gọi là phi trả góp) là loại cho vay thanh toán một lần theo thời gian đã thỏa thuận.
Cho vay có nhiều kì hạn trả nợ cụ thể hay còn gọi là cho vay trả góp: Là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi theo định kì. Loại cho vay này chủ yếu được áp dụng cho vay bất động sản, nhà ở, thương mại, cho vay tiêu dùng, cho vay với những người kinh doanh nhỏ và cho vay để ma sắm máy móc, thiết bị.
Cho vay hoàn trả nợ nhiều lần nhưng không có kì hạn nợ cụ thể mà việc trả nợ phụ thuộc vào khả năng tài chính của người vay. Hoặc việc cho vay này được áp dụng kĩ thuật thấu chi.
Đối với loại cho vay có thời hạn khách hàng có thể trả nợ trước hạn, nhưng ngân hàng được quyền thu lãi toàn bộ kì hạn trả nợ theo hợp đồng, trừ trường hợp có những thỏa thuận khác.
Cho vay không có kì hạn cụ thể: Đối với cho vay khôn có kì hạn thì ngân hàng có thể yêu cầu người đi vay tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước một thời gian hợp lí, thời gian này có thể được thỏa thuận trong hợp đồng.
Ngoài các hình thức phân loại cho vay như trên, người ta còn có thể căn cứ vào xuất xứ tín dụng để chia cho vay làm các loại: Cho vay trực tiếp, cho vay gián tiếp, chiết khấu thương phiếu(discount), mua các phiếu bán hàng(dealer paper) tiêu dùng và nông nghiệp trả góp, nghiệp vụ thanh tín( nghiệp vụ factoring).
Khi xem xét việc cấp tín dụng cho một khách hàng cụ thể, ngân hàng luôn luôn xem xét dựa trên các nguyên tắc tín dụng ngân hàng. Các nguyên tắc này được cụ thể hóa trong các qui định, qui chế về cho vay, tổ chức hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nhà nước cũng như của chính các NHTM.
1.2.2.2. Các nguyên tắc tín dụng ngân hàng
Thứ nhất, khách hàng phải cam kết hoàn trả gốc và lãi với thời gian xác định. Ngân hàng có được nguồn vốn cho vay chính là từ việc huy động được từ của các thành phần khác nhau trong nền kinh tế như khoản tiết kiệm nhàn rỗi của các hộ gia đình, của các doanh nghiệp đang tạm thời thặng dư vốn và của các tổ chức tài chính khác. Do đó, ngân hàng muốn tồn tại bền vững, không bị mất khả năng thanh toán khi có nhu cầu từ người cho vay phải luôn luôn yêu cầu khách hàng thực hiện tốt cam kết này.
Thứ hai, khách hàng phải cam kết sử dụng đúng mục đích đã thỏa thuận của khoản tín dụng được cấp. Theo luật các tổ chức tín dụng: “Mục đích sử dụng tín dụng của khách hàng phải hợp pháp, không vi phạm pháp luật, phù hợp với qui định của NHNN, cũng như qui định riêng của Ngân hàng cấp tín dụng.”
Thứ ba, ngân hàng tài trợ dựa trên dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Thực chất, nguyên tắc thứ ba này là sự phát triển của nguyên tắc thứ nhất, bởi chỉ khi khách hàng có được phương án kinh doanh tốt, có khả năng mang lại hiệu quả cao thì mới có nguồn trả nợ ngân hàng đúng hạn và đầy đủ. Tuy nhiên, xác định tính hiệu quả của dự án đôi khi không thể chính xác do ảnh hưởng từ nền kinh tế thị trường, vì vậy để giảm thiểu rủi ro tín dụng của ngân hàng trong cho vay, ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng có các tài sản đảm bảo để thế chấp cho món vay, giá trị của các tài sản đảm bảo phụ thuộc vào giá trị của khoản tín dụng và mức độ rủi ro của dự án kinhd doanh.
Ngoài các nguyên tắc tín dụng, để chuẩn hóa qui trình tiếp xúc, phân tích, giải ngân và thu nợ đối với khách hàng, các NHTM đặt ra qui trình tín dụng phù hợp với đặc điểm về tổ chức, quản lí tại chính ngân hàng của mình. Đây chính là các bước, nội dung công việc mà các cán bộ tín dụng, các phòng ban có liên quan trong ngân hàng phải thực hiện khi tài trợ cho khách hàng.
1.2.2.3. Qui trình tín dụng NHTM
Bảng 1: Qui trình tín dụng tổng quát
Các giai đoạn của qui trình
Nguồn và nơi cung cấp thông tin
Nhiệm vụ của ngân hàng ở các giai đoạn
Kết quả sau khi kết thúc một giai đoạn
Lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng
Khách hàng đi vay cung cấp
Tiếp xúc, phổ biến và hướng dẫn lập hồ sơ cho khách hàng
Hoàn thành bộ hồ sơ để chuyển sang bộ phận phân tích.
Phân tích tín dụng
+ Hồ sơ đề nghị vay từ giai đoạn 1 chuyển sang
+ Các thông tin bổ sung từ phỏng vấn, hồ sơ lưu trữ…
Tổ chức thẩm định về các mặt tài chính và phi tài chính do các cá nhân hoặc bộ phận thực hiện.
Báo cáo kết quả thẩm định để chuyển sang bộ phận có thẩm quyền và quyết định cho vay.
Quyết định tín dụng
+ Các tài liệu và thông tin từ giai đoạn 2 chuyển sang và báo cáo kết quả thẩm định.
+ Các thông tin bổ sung
Quyết định cho vay hoặc từ chối của cá nhân hoặc hộ được giao quyền phán quyết
Quyết định cho vay hoặc từ chối
Tiến hành các thủ tục pháp lý như ký hợp đồng tín dụng, các hợp đồng khác.
Giải ngân
Quyết định cho vay và các hợp đồng liên quan.
Các chứng từ làm cơ sở giải ngân.
Thẩm định các chứng từ theo các điều kiện của hợp đồng tín dụng.
Chuyển tiền vào tài khoản tiền gửi cho khách hàng hoặc chuyển trả cho đơn vị cung cấp.
Giám sát, thu nợ và thanh lý tín dụng
Các thông tin từ nội bộ ngân hàng.
Các báo cáo tài chính định kì
Các thông tin khác
Phân tích hoạt động tài khoản, các báo cáo tài chính, kiểm tra cơ sở của khách hàng.
Thu nợ
Tái xét và xếp hạng
Thanh lí tín dụng
Báo cáo kết quả giám sát và đưa ra các giải pháp xử lí.
Lập các thủ tục để thanh lý tín dụng.
(Nguồn giáo trình Tín dụng ngân hàng- Học viện Ngân hàng- Nhóm tập thể biên soạn)
Ngày nay, các ngân hàng và các định chế tài chính cho vay khác đều thiết lập các qui trình tín dụng. Về nguyên tắc, các qui trình tín dụng của các ngân hàng có nội dung cơ bản tương tự nhau, tuy nhiên nội dung chi tiết lại có nhiều khác biệt. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào qui mô của ngân hàng, cấu trúc các loại cho vay, năng lực của đội ngũ nhân sự, mức độ ứng dụng công nghệ tin học. Việc xây dựng các qui trình tín dụng hợp lí sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động quản trị nhằm giảm thiểu rủi ro và nâng cao doanh lợi.
Phân tích tài chính doanh nghiệp trong cho vay của NHTM
Khái niệm, mục đích phân tích tài chính doanh nghiệp trong cho vay
Khái niệm
Trước khi quyết định có cấp vốn theo hồ sơ xin vay vốn cho khách hàng hay không thì ngân hàng luôn thực hiện việc phân tích tín dụng. Phân tích tín dụng chia làm hai lãnh vực là: phân tích tài chính và phân tích phi tài chính. Trong đó:
Phân tích tài chính là phân tích hiện trạng tài chính và các dự báo về tài chính trong tương lai của khách hàng nhằm tìm kiếm và tiên lượng những trường hợp xấu có thể xảy ra, làm giảm khả năng trả nợ của khách hàng. Phân tích tài chính gồm đánh giá khái quát về quản trị vốn và các hoạt động kinh doanh; Phân tích hệ số tài chính; Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ; Phân tích các dự báo tài chính.
1.2.1.2. Mục đích phân tích tài chính doanh nghiệp trong cho vay
Thực chất, phân tích tài chính trong phân tích tín dụng chính là xác định các yếu tố về lượng của nhu cầu vay vốn tín dụng. Ở đây, ngân hàng sẽ xác định qui mô của nhu cầu vay hợp lý. Nhu cầu vay được xác định tùy theo khả năng hoạt động của khách hàng, theo qui mô về nguồn vốn cần thiết để thực hiện phương án tài chính, mà trong đó một phần vốn vay sẽ tham gia.
Bên cạnh đó, qua quá trình phân tích tài chính , ngân hàng cũng sẽ xác định thời gian hợp lý cho khoản vay. Thời hạn cho vay được coi là khoảng thời gian từ lần đầu tiên phát tiền vay (giải ngân) cho đến khi khách hàng thanh toán xong khoản tiền vay, bao gồm cả gốc và lãi. Cơ sở để xác định thời hạn cho vay là tính luân chuyển vốn của phương án sản xuất, kinh doanh và phương án tài chính hoặc chu kì ngân quĩ của khách hàng. Hơn nữa, thời hạn cho vay phải không vượt quá kì hạn tối đa, mà ngân hàng qui định cho từng loại đối tượng vay cũng như ngành, nghề của khách hàng.
Cùng với việc xác định thời hạn cho vay, ngân hàng còn xác định các kì hạn trả nợ. Một khoản vay có thể qui định một kì hạn trả nợ duy nhất, cũng có thể định ra nhiều kì hạn trả nợ. Tuy nhiên, dù có định chia ra nhiều kì hạn trả nợ thì về nguyên tắc, kì hạn trả nợ cuối phải trùng với ngày đáo hạn của khoản vay.
Để xác định kì hạn trả nợ một cách khoa học, ngân hàng phải tiến hành phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ của khách hàng. Trong thực tế vẫn có trường hợp khách hàng kinh doanh có lãi nhưng vẫn không có khả năng trả nợ, vì lưu chuyển tiền tệ bị thâm hụt trong một giai đoạn nhất định. Khả năng thanh toán nợ định kì chỉ xảy ra nếu khách hàng trong thời gian vay có các kì lưu chuyển tiền thuần dương. Tuy nhiên ,cần khẳng định một điều rằng cho dù ó kì lưu chuyển tiền tệ thuần âm ở một vài kì nhưng xét trong toàn bộ thời gian vay vốn, khách hàng phải có lưu chuyển tiền tệ thuần dương, đủ trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng.
Mục đích của phân tích tín dụng như đã nêu trên là dự kiến rủi ro có thể xảy ra đối với khoản tín dụng sẽ cấp. Vì vậy, sau khi phân tích cần phải xếp hạng rủi ro của doanh nghiệp theo những tiêu chí nhất định và thường được định lượng bằng các tiêu chí như: rủi ro ngành nghề kinh doanh của khách hàng, rủi ro quản trị, rủi ro thị trường,… rủi ro thanh toán tiền hàng, rủi ro thực hiện hợp đồng thương mại.
Phương pháp phân tích tài doanh nghiệp trong cho vay của NHTM
Hiện nay hoạt động cho vay của ngân hàng ngày càng được mở rộng và phát triển với nhiều hình thức cấp vốn đầu tư khác nhau. Các ngân hàng lại phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt và những rủi ro lớn từ phía khách hàng, nhất là tại thời điểm nền kinh tế thị trường như hiện nay. Vì vậy, phân tích các báo cáo tài chính cần được tiến hành trên nhiều phương pháp nhằm thấy rõ hiện trạng tài chính của doanh nghiệp. Dưới đây là một số phương pháp thông dụng thường được áp dụng trong phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp trong cho vay của Ngân hàng
Phương pháp so sánh
Các ngân hàng phân tích tĩnh so sánh các báo cáo tài chính bằng việc xem xét các bảng cân đối kế toán, các báo cáo kết quả kinh doanh, hoặc báo cáo dòng tiền liên tục trong vài thời kì. So sánh là việc xem xét sự thay đổi của các tài khoản giữa hai hoặc nhiều năm. Thông tin quan trọng nhất trong phân tích tĩnh các báo cáo tài chính là “tính xu thế”. So sánh các báo cáo tài chính qua vài thời kì có thể cho thấy tính xu hướng, tốc độ và phạm vi của xu thế. Phân tích tĩnh so sánh cũng so sánh các xu thế của các khoản mục có liên quan với nhau. Phương pháp so sánh có hai kỹ thuật phân tích tĩnh so sánh phổ biến là: Phân tích sự thay đổi giữa các năm và phân tích chỉ số
Phân tích sự thay đổi(so sánh) giữa các năm: là việc so sánh sự thay đổi các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp qua những thời kì ngắn, thường là hai hoặc ba năm. Đây là phương pháp đơn giản, dễ quản lí và hay được các ngân hàng áp dụng. Ngân hàng có thể dễ dàng so sánh cả số tuyệt đối và tương đối. Việc so sánh cả số tương đối và tuyệt đối là rất cần thiết, bởi nếu cơ sở khác nhau thì phần trăm thay đổi cũng có ý nghĩa khác nhau. Ví dụ, 50% thay đổi của 1000$ thì ít có ý nghĩa bằng 50% thay đổi của 100,000$. Để có các kết luận có giá trị thì cần thiết phải xem xét đến cơ sở so sánh( số tuyệt đối). Phân tích tĩnh các báo cáo tài chính phản ánh cả giá trị tích lũy và giá trị trung bình của các chỉ tiêu trong kì phân tích. So sánh các chỉ tiêu hàng năm với chỉ tiêu trung bình được tính toán trong nhiều thời kì sẽ giúp người phân tích nhận ra được những giao động bất thường.
Kĩ thuật thứ hai trong phân tích tĩnh các báo cáo tài chính là phân tích chỉ số. Đây là một công cụ hữu ích để so sánh trong dài hạn là phân tích chỉ số. Phân tích số liệu sử dụng phương pháp chỉ số yêu cầu cần phải có một kì làm kì cơ sở, cho tất cả các chỉ tiêu, chi tiêu năm cơ sở được qui ước là 100. Kì cơ sở sẽ là kì tham chiếu cho mọi so sánh, nên tốt nhất nên chọn một năm có điều kiện kinh doanh bình thường làm kì cơ sở. Kĩ thuật phân tích chỉ số thường không áp dụng cho phân tích toàn bộ báo cáo tài chính mà chỉ tập trung phân tích các chỉ tiêu quan trọng. Tuy nhiên khi sử dụng kĩ thuật phân tích chỉ số cần chú ý rằng sự thay đổi của các chỉ tiêu có thể do các nguyên nhân từ nền kinh tế hoặc ngành kinh doanh. Hơn nữa, cũng cần phải chú ý đến sự thay đổi của các nguyên tắc kế toán theo thời gian. Thời kì so sánh càng dài thì sự thay đổi của các mức giá càng bị bóp méo.Nếu có thể, trong quá trình phân tích cần điều chỉnh lại những mâu thuẫn này để đảm bảo chất lượng của kết quả phân tích.
Phương pháp tỷ số
Phân tích tỷ số là một công cụ phổ biến và được sử dụng rộng rãi nhất trong phân tích tài chính. Một tỷ số biểu hiện mối quan hệ toán học giữa hai đại lượng. ý nghĩa của phương pháp phân tích tỷ số không nằm ở chỗ các tính toán số học mà ở chỗ giải thích mối quan hệ kinh tế hàm chứa trong tỷ số đó. Phân tích tỷ số giúp cho chúng ta có cái nhìn toàn diện về tình hình tài chính của công ty. Phân tích tỷ số có thể cho biết các mối quan hệ quan trọng, các điều kiện và các chỉ tiêu riêng lẻ mà nếu chỉ so sánh không thì không thể xác định được. Do đó, giống như các công cụ phân tích khác, các tỷ số thường được sử dụng nhiều nhất trong phân tích xu hướng tương lai. Điều này có nghĩa là cần săp xếp các nhân tố ảnh hưởng tới các tỷ số theo khả năng trong tương lai và tầm quan trọng của chúng. Đây thực chất là việc đánh giá các nhân tố tiềm năng sẽ ảnh hưởng đến các tỷ số trong tương lai. Bởi vậy, sự hữu ích của các tỷ số phụ thuộc vào khả năng ứng dụng và giải thích các tỷ số, đó là thách thức lớn nhất trong phương pháp phân tích tỷ số.
Khi áp dụng phương pháp tỷ số trong phân tích cần chú ý tới các nhân tố tác động tới các tỷ số như các sự kiện kinh tế xã hội, các nhân tố về kinh doanh, các chính sách quản lí và các phương pháp kế toán. Các tỷ số cũng không cs ý nghĩa khi đứng một cách độc lập. Chúng chỉ có ý nghĩa khi kết hợp với việc so sánh với: các tỷ số của các năm trước, các tiêu chuẩn của ngành, các tỷ số của các đối thủ cạnh tranh. Việc thay đổi của các tỷ số theo thời gian cũng quan trọng như tính xu hướng của nó.
Phương pháp phân tích tài chính Dupont
Dupont là một phương pháp phân tích tài chính mới và được áp dụng rất hiệu quả trong phân tích tài chính doanh nghiệp hiện nay. Thực chất phương pháp này phải dựa trên cơ sở các tỷ lệ được tính toán theo phương pháp tỷ lệ. Phương pháp này giúp nhà phân tích đánh giá tác động vòng quay toàn bộ vốn, doanh lợi tiêu thụ đến doanh lợi vốn chủ sở hữu. Mối quan hệ này được thể hiện trong phương trình Dupont:
Hệ số sinh lời tổng tài sản: (1)
ROE là doanh lợi vốn chủ sở hữu. Nếu toàn bộ tài sản của doanh nghiệp được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu thì doanh lợi vốn và doanh lợi vốn chủ sở hữu sẽ bằng nhau và khi đó tổng tài sản = tổng nguồn vốn chủ sở hữu
(2)
Nếu doanh nghiệp sử dụng nợ để tài trợ cho tài sản của mình thì ta có mối liên hệ giữa ROA và ROE:
(3)
Kết hợp (1) và (3):
Với Rd = là hệ số nợ và phương trình này gọi là phương trình Dupont mở rộng thể hiện sự phụ thuộc của doanh lợi vốn CSH vào doanh lợi tiêu thụ, vòng quay toàn bộ vốn và hệ số nợ.
Phương pháp phân tích Dupont có ưu điểm lớn giúp cho nhà phân tích phát hiện và tập trung vào các yếu điểm của doanh nghiệp. Nếu doanh lợi vốn CSH của doanh nghiệp thấp hơn các doanh nghiệp khác trong cùng ngành chỉ cần dựa vào hệ thống các chỉ tiêu theo phương pháp phân tích Dupont nhà phân tích có thể tìm ra nguyên nhân. Dùng phương pháp phân tích tài chính Dupont còn có thể giúp cho doanh nghiệp xác định xu hướng hoạt động trong một thời kỳ để có thể phát hiện ra những khó khăn và thuận lợi mà doanh nghệp có thể gặp phải trong tương lai.
Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp trong cho vay của NHTM
Phân tích tỷ trọng các báo cáo tài chính
Phân tích tỷ trọng các báo cáo tài chính là việc nghiên cứu các báo cáo tài chính dưới dạng tỷ trọng của một nhóm hoặc một phân nhóm cấu thành nên một khoản mục riêng biệt. Đặc biệt, trong phân tích bảng cân đối kế toán, người ta thường biểu diễn tổng tài sản( hoặc tổng nguồn vốn) là 100%. Sau đó, các khoản mục trong phần tài sản được biểu diễn như phần trăm của tổng tài sản. Trong phân tích báo cáo kết quả kinh doanh thì doanh thu được coi là 100% và các chỉ tiêu khác trong báo cáo được biểu diễn dưới dạng phần trăm của doanh thu. Phân tích theo qui trình này được gọi là phân tích theo chiều dọc( vertical analysis), căn cứ vào sự tăng hoặc giảm giá trị của các khoản mục trong báo cáo tỷ trọng. Phân tích tỷ trọng các báo cáo tài chính rất có ích trong phân tích các chỉ tiêu cấu thành nên báo cáo tài chính. Ví dụ, phân tích bảng cân đối kế toán, phân tích tỷ trọng tập trung vào hai nhân tố:
Nguồn tài trợ: bao gồm cơ cấu các nguồn tài trợ gồm nợ ngằn hạn, nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu
Cơ cấu tài sản: bao gồm tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn
Phân tích tỷ trọng báo cáo tài chính cần được mở rộng để phân tích các khoản mục cấu thành, nên các nhóm đặc biệt. Ví dụ, trong việc đánh giá tính thanh khoản của tài sản ngắn hạn, thì việc phân tích tỷ trọng của hàng tồn kho trong tổng tài sản ngắn hạn là rất quan trọng, chứ không phải tỷ trọng của hàng tồn kho trong tổng tài sản. Phân tích ,quả kinh doanh rất dễ chuyển sang phân tích tỷ trọng, mỗi một chỉ tiêu được coi như là phần trăm của một chỉ tiêu quan trọng, ví dụ doanh thu. Với các giác độ khác nhau, doanh thu tác động hầu hết lên các chi phí, do đó có thể biểu diễn hầu hết chi phí dưới dạng phần trăm của doanh thu.
Phân tích tỷ trọng các báo cáo tài chính đóng một vai trò rất quan trọng trong phân tích tài chính doanh nghiệp. Nó phản ánh về qui mô, chất lượng đầu tư và quản lí tài sản của doanh nghiệp, khả năng thanh toán các khoản nợ, mức độ tự chủ về tín dụng của doanh nghiệp và khả năng mở rộng tín dụng, phục vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn nữa, so sánh theo thời gian các báo cáo tỷ trọng ._.của doanh nghiệp rất hữu ích trong việc phát hiện sự thay đổi về tỷ trọng của các khoản mục trong các nhóm như các tài sản, các khoản nợ, các chi phí…để tìm ra tính xu hướng của những sự thay đổi này. Việc phân tích tỷ trọng các báo cáo tài chính còn rất có ích trong việc so sánh giữa các doanh bởi các báo cáo tài chính của các doanh nghiệp khác nhau đều có thể biểu diễn lại dưới dạng tỷ trọng. Bằng việc lập các báo cáo tỷ trọng, cán bộ ngân hàng có thể so sánh báo cáo tỷ trọng của công ty với các đối thủ cạnh tranh và các số liệu trung bình ngành, từ đó có thể làm nổi bật sự khác nhau trong các chỉ tiêu thành phần. Những nguyên nhân khác nhau đó cần được phân tích và làm rõ để nhìn nhận được ưu thế cũng như những hạn chế trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như quản lí tài chính của doanh nghiệp cần vay vốn.
Phân tích dòng tiền
Việc nghiên cứu bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh là chưa đủ
kết luận về khả năng huy động và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Các số liệu về doanh thu và chi phí thể hiện trong báo cáo kết quả kinh doanh được ghi nhận theo nguyên tắc kế toán dồn tích, tức là ghi nhận theo hóa đơn, khi phát sinh doanh thu và chi phí chứ không phải theo dòng tiền thực thu và thực chi trong kì. Do đó, việc dự báo khả năng thanh toán của doanh nghiệp cần phải dựa vào báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp kết hợp với các báo cáo tài chính khác giúp ngân hàng dự báo tốt khả năng thanh khoản của doanh nghiệp trong tương lai, hạn chế rủi ro tín dụng đối với ngân hàng và là yếu tố rất quan trọng trong việc ra quyết định tín dụng của ngân hàng.
Phân tích các tỷ số tài chính
Như ta đã biết, phương pháp tỷ số là phương pháp rất thông dụng phân tích tài chính một doanh nghiệp, khi sử dụng, có thể kết hợp với phương pháp so sánh hoặc phương pháp phân tích DUPONT để có thể đánh giá, so sánh về mặt thời gian, không gian giữa các giá trị nhận được, phân tích ảnh hưởng, tác động của các nhân tố khác nhau tới chỉ tiêu nhân tố tổng hợp. Liên quan đến phân tích các tỷ số, có thể phân chia thành các nhóm chỉ tiêu sau
- Các tỷ số về khả năng thanh toán bao gồm hai nhóm chỉ tiêu đó là:
+ Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán ngắn hạn: Nhóm chỉ tiêu này nhằm đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn.
Khả năng thanh toán ngắn hạn
=
Tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn
Thông thường tỷ số này ở mức trên 1 là đảm bảo, tuy nhiên cũng tùy vào từng loại hình doanh nghiệp và từng trường hợp cụ thể mà có các kết luận khác nhau. Ví dụ, nếu hầu hết Nợ ngắn hạn là do chiếm dụng vốn, tỷ số này nhỏ hơn 1 vẫn không phản ánh khả năng thanh toán là không tốt.
Khả năng thanh toán nhanh
=
Tài sản lưu động – Hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn
Đây là chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán Nợ ngắn hạn bằng các tài sảncóthể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, không phụ thuộc vào việc bán hàng hóa dự trữ. Trong toàn bộ phần tài sản ngắn hạn thì hàng tồn kho là khoản mục có tính thanh khoản kém nhất và khi bán dễ bị thua lỗ nhất nên không được đưa vào trong tỷ số này.
Trên thực tế, việc sử dụng chỉ tiêu thanh toán nhanh sẽ hợp lý hơn việc sử dụng chỉ tiêu thanh toán toán hiện hành vì một doanh nghiệp chỉ thực sự quản lý các hoạt động tốt khi có thể đáp ứng các yêu cầu chi trả đến hạn mà không phải bán bớt đi các khoản dự trữ - vốn là cơ sở cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Thêm vào đó, việc quản lý các khoản mục trong tài sản lưu động hợp lý (được phản ánh rõ nét hơn qua chỉ tiêu thứ hai) cũng sẽ giúp cho doanh nghiệp hoạt động có ổn định và hiệu quả hơn. Tiền
Khả năng thanh toán tức thời= __________________________
Nợ đến hạn
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng nợ đến hạn được thanh toán bằng ba nhiêu tiền mặt tại quĩ. Chỉ tiêu này của một doanh nghiệp cần được duy trì ở mức hợp lí, nếu chỉ tiêu này quá cao phản ánh việc dữ trữ tiền mặt tại quĩ của doanh nghiệp là dư thừa, không hiệu quả, nếu chỉ tiêu này quá thấp phản ánh nguy cơ phá sản do không đáp ứng được khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn của doanh nghiệp.
+ Nhóm chỉ tiêu phản ánh cơ cấu vốn và khả năng thanh toán dài hạn
Tổng Nợ
Tỷ số Nợ = ____________________
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này phản ánh có bao nhiêu phần trăm tài sản được tài trợ bởi nguồn nợ vay. Nếu như doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, việc sự dụng nợ có tác dụng đòn bẩy tài chính, ngược lại nó lại có tác dụng làm gia tăng thua lỗ. Do đó, chỉ tiêu này cần được xem xét đánh giá để điều hành chính sách tài chính của công ty cũng như cần cho việc dự báo kết quả kinh doanh dưa trên cơ cấu tài chính của cán bộ ngân hàng.
Nợ dài hạn
Tỷ số ___________________
Vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này phản ánh cơ cấu vốn của doanh nghiệp, nếu như chỉ tiêu này càng thấp càng cho thấy khả năng độc lập về tài chính của doanh nghiệp trong việc mua sắm, đầu tư vào các tài sản dài hạn. Nếu chỉ tiêu này quá lớn hàm chứa khả năng bị phá sản khi các khoản nợ dài hạn đến hạn thanh toán.
EBIT
Tỷ số khả năng thanh toán lãi vay = _________________
Chi phí trả lãi
Trong đó, EBIT là tổng lợi nhuận mà doanh nghiệp tạo ra trước lãi vay
Tỷ số này phản ánh một đồng chi phí trả lãi được tài trợ bởi bao nhiêu đồng EBIT. Tỷ số này càng lớn càng cho thấy khả năng sử dụng nợ vay hiệu quả. Tuy nhiên việc sử dụng nợ vay cũng có giới hạn. Nợ vay được huy động và phát huy tác dụng tốt đến khi : Lãi suất=< EBIT / Tổng tài sản.
Nhóm tỷ số về khả năng hoạt động
Khả năng hoạt động của doanh nghiệp được đánh giá thông qua hiệu quả kinh doanh, nó phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp về lao động, vật tư, tiền vốn để đạt kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Các chỉ tiêu về khả năng hoạt động đánh giá hiệu quả việc sử dụng vốn nói chung, chú trọng đến từng bộ phận cấu thành nên nguồn vốn của doanh nghiệp.
Vòng quay hàng tồn kho
=
Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho
Đây là chỉ tiêu quan trọng không chỉ nhà quản trị quan tâm mà các nhà đầu tư, chủ nợ cũng rất coi trọng. Vì chỉ tiêu này đo lường khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Bình quân một đơn vị sản phẩm hàng hoá dự trữ tham gia vào quá trình kinh doanh thì thu được bao nhiêu đồng giá vốn. Hệ số này càng cao phản ánh hoạt động kinh doanh càng tốt và ngược lại có nghĩa là có sự bất hợp lý trong khâu dự trữ, sản xuất làm hàng hóa kém chất lượng hay yếu kém trong khâu tiêu thụ.
Vòng quay vốn lưu động
=
Doanh thu thuần
Tài sản lưu động
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ kinh doanh vốn lưu động quay được bao nhiêu vòng. Số vòng quay càng lớn, hiệu quả sử dụng vốn lưu động cao và ngược lại.
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
=
Doanh thu thuần
Tài sản cố định
Chỉ tiêu này cho biết bình quân một đồng tài sản cố định tham gia vào quá trình kinh doanh tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Tài sản cố định ở đây được tính theo giá trị còn lại đến thời điểm lập báo cáo. Doanh nghiệp chú ý đến chỉ tiêu này để đánh giá mức độ cần thiết cho việc đầu tư vào tài sản cố định có tạo ra doanh thu lớn hay không để có hướng nâng cấp hay mua sắm mới.
Kỳ thu tiền
bình quân
=
Các khoản phải thu
Doanh thu bình quân
Kỳ thu tiền bình quân được sử dụng để đánh giá khả năng thu tiền trong thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu bình quân một ngày. Nếu kỳ thu tiền bình quân cao, chứng tỏ doanh nghiệp bị ứ đọng vốn ở các khoản phải thu hoặc doanh thu bình quân một ngày nhỏ là do hàng hóa không tiêu thụ được, nếu tỷ số này thấp chứng tỏ khả năng thu hồi vốn của doanh nghiệp nhanh.
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
=
Doanh thu thuần
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này phản ánh một yếu tố đầu vào trong quá trình kinh doanh sinh ra bao nhiêu kết quả đầu ra. Nhìn vào chỉ tiêu này, các đối tượng quan tâm có thể nhìn thấy tổng quát về năng lực hoạt động của doanh nghiệp từ đó hỗ trợ cho việc ra quyết định.
Nhóm tỷ số phản ánh khả năng sinh lời
Khi phân ngân hàng tiến hành phân tích tài chính doanh nghiệp thì việc đánh giá khả năng sinh lời của doanh nghiệp là rất quan trọng. Khả năng sinh lời của công ty quyết định đến việc sống còn của công ty và liên quan trực tiếp đến khả năng trả nợ của công ty. Tuy nhiên, khả năng sinh lời không chỉ đánh giá trên mức lợi nhuận sau thuế mà doanh nghiệp đạt được bởi nếu chỉ sử dụng chỉ tiêu này mà bỏ qua các yếu tố như tổng tài sản bỏ ra đầu tư, mức lợi nhuận trên tổng doanh thu thì con số doanh lợi cao chưa phản ánh đầy đủ chất lượng của lợi nhuận. Do đó, khả năng sinh lời cần được đánh giá toàn diện trên môt hệ thống chỉ tiêu, bao gồm:
Tỷ số sinh lợi doanh thu
=
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này phản ánh trong một đồng doanh thu thu về thì có bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Tuy nhiên chỉ tiêu trên cao chỉ tốt khi việc tăng lợi nhuận là do giảm chi phí sản xuất, nếu chỉ tiêu này tăng lên do doanh nghiệp tăng gia bán tại giai đoạn phân tích thì sẽ là không tốt vì trực tiếp gây ra nguy cơ sụt giảm lợi nhuận trong tương lai.
Hệ số sinh lời của tài sản (ROA)
=
Lợi nhuận sau thuế + Lãi phải trả
Tổng tài sản
Đây là chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời của tổng tài sản, phản ánh cứ một đồng đầu tư vào tài sản thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế và chi phí trả lãi. Tỷ số ROA cao hay thấp tùy thuộc rất nhiều vào loại hình kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp hoạt động trong kĩnh vực sản xuất kinh doanh thì ROA tương đối thấp vì tổng tài sản của doanh nghiệp thường lớn, ngược lại với các doanh nghiệp chỉ chuyên phục vụ các ngành dịch vụ thì tổng tài sản thường nhỏ, ROA ở tỷ lệ cao mới phản ánh khả năng sinh lời tốt.
Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu (ROE)
=
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này là một trong các chỉ tiêu thường được dùng để đánh giá khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Phản ánh cứ một đồng vốn chủ sở hữu đem đầu tư thì đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Nếu chỉ tiêu này cao thì doanh nghiệp dễ dàng có thể tìm vốn trên thị trường cũng có nghĩa là ngân hàng sẽ đánh giá cao các doanh nghiệp này và dễ dàng cho các doanh nghiệp này vay vốn hơn các doanh nghiệp có ROE thấp
Lập bảng tài trợ
Bảng tài trợ là bảng phân tích nguồn vốn và sử dụng vốn của một doanh nghiệp trong một thời kì. Việc lập bảng tài trợ căn cứ vào sự thay đổi của bảng cân đối kế toán từ kì trước tới kì này, sự thay đổi đó sẽ cho ta biết vốn đã được cấu thành hay sử dụng vào những công việc gì.
Khi lập bảng này, cán bộ tín dụng trước hết phải liệt kê sự thay đổi các khoản mục trên Bảng cân đối kế toán từ đầu kỳ đến cuối kỳ. Mỗi sự thay đổi được phân biệt ở hai cột: sử dụng vốn và nguồn vốn theo nguyên tắc.
- Nếu các khoản mục bên tài sản tăng hoặc các khoản mục bên nguồn vốn giảm thì điều đó thể hiện việc sử dụng vốn.
- Nếu các khoản mục bên tài sản giảm hoặc các khoản mục bên nguồn vốn tăng thì điều đó thể hiện việc tạo nguồn.
Việc thiết lập Bảng tài trợ là cơ sở để cán bộ tín dụng chỉ ra những trọng điểm đầu tư vốn và những nguồn vốn chủ yếu được hình thành để đầu tư.
Bảng 2: Bảng tài trợ
Sử dụng vốn
Nguồn vốn
Chỉ tiêu
Số tiền
%
Chỉ tiêu
Số tiền
%
Tăng tài sản
Giảm nguồn vốn
Giảm tài sản
Tăng nguồn vốn
Tổng vốn
100
Tổng nguồn vốn
100
Sau khi đã phân tích các chỉ tiêu như trên, một phân tích rất quan trọng đối với cán bộ tín dụng là xác định nhu cầu vốn thực sự của doanh nghiệp, trong đó nhu cầu vốn được xác định khác nhau căn cứ vào loại hình tín dụng mà doanh nghiệp xin tài trợ. Dựa vào đặc điểm của từng loại hình tín dụng, có thể xác định một số nhu cầu vốn của doanh nghiệp như sau:
Đối với cho vay trực tiếp từng lần
Nhu cầu vay vốn = Nhu cầu vốn cho SXKD - Vốn tự có – Vốn khác
Trong đó, nhu cầu vốn cho SXKD chính là tổng nhu cầu về TSCĐ và TSLĐ phục vụ cho hoạt động SXKD.
Đối với cho vay theo hạn mức
Hạn mức tính dụng = Nhu cầu bổ sung VLĐ - Vốn tự có – Vốn khác
Nhu cầu bổ sung VLĐ = Tổng chi phí SXKD/ vòng quay VLĐ
Tổng chi
phí SXKD
=
Chi phí
NVL
dự trữ
+
Chi phí
Sản phẩm
dở dang
+
Thành phần
tồn kho
bình quân
+
Chi phí
bình quân
khác
Vòng
quay VLĐ
=
Vòng quay hàng tồn kho
+
Thời gian thu hồi các khoản phải thu
-
Thời gian chậm trả các khoản phải trả
Đối với cho vay theo dự án đầu tư
Mức cho vay tối đa
=
Nhu cầu vốn Thực hiện dự án
-
Vốn tự có tham gia dự án
-
Vốn khác
Trong quá trình phân tích tài chính doanh nghiệp ngân hàng sẽ tiếp xúc với rất nhiều nguồn thông tin khác nhau. Chính vì vậy, việc chọn lọc và sử dụng thông tin xác thực, loại bỏ các thông tin không đáng tin cậy là rất cần thiết. Tuy nhiên, khi có nguồn thông tin phù hợp thì cán bộ tín dụng lại phải cân nhắc đến các chỉ tiêu đánh giá khác nhau, tùy thuộc vào giá trị của khoản vay, loại hình hoạt động của doanh nghiệp và thời gian vay vốn. Sự linh hoạt trong tìm kiếm và sử dụng thông tin là yếu tố quan trọng giúp tăng độ chính xác của kết quả phân tích tài chính doanh nghiệp.
1.2.4. Chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong cho vay của NHTM
1.2.4.1. Khái niệm
Theo Từ điển thuật ngữ kinh tế – NXB Từ điển Bách Khoa Hà Nội, 2001 thì: Chất lượng là toàn bộ các đặc tính của một hàng hoá hoặc dịch vụ đáp ứng được yêu cầu của người mua. Vật liệu, kiểu dáng và kỹ thuật chế biến là những đặc điểm quan trọng của chất lượng sản phẩm, ảnh hưởng đến việc tiêu dùng sản phẩm đó.
Như vậy, có thể hiểu nghĩa chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp của Ngân hàng như sau: Chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp là toàn bộ các đặc tính của phân tích đáp ứng với yêu cầu và mục đích của Ngân hàng. Thông tin và phương pháp xử lý thông tin phục cho phân tích, sự phù hợp của các chỉ tiêu phân tích là những đặc điểm quan trọng của chất lượng phân tích, ảnh hưởng đến việc sử dụng kết quả phân tích.
Mặc dù được dịnh nghĩa như trên xong cũng tùy vào từng trường hợp cụ thể mà một phân tích được coi là có chất lượng tốt hay không. Chất lượng của kết quả phân tích phải thích hợp với các yêu cầu của Ngân hàng, không chỉ ở tính chính xác, tính kịp thời mà còn phải phù hợp với mục tiêu hoạt động, phương hướng hoạt động của ngân hàng trong thời gian tới. Nếu như một ngân hàng đang ở thời kì đầu đi vào hoạt động, ngân hàng áp dụng chính sách kinh doanh rủi ro, thì chưa hẳn một kết luận về khả năng tài chính của khách hàng chưa tốt, không cấp vốn đã là một kết quả phân tích đạt yêu cầu.
1.2.4.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp
Hiện nay chưa có một hệ thống các chỉ số mang tính chuẩn mực, rõ ràng và thống nhất để đánh giá chất lượng phân tích tài chính khách hàng của các NHTM. Tuy nhiên, ngươi ta vẫn thường dùng một số các chỉ tiêu sau đây để xem xét, đánh giá chất lượng phân tích tài chính khách hàng trong cho vay của NHTM.
Nhóm các chỉ tiêu định tính
Việc chấp hành qui trình phân tích tài chính doanh nghiệp trong cho vay của Ngân hàng
Cụ thể là việc tiến hành phân tích tài chính doanh nghiệp có tuân theo qui trình mà ngân hàng đã qui định trước đó hay không. Việc đánh giá đối chiếu này là cần thiết vì hầu như các qui trình tín dụng được đưa vào áp dụng là những công trình nghiên cứu khoa học hoặc các mô hình đã được nghiên cứu, áp dụng thử nghiệm và đã đạt được hiệu quả cao. Tiến hành phân tích thiếu các phần hành trong qui trình dễ dẫn đến việc bỏ sót các thông tin quan trọng gây nên sự sai lệch trong kết quả phân tích. Việc chấp hành qui trình còn thể hiện ở việc phân công rõ chức năng, nhiệm vụ của từng đối tượng tham gia thực hiện công tác từ khâu tiếp xúc khách hàng, khâu phân tích các báo cáo tài chính mang tính nghiệp vụ cao cho đến khâu theo dõi, quản lí khoản vay và khách hàng vay vốn của các cán bộ phòng quản lí Nợ.
Thời gian phân tích
Thời gian tiến hành phân tích cũng là một chỉ tiêu đánh giá chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong cho vay của Ngân hàng bởi áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng hiện nay là rất lớn, chỉ có các ngân hàng luôn sẵn sàng tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiến hành vay vốn mới thu hút được nhiều khách hàng. Tuy nhiên, thời gian phân tích nhanh cũng phải gắn liền với chất lượng phân tích tốt thì khoản vay mới mang lại lợi nhuận cho ngân hàng và ngăn ngừa khả năng mất vốn của Ngân hàng.
Trình độ ứng dụng khoa học kĩ thuật trong phân tích
Nếu ngân hàng ứng dụng công nghệ kĩ thuật hiện đại trong phân tích tài chính doanh nghiệp thì việc phân tích sẽ được tiến hành một cách nhanh chóng và ngân hàng cũng lựa chọn được các khách hàng tốt, nâng cao chất lượng phân tích cũng như chất lượng tín dụng của Ngân hàng.
Nhóm các chỉ tiêu định lượng
Tổng dư nợ tín dụng là tổng số tiền ngân hàng cho vay tại một thời điểm. Tổng dư nợ tín dụng phản ánh qui mô tín dụng của ngân hàng tại thời điểm xem xét.
Doanh số cho vay trong kì là tổng số tiền mà Ngân hàng cho vay trong kì.
Tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ: đây là tỷ lệ phản ánh rõ nét nhất chất lượng tín dụng của ngân hàng. Tỷ lệ này cho biết có bao nhiêu (%) vốn của Ngân hàng mà khách hàng không hoàn trả theo đúng hợp đồng tín dụng đã cam kết.
Tuy nhiên, trong quá trình xem xét đánh giá chất lượng tín dụng nói chung cũng như chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp nói riêng cần xem xét tính biến động của các chỉ tiêu trên một cách đồng thời mới có được cái nhìn đúng đắn. Chất lượng phân tích tài chính khách hàng được thể hiện tốt nếu như tổng dư nợ tín dụng tăng, doanh số cho vay trong kì tăng và tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ giảm. Như vậy có nghĩa rằng Ngân hàng đã cấp thêm được nhiều khoản vay mới có chất lượng tốt, ngược lại, Ngân hàng đang có thêm những khoản vay kém chất lượng, gây nên rủi ro lớn hơn cho Ngân hàng.
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.
1.2.5.1. Chất lượng nguồn thông tin phân tích
Chất lượng nguồn thông tin được xác định bởi tính chính xác và tính thời sự thông tin. Thông tin không chính xác sẽ làm cho kết quả phân tích bị sai lệch hoàn toàn với thực tiễn, gây ra nhiều rủi ro cho ngân hàng. Một thông tin tốt chỉ có ý nghĩa khi nó được biết đến một cách kịp thời, mang lại sự dự báo cho người sử dụng nó. Nếu như doanh nghiệp hoạt động với chiều hướng không tốt mà ngân hàng có thể có thông tin về vấn đề này thì nguồn thông tin đó đã giúp ngân hàng hạn chế được rủi ro trong cho vay và ra được quyết định tín dụng chính xác. Nguồn thông tin xác thực và kịp thời đóng một vai trò then chốt trong quá trình phân tích.
Chất lượng của nguồn thông tin hiện nay các ngân hàng đang dùng để phân tích phụ thuộc rất lớn vào các thông tin trên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cung cấp nguồn thông tin cho ngân hàng với mục đích xin được tài trọ dự án, xin được cấp vốn kinh doanh do đó họ thường có điều chỉnh các số liệu để làm cho các báo cáo phản ánh về tình hình của công ty khả quan hơn thực tế. Hiện nay, chỉ có các công ty được kiểm toán là có các báo cáo tương đối đáng tin cậy, các báo cáo công ty chưa được kiểm toán cung cấp cho ngân hàng cần được xem xét cẩn thận trước khi sử dụng. Tuy nhiên, không ít các doanh nghiệp đã che dấu được những khó khăn của mình để có thể vay vốn. Đây là một thực trạng đáng lo ngại, bởi các doanh nghiệp này đang trong tình trạng khó khăn, họ vay vốn và sử dụng không đúng mục đích, kết quả không thu hồi được vốn, vừa gây ảnh hưởng đến ngân hàng. Những quyết định cho vay như vậy đã phản ánh chất lượng phân tích tài chính còn chưa tốt.
Ngoài nguồn thông tin ban đầu do doanh nghiệp cung cấp, ngân hàng còn sử dụng thêm nhiều nguồn thông tin nữa như thông tin từ các đối tác, các ngân hàng cùng hệ thống hay nguồn thông tin do chính ngân hàng nắm giữ, lưu trữ. Các thông tin mà ngân hàng có được có thể là từ quá trình tiếp xúc với khách hàng trong các lần giao dịch trước hay các thông tin về ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp mà ngân hàng đã nghiên cứu, tổng hợp lại. Đây là nguồn thông tin được sử dụng làm cơ sở cho ngân hàng đối chiếu lại khi có các kết quả phân tích từ nguồn thông tin mà doanh nghiệp cung cấp. Mục tiêu của việc khai thác nguồn thông tin lưu trữ và mua lại nay là làm cho kết quả phân tích được chính xác và chắc chắn hơn, phục vụ cho việc ra quyết định tín dụng hiệu quả hơn. Tuy nhiên, việc lưu trữ các thông tin cũng cần phải được làm một cách cẩn thận vì nếu thông tin do ngân hàng cất giữ là thiếu chính xác sẽ ảnh hưởng đến quyết định tín dụng và uy tín của ngân hàng.
Có thể nói chất lượng nguồn thông tin mà ngân hàng sử dụng phân tích đóng vai trò tiên quyết ảnh hưởng đến chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp. Bên cạnh đó cũng có nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến chất lượng phân tích.
1.2.5.2. Phương pháp phân tích
Trên thực tế có rất nhiều phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp đang được các ngân hàng áp dụng như phương pháp so sánh, phương pháp tỷ số, phương pháp tỷ trọng…. Tùy thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp khác nhau mà các ngân hàng có các phương pháp phân tích khác nhau để làm nổi bật được tình hình tài chính của doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác cùng ngành. Khi quyết định sử dụng phương pháp nào ngân hàng căn cứ vào giá trị khoản vay, qui mô của doanh nghiệp và thời gian vay. Nếu doanh nghiệp có qui mô lớn, giá trị khoản vay lớn và thời gian vay dài thì số lượng các phương pháp áp dụng phân tích tài chính doanh nghiệp phải nhiều và được kết hợp với nhau để có thể đưa ra được quyết định tín dụng chính xác. Ngược lại các phương pháp phân tích được áp dụng sẽ đơn giản hơn. Các phương pháp khi được sử dụng chính xác sẽ đem lại hiệu quả rõ rệt, hạn chế được nhiều quyết định cho vay không hiệu quả.
1.2.5.3. Đội ngũ cán bộ tín dụng
Trong quá trình phân tích tài chính doanh nghiệp thì cán bộ tín dụng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Trước hết, họ là người trực tiếp thu thập các nguồn thông tin về doanh nghiệp, tiếp xúc với người đại diện của doanh nghiệp và cũng là người trực tiếp tham gia vào quá trình phân tích. Do đó, chất lượng của đội ngũ cán bộ tín dụng là yếu tố quyết định đến chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp nói riêng và chất lượng tín dụng nói chung. Chất lượng đội ngũ CBTD được đánh giá trên ba phương diện là số lượng, trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp. Số lượng CBTD là một yếu tố rất cơ bản. Khi số lượng cán bộ tín dụng quá ít so với khối lượng công việc, một cán bộ tín dụng phải kiêm nhiệm nhiều doanh nghiệp, nhất là khi các doanh nghiệp kinh doanh trong các ngành nghề khác nhau thì CBTD rất khó để có thể có được kiến thức chuyên sâu về khách hàng để tiến hành phân tích. Yếu tố thứ hai là yếu tố về nghiệp vụ, nếu CBTD có trình độ chuyên môn cao, họ dễ dàng nắm bắt được tình hình của doanh nghiệp, các nhân tố tác động và ảnh hưởng của các nhân tố đó tới tình hình tài chính và tình hình kinh doanh của doanh nghiệp nên sẽ có được các quyết định đúng đắn. Ngược lại, vừa làm chậm trễ quá trình phân tích, vừa không đưa ra được kết luận chính xác. Cuối cùng, yếu tố tư chất đạo đức nghề nghiệp của người CBTD là rất quan trọng. Nếu CBTD không chuyên tâm, cấu kết với khách hàng sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới ngân hàng.
1.2.5.4. Các nhân tố khác
Trình độ ứng dụng khoa học kĩ thuật trong phân tích tài chính
Việc khai thác thông tin từ những nguồn sẵn có, việc thu thập và xử lý
thông tin đòi hỏi phải có một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tốt nhằm rút ngắn thời gian, nâng cao độ chính xác, tăng độ tin cậy của nguồn thông tin. Một cơ sở vật chất, các phương tiện phục vụ cho công tác phân tích nghèo nàn, các tính toán chỉ tiêu chủ yếu dựa vào tính toán thông thường trên máy tính, chưa có những mô hình, hàm chạy đánh giá hiệu quả hoạt động tài chính của doanh nghiệp cũng là một trong những yếu tố tác động lớn đến chất lượng của kết quả phân tích tài chính doanh nghiệp tại Chi nhánh.
Chi phí cho quá trình phân tích
Các khoản chi được tính là chi phí hợp lí cho các hoạt động phân tích tài chính hiện nay đang còn rất eo hẹp, hạn chế CBTD tiếp xúc với doanh nghiệp cũng như tìm kiếm các thông tin ngoài liên quan đến ngành, ngề lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp đang đề nghị vay vốn. Việc hỗ trợ kinh phí cho CBTD trong công tác tìm kiếm, thu thập nguồn thông tin hiệu quả và có phương pháp phân tích tốt nhất là rất cần thiết, bởi điều này ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả phân tích tài chính doanh nghiệp của Ngân hàng.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM - CHI NHÁNH THĂNG LONG
2.1. Khái quát về Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam - CN Thăng Long
2.1.1. Lịch sử hình thành chi nhánh NHNT Thăng Long
Ngày 01 tháng 04 năm 1963, NHNT chính thức được thành lập theo Quyết định số 115/CP do Hội đồng Chính phủ ban hành ngày 30 tháng 10 năm 1962 trên cơ sở tách ra từ Cục quản lý Ngoại hối trực thuộc Ngân hàng Trung ương (nay là NHNN). Theo Quyết định nói trên, NHNT đóng vai trò là ngân hàng chuyên doanh đầu tiên và duy nhất của Việt Nam tại thời điểm đó hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bao gồm cho vay tài trợ xuất nhập khẩu và các dịch vụ kinh tế đối ngoại khác (vận tải, bảo hiểm...), thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối, quản lý vốn ngoại tệ gửi tại các ngân hàng nước ngoài, làm đại lý cho Chính phủ trong các quan hệ thanh toán, vay nợ, viện trợ với các nước xã hội chủ nghĩa (cũ)... Ngày 21 tháng 09 năm 1996, được sự ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc NHNN đã ký Quyết định số 286/QĐ-NH5 về việc thành lập lại NHNT theo mô hình Tổng công ty 90, 91 được quy định tại Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 07 tháng 03 năm 1994 của Thủ tướng Chính phủ.
Trải qua gần 45 năm xây dựng và trưởng thành, tính đến thời điểm cuối năm 2006, NHNT đã phát triển lớn mạnh theo mô hình ngân hàng đa năng với 58 Chi nhánh, 1 Sở Giao dịch, 87 Phòng Giao dịch và 4 Công ty con trực thuộc trên toàn quốc; 2 Văn phòng đại diện và 1 Công ty con tại nước ngoài, với đội ngũ cán bộ gần 6.500 người. Ngoài ra, NHNT còn tham gia góp vốn, liên doanh liên kết với các đơn vị trong và ngoài nước trong nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau như kinh doanh bảo hiểm, bất động sản, quỹ đầu tư... Tổng tài sản của NHNT tại thời điểm cuối năm 2006 lên tới xấp xỉ 170 nghìn tỷ VND (tương đương 10,4 tỷ USD), tổng dư nợ đạt gần 68 nghìn tỷ VND (4,25 tỷ USD), vốn chủ sở hữu đạt hơn 11.127 tỷ VND, đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% theo chuẩn quốc tế.
Năm 2002, qua phân tích thị trường trên địa bàn Hà Nội, NHNT Hà Nội đã chọn quận Cầu Giấy làm nơi đặt chi nhánh cấp hai. Theo phân tích, Cầu Giấy được coi là thị trường có nhiều tiềm năng vì ở đây hiện có nhiều khu chung cư cao tầng và nhiều khu công nghiệp vừa và nhỏ, bên cạnh đó dân cư tập trung trên địa bàn này ngay càng đông với trình độ dân trí cao, mức thu nhập binh quân cao. Dự kiến trong tương lai tốc độ tăng trưởng kinh tế và mật độ dân số trên địa bàn quận Cầu Giấy sẽ tăng mạnh hơn nữa. Chính vì vậy, để đáp ứng nhu cầu kinh doanh và cạnh tranh, chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Cầu Giấy đã được thành lập theo quyết định 532/QĐ.NHNT-TCC-ĐT ngày 19/11/2002 của Hội đồng quản trị Ngân hàng Ngoại thương. Theo quyết định này, chi nhánh Cầu Giấy là chi nhánh cấp II trực thuộc NHNT Hà Nội và chính thức hoạt động từ ngày 03/03/2003. Chi nhánh đặt tại số 98 đường Hoàng Quốc Việt, quận Cầu Giấy, Hà Nội.
Ngày 11 tháng 7 năm 2007, theo Quyết định Số 567 của Hội đồng quản trị Ngân hàng Ngoại thương, thay đổi tên giao dịch của Ngân hàng ngoại thương Cầu Giấy thành Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam-Chi nhánh Thăng Long. Quyết định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/8/2007. Trụ sở của Chi nhánh vẫn đặt tại số 98 Hoàng Quốc Việt, Quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Đến nay Chi nhánh đã đi vào hoạt động theo mô hình Chi nhánh cấp I được gần 1 năm.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức cuả Chi nhánh Thăng Long
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh Thăng Long
KHỐI FRONTED
Ngân quỹ
Kinh doanh dịch vụ NH
Quan hệ khách hàng
Thanh toán
XNK
GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC
KHỐI BACKED
Quản lí
rủi ro
Kế toán nội bộ
Hành chính nhân sự
Tổng hợp
Kế toán thanh toán
PHÓ GIÁM ĐỐC
CÁC PHÒNG GIAO DỊCH
Kim Liên- Ô chợ Dừa
Lê Văn Lương
( Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2007 của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam- chi nhánh Thăng Long)
2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh Thăng Long 5 năm sau khi thành lập
2.1.3.1. Hoạt động huy động vốn
Tính đến ngày 31/5/2003, tức là chỉ sau khoản ba tháng chính thức đi vào hoạt động, chi nhánh Thăng Long đã đạt được tổng doanh số huy động vốn là 72 tỷ đồng, trong đó doanh số huy động bằng VNĐ là 45 tỷ còn doanh số huy động bằng ngoại tệ qui USD là 1.764.000 USD. Đến cuối năm 2003, chỉ tính riêng doanh số huy động bằng VNĐ là 100 tỷ đã vượt hẳn tổng doanh số huy động của ba tháng đầu hoạt động, ngoài ra doanh số huy động băng ngoại tệ đạt 6 triệu USD(qui đổi) tăng 240% so với ba tháng đầu. Các năm tiếp theo 2004, 2005 và 2006 doanh số huy động vốn tiếp tục tăng trưởng.
Hình 1: Biểu đồ thể hiện cơ cấu huy động vốn theo loại tiền
Đơn vị: triệu USD, tỷ VNĐ
( Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thăng Long năm 2003-2007)
Qua gần một năm hoạt động độc lập số lượng tài khoản tiền gửi của khách hàng mở tại Chi nhánh đã tăng lên 14.460 tài khoản (trong đó có 460 khách hàng doanh nghiệp và 14000 khách hàng cá nhân). Lượng khách hàng mở tài khoản tiền gửi tăng thể hiện địa bàn hoạt động của Chi nhánh ngày càng mở rộng, và đã thu hút được một lượng vốn không nhỏ, tạo ra nguồn vốn với lãi suất thấp cho Chi nhánh.
Đạt được sự tăng trưởng trên là do Chi nhánh thường xuyên giáo dục đạo đức nghề nghiệp, tác phong giao dịch trong toàn thể cán bộ công nhân viên, nên đã tạo được niềm tin đối với khách hàng khi đến với Ngân hàng, đặc biệt là khách hàng cá nhân gửi tiết kiệm (mặc dù lãi suất của Ngân hàng Ngoại thương hiện tại đang thấp các Ngân hàng Thương mại Cổ phần),._. kinh nghiệm nhưng tuổi cao nên khó đào tạo. Bên cạnh đó, CBTD nhiều khi còn thiếu tinh thần trách nhiệm, không đi sâu đi sát đơn vị vay vốn, chấp hành không nghiêm túc các cơ chế, quy chế nghiệp vụ…đã làm cho chất lượng phân tích tín dụng bị giảm xuống. Bởi với một hệ thống chỉ tiêu hoàn thiện nhưng người thực thi không hiểu hay không thực hiện thì hệ thống chỉ tiêu ấy cũng trở nên vô nghĩa. Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay, đòi hỏi CBTD phải có năng lực chuyên môn thực sự, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc của mình.
Về kinh phí cấp cho việc phân tích tín dụng đang còn hạn hẹp. Chi nhánh chưa đủ điều kiện để xây dựng một bộ dữ liệu riêng về các công ty và về từng ngành nghề khác nhau. Việc phân tích trong điều kiện thông tin còn hạn chế hoặc phải lấy từ nhiều nguồn khác nhau cũng dễ dẫn đến sự thiếu chính xác.
Như vậy, chương 2 của luận văn đã đi sâu vào việc tìm hiểu nghiệp vụ phân tích tài chính doanh nghiệp của Chi nhánh, những thành quả đạt được cũng như những mặt còn hạn chế, tồn tại cần được khắc phục. Chương 3 của luận văn sẽ đề cập đến những giải pháp và kiến nghị để nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp tại Chi nhánh
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG - CHI NHÁNH THĂNG LONG
3.1. Định hướng và mục tiêu hoạt động của NHNT- chi nhánh Thăng Long trong giai đoạn từ 2008 đến 2010
Căn cứ vào mục tiêu hoạt động của toàn hệ thống NHNT Việt Nam, đó là: “ Xây dựng Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam thành tập đoàn đầu tư tài chính ngân hàng đa năng trên cơ sở áp dụng các thông lệ quốc tế tốt nhât, duy trì vai trò chủ đạo tài Việt Nam và trở thành một trong 70 định chế tài chính hàng đầu Châu Á(sau kể Nhật Bản vào năm 2015-2020, và có phạm vi hoạt động quốc tế.”
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam xác định chiến lược phát triển tập trung vào các nội dung:
Tiếp tục đổi mới và hiện đại hóa toàn diện mọi hoạt động- bắt kịp với trình độ của khu vực và trên thế giới.
Tranh thủ thời cơ, phát huy mọi lợi thế của sẵn có của NHNT cũng như của các cổ đông mới- phát triển mở rộng lĩnh vực hoạt động một cách hiệu quả theo cả chiều rộng và chiều sâu.
Căn cứ vào tình hình thực tế, chi nhánh xây dựng phương hướng, chiến lược cho các năm tiếp theo, cụ thể năm 2008 như sau:
Tiếp tục củng cố và hoàn thiện công tác tổ chức của chi nhánh, xây dựng đề án trình TW tách Phòng Kế toán thanh toán và dịch vu thành: Phòng kế toán tài chính, Phòng kinh doanh dịch vụ, Phòng thanh toán quốc tế, phù hợp với qui mô và sự tăng trưởng của chi nhánh, bố trí đủ nguồn lực cán bộ, lãnh đạo của các phòng, sắp xếp, bố trí đủ người, đủ lực để mở thêm ba phòng giao dịch trong năm 2008, cũng như tăng cường các phòng nghiệp vụ mới thành lập, đảm bảo đủ khả năng thực hiện tốt các chương trình, mục tiêu năm 2008 cũng như định hướng phát triển lâu dài của Chi nhánh.
Tìm địa điểm và chuẩn bị thủ tục cho việc mở thêm ba phòng giao dịch.
Tiếp tục nghiên cứu và tranh thủ ý kiến của các phòng ban TW để triển khai, xây dựng mạng lưới khách hàng, tăng cường các chính sách khách hàng như khuyến mại, miễn, giảm phí, ... để duy trì các khách hàng cũ, thu hút khách hàng mới, đa dạng hóa đối tượng khách hàng. Đặc biệt chú trọng công tác phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tập trung đưa ra các biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng tín dụng. Tập trung xử lí nơ tồn đọng, kiên quyết không để những khoản vay mới phát sinh nợ quá hạn, phấn đấu đến cuối năm 2008 giảm dư nợ quá hạn xuống dưới mức 5% tổng dư nợ.
Tiếp tục các chương trình đào tạo, bồi dưỡng, hoàn chỉnh kiến thức cho cán bộ công nhân viên trong toàn Chi nhánh, để mỗi cán bộ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chi nhánh Thăng Long là một cán bộ đa năng ở mọi lĩnh vực, đồng thời cũng là cán bộ có khả năng làm công tác marketing tốt. Phấn đấu mỗi cán bộ là một tuyên truyền viên, đó chính là nền tảng trong việc quảng bá thương hiệu và sản phẩm của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chi nhánh Thăng Long.
Tập trung, tìm kiếm các dự án mới để đầu tư, đồng thời mở rộng bán lẻ, khuyến khích cán bộ phòng quan hệ khách hàng, tìm kiếm, lựa chọn phát triển khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ vay kinh doanh cá thể và tiêu dùng phấn đấu đưa tổng dư nợ năm 2008 lên 1.490 tỷ đồng(tăng 43% so với năm 2007).
Đồng thời với việc mở rộng đầu tư tín dụng, tập trung công tác huy động vốn, tìm kiếm khách hàng có nguồn tiềm năng để phấn đấu huy động vốn năm 2008 đạt 1,435 tỷ(tăng 25%).
Kế hoạch lợi nhuận năm 2008 phấn đấu đạt 15 tỷ đồng.
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong cho vay của chi nhánh NHNT Thăng Long
3.2.1. Nâng cao chất lượng nguồn thông tin
Nguồn thông tin là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của công tác phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng. Thông tin đây đủ là cơ sở cần thiết để cán bộ tín dụng có thể phân tích và đưa ra nhận định chính xác về phía khách hàng, từ đó có những quyết định phù hợp trong việc đáp ứng nhu cầu vay của khách hàng. Thông tin càng nhiều, càng tin cậy càng có khả năng đánh giá chính xác năng lực tài chính của doanh nghiệp. Ngoài ra nguồn thông tin đầy đủ cũng giúp ngân hàng nắm bắt được diễn biến của thị trường trong nước và quốc tế, những biến động kinh tế và những thay đổi trong chủ trương chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước, từ đó ngân hàng đề ra những biện pháp kịp thời, nhằm điều chỉnh các hoạt động, tránh những rủi ro, thiệt hại và ổn định kinh tế phát triển. Do đó, cần thiết phải có những giải pháp để nâng cao chất lượng công tác thu thập thông tin.
Đối với nguồn thông tin do doanh nghiệp cung cấp, Chi nhánh cần có văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết nội dung những thông tin mà ngân hàng yêu cầu được cung cấp. Đồng thời cũng nêu và đề ra chính sách hỗ trợ, những ưu đãi có thể đối với doanh nghiệp xin vay vốn có báo cáo tài chính đã được kiểm toán.Bên cạnh đó, ngân hàng cần thường xuyên cử cán bộ tín dụng xuống doanh nghiệp xin vay, tăng cường phỏng vấn, tiếp xúc trực tiếp với khách hàng để kiểm tra, đối chiếu thông tin, nhận biết các dấu hiệu phản ánh tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh một cách xác thực.
Trong thời gian tới Chi nhánh cần phải đầu tư, hoàn thiện hệ thống thu thập thông tin , để có nguồn thông tin đa dạng, phong phú cho phép cán bộ tín dụng cũng như các phòng có liên quan khai thác thông tin một cách có hiệu quả. Hoàn thiện hệ thống thông tin báo cáo nội bộ, xây dựng hệ thống thu thập, xử lí và lưu trữ dữ liệu riêng, phục vụ cho công tác phân tích. Việc lưu trữ dữ liệu và các thông tin về khách hàng đã hoặc đang có quan hệ tín dụng với ngân hàng cần được tiến hành và cập nhât đầy đủ, thường xuyên và phân loại khoa học để tiện cho việc tra cứu. Đồng thời phải thiết lập hệ thống thu thập thông tin từ các nguồn khác như các loại báo: Thời báo kinh tế, tạp chí Ngân hàng,…hay thu thập thông tin từ các ngành kinh tế kĩ thuật cũng như về tình hình kinh tế, xã hội. Ngân hàng cũng cần tăng chi phí cho việc thu thập thông tin, kể cả việc mua thông tin có chất lượng cao.
3.2.2. Hoàn thiện phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
Hiện nay, Chi nhánh đang dùng hai phương pháp phân tích tài chính là phương pháp tỷ số và phương pháp so sánh. Tuy hai phương pháp này có ưu điểm là dễ thực hiện xong phương pháp tỷ số thể hiện bất cập khi các tỷ số tăng giảm trái chiều dẫn đến những kết luận trái ngược nhau. Để biết chỉ tiêu nào có ý nghĩa quyết định cần xem xét tầm quan trọng của từng chỉ số và mối liên hệ của các chỉ số bằng phương pháp Dupont. Bản chất của phương pháp này là tách các tỷ số thành tích của các chuỗi tỷ số có mối liên hệ nhân quả với nhau. Phương pháp này cho phép phân tích những nhân tố ảnh hưởng tới các chỉ tiêu tổng hợp như ROA, ROE.
Từ đây có thể nhận biết được các nhân tố làm thay đổi ROA, ROE và có hướng phát triển thích hợp để nâng cao các tỷ số này của doanh nghiệp.
3.2.3. Hoàn thiện nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
Trong phần phân tích rủi ro khách hàng, nên có sự bổ sung thêm những hướng dẫn cụ thể đối với dự án vay vốn trung và dài hạn của doanh nghiệp và phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Các số liệu trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ là phản ánh một cách chính xác nhất nguồn ngân lưu thực tế của doanh nghiệp, cho thấy dòng tiền ra vào thực tế của doanh nghiệp qua từng tháng, quí và năm. Điều này phản ánh rõ nét nhất khả năng hoàn trả nợ của khách hàng. Việc phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ kết hợp với báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp còn giúp ngân hàng có thêm nhiều thông tin thực tế về doanh nghiệp hơn. Chẳng hạn, việc xác định chênh lệch giữa doanh thu và thực thu của doanh nghiệp, chi phí và thực chi của doanh nghiệp cho thấy khả năng chiếm dụng vốn của doanh nghiệp trong kinh doanh thương mại, khả năng thu hồi tiền bán hàng của doanh nghiệp. Các thông tin này bổ sung một cái nhìn chính xác về tình hình tài chính thực tế của doanh nghiệp cũng như mức độ tín nhiệm của các bạn hàng đối với doanh nghiệp đó. Do đó, Chi nhánh cần nghiên cứu, bổ sung nội dung phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ vào nội dung phân tích tài chính trong cho vay.
Ngoài ra, khi phân tích các chỉ số tài chính của doanh nghiệp, nếu không đem so sánh với các chỉ số trung bình của ngành thì kết quả phân tích chưa mang tính hiệu quả. Chỉ khi các tỷ số tài chính của doanh nghiệp được so sánh trực tiếp với các chỉ số trung bình ngành mới thấy được hiệu quả kinh doanh cũng như vị thế của doanh nghiệp trong ngành. Việc xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu tài chính cho các ngành nghề khác nhau là một việc rất khó, đòi hỏi nhiều chi phí, công nghệ và thời gian, đông thời cũng phải liên tục theo dõi và cập nhật. Tuy nhiên, nếu có thể thực hiện được thì sẽ tạo ra hiệu quả rõ rệt trong việc đem lại kết quả phân tích tài chính chính xác đối với doanh nghiệp.
Một nội dung nữa cần bổ sung trong việc phân tích các tỷ số tài chính của doanh nghiệp đó là phân tích tính xu hướng của các tỷ số. Đây là nội dung rất quan trọng, nhất là việc phân tích đối với các khoản cho vay trung và dài hạn. Tình hình kinh tế biến đổi sẽ tác động rất lớn đối với các doanh nghiệp. Doanh nghiệp có năng lực tài chính tốt thì các tỷ số về tài chính cũng có xu hướng biến đổi phù hợp với dự báo về thị trường và ngược lại. Việc phân tích nội dung này đòi hỏi phải phân tích hoạt động của doanh nghiệp trong nhiều năm, phân tích kinh doanh ngành và cả cái nhìn nhạy bén của cán bộ tín dụng, do đó, ngân hàng cần nhanh chóng có kế hoạch hoàn thiện, bổ sung nội dung này.
3.2.4. Thực hiện chuyên môn hóa phân tích và quản lý khách hàng
Phân tích tài chính khách hàng có tính chất quyết định chất lượng của hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp. Hiện nay các doanh nghiệp xin vay vốn rất đa dạng về lĩnh vực kinh doanh và các BCTC càng lúc càng phức tạp. Thế nhưng trình độ và năng lực của CBTD là có hạn. CBTD dù giỏi đến đâu cũng không thể am hiểu sâu sắc về mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề kinh doanh được. Chính vì vậy, Chi nhánh cần phải phân công rõ ràng cho CBTD theo loại hình kinh doanh, theo ngành nghề kinh doanh. Giải pháp là:
Một là, Chi nhánh nên thống kê, tập hợp những doanh nghiệp trên cơ sở phân loại theo nhóm ngành nghề kinh doanh, theo loại hình kinh doanh.
Việc phân loại này sẽ làm nổi bật lên đặc trưng ngành kinh doanh. Cần có một bộ phận chuyên trách thực hiện công việc này. Hiện nay Chi nhánh đã hướng dẫn CBTD phân loại doanh nghiệp theo các nhóm ngành nghề theo: lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực xây dựng, lĩnh vực thương mại - dịch vụ. Nhưng sản xuất kinh doanh luôn biến đổi, do vậy việc phân loại không phải là gọi tên mà cần được diễn ra thường xuyên, quan trọng hơn là phải xây dựng được các chỉ tiêu tài chính phù hợp với ngành theo thời gian.
Hai là, phân công cho từng CBTD hoặc từng nhóm CBTD phân tích và quản lý nhóm doanh nghiệp đã được phân loại.
Việc phân công phải tiến hành một cách nghiêm túc, rõ ràng theo năng lực, sở trường của CBTD. Đồng thời phải thường xuyên kiểm tra việc chấp hành và kết quả đạt được của CBTD để đánh giá và phân công lại nếu cần.
Khi đã phân công buộc CBTD phải chấp hành đúng nhóm khách hàng mình đảm nhiệm và thực hiện đúng quy trình, nội dung phân tích của từng loại hình doanh nghiệp.
Nếu thực hiện được sự chuyên môn hoá trong phân tích và quản lý khách hàng thì sẽ tạo ra được sự năng động và tinh thần trách nhiệm của CBTD. Mỗi CBTD sẽ có điều kiện tìm hiểu sâu hơn về từng loại hình, từng lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp. Qua đó CBTD sẽ phân tích TCDN chính xác hơn, nhanh chóng hơn, chất lượng hơn.
3.2.5. Tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực trong hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp
Đội ngũ cán bộ là nhân tố quyết định hàng đầu mọi thắng lợi trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Để có đội ngũ cán bộ đáng tin cậy,Chi nhánh cần chú trọng từ khâu nuôi dưỡng, tuyển dụng và đào tạo cán bộ ngân hàng. Hiện nay đội ngũ cán bộ của Chi nhánh phần lớn còn rất trẻ nên kinh nghiệm chưa nhiều, cần thiết phải thường xuyên học hỏi và nâng cao trình độ. Đội ngũ cán bộ trẻ cũng là một lợi thế của Chi nhánh so với các Chi nhánh và ngân hàng khác cùng địa bàn, chắc chắn đội ngũ đó sẽ từng bước đưa ngân hàng phát triển vững mạnh. Để có được kết quả này và để đáp ứng tốt hơn nhu cầu phát triển hoạt động tín dụng trong thời gian tới ngân hàng cần phải thực hiện một số biện pháp sau:
Một là, xây dựng chính sách tuyển dụng hợp lý.
Việc tuyển dụng phải được tổ chức một cách nghiêm túc, đảm bảo chất lượng và nên có kế hoạch tuyển dụng theo định kỳ nhất định.
Hai là, Ban giám đốc nên chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ. Đồng thời, thường xuyên tiến hành kiểm tra, sàng lọc đội ngũ cán bộ.
Giáo dục cho CBTD phải có đạo đức nghề nghiệp, có trách nhiệm và lương tâm với nghề của mình, kiên định trong công việc không dễ dàng bị mua chuộc tha hoá trong cơ chế thị trường, không chán nản, buông xuôi công việc khi gặp khó khăn…Khi cán bộ tín dụng vi phạm kỷ luật cần có các biện pháp xử lí như cảnh cáo hoặc cho thôi việc để làm gương cho người khác.
Ba là, tổ chức đào tạo cho cán bộ để nâng cao chuyên môn của họ. Công tác đào tạo cán bộ ngân hàng là một yêu cầu cấp thiết. Đặc biệt để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính doanh nghiệp cần bồi dưỡng cho CBTD kiến thức về kế toán doanh nghiệp, phân tích hoạt động kinh doanh, nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng, tài trợ dự án…. Mỗi cán bộ phải thực sự vững về nghiệp vụ kế toán mới kiểm tra được mức độ chính xác của các số liệu trên bảng cân đối kế toán. Chi nhánh nên tổ chức chuơng trình đào tạo, hướng dẫn nghiệp vụ cụ thể cho từng phòng, ban của mình sao cho việc phân tích đánh giá tài chính của khách hàng mang tính thống nhất. Thêm vào đó Chi nhánh cần tìm hiểu về năng lực sở trường của từng cán bộ để bồi dưỡng, đề bạt, bố trí và quản lý, sử dụng cán bộ phù hợp nhằm phát huy tốt nhất khả năng của mỗi người, mang lại được hiệu quả cao trong công việc.
Chi nhánh cũng nên có chính sách khuyến khích cán bộ ngân hàng tự học tập kiến thức chuyên môn, tin học, ngoại ngữ, các điều luật….bằng cách hỗ trợ kinh phí hoặc tạo điều kiện về thời gian.
Bốn là, cần có chính sách lương bổng và khen thưởng hợp lý dành riêng cho CBTD.
Đây là một chính sách thiết thực nhất để thúc đẩy CBTD tích cực chủ động trong tìm kiếm khách hàng và thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Điều này đã động viên đội ngũ cán bộ nỗ lực hơn rất nhiều trong công tác và ngày càng gắn bó với ngân hàng của mình.
Năm là, thường xuyên chăm sóc sức khoẻ và đời sống tinh thần cho cán bộ nhân viên đặc biệt là CBTD.
Do vậy hoạt động của đoàn thể cần thường xuyên duy trì nhất là hoạt động của Công đoàn. Ngân hàng có thể thực hiện y tế cộng đồng bằng việc khám sức khoẻ định kỳ cho toàn thể nhân viên. Tổ chức nghỉ lễ, nghỉ tết vui tươi lành mạnh, tổ chức đi du lịch để cán bộ thư giãn và tăng thêm sự hiểu biết giữa các nhân viên. Động viên thăm hỏi gia đình để CBTD yên tâm công tác và yêu nghề, yêu Ngân hàng của mình hơn.
3.2.6. Một số giải pháp khác
Để công tác phân tích tài chính khách hàng ngày càng tốt hơn, Ngân hàng cần tiếp tục quan tâm đến những vấn đề sau:
Một là, giải pháp xây dựng chiến lược khách hàng hiệu quả
Chính sách khách hàng hiệu quả có nghĩa là Ngân hàng vừa phải củng cố và phát triển khách hàng truyền thống vừa phải mở rộng khách hàng mới. Xây dựng chiến lược khách hàng là cơ sở tiền đề cho công tác phân tích, đánh giá khách hàng. Nếu quan hệ của ngân hàng và doanh nghiệp tốt đẹp và bền vững thì việc cho vay trở nên đơn giản hơn nhiều. Cũng như thế, việc phân tích tài chính doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu cả ngân hàng và khách hàng đều cố gắng hết sức vì lợi ích chung. Thông qua mối quan hệ thân thiết, ngân hàng có điều kiện tham gia vào các hoạt động của doanh nghiệp làm công tư vấn giúp các doanh nghiệp phân tích, xem xét về mặt tài chính giúp doanh nghiệp nắm bắt các cơ hội kinh doanh. Đây là cách tốt nhất để ngân hàng thu thập thông tin về doanh nghiệp một cách chính xác, đầy đủ làm cơ sở để ngân hàng thực hiện tốt công tác phân tích doanh nghiệp trước khi ra quyết định cho vay.
Hai là, giải pháp xây dựng thương hiệu mạnh
Trong suốt quá trình hoạt động kể từ ngày thành lập tới nay, VCB luôn luôn là thương hiệu ngân hàng tốt nhất trong khối các NHTM Nhà nước. Đó là lợi thế rất lớn của cả hệ thống VCB nói chung cũng như của Chi nhánh VCB Thăng Long nói riêng.Trong thời kì đất nước hội nhập kinh tế thế giới như hiện nay, việc tập trung đầu tư xây dựng một thương hiệu mạnh của quốc gia và rộng hơn là của khu vực đang là mục tiêu cần hướng đến của VCB. Để đạt được mục tiêu đó thì mỗi nhân viên, mỗi chi nhánh của VCB phải là một hạt nhân đóng góp vào quá trình xây dựng và phát triển thương hiệu. Xây dựng một thương hiệu mạnh yêu cầu nhiều yếu tố tổng hợp từ đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng dịch vụ, tạo ra nhiều lợi thế cạnh tranh… và quan trọng nhất vẫn là yếu tố nguồn nhân lực có chất lượng cao và thái độ phục vụ khách hàng tận tâm, uy tín. Do đó, Ban giám đốc chi nhánh cần coi mục tiêu xay dựng thương hiệu là mục tiêu xuyên suốt mọi thời kì để có thể đề ra những chiến lược kinh doanh phù hợp, hiệu quả cho Chi nhánh.
Ba là, hàng năm Chi nhánh cần tổng kết đánh giá những kết quả đạt được, những vướng mắc, tồn tại và rút ra những bài học kinh nghiệm qua công tác thẩm định doanh nghiệp của năm trước, cụ thể là công tác phân tích tài chính doanh nghiệp.
Công tác đánh giá lại các thành quả đã thực hiện được cũng như tìm kiếm các vướng mắc, các thiếu sót trong công tác phân tích tài chính khách hàng là vô cùng quan trọng. Thực hiện công tác đánh giá tốt sẽ hoàn chỉnh được nghiệp vụ của CBTD cũng như nâng cao được chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp.
Trên đây là một số giải pháp có tính chất gợi ý nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng nói chung và chất lượng phân tích tài chính trong hoạt động tín dụng của NHNT Việt Nam- chi nhánh Thăng Long. Các DN có kết quả hoạt động kinh doanh tốt và có phương án sản xuất kinh doanh khả thi thị trường mục tiêu sẽ được Chi nhánh đặc biệt chú trọng trong hoạt động đầu tư vốn tín dụng. Với Chi nhánh trong giai đoạn hiện nay việc hoàn thiện và nâng cao công tác thẩm định tín dụng nói chung và phân tích doanh nghiệp nói riêng có ý nghĩa vô cùng lớn lao đối với sự phát triển vững mạnh của Chi nhánh.
3.3. Kiến nghị
3.3.1. Với Chính phủ, Bộ, Ngành liên quan
Nhà nước với các chính sách của mình quản lý, chi phối tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội. Có thể thấy rằng bất cứ một sự thay đổi nào trong các chính sách của Nhà nước cũng có ảnh hưởng tới toàn xã hội. Những chính sách này được các Bộ, Ngành có liên quan thiết lập thành những văn bản cụ thể và ban hành xuống từng cơ quan, đơn vị. Ngành ngân hàng vốn được coi là một lĩnh vực vô cùng nhạy cảm đối với các chính sách vĩ mô đó. Các hoạt động ngân hàng luôn bị chi phối bởi các chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước. Chính vì thế để nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống Ngân hàng bản thân các ngân hàng phải nỗ lực phấn đấu dưới sự giúp đỡ của Nhà nước, Chính phủ và sự phối kết hợp chặt chẽ của các bộ ngành liên quan. Sự giúp đỡ phối hợp của các cơ quan hữu quan đó vô cùng quan trọng cũng vô cùng quan trọng giúp ngân hàng hoàn thiện công tác khách hàng trong đó có phân tích tài chính doanh nghiệp:
Một là, tăng cường vai trò quản lý Nhà nước với hoạt động tín dụng.
Đây là một chính sách hết sức quan trọng trong lĩnh vực quản lý tài chính Ngân hàng của Nhà nước, nó tác động đến hoạt động tín dụng nói chung và ảnh hưởng đến công tác phân tích, đánh giá khách hàng trong hoạt động tín dụng doanh nghiệp nói riêng của các ngân hàng. Vì vậy, trong thời gian tới Nhà nước cần tiếp tục bổ sung và hoàn thiện các văn bản, cơ chế chính sách nhằm quản lý tốt hơn đối với hoạt động tín dụng để hoạt động này thực sự lành mạnh và hiệu quả.
Đồng thời với việc ban hành các văn bản, cơ chế về hoạt động tín dụng, Nhà nước cần phải tăng cường các biện pháp thanh tra, giám sát đối với hoạt động này của các ngân hàng. Nhà nước nên ủy quyền cho cho NHNN phải có trách nhiệm trong việc lập các tổ thanh tra thường xuyên kiểm tra định kỳ các tổ chức tín dụng để theo dõi và xử lý kịp thời các vi phạm trong hoạt động tín dụng.
Hai là, quy định một hệ thống kế toán thống nhất và đồng bộ, thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc.
Bộ tài chính nên xem xét hoàn thiện chế độ hạch toán kế toán nhất quán, đưa ra quy chế bắt buộc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ trong hệ thống các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp nói chung cần được chuẩn hóa về số lượng chỉ tiêu và cách tính từng chỉ tiêu phù hơp chế độ hạch toán kế toán theo quy định.
Hiện nay, công tác quản lý Nhà nước về pháp lệnh kế toán thống kê đối với các doanh nghiệp vẫn chưa được quan tâm đúng mức, nhất là đối với những doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong khi đó, công ty kiểm toán còn non trẻ, đội ngũ cán bộ chưa nhiều kinh nghiệm, vì vậy Nhà nước cần ban hành những sắc lệnh đi kèm với các chế tài bắt buộc để mọi doanh nghiệp đều phải áp dụng một cách thống nhất, đồng bộ chế độ kế toán, thống kê và thông tin báo cáo, chế độ kế toán phải trung thực, đầy đủ.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần phải ban hành quy chế bắt buộc các doanh nghiệp phải thực hiện chế độ kiểm toán và công khai quyết toán của doanh nghiệp.
Việc kiểm toán phải tiến hành thường xuyên, những tài liệu cân đối kế toán và kết quả tài chính của doanh nghiệp phải được kiểm toán trước, trong và sau quá trình thẩm định của Ngân hàng. Nhà nước cũng cần quy định rõ các biện pháp chế tài xử lý nghiêm trọng các trường hợp doanh nghiệp cung cấp thông tin giả, sử dụng đồng thời hai loại cân đối: để nhằm mục đích đưa các doanh nghiệp này vào khuôn khổ hoạt động và phát triển lành mạnh. Có như vậy cán bộ thẩm định mới có được những thông tin trung thực nhất, thiết thực cho quá trình thẩm định, phòng ngừa rủi ro do thiếu thông tin. Qua đó, nâng cao hiệu quả công tác thẩm định tài chính đối với khách hàng doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng.
Ba là, cần có quy chế buộc các doanh nghiệp phải lập và nộp đầy đủ các BCTC.
BCTC phải đảm bảo mức độ trung thực, chuẩn xác. Nếu có sai phạm sẽ bị sử phạt nghiêm minh. Đồng thời, các doanh nghiệp phải cập nhật chế độ kế toán mới nhất để cung cấp các BCTC đảm bảo đúng quy định.
Bốn là, khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước
Như ta đã biết rõ vai trò của các doanh nghiệp đối với sự phát triển kinh tế là vô cùng quan trọng. Việc khuyến khích sự phát triển các doanh nghiệp bao gồm tạo cơ sở hành lang pháp lý thuận lợi, tìm thị trường đầu vào, đầu ra cho các doanh nghiệp. Các chính sách kinh tế hợp lý của Nhà nước cũng tạo thuận lợi cho sự phát triển các doanh nghiệp . Đồng thời Ngân hàng với vai trò là người tài trợ vốn cho các doanh nghiệp sẽ có cơ hội để thực hiện tốt vai trò của mình.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
Thứ nhất, nâng cao chất lượng hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng CIC
Trung tâm cung cấp thông tin do NHNN quản lý là trung tâm thông tin tín dụng CIC. CIC được thành lập theo nghị định 88/CP và quyết định số 68/1999/QĐ-NH ngày 27/02/1999. sự hoạt động của CIC đã bổ sung thêm một kênh thông tin, phần nào cải thiện được tình trạng thiếu thông tin tín dụng của các tổ chức tín dụng. Song hiện nay nguồn thông tin từ cơ quan này còn khá sơ sài và không cập nhật thường xuyên.
Dịch vụ thông tin của CIC đã được thương mại hóa nên chất lượng phục vụ ngày càng tăng. tuy nhiên riêng đối với các DN đặc biệt là các DN vừa và nhỏ từ CIC còn chưa nhiều, nhiều khi là rất ít hoặc hầu như không có. Vì vậy để nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của CIC có thể xem xét một số biện pháp sau:
Từng bước hoàn thiện mô hình tổ chức, hoạt động của CIC. Tuyển chọn và nâng cao trình độ của cán bộ và thường xuyên đào tạo, hoàn thiện đội ngũ cán bộ của CIC
Xây dựng các văn bản đủ hiệu lực, quy định cụ thể về các tác nghiệp như: nguồn cung cấp thông tin, người sử dụng thông tin, các chỉ tiêu thu nhập, các tiêu thức đánh giá phân tích. Ngoài ra NHNN cần ban hành các quy định bắt buộc các N HTM khai thác, tham gia vào CIC, coi đó là quyền lợi nghĩa vụ của mình. Nên mở rộng các thành viên trong đó có các doanh nghiệp
Tăng cường áp dụng những tiến bộ trong lĩnh vực thông tin để nâng cao hoạt động thu thập thông tin tín dụng
Thứ hai, kiến nghị NHNN định hướng cho hoạt động tín dụng và hỗ trợ về mặt nghiệp vụ.
NHNN quản lý hoạt động của các NHTM thông qua việc ban hành các văn bản, quy định về mặt hoạt động tín dụng đối với các NHTM. Từ đó các NHTM có cơ sở sắp xếp, điều chỉnh hoạt động tín dụng của mình trong đó có công tác thẩm định tín dụng doanh nghiệp sao cho phù hợp với định hướng tín dụng của NHNN
Thêm vào đó, NHNN cần giúp đỡ NHTM để đào tạo đội ngũ nhân viên, đồng thời trợ giúp về thông tin và kinh nghiệm thẩm định doanh nghiệp. NHNN nên tổ chức các hội thảo hàng năm của toàn ngành về công tác thẩm định để các ngân hàng báo cáo và trao đổi kinh nghiệm. Sự giúp đỡ của NHNN còn thể hiện ở chỗ NHNN thường xuyên tổ chức các khoá học cho các cán bộ thẩm định của ngân hàng do các chuyên gia giỏi phụ trách như chuyên gia IMF, WB giảng dạy
Thứ ba, xây dựng các chỉ tiêu trung bình ngành
NHNN cần xây dựng hệ thống các chỉ tiêu trung bình ngành cho toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt Nam. NHNN cùng các cơ quan hữu quan cùng phối hợp để đưa ra các chỉ tiêu trung bình ngành hợp lý. Có như thế kết quả cuối cùng của công tác phân tích, thẩm định tài chính của cán bộ thẩm định mới thực sự chính xác
Trên đây là một số giải pháp và kiến nghị để góp phần vào việc tháo gỡ dần những khó khăn chung của NHTN- chi nhánh Thăng Long nói riêng và hệ thống NHTM nói chung nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ ngành ngân hàng, cạnh tranh và phát triển sánh vai với các nước trên thế giới.
KẾT LUẬN
Việt Nam đã ra nhập vào WTO, “sân chơi” lớn nhất của thị trường quốc tế. Để đáp ứng nhu cầu hội nhập chúng ta phải dần mở cửa các ngành kinh tế của đất nước. Đó là thách thức lớn đối với chúng ta bởi mở cửa là đối mặt nhiều hơn với cạnh tranh và rủi ro, nhưng cũng mang lại nhiều cơ hội để phát triển và hội nhập. Chấp nhận thách thức để vươn lên là bước đi đúng đắn nhằm xây dựng nền kinh tế vững mạnh trong tương lai. Nằm trong chiến lược hội nhập kinh tế nói chung, ngành Ngân hàng và các tổ chức tài chính cũng đang đứng trước nhiều khó khăn do áp lực về cạnh tranh.Trình độ phát triển các ngành dịch vụ chất lượng cao như Ngân hàng-tài chính của chúng ta còn rất yếu kém, kinh nghiệm quản trị không thể so sánh với các Ngân hàng lớn trên thế giới đã có lịch sử phát triển hàng trăm năm qua.Hơn nữa, chúng ta còn đang tồn tại nhiều những rào cản và bất cập trong hệ thống pháp lý cũng như sự níu kéo, kìm hãm do nền kinh tế chưa phát triển đưa lại.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh cũng như muốn phát triển mạnh và bền vững, các NHTM Việt Nam cần nhanh chóng có những thay đổi chiến lược ngay lúc này nhằm quản trị hiệu quả những rủi ro có thể gây nên hiện tượng phá sản, vỡ nợ Ngân hàng. Muốn vậy, hoạt động quản tri rủi ro tín dụng phải được quan tâm chú ý hàng đầu bởi đây là khâu bị đánh giá là yếu nhất của các NHTM Việt Nam, đặc biệt là nhóm các NHTM NN. Bởi vậy, việc nghiên cứu về các rủi ro tín dụng của Ngân hàng và các biện pháp hạn chế rủi ro như “ Nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong cho vay của NHTM” là rất cấp thiết. Việc nghiên cứu và ứng dụng kịp thời các biện pháp hữu hiệu sẽ giúp hạn chế các rủi ro tín dụng, giúp các Ngân hàng tồn tại an toàn và vững chắc.
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PGS. TS Lưu Thị Hương; PGS. TS Vũ Duy Hào- Giáo trình Tài chính doanh nghiệp- Đại học Kinh tế quốc dân.
PGS. TS Vũ Duy Hào –PGS.TS Đàm Văn Huệ, Quản trị tài chính doanh nghiệp, NXB. Thống kê, 1998.
PGS. TS. Phan Thị Thu Hà- Giáo trình Ngân hàng Thương mại- Đại học kinh tế quốc dân.
Giáo trình Tín dụng Ngân hàng- Tập thể biên soạn- Học viện Ngân hàng.
Peter S Rose- Quản trị Ngân hàng Thương mại- NXB Tài chính- Đại học kinh tế quốc dân.
Trình Bá Tửu, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam- Phòng chống rủi ro tín dụng- Kinh nghiệm của các Ngân hàng Thái Lan- Tạp chí Ngân hàng- Số chuyên đề năm 2005.
Phan Đức Quang- Vụ tổng kiểm soát Ngân hàng Nhà nước- Kiểm soát các rủi ro trong hoạt động cho vay đối với các Ngân hàng thương mại trong quá trình hội nhập- Tạp chí tài chính và Ngân hàng quốc tế- Số 11 tháng 6 năm 2006- Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
Lê Khắc Chí- Những vấn đề cấp bách trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của hệ thống Ngân hàng Việt Nam- Tạp chí ngân hàng- Số 16- tháng 8 năm 2006.
Trần Bùi Quốc Tuệ- Một số ý kiến góp phần mở rộng cho vay có hiệu quả và góp phần hạn chế rủi ro tín dụng của các NHTM- Tạp chí Ngân hàng- Số 5/2005.
Tài liệu tập huấn qui trình tín dụng mới của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam-tháng 6/2006.
Báo cáo thường niên năm 2006,2007-Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2003-2007- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam- chi nhánh Thăng Long.
Website www.vcb.com
Website www.sbv.gov.vn
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28573.doc