Tài liệu Nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp tại Công ty Bóng đèn phích nước Rạng Đông: ... Ebook Nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp tại Công ty Bóng đèn phích nước Rạng Đông
86 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1253 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp tại Công ty Bóng đèn phích nước Rạng Đông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Bước sang thế kỷ mới, thế giới đang chứng kiến những thay đổi lớn lao về tất cả các mặt như kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học công nghệ... Nền kinh tế thế giới cũng có những bước thăng trầm nhưng nhìn chung vẫn phát triển theo xu thế hội nhập, hợp tác hữu nghị, đôi bên cùng có lợi. Từ khi chuyển đổi nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể đưa đất nước thoát khỏi nghèo đói và hội nhập với thế giới. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập ấy, Việt Nam luôn phải đối mặt với những thách thức lớn: sự cạnh tranh khốc liệt giữa các tập đoàn kinh tế lớn, thiếu vốn đầu tư vào những công trình, dự án trọng điểm, môi trường đầu tư chưa thông thoáng... Đứng trước thực tế đó, các nhà làm chính sách nghiên cứu, ban hành và sửa đổi nhiều bộ luật cho phù hợp với yêu cầu đặt ra tạo môi trường sản xuất kinh doanh bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp trong và ngoài nước, giúp các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả vẫn tuân thủ theo những quy định của pháp luật.
Với tư cách chủ đạo của nền kinh tế, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã thay da đổi thịt, ngày càng sản xuất kinh doanh có hiệu quả, quan tâm đến việc mở rộng thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm... song vẫn còn nhiều hạn chế trong việc thu thập, phân tích thông tin từ bên ngoài lẫn bên trong doanh nghiệp làm cản trở cho việc đầu tư, sử dụng vốn tối ưu, huy động vốn, tìm kiếm thị trường... Để nâng cao hiệu quả quản lý tài chính quốc gia công tác quản lý tài chính doanh nghiệp cần được chú trọng thông qua những quyết định tài chính được cân nhắc, hoạch định kỹ lưỡng nhằm hạn chế tổn thất khôn lường cho doanh
nghiệp và cho nền kinh tế.
Phân tích tài chính được các nhà quản lý chú ý từ cuối thế kỷ 19. Từ đầu thế kỷ 20 đến nay, phân tích tài chính ngày càng được chú trọng và phát triển hơn bao giờ hết do nhu cầu quản lý doanh nghiệp phải mang tính hiệu quả và do sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống tài chính. Nghiên cứu phân tích tài chính là khâu quan trọng trong quản lý tài chính doanh nghiệp. Việc thường xuyên tiến hành phân tích tình hình tài chính sẽ giúp các nhà quản lý doanh nghiệp và cơ quan chủ quản cấp trên thấy rõ thực trạng hoạt động tài chính, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp, cũng như xác định một cách đầy
đủ đúng đắn nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố, để từ đó có thể đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như rủi ro và triển vọng trong tương lai của doanh nghiệp, cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư, cơ quan cấp trên như thanh tra, kiểm tra, đưa ra những giải pháp hữu hiệu, những kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý doanh nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc phân tích tình hình tài chính đối với sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung, bằng những kiến thức lý luận đã học được qua nhà trường, tài liệu tham khảo kết hợp với kiến thức thực tế tại nơi thực tập là công ty Bóng đèn phích nước Rạng Đông, tôi thấy việc phân tích tài chính là rất cần thiết không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn mang tính thực tiễn cao đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Chính vì thế, tôi đã chọn nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp với đề tài: " Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp tại công ty Bóng đèn phích nước Rạng Đông". Thông qua đề tài này, tôi muốn vận dụng những hiểu biết của mình trình bày cụ thể về những mặt đạt được trong công tác phân tích tài chính tại công ty đặc biệt là những nguyên nhân, hạn chế làm ảnh hưởng đến chất lượng của việc phân tích nhằm đưa ra những giải pháp, kiến nghị để chất lượng phân tích tài chính tại công ty ngày một tốt hơn. Tôi sẽ đi sâu nghiên cứu với cấu trúc của chuyên đề gồm có những phần sau:
Lời mở đầu
Chương I: Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp tại công ty Bóng đèn phích nước Rạng Đông.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính tại công ty Bóng đèn phích nước Rạng Đông.
Kết luận
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP.
Để phục vụ cho việc nghiên cứu được tốt hơn, cần hiểu rõ những khái niệm cơ bản liên quan đến vấn đề phân tích tài chính doanh nghiệp.
1.1 Khái niệm và tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm:
a. Tài chính doanh nghiệp:
- Tài chính doanh nghiệp được hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh nghiệp với các chủ thể trong nền kinh tế trong quá trình phân phối các nguồn tài chính gắn liền với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ trong doanh nghiệp.
+ Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với nhà nước
+ Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính
+ Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường khác
+ Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp
Bất kỳ một doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều phải chú trọng đến hoạt động tài chính doanh nghiệp. Hoạt động này dựa trên mối quan hệ giữa dòng tài chính và dự trữ tài chính nhằm thực hiện những mục tiêu mà doanh nghiệp hướng tới.
Hoạt động tài chính doanh nghiệp trả lời các câu hỏi chính sau:
+ Đầu tư vào đâu và như thế nào cho phù hợp với hình thức kinh doanh đã chọn, nhằm đạt tới mục tiêu của doanh nghiệp.
+ Nguồn vốn tài trợ được huy động ở đâu, vào thời điểm nào với một cơ cấu vốn tối ưu và chi phí vốn thấp nhất.
+ Quản lý vốn và tài sản như thế nào để tiết kiệm và nâng cao hiệu quả vốn kinh doanh.
+ Phân tích, đánh giá, kiểm tra các hoạt động tài chính như thế nào để thường xuyên đảm bảo trạng thái cân bằng tài chính.
+ Quản lý các hoạt động tài chính ngắn và dài hạn như thế nào để đưa ra các quyết định thu chi phù hợp.
Để hoạt động tài chính có hiệu quả doanh nghiệp cần đưa ra những quyết định tài chính và thực hiện những quyết định đó phù hợp với mục tiêu tài chính doanh nghiệp. Những quyết định tài chính muốn chính xác, tối ưu cần phải dựa trên nguồn thông tin trung thực, liên tục, nhất quán, công khai... Phân tích tài chính nhằm cung cấp những thông tin như vậy và là bộ phận quan trọng trong hoạt động tài chính doanh nghiệp.
b. Phân tích tài chính doanh nghiệp:
Theo Josetle Payrard :
“Phân tích tài chính có thể được định nghĩa như một tổng thể các phương pháp cho phép đánh giá tình hình tài chính trong quá khứ và hiện tại, giúp cho việc quyết định quản trị và đánh giá doanh nghiệp một cách chính xác
”.
Ngày nay phân tích tài chính có xu hướng trở thành hệ thống xử lý thông tin nhằm cung cấp dữ liệu cho những người ra quyết định tài chính. Phân tích tài chính là cơ sở dự báo ngắn trung và dài hạn. Phân tích tài chính giúp ta đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp thông qua việc phân tích các báo cáo tài chính .
Tóm lại, phân tích tài chính có thể được hiểu là một tập hợp các khái niệm ,phương pháp và công cụ cho phép thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp, nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính, quyết định quản lý phù hợp.
1.1.2. Tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp:
Cũng giống như con người, mỗi doanh nghiệp đều có cuộc đời riêng của mình, đều phải trải qua các giai đoạn ra đời, phát triển, trưởng thành và suy thoái. Nội lực của mỗi doanh nghiệp, cùng với sự tác động mạnh mẽ của môi trường xung quanh, có nhiều doanh nghiệp vẫn tồn tại và phát triển không ngừng, bên cạnh đó có nhiều doanh nghiệp không tránh khỏi giải thể, phá sản. Trong sự phát triển không ngừng của nền kinh tế đặc biệt là nền kinh tế thị trường chịu sự chi phối bởi các quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh... và chịu sự quản lý của Nhà nước các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế không chỉ phát triển lên bằng chính nội lực của mình mà còn phụ thuộc vào các yếu tố xung quanh, làm thế nào để doanh nghiệp có thể đưa ra định hướng phát triển của mình và thực
hiện được những mục tiêu đề ra là câu hỏi mà các doanh nghiệp luôn đặt ra. Công tác phân tích tài chính giúp trả lời câu hỏi đó, mức độ chính xác, hiệu quả trong
sản xuất kinh doanh và quản trị doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào thông tin đưa ra từ phân tích tài chính. Bên cạnh đó, những kết luận được đưa ra từ quy trình phân tích tài chính còn cung cấp cho các cơ quan quản lý cấp trên, nhà đầu tư, ngân hàng, người lao động nắm bắt được những thông tin phục vụ cho mục tiêu của mình. Chính vì thế, phân tích tài chính tỏ ra là thực sự có ích và vô cùng cần thiết đặc biệt với sự phát triển của các doanh nghiệp, của các ngân hàng, của thị trường vốn như hiện nay. Nó không chỉ phục vụ cho doanh nghiệp mà còn cho tất cả các đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp.
1.1.2.1. Đối với nhà quản lý doanh nghiệp
Nhà quản lý luôn đứng trước nhiều quyết định khác nhau, do đó mà quan tâm đến kết quả phân tích thông qua các báo cáo tài chính của doanh nghiệp dưới nhiều góc độ khác nhau phù hợp với lĩnh vực và cương vị đưa ra quyết định để một khi quyết định được đưa ra là tối ưu hơn cả. Đối với nhà quản trị phân tích tài chính nhằm đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, xác định điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp, đó là cơ sở định hướng các quyết định của Ban tổng giám đốc, giám đốc tài chính, dự báo tài chính về kế hoạch đầu tư, ngân quỹ và kiểm soát các hoạt động quản lý. Phân tích tài chính đối với nhà quản lý có phần thuận lợi được gọi là phân tích tài chính nội bộ chứ không phải là phân tích tài chính ngoài doanh nghiệp. Do vậy, các nhà quản lý dễ dàng nắm bắt, hiểu rõ về tình hình tài chính của doanh nghiệp cũng như các hoạt động khác từ đó có quyết định đúng đắn. Khi đó, phân tích tài chính phục vụ các mục tiêu sau:
- Tạo ra những chu kỳ đều đặn để đánh giá hoạt động quản lý trong giai đoạn đã qua, việc thực hiện cân bằng tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, rủi ro tài chính trong doanh nghiệp...
- Hướng các quyết định của Ban giám đốc theo chiều hướng phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp như quyết định về đầu tư, tài trợ, phân phối lợi nhuận.
- Là cơ sở cho những dự đoán tài chính ngắn, trung và dài hạn.
- Phân tích tài chính đối với nhà quản lý là một công cụ để kiểm tra, kiểm soát hoạt động, quản lý trong doanh nghiệp
Tóm lại, phân tích tài chính làm nổi bật điều quan trọng của dự đoán tài chính, mà dự đoán là nền tảng của hoạt động quản lý, làm sáng tỏ không chỉ chính sách tài chính mà còn làm rõ các chính sách chung trong doanh nghiệp.
1.1.2.2. Đối với các nhà đầu tư
Với tư cách là nhà đầu tư: Nhà đầu tư là những người giao vốn của mình cho người khác quản lý và như vậy có những rủi ro. Thu nhập của các nhà đầu tư là tiền lời được chia và thặng dư giá trị của vốn. Hai yếu tố này phần lớn ảnh hưởng của lợi nhuận thu được ở đơn vị mình giao vốn. Vì vậy, cần đánh giá khả năng hoạt động và khả năng sinh lời của doanh nghiệp mình có ý định đầu tư. Câu hỏi chủ yếu được đặt ra là tiền lời bình quân cho một suất đầu tư là bao nhiêu? Phải mất bao lâu mới thu hồi đủ vốn? Tuy nhiên, những dự đoán đặt ra có khoảng cách khá xa so với tiền lời thực sự bởi chính sách phân phối lợi nhuận của nơi nhận đầu tư và các ảnh hưởng của thị trường về các yếu tố như lạm phát, chính trị, văn hoá, chính sách Nhà nước nhiều khi không thể dự đoán chính xác được. Khi đó, phân tích tài chính doanh nghiệp là để đánh giá doanh nghiệp, các nhà đầu tư quan tâm đến việc nghiên cứu các báo biểu tài chính, khả năng sinh lời, chính sách phân phối lợi nhuận, phân tích rủi ro tài chính trong kinh doanh... để lựa chọn hướng đầu tư, cơ cấu đầu tư, nơi đầu tư...
1.1.2.3. Đối với các chủ nợ
Với tư cách là các chủ nợ bao gồm ngân hàng, các chủ nợ trong quan hệ mua bán trả chậm, trả trước, mua bán chịu hay trả góp là những đối tượng có quan hệ khăng khít với doanh nghiệp. Để tồn tại và phát triển trong hoạt động sản xuất kinh doanh không có bất kỳ doanh nghiệp nào có thể tiến hành công việc kinh doanh của mình chỉ bằng vốn chủ sở hữu mà phải gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương mại cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn hoặc tín dụng thương mại. Vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu. Tài trợ bằng tín dụng thương mại là phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh, hơn nữa nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Song việc tài trợ bằng hình thức đi nữa thì các chủ nợ đều quan tâm rằng doanh nghiệp có đủ điều kiện để vay vốn không thông qua việc đáp ứng yêu cầu bảo đảm an toàn tín dụng, có tài
sản thế chấp, lãi suất vay và mức độ rủi ro mà các chủ nợ có thể chấp nhận được từ tình hình tài chính thực tế của công ty thông qua các chỉ tiêu về khả năng thanh toán nhanh, khả năng thanh toán hiện hành đối với việc cho vay ngắn hạn.Việc hoàn trả cả vốn lẫn lãi có đúng thời hạn không, khả năng sinh lời của doanh nghiệp, khả vay nợ từ những người cung cấp nào và khả năng trả nợ trong hiện tại và trong tương lai. Từ đó, các chủ nợ mới quyết định có nên cho doanh nghiệp vay với cơ cấu vốn như thế nào, thời hạn trong bao lâu...
1.1.2.4. Đối với người lao động
Với những người lao động là những người trực tiếp hưởng lương, lương là nguồn thu nhập chính thể hiện giá trị sức lao động mà những người lao động bỏ ra, là nguồn tiền giúp cho họ có thể tái sản xuất và nuôi sống gia đình. Bên cạnh đó, đối với những doanh nghiệp cổ phần những người lao động cũng có thể trở thành những cổ đông nếu họ có tiền mua và nắm giữ cổ phiếu. Do đó, họ quan tâm đến tình hình tài chính doanh nghiệp thông qua chính sách phân phối thu nhập, các khoản đóng góp của họ đối với doanh nghiệp, quỹ phúc lợi, quỹ trợ cấp ốm đau, thất nghiệp, chính sách cổ tức, khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Từ đó, người lao động có thể yên tâm lao động và sáng tạo, sử dụng đồng vốn nhàn rỗi của mình để tăng thêm thu nhập.
1.1.2.5. Đối với các cơ quan nhà nước
Với tư cách là các cơ quan nhà nước có liên quan bao gồm công ty kiểm toán, cơ quan thuế, cơ quan thống kê... là những cơ quan trực tiếp quản lý và giám sát tình hình hoạt động của doanh nghiệp qua các báo cáo tài chính gửi lên. Đây là một trong những đối tượng rất quan tâm đến tình hình tài chính doanh nghiệp, vì các cơ quan này đại diện cho Nhà nước thực hiện nhiệm vụ điều tiết vĩ mô . Bất cứ doanh nghiệp nào tiến hành một hoạt động kinh doanh phải đăng ký và phải tuân thủ theo pháp luật hiện hành để trở thành một đơn vị làm ăn lành mạnh, hiệu quả. Do đó, các cơ quan nhà nước có liên quan bằng cách đọc những kết quả đạt được, những mặt còn yếu kém qua các phần trong báo cáo tài chính có cái nhìn vừa tổng quan, vừa cụ thể về hoạt động của doanh nghiệp xem xét doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả không, có tuân thủ pháp luật không,có những quyết định ưu đãi về thuế nếu có kinh doanh ngành nghề đặc biệt, quyết định hỗ trợ về vốn ngân sách cấp làm tăng tính hiệu quả của doanh nghiệp, đưa ra quyết
định quản lý phù hợp.
Từ những vấn đề nêu trên, cho thấy: phân tích tài chính là công cụ hữu ích được dùng để xác định giá trị kinh tế, để đánh giá các mặt của doanh nghiệp, cung cấp đầy đủ, kịp thời chính xác những thông tin phục vụ cho nhiều mục tiêu
khác nhau của các đối tượng khác nhau như Nhà quản lý doanh nghiệp, các chủ nợ, các nhà đầu tư, người lao động, các cơ quan Nhà nước có liên quan, tìm ra những nguyên nhân chủ quan và khách quan, giúp cho các đối tượng lựa chọn và đưa ra những quyết định tài chính phù hợp với mục tiêu của mình đề ra.
1.2. Tài liệu, phương pháp và nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính doanh nghiệp mà trọng tâm là phân tích các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu tài chính đặc trưng qua một hệ thống các công cụ, phương pháp và kỹ thuật phân tích, giúp người sử dụng thông tin từ các góc độ khác nhau, vừa đánh giá toàn diện, tổng hợp, khái quát, lại vừa xem xét một cách chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp, để nhận biết, phán đoán, dự báo và đưa ra quyết định tài chính, quyết định tài trợ và đầu tư phù hợp.
1.2.1. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp
Tài liệu quan trọng và cần thiết cho phân tích tài chính là tìm ra được những nguồn thông tin trung thực, chính xác. Doanh nghiệp hoạt động sản xuất trong môi trường kinh doanh bị tác động bởi những yếu tố bởi chính bản thân doanh nghiệp và các nhân tố bên ngoài đòi hỏi thông tin phục vụ cho phân tích tài chính cũng phải thu thập đầy đủ, không chỉ qua các báo cáo tài chính mà còn qua nguồn thông tin được cung cấp từ bên ngoài.
1.2.1.1. Thông tin nội bộ doanh nghiệp
Các nguồn thông tin liên quan đến doanh nghiệp rất đa dạng một số thông tin là bắt buộc và công khai, một số khác chỉ dành cho cổ đông. Trong số các nguồn thông tin nội bộ thông tin kế toán là nguồn thông tin cơ bản nhất, được nhà phân tích phân thu thập trước tiên. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều được phản ánh trên các báo cáo tài chính một cách toàn diện và tổng hợp tình hình tài sản, nguồn vốn qua bảng cân đối kế toán, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, những luồng tiền vào ra coi như tiền, tình hình đầu tư, tài trợ bằng tiền trong từng thời kỳ qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Đó là những cơ sở quan trọng để tiến hành phân tích hoạt động tài chính. Các chỉ
tiêu trên báo cáo tài chính được thể hiện dưới hình thức giá trị nên nhà phân tích có thể định lượng tính toán kết hợp só liệu với nhau từ đó đưa ra dự đoán, dự báo và đưa ra quyết định.
Các báo cáo tài chính bao gồm: Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính.
a. Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là báo cáo tổng hợp, phản ánh toàn bộ tài sản của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định theo kết cấu: vốn kinh doanh và nguồn hình thành vốn kinh doanh. Kết cấu của bảng được chia thành 2 phần: Tài sản và nguồn vốn.
Phần tài sản: Phản ánh toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo theo cơ cấu tài sản và hình thức tồn tại trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Phần tài sản được phân thành: Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn; Tài sản cố định và đầu tư dài hạn
Phần nguồn vốn: Phản ánh nguồn hình thành tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Các chỉ tiêu này thể hiện trách nhiệm pháp lý đối với tài sản doanh nghiệp đang quản lý và sử dụng ở doanh nghiệp. Phần nguồn vốn được chia thành: Nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu
Bảng cân đối kế toán do vậy là nguồn thông tin quan trọng cho công tác phân tích tài chính, nó giúp đánh giá được khả năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán, năng lực hoạt động, tài sản hiện có và nguồn hình thành nó, cơ cấu vốn của doanh nghiệp.
b. Báo cáo kết quả kinh doanh
Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo tổng hợp cho biết tình hình
tài chính doanh nghiệp tại những thời kỳ nhất định. Đó là kết quả hoạt động sản xuất , kinh doanh của toàn doanh nghiệp, kết quả hoạt động theo từng loại hoạt động kinh doanh(Sản xuất kinh doanh, Đầu tư tài chính, Hoạt động bất thường). Ngoài ra, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh còn cho biết tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh đó Báo cáo kết quả kinh doanh cho ta biết mức lãi, lỗ của doanh nghiệp bằng cách lấy tất cả các khoản tạo nên doanh thu trừ đi chi phí kinh doanh tương ứng nó có ý nghĩa quan trọng đến chính sách cổ tức, trích lập các quỹ như khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ trợ cấp, quỹ đầu tư phát triển. Các chỉ tiêu trong
báo cáo còn là tiền đề để dự đoán và xác định được quy mô dòng tiền trong tương lai, làm căn cứ tính toán thời gian thu hồi vốn đầu tư, giá trị hiện tại ròng... để ra quyết định đầu tư dài hạn trong doanh nghiệp.
c. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một trong bốn báo cáo tài chính mà doanh nghiệp cần lập để cung cấp cho người sử dụng thông tin của doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến các luồng tiền vào, ra trong doanh nghiệp, tình hình tài trợ, đầu tư bằng tiền của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Những luồng tiền vào ra của tiền và các khoản coi như là tiền được tổng hợp và chia thành 3 nhóm:
- Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh
- Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư
- Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính
Trên cơ sở đó, nhà phân tích thực hiện cân đối ngân quỹ với số dư ngân quỹ đầu kỳ để xác định số dư ngân quỹ cuối kỳ. Từ đó, có thể thiết lập mức dự phòng tối thiểu cho doanh nghiệp đảm bảo khả năng chi trả.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ có mối liên hệ chặt chẽ với bảng cân đối kế toán và bảng kết quả kinh doanh trong phân tích tài chính. Đây là cơ sở quan trọng để nhà quản lý xây dựng kế hoạch quản lý tiền mặt.
d. Thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh báo cáo tài chính là báo cáo tài chính tổng hợp được sử dụng để giải thích và bổ sung các thông tin về tình hình sản xuất, kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo mà các báo cáo khác không thể trình bày rõ ràng, cụ thể và chi tiết được.
Thuyết minh báo cáo tài chính trình bày khái quát đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp; Nội dung một số chế độ kế toán được doanh nghiệp áp dụng; Giải thích và thuyết minh tình hình kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, phương hướng sản xuất kinh doanh trong kỳ tới; Các kiến nghị của doanh nghiệp.
* Nói tóm lại, các báo cáo trên là nguồn tư liệu được dùng trong phân tích tài chính doanh nghiệp vì các báo cáo trên quan hệ mật thiết với nhau, báo cáo này bổ sung cho báo cáo kia, sự thay đổi chỉ tiêu của báo cáo này dẫn đến thay đổi chỉ tiêu của các báo cáo khác, mỗi báo cáo là tiền đề, căn cứ tạo thành một
khối thông tin đầy đủ vừa khái quát vừa cụ thể .
1.2.1.2. Các thông tin bên ngoài doanh nghiệp
Việc phân tích tài chính không chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu những báo biểu tài chính mà phải tập hợp đầy đủ các thông tin liên quan đến tình hình tài chính doanh nghiệp, như các thông tin về kinh tế, tiền tệ, thuế khoá của quốc gia và quốc tế, các thông tin về kinh tế, các thông tin về pháp lý, về kinh tế đối với doanh nghiệp. Việc quyết định đều gắn với môi trường xung quanh. Có thể kể tới một số yếu tố khách quan tác động tới doanh nghiệp và những thông tin liên quan đến các yếu tố này cũng phải luôn được thường xuyên cập nhật:
- Doanh nghiệp luôn phải đối đầu với công nghệ. Sự phát triển của công nghệ góp phần làm thay đổi phương thức sản xuất, góp phần làm thay đổi trong quản lý doanh nghiệp dẫn tới các quyết định tài chính cũng phải thay đổi theo.
- Là chủ thể được tự do kinh doanh bình đẳng nhưng doanh nghiệp luôn là đối tượng quản lý của các cơ quan nhà nước. Mọi hoạt động của doanh nghiệp bị điều tiết và chi phối bởi cơ chế quản lý tài chính, hệ thống luật, các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến ngành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Một sự thay đổi nhỏ về chính sách, chuẩn mực đều có thể dẫn đến quyết định tài chính là đúng đắn hay sai lầm.
- Kinh doanh luôn gắn liền với rủi ro đặc biệt trong nền kinh tế thị trường rủi ro, rủi ro tài chính luôn tiềm ẩn, đòi hỏi các doanh nghiệp dự tính mức rủi ro có thể chịu đựng được qua các quyết định tài chính để có biện pháp phòng ngừa để mức độ an toàn là cao nhất vì rủi ro rất đa dạng và phức tạp nó có thể làm cho doanh nghiệp phá sản, giải thể.
- Doanh nghiệp với sức ép của thị trường cạnh tranh, những đòi hỏi về chất lượng, mẫu mã, chủng loại, giá cả hàng hoá, chất lượng dịch vụ ngày càng cao hơn, tinh tế hơn của khách hàng đòi hỏi doanh nghiệp cần có những thông tin nắm bắt thị hiếu của khách hàng để thay đổi chính sách sản phẩm, đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả và chất lượng cao.
- Doanh nghiệp phải đáp ứng được đòi hỏi của các đối tác về mức vốn sở hữu trong cơ cấu vốn. Sự tăng, giảm vốn chủ sở hữu có tác động đáng kể tới hoạt động doanh nghiệp, đặc biệt trong các điều kiện kinh tế khác nhau.
- Doanh nghiệp muốn hoạt động kinh doanh tốt phải luôn đặt các hoạt động của mình trong mối liên hệ chung của ngành.Đặc điểm ngành kinh doanh liên quan đến :
+ Tính chất của các sản phẩm.
+ Quy trình kỹ thuật áp dụng .
+ Cơ cấu sản xuất công nghiệp nặng hoặc công nghiệp nhẹ những cơ cấu sản xuất này có tác động tới khả năng sinh lời, vòng quay vốn dự trữ phương tiện tiền tệ vv.
1.2.2. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
Phương pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ và biện pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối quan hệ bên trong và bên ngoài, các luồng tiền dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chi tiế, nhằm đánh giá tài chính doanh nghiệp ở quá khứ, hiện tài và dự đoán tài chính doanh nghiệp trong tương lai, giúp các đối tượng đưa ra quyết định kinh tế phù hợp với mục tiêu mong muốn.
1.2.2.1. Phương pháp đánh giá
a. Phương pháp so sánh
Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi, phổ biến trong phân tích kinh tế nói chung và phân tích tài chính nói riêng, được áp dụng từ khâu đầu đến khâu cuối của quá trình phân tích: từ khi sưu tầm tài liệu đến khi kết thúc phân tích. Khi sử dụng phương pháp so sánh cần chú ý đến điều kiện so sánh, tiêu thức so sánh và kỹ thuật so sánh.
Về điều kiện so sánh:
- Phải tồn tại ít nhất 2 đại lượng hoặc hai chỉ tiêu
- Các đại lượng, chỉ tiêu phải thống nhất về nội dung và phương pháp tính toán, thống nhất về thời gian và đơn vị đo lường.
Tuy nhiên, người ta có thể so sánh giữa các đại lượng có quan hệ chặt chẽ với nhau để hình thành chỉ tiêu nghiên cứu về một vấn đề nào đó.
Về tiêu thức so sánh: Tuỳ thuộc mục đích của cuộc phân tích, người ta có thể lựa chọn một trong các tiêu thức sau đây:
- Để đánh giá tình hình thực hiện mục tiêu đặt ra: tiến hành so sánh tài liệu thực tế đạt được với tài liệu kế hoạch, dự đoán hoặc định mức.
- Để xác định xu hướng cũng như tốc độ phát triển: tiến hành so sánh giữa số liệu thực tế kỳ này với thực tế kỳ trước.
- Để xác định vị trí cũng như sức mạnh của doanh nghiệp: tiến hành so sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác cùng loại hình kinh doanh hoặc giá trị trung bình của ngành kinh doanh.
Số liệu của một kỳ được chọn làm căn cứ so sánh được gọi là gốc so sánh.
Về kỹ thuật so sánh: thường sử dụng các kỹ thuật so sánh sau đây:
- So sánh về số tuyệt đối: là việc xác định chênh lệch giữa trị số của chỉ tiêu kỳ phân tích với trị số của chỉ tiêu kỳ gốc( trị số của chỉ tiêu có thể đơn lẻ, có thể là số bình quân, có thể là số điều chỉnh theo một tỷ lệ hay một hệ số nào đó). Kết quả so sánh cho thấy sự biến động về số tuyệt đối của hiện tượng đang nghiên cứu.
- So sánh bằng số tương đối: là xác định số % tăng giảm giữa thực tế so với kỳ gốc của chỉ tiêu phân tích, cũng có khi là tỷ trọng của một hiện tượng kinh tế trong tổng thể quy mô chung được xác định. Kết quả cho biết tốc độ phát triển hoặc kết cấu, mức phổ biến của hiện tượng kinh tế
b. Phương pháp phân chia
Là việc chia các hiện tượng kinh tế thành các bộ phận cấu thành trong mối quan hệ biện chứng hữu cơ với các bộ phận khác và hiện tượng khác. Tuỳ theo mục đích phân tích có thể phân tích theo các tiêu thức khác nhau:
- Phân chia hiện tượng và sự kiện kinh tế theo thời gian là việc phân chia theo trình tự thời gian phát sinh và phát triển của hiện tượng và sự kiện kinh tế đó như năm, tháng, tuần, kỳ... Việc phân chia này cho phép đánh giá được tiến độ phát triển của chỉ tiêu kinh tế đang nghiên cứu.
- Phân chia theo không gian: là việc phân chia hiện tượng kinh tế theo địa điểm phát sinh của hiện tượng đang nghiên cứu như doanh nghiệp con A,B; bộ phận X,Y... Việc phân chia này cho phép cho phép đánh giá vị trí và sức mạnh của từng bộ phận trong doanh nghiệp.
- Phân chia theo yếu tố cấu thành: là việc chia nhỏ hiện tượng kinh tế nghiên cứu để nhận biết bản chất, nội dung, quá trình hình thành và phát triển chỉ tiêu kinh tế.
c. Phương pháp phân tích nhân tố
Là phương pháp phân tích và xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến chỉ tiêu phân tích, sau đó xem xét tính chất ảnh hưởng của từng nhân tố, những nguyên nhân dẫn đến sự biến động của từng nhân tố và xu thế nhân tố trong tương lai sẽ vận động như thế nào. Từ đó có dự đoán chỉ tiêu phân tích trong tương lai sẽ phát triển đến đâu.
Tuỳ thuộc mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu phân tích, người ta có thể chia thành phương pháp thay thế liên hoàn, phương pháp số chênh
lệch, phương pháp hiệu số tỷ lệ, phương pháp cân đối... để xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố
- Phương pháp thay thế liên hoàn: là phương pháp dùng để xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến chỉ tiêu phân tích khi các nhân tố có quan hệ với chỉ tiêu phân tích thể hiện dưới dạng phương trình tích hoặc thương
- Phương pháp số chênh lệch và phương pháp hiệu số tỷ lệ là hệ quả của thay thế liên hoàn áp dụng trong trường hợp mối quan hệ giữa chỉ tiêu phân tích vơí các nhân tố ảnh hưởng thể hiện dưới dạng tích đơn thuần.
- Phương pháp cân đối: cũng dùng để xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến chỉ tiêu phân tích khi chỉ tiêu phân tích có mối quan hệ với các nhân tố thể hiện dưới dạng phương trình tổng hiệu. Để xác định mức độ ảnh hưởng của một nhân tố nào đó người ta chỉ việc xác định chênh lệch giữa thực tế so với kỳ gốc của nhân tố đó, điều cần chú ý là quan hệ thuận chiều và ngược chiều của các nhân tố.
d. Phương pháp dự đoán
Là phương pháp được sử dụng để ước tính các chỉ tiêu kinh tế trong tương lai. Tuỳ thuộc vào mối quan hệ cũng như dự đoán tình hình kinh tế xã hội tác động kinh doanh đến doanh nghiệp mà sử dụng các phương pháp khác nhau. Thường người ta sử dụng phương pháp hồi quy(hồi quy đơn, hồi quy bội), toán xác suất, toán tài chính,và các phương pháp phân tích chuyên dụng như phân tích dòng tiền, phân tích hoà vốn, phân tích lãi gộp, lãi thuần, lãi đầu tư, phân tích dãy thời gian... Các phương pháp này có tác dụng quan trọng trong việc đưa ra các quyết định kinh tế cũng như lựa chọn các phương án đầu tư hoặc kinh doanh...
1.2.2.2. Phương pháp phân tích tài chính Dupont
Đây là một phương pháp phân tích tài chính mới và được áp dụng rất hiệu quả trong phân tích tài chính doanh nghiệp hiện nay. Thực chất phương pháp
phân tích tài chính Dupont cũng phải dựa trên cơ sở các tỷ lệ được tính toán theo phương pháp tỷ lệ. Phương pháp này giúp nhà phân tích đánh giá tác động vòng quay toàn bộ vốn, doanh lợi tiêu thụ._. đến doanh lợi vốn chủ sở hữu. Mối quan hệ
này được thể hiện trong phương trình Dupont.
ROA = = x (1)
Trong đó LNST là lợi nhuận sau thuế .DT là doanh thu TS là tài sản ROAlà hệ số sinh lời tài sản
VCSH là vốn chủ sở hữu; ROE là doanh lợi vốn chủ sở hữu. Nếu toàn bộ tài sản của doanh nghiệp được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu thì doanh lợi vốn và doanh lợi vốn chủ sở hữu sẽ bằng nhau và khi đó tổng tài sản = tổng nguồn vốn chủ sở hữu
ROA = = = ROE (2)
Nếu doanh nghiệp sử dụng nợ để tài trợ cho tài sản của mình thì ta có mối liên hệ giữa ROA và ROE.
ROE = x ROA (3)
Kết hợp (1) và (3)
ROE = x x
= x x = x x
Với Rd=( Nợ/ STS )là hệ số nợ và phương trình này gọi là phương trình Dupont mở rộng thể hiện sự phụ thuộc của doanh lợi vốn CSH vào doanh lợi tiêu thụ, vòng quay toàn bộ vốn và hệ số nợ.
-Phương pháp phân tích Dupont có ưu điểm lớn giúp cho nhà phân tích phát hiện và tập trung vào các yếu điểm của doanh nghiệp. Nếu doanh lợi vốn CSH của doanh nghiệp thấp hơn các doanh nghiệp khác trong cùng ngành chỉ dựa vào hệ thống các chỉ tiêu theo phương pháp phân tích Dupont nhà phân tích có thể tìm ra nguyên nhân.
Dùng phương pháp phân tích tài chính Dupont còn có thể giúp cho doanh nghiệp xác định xu hướng hoạt động trong một thời kỳ để có thể phát hiện ra những khó khăn và thuận lợi mà doanh nghệp có thể gặp phải trong tương lai .
1.2.2.3. Kỹ thuật phân tích
a. Phân tích theo chiều ngang
Là việc so sánh về lượng trên cùng một chỉ tiêu (cung một hàng) trên các báo cáo tài chính. Phân tích theo chiều ngang cho thấy sự biến động của từng chỉ tiêu. Điều quan trọng ở đây là không chỉ đi so sánh để thấy được sự biến động về số tuyệt đối (là khoản chênh lệch giữa lượng tiền của năm so sánh với năm gốc) để thấy được số tiền biến đổi qua thời gian là bao nhiêu mà cần thể hiện sự biến động qua số phần trăm. Điều đó bổ sung cho bức tranh toàn cảnh. Chẳng hạn, doanh thu năm nay tăng 100 triệu so với năm trước với tỷ lệ 10% sẽ được đánh giá khác hoàn toàn so với doanh thu năm nay tăng 100 triệu so với năm trước tỷ lệ 0,5%.
Sự biến động số phần trăm được tính bằng sự biến động tuyệt đối giữa các năm chia cho năm gốc. Tuy nhiên, nếu số tiền của năm gốc là âm hoặc bằng không có thì không thể tính tỷ lệ % biến động. Việc tính toán này ở một số chỉ tiêu cho thấy tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp. Ví dụ, xem xét sự thay đổi về doanh thu và thu nhập theo tỷ lệ phần trăm. Nếu doanh nghiệp tăng trưởng các hoạt động kinh doanh của mình thì doanh thu và thu nhập phải tăng với tốc độ cao hơn với tốc độ lạm phát, ngược lại doanh thu và thu nhập của doanh nghiệp tăng với tốc độ nhỏ hơn tốc độ lạm phát thì không thể có sự tăng trưởng.
Khi phân tích ngang báo cáo tài chính, nên so sánh số liệu hiện hành với kết quả cùng kỳ năm trước. Việc này tránh cho việc phân tích không bị bóp méo bởi những dao động theo vụ mùa hoạt động kinh doanh. Tỷ lệ phần trăm sẽ không có tác dụng khi số liệu kỳ gốc nhỏ. Số liệu kỳ gốc nhỏ nhiều khi cho người đọc báo cáo tài chính có cảm giác bị nhầm lẫn dẫn đến sự đánh giá sai lệch.
b. Phân tích theo chiều dọc
Là việc xem xét, xác định tỷ trọng của từng thành phần trong tổng thể quy mô chung. Qua đó, thấy được mức độ quan trọng của từng thành phần trong tổng thể. Nếu xem xét tất cả các thành phần thì điều đó cho thấy kết cấu của tổng thể. Ví dụ, tỷ trọng của từng loại tài sản trong tổng số cho thầy tầm quan trọng của tài sản đó trong quá trình kinh doanh, hoặc xem xét tỷ trọng nguồn vốn cho thấy kết cấu nguồn vốn của doanh nghiệp đi vay hay là nguồn vốn chủ sở hữu , nguồn hình thành từ đâu. Trong phân tích dọc, vấn đề quan trọng là xác định quy mô chung cho phù hợp với từng báo cáo và mối quan hệ giữa các chỉ tiêu xem xét với quy mô chung đó. Ví dụ, khi phân tích bảng cân đối kế toán thì quy mô
chung là tổng tài sản hay tổng nguồn vốn nhưng khi xem xét tình hình phân bổ vốn lưu động thì quy mô chung là tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn...
c. Phân tích qua hệ số(tỷ số)
Là việc thiết lập một biểu thức toán học có tử số và mẫu số thể hiện mối quan hệ của một mục này với mục khác trên báo cáo tài chính. Các hệ số có thể trình bày bằng phân số, có thể trình bày bằng số phần trăm. Để có được một hệ số có giá trị thì giữa hai con số phải có mối quan hệ đáng kể. Một hệ số chú trọng vào một mối quan hệ quan trọng, nhưng muốn giải thích đầy đủ hệ số đó thường phải xem xét thêm các số liệu khác, các hệ số là công cụ giúp cho việc phân tích và diễn giải, song không thể thay thế cho sự suy luận logic.
Để sử dụng các kỹ thuật phân tích trên, các đối tượng quan tâm, tuỳ thuộc mục tiêu, góc độ nhìn nhận và thời gian cho phép có thể sử dụng một hay kêt hợp các cách thức ở các khía cạnh khác nhau. Như thế mới đảm bảo tính kịp thời, mục tiêu đặt ra.
1.2.3. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.3.1. Phân tích các nhóm chỉ tiêu chủ yếu
Phân tích các nhóm chỉ tiêu giúp cho việc đánh giá tình hình hoạt động doanh nghiệp được rõ ràng hơn, cụ thể hơn do các chỉ tiêu được tính toán thông qua các tỷ số, số phần trăm và so sánh giữa năm này so với năm trước đó và các năm kế tiếp, so với chỉ tiêu trung bình của ngành kinh doanh. Có những chỉ tiêu chính xác làm gốc so sánh là điều khó khăn đòi hỏi các doanh nghiệp phải tuỳ theo tình hình doanh nghiệp mà đưa ra những căn cứ để tiến hành tính toán và phân tích các chỉ tiêu.
a. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán
Một doanh nghiệp được coi là làm ăn có hiệu quả không chỉ thể hiện thông qua mức lợi nhuận cao mà còn thể hiện ở khả năng thanh toán. Nhìn vào một doanh nghiệp làm ăn có lãi nhưng việc có lãi đó chủ yếu là mua bán chịu và đi vay nợ thì đó không thể coi là một doanh nghiệp có tình hình tài chính vững mạnh. Đối với những nhà đầu tư và những nhà tài trợ, những chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán được coi là vô cùng quan trọng, nó quyết định đến khả năng được tài trợ và được các nhà đầu tư chú ý đến. Nhóm chỉ tiêu này bao gồm các chỉ tiêu chủ yếu sau:
Hệ số thanh toán ngắn hạn
=
Tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn
Tỷ lệ khả năng thanh toán hiện hành là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của khoản nợ. Tài sản LĐ và nợ ngắn hạn đều có thời hạn dưới 1 năm.
Hệ số càng cao thì khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn của doanh nghiệp càng lớn. Tuy nhiên, nếu hệ số cao quá thì cũng là không tốt do:
- Các khoản phải thu quá lớn bao gồm các khoản nợ nần dây dưa, lòng vòng khó đòi, các khoản phải thu không có khả năng thu hồi. Hay nói cách khác, doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn.
- Các khoản phải trả không có khả năng thanh toán.
- Vốn bằng tiền dự trữ nhiều làm giảm khả năng sinh lời.
- Hàng tồn kho bị ứ đọng do không có khả năng tiêu thụ.
Để đo lường khả năng thanh toán nhanh, người ta tính chỉ tiêu:
Hệ số thanh toán nhanh
=
Vốn bằng tiền + Các khoản phải thu
Nợ ngắn hạn
Hệ số là thước đo khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ (hàng tồn kho). Vì vốn bằng tiền + Các khoản phải thu= Tài sản lưu động - Hàng tồn kho và hàng tồn kho khó chuyển đổi thành tiền hơn các tài sản lưu động khác, khi bán dễ bị lỗ nhất. Tỷ số này quá cao cũng không tốt.
Hệ số thanh toán tức thời
=
Vốn bằng tiền
Nợ đến hạn
Nợ đến hạn bao gồm các khoản nợ ngắn, trung và dài hạn đến hạn trả tiền. Nếu hệ số này quá cao>1 thì không tốt lúc đó vốn bằng tiền quá nhiều, vòng quay tiền chậm làm giảm khả năng quay vòng vốn. Nếu hệ số này quá thấp<0,1 thì doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
Khi phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp, từ những chỉ tiêu tính được, cần chú ý đên khả năng tạo tiền, sự tăng trưởng và những nguyên nhân ảnh hưởng đến sự gia tăng các khoản phải thu và hàng tồn kho. Đây là nguồn gốc của những khó khăn về khả năng thanh toán.
b. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng cân đối vốn và cơ cấu vốn
Nhóm chỉ tiêu này dùng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu của doanh nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ đối với các doanh nghiệp, phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp. Trên cơ sở phân tích kết cấu nguồn vốn doanh nghiệp sẽ nắm được khả năng tự tài trợ về mặt tài chính, mức độ chủ động trong sản xuất kinh doanh hay những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong việc khai thác nguồn vốn
Hệ số nợ trên tổng tài sản
=
Nợ phải trả
Tổng tài sản
Tỷ số này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với các chủ nợ trong việc góp vốn. Thông thường, các chủ nợ thích tỷ số này vừa phải vì tỷ số này càng thấp thì khoản nợ càng được bảo đảm trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đó, chủ sở hữu doanh nghiệp lại muốn tỷ số này cao vì họ muốn nắm quyền điều hành và kiểm soát, muốn lợi nhuận gia tăng nhanh. Tỷ số này quá cao doanh nghiệp dễ bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
Hệ số nợ trên vốn cổ phần
=
Nợ phải trả
Vốn chủ sở hữu
Hệ số này cho biết vốn chủ sở hữu có đủ khả năng trả nợ cho các chủ nợ không, hệ số này cao hay thấp phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh, loại hình doanh nghiệp
Hệ số khả năng thanh toán lãi
=
Lợi nhuận trước thuế + Lãi vay
Lãi vay
Hệ số này cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo cho khả năng trả lãi hằng năm như thế nào. Đây cũng là chỉ tiêu mà doanh nghiệp quan tâm phân tích vì nó thể hiện khả năng thanh toán của doanh nghiệp
Hệ số cơ cấu tài sản
=
Tài sản cố định hoặc Tài sản lưu động
Tổng tài sản
Hệ số này phản ánh tỷ trọng của TSCĐ hoặc TSLĐ chiếm trong tổng tài sản của doanh nghiệp. Hệ số này cho biết tính hợp lý trong việc đầu tư để từ đó có kế hoạch điều chỉnh và cân đối các khoản mục cho phù hợp với mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu đầu tư vào tài sản cố định ở mức độ vừa phải, doanh nghiệp có thể tận dụng được đòn bẩy hoạt động, tăng lợi nhuận trước thuế, nếu đầu tư quá ít thì cũng không tốt vì không đáp ứng được cơ sở trang thiết bị cho sản xuất kinh doanh, nếu đầu tư quá nhiều thì sẽ không tốt sẽ khiến cho doanh nghiệp không có lợi nhuận, thậm chí thua lỗ do khả năng thu hồi vốn chậm , nhất là đối với những tài sản cố định vô hình mức độ khấu hao nhanh.
Hệ số cơ cấu nguồn vốn
=
Vốn chủ sở hữu
Tổng nguồn vốn
Hệ số này phản ánh tỷ trọng vốn tự có của chủ doanh nghiệp trong tổng nguồn vốn bao gồm cả việc đi vay. Hệ số này càng lớn, khả năng chi trả, tính chủ động của doanh nghiệp cao với chủ nợ. Trong bất kỳ trường hợp rủi ro xảy ra chủ doanh nghiệp đều có khả năng thanh toán. Trách nhiệm của các chủ sở hữu doanh nghiệp với việc tăng nhanh tốc độ vòng quay vốn sẽ tăng lên và ngược lại.
c. Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động
Khả năng hoạt động của doanh nghiệp được đánh giá thông qua hiệu quả kinh doanh, nó phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp về lao động, vật tư, tiền vốn để đạt kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Các chỉ tiêu về khả năng hoạt động đánh giá hiệu quả việc sử dụng vốn nói chung, chú trọng đến từng bộ phận cấu thành nên nguồn vốn của doanh nghiệp.
Vòng quay hàng tồn kho
=
Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho
Đây là chỉ tiêu quan trọng không chỉ nhà quản trị quan tâm mà các nhà đầu tư, chủ nợ cũng rất coi trọng. Vì chỉ tiêu này đo lường khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Bình quân một đơn vị sản phẩm hàng hoá dự trữ tham gia vào quá trình kinh doanh thì thu được bao nhiêu đồng giá vốn. Hệ số này càng cao phản ánh hoạt động kinh doanh càng tốt và ngược lại có nghĩa là có sự bất
hợp lý trong khâu dự trữ, sản xuất làm hàng hóa kém chất lượng hay yếu kém trong khâu tiêu thụ.
Vòng quay vốn lưu động
=
Doanh thu thuần
Tài sản lưu động
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ kinh doanh vốn lưu động quay được bao nhiêu vòng. Số vòng quay càng lớn, hiệu quả sử dụng vốn lưu động cao và ngược lại.
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
=
Doanh thu thuần
Tài sản cố định
Chỉ tiêu này cho biết bình quân một đồng tài sản cố định tham gia vào quá trình kinh doanh tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Tài sản cố định ở đây được tính theo giá trị còn lại đến thời điểm lập báo cáo. Doanh nghiệp chú ý đến chỉ tiêu này để đánh giá mức độ cần thiết cho việc đầu tư vào tài sản cố định có tạo ra doanh thu lớn hay không để có hướng nâng cấp hay mua sắm mới.
Kỳ thu tiền bình quân
=
Các khoản phải thu
Doanh thu bình quân 1 ngày
Kỳ thu tiền bình quân được sử dụng để đánh giá khả năng thu tiền trong thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu bình quân một ngày. Nếu kỳ thu tiền bình quân cao, chứng tỏ doanh nghiệp bị ứ đọng vốn ở các khoản phải thu hoặc doanh thu bình quân một ngày nhỏ là do hàng hóa không tiêu thụ được, nếu tỷ số này thấp chứng tỏ khả năng thu hồi vốn của doanh nghiệp nhanh.
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
=
Doanh thu thuần
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này phản ánh một yếu tố đầu vào trong quá trình kinh doanh sinh ra bao nhiêu kết quả đầu ra. Nhìn vào chỉ tiêu này, các đối tượng quan tâm có thể nhìn thấy tổng quát về năng lực hoạt động của doanh nghiệp từ đó hỗ trợ cho việc ra quyết định.
d. Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời
Khả năng sinh lời là điều kiện duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Chu kỳ sống của doanh nghiệp dài hay ngắn phụ thuộc rất lớn ở khả năng sinh lời. Nhưng nếu chỉ thông qua một số lợi nhụân mà doanh nghiệp thu được trong kỳ kinh doanh cao hay thấp để đánh giá chất lượng kinh doanh tốt hay xấu thì có thể đưa đến kết luận không chính xác. Bởi vì số lợi nhuận này có thể không tương xứng với chi phí bỏ ra, với khối lượng tài sản mà doanh nghiệp sử dụng hay mức độ đầu tư mạo hiểm độ rủi ro cao. Do đó, khả năng sinh lời của doanh nghiệp được xem xét qua nhóm các chỉ tiêu sau:
Hệ số sinh lợi doanh thu
=
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuần
Đây là chỉ tiêu phản ánh trong một đồng doanh thu thì có bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này có thể thay đổi do chi phí hoặc giá bán sản phẩm thay đổi. Không phải lúc nào giá trị của nó cũng cao là tốt. Nếu nó cao do chi phí (giá thành phẩm) giảm thì tốt. Nhưng nếu cao tăng giá bán trong trường hợp cạnh tranh thì chưa phải là tốt, ảnh hưởng đến lợi nhuận trong tương lai
Hệ số sinh lời của tài sản
=
Lợi nhuận sau thuế + Lãi phải trả
Tổng tài sản
Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lời của một đồng vốn đầu tư. Chỉ tiêu này được gọi là tỷ lệ hoàn vốn đầu tư ROI. Tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp và phạm vi so sánh với tổng tài sản.
Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu
=
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu
Những nhà đầu tư thường quan tâm đến chỉ tiêu này vì họ quan tâm đến khả năng thu được lợi nhuận so với vốn họ bỏ ra để đầu tư. Cứ một đồng vốn lợi nhuận tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ lệ càng lớn biểu hiện xu hướng tích cực, doanh nghiệp có thể đi tìm vốn mới trên thị trường để tài trợ cho tăng trưởng của mình. Ngược lại nếu nhỏ và dưới mức của tỷ lệ thị trường thì doanh nghiệp sẽ khó khăn trong việc thu hút vốn. Tuy nhiên, tỷ lệ sinh lời vốn chủ sở
hữu cao không phải lúc nào cũng thuận lợi bởi lẽ có thể do vốn chủ sở hữu nhỏ, điều này thể hiện mức độ mạo hiểm càng lớn.
1.2.3.2. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn trong doanh nghiệp
a. Các loại nguồn huy động cho sản xuất kinh doanh
* Chiếm dụng vốn trong kinh doanh.
Là những khoản tiền phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Nợ lương công nhân:
- Phải trả người bán (tín dụng thương mại):
- Thuế trả chậm:
* Huy động vốn bằng con đường đi vay.
Bên cạnh nguồn vốn chiếm dụng trong kinh doanh thì doanh nghiệp có thể huy động thêm vốn bằng cách vay ngân hàng, các tổ chức tín dụng, cán bộ công nhân viên hoặc phát hành trái phiếu.
- Vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng:
- Vay của cán bộ công nhân viên:
* Nguồn vốn chủ sở hữu.
Vốn chủ sở hữu là số vốn tài trợ cho phần lớn TSCĐ của doanh nghiệp, vì vậy sự biến động tăng hoặc giảm của vốn chủ sở hữu cũng sẽ ảnh hưởng đến quy mô về hoạt động SXKD, quy mô về tổ chức của doanh nghiệp. Sau mỗi chu kỳ SXKD, doanh nghiệp cần phải tiến hành đánh giá, phân tích vốn chủ sở hữu của mình về các mặt.
Khi phân tích về tình hình quản lý và sử dụng vốn chủ sở hữu các nhà phân tích còn sử dụng bảng nguồn vốn và sử dụng vốn.
Bảng phân tích nguồn vốn và sử dụng vốn mô tả diễn biến của các nguồn vốn và sử dụng chúng vào các công việc cụ thể. Sự thay đổi của các khoản mục trên bảng CĐKT từ kỳ trước tới kỳ này cho chúng ta biết nguồn vốn được sử dụng vào mục đích gì. Mỗi sự thay đổi các tài khoản trên bảng CĐKT có thể được xếp vào cột nguồn vốn hay sử dụng vốn theo quy luật sau:
-Nếu tăng phần tài sản và giảm phần nguồn vốn thì được xếp vào cột sử dụng vốn.
-Nếu giảm phần tài sản và tăng phần nguồn vốn thì được xếp vào cột nguồn vốn.
- Nguồn vốn và sử dụng vốn phải cân đối với nhau.
Sắp xếp các chỉ tiêu về nguồn vốn và sử dụng vốn theo trình tự nhất định tuỳ theo mục tiêu phân tích và phản ánh vào bảng biểu theo mẫu
Bảng 1: Bảng nguồn vốn và sử dụng vốn:
Sử dụng vốn
Nguồn vốn
Chỉ tiêu
Số tiền
%
Chỉ tiêu
Số tiền
%
Tăng tài sản
Giảm nguồn vốn
Giảm tài sản
Tăng nguồn vốn
Tổng vốn
100
Tổng nguồn vốn
100
Ví dụ: Tăng hàng tồn kho (tăng phần tài sản) hoặc giảm nợ phải trả (giảm phần nguồn vốn) trên bảng CĐKT cho chúng ta biết doanh nghiệp trong năm đã dùng vốn để mua thêm hàng dự trữ và thanh toán các khoản phải trả.
Ví dụ: Giảm các khoản phải thu (giảm phần tài sản) hoặc tăng vốn kinh doanh ( tăng phần nguồn vốn) trên bảng CĐKT cho chúng ta biết nguồn vốn của doanh nghiệp trong năm được hình thành từ việc thu hồi các khoản phải thu và các chủ sở hữu góp thêm vốn.
b. Nguyên tắc khai thác, huy động vốn
- Tiết kiệm: chỉ huy động vốn với lượng vừa đủ cần thiết cho doanh nghiệp.
- Hiệu quả: chỉ sử dụng nguồn vốn nào có chi phí thấp nhất, quay vòng nhanh.
- Nguồn tài trợ dài hạn đầu tư cho TSCĐ, nguồn tài trợ ngắn hạn đầu tư cho tài sản lưu động.
Bởi vì nếu vốn ngắn hạn được tài trợ dài hạn sẽ tạo thêm yếu tố rủi ro vì khả năng cung cấp tài chính cho đầu tư của doanh nghiệp sẽ dựa vào khả năng thu hút các khoản nợ ngắn hạn được gia hạn thường xuyên. Với những thời điểm phải đương đầu với khó khăn, doanh nghiệp có thể phải chấp nhận đối mặt với một sự gia tăng đột ngột các chi phí tín dụng ngắn hạn hay thậm chí một sự từ chối gia hạn toàn bộ nợ ngắn hạn, như vậy doanh nghiệp sẽ không trả được nợ.
c. Nghiên cứu phương pháp xây dựng nhu cầu vốn lưu động cho doanh nghiệp
Để hình thành tài sản cố định và tài sản lưu động cần phải có nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn. Để xây dựng nhu cầu vốn lưu động cho doanh nghiệp ta cần phân tích hai chỉ tiêu
* Vốn lưu động thường xuyên:
Chênh lệch giữa nguồn vốn dài hạn với tài sản cố định hay giữa tài sản lưu động và nguồn vốn ngắn hạn được gọi là vốn lưu động thường xuyên. Có 3 trường hợp xảy ra khi so sánh nguồn vốn và tài sản:
Khi nguồn vốn dài hạn < Tài sản cố định Hoặc Tài sản lưu động < nguồn vốn ngắn hạn có nghĩa là vốn lưu động thường xuyên <0. Nguồn vốn dài hạn không đủ đầu tư cho tài sản cố định, doanh nghiệp phải đầu tư tài sản cố định bằng nguồn vốn ngắn hạn, tài sản lưu động không đủ đáp ứng cho nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp bị mất cân bằng, doanh nghiệp phải dùng một phần tài sản cố định để thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn trả.
Khi nguồn vốn dài hạn > Tài sản cố định hoặc Tài sản lưu động > Nguồn vốn ngắn hạn nghĩa là Vốn lưu động thường xuyên > 0. Nguồn vốn dài hạn dư thừa sau khi đầu tư vào tài sản cố định, phần thừa đó đầu tư vào tài sản lưu động, khả năng thanh toán của doanh nghiệp tốt.
Vốn lưu động thường xuyên= 0 nghĩa là nguồn vốn tài trợ cho tài sản cố định và tài sản lưu động đủ để doanh nghiệp trả nợ ngắn hạn. Tình hình tài chính doanh nghiệp như vậy là lành mạnh.
Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, nó cho biết 2 điều: Doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn không; Tài sản cố định của doanh nghiệp có được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn không?
* Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên:
Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên
=
Tồn kho và các khoản phải thu
-
Nợ ngắn hạn
Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài trợ cho một phần tài sản lưu động, đó là hàng tồn kho và các khoản phải thu. Có hai trường hợp xảy ra:
- Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên > 0 tức là tồn kho và các khoản phải thu > nợ ngắn hạn. Lúc này, sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp lớn hơn các nguồn vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp có được từ bên ngoài, doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ vào phần chênh lệch.
- Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên < 0, nghĩa là các nguồn vốn ngắn hạn từ bên ngoài đã thừa để tài trợ các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không cần nhận vốn ngắn hạn để tài trợ cho chu kỳ kinh doanh.
* Mối quan hệ giữa vốn lưu động thường xuyên và nhu cầu vốn lưu động thường xuyên:
Vốn bằng tiền= Vốn lưu động thường xuyên - Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên
- Nếu tồn kho và các khoản phải thu >nợ ngắn hạn, nghĩa là sử dụng ngắn hạn > nợ ngắn hạn mà doanh nghiệp huy động được. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên dương. Để tài trợ phần chênh lệch này, doanh nghiệp cần tới vốn
lưu động thường xuyên. Nếu vốn lưu động thường xuyên > Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên thì vốn bằng tiền dương và ngược lại.
- Nếu nhu cầu vốn lưu động thường xuyên0 thì vốn bằng tiền dương. Vốn lưu động thường xuyên < 0 thì vốn bằng tiền âm, xảy ra mất cân đối trong nguồn vốn dài hạn và ngắn hạn hoặc mất cân đối trong đầu tư dài hạn.
1.2.3.3. Phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian và cuối cùng trong báo cáo kết quả kinh doanh
Các chỉ tiêu được chuẩn hoá trong mẫu bảng phân tích kết quả kinh doanh như sau:
Bảng 2: Các chỉ tiêu tài chính trung gian và cuối cùng trong BCKQKD
Chỉ tiêu
Năm N-1
Năm N
Năm N/ Năm N-1
Lượng
Tỷ trọng
Lượng
Tỷ trọng
Lượng
Tỷ trọng
1. Doanh thu thuần
2. Giá vốn hàng bán
3. Lãi gộp
4. Chi phí bán hàng và quản lý
Trong đó:
+ KHTSCĐ
+ Lãi vay
5. Lãi trước thuế và lãi vay
+ Lãi tiền vay
6. Lãi trước thuế
+Thuế thu nhập doanh nghiệp
7. Lãi sau thuế
8. Lãi không chia
Mục tiêu của phương pháp này là xác định, phân tích mối liên hệ và đặc điểm các chỉ tiêu trong báo cáo kết quả kinh doanh, đồng thời so sánh chúng qua một số niên độ kế toán liên tiếp và với số liệu trung bình của ngành(nếu có) để đánh giá xu hướng thay đổi từng chỉ tiêu và kết quả của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác.
1.3. Chất lượng và những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp
1.3.1. Chất lượng phân tích
1.3.1.1. Quan điểm về chất lượng phân tích:
Chất lượng phân tích tài chính là mục tiêu mà các nhà phân tích tài chính muốn hướng đến. Phân tích tài chính bao gồm rất nhiều đối tượng quan tâm từ vĩ mô cho đến vi mô, thông tin vô cùng đa dạng, nhiều phương pháp phân tích, nội dung phân tích đề cập đến nhiều vấn đề... Do vậy, để phân tích tài chính có chất lượng thì việc phân tích trước hết phải được quan tâm một cách đồng bộ ở tất cả các doanh nghiệp, phân tích tài chính cần được coi là một công việc nghiêm túc quyết định trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bên cạnh mở rộng thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm, thu hút đầu tư... Phân tích tài chính không chỉ đơn thuần là việc khái quát tình hình tài chính của doanh doanh nghiệp cùng với việc tính toán đơn thuần một vài chỉ tiêu mang tính dập khuôn, máy móc, theo mẫu quy định sẵn mà cần phải tìm tòi, nghiên cứu những chỉ tiêu mới sau đó kết hợp các chỉ tiêu đặt trong mối quan hệ hữu cơ để so sánh. Các con số được tính toán mang tính định lượng cần phải kết hợp với việc phân tích khoa học, logic để đưa ra những quyết định tài chính phù hợp với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3.1.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng phân tích tài chính
Bên cạnh các chỉ tiêu tài chính đã đề cập đến ở phần trên, để phân tích tài chính có chất lượng, có thể kể đến một số yếu tố sau:
Cung cấp đầy đủ thông tin:
Phân tích tài chính rất cần đến yếu tố thông tin, chất lượng phân tích có tốt hay không phụ thuộc rất lớn vào lượng thông tin được cung cấp ở mức độ nào. Các nguồn thông tin ở đây được hiểu không chỉ là nguồn thông tin bên trong và bên ngoài do doanh nghiệp thu thập được mà còn là những nguồn thông tin quan
trọng được cung cấp đầy đủ bởi các nhà cung cấp thông tin liên quan đến phân tích tài chính doanh nghiệp như hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành, các thông tin về chính sách nhà nước... mà việc thiếu đi một trong vài thông tin liên quan đến vấn này có thể ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng phân tích tài chính của doanh nghiệp. Chất lượng phân tích tài chính phụ thuộc rất lớn vào nguồn thông tin nhưng là nguồn thông tin có chọn lọc và có chất lượng, bởi cũng là thông tin nhưng nó có đầy đủ và trung thực không mới là điều quan trọng, điều này bản thân doanh nghiệp không tự làm được mà tuỳ thuộc vào những nhà cung cấp thông tin.
Độ chính xác của các chỉ tiêu và các nhân tố tác động
Chất lượng phân tích tài chính còn phụ thuộc rất lớn vào độ chính xác của các chỉ tiêu tính được như khả năng thanh toán, cơ cấu tài chính , khả năng sinh lời... và các nhân tố tác động như quan điểm của lãnh đạo về phân tích tài chính doanh nghiệp, công tác tổ chức hoạt động phân tích tài chính, người thực hiện phân tích tài chính... Nói như vậy có nghĩa là yếu tố chính xác được quan tâm hàng đầu, bởi vì phân tích tài chính dựa trên các con số tính toán được và chọn ra chỉ tiêu nào cần thiết phục vụ cho mục tiêu phân tích ,dựa trên các con số này mà các nhà phân tích đưa ra những quyết định tài chính và những giải pháp do vậy chỉ cần một sự sai sót nhỏ có thể dẫn đến những sai phạm lớn cho những kết luận tài chính. Bên cạnh đó, chất lượng phân tích có tốt cũng do các nhân tố tác động được xác định chính xác như thế nào, ở từng nhân tố xem xét được mức độ ảnh hưởng của nó đến công việc phân tích tài chính để từ đó có thể nâng cao chất lượng phân tích.
Tính kịp thời của thông tin
Tính kịp thời của thông tin là yếu tố không thể thiếu phục vụ cho phân tích tài chính doanh nghiệp hay nói cách khác là làm cho chất lượng phân tích tài chính được tốt hơn. Thông tin mang tính động rất cao, một thông tin có thể có giá trị hôm nay nhưng đến hôm sau nó lại bị lạc hậu do vậy để tạo nên các báo cáo có chất lượng cần thiết cho phân tích tài chính các thông tin kế toán cần phải được cập nhật cao độ đến từng chi tiết, theo từng ngày để đảm bảo tính kịp thời. Tính kịp thời của thông tin làm tăng chất lượng phân tích tài chính còn thể hiện ở chỗ: các số liệu để phân tích phải được tập hợp qua nhiều năm và có độ chính xác cao.
Ví dụ, để phân tích tài chính cho năm nào đó trong ngắn hạn hay trong dài hạn
thì thông tin cung cấp không thể chỉ là số liệu của một năm trước đó mà là số liệu của 3, 4 năm kế tiếp nhau mới có thể giúp các nhà phân tích có cái nhìn tổng quát và phân tích tài chính được tốt hơn.
1.3.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng phân tích tài chính
Chất lượng phân tích tài chính tốt hay chưa tốt là do ảnh hưởng của các nhân tố tác động như sau:
1.3.2.1. Công tác tổ chức hoạt động phân tích tài chính
Để thực hiện công việc phân tích tài chính cần phải bao gồm các công việc từ khâu chuẩn bị kế hoạch, thực hiện, kiểm tra giám sát và đánh giá kết quả. Các công việc này muốn thực hiện tốt phải cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban trong một doanh nghiệp. Mỗi phòng ban với chức năng nhiệm vụ của mình dưới sự phân công của trưởng phòng mỗi người đều có phần việc của mình để hướng tới mục tiêu chung là tổ chức tốt công tác phân tích tài chính. Nguồn thông tin được thu thập từ các phòng ban là kết quả nội bộ quan trọng trên cơ sở được xử lý, chọn lọc bởi các nhà quản lý cấp cao được cung cấp cho quá trình phân tích tài chính và ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng phân tích tài chính.
1.3.2.2. Người thực hiện phân tích tài chính
Người thực hiện phân tích tài chính là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng phân tích tài chính. Trước hết mục đích của nhà phân tích tài chính khi tiến hành phân tích sẽ định hướng cho cả quá trình phân tích, quyết định quy mô phạm vi các kỹ thuật tài liệu sử dụng cũng như chi phí cho việc phân tích. Khả năng của nhà phân tích sẽ lựa chọn thông tin và tiến hành thu thập nguồn thông tin có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng phân tích tài chính vì phân tích tài chính muốn hiệu quả phải dựa trên những thông tin đầy đủ chính xác kịp thời và chi phí cho việc thu thập là nhỏ nhất. Việc lựa chọn công cụ phân tích cũng phụ thuộc vào người phân tích. Kết quả phân tích tài chính luôn mang dấu ấn cá nhân do vậy nhà phân tích có những đánh giá nhận xét riêng của mình về tình hình tài chính doanh nghiệp là điều không thể tránh khỏi.
Nhà phân tích phải trung thực ý thức được tầm quan trọng và nhiệm vụ của mình thì việc phân tích tài chính mới có hiệu quả cao.
1.3.2.3. Chất lượng thông tin sử dụng trong phân tích tài chính
Thông tin là một vấn đề hết sức cần thiết trong tất cả các lĩnh vực nói chung và trong phân tích tài chính nói riêng. Thông tin là vô cùng quan trọng và máy tính
là bắt buộc. Có thể khẳng định rằng nếu không có thông tin hoặc thiếu thông tin
thì việc phân tích tài chính không thể thực hiện được hoặc nếu phân tích trong điều kiện thông tin không đầy đủ chính xác thì chất lượng phân tích sẽ thấp.
Do vậy làm thế nào để có một hệ thống thông tin đầy đủ và chính xác phục vụ tốt cho công tác phân tích tài chính thì đó là yêu cầu các nhà quản lý phải hết sức quan tâm.
1.3.2.4. Việc lựa chọn phương pháp phân tích tài chính
Trên cơ sở nguồn thông tin có được các cán bộ phân tích sẽ phải làm gì? làm như thế nào? áp dụng phương pháp phân tích tài chính nào để đánh giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp là một điều rất quan trọng.
Trong điều kiện hiện nay, phải kết hợp các phương pháp phân tích tài chính tuỳ theo từng mục tiêu cụ thể của nhà quản lý quan tâm thì việc phân tíc._. vốn vì vậy cần có chính sách thu hồi nợ và tăng tốc độ lưu chuyển hàng tồn kho.
+ Nguồn vốn tăng lên là do công ty vay nợ ngắn hạn tăng so với năm 2000 là 47.374 triệu chiếm 81,63% nguồn vốn và do sự tăng lên của nguồn vốn quỹ với tỷ lệ là 16,25%. Công ty đã tiến hành vay nợ ngắn hạn với số lượng lớn và tăng vốn kinh doanh, trích lập các quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính. Điều này cho thấy, công ty kinh doanh chủ yếu dựa vào nguồn tài trợ chứ không dựa chủ yếu vào năng lực của mình. Công ty cần có kế hoạch trả nợ, tăng nguồn vốn kinh doanh.
- Năm 2002, nguồn vốn và sử dụng vốn tăng so với năm 2001 về số tuyệt đối là 44.168 triệu. Điều đó cho thấy, công ty sử dụng hợp lý nguồn vốn và duy trì được mục tiêu tăng trưởng.
+ Việc sử dụng vốn tăng lên là do sự tiếp tục tăng lên của các khoản phải thu chiếm tỷ lệ khá cao là 68,1% tương đương với 30.080 triệu và hàng tồn kho chiếm 16,54%. Công ty cần đẩy mạnh biện pháp thu hồi vốn, tiêu thụ sản phẩm.
+ Nguồn vốn tăng lên do công ty vẫn tiếp tục vay nợ ngắn hạn chiếm 69,93% giảm so với 2001 tuy nhiên đây vẫn là tỷ lệ cao, sự tăng lên của nguồn vốn quỹ chiếm 23,56% tăng so với 2001. Điều này là rất tốt song công ty vẫn có giải pháp cho các khoản nợ ngắn hạn để tránh tình trạng mất khả năng thanh toán, cần tăng nhanh hơn nữa về nguồn vốn kinh doanh.
Với kết quả trên, trong những năm kinh doanh tới, công ty nên vay nợ dài hạn để tránh những khoản nợ đến hạn sớm và đẩy nhanh công tác tiêu thụ.
3.2.1.2. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh
Bảng 15 : Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1. Các khoản phải thu
40.561
72.189
102.269
2. Hàng tồn kho
42.002
57.696
65.004
3. Nợ ngắn hạn
59.627
107.001
137.892
4. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên
22.936
22.884
29.381
Nguồn: Bảng cân đối kế toán năm 2000- 2002
Qua bảng trên, ta thấy: cả 3 năm nhu cầu vốn lưu động thường xuyên đều lớn hơn không sự tăng giảm giữa các năm là không đáng kể. Nghĩa là các khoản phải thu và hàng tồn kho > Nợ ngắn hạn, tại đây các sử dụng ngắn hạn của công ty lớn hơn nguồn vốn ngắn hạn mà công ty có được từ bên ngoài. Công ty phải dùng vốn chủ sở hữu để tài trợ cho phần chênh lệch này. Công ty cần nhanh chóng giảm các khoản phải thu và nhanh chóng giải phóng hàng tồn kho.
Bảng 16: Vốn lưu động thường xuyên
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1. Tài sản cố định
79.188
80.814
79.662
2. Vốn chủ sở hữu
56.520
65.902
72.238
3. Nợ dài hạn
59.364
57.356
53.223
4. Vốn lưu động thường xuyên
36.696
42.444
45.799
Nguồn: Bảng cân đối kế toán năm 2000-2002
Qua bảng tính toán trên, ta thấy cả 3 năm vốn lưu động thường xuyên đều >0 và tăng dần qua 3 năm. Điều này cho thấy, nguồn vốn dài hạn dư thừa sau khi đầu tư tài sản cố định, phần dư thừa này đầu tư vào tài sản lưu động. Đồng thời tài sản lưu động >Nợ ngắn hạn, khả năng thanh toán của công ty là tốt. Song tỷ lệ các khoản phải thu chiếm tỷ lệ lớn do vậy cần giảm các khoản phải thu và tăng cường đầu tư vào tài sản cố định.
Bảng 17 : Vốn bằng tiền
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1. Vốn lưu động thường xuyên
36.696
42.444
45.799
2. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên
22.936
22.884
29.381
Vốn bằng tiền
13.760
19.560
16.418
Ta thấy rằng vốn bằng tiền của công ty 3 năm đều dương tuy có giảm ở năm 2002. Tài sản cố định được tài trợ đầy đủ bằng nguồn vốn dài hạn, phần dư thừa được tài trợ cho các tài sản lưu động khác, điều này là rất tốt. Công ty cần cố gắng duy trì tăng vốn bằng tiền và đầu tư vào tài sản cố định hợp lý.
3.2.1.3. Phân tích báo cáo kết quả kinh doanh:
Qua bảng tính toán các chỉ tiêu tài chính trung gian và cuối cùng trong báo cáo kết quả kinh doanh, ta có những nhận xét sau đây:
- Ta thấy lợi nhuận sau thuế năm 2001 giảm so với năm 2000 1.966 triệu tương đương với 1,08%, cho thấy tình hình sản xuất kinh doanh của công ty có sự sút giảm. Việc giảm sút trên là do các nguyên nhân sau:
+ Doanh thu thuần tăng 41.953 triệu làm tổng lợi nhuận kinh doanh tăng
+ Giá vốn hàng bán tăng 28.687 triệu chiếm tỷ lệ 15,72% làm cho lợi nhuận kinh doanh giảm 26.687 triệu.
+ CPBH và CPQLDN tăng 7.024 triệu chiếm tỷ lệ 3,98% làm cho lợi nhuận giảm 7.024 triệu
+ Lợi nhuận tài chính giảm 5.097 triệu làm lợi nhuận giảm 5.097 triệu.
+ Thuế thu nhập doanh nghiệp tăng 2.328 triệu chiếm 1,28% làm lợi nhuận giảm 2.328 triệu.
Năm 2001 chi phí tăng nhiều hơn so với tốc độ tăng của doanh thu thuần làm cho lợi nhuận sau thuế giảm.
Năm 2002, kết quả kinh doanh của công ty tăng so với 2001 3.345 triệu chiếm 1,49% thể hiện sự cố gắng của công ty trong quá trình tìm kiếm lợi nhuận. Lợi nhuận tăng là do:
+ Doanh thu tăng 47.228 triệu chiếm 21,05% làm tổng lợi nhuận kinh doanh tăng 47.228 triệu.
+ Giá vốn hàng bán tăng 37.542 triệu đồng làm lợi nhuận giảm 37.542 triệu
+ Lợi nhuận kinh doanh giảm 2.745 triệu chiếm tỷ lệ 1,22% làm cho lợi nhuận giảm 2.745 triệu.
Như vậy, qua phân tích tình hình sản xuất kinh doanh 3 năm, ta thấy công ty đẩy nhanh bán ra để tăng doanh thu thuần, làm tăng tốc độ luân chuyển vốn, sản lượng bán ra tăng thì giá vốn tăng là đương nhiên. Do đó, không phải là khuyết điểm trong khâu quản lý giá thành mà là sự cố gắng trong tiêu thụ sản phẩm . Điều này là rất tốt công ty cần phát huy và kết hợp với việc chi tiêu hợp lý giảm tối thiểu chi phí để tiết kiệm và trành lãng phí những chi phí bất hợp lý.
3.2.1.4. Phân tích các luồng tiền
Mục đích của nội dung này là xác định và dự báo luồng tiền vào ra trong từng thời kỳ ngắn hạn để chủ động lựa chọn nguồn tài trợ và xác định ngân quỹ xí nghiệp. Phân tích các nguồn thu bằng tiền từ hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư, hoạt động tài chính, trong đó thu bằng tiền là hoạt động chủ yếu. Phân tích các khoản chi như: chi tiền mua hàng hoá, chi các khoản nộp ngân sách, trả vốn, trả lãi vay, chi bên ngoài, chi lương và các khoản chi nội bộ. Trên cơ sở số dư tiền đầu kỳ tối ưu và dựa vào chênh lệch thu chi, công ty tiến hành cân đối thu chi bằng tiền để chủ động tìm nguồn tài trợ và khả năng đầu tư ngắn hạn.
Công ty hiện nay chưa phân tích nội dung này, đây là một giải pháp đưa ra giúp công ty có thể chủ động hơn trong việc chi tiêu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phân tích tài chính nói riêng và hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung.
3.2.1.5. Chỉ tiêu mới
Ngoài các chỉ tiêu tài chính được tính ở trên, công ty cần tính thêm một số chỉ tiêu được thể hiện trong bảng sau để hoạt động phân tích có kết quả tốt hơn
Bảng 19: Các nhóm chỉ tiêu
Stt
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2001/2000
2002/2001
1.
Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán
- Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn
- Hệ số thanh toán nhanh
- Hệ số thanh toán tức thời
1,494
0,77
0,09
1,267
0,72
0,04
1,268
0,79
0,05
-0,227
0,05
-0,05
0,001
0,07
0,01
2.
Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính
- Hệ số nợ tổng tài sản
- Hệ số nợ vốn chủ sở hữu
0,68
2,1
0,714
2,5
0,712
2,475
0,034
0,4
-0,002
-0,025
3.
Nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động
-Vòng quay hàng tồn kho
- Vòng quay vốn lưu động
- Hiệu suất tài sản cố định
- Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
- Kỳ thu tiền bình quân
3,62
2,05
2,304
1,038
0,22
3,13
1,66
2,78
0,97
0,32
3,36
1,55
3,4
1,001
0,38
-0,49
-0,39
0,476
-0,068
0,1
0,23
-0,11
0,62
0,031
0,06
4.
Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời
- Hệ số sinh lợi doanh thu
- Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu
0,072
0,231
0,049
0,168
0,053
0,186
-0,023
-0,063
0,004
0,018
Qua bảng tính toán trên ta rút ra một số nhận xét sau:
* Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán:
- Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn trong 3 năm đều >1. Năm 2001 có giảm so với 2000 là 0,027, năm 2002 mức tăng so với 2001 là không đáng kể Điều này là rất tốt cho thấy các khoản nợ ngắn hạn được tài sản lưu động dư thừa bù đắp nhưng các khoản phải thu của công ty tăng rất cao trong khi tài sản cố định giảm xuống. Việc thanh toán dựa chủ yếu vào các khoản phải thu là không tốt vì còn phụ thuộc vào khả năng thu hồi nợ của công ty, dễ gây mất khả năng thanh toán. Cần có kế hoạch tạo nên cơ cấu tài sản lưu động hợp lý.
- Hệ số thanh toán nhanh cả 3 năm đều <1. Điều này là chưa tốt lắm biểu hiện công ty có khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ ngắn hạn do công ty qua 3 năm tăng nhanh các khoản nợ ngắn hạn với số lượng lớn trong khi các khoản phải thu và hàng tồn kho tuy có tăng nhưng tốc độ tăng không tương xứng so với các khoản nợ ngắn hạn. Công ty cần tạo ra một sự tăng lên tương xứng để đảm bảo khả năng thanh toán nhanh, tăng các nguồn tài trợ dài hạn.
- Hệ số thanh toán tức thời của công ty rất kém, cả 3 năm đều <0,1 thể hiện công ty thiếu trầm trọng vốn bằng tiền. Giải pháp là nhanh chóng tiêu thụ hàng tồn kho, giảm các khoản phải thu và giảm nợ ngắn hạn.
* Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính:
- Hệ số nợ trên tổng tài sản của công ty qua 3 năm >0,5 như vậy là tương đối cao: năm 2001 tăng so với 2000 là 0,034 điều này là không tốt; năm 2002 giảm so với 2001 là 0,002 tình hình có khả quan nhưng không đáng kể. Lý do là các khoản phải trả của công ty là rất cao lớn hơn các khoản phải thu. Công ty cần có chính sách tín dụng hợp lý hơn tránh sử dụng nợ và giảm việc bị chiếm dụng vốn.
- Hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu đều rất cao qua 3 năm do tổng các khoản phải trả tăng mạnh qua 3 năm đặc biệt là nợ ngắn hạn trong khi đó nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu tăng không đáng kể và không cùng tốc độ. Công ty lợi dụng ưu thế sử dụng nợ để kinh doanh nếu lợi nhuận tốt là điều đáng mừng, nhưng tỷ lệ nợ quá cao sẽ làm giảm lòng tin của các chủ nợ và công ty sẽ khó khăn trong việc vay nợ trong thời gian tới.
- Hệ số khả năng thanh toán lãi vay không thể tính được do công ty chưa lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Cần tiến hành lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ trong thời gian tới.
* Nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động:
- Hệ số vòng quay hàng tồn kho của công ty qua 3 năm là còn thấp , năm 2001 là thấp nhất nhưng 2002 lại tăng lên một chút. Công ty cần có biện pháp đẩy mạnh hơn nữa công tác tiêu thụ.
- Hệ số vòng quay vốn lưu động: năm 2000 cứ 1 đồng vốn lưu động tham gia vào sản xuất kinh doanh thì tạo ra được 2,05 đồng doanh thu thuần và 2001 giảm còn 1,66 đồng và năm 2002 giảm còn 1,55. Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động là còn thấp công ty cần có biện pháp cho vấn đề này.
- Hiệu suất sử dụng tài sản cố định là tăng dần qua 3 năm . Việc đầu tư tài sản là có hiệu quả tạo ra sự tăng trưởng doanh thu. Năm 2000 cứ 1 đồng TSCĐ tham gia vào kinh doanh thì tạo ra 2,304 đồng doanh thu thuần; 2001 tăng so với 2000 là 0,476 đồng và năm 2002 tăng so với 2001 là 0,62 đồng. Có sự cân đối trong việc đầu tư tài sản cố định và việc tạo ra doanh thu. Công ty cần nên phát huy điều này.
-Hiệu suất sử dụng tài sản qua 3 năm như vậy là tạm chấp nhận tuy nhiên năm 2001 là thấp 0,97 lần do các khoản phải thu tăng mạnh trong khi doanh thu thuần không tăng. Cần phải giảm chi phí để tăng doanh thu.
* Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời:
- Hệ số sinh lời doanh thu cả 3 năm đều có thể chấp nhận được đặc biệt là năm 2000 cứ 1 đồng doanh thu thì tạo ra 0,072 đồng lợi nhuận sau thuế trong khi năm 2001 giảm còn 0,049 lần và lại tăng lên ở năm 2002 là 0,053 lần. Công ty cần cố gắng phát huy nỗ lực giảm thiểu chi phí để tăng lợi nhuận.
- Hệ số sinh lời vốn chủ sở hữu qua 3 năm có giảm tăng đôi chút , thể hiện công ty luôn cố gắng sử dụng hiệu quả đồng vốn của mình. Hệ số của cả 3 năm là tạm chấp nhận được.
3.2.2.Công ty nên đưa phương pháp Dupont trong phân tích tài chính
Bảng 20: Một số chỉ tiêu sử dụng trong phương pháp phân tích tài chính Dupont
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
LNST/ Doanh thu thuần
0,072
0,049
0,053
Doanh thu thuần/ åTS
1,038
0,97
1,001
åTS/ Vốn chủ sở hữu
3,109
3,49
3,475
Hệ số Nợ
0,68
0,714
0,712
LNST/ Vốn CSH
0,231
0,168
0,186
Qua bảng phân tích trên ta rút ra nhận xét sau:
Từ kết quả phân tích các chỉ tiêu. So sánh phương trình Dupont hai năm 2000 và 2001 cho thấy. Doanh lợi vốn chủ sở hữu trong năm 2001 giảm đi so với năm 2000. Nguyên nhân là do danh lợi doanh thu thu giảm. Vòng quay toàn bộ vốn năm 2001 giảm so với năm 2000. Hệ số nợ tăng lên nhưng tốc độ tăng chậm hơn tốc độ giảm của doanh thu tiêu thụ và vòng quay toàn bộ vốn. Như vậy việc tăng cường sử dụng nợ là không có lợi cho Công ty và các loại chi phí còn cao nên lợi nhuận sau thuế giảm.
- Sang năm 2002 doanh lợi vốn chủ sở hữu lại cao hơn năm 2001 nguyên nhân là do: Doanh lợi doanh thu năm 2002 tăng nhiều so với năm 2001. Tổng doanh thu tăng với tốc độ nhanh hơn mức tăng của lợi nhuận sau thuế. Tỷ lệ tài sản trên vốn chủ sở hữu giảm hơn so với năm 2001. Hệ số nợ của Công ty giảm. Như vậy giảm sử dụng nợ và tăng doanh thu trong giai đoạn này có hiệu quả làm tăng lợi nhuận sau thuế.
Từ những phân tích trên, có thể thấy các hệ số có ảnh hưởng rất lớn đến doanh lợi vốn chủ sở hữu đặc biệt là hệ số nợ có thể khuyếch đại doanh lợi vốn CSH, làm lợi cho chính Công ty. Đồng thời làm giảm nhẹ sự suy giảm của doanh lợi vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên tình hình sẽ trở nên tồi tệ nếu đồng vốn của doanh nghiệp được sử dụng không hiệu quả dẫn tới thua lỗ. Khi đó một hệ số nợ cao sẽ càng làm cho sự thua lỗ của Công ty nhiều hơn. Tức là số vốn CSH của doanh nghiệp ngày càng mất đi. Tuỳ từng thời kỳ phát triển kinh tế mà các chủ doanh nghiệp sử dụng hệ số nợ cho hợp lý. Tiết kiệm giảm chi phí tới mức thấp nhất có thể. Nhiệm vụ chính của các nhà quản trị phân tích chính là xác định một cơ cấu vốn hợp lý cho từng giai đoạn phát triển kinh tế của doanh nghiệp theo xu hướng phát triển chung mà có cơ cấu vốn hợp lý nhằm sử dụng vốn có hiệu quả cao nhất.
3.2.3. Hoàn thiện tổ chức hoạch định phân tích tài chính
Để đi sâu vào các nội dung phân tích tài chính như trên cần phải hoàn thiện công tác tổ chức hoạch định phân tích tài chính đây là quá trình chuẩn bị nhằm định hướng mục tiêu, sắp xếp các vấn đề cần nghiên cứu thật khoa học, có hệ thống ,đảm bảo tính lý luận. Các giải pháp đưa ra cho vấn đề này như sau:
3.2.3.1. Xây dựng và thực hiện tốt quy trình phân tích tài chính
Quy trình phân tích được lập qua các bước:
- Bước 1: Lập kế hoạch phân tích
Đây là giai đoạn đầu tiên, là một khâu quan trọng ảnh hưởng nhiều đến chất lượng, thời hạn và tác dụng phân tích tài chính. Giai đoạn này được chuẩn bị tốt, chu đáo sẽ giúp cho các giai đoạn sau tiến hành có kết quả
+ Xác định mục tiêu, xây dựng chương trình phân tích để từ đó phát hiện vấn đề và hạn định một cách chính xác để đi sâu vào vấn đề chính tránh lãng phí thời gian và chi phí.
+ Lập kế hoạch phân tích bao gồm nội dung phân tích, phạm vi phân tích, nguồn nhân lực cho phân tích, thời gian tiến hành, những thông tin cần lựa chọn và thu thập, tìm hiểu.
- Bước 2: Giai đoạn tiến hành phân tích:
+ Sưu tầm tài liệu, xử lý số liệu
+ Tính toán các chỉ tiêu phân tích
+ Xác định nguyên nhân và tính toán các mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến chỉ tiêu phân tích.
+ Xác định và dự đoán những nhân tố kinh tế xã hội tác động đến tình hình kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Tổng hợp kết quả, rút ra nhận xét, kết luận về tình hình tài chính của doanh nghiệp.
+ Đưa ra giải pháp khắc phục hạn chế và phát huy thành công.
+ Đưa ra quyết định tài chính
+ Dự báo và lập kế hoạch tài chính cho năm tới và các năm tiếp theo.
- Bước 3:
+ Viết báo cáo phân tích
+ Hoàn chỉnh hồ sơ phân tích.
3.2.3.2. Tổ chức tốt công tác kế toán
Công tác kế toán thực hiện càng tốt bao nhiêu thì chất lượng phân tích tài chính càng tốt bấy nhiêu. Thực tế cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam còn chưa muốn công khai thông tin về doanh nghiệp mình, do đó các số liệu nộp cho các cơ quan quản lý và đối tượng quan tâm xem xét là chưa phản ánh đúng thực tế tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà là các số liệu có sửa đổi. Công tác kế toán cần phản ánh đúng thực tế hàng ngày để cung cấp nguồn thông tin chuẩn xác, trung thực, thống nhất góp phần cho việc đưa ra những quyết định tài chính phù hợp cho tình hình tài chính của công ty.
3.2.3.3. Nâng cao nhận thức, trình độ và chất lượng chuyên môn cho cán bộ phân tích tài chính
Hiện nay, công việc phân tích tài chính ở công ty được thực hiện bởi nhân viên chuyên về nghiệp vụ kế toán, điều này là bất cập. Để nâng cao chất lượng phân tích tài chính, vấn đề này cần được giải quyết như sau:
- Trước hết là nâng cao nhận thức cho nhân viên công ty đặc biệt là nhân viên phòng tài chính kế toán về tầm quan trọng của phân tích tài chính bằng cách tổ chức các buổi thảo luận, nói chuyện, đưa ra những ví dụ cụ thể chứng minh cho lợi ích của công ty nếu phân tích tài chính được quan tâm đúng mức.
- Chất lượng phân tích có cao hay không phụ thuộc vào trình độ và chuyên môn của cán bộ phân tích. Thực tế ở công ty chưa có đội ngũ chuyên trách về công việc phân tích tài chính. Giải pháp trước mắt là nâng cao trình độ cho các kế toán về các nghiệp vụ tài chính bằng cách khuyến khích đi học thêm, giành thêm thời gian cho các nhân viên ngoài công việc kế toán kiêm phân tích tài chính để họ có thời gian tập trung cho phân tích tốt hơn. Về lâu dài, cần có phòng tài chính riêng với những cán bộ được tuyển dụng có chuyên môn về tài chính để thực hiện phân tích tài chính.
3.2.3.4. Các quy định về công tác phân tích tài chính
- Thời gian tiến hành phân tích nên qui định ngay sau khi các báo cáo tài chính của công ty được lập xong. Độ dài thời gian cần được xác định rõ ràng.
- Quy định về trách nhiệm yêu cầu công việc đối với cán bộ phân tích. Đặc biệt đối với người có trách nhiệm chính điều hành tổ chức toàn bộ công tác phân tích của Công ty.
- Quy định về đào tạo bồi dưỡng trình độ chuyên môn của các cán bộ phân tích.
- Quy định khen thưởng kỷ luật với cán bộ phân tích.
- Quy định về trách nhiệm của các phòng ban chức năng có liên quan.
- Quy định kiểm tra đánh giá chất lượng phân tích.
3.2.4. Cung cấp và sử dụng thông tin trong phân tích tài chính
- Nguồn thông tin bên ngoài:
Hiện tại, trong công ty chưa sử dụng hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành làm tỷ lệ tham chiếu trong khi phân tích vì do hệ thống chỉ tiêu này chưa được cơ quan chuyên trách cung cấp rộng rãi, bên cạnh đó là những chỉ tiêu này chưa thật chính xác do đó đòi hỏi các nhà phân tích phải linh hoạt khi sử dụng chỉ tiêu này, đưa chỉ tiêu này vào phân tích tài chính để phần nào có được kết quả chính xác nhất. Công ty cần thường xuyên theo dõi biến động về tình hình chính trị, kinh tế văn hoá trên thế giới, trong khu vực và trong nước như giá cả nguyên vật liệu, lãi suất , tỷ giá hối đoái, chiến tranh, bệnh tật, thông tin của các đối thủ cạnh tranh, các chính sách vĩ mô của nhà nước liên quan đến ngành hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty để từ đó có sự đối phó kịp thời và điều chỉnh hợp lý.
- Nguồn thông tin nội bộ:
Quan trọng nhất là các báo cáo tài chính vì đây là cơ sở quan trọng cho phân tích tài chính. Thông tin trong báo cáo tài chính cần chính xác, đầy đủ do vậy cần tiến hành kiểm toán nội bộ dưới sự chỉ đạo của kế toán trưởng. Công ty cần có báo cáo lưu chuyển tiền tệ để tạo ra sự cân đối trong thu chi và tạo điều kiện cho các đối tượng quan tâm khác có cái nhìn cụ thể hơn về công ty. Thông tin cần lưu trữ cẩn thận và lưu chuyển giữa các phòng qua hệ thống máy vi tính được nối mạng.Ban lãnh đạo thường xuyên giám sát thông tin qua hệ thống này.
3.3. Một số kiến nghị
a. Đối với công ty:
Công ty nên tiến hành phân tích các báo cáo tài chính dựa trên cả hai phương pháp là so sánh và phân tích tỷ lệ, phân tích tất cả các chỉ tiêu trong các nhóm kết hợp với phương pháp phân tích tài chính Dupont để có cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về tình hình tài chính của Công ty. Bởi trên thực tế nếu chỉ so sánh giữa số thực hiện của hai kỳ kế toán sẽ cho kết quả khả quan ,nhưng nếu đem kết quả đó so sánh với chỉ tiêu chung của ngành thì vẫn còn thấp chưa phù hợp có nghĩa là Công ty cần có giải pháp khác để cải thiện tình hình tài chính của mình. Ngoài ra Công ty cần thực hiện chương trình phân tích nhanh các chỉ tiêu
tài chính trên máy tính để cung cấp thông tin thường trực cho ban quản lý Công ty nhằm đáp ứng các yêu cầu về quản lý Công ty.
b. Đối với nhà nước
Hiện nay chế độ kế toán Việt Nam vẫn còn nhiều điểm chưa hợp lý, các quy định chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và khu vực, số liệu sổ sách còn chưa thống nhất gây khó khăn cho các doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước. Bộ Tài chính cần có quy định cụ thể và phù hợp để hoàn thiện công tác kế toán doanh nghiệp nhằm cung cấp thông tin tốt hơn, tạo điều kiện nâng cao chất lượng phân tích tài chính.
Xây dựng và hoàn thiện công tác kiểm toán nội bộ, kiểm toán nhà nước, kiểm toán bởi các công ty kiểm toán nhằm lành mạnh hoá tình hình tài chính của các doanh nghiệp trong điều kiện hoạt động như hiện nay, nhằm thúc đẩy tính chuyên nghiệp trong công tác quản lý tài chính và công tác phân tích tài chính.
Công tác thanh tra kiểm tra của cơ quan thuế, tổng cục thuế được tiến hành và thực hiện có hiệu quả nhằm phát hiện ra sai sót, bất hợp lý về số liệu để tạo nên sự chuẩn xác cho các báo cáo tài chính.
Nhà nước cần có những văn bản quy định về việc cung cấp và xây dựng hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phân tích tài được chính xác hơn.
Ngoài ra, Chính phủ cần có những chính sách mới trong việc phát triển thị trường vốn, tạo cho các doanh nghiệp tham gia vào thị trường chứng khoán có điều kiện và nhu cầu phân tích tài chính nhằm đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp.Thông qua hệ thống ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng các công ty tài chính, công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư các doanh nghiệp có thể huy động vốn bằng việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu góp vốn liên doanh, mở rộng SXKD.
KẾT LUẬN
Qua tất cả những phân tích trên ta thấy công tác phân tích tài chính đã khẳng định được những ưu điểm trong quá trình sản xuất kinh doanh và ra quyết định tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và công ty BĐPNRĐ nói riêng. Trong điều kiện hội nhập và phát triển kinh tế khu vực và toàn cầu, công ty BĐPNRĐ muốn thu thập được những thông tin tốt nhất liên quan đến ngành hoạt động của mình để tránh rủi ro trong kinh doanh và tăng cao lợi nhuận; muốn tự mình thay đổi những phương pháp, cách nghĩ, cách làm để thích ứng với môi trường kinh doanh đầy biến động và phức tạp, đưa ra những chiến lược kinh doanh thật hiệu quả. Nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp là một điều kiện cần thiết giúp công ty thực hiện phần nào mong muốn trên.
Qua thời gian thực tập ngắn ngủi của công ty, bằng những hiểu biết hạn hẹp của mình tôi nhận thấy nâng cao chất lượng phân tích tài chính tại công ty là vấn đề sống còn và cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao. Vì vậy, tôi đã quyết định chọn đề tài: " Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp tại công ty BĐPNRĐ" làm đề tài nghiên cứu của mình. Tuy vậy, tôi cũng nhận thấy rằng vấn đề mình đưa ra là rộng và khó so với những kiến thức về tài chính mà tôi thu nhận được. Những kiến thức tôi đưa ra về đề tài này không tránh khỏi thiếu sót: Phần lý luận chung chỉ để là tài liệu tham khảo; Phần thực trạng mang nhiều ý kiến chủ quan; Các giải pháp và kiến nghị chưa đầy đủ, chính xác và sát thực. Do đó, tôi mong rằng bằng những cố gắng và nỗ lực của mình trong khi phân tích sẽ được đáp lại bằng sự đóng góp ý kiến của thầy cô, các bạn, công ty những người quan tâm đến nội dung này để vấn đề này ngày một hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cám ơn các cô, các chú, các anh chị trong công ty đặc biệt là ở phòng kế toán tài chính đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành chuyên đề này. Cuối cùng, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến tiến sĩ Đàm Văn Huệ người đã tận tình hướng dẫn em về kiến thức và tài liệu để em có thể tiếp cận vấn đề này tốt hơn, với nội dung rộng và khó của chuyên đề những khiếm khuyết xảy ra là điều không thể tránh khỏi, em mong thầy thông cảm và bỏ qua.
Tài liệu tham khảo
I. Sách:
1. PTS. Vũ Duy Hào- Đàm Văn Huệ, NXB Thống Kê 1997" Quản trị tài chính doanh nghiệp
2. PTS. Lưu Thị Hương- Vũ Duy Hào, NXB Thống Kê 1994 " Những vấn đề cơ bản về tài chính doanh nghiệp
3. TS.Lưu Thị Hương, NXBGD 2002 " Giáo trình tài chính doanh nghiệp"
4. PTS. Nguyễn Thị Gái, NXBGD 1996" Phân tích hoạt động kinh doanh"
5. TS. Nguyễn Trọng Cơ- PGS.TS Ngô Thế Chi, NXB Thống kê Hà Nội 2002 Kế toán và phân tích tài chính doanh nghiệp vừa và nhỏ
II. Tạp chí:
1. Tạp chí tài chính
2. Tạp chí kế toán
3. Tạp chí kiểm toán
4. Nghiên cứu kinh tế
III. Tài liệu thực tế tại công ty:
1. Bảng cân đối kế toán năm 2000, 2001, 2002
2. Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh 3 năm 2000, 2001, 2002
3. Thuyết minh báo cáo tài chính 3 năm 2000, 2001, 2002
MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu
Chương I: Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính doanh nghiệp
1.1. Khái niệm và tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm
1.1.2. Tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp
1.1.2.1. Đối với nhà quản lý doanh nghiệp
1.1.2.2. Đối với các nhà đầu tư
1.1.2.3. Đối với các chủ nợ
1.1.2.4. Đối với người lao động
1.1.2.5. Đối với các cơ quan nhà nước có liên quan
1.2. Tài liệu, phương pháp và nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.1. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.1.1. Thông tin nội bộ doanh nghiệp
1.2.1.2. Các thông tin bên ngoài doanh nghiệp
1.2.2. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.2.1. Phương pháp đánh giá
1.2.2.2. Phương pháp phân tích tài chính Dupont
1.2.2.3. Kỹ thuật phân tích
1.2.3. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.3.1. Phân tích các nhóm chỉ tiêu chủ yếu
1.2.3.2. Phân tích vấn đề khai thác và sử dụng vốn
1.2.3.3. Phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian và cuối cùng trong báo cáo kết quả kinh doanh
1.3. Chất lượng và những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp
1.3.1. Chất lượng phân tích
1.3.2. Những nhân tố ảnh hưởng
1.3.2.1. Tổ chức hoạt động phân tích
1.3.2.2. Người thực hiện phân tích
1.3.2.3. Chất lượng thông tin sử dụng trong phân tích
1.3.2.4. Việc lựa chọn phương pháp phân tích
1.3.2.5. Hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành
Chương II: Thực trạng hoạt động phân tích tài chính tại công ty
2.1. Giới thiệu chung
2.1.1. Cơ cấu bộ máy quản lý và cơ cấu tổ chức sản xuất
2.1.2. Đặc điểm công tác kế toán
2.2. Thực trạng phân tích tài chính tại công ty
2.2.1. Tình hình thông tin sử dụng trong quá trình phân tích
2.2.2. Phương pháp phân tích tài chính
2.2.3. Hoạt động phân tích tài chính tại công ty
2.2.3.1. Chi tiết một số chỉ tiêu trong báo cáo tài chính
2.2.3.2. Tình hình thực hiện các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu so với kế hoạch
2.2.3.3. Phân tích một số chỉ tiêu đánh giá khái quát thực trạng tài chính của công ty
2.2.3.4. Phân tích, tổng hợp kết quả và lập kế hoạch
2.2.4. Đánh giá chất lượng phân tích tài chính tại công ty
2.2.4.1. Những kết quả đạt được
2.2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính tại công ty
3.1. Định hướng phát triển của công ty
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính tại công ty
3.2.1. Hoàn thiện nội dung phân tích tài chính
3.2.1.1. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn
3.2.1.2. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh
3.2.1.3. Phân tích báo cáo kết quả kinh doanh:
3.2.1.4. Phân tích các luồng tiền
3.2.1.5. Chỉ tiêu mới
3.2.2. Sử dụng phương pháp phân tích tài chính Dupont
3.2.3. Hoàn thiện tổ chức hoạch định phân tích tài chính
3.2.3.1. Xây dựng và thực hiện tốt quy trình phân tích tài chính
3.2.3.2. Tổ chức tốt công tác kế toán
3.2.3.3. Nâng cao nhận thức, trình độ và chất lượng chuyên môn cho cán bộ phân tích tài chính
3.2.3.4. Các quy định về công tác phân tích tài chính
3.2.4. Cung cấp và sử dụng thông tin trong phân tích tài chính
3.3. Một số kiến nghị
Kết luận
Tài liệu tham khảo
1
3
3
3
4
5
6
6
7
7
8
8
8
11
12
12
14
15
17
17
23
26
27
27
29
29
29
29
31
31
31
31
32
36
43
43
43
44
45
49
49
51
52
52
54
58
58
60
60
60
60
64
65
65
66
69
70
70
71
71
72
72
74
75
Bảng 18: Phân tích các chỉ tiêu tài chính cuối cùng và trung gian của báo cáo kết quả kinh doanh
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2001/2000
Năm 2002/2001
Lượng (trđ)
Tỷ trọng
(%)
Lượng
(trđ)
Tỷ trọng
(%)
Lượng
(trđ)
Tỷ trọng
(%)
Lượng
(trđ)
Tỷ trọng
(%)
Lượng
(trđ)
Tỷ trọng
(%)
1. Doanh thu thuần
182.460
100
224.413
100
271.641
100
41.953
22,99
47.228
21,05
2. Giá vốn hàng bán
152.186
83,4
180.873
80,6
218.415
80,4
28.687
15,72
37.542
16,72
3. Lợi nhuận gộp
30.724
16,84
43.540
19,4
53.226
19,59
12.816
7,02
9.686
4,32
4. Chi phí bán hàng
4.432
2,43
7.538
3,36
18.797
6,92
3.106
1,7
11.259
5,02
5. Chi phí QLDN
12.651
6,93
16.819
7,5
19.118
7,04
4.168
2,28
2.299
1,02
6. Lợi nhuận từ HĐKD
13.189
7,23
19.181
8,55
16.436
6,05
5.992
3,28
-2.745
-1,22
7.Lợi nhuận từ HĐTC
-5.097
-2,27
1.126
0,41
-5.097
-2,79
6.223
2,77
8. Lợi nhuận bất thường
-128,6
-0,07
148
0,06
45
0,017
276,6
0,15
-103
0,046
9. Tổng LNTT
13.060
7,15
13.422
5,98
16.482
6,07
362
0,2
3.060
1,36
10. Thuế TNDN
2.328
1,04
2.042
0,75
2.328
1,28
-286
0,13
11. Lợi nhuận sau thuế
13.060
7,15
11.094
4,94
14.439
5,32
-1.966
-1,08
3.345
1,49
Bảng phụ lục : Các ký hiệu viết tắt
1. Đầu tư dài hạn :ĐTDH
2. Tài sản cố định :TSCĐ
3. Bảng cân đối kế toán :BCĐKT
4. Báo cáo kết quả kinh doanh :BCKQKD
5. Vốn chủ sở hữu :Vốn CSH
6. Tài sản lưu động :TSLĐ
7. Lợi nhuận :LN
8. Doanh thu :DT
9. Lợi nhuận trước thuế :LNTT
10. Lợi nhuận sau thuế :LNST
11. Tổng tài sản :Tổng TS
12. Bóng đèn phích nước Rạng Đông :BĐPNRĐ
13. Tài chính dài hạn :TCDH
14. Xây dựng cơ bản dở dang :XDCBDD
15. Thuế tiêu thụ đặc biệt :Thuế TTĐB
16. Thuế thu nhập doanh nghiệp : Thuế TNDN
17. Sành sứ thuỷ tinh :SSTT
18.Thông tư- Bộ tài chính : TT- BTC
19.Doanh nghiệp :DN
20. Quyết định :QĐ
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0368.doc