Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước

Tài liệu Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước: ... Ebook Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước

doc109 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1225 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ Bảng 2.1 : Cơ cấu lao động Việt nam theo ngành kinh tế quốc dân năm 2006 Bảng 2.2: Cơ cấu lao động Việt nam theo thành phần kinh tế năm 2006 Bảng 2.3: Bảng cơ cấu lực lượng lao động phân chia theo trình độ văn hóa phổ thông và khu vực thành thị nông thôn năm 2006 Bảng 2.4 : Trình độ văn hóa phân theo vùng lãnh thổ Bảng 2.5 : Tỉ lệ biết chữ của phụ nữ Việt nam Bảng 2.6: Thành tựu giáo dục của phụ nữ Việt Nam năm 2006 Bảng 2.7 : Bảng số liệu phân chia trình độ chuyên môn kỹ thuật theo khu vực nông thôn và thành thị Bảng 2.8: Bảng phân chia trình độ CMKT theo vùng Bảng 2.9 :Bảng sô liệu thống kê trình độ CMKT của lực lượng lao động Việt nam phân theo giới tính Bảng 2.10 : Chỉ số phát triển con người Việt Nam trong những năm qua Bảng 2.11 : Chỉ tiêu nhân lực Việt nam 2007 Bảng 3.1:Cơ cấu cầu lao động năm 2020 LỜI NÓI ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài: Việt nam đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó là sự nghiệp to lớn của toàn Đảng toàn dân vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Để hoàn thành được sự nghiệp đó đòi hỏi chúng ta phải huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực xã hội. Đặc biệt là nguồn lực về con người vì nhân tố con người không những là chủ thể của sản xuất xã hội mà còn là trung tâm của mọi sự phát triển xã hội. Chính vì vai trò to lớn đó nên trong nhiều năm qua Đảng và chính phủ đã luôn coi sự phát triển của nguồn nhân lực là quốc sách hàng đầu, là điều kiện tiên quyết ảnh hưởng đến thắng lợi của cả sự nghiệp Với vai trò quan trọng của chất lượng nguồn nhân lực đối với sự nghiệp của dân tộc, Trong những năm qua, nước ta đã không ngừng nỗ lực nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, và đến nay chúng ta đã thu được nhiều thành công đáng khích lệ về công tác nâng cao sức khỏe, trình độ văn hóa cũng như trình độ chuyên môn kỹ thuật cho người lao động, bộ phận nòng cốt sản xuất ra giá trị cho toàn xã hội Tuy nhiên với thực trạng nguồn nhân lực nước ta hiện nay đang tồn tại nhiều bất cập như vấn đề thiếu về số lượng, yếu về chất lượng và lạc hậu trong cơ cấu….Nhất là bất cập trong vấn đề chất lượng giáo dục đào tạo. Chính thực trạng trên đặt ra cho chúng ta bài toán nguồn nhân lực vẫn chưa có lời giải trong nhiều năm qua Hơn nữa, Việt nam đang trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới, tạo ra cho chúng ta nhiều cơ hội thực sự để phát triển nhanh nền kinh tế. Một trong những lợi thế của chúng ta là việc chúng ta hoàn toàn có thể tận dụng sự phát triển của khoa học công nghệ tiên tiến nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội. Chính việc tận dụng lợi thế của nước đi sau là một trong những điều kiện cho phép chúng ta công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo kiểu “rút ngắn”. Để thực hiện tốt việc này thì yêu cầu tất yếu đặt ra là chúng ta phải có một đội ngũ công nhân, quản lý đủ năng lực để có thể làm chủ được khoa học công nghệ áp dụng trong quản lý cũng như sản xuất. Trước yêu cầu thực tế đặt ra như vậy thì rõ ràng hơn lúc nào hết, yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao đang là yêu cầu cầu bức thiết mà nếu chúng ta không có chiến lược phù hợp và kịp thời để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thì sẽ ảnh hưởng lớn đến sự thành công của cả sự nghiệp Qua thực trạng chất lượng nguồn nhân lực Việt nam hiện nay và những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đặt ra, chúng ta cũng có thể nhận thấy công tác nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có vai trò vừa là chìa khóa cần thiết nhất, lại vừa là yếu tố mang tính đột phá trong quá trình thực hiện mục tiêu phát triển đất nước. Nhận thức được vị trí quan trọng này nên em đã chọn đề tài : “nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Qua bài nghiên cứu của mình em muốn nghiên cứu tìm hiểu thêm về vai trò vị trí của nhân tố con người trong công cuộc phát triển đất nước cũng như đưa ra được một số giải pháp nhằm mục đích nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiêp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 2. Mục đích của đề tài : Đóng góp một phần nhỏ vào những lý luận về bản chất công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Việt nam hiện nay, cũng như những lý luận về nguồn nhân lực, chủ thể và cũng là mục tiêu của mọi quá trình sản xuất xã hội Nghiên cữu rõ hơn về thực trạng nguồn nhân lực Việt nam hiện nay cũng như những yêu cầu đòi hỏi về chất lượng nguồn nhân lực phục vu cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước Kiến nghị, đưa ra các giải pháp mang tính định hướng nhằm tăng cương hiệu quả các chính sách của nhà nước trong công tác nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu vấn đề chất lượng nguồn nhân lực ở việt nam hiện nay(bộ phận dân số trong độ tuổi lao động và có khả năng lao động). Về mặt lý luận, chất lượng nguồn nhân lực là tổng hòa của ba yếu tố: thể lực, trí lực và phẩm chất của người lao động. Tuy nhiên với hạn chế về thông tin, thời gian cũng như trình độ nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu sâu hơn về thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng về mặt thể lực và trí lực 4. Phương pháp nhiên cứu : Sử dụng phương pháp: phân tích và tổng hợp, đối chiếu và so sánh, trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật. Số liệu được sử dụng trong đề tài là những số liệu do bản thân thu thập, tìm kiếm từ các nguồn thông tin tại cơ quan thực tập (Bộ Kế hoạch Đầu tư), các số liệu từ các Cục, các ngành hữu quan (Tổng cục Thống kê, Bộ Lao động Thương Binh và Xã hội…) cũng như trên các phương tiện thông tin đại chúng 5. Bố cục của đề tài gồm ba chương: Chương 1: Nguồn nhân lực và sự cần thiết phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Chương 2: Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực nước ta hiện nay Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt nam trong thời gian tới CHƯƠNG 1: NGUỒN NHÂN LỰC VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC KHÁI NIỆM, CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC Khái niệm nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực bao gồm những người trong độ tuổi lao động (nam từ 15-60, nữ từ 15 đến 55 tuổi) và có khả năng lao động. Nguồn nhân lực bao gồm cả những người đang tham gia lao động hoặc sẽ tham gia hoạt động kinh tế xã hội. Như vậy ở đây bao gồm cả những người đang tham gia lao động hoặc đang trong quá trình học tập, tìm kiếm việc làm…. Theo một cách tiếp cận rộng hơn thì nguồn nhân lực có thể hiểu là nguồn lực con người, là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, nó là một bộ phận của dân số có vai trò tạo ra giá trị vật chất, văn hóa, dịch vụ cho xã hội. Như vậy nguồn lao động bao gồm những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động không kể đến trạng thái là họ đang có hoặc không tham gia hoạt động kinh tế xã hội Còn theo định nghĩa về nguồn nhân lực của Liên Hiệp Quốc: Nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, là kiến thức của toàn bộ cuộc sống con người thực hiện có thực tế hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế xã hội trong một cộng đồng Như vậy theo cách hiểu định nghĩa của Việt nam có khác so với cách định nghĩa của Liên Hợp Quốc. Chúng ta quy định nguồn nhân lực giới hạn bởi độ tuổi còn theo cách định nghĩa của Liên Hợp Quốc là cách tiếp cận không quy định theo độ tuổi Các thành phần cấu thành nguồn nhân lực Lao động đang tham gia hoạt động kinh tế Nguồn nhân lực tham gia hoạt động kinh tế (hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế) là những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, có công ăn việc làm , đang hoạt động trong các ngành kinh tế văn hoá xã hội . 1.1.2.2. Nguồn nhân lực dự trữ - Nguồn nhân lực dự trữ là những người nằm trong độ tuổi lao động nhưng vì lý do nào đó chưa tham gia hoạt động kinh tế. Số người này đóng vai trò của một nguồn dự trữ về nhân lực cho xã hội. Bao gồm : Những người làm công việc nội trợ gia đình, Những người đang tham gia học tập bao gồm những người trong độ tuổi lao động nhưng đang trong thời gian học tập tại các trường phổ thông, Đại học, Cao đẳng, các trường Trung học chuyên nghiệp và những người đang trong thời gian tham gia học nghề, Những người đang trong thời gian hoàn thành nghĩa vụ quân sự Những người đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, những người trong độ tuổi lao động đang bị thất nghiệp (có nghề hoặc không có nghề) đang trong quá trình tìm việc làm. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng nguồn nhân lực: Chất lượng nguồn nhân lực là một khái niệm tổng hợp, bao gồm những nét đặc trưng về trạng thái thể lực, trí lực, đạo đức và phẩm chất. Nó thể hiện trạng thái nhất định của nguồn nhân lực với tư cách vừa là một khách thể vật chất đặc biệt, vừa là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế và các quan hệ xã hội. Các chỉ tiêu được sử dụng rộng rãi hiện nay bao gồm chỉ tiêu về sức khoẻ, giáo dục, trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn kỹ thuật và chỉ tiêu tổng hợp HDI Chỉ tiêu phản ánh tình trạng sức khoẻ: “ Sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái về thể chất, tâm thần và xã hội, chứ không chỉ là không có bệnh tật hay thương tật gì” (hiến chương của tổ chức y tế thế giới ). Như vậy, sức khỏe là chỉ tiêu tổng hợp chỉ trạng thái thoải mái về thể chất và tinh thấn của con người. Nói đến sức khỏe không chỉ nói về vấn đê thể lực thể trạng của con người như sức dẻo dai, thể trạng về bệnh tật…mà sức khỏe ở đây bao gồm cả những yếu tố về tinh thần, tâm lý của con người. mức độ thoải mái của con người về hoàn cảnh sống, môi trường lao động và môi trường xã hội. Các yếu tố cấu thành sức khỏe có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Tâm lý và tinh thần con người tác động đến thể chất con người và ngược lại. Sức khỏe nguồn nhân lực có tác động rất lớn đến năng suất lao động của cá nhân đó khi tham gia hoạt động kinh tế cũng như chưa tham gia hoạt động kinh tế, trong học tập cũng như trong các công việc nội trợ của bộ phận không tham gia hoạt động kinh tế, sức khỏe ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiếp thu, khă năng sáng tạo trong công việc và trong học tập Theo Bộ Y tế nước ta quy định sức khỏe có 3 loại Sức khỏe loại A :Thể lực tốt, không mang bệnh tật gì Sức khỏe loại B: Trung bình Loại C : Là loại có thể lực yếu, không có khẳ năng lao động Tuy nhiên theo khái niệm nguồn nhân lực của chúng ta thì nhóm sức khỏe yếu và không có khẳ năng lao động không thuộc bộ phận của nguồn nhân lực Để đánh giá sức khỏe nước ta hiện nay sử dụng các chỉ tiêu sau: Chỉ tiêu thể lực chung: Đánh giá đơn thuần về thể lực con người như chiều cao, cân nặng, sức bền của con người Chỉ tiêu thị lực : Chia theo thang điểm 10, qua đó đánh giá về khả năng nhìn của con người trên mức điểm quy định Chỉ tiêu tai mũi họng: Đánh giá khả năng nghe rõ, các loại bệnh tật về tai, mũi, họng Chỉ tiêu đánh giá sức khỏe răng, hàm, mặt Chỉ tiêu Nội khoa Ngoại khoa Thần kinh tâm thần Da liễu Chỉ tiêu đánh giá trình độ văn hoá: Trình độ văn hóa của con người là sự hiểu biết của người đó đối với những kiến thức phổ thông. Trình độ văn hoá là khả năng về tri thức và kỹ năng để có thể tiếp thu những kiến thức cơ bản, thực hiện những việc đơn giản để duy trì cuộc sống. Trình độ văn hoá được cung cấp qua hệ thống giáo dục chính quy, không chính quy, qua quá trình học tập suốt đời của mỗi cá nhân Nói đến trình độ văn hóa của nguồn nhân lực, tức là nói đến trình độ hiểu biết của người trong độ tuổi lao động về các kiến thức phổ thông về tự nhiên. Xét về khía cạnh nào đấy, trình độ văn hóa thể hiện mặt bằng dân trí của một quốc gia. Các chỉ tiêu đánh giá trình độ văn hóa nguồn nhân lực gồm các chỉ tiêu định lượng về trình độ văn hóa trung bình của bộ phận dân số trong độ tuổi lao động. Bao gồm các chỉ tiêu sau: Số người trong độ tuổi lao động biết chữ và chưa biết chữ Số năm đi học trung bình dân số từ 15 tuổi trở lên Số người trong độ tuổi lao động có trình độ tiểu học Số người trong độ tuổi lao động có trung học cơ sở Số người trong độ tuổi lao động có trình độ phổ thông Số người trong độ tuổi lao động có trình độ Đại học và trên Đại học Như vậy, trình độ văn hóa của người lao động là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng nguồn nhân lực. Nó là cơ sở kiến thức đầu tiên để người lao động có khẳ năng nắm bắt được những kiến thức chuyên môn kỹ thuật phục vu trong quá trình lao động sau này. Nâng cao trình độ văn hóa có ý nghĩa to lớn trong chiến lược phát triển nguồn lực con người của cả quốc gia Chỉ tiêu đánh giá trình độ chuyên môn kỹ thuật: Trình độ chuyên môn : Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết và khả năng thực hành về chuyên môn nào đó. Trình độ chuyên môn của người lao động thể hiện quá trình được đào tạo bởi hệ thống giáo dục đại học cao đẳng và trung học chuyên nghiệp trong và ngoài nước. Người có trình độ chuyên môn là người có khả năng chỉ đạo quản lý trong một lĩnh vực chuyên môn nhất định nào đó. Một số chỉ tiêu đánh giá trình độ chuyên môn của nguồn nhân lực: Tỷ lệ cán bộ không qua đào tạo Tỷ lệ cán bộ Trung học chuyên nghiệp, Cao đẳng, Đại học Tỷ lệ cán bộ trên Đại học Cũng như trình độ chuyên môn, trình độ kỹ thuật của người lao động thể hiện hiệu quả làm việc của người lao động. Riêng trình độ kỹ thuật của người lao động được dùng để chỉ trình độ của bộ phận lao động được đào tạo từ các trường kỹ thuật, các kiến thức được trang bị riêng về lĩnh vực kỹ thuật nhất định, vì thế đặc trưng chỉ tiêu phản ánh của trình độ kỹ thuật của người lao động được sử dụng nhiều nhất chính là chỉ tiêu “bậc thợ”. Ngoài ra còn một số chỉ tiêu thể hiện về số lượng trung bình những người công tác riêng về lĩnh vực kỹ thuật như sau: Số lượng người lao động có qua đào tạo kỹ thuật và số lượng người lao động phổ thông Số người có bằng kỹ thuật và không có bằng kỹ thuật Trình độ tay nghề theo bậc thợ Trong thực tế người ta thường gộp chung các chỉ tiêu đánh giá trình độ chuyên môn và trình độ kỹ thuật của người lao động lại thành trình độ chuyên môn kỹ thuật (CMKT) để đánh giá kiến thức và kỹ năng cần thiết nhằm đảm đương chức vụ trong quản lý, kinh doanh và các hoạt động nghề nghiệp. Qua đó các chỉ tiêu đánh giá tổng thể về trình độ CMKT thông dụng là: - Thứ nhất: Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với lực lượng lao động đang làm việc. Chỉ tiêu này dùng để đánh giá khái quát về trình độ CMKT của quốc gia, của các vùng lãnh thổ. Phương pháp tính : % số lao động đã qua đào tạo so với tổng số lao động đang làm việc. tlvđt = ållvđt x 100 ållv tlvđt: tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với tổng lao động đang làm việc. llvđt: số lao động đang làm việc đã qua đào tạo. llv: số lao động đang làm việc. thứ hai, tỷ lệ lao động theo cấp bậc đào tạo được tính toán cho quốc gia, vùng, ngành kinh tế dùng để xem cơ cấu này có cân đối với nhu cầu nhân lực của nền kinh tế ở từng giai đoạn phát triển. là % số lao động có trình độ cmkt theo bậc đào tạo so với tổng số lao động đang làm việc: tlvđtij = ållvđtij x 100 ållvj tlvđtij: tỷ lệ lđ đã qua đào tạo bậc i so với tổng lao động đang làm việc ở vùng j. llvđt: số lao động đang làm việc đã qua đào tạo. llv: số lao động đang làm việc. i : chỉ số các cấp được đào tạo. j: chỉ số vùng. llvđtij: số lao động đang làm việc đã đào tạo bậc i ở vùng j. Trong thực tế, không phải tất cả các chỉ tiêu này đều có đủ cơ sở số liệu thống kê để tính toán. có những chỉ tiêu chỉ qua tổng điều tra mới có. Đây là một hạn chế của công tác thống kê nguồn nhân lực. Để công tác thống kê, quản lý nguồn nhân lực có chất lượng cần sớm ban hành chính thức hệ thống chỉ tiêu đánh giá chất lượng nguồn nhân lực. Sử dụng chỉ tiêu HDI: Hiện nay thế giới dùng chỉ tiêu HDI ( Human Development Index) để đánh giá trình độ phát triển nguồn nhân lực của mỗi quốc gia trên ba phương diện là mức độ phát triển kinh tế, giáo dục và y tế. Theo giáo trình kinh tế phát triển ta có HDI được xác định bởi ba chỉ tiêu sau: GDP thực tế bình quân đầu người Kiến thức ( tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ nhập học của các cấp giáo dục ) Tuổi thọ bình quân: Tuy chỉ tiêu HDI không phải là chỉ tiêu phản ánh riêng chất lượng của nguồn nhân lực một quốc gia. Song đây là chỉ tiêu quan trọng được sử dụng rộng rãi trên thế giới để đo chất lượng con người nói chung, ưu điểm của chỉ tiêu HDI là thuận lợi trong việc so sánh quốc tế. Qua đó một phần phản ánh chất lượng nguồn nhân lực Yếu tố về tinh thần, ý chí, phẩm chất đạo đức của nguồn nhân lực Ngoài các chỉ tiêu chúng ta có thể định lượng như trên thì vấn đề tinh thần, ý chí và phẩm chất đạo đức cũng là một trong những yếu tố để đánh giá chất lượng một con người mà cụ thể là người lao động. Tuy nhiên đây là những chỉ tiêu định tính chỉ dùng trong việc sử dụng, đánh giá sức mạnh bên trong con người. Tinh thần làm việc, phong cách làm việc có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng công việc đặc biệt là phong cách làm việc. Một thực tế hiện nay là những người có trình độ hiểu biết cao trường đi kèm với tinh thần làm việc rất nghiêm túc, phong cách chuyên nghiệp, biết quý trọng thời gian và chấp hành tốt kỷ luật tập thể. Ngược lại những người kém hiểu biết thì lại chây ỳ trong công việc, làm việc không nghiêm túc và hay vi phạm nội quy lao động. Chính vì thế những chỉ tiêu định tính trên có ảnh hưởng lớn đến chất lượng người lao động trên phương diện ý thức của người lao động đối với công việc. Ngoài ra các yếu tố về truyền thống dân tộc bảo vệ tổ quốc, truyền thống văn hóa của dân tộc cũng là những phương diện giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan hơn về chất lượng nguồn lực con người Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực Biến đổi kinh tế xã hội: Chất lượng nguồn nhân lực bị chi phối nhiểu bởi các nhân tố kinh tế xã hội, tăng trưởng là nhân tố quan trọng tác động trên nhiều phương diện. Trước hết nó trực tiếp cải thiện đời sống của người dân. Qua tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội, chất lượng cuộc sống mà trước hết là chất lượng dinh dưỡng được nâng cao hơn, người dân được hưởng tốt hơn các dịch vụ giáo dục cũng như chăm sóc sức khỏe. Từ việc chất lượng cuộc sống được nâng cao, các dịch vụ chăm sóc được quan tâm hơn làm cho con người không những được cải thiện hơn về tình hình sức khỏe và còn nâng cao được trình độ văn hóa cũng như trình độ chuyên môn kỹ thuật của mình. Qua đó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực góp phần vào công cuộc phát triển con người. Bên cạnh đó, tăng trưởng kinh tế còn làm tăng tiết kiệm, tăng đầu tư trong nước, qua đó tạo ra được nhiều việc làm mới cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp và giảm bất bình đẳng xã hội. Tăng trưởng kinh tế không chỉ là “môi trường” mà còn là động lực để thúc đẩy nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Yêu cầu của phát triển đặt ra là phải có những con người có thể lực tốt, trình độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật tốt. chính vì vậy để có thể phát triển nhanh và bền vững thì yêu cầu tất yếu là phải nâng cao chất lượng nhân tố con người, nhân tố quyết định tới quá trình sản xuất xã hội Tuy nhiên các biến đổi xã hội cũng có nhiều mặt tiêu cực của nó, những biến đổi không có lợi đến môi trường sống, môi trường tự nhiên gây ô nhiễm, làm tăng bệnh tật, ảnh hưởng đến sức khỏe người lao động cũng như chất lượng cuộc sống người lao động. Tình trạng dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe Như ta đã biết, sức khỏe là vốn quý của mỗi con người. Tình trạng sức khỏe có liên quan trực tiếp tới khả năng lao động cũng như năng suất của người lao động. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe của con người trong đó chế độ dinh dưỡng cũng như sự phát triển của các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người dân giữ vị trí quan trọng. Ngoài thể trạng từ lúc được sinh ra là nền móng ban đầu thì chế độ dinh dưỡng trong suốt quãng đời là nhân tố quyết định đến thể lực. Ăn uống hợp lý, đầy đủ không chỉ giúp con người ta có sức khỏe tốt mà khả năng phòng ngừa bệnh tật cũng được nâng lên. Bên cạnh đó dinh dưỡng đảm bảo là điều kiện không thể thiếu để phát triển trí não, thuận lợi cho học tập cũng như công việc. Qua đây ta cũng có thể thấy được chế độ dinh dưỡng có ảnh hưởng to lớn đến chất lượng nguồn nhân lực. Và thực tế trên thế giới hiện nay, với bất cứ quốc gia nào đều quan tâm tới vấn đề dinh dưỡng và xem như là chiến lược trọng điểm của cả quốc gia. Đi đôi với chế độ dinh dưỡng, vấn đề chăm sóc sức khỏe cho người dân nói chung và người lao động nói riêng cũng đóng vai trò không kém phần quan trọng. Sức khỏe tốt là trước hết con người phải có thể trạng tốt, tức là không có bệnh tật gì. Để phòng ngừa được bệnh tật trong khi mỗi chúng ta phải sống trong điều kiện ô nhiễm ngày càng tăng, thiên tai bệnh dịch hoành hành thì việc đảm bảo cho người lao động phòng chống được bệnh tật, phục hồi sức khỏe sau khi chữa trị bệnh là công việc khó khăn. Để làm được điều này thì trước hết công tác chăm sóc sức khỏe người lao động phải được quan tâm. Tăng cường bảo vệ bảo hộ lao động khi tham gia sản xuất, tăng cường công tác khám chữa bệnh cho người lao động và tăng cường chất lượng hệ thống y tế là nhân tố quan trọng để đảm bảo sức khỏe cho người dân nói chung và người lao động nói riêng Mức độ phát triển của giáo dục và đào tạo: Giáo dục đào tạo là hoạt động nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng cũng như nhân cách đạo đức cho mỗi con người. Xét đến giáo dục đào tạo cũng như chế độ dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe ta không chỉ xét đến ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nhân lực đơn thuần mà nó còn có ảnh hưởng sâu rộng đến toàn bộ người dân của một quốc gia. Trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật không phải là sản phẩm của một giai đoạn học đơn thuần mà nó là kết quả của cả một quá trình học tập kiến thức, rèn luyện từ khi bắt đầu bước vào ghế nhà trường. Vì vậy giáo dục đào tạo không chỉ đào tạo cho hiện tại mà nó là một nhân tố có ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lực con người trong dài hạn. Mức độ phát triển của giáo dục đào tạo góp phần vào tăng trưởng. Dựa vào lý thuyết về tỷ suất lợi nhuận, các nhà nghiên cứu xác định được tỷ suất lợi nhuận hoàn trả của giáo dục sau đầu tư, giáo dục góp phần vào tăng trưởng kinh tế thông qua cả tăng năng suất lao động của mỗi cá nhân nhờ nâng cao trình độ và quan điểm của họ lẫn tích luỹ kiến thức. vai trò của giáo dục có thể được đánh giá qua tác động của nó đối với năng suất lao động được tính toán bằng so sánh sự khác biệt giữa sản phẩm của một cá nhân làm ra trong cùng một đơn vị thời gian trước và sau khi cá nhân đó được học một khoá đào tạo với chi phí cho khoá đào tạo đó. kết quả này được gọi là tỷ suất lợi nhuận xã hội khi đầu tư vào giáo dục. các nhà nghiên cứu đã chứng minh tỷ suất lợi nhuận của giáo dục rất cao ở những nước có thu nhập vừa và thấp. Mối liên hệ giữa nguồn vốn nhân lực với các nguồn vốn vật chất được thể hiện qua các thuyết tăng trưởng kinh tế, theo đó ta có trữ lượng vốn nhân lực tăng lên làm tăng giá trị lợi tức của máy móc, trữ lượng vốn vật chất tăng lại làm hiệu quả đầu tư vào giáo dục tăng, và đầu tư chung nếu không có sự hỗ trợ của giáo dục chỉ đóng vai trò không lớn đối với tăng trưởng kinh tế Không chỉ trực tiếp ảnh hưởng đến việc nâng cao trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật…của người lao động mà việc phát triển giáo dục còn có tác động lan tỏa sang các yếu tố khác nằm trong phạm vi các yếu tố có tác động đến chất lượng nguồn nhân lực. Phát triển giáo dục đào tạo có tác động tích cực tới chất lượng dinh dưỡng và dịch vụ chăm sóc sức khỏe, nhờ có hiểu biết, trình độ mà người lao động biết để tự bảo vệ và nâng cao sức khỏe của bản thân, bảo vệ mình trong lao động để tránh những tai nạn lao động xảy ra và phòng ngừa bệnh nghề nghiệp “Không có một nước công nghiệp hóa giàu mạnh nào đạt tăng trưởng có ý nghĩa trước khi hoàn thành phổ cập giáo dục trung học, hơn thế nữa sự thành công của các nước công nghiệp hòa mới như Hàn quốc, Singapore, Hồng kong, những nước có GDP tăng nhanh nhất trong những năm thập kỷ 70, đã đạt tỷ lệ biết chữ cao và phổ cập giáo dục trung học trước khi có nền kinh tế của họ”(Báo cáo phát triển nguồn nhân lực của UNDP). Qua đó ta có thể thấy được vị trí tiên phong của phát triển giáo dục đào tạo trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, vai trò đó được thể hiện qua vai trò nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước Mức độ phát triển của thị trường lao động: Ngoài yếu tố chất lượng dinh dưỡng cũng như chất lượng giáo dục đào tạo ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực thì yếu tố môi trường lao động cũng có tác động không nhỏ tới việc tạo điều kiện cho người lao động sau khi đào tạo ra có cơ hội làm việc đúng với thực lực của mình, Tuy một người có sức khỏe tốt, có trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn cao nhưng nếu người đó không được làm việc đúng với chuyên môn của mình, đúng với ngành nghề đào tạo của mình thì chất lượng công việc mà anh ta hoàn thành không được như mong muốn. Năng suất lao động trung bình của một đất nước không thể cao nếu trong nền kinh tế tình trạng làm việc trái ngành trái nghề vẫn tồn tại với tỷ lệ lớn. Thị trường lao động tạo ra cho người lao động cơ hội để tìm kiếm việc làm thích hợp, tạo môi trường cho con người ta phát huy hết khả năng trong lao động, phát huy tính chủ động sáng tạo của mỗi người. Vì thế xét đến các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực chúng ta phải xét đến vai trò ảnh hưởng của thị trường lao động cũng giống như là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp Các chính sách của nhà nước về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Bên cạnh những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực như chúng ta đã phân tích ở trên thì các chính sách của Đảng và nhà nước cũng có tác động đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì mỗi quốc gia phải xây dựng cho mình những chiến lược hợp lý nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Việc đề ra các chính sách để cụ thể hóa mục tiêu cảu chiến lược quyết định đến việc có thực hiện được mục tiêu đó hay không? Bởi thế chất lượng nguồn nhân lực phụ thuộc nhiều vào các chính sách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó quan trọng nhất là các chính sách hỗ trợ phát triển giáo dục đào tạo, các chính sách về việc làm, thất nghiệp, các chính sách về nâng cao sức khỏe người lao động, an toàn lao động...Qua các chính sách đó Nhà nước nhằm thực hiện mục tiêu về vấn đề phát triển bền vững con người. Nâng cao sức khỏe người lao động, nâng cao trình độ văn hóa cũng như trình độ chuyăn môn kỹ thuật cũng như tinh thần ý chí người lao động, nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng cho yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước 1.2. VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI Khái niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: Quan niệm về công nghiệp hoá-hiện đại hoá: Công nghiệp hóa quá trình là quá trình phát triển công nghiệp và chuyển những đặc tính sản xuất công nghiệp vào trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nói một cách ngắn gọn thì CNH-HĐH là quá trình phát triển công nghiệp, sự phát triển đó có ý nghĩa lan tỏa sang các nghành, lĩnh vực khác để cùng thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển. CNH-HĐH trên cơ sở trang bị kỹ thuật hiện đại cho toàn bộ nền kinh tế nhằm tạo năng suất lao động xã hội cao Theo tổ chức Công nghiệp của Liên Hiệp Quốc (UNIDO) định nghĩa: “Công nghiệp hóa là một quá trình phát triển kinh tế trong đó một bộ phận ngày càng tăng các nguồn lực của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế đa ngành công nghiệp trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là một bộ phận chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra tư liệu sản xuất và hàng hóa tiêu dùng, có khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, đảm bảo đạt tới sự trang bị về kinh tế xã hội” Tuy hai định nghĩa là hai cách diễn đạt khác nhau, song về nội dung thực chất là tương tự nhau, nó hàm ý quá trình chuyển từ lao động sản xuất thủ công là chính sang lao động có kỹ thuật với trình độ kỹ thuật tiên tiến, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Sự phát triển này có tính chất lan tỏa trước hết từ công nghiệp tới các ngành có mối quan hệ trực tiếp (mối quan hệ xuôi và quan hệ ngược). Sau đó lan tỏa ra mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Xét trên góc độ dịch chuyển cơ cấu thì công nghiệp hòa là quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế từ cơ cấu nông nghiệp chiếm tỷ trọng chính sang cơ cấu phát triển công nghiệp dịch vụ, trong đó công nghiệp đóng vai trò quan trọng, chủ đạo, tăng tỷ trọng công nghiệp dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Trên cơ sở đưa máy móc thiết bị hiện đại vào tất cả các ngành nhằm khai thác tài nguyên thiên nhiên hợp lý, sử dụng phát huy lợi thế của từng vùng và của cả đất nước. Như vậy công nghiệp hóa không đơn thuần chỉ là quá trình chuyển biến kỹ thuật mà còn là quá trình cải biến thể chế và cấu trúc của nền kinh tế. Nếu như nền kinh tế nông nghiệp nông thôn cổ truyền vận động và phát triển trong khuôn khổ tự cung tự cấp, khép kín với sự thống trị của các quan hệ trao đổi hiện vật trực tiếp thì trong nền kinh tế dựa trên nền tảng đại công nghiệp, cơ chế vận phải là một cơ chế mang tính xã hội hóa cao và phổ biến rộng rãi các quan hệ trao đổi sản phẩm của lao động. Theo logic này thì Công nghiệp hóa chính là quá trình cải biến hệ thống thể chế và cơ chế kinh tế, từ nền kinh tế hiện vật khép kín, tự cung tự cấp sang nền kinh tế thì trường dựa trên sự phân công lao động xã hội phát triển mạnh mẽ “Hiện đại hóa là quá trình mà nhờ đó các nước đang phát triển tìm được cách đạt được sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, tiến hành cải cách chính trị và cũng cố xã hội nhằm đạt tới một trình độ phát triển cao về khoa học, công nghệ, sự thình vượng về kinh tế và công bằng xã hội” (CNH-HĐH Việt nam, lý luận và thực tiễn). Qua định nghĩa trên ta thấy rằng Hiện đại hóa chính là mục đích và vừa là phương tiện của công nghiệp hóa đất nước. Tuy hiện đại hóa chưa phải là tất cả các mặt cần đạt của một nền kinh tế, song nó là những đặc điểm mà một xã hội muốn đạt đến khi thực hiện công nghiệp hóa (ở đây ta xét trên góc độ kinh tế, kỹ thuật). Về phương diện cơ cấu kinh tế thì hiện đại hóa gắn liền với quá trình tăng dần tỷ trọng các ngành có hàm lượng công nghệ cao, giảm dần các ngành sử dụng nhiều lao động, đổi mới dần phương thức sản xuất theo hướng áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất và quản lý tiên tiến. Làm cho năng suất lao động tăng lên, nâng cao từng bước trình độ sản xuất xã hội. Trên góc độ phát triển kinh tế bền vững thì CNH-HĐH là quá trình phát triển hài hòa cả kinh tế- chính trị- xã hội nhằm đảm bảo được sự phát triển năng động, có hiệu quả và bền vững. Sự phát triển của công nghiệp lan tỏa sang các ngành khác chính là bản chất của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Không những phải cải tiến hoạt động sản xuất trong công nghiệp mà phải hiện đại hóa nền sản xuất xã hội bao gồm sản xuất nôn._.g nghiệp nông thôn, trong ngành dịch vụ….. Công nghiệp hoá-hiện đại hoá rút ngắn của Việt nam: Theo đại hội Trung ương đảng lần thứ 10 cho rằng : “CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế – xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao” Công nghiệp hoá-hiện đại hoá rút ngắn theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh do con người Việt nam tạo ra, thực hiện trong môi trường hội nhập và dựa vào phát huy tối đa nội lực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Theo nguyên tắc này chúng ta phải phát huy các lợi thế sẵn có, đồng thời phải thường xuyên và tích cực tạo lập các lợi thế phát triển mới. Không ngừng tăng cường tiềm lực quốc gia và năng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Bên cạnh đó chúng ta phải xây dựng hệ thống phòng ngừa rủi ro hội nhập, đây cũng là một trong các nội dung chính của quá trình CNH-HĐH đất nước Vai trò của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với phát triển kinh tế xã hội: Như ta đã biết, quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá là quá trình làm biến đổi về chất lực lượng sản xuất và là quá trình xã hội hoá nền sản xuất. Nhờ đó mà năng suất lao động xã hội tăng lên cao góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân và tích luỹ cho nền kinh tế, nhờ đó mà nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Nhờ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà chúng ta tạo ra được những cơ sở vật chất - kỹ thuật và công nghệ hiện đại làm cơ sở kinh tế vững chắc cho việc xây dựng, củng cố và phát huy vai trò kinh tế của Nhà nước. Bên cạnh đó, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình thực hiện phân công lại lao động xã hội, phân vùng kinh tế theo hướng chuyên môn hoá sản xuất, làm cho nền sản xuất xã hội phát triển đồng đều khắp mọi miền và mọi vùng. Từ đó tạo tiền đề xoá bỏ sự bất bình đẳng về kinh tế giữa đồng bào các dân tộc, giữa thành thị và nông thôn. Xét trên phương diện vĩ mô chúng ta có thể thấy được vai trò to lớn của CNH-HĐH thể hiện ở các mặt sau: CNH- HĐH đất nước gắn liền với quá trình đô thị hóa Quá trình CNH- HĐH đất nước tất yếu gắn liền với việc đô thị hóa. CNH- HĐH đất nước thúc đẩy quá trình phân bố lại dân cư trên cả nước. Sự phát triển của ngành công nghiệp lan tỏa sang các ngành khác và tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. và sự phát triển này tất yếu dẫn đến việc thu hút thêm một lực lượng lao động đông đảo làm việc cho các ngành sản xuất của xã hội. Khi mà sản xuất phát triển, quy mô sản xuất được mở rộng thì các doanh nghiệp sẽ tăng nhu cầu lao động, lao động thành phố không đủ đáp ứng về số lượng dẫn đến việc phải thu hút lao động nông thôn ra thành thị để làm việc. Sự di chuyển cơ học này yêu cầu các thành thị phải mở rộng hơn về quy mô diện tích cũng như các dịch vụ kèm theo. Vì thế đối với các đô thị cũ tất yếu phải phát triển. Bên cạnh đó CNH- HĐH hình thành nên những khu công nghiệp mới với lực lượng lao động lên tới hàng nghìn nhân công. Khi mà diện tích đất ở các thành phố không đủ để phục vụ cho nhu cầu mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp thì một xu hướng mới là đưa các khu công nghiệp này ra vùng ngoại ô, vùng nông thôn. Điều này có ý nghĩa to lớn trong việc tạo công ăn việc làm tại chỗ cho lao động nông thôn, hơn thế nữa, việc xây dựng các khu công nghiệp tại các vung ngoại ô diễn ra quá trình đô thị hóa, đời sống người lao động tại đó không những được nâng cao, không những chỉ của những người trực tiếp làm việc trong các nhà máy mà việc phục phụ cuộc sống của các công nhân này dẫn đến việc các ngành dịch vụ phát triển mạnh. Giao thông được cải thiện, cơ sở hạ tầng không ngừng được nâng cấp. Dần dần sẽ hình thành nên những đô thị mới. Góp phần vào quá trình đô thị hóa của cả nước Như vậy CNH-HĐH có ý nghĩa rất lớn tới việc đô thị hóa trong cả nước, tuy quá trình đô thị hóa vẫn tồn tại nhiều mặt tiêu cực của nó song về cơ bản đây chính là trang bị cơ sở hạ tầng vật chất cho xã hội, nâng cao mức sống và các dịch vụ xã hội cho người dân. CNH- HĐH đất nước thúc đẩy các mối liên kết trong nền kinh tế Như ta đã biết, trong một nên kinh tế không có ngành nào có thể phát triển độc lập là không có mối liên kết với các ngành khác dù ít hoặc nhiều. Để tạo ra sản phẩm đầu ra của một ngành đòi hỏi ngành đó phải sử dụng sản phẩm đầu vào của ngành khác, và đầu ra mà ngành đó sản xuất một phần cũng là sản phẩm đầu vào cho các ngành liên quan( ngoại trừ các sản phẩm hàng hóa tiêu dùng). Chính mối quan hệ hai chiều này tạo nên các mối kiên kết giữa các ngành trong nền kinh tế. Mối liên kết này có thể là mối liên kết ngược hoặc xuôi. Các mối quan hệ xuôi và ngược (forward and backward linkages) trong đó các ngành cung cấp và mua các đầu vào trung gian cho nhau. Ví dụ, sản phẩm của ngành sản xuất lúa gạo được bán cả cho ngành chế biến thực phẩm và cho các hộ gia đình. Một sự thay đổi trong cầu đối với phở sẽ ảnh hưởng đến cả ngành chế biến thực phẩm và ngành sản xuất gạo. Ngoài ra các ngành trong nền kinh tế còn có cả mối quan hệ dọc ngang khi ta xét trên phương diện cơ cấu quản lý. Gắn kết các mối quan hệ dọc ngang này có ý nghĩa rất lớn trong việc thực hiện mục tiêu chung của cả nền kinh tế Cùng tham gia sản xuất kinh doanh trong một nền kinh tế tất yếu các ngành phải có mối gắn kết chặt chẽ lẫn nhau. Như vậy sự phát triển của một ngành có quan hệ chặt chẽ với một tập hợp các ngành. Cơ cấu kinh tế hợp lý là cơ cấu kinh tế trong đó phát triển tập hợp ngành chủ đạo có ý nghĩa đầu tàu kéo các ngành khác phát triển, và CNH-HĐH càng có ý nghĩa hơn khi con tàu của nền kinh tế đạt được sự thống nhất, gắn kết giữa các ngành, giữa ngành chủ đạo và ngành phụ trợ. CNH- HĐH trước hết phải ưu tiên phát triển công nghiệp. Chính các mối liên kết này là cơ sở của sự phát triển lan tỏa từ công nghiệp sang các ngành khác, cả các ngành có mối liên kết xuôi và liên kết ngược với ngành công nghiệp. Các ngành cung cấp đầu vào cho công nghiệp cũng như các ngành tiêu thụ sản phẩm đầu ra đều từ đó mà có cơ hội phát triển. Như vậy công nghiệp hóa có vai trò thúc đẩy các mối liên kết trong nền kinh tế Công nghiệp hóa là con đường cơ bản để nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế: Sức cạnh tranh của một nền kinh tế là một chỉ tiêu tổng hợp đánh giá trên nhiều khía cạnh của cả nền kinh tế, nó không chỉ bao gồm các yếu tố vĩ mô như các chính sách của chính phủ, nền tài chính của quốc gia… mà đây là tập hợp các chỉ tiêu định tính và định lượng khác nhau. Vì vậy nâng cao sức cạnh tranh của cả nền kinh tế là việc khó khăn và mất nhiều thời gian cũng như nguồn lực xã hội Theo cách tiếp cận của “diễn đàn kinh tế thế giới” thì tập hợp các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh ở đây bao gồm 8 nhóm chỉ tiêu chính, trong mỗi nhóm chỉ tiêu phân ra thành nhiều chỉ tiêu cấp hai. Nhóm thứ nhất là nhóm các yếu tố đánh giá trên cơ sở toàn bộ nền kinh tế vĩ mô Nhóm thứ hai: Đánh giá dựa vào vai trò của chính phủ trong việc can thiệp vào nền kinh tế, bao gồm các chính sách hỗ trợ, tạo môi trường cạnh tranh thuận lợi Nhóm thứ ba: Đánh giá dựa trên tập hợp các chỉ tiêu về toàn bộ nền tài chính quốc gia. Về tính minh bạch của thị trường tài chính, sự phát triển của các dịch vụ tài chính, tín dụng, cho vay….. Nhóm thứ tư: Trình độ về khoa học công nghệ của nền sản xuất. Năng suất sản xuất của cả nền kinh tế cũng như năng suất nghiên cứu khoa học công nghệ mới áp dụng vào sản xuất Nhóm thứ năm: Đánh giá trên phương diện tham gia thị trường thương mại quốc tế, về đầu tư trong nước ra nước ngoài và ngược lại Nhóm sáu: Đánh giá về trình độ nguồn nhân lực, bao gồm đánh giá theo các chỉ tiêu đánh giá chất lượng nguồn nhân lực: về thể lực, trí lực, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, phẩm chất đạo đức….. Nhóm thứ bảy: Đánh giá về trình độ quản lý của bộ phận quản lý sản xuất cũng như kinh doanh Nhóm thứ tám: Đánh giá về cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất kinh doanh của mỗi quốc gia Qua tám nhóm chỉ tiêu trên ta có thể thấy rằng sức cạnh tranh của nền kinh tế là tổng hợp các yếu tố vĩ mô cũng như vi mô. Đánh giá trên mọi nguồn lực có thể ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh chung của nền kinh tế. Trong đó chất lượng nguồn nhân lực được xem là yếu tố quan trọng nhất CNH- HĐH đất nước là sự nghiệp toàn diện, nhờ vào sự lan tỏa của nền sản xuất công nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất của toàn xã hội, hiện đại hóa sản xuất trong tất cả các ngành kinh tế, phát triển mạnh khu vực công nghiệp dịch vụ… Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo tiền đề vật chất xây dựng nền kinh tế dân tộc tự chủ làm cơ sở vững chắc thực hiện sự phân công và hợp tác kinh tế Quốc tế. Tóm lại, CNH- HĐH đất nước có vai trò hết sức to lớn , quyết định đến vấn đề sức cạnh tranh của nền kinh tế. Công nghiệp hóa-hiện đại hóa góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội khác: Quá trình CNH-HĐH là quá trình thực hiện phân công lao động xã hội, phân vùng kinh tế theo hướng chuyên môn hóa sản xuất, làm cho nền kinh tế phát triển một cách toàn diện. Bên cạnh đó CNH-HĐH còn góp phần giải quyết được các vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Đầu tiên là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đến vấn đề giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện tình trạng bất bình đẳng trong xã hội, giảm nghèo đói, tạo điều kiện quan tâm tới giáo dục đào tạo và chất lượng cuộc sống. Ngoài ra trong lĩnh vực quốc phòng an ninh, công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo điều kiện cho việc tăng cường, củng cố và hiện đại hoá nền quốc phòng và an ninh nhân dân Vai trò của nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Nhân tố “con người” luôn được xem là yếu tố quyết định của sản xuất, là yếu tố hàng đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Kết hợp hài hòa giữa mục tiêu kinh tế và xã hội, đặt con người vào vị trí trung tâm, phát triển nguồn nhân lực nhằm khơi dậy và khai thác mọi tiềm năng của từng con người để con người có thể tham gia tốt nhất vào xây dựng đất nước. Kết quả của quá trình CNH, HĐH ngày nay phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng nguồn lực con người do đó nó đòi hỏi rất cao về những năng lực và phẩm chất cần thiết nhất là trình độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật của người lao động. CNH, HĐH ngày nay đang chuyển từ chỗ chủ yếu khai thác nguồn lực tự nhiên và lao động cơ bắp sang khai thác phổ biến nguồn lao động trí tuệ, “ lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Với những vị trí quan trọng của chất lượng nguồn nhân lực như vậy, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vừa có ý nghĩa giải quyết được những bất cập còn tồn tại về nguồn lực con người ở mỗi quốc gia, vừa là con đường cơ bản nhất để thực hiện CNH-HĐH thành công, lại vừa là giải pháp mang tính chất đột phá trong cuộc chạy đua phát triển đất nước giữa các nước trên thế giới SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC Xuất phát từ vai trò của nguồn nhân lực-Yếu tố quyết định của sản xuất Để biết rõ hơn về vai trò của nguồn lực trong sản xuất, ta phải xét trong mối tương quan với các nguồn lực vật chất khác. Vai trò của con người được thể hiện qua vai trò của lực lượng sản xuất( trong mối liên hệ của lực lượng sản xuất với tư liệu sản xuất…). Lực lượng sản xuất là lực lương do xã hội tạo ra để cải cải tạo tự nhiên, cải tạo thế giới, là biểu hiện của trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Như vậy trong lực lượng sản xuất , con người đứng vị trí vừa là chủ thể tích cực sáng tạo và quyết định nhất. Như Mác từng nói : “Trong tất cả những công cụ sản xuất thì lực lượng sản xuất hùng mạnh nhất là bản thân giai cấp cách mạng”. Như vậy Mac đã khẳng định con người là nhân tố có vai trò to lớn nhất, quyết định nhất trong lực lượng sản xuất. Cụ thể con người bằng trí lực và trí tuệ của mình chế tạo ra công cụ lao động và dùng công cụ đó tác động vào tự nhiên để tạo ra những sản phẩm vật chất nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân và xã hội Tuy trong lực lượng sản xuất , công cụ lao động có vai trò không kém phần quan trọng, là thước đo sự chinh phục tự nhiên của con người, với mục đích tăng năng suất và giảm cường độ lao động con người đã sáng tạo ra chúng để nối dài khí quan và tăng sức mạnh cơ bắp của mình. Trong thời đại CNH-HĐH , với máy móc thiểt bị hiện đại có thể sản xuất ra nhiều sản phẩm với chi phí hàm lượng lao động thấp, tuy nhiên nếu không có con người sử dụng vận hành thì chúng cũng trở thành vô ích. Khoa học tưởng chừng như đã làm lưu mờ vai trò của nhân tố con người trong lực lượng sản xuất và đang trở thành một lực lượng độc lập có xu hướng quyết định vận mệnh của loài người. Nhưng thực chất không phải vậy, dù khoa học có vai trò to lớn đến thế nào đi chăng nữa thì cũng không thoát khỏi “bàn tay trí tuệ” của con người. Khoa học chẳng bao giờ là yếu tố độc lập cả, nó cũng chỉ là sản phẩm của con người Như vậy nhân tố con người và khoa học công nghệ có vai trò quyết định trong quá trình sản xuất xã hội, xét cho cùng khoa học cũng chỉ là sản phẩm của con người, vì thế con người mới chính là yếu tố quyết định nhất của lực lượng sản xuất Không chỉ ở góc độ lý luận mà trong thực tiễn đã chứng minh vai trò của nhân tố con người trong sản xuất. Sự phát triển thần kỳ của một số nước có nền kinh tế phát triển như Nhật, Mỹ đều dựa trên sự thành công của công cuộc phát triển con người, tăng chất lượng nguồn nhân lực. Họ đã có những chính sách đúng đắn nhằm phát triển con người, nâng cao sức khỏe, trí tuệ con người để nâng cao năng suất lao động. Họ đã chú trọng đến vai trò tiên phong trong việc phát triển con người trước khi phát triển nền kinh tế. Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước là quá trình tất yếu mà mỗi quốc gia đều phải thực hiện nhằm tiến lên một nền sản xuất hiện đại, một nền kinh tế tri thức. CNH-HĐH đòi hỏi tất yếu phải có lực lượng sản xuất đủ phát triển để hiện đại hóa sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Chính vì thế nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là điều kiện tiên quyết để CNH-HĐH thành công, nếu không chú trọng đến vấn đề này thì không thể tiến hành CNH-HĐH đất nước Xuất phát từ yêu cầu về nguồn nhân lực của quá trình CNH-HĐH: Sự thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi ngoài môi trường chính trị ổn định, phải có các nguồn lực cần thiết như nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, vị trí địa lý và nguồn lực nước ngoài. Các nguồn lực này tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng mức độ tác động vào vai trò của chúng đối với toàn bộ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là không giống nhau, trong đó nguồn lực con người là yếu tố quyết định Trong vấn đề nguồn lực con người phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa Việt nam hiện nay, điều kiện mới đặt ra cho chúng ta không chỉ phải có cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý để từ đó có tác động tích cực cho việc phát triển kinh tế, không chỉ đòi hỏi về số lượng nguồn nhân lực đáp ứng cho nhu cầu sản xuất xã hội. Ngoài những thứ đó thì vấn đề quan trọng nhất là chúng ta phải có nguồn nhân lực có chất lượng để đảm bảo cho nhu cầu tăng năng suất lao động xã hội trong điều kiện kinh tế mới. Như vậy chất lượng nguồn nhân lực là yêu cầu tất yếu của chúng ta hiện nay khi đang trong thời kỳ thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu, khoa học công nghệ kém phát triển, nguồn nhân lực lại đang trong tình trạng yếu về chất lượng thì hơn lúc nào hết, yêu cầu của CNH-HĐH đặt ra là phải đẩy nhanh công tác nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, người lao động phải có sức khỏe tốt, có trình độ tri thức và kỹ năng lao động cao để đáp ứng cho nhu cầu của nền kinh tế đang trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế Thứ nhất : Sức khỏe là yêu cầu đầu tiên đối với người lao động. trước hết người lao động phải có sức khỏe cơ thể với tư cách là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển trí tuệ, phương tiện thiết yếu chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, biến tri thức thành sức mạnh vật chất. đồng thời trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ, hàm lượng tri thức trong sản phẩm lao động chiếm tỷ trọng lớn thì yêu cầu về sức khỏe tâm thần phải cao bởi nó là cơ sở của năng lực tư duy, sáng tạo. Thứ hai : Thời kỳ CNH-HĐH đòi hỏi cao về trí lực. người lao động phải có năng lực thu thập và xử lý thông tin, khả năng sáng tạo, áp dụng những thành tựu của khoa học để sáng chế ra những kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, cũng như biến tri thức thành kỹ năng lao động nghề nghiệp thể hiện qua trình độ tay nghề, mức độ thành thạo chuyên môn nghề nghiệp... ngoài ra người lao động phải có năng lực tham gia hoạch định chính sách, lựa chọn giải pháp và tổ chức thực hiện. hơn thế nữa, trong xu thế toàn cầu hóa người lao động phải biết chủ động tham gia hội nhập quốc tế. tất nhiên các thành phần lao động khác nhau thì mức độ chuyên sâu của mỗi loại năng lực cũng khác nhau. nhưng để có được những năng lực đó, người lao động nhất thiết phải có tri thức, kiến thức khoa học, vốn văn hóa được hình thành thông qua giáo dục đào tạo và làm việc. trong đó vai trò của giáo dục đào tạo là quan trọng nhất. Thứ ba: Ngoài những vấn đề đã nêu trên, CNH-HĐH còn đòi hỏi nguồn nhân lực phải có phẩm chất đạo đức tốt trong đó bao gồm cả văn hóa lao động công nghiệp, văn hóa sinh thái. Tóm lại, với những vấn đề nêu trên chính sách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phải tạo ra một đội ngũ lao động có sức khỏe, trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật, năng lực phẩm chất đáp ứng được cơ cấu nhiều trình độ là yêu cầu khách quan, điều kiện tiên quyết để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong xu thế toàn cầu hóa và kinh tế tri thức hiện nay. Vì vậy yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nước ta hiện nay là vấn đề tất yếu và cấp thiết, tăng cường công tác nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chính là bước đi mang tính chiến lược cho phát triển đất nước. Thực trạng nguồn nhân lực nước ta hiện nay còn tồn tại nhiều bất cập. Sau nhiều năm đổi mới, chất lượng nguồn nhân lực nước ta đã không ngừng được nâng cao qua từng năm. Đến nay nguồn nhân lực nước ta đã có một bước chuyển biến đáng kể về sự say mê, sáng tạo trong lao động, trong học tập, góp phần tạo ra bộ mặt mới cho đất nước. Tuy nhiên trước những đòi hỏi của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước hiện nay, ở con người Việt nam vẫn bộc lộ nhiều yếu tố bất cập mà nếu chúng ta không giải quyết được thì đất nước ta không thể phát triển nhanh và bền vững được Bất cập đầu tiên là về thể lực người lao động Việt nam. Theo đánh giá chung thì tầm vóc, thể lực của thanh niên, sinh viên và người lao động Việt nan trong vòng hơn 20 năm nay đã có sự tăng trưởng đáng kể, song còn xếp loại “thể lực yếu” của thế giới. Chiều cao trung bình của người lao động Việt nam đã tăng lên 3cm trong vòng 20 năm. Ở lớp trẻ , nam giới có chiều cao trung bình là 1.64m trong khi nữ giới là 1.54m. Chiều cao của nam sinh viên từ 18 đến 20 tuổi là 164.57 đến 165.97cm. Bên cạnh đó tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng đang khá cao làm ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực trong tương lai. Đánh giá tổng quan về sức khỏe người Việt nam thì tình trạng sức khỏe của người dân ta đa số xếp loại trung bình của thế giới, đặc biệt loại yếu còn khá cao, chiếm đến 21.5% dân số đối với người lớn. Điều này có nghĩa là về sức khỏe nguồn nhân lực Việt nam đang tồn tại nhiều bất cập, nâng cao thể lực người lao động yêu cầu chúng ta phải có những định hướng, chính sách nhà nước nhằm tăng cường nâng cao sức khỏe cho người dân nói chung và người lao động nói riêng nếu không sẽ là rất khó khăn trong vấn đề đáp ứng nguồn vốn con người cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Bất cập thứ hai là về trí lực người lao động Việt nam. Con người Việt nam vốn thông minh hiếu học, Thế nhưng mặt bằng dân trí ở nước ta nhìn chung đang rất thấp. Chúng ta không thể hoàn thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa được đối với những con người có học vấn thấp được. Với thời đại “tri thức là sức mạnh, tri thức là sự giàu có” thì nguồn nhân lực nước ta lại yếu kém trong khâu thực hành, trong việc tiếp cận và làm quen với công nghệ mới. Điều này gây ảnh hưởng bất lợi cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay Thực trạng giáo dục của chúng ta “đang trong vòng luẩn quẩn của sự suy thoái”. Do vậy nâng cao trí lực cho nguồn nhân lực trước hết phải tăng cường cải cách hệ thống giáo dục, “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, tăng cường công tác nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, nâng cao chất lượng giáo dục đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp…nhằm nâng cao trí lực cho người lao động Bất cập thứ ba là sự suy thoái về phẩm chất người lao động cũng như bộ máy cán bộ quản lý. Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước yêu cầu đòi hỏi phải có những người vừa có đức, vừa có tài. Người cán bộ phải mẫu mực, có phẩm chất chính trị vững vàng, có niềm tin vững chắc váo sự thành công của sự nghiệp vĩ đại. Tuy vậy thực trạng nước ta hiện nay, bất cập trong việc phẩm chất của người lao động nói chung và của cán bộ quản lý trong nền kinh tế xã hội nói riêng. Sự xuống cấp về tư cách, phẩm chất đạo đức là mối đe dọa nguy hiểm tới ý chí, tinh thần quyết tâm của toàn dân tích cực phát triển kinh tế thực hiện sự nghiệp CNH-HĐH nước nhà, điều này là rất nguy hiểm vì vai trò của sức mạnh, của niềm tin quần chúng cho sự nghiệp là vô cùng quan trọng Bên cạnh đó thực trạng nạn tham nhũng không giảm trong các năm qua và nay đã trở thành quốc nạn. Nếu không ngăn chặn kịp thời thì bất cập sẽ ngày càng tăng thêm. Trong khi nền kinh tế hoạt động kém hiệu quả, năng suất lao động thấp thì một số cán bộ lãnh đạo lại rơi vào tha hóa, biến chất, quan liêu, bao cấp…. Chính thực trạng này đã dẫn đến việc đã khó khăn lại càng khó khăn hơn, là rào cản dẫn tới thành công của sự nghiệp dân giàu nước mạnh hiện nay Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là chìa khóa của sự thành công, là giải pháp mang tính chất đột phá Sự nghiệp CNH-HĐH yêu cầu chúng ta phải sử dụng tối ưu tất cả các nguồn lực xã hội hiện có để có thể tạo ra hiệu quả sản xuất kinh doanh của ca nền kinh tế xã hội. Các nguồn lực đó bao gồm nguồn nhân lực, nguồn lực tài chính, nguồn tài nguyên thiên nhiên…Tuy nhiên lý luận về vai trò của nhân tố con người ở phần trước đã cho chúng ta thấy rằng nguồn lực con người có ý nghĩa quyết định. Và vấn đề chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò là chìa khóa để chúng ta có thể hoàn thành sự nghiệp của mình, thiếu “chìa khóa” đồng nghĩa với việc chúng ta không thể đi tiếp được con đường phát triển đất nước. Như vậy nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đầu tiên là điều kiện không thể thiếu để chúng ta thực hiện CNH-HĐH đất nước, Trong hệ thống các nguồn lực xã hội, mỗi nguồn lực đều đóng góp một phần quan trọng nhất định, thiếu vốn, thiếu khoa học công nghệ chúng ta cũng không thể thực hiện mục tiêu của mình. Các giải pháp đưa để phát triển, sử dụng có hiệu quả cac nguồn lực này đều là những giải pháp có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước. Tuy nhiên nguồn lực con người là một nguồn lực đặc biệt, nó đặc biệt ở chỗ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực không những chỉ trực tiếp nâng cao hiệu quả sản xuất của nền kinh tế, mà nâng cao chất lượng nguồn nhân lực còn có ý nghĩa góp phần vào việc phát huy các nguồn lực khác. Sử dụng các nguồn lực khác có hiệu quả hơn. Vì vậy chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chính là con đường đi ngắn nhất để chúng ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực không những là giải pháp mang tính chất là “chìa khóa” của sự thành công mà nó còn là giải pháp có tính đột phá để chúng ta có thể tiến hành rút ngắn thời gian CNH-HĐH của mình KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC VỀ NÂNG VẤN ĐỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC Kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Trên thế giới có rất nhiều quốc gia thành công trong việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực để từ đó phát triển kinh tế một cách nhanh chóng, vương lên trở thành cường quốc về kinh tế. Có nhiều nét tương đồng với đặc điểm người lao động với Việt nam, Nhật Bản là quốc gia vốn chịu thiệt hại nặng nề sau chiến trang thế giới thứ hai, đặc điểm nguồn nhân lực lúc bấy giờ cũng có nhiều bất lợi về hình thức, chiều cao cân nặng đều hạn chế. Tuy nhiên đến nay, với nhiều chiến lược phát triển nguồn nhân lực thành công, Nhật đã trở thành một cường quốc về kinh tế với nền sản xuất khoa học công nghệ hiện đại, hiệu quả năng suất lao động thuộc loại cao nhất thế giới (năng suất lao động bình quân xã hội, năng suất toàn dụng lao động) Các chính sách phát triển nguồn nhân lực của Nhật Bản là những kinh nghiệm quý báu cho chúng ta học tập Điểm nổi bật nhất về người lao động Nhật Bản là kỷ luật lao động của họ rất cao. Điều này được thể hiện không chỉ trong lao động mà trong tất cả các mặt của sinh hoạt: họ luôn là những người có ý chí tiến thủ, ham học hỏi, tính kỷ luật cao và đặc biệt là lòng trung thành rất lớn. Nhật Bản hiện đang là nước đứng đầu thế giới về tốc độ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đặc biệt là trong chiến lược tăng thể lực của người lao động. Công tác nâng cao chất lượng nguồn nhân lực luôn được nhà nước Nhật Bản xem trọng hàng đầu và trong từng giai đoạn họ đều có kế hoạch phát triển nguồn nhân lực rất cụ thể. Chính vì thế mà đến nay không những chiều cao cân nặng của giới trẻ Nhật bản được cải thiện rõ rệt mà bên cạnh đó trí lực của người Nhật thuộc loại cao của thế giới, với trình độ chuyên môn kỹ thuật chất lượng cao, Nhật là nước đạt được phát triển kinh tế rất nhanh nhờ phát huy được tối đa nguồn lực con người Trong công tác giáo dục đào tạo. Nhật là nước có chính sách phân đào tạo thành hai lĩnh vực rõ rệt là đào tạo tại chỗ và đào tạo ngoài xí nghiệp. Đặc biệt công tác vừa học vừa làm luôn được coi trọng hàng đầu. Đi làm vẫn phải không ngừng học tập nâng cao trình độ. Điều này có ý nghĩa to lớn trong việc nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật người lao động, luôn học hỏi và học những cái sát thực với nhu cầu thị trường, lại vừa tiết kiệm được chi phí cho giáo dục đào tạo vì đây là hình thức đào tạo ít tốn kém nhất Nhật thực hiện chính sách hỗ trợ tạo điều kiện phổ cập trình độ văn hóa bằng cách chỉ thu học phí đối với học sinh lớp 10 trở lên, còn từ lớp 1 đến lớp 9 được miễn học phí. Đây chính là chính sách giáo dục của Nhật nhằm khuyến khích người dân đi học, qua đó nhằm nâng cao trình độ văn hóa cho người dân. Bên cạnh đó các trường khối phổ thông trung học thường được giảng dạy cùng trong hệ thống của trường đại học. Phát triển mạnh hệ thống đào tạo nghề chỉ trong một đến hai năm. Nhờ có vậy Nhật luôn đáp ứng về cơ bản nhu cầu sô lượng cũng như chất lượng nguồn nhân lực. Trong việc thực hiện đào tạo nhân lực chất lượng cao. Nhật bản thực hiện chính sách giáo dục đào tạo liên kết với các trường Đại học nổi tiếng trên thể giới mở các chi nhánh đào tạo tại chỗ nhằm mục đích đào tạo lao động với trình độ cao, lại vừa tránh được hiện tượng chảy máu chất xám ra nước khác, bên cạnh đó chính sách này vừa có ý nghĩa trong việc gắn đào tạo với thực trạng nhu cầu của nền kinh tế, không tách đào tạo với thực tế phát triển đất nước Về môi trường lao động của Nhật bản, các công ty Nhật bản luôn quan tâm đến vấn đề đời sống người lao động, luôn là những người trả công xứng đáng nếu công nhân làm tốt công việc, chính sách này đã có tác động tích cực nâng cao tinh thần thi đua trong lao động sản xuất. Cùng với chính sách trẻ hóa lực lượng lao động và giải quyết công ăn việc làm cho người thất nghiệp được đẩy mạnh nên tỷ lệ người thất nghiệp của Nhật bản là tương đối thấp Một đặc trưng của các công ty Nhật bản trong việc sử dụng lao động là việc các công ty có quan hệ làm ăn lâu dài thường thực hiện chính sách trao đổi lao động với nhau. Hiện tượng này gọi là “Suyko”. Chính việc làm này cũng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng lao động, giảm được hiện tượng lao động thất nghiệp tồn đọng trong một số công ty trong khi chỗ khác thì lại thiếu lao động Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực của Hàn Quốc Tiếp sau “sự thần kỳ Nhật Bản” về phát triển kinh tế, hiện nay Hàn Quốc đang là một biểu tượng mới của thế giới, góp phần đưa châu Á trở thành một trong những động lực của kinh tế thế giới. Thoát khỏi chiến trang với tình trạng đất nước bị tàn phá nặng nề, tài nguyên thiên nhiên khan hiếm, dân số đông và tình trạng thiếu lương thực diễn ra khắp cả nước. Thế nhưng sau hơn 55 năm, đến nay Hàn Quốc đã thay đổi hoàn toàn diện mạo nền kinh tế cũng như văn hóa xã hội. Là quốc gia có tên trong tổ chức OCED (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế - câu lạc bộ các nước giàu) và là nền kinh tế lớn thứ 10 trên thế giới. Có được thành tựu to lớn trên, trong những năm qua Hàn Quốc đã biết tận dụng mọi lợi thế, nguồn lực xã hội trong đó quan trọng nhất là việc Hàn Quốc đã rất chú trọng đến việc xây dựng các chính sách phát triển nguồn nhân lực. Đến nay Hàn Quốc đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ là nhờ có nguồn nhân lực tuyệt vời, đó là những người đã làm nên “phép màu của dòng sông Hàn”. Mỗi năm, năng suất lao động tăng từ 10 đến 13%, cạnh tranh mạnh mẽ với môt số nước khác như Đài Loan, Nhật Bản và Xin-ga-po.   Cụ thể trong chiến lược phát triển quốc gia, Hàn Quốc đặc biệt coi trọng vấn đề phát triển nguồn nhân lực, nhân tài để đẩy mạnh, phát triển sản xuất. Bằng cách chú trọng tuyên truyền rộng rãi ý nghĩa và tầm quan trọng của chiến lược đào tạo, bồi dưỡng nhân tài đối với sự nghiệp phát triển đất nước và ngăn ngừa biểu hiện háo danh và thiển cận, chủ nghĩa cá nhân, Hàn Quốc đã tạo được dấu ấn tư tưởng đối với học sinh, sinh viên toàn quốc. Chính phủ Hàn Quốc nhấn mạnh rằng: Trẻ em là một bộ phận không thể tách rời khỏi nguồn tài năng trí tuệ, được coi là vốn quí nhất của quốc gia. Vì vậy, giáo dục năng khiếu là con đường tất yếu, duy nhất để một dân tộc, quốc gia sánh với thế giới... ._.u của xã hội, thẩm định tính hợp lý của dòng chính lưu ấy và cải cách nó từng ngày, từng giờ nhằm thích ứng với những thay đổi của thế giới. Để phát triển một cách đúng hướng, chúng ta phải cải cách giáo dục đào tạo theo nguyên tắc trên. Việc quan trọng đầu tiên là chúng ta phải tạo hành lang pháp lý đầy đủ và đồng bộ để xã hội hóa giáo dục phát triển đúng hướng, đặc biệt là đảm bảo được định hướng xã hội chủ nghĩa Thứ hai chúng ta cần đảm bảo sự cân bằng, hài hoà giữa quyền tự chủ với trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục ngoài công lập Thứ ba: Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục. Bên cạnh đó cần tăng cường vai trò giám sát xã hội Vai trò giám sát xã hội là rất quan trọng. Tăng cường thu hút đầu tư trong nước, nhưng vẫn đảm bảo vai trò chủ động của Nhà nước. Thu hút đầu tư nước ngoài, nhưng vẫn giữ vững bản sắc giáo dục Việt Nam Bàn về bản sắc giáo dục Việt nam, chắc sẽ là một đề tài lớn. Muốn nhấn mạnh đến yêu cầu giữ vững chủ quyền khi các đối tác nước ngoài tham gia hoạt động giáo dục ở nước ta. Những yêu cầu cụ thể về chương trình sách giáo khoa ở bậc học phổ thông phải đảm bảo là chương trình và sách giáo khoa nhằm giáo dục con người Việt Nam để trở thành công dân có ích cho đất nước. Trên đây là các quan điểm, nguyên tắc nhằm tăng chất lượng giáo giục đào tạo Việt nam hiện nay. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực song song với các biện pháp nhằm nâng cao sức khỏe cho người lao động, chúng ta cần nâng cao trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn kỹ thuật cho họ, bên cạnh đó cần tạo một môi trường lao động tốt để người lao động có thể phát huy tối đa khả năng làm việc của bản thân. Trong vấn đề nâng cao trình độ chung cho nguồn nhân lực chúng ta phải thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng giáo giục phổ thông, và sau phổ thông. Cụ thể như sau: Nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông nhằm nâng cao trình độ văn hóa Như ta đã biết, trình độ văn hóa nguồn nhân lực chính là sự hiểu biết của người dân trong độ tuổi lao động đối với những kiến thức phổ thông. Như vậy nó là hiểu biết của người lao động tiếp thu được sau khi được đào tạo trong các trường tiểu học, trung học cơ sỏ và trung học phổ thông. Để nâng cao trình độ văn hóa của người dân nói chung và trình độ văn hóa của những người trong độ tuổi lao động nói riêng, chúng ta phải có giải pháp thích hợp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy của hệ thống giáo dục đào tạo. Bởi hệ thống giáo dục đào tạo không những ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng giảng dạy, mức độ tiếp thu của học sinh mà nói còn anh hưởng đến phẩm chất đạo đức, sự tự tin và tính năng động cho học sinh trước khi tham gia học tập kiến thức chuyên môn kỹ thuật Thứ nhất: Đổi mới mục tiêu chương trình và công tác giảng dạy hiện nay: Mục tiêu của giáo dục đào tạo là yếu tố thay đổi theo từng cấp học, đối với mỗi độ tuổi chúng ta phải đặt ra một mục tiêu khác nhau phù hợp với mỗi lứa tuổi, cấp học của học sinh. Mục tiêu của đào tạo phổ thông phải gắn với việc chuẩn bị nền tảng học vấn phổ thông, kỹ năng cơ bản để học sinh có đủ tự tin, lập trường cũng như khả năng sáng tạo của bản thân. Tóm lại giai đoạn học phổ thông có ý nghĩa vô cùng quan trọng, là giai đoạn học tập trình độ văn hóa, trau dồi đạo đức để chuẩn bị bước sang giai đoạn đào tạo nghề sau này Thứ hai: Về nội dung chương trình giáo dục Hiện nay chương trình học của chúng ta đang tồn tại nhiều bất cập, trong khi chương trình học của học sinh thì quá nặng, Bộ Giáo dục-Đào tạo lại không dám hạ thấp sợ lạc hậu, điều này dẫn đến việc cả thầy và trò đều bị áp lực rất lớn Cải cách nội dung sách giáo khoa theo hướng đưa nhiều dẫn chứng thực nghiệm vào trong nội dung giảng dạy, tăng tính thực dụng và giảm tính lý thuyết. Hướng cho học sinh nắm bắt được một lĩnh vực chuyên môn cụ thể ngay trong thời gian còn đi học phổ thông bằng cách ngay từ lớp 6 đã phải có định hướng cho học sinh học thiên về một lĩnh vực nghiên cứu, và sang cấp 3 là định hướng cho nghề nghiệp sau này. Bên cạnh đó tăng cường bồi dưỡng cho thế hệ trẻ lòng yêu nước, yêu quê hương và gia đình; tinh thần tự tôn dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa; lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật; tinh thần hiếu học, chí tiến thủ lập thân, lập nghiệp Thứ ba: Về phương pháp giảng dạy Phương pháp giảng dạy là yếu tố liên quan trực tiếp đến chất lượng giáo dục, một người thầy giỏi là một người có phương pháp truyền đạt khoa học, học sinh dễ tiếp thu. Cải cách giáo dục không chỉ dừng lại ở việc cải cách sách giáo khoa, mà qua đây chúng ta cũng phải cải cách cả phương pháp giảng giạy càng ngày càng khoa học hơn Đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự học của học sinh. Thầy cô giáo phải là người hướng cho học sinh để học sinh tự tìm tòi học hỏi. Tăng cường việc nghiên cứu các phương tiện trợ giảng để nâng cao chất lượng giờ học, hướng dẫn học sinh phương pháp tìm kiếm tài liệu để học sinh tự nhiên cứu. Tăng tính tự tin năng động cho học sinh bằng các buổi thuyết trình, làm việc nhóm, thảo luận, đi tham quan thực tế tại các xí nghiệp… Tuy nhiên, ngoài việc học, nhà trường phải rất chú trọng thái độ ứng xử ngoài đời của học sinh. Tập cho học sinh có thói quen ganh đua về chính mình để tiến bộ. Trường chỉ cho học sinh biết kiểm điểm chính mình để học sinh giỏi không tự kiêu, học sinh yếu không tự ti. Thứ tư: Tổ chức các buổi hướng nghiệp cho học sinh phổ thông trung học để học sinh lựa chon các lĩnh vực nghề nghiệp theo thế mạnh và niềm đam mê của bản thân học sinh. Thứ năm: Không ngừng công tác nâng cao trình độ cho đội ngũ giáo viên bằng các buổi học chuyên đề, học tại chức…Cập nhật kịp thời những thay đổi trong phương pháp dạy học, trong nội dung chương trình học tới từng giáo viên. Bồi dưỡng giáo viên để tạo cho mỗi trường, mỗi cơ sở đào tạo có những giáo viên cốt cán. Việc này phải được quan tâm một cách thường xuyên hơn, những người thầy người cô trước hết phải gương mẫu trong cuộc sống cũng như trong công tác học tập, họ phải là những tấm gương cho học sinh về ý chí, tinh thần ham học hỏi, học không ngừng. Bên cạnh đó nâng cao công tác quản lý giáo dục đào tạo từ trung ương đến địa phương. Nâng cao hiệu quả quản lý của các sở, các phòng giáo dục đào tạo. Phân cấp quản lí giáo dục từ Trung ương đến địa phương phải được thực thi như tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, thể hiện trong chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 và chiến lược 10 năm cải cách hành chính là tạo thế chủ động cho ngành trên cả ba mặt: Chuyên môn, Tài chính, và tổ chức cán bộ. Tách rời và thiếu tính chủ động trên cả ba vấn đề lớn đó nhất định ảnh hưởng lớn đến sự điều hành của giáo dục, dẫn đến ảnh hưởng tới chất lượng giáo dục Thứ sáu: Sử dụng nguồn vốn giáo dục đào tạo một cách hợp lý: Ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo trong những năm qua không ngừng tăng lên. Sử dụng các nguồn vốn này phải gắn với nhu cầu thực tiễn, mở rộng hệ thống trường học tại những vùng khó khăn chưa có trường học, nâng cao mức lương và đãi ngộ đối với giáo viên để đảm bảo cuộc sống vật chất cho họ. Bên cạnh đó phải đầu tư cho việc tăng cường đầu tư trang thiết bị giáo dục cho học sinh tiếp cận với việc thực hành trên lớp, phổ cập tin học cho học sinh ngay từ những năm học trung học cơ sở…… Nâng cao chất lượng trong đào tạo chuyên môn kỹ thuật: Nâng cao chất lượng đào tạo Đại học-Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp: Giáo dục đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp giữ vai trò chủ đạo trong toàn bộ hệ thống giáo dục vì nó trực tiếp tác động đến trình độ phát triển của khoa học và công nghệ, cũng như trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động. Việc nâng cao chất lượng đào tạo của hệ thống này có vai trò to lớn trong việt tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước vốn đang là yêu cầu rất bức thiết hiện nay. Đào tạo phải gắn với nhu cầu thực tế, vấn đề Thừa “ngọn”, thiếu “gốc” đang là khó khăn rất lớn cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước trong giai đoạn hiện nay , bởi chính sự bất cập trong cung- cầu nguồn nhân lực với chất lượng “cung” không đáp ứng được đòi hỏi của cầu”. Song song với vấn đề đó là việc thị trường lao động Việt Nam đang đứng trước nghịch lý "dồi dào nhưng vẫn khan hiếm", đặc biệt là tình trạng thiếu trầm trọng nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế-xã hội. Dựa trên quan điểm “đào tạo phải gắn với nhu cầu thực tế” là cơ sở để chúng ta đưa ra nhiều hướng giải pháp cho công tác giáo dục đào tạo trong nhà trường. Sau đây là một số giải pháp nhằm tăng cường chất lượng đào tạo - Vấn đề thi tuyển đầu vào: Mặc dù chất lượng của đào tạo đại học được bắt đầu từ giáo dục phổ thông, nhưng vấn đề tuyển sinh đầu vào cũng là một yếu tố quyết định đến chất lượng đào tạo của các trường sau này. Để đảm bảo chất lượng đào tạo của mình các trường phải trực tiếp chịu trách nhiệm về chất lượng đào tạo của mình trước xã hội chứ không phải Bộ chịu trách nhiệm cho trường. Công tác quy định môn thi vào các trường đào tạo phải hợp lý để nâng cao chất lượng đầu vào và hiệu quả đào tạo sau này, hiện nay còn tồn tại nhiều bất cập về vấn đề quy định môn thi của các trường. Ví dụ ba môn thi tuyển sinh đầu vào là Toán, Lý, Hóa nhưng trong quá trình đào tạo thì hầu như không sử dụng hoặc sử dụng rất ít các kiến thức liên quan tới môn Lý và Hóa học. Vì vậy cần phải hợp tăng cường nghiên cứu để hợp lý hóa các môn thi tuyển sinh đầu vào. Khối kinh tế là khối cần nhiều kiến thức về ngoại ngữ nên đưa môn thi ngoại ngữ vào một trong ba môn thi tuyển sinh. - Chương trình đào tạo: Một chương trình đào tạo thiên lệch không thể không ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, thậm chí ảnh hưởng cả đến quá trình hội nhập giáo dục, xu hướng tất yếu của thời đại hiện nay. Từ năm học 2004 – 2005, các trường đại học đã xây dựng lại chương trình đào tạo theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục & Đào tạo theo tinh thần giảm tải. Điều đó nói lên những nỗ lực rất lớn của Bộ Giáo dục & Đào tạo trong việc cải thiện công tác quản lý giáo dục, song chương trình đó vẫn còn nhiều bất cập. Những môn học thuộc kiến thức ngành và chuyên ngành chỉ được gói gọn trong 55% thời lượng là quá ít. Chịu trách nhiệm chính về khối kiến thức chuyên ngành là ở cấp bộ môn, nhưng cấp này chỉ được quyền chi phối đến 20% số đơn vị học tập. Giải pháp trong thời gian tới là Bộ Giáo dục & Đào tạo hãy giao thêm quyền cho các trường, trường giao thêm quyền cho cấp bộ môn và như thế mới có điều kiện cho sinh viên được quyền tham gia lựa chọn những kiến thức, môn học mang tính kỹ năng nào mà sinh viên thích. - Về giáo trình: Thiếu sách, giáo trình, tài liệu cũng là một sự không đồng bộ với đòi hỏi chất lượng đào tạo cao. Kinh nghiệm của các nước phát triển và mới phát triển như Nhật, Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc … thì để nhanh chóng có nhiều tài liệu tham khảo, giáo trình cho sinh viên hãy đầu tư cho dịch thuật song song với việc đầu tư tự viết. Kinh nghiệm các nước cũng cho thấy đầu tư cho dịch thuật đem lại kết quả nhanh hơn và hiệu quả cao hơn so với đầu tư tự viết ở các nước kém phát triển, nhanh chóng làm phong phú nguồn tài liệu học tập cho sinh viên. Bên cạnh đó, cần xem xét khả năng nhập khẩu chương trình đào tạo như một số nước đã làm và đã thành công. Hiện nay chúng ta có nhiều sách tham khảo, giáo trình chất lượng chưa cao còn do khâu quản lý, như khâu cấp giấy phép xuất bản, khâu nghiệm thu… và điều đó cũng ảnh hưởng không tốt đến chất lượng đào tạo.  - Về phương pháp giảng dạy: Để phương pháp giảng dạy mới được áp dụng thì quy mô lớp học phải tối đa là 50 sinh viên, lý tưởng là 30 – 35, trong thực tế rất ít có lớp học như vậy, mà có khi lên đến 100 – 150 sinh viên. Những lớp học quá đông sinh viên, việc áp dụng phương tiện giảng dạy hiện đại như dùng đèn chiếu hoặc projector cũng kém hiệu quả (mà sinh viên đã có nhiều phản ánh) nguyên nhân là do sinh viên đang chưa quen với cách học này. Vì vậy cần tăng cường công tác tập cho sinh viên phương pháp nghiên cứu khoa học, phương pháp học mới là học ở nhà trường, tự học ở thư viện và ở nhà, ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy trở thành một thói quen, học tập qua mạng cũng là một phương pháp học mang lại hiệu quả mà nhiều quốc qia phát triển đang áp dụng. Đồng thời phân nhỏ lớp học và học và học theo kiểu sinh viên đối thoại với giảng viên. Điều này làm tăng khả năng tự lập trong suy nghĩ và tăng tính tự tin, năng động cho sinh viên sau khi tốt nghiệp - Về nguồn tài chính: Việt nam được xem là một trong những quốc gia có chi phí để học đại học, cao học và cả nghiên cứu sinh rẻ nhất thế giới. Nếu so sánh chi phí đó với mức lương công chức, lương tối thiểu thì hợp lý, nhưng nếu với mức học phí hiện tại thì tất yếu sẽ kéo theo hàng loạt sự không đồng bộ: lương giáo viên thấp, nhà trường và cả Nhà nước không có tiền để đầu tư cho phương tiện thiết bị như phòng thí nghiệm, xưởng thực hành, cho thư viện, cho phòng đọc … sẽ lại là vòng luẩn quẩn: chất lượng đào tạo thấp, kém hiệu quả.  Giải pháp cho vấn đề này là Bộ Giáo dục và Đào tạo cần nhanh chóng xem xét giải pháp tăng học phí của tất cả các cấp đào tạo từ đại học trở lên. Thứ hai, cần thực sự khuyến khích các nhà đầu tư đầu tư đào tạo đại học và sau đại học chứ không chỉ dừng lại ở chủ trương như hiện nay, nhanh chóng thực hiện xã hội hóa đào tạo đại học, trên cơ sở đó nhanh thực hiện chủ trương giảm tỉ lệ sinh viên thuộc các trường đại học công lập và tăng tỉ lệ sinh viên hệ ngoài công lập như ở nhiều nước trên thế giới.  Trên đây chỉ là một số biện pháp góp phần nâng cao chất lượng đào tạo đại học ở Việt nam. Hy vọng đóng góp phần nào vào sự nghiệp cải cách giáo dục, đào tạo tại Việt nam, qua đó nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo điều kiện để Việt nam có thể bước những bước đầu tiên trên con đường hội nhập quốc tế. Nâng cao chất lượng đào tạo nghề tại các trung tâm dạy nghề trên cả nước Thi vào đậu vào các trường Đại học, Cao đẳng hay Trung học chuyên nghiệp không phải là con đường duy nhất để học tập kiến thức chuyên môn kỹ thuật cho người lao động. Đào tạo nghề trong nhiều năm qua cũng đã có nhiều bước đột phát cung cấp một lượng công nhân, kỹ sư cho đất nước, tăng cường thu hút đào tạo nghề có ý nghĩa rất lớn đến việc tăng tỷ lệ đào tạo trong lực lượng lao động bởi vì trong thực tế không phải ai cũng có điều kiên hoặc nhu cầu học tập ở các trường chuyên nghiệp. Tăng cường đào tạo nghề cũng là một giải pháp mang tính then chốt để giải quyết vấn đề trang bị kiến thức kỹ thuật của mình cho công việc sau này Để nâng cao hiệu quả thu hút và đào tạo nghề trong cả nước cần có một hệ thống các trung tâm đào tạo nghề trọng điểm. Không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy trên cơ sở các chuẩn mực đã đạt được xác định nhằm tạo ra đội ngủ cán bộ chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kỹ thuật nghề nghiệp trong thời gian tới Cũng như công tác đào tạo chính quy, công tác đào tạo tại các cơ sở đào tạo nghề phải thực hiện chuyển mạnh dạy nghề từ hướng cung sang hướng cầu của thị trường lao động. Tập trung nguồn lực hình thành hệ thống các cơ sở trọng điểm ở các vùng, các ngành kinh tế trọng điểm để đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật trình độ cao đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Bên cạnh đó phải không ngừng củng cố và phát triển những cơ sở đào tạo chuyên ngành để phục vụ cho những nhu cầu đặc thù của một số ngành; đồng thời tiến hành kiểm định chất lượng các cơ sở dạy nghề. Đổi mới chương trình đào tạo theo hướng mềm dẻo, tích hợp và linh hoạt, phù hợp với sự thay đổi công nghệ của doanh nghiệp. Đổi mới phương pháp đào tạo, lấy rèn luyện kỹ năng nghề của người lao động trong doanh nghiệp để điều chỉnh phương pháp đào tạo. Hoàn thiện cơ chế -chính sách về phát hiện và đào tạo nhân tài Nhân tài là nguyên khí quốc gia, là tài sản vô giá của dân tộc của quốc gia mà mọi người dân trong cộng đồng dân tộc đều có thể tự hào về họ. Vì vậy chủ trương phát hiện, tạo điều kiện bồi dưỡng cho nhân tài phát triển là điều quá đúng trong đường lối Giáo dục của Đảng ta, Nhà nước ta:  Nâng cao dân trí, Đào tạo nhân lực, Bồi dưỡng nhân tài. Vì thế trong chính sách phát hiện và đào tạo nhân tài là giải pháp mang tính đột phá trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Để làm được điều này chúng ta phải có những giải pháp lớn mang tầm quốc gia về công tác thu hút, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài Trước hết, cần tính đồng bộ trong các cơ chế-chính sách, nhằm hướng đến và cân bằng những yếu tố tạo điều kiện cho năng khiếu và tài năng: yếu tố tâm lý - giáo dục - môi trường. Sau đó, cần cụ thể hóa bằng việc đưa vào hệ thống luật những định hướng trên. Đưa vào luật thì mới có khả năng thực thi liên tục, mà không phải là những giải pháp ngắn hạn. Sách lược về nhân tài khó có thể tách riêng thành một bộ luật độc lập, mà nên định hướng như nội dung hàm chứa trong các bộ luật liên quan, từ vấn đề gia đình, giáo dục - đào tạo đến luật về lao động, công chức, hình sự…. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống Chất lượng cuộc sống là yếu tố quyết định tới vấn đề sức khỏe người lao động, không những thế chất lượng cuộc sống còn ảnh hưởng lớn đến khả năng tiếp cận các dịch vụ giáo dục đào tạo của người dân, chỉ có đầy đủ về điều kiện ăn uống cơ bản thì người dân mới có cơ hội và thời gian để tham gia vào việc học tập nâng cao hiểu biết, như vậy nó có ảnh hưởng không những trực tiếp đến tình trạng sức khỏe mà còn gián tiếp tác động tới trình độ văn hóa người dân. Nâng cao thể lực người lao động trước hết phải nâng cao chất lượng cuộc sống cho họ. Không những phải đảm bảo chế độ dinh dưỡng, chế độ làm việc mà ngoài ra chúng ta phải quan tấm tới các vấn đề tinh thần, tâm lý của họ, xây dựng môi trường sống trong lành, ít ô nhiễm vừa là biện pháp tăng thể lực cho người lao động, vừa là biện pháp nhằm giảm bệnh tật của người dân, đặc biệt là người lao dộng. Để làm được điều này chúng ta phải tăng cường hơn nữa công tác xóa đói giảm nghèo, nâng cao hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói, giảm nghèo cho các vùng núi, vùng sâu vùng xa vv. Tạo điều kiện cho họ trong việc thoát khỏi cái đói, cái nghèo. Bên cạnh đó nhà nước phải tăng cường hơn nữa các chương trình hỗ trợ nâng cao chất lượng cuộc sống, tạo công ăn việc làm cho người lao động ở các vùng sâu, vùng xa, các vùng dân tộc miền núi, nhằm giảm khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, miền núi. Các chương trình này mang ý nghĩa là các chương trình mục tiêu trọng điểm quốc gia như Chương trình 135 giai đoạn 2, Chương trình hỗ trợ cho người nghèo vay vốn làm ăn … Giải pháp cải thiện môi trường xã hội, môi trường làm việc thuận lợi, nhằm khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực Môi trường xã hội, môi trường làm việc thuận lợi có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng nguồn nhân lực. Tạo tinh thần thoải mái và không khí thi đua làm việc, nhờ đó mà năng suất lao động cũng được nâng cao. Bên cạnh đó việc sử dụng nhân tài hợp lý, sử dụng đúng người đúng việc giúp người lao động có điều kiện để phát huy sở trường trong công việc, Để tạo được điều đó, trước hết cần tạo được một thị trường lao động lành mạnh, linh hoạt. Trước hết chúng ta phải hoàn thiện và phát triển hệ thống giao dịch thị trường lao động. Trong thị trường lao động, để cung - cầu lao động gặp nhau nhanh chóng, cần có các tổ chức giới thiệu việc làm, tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp và người lao động, giảm thiểu chỗ làm việc trống và người thất nghiệp. Tập trung đầu tư và hoàn thiện 3 trung tâm giới thiệu việc làm ở 3 vùng kinh tế trọng điểm (Bắc, Trung, Nam) đạt tiêu chuẩn các nước trong khu vực; đồng thời, quy hoạch và đầu tư hệ thống cơ sở giới thiệu việc làm ở địa phương, sử dụng công nghệ thông tin hiện đại để thực hiện giao dịch lành mạnh và hiệu quả. Trong vấn đề thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực chúng ta cần chú trọng đến vấn đề chú trọng hoàn thiện các chế độ lương bổng và phúc lợi, chế độ khen thưởng, chế độ điều động và đề bạt. - Chế độ lương bổng và phúc lợi được thiết lập trên cơ sở: (a) phù hợp với trình độ đào tạo; (b) phù hợp với thâm niên công tác, cấp bậc và chức vụ được giao; (c) phù hợp với đặc điểm nghề nghiệp của từng ngành; (d) tăng tương ứng với sự phát triển kinh tế và sự gia tăng giá cả v.v... -  Chế độ khăn thưởng: phải kịp thời, đúng lúc cho (a) cá nhân/đơn vị hoàn thành nhiệm vụ đạt hiệu quả cao; (b) cá nhân/đơn vị có sáng kiến hoặc giải pháp (đột xuất, độc đáo) đem lại lợi ích lớn cho xã hội, không phân biệt đó là cán bộ lãnh đạo hay nhân viên; (c) khen thưởng các sinh viên, cán bộ khoa học - kỹ thuật được gửi đi đào tạo ngoài nước hoàn thành tốt nhiệm vụ và trở về nước phục vụ; (d) khen thưởng các đơn vị/tổ chức có những cống hiến tốt cho xã hội và nhân dân, không phân biệt ở trong hay ngoài nước. - Chế độ điều động và đề bạt cán bộ cần thực hiện trên cơ sở công khai, khách quan và vô tư. Việc điều động, luân chuyển cán bộ nhằm đưa những người giỏi, có năng lực về phục vụ cho các địa phương gặp nhiều khó khăn. Việc điều động nhân sự đòi hỏi phải đưa đúng người về đúng nơi có nhu cầu, trong đó bao gồm cả các cán bộ lãnh đạo lẫn các chuyên viên quản lý hành chính, chuyên viên khoa học - kỹ thuật. Song song với chế độ điều động cần có chế độ đề bạt hợp lý (cả về chức vụ lẫn lương bổng – phúc lợi) để khuyến khích và tạo niềm tin cho những người được điều động để họ ra sức cống hiến cho nhiệm vụ được giao. Chế độ điều động nhân sự nếu được thực hiện tốt sẽ góp phần tích cực trong việc rút ngắn khoảng cách biệt giữa nông thôn và thành thị, khoảng cách biệt giữa các thành phố lớn và thành phố nhỏ.... Đây cũng là giải pháp hữu hiệu nhằm khắc phục nạn “chảy máu chất xám” trong nước (internal brain drain), tạo nên sự cân bằng nhất định giữa các địa phương với nhau và qua đó giúp cho sự phát triển của quốc gia ngày càng hữu hiệu hơn. Giải pháp thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao từ bên ngoài Do đặc điểm lịch sử của đất nước, hiện nay có khoảng 2 triệu người Việt nam sinh sống ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới, trong số này có rất nhiều nhà khoa học, kỹ thuật Việt nam đạt thành tích cao trong khoa học. Đây là nguồn chất xám rất đáng trân trọng. Mặt khác, với chính sách mở cửa và hội nhập của Đảng và Nhà nước Việt nam, hiện nay ngày càng có nhiều thanh niên, học sinh, sinh viên Việt nam đang lao động hoặc học tập tại các nước tiên tiến. Do vậy, cần đẩy mạnh chính sách thu hút tri thức Việt kiều, thu hút các lưu học sinh và lao động sau khi hoàn tất nhiệm vụ trở về phục vụ Tổ quốc. Công việc này có thể tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau: trở về nước sinh sống và làm việc, trở về nước phục vụ trong một thời gian nhất định, hoặc vẫn sống ở nước ngoài nhưng tham gia tư vấn, tham mưu, kiêm nhiệm v.v... Bên cạnh việc thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn lực trong nước thì cần quan tâm hơn nữa tới các chính sách thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực được đào tạo ở ngoài ,điều này có ý nghĩa lớn lao trong việc bổ sung tri thức, chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ nhau trong phát triển khoa học, công nghệ giúp Việt nam có thể đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, tiếp cận trình độ phát triển quốc tế. KẾT LUẬN Việt nam trong thời gian qua đã giành được nhiều thành tựu quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Song đứng trước yêu cầu về sử dụng và phát huy hiệu quả các nguồn nhân lực xã hội cho mục tiêu CNH-HĐH rút ngắn của nước ta hiện nay thì đang tồn tại nhiều bất cập. Trong đó bất cập về chất lượng nguồn nhân lực, nguồn lực có vai trò quyết định trong hệ thống các nguồn lực xã hôi là vấn đề có tính bức bách nhất và cần phải kịp thời khắc phục Với quan điểm Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố giữ vai trò quyết định trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước trong thời gian qua chúng ta đã có rất nhiều chính sách nhằm nâng cao chất lượng nhân tố con người, và thực tế hiện nay chất lượng nguồn nhân lực cũng được nâng lên rõ rệt, đáp ứng được phần nào nhu cầu phát triển. Song với thực trạng hiện nay chúng ta vẫn thiếu cả về số lượng lẫn yếu về chất lượng, thiếu hụt một cách trầm trọng nguồn nhân lực chất lượng cao, đội ngủ quản lý giỏi..Với tính cấp thiết của vấn đề phải nâng cao chất lượng nguồn lực con người nên tôi đã nghiên cứu đề tài về các giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đề tài đã giải quyết được một số vấn đề chính sau Đề tài đã tìm hiểu rõ hơn về cách tiếp cận các khái niệm về nhân tố con người, nhận thấy được sự khác giữa các cách tiếp cận của Việt nam và thể giới. Đồng thời qua việc phân tích thực trạng về chất lượng nguồn nhân lực hiện nay, để từ đó phân tích những yếu tố lợi thế cũng như hạn chế của nguồn nhân lực, nguyên nhân chính dẫn đến các hạn chế đó. Trên cơ sở các phân tích đó đề tài đã nghiên cứu một số giải pháp mang tính định hướng nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Với sự nỗ lực của bản thân, cùng sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn PGS,TS Lê Huy Đức, Anh Nguyễn Khắc Huy cùng các anh chị tại Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa-Bộ KH-ĐT tôi đã hoàn thành đề tài của mình, qua đây tôi xin chân thành cảm ơn Thầy Đức, Anh Huy và những người đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực tập vừa qua. Tuy có nhiều cố gắng song do hạn chế về số liệu cũng như khả năng của bản thân nên chắc chắn không tránh khỏi nhiều thiếu sót, mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và các bạn để đề tài có thể hoàn thiện hơn KIẾN NGHỊ Với yêu cầu về việc nâng cao chất lược nguồn nhân lực đáp ứng cho nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nươc mà thực tế đã đặt ra, việc phát triển nguồn lực con người là giải pháp mang tính chất đột phá nhằm giúp chúng ta thực hiện mục tiêu rút ngắn của mình. Thực tế hiện nay chúng ta đang tồn tại nhiều bất cập trong các công tác nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trên cơ sở phân tích các lợi thế, khó khăn hiện nay tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau : Trong vấn đề tiền lương cho người lao động, trong nhiều năm qua Nhà nước ta đã có nhiều cải cách trong vấn đề tiền lương. Tuy nhiên hiện nay còn tồn tại nhiều bất cập trong mức tiền lương tối thiểu, hệ số lương của bộ phận cán bộ nhà nước..Kiến nghị đưa ra là nâng mức lương tối thiểu lên cao hơn hiện tại. Bên cạnh tiền lương cần tăng cường phụ cấp, trợ cấp theo hệ số lương cho từng đối tượng, đặc biệt là các đối tượng làm việc tại khu vực nông thôn, các vùng núi khó khăn… Trong vấn đề thu học phí giáo dục đào tạo. nâng cao học phí là biện pháp nhằm tăng cường nguồn thu cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy, tuy nhiên mặt trái của nó là việc những học sinh khó khăn ít có cơ hội tiếp cận các dịch vụ giáo dục. Nhà nước phải có chính sách thu học phí hợp lý. Tăng thu học phí song song với việc tăng các chính sách hỗ trợ học sinh sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, tăng học bổng nhằm tăng nỗ lực phấn đấu cho sinh viên, Trong năm qua nhà nước đã có chính sách cho sinh viên vay vốn phục vụ cho nhu cầu học tập, chính sách đã có tác động tích cực tới việc tạo điều kiện cho các sinh viên gia đình khó khăn không đủ khă năng chu cấp cho con học đại học, song với mức vay 800 nghìn đồng một tháng, 8 triệu một năm là quá ít, kiến nghị trong thời gian tiếp theo sẽ nâng cao mức cho vay tối thiểu là 1 triệu đồng một tháng nhằm tạo điều kiện cho sinh viên có điều kiện học tập tốt hơn, nhất là bộ phận sinh viên nghèo DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Phạm Minh Hạc (chủ biê ) (1996), vấn đề con người trong CNH-HĐH , NXB chính trị quốc gia hà nội. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2001), về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB chính trị quốc gia hà nội. Đỗ Mười; Vấn đề CNH-HĐH đất nước CNH-HĐH ở Việt nam, lý luận và thực tiễn; NXB chính trị quốc gia Hà nội 2002 Bộ lao động – thương binh và xã hội (2006) , niên giám thống kê lao động – thương binh và xã hội 2006, NXB lao động xã hội, Hà nội. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2007), số liệu thống kê lao động – việc làm ở việt nam 2006, NXB lao động – xã hội 2007 Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (1998), tác động của những biến đổi kinh tế đến sự phát triển nguồn nhân lực, việc làm và khu vực phi kết cấu ở việt nam và đông nam á, nxb lao động. 1998 Bộ Kế hoạch Đầu tư; Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội Việt nam giai đoạn 2001-2010 và tầm nhìn 2020 Tổng cục thống kê ( 2007 ), số liệu thống kê dân số và kinh tế – xã hội việt nam 2007 Viện chiến lược phát triển (2001), cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội việt nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, NXB chính trị quốc gia hà nội Chương trình phát triển của liên hiệp quốc (2006), báo cáo phát triển con người 2006: công nghệ mới vì sự phát triển con người, NXB chính trị quốc gia Hà nội Vũ Hy Chương ( chủ biên ) (2002), vấn đề tạo nguồn lực tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB chính trị quốc gia Hà nội Đỗ Minh Cương- Nguyễn Thị Doan (2001), phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại ; Phạm Tất Dong ( 2001), định hướng phát triển đội ngũ trí thức việt nam trong thời kỳ CNH-HĐH , NXB chính trị quốc gia Hà nội Đỗ Hoài Nam; Một số vấn đề về CNH-HĐH ở Việt nam; NXB chính trị quốc gia 2006 Giáo trình kinh tế phát triển-Trường Đại học Kinh tế quốc dân Giáo trình Dự báo phát triển kinh tế xã hội- Trường đại học Kinh tế quốc dân N.G.Mankiw (1999), kinh tế vĩ mô, trường Đại học Kinh tế quốc dân, NXB Thống kê hà nội Giáo trình Kinh tế lao động-Trường Đại học kinh tế Quốc dân Thời báo kinh tế Việt nam: vneconomy.com Các trang web của các Bô, các ban ngành:Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Thương binh và xã hội, Bộ Công nghiệp, vv DANH MỤC VIẾT TẮT CNH - HĐH : Công nghiệp hoá hiện đại hoá CMKT : Chuyên môn kỹ thuật KHCN : Khoa học công nghệ GD- ĐT : Giáo dục đào tạo GDP : Tổng sản phẩm quốc nội HDI : Chỉ số phát triển con người SDD : Chỉ số người gầy UNDP : Chương trình phát triển của liên hợp quốc UNIDO : Tổ chức công nghiệp ILO : Tổ chức lao động thế giới CĐ/THCN/CNKT : Cao đẳng/Trung học chuyên nghiệp/Công nhân kỹ thuật OCED : Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế - câu lạc bộ các nước giàu) MỤC LỤC DANH MỤC VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28920.doc
Tài liệu liên quan