Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước trong giai đoạn hiện nay

Lời mở đầu Đất nước ta đã và đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá . Để tiến hành thành công sự nghiệp này đòi hỏi phải có sự tham gia của toàn Đảng, toàn dân, của các ngành các cấp và cần thiết phải có sự huy động các nguồn lực của đất nước.Các nguồn lực để phục vụ cho nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá gồm:nguồn lực vốn, đất đai, khoa học công nghệ,…trong đó quan trọng nhất là nguồn lực con người.Trong thời gian tới Đảng và Nhà nước ta đã coi sự phát triển nguồn nhân lực l

doc109 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1482 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à quốc sách hàng đầu. Nhờ sự lựa chọn mô hình đúng đắn và biết huy động các nguồn lực phục vụ cho sự nghiệp này mà thời gian qua đất nước ta đã gặt hái được những thành công quan trọng, góp phần thúc đẩy sự phát triển đất nước nói chung và chất lượng nguồn nhân lực nói riêng .Tuy nhiên trong quá trình này vẫn còn tồn tại nhiều bất cập cần được giải quyết như: thiếu đội ngũ lao động kỹ thuật cao, sự phân bố không đều giữa các vùng , các ngành,cơ cấu đào tạo còn nhiều bất cập… Bên cạnh đó việc không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một đòi hỏi khách quan.Với việc thực hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là coi sự phát triển nguồn nhân lực là quốc sách hàng đầu , với sự đầu tư các nguồn vốn cho hoạt động này ngày càng tăng , chất lượng nguồn nhân lực của nước ta thời gian qua đã được nâng lên về mọi mặt.Tuy vậy vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra với sự phát triển nguồn nhân lực ở nước ta như: cơ cấu đào tạo bất hợp lý ,chất lượng nguồn nhân lực vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới, công tác quản lý nguồn nhân lực còn nhiều bất cập…Vì vậy mà tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài:”Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong giai đoạn hiện nay”. Đề tài nghiên cứu nhằm trả lời câu hỏi :làm thế nào để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta trong giai đoạn hiện nay. Mục đích nghiên cứu của đề tài: +Nghiên cứu sự cần thiết phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam + Đánh giá chất lượng nguồn nhân lực và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực, chỉ ra những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá với phát triển nguồn nhân lực +Thực trạng nguồn nhân lực nước ta thời gian qua và kiến nghị những giải pháp nhằm nâng coa chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong thời gian tới Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đề tài nghiên cứu chất lượng nguồn nhân lực nhưng chủ yếu tập chung vào mặt trí lực, phân tích đánh giá và đưa ra các giải pháp ở tầm vĩ mô nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp thống kê, phân tích ,so sánh, đánh giá để nghiên cứu ,các số liệu thu thập của tổng cục thống kê, các công trình nghiên cứu, các báo , tạp chí, các website, các dự án các đề án… Bố cục của đề tài: Gồm ba chương Chương I. Vai trò của nguồn nhân lực với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. ChươngII.Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá thời gian qua. ChươngIII. Những giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hoá , hiện đại hoá trong giai đoạn hiện nay. Chương I: Vai trò của nguồn nhân lực với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa I. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và vai trò của nó với phát triển kinh tế xã hội. 1. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 1.1. Công nghiệp hóa. Năm 1963, tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hiệp Quốc (UNIDO) đã đưa ra định nghĩa: CNH là một quá trình phát triển kinh tế. Trong đó một bộ phận là ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế đa ngành trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là một bộ phận chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng, có khả năng bảo đảm cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, bảo đảm đạt tới sự tiến bộ về kinh tế xã hội. CNH là một quá trình chuyển nền sản xuất từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng lao động có kỹ thuật với công nghệ tiên tiến tạo ra năng suất lao động xã hội ngày càng cao, là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp và khai thác tài nguyên là chính sang cơ chế mới mà ngành công nghiệp đóng vai trò chủ đạo, tỷ trọng công nghiệp trong GDP ngày càng tăng, tỷ trọng nông nghiệp ngày càng giảm thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa thành thị và nông thôn trên cơ sở khai thác hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và các lợi thế của từng vùng, từng miền và của quốc gia. 1.2. Hiện đại hóa. Hiện đại hóa là một quá trình mà nhờ đó các nước đang phát triển tìm cách đạt được sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, tiến hành cải cách chính trị và củng cố xã hội nhằm đạt tới một trình độ phát triển cao về khoa học, công nghệ sự thịnh vượng kinh tế và công bằng xã hội. Hiện đại hóa, xét trên góc độ kinh tế - kỹ thuật là cái đích cần tiến tới trong quá trình CNH. Nhưng sự vươn lên về trình độ công nghệ này lại bị ràng buộc bởi yêu cầu đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội. Hiện đại hóa là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của xã hội theo hướng tăng dần các ngành có hàm lượng công nghệ cao vừa là quá trình đổi mới cách thức tổ chức sản xuất các ngành cần có của quốc gia theo hướng áp dụng ngày càng nhiều nhiều các công nghệ sản xuất và quản lý tiên tiến. Kết quả của HĐH là năng suất lao động tăng, trình độ sản xuất được nâng cao. HĐH là một quá trình lâu dài, phức tạp trong đó diễn ra các bước đi cải biến một xã hội truyền thống thành một xã hội hiện đại, có trình độ văn minh cao hơn, thể hiện đầy đủ hơn những giá trị chung mà nhân loại vươn tới. Cũng giống như CNH, các nước khác nhau có thể tiến hành HĐH dưới những hình thức khác nhau và bằng những con đường không hoàn toàn giống nhau. Tóm lại, CNH và HĐH đất nước là một quá trình phát triển cân đối, hài hòa về kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa nhằm đảm bảo được sự phát triển năng động, có hiệu quả và bền vững. CNH là một quá trình tất yếu có tính lịch sử nhằm tạo nên những chuyển biến căn bản về kinh tế, xã hội trên cơ sở khai thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế trong nước, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, xây dựng cơ cấu kinh tế đa ngành với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao. Dưới áp lực khách quan của toàn cầu hóa và vai trò động lực của công nghiệp, mô hình CNH và đặc trưng của nó thay đổi nhanh chóng trong hai thập kỷ gần đây. Cơ sở lý thuyết về CNH được ứng dụng thành công trong chính sách phát triển quốc gia và thậm chí trên giác độ của công ty, do cạnh tranh ngày càng gay gắt các nước buộc phải tháo bỏ hàng rào bảo vệ và các hoạt động kinh doanh phải đáp ứng trật tự và quy luật cuộc chơi trên toàn cầu. Đối với các nền kinh tế có quy mô trung bình hoặc lớn, công nghiệp có vai trò chủ đạo đảm bảo tăng trưởng kinh tế dài hạn, bền vững và giúp giải quyết mục tiêu kinh tế - xã hội khác. Chính vì vậy mà các quốc gia dành ưu tiên hàng đầu cho chiến lược và chính sách phát triển công nghiệp theo hướng CNH, HĐH. 2. Đặc điểm của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ khái niệm trên mà công nghiệp hóa, hiện đại hóa bao hàm những đặc điểm quan trọng dưới đây: Thứ nhất, công nghiệp hóa được triển khai đồng thời với hiện đại hóa và luôn gắn bó với hiện đại hóa để tạo nên một quá trình thống nhất thúc đẩy đất nước phát triển bởi vì, trong thời đại ngày nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã và đang làm thay đổi về chất và công nghệ sản xuất lẫn quy trình sản xuất và trên thế giới đang diễn ra quá trình toàn cầu hóa kinh tế, khoa học, kỹ thuật, văn hóa ngày càng sâu rộng. Trong điều kiện này chúng ta không thể chờ thực hiện xong công nghiệp hóa, sau đó mới triển khai hiện đại hóa, mà nhất thiết và cần thiết phải triển khai đồng thời và đồng bộ hai quá trình này. Chỉ có cách làm như vậy mới có thể đẩy lùi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Thứ hai, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình trang bị và trang bị lại những công cụ, thiết bị, phương tiện hiện đại và áp dụng công nghệ tiên tiến cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là các ngành then chốt để trước hết, làm tăng tỷ trọng của sản xuất công nghiệp và dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân. Thứ ba, trên cơ sở của quá trình nói trên, diễn ra quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội, trước hết là từ cơ cấu kinh tế "nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ" sang cơ cấu kinh tế "công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ". Thứ tư, công nghiệp hóa, hiện đại hóa vừa là quá trình xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, vừa là quá trình kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa học... Nó tác động một cách tổng hợp, đa diện đa cấp đến mọi người, mọi gia đình và mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Thứ năm, công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng chính là quá trình ngày càng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về các mặt kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ, văn hóa... Thứ sáu, hiện nay công nghiệp hóa, hiện đại hóa không phải là mục tiêu tự thân, mà là phương thức để đưa nền kinh tế tiến nâng lên nền sản xuất công nghiệp hiện đại hóa. Phương thức này được thực hiện một cách linh hoạt bằng bước đi tuần tự từ thấp đến cao (thủ công - cơ giới - tự động hóa) kết hợp với việc thanh thủ những điều kiện thời cơ thuận lợi, đi tắt đón đầu rất ngắn thời gian để nhanh chóng tạo ra những ngành kinh tế mũi nhọn. Thứ bảy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay về thực chất, là quá trình sử dụng những công cụ, phương tiện hiện đại cũng như thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến và những kinh nghiệm lịch sử để đổi mới toàn diện, triệt để mọi lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội, đưa đất nước lên trình độ "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" Nói ngắn gọn, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình cải biến xã hội "truyền thống" thành xã hội hiện đại. 3. Vai trò của công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự phát triển kinh tế xã hội. 3.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với quá trình đô thị hóa. Thông qua việc quy hoạch phát triển sản xuất công nghiệp, CNH thúc đẩy quá trình phân bố lại dân ở các vùng tạo điều kiện đô thị hóa đất nước. Thực tế cho thấy quá trình CNH, HĐH đi đôi với quá trình đô thị hóa. CNH với sự mở rộgn sản xuất công nghiệp, theo đó là sự phát triển các ngành dịch vụ. Sự phát triển của các ngành dịch vụ thu hút một lượng lớn lao động ở nông thôn vào thành thị, dẫn đến yêu cầu phải mở rộng các khu vực thành thị vốn đã trở nên chật hẹp so với yêu cầu mới làm cho các vùng nông thôn ven các đô thị lớn dần trở thành các đô thị vệ tinh. Sự mở rộng rãi sản xuất công nghiệp nhiều khi được thực hiện bằng việc xây dựng các khu công nghiệp nhiều khi được thực hiện bằng việc xây dựng các khu vực công nghiệp đầu mối ngay tại các vùng nông thôn, miền núi. Điều này đã thu hút lực lượng lao động tại chỗ cho yêu cầu sản xuất công nghiệp và một bộ phận dân cư khác lại tổ chức các hoạt động dịch vụ đáp ứng yêu cầu mới của khu công nghiệp. Dần dần quá trình đô thị hóa được diễn ra ngay tại vùng này. 3.2. CNH, HĐH thúc đẩy các mối liên kết trong kinh tế. Để thực hiện quá trình sản xuất, ngành này phải sử dụng sản phẩm của ngành khác và ngược lại. Quá trình này tạo ra các mối liên kết xuôi, liên kết ngược giữa các ngành với nhau. Hoạt động sản xuất của công nghiệp chế biến yêu cầu đầu vào từ sản phẩm của công nghiệp khai thác, của công nghiệp và của chính bản thân các ngành công nghiệp chế biến với nhau. Ngượclại, hoạt động sản xuất của nôngnghiệp lại yêu cầu phân bố hóa học, thuốc trừ sâu và các công cụ sản xuất từ công nghiệp. Trong các quá trình trên, để đưa sản phẩm từ nơi này đến nơi khác lại phải có các dịch vụ vận chuyển, thương mại... Công nghiệp hóa đã thúc đẩy các mối liên hết ngày càng phát triển sâu rộng. Đây là cơ sở để tạo ra cơ cấu kinh tế ngày càng năng động cho đất nước. Đặc biệt trong điều kiện Việt Nam hiện nay, khi hoạt động sản xuất ở nhiều ngành công nghiệp chế biến bị ngắt quảng ở nhiều khâu cung ứng nguyên liệu đầu vào, đã làm cho những khâu này bị phụ thuộc nhiều vào thị trường quốc tế, làm cho sản xuất kém hiệu quả. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa chính là biện pháp cơ bản để khắc phục hạn chế này, nhằm thúc đẩy sự phát triển các mối liên kết, đảm bảo sự liên tục cho hoạt động sản xuất. 3.3. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường cơ bản nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Sức cạnh tranh quốc gia, theo cách tiếp cận của "diễn đàn kinh tế thế giới" về đánh giá khả năng cạnh tranh quốc gia đã xếp hạng trên cơ sở 371 chỉ tiêu của 8 nhóm, đó là: - Sức cạnh tranh của nền kinh tế, trên cơ sở đánh giá toàn bộ nền kinh tế vĩ mô. - Mức độ tham gia trong dòng đầu tư và thương mại quốc tế. - Vai trò của Chính phủ trong việc đưa ra các chính sách sáng tạo môi trường cho cạnh tranh. - Nền tài chính quốc gia, hoạt động thị trường tài chính và chất lượng dịch vụ tài chính. - Cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất - kinh doanh. - Trình độ quản lý và khả năng thu được lợi nhuận của các doanh nghiệp. - Trình độ khoa học - công nghệ, cùng với sự thành công trong nghiên cứu cơ bản và ứng dụng. - Chất lượng nguồn nhân lực. Như vậy, khả năng cạnh tranh của quốc gia phụ thuộc vào sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế bao gồm cả hoạt động kinh tế vĩ mô và vi mô: từ các chính sách của Chính phủ đến trình độ quản lý của doanh nghiệp: từ cơ sở hạ tầng của nền kinh tế đến khả năng huy động các yếu tố nguồn lực. Rõ ràng chỉ có công nghiệp hóa, hiện đại hóa mới có thể thúc đẩy sự phát triển tổng lực của nền kinh tế. Thông thường khả năng cạnh tranh được thể hiện rõ nhất ở yếu tố giá cả, nhưng ngày nay điều đó chưa đủ. Do khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, thị trường hóa và công nghệ mới đã làm tăng năng suất lao động và giảm các yếu tố chi phí trực tiếp trong giá trị sản xuất. Những chỉ tiêu như chất lượng sản phẩm, đổi mới sản phẩm đã được tạo ra nhờ yếu tố công nghệ. Do đó năng lực cạnh tranh phụ thuộc rất nhiều vào sự đổi mới công nghệ. Khả năng áp dụng công nghệ mới trong sản xuất. 3.4. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội khác. CNH, HĐH là con đường tất yếu khách quan mà các nước phải trải qua. Thông qua CNH, HĐH mà các quốc gia đã giải quyết được hàng loạt các vấn đề mà sự phát triển kinh tế xã hội đặt ra như: thúc đẩy tăng trưởng, giải quyết việc làm tăng thu nhập người dân, cải thiện được tình trạng bất bình đẳng trong xã hội... Tạo ra sự phát triển bền vững và rút ngắn được giai đoạn phát triển. Tóm lại,CNH,HĐH, đã đặt ra yêu cầu là phải phát triển nguồn nhân lực của mỗi quốc gia .Việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cả về mặt thể lực và trí lực đang trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.Phát triển nguồn nhân lực là một trong những điều kiện tiên quyết với sự thành công của quá trình công nghiệp hoá hiên đại hoá nói riêng và phát triển kinh tế- xã hội bền vững nói chung. II. Vai trò của nguồn nhân lực với sự nghiệp CNH, HĐH. 1. Khái niệm, phân loại, đặc điểm, phát triển nguồn nhân lực. 1.1. Nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực a, NNL: Nguồn nhân lực hiểu theo nghĩa rộng là nguồn lực con người, là một bộ phận của các nguồn lực giống như nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính.... cần được huy đọng quản lý để thực hiện những mục tiêu phát triển đã định. Theo Liên Hiệp Quốc; Nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, là kiến thức và kỹ năng của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng. Như vậy, nguồn nhân lực là nguồn lực về con người, đó là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, là bộ phận quan trọng của dân số, đóng vai trò tạo ra mọi giá trị về của cải vật chất, văn hóa và dịch vụ cho xã hội. Bộ phận nguồn nhân lực gồm những người nằm trong độ tuổi lao động, có khả năng cao không kể đến trạng thái có hay không làm việc được gọi là nguồn nhân lực hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế. Ở Việt Nam theo luật lao động, nguồn nhân lực bao gồm những người trong độ tuổi lao động (nam từ 15 đến 60, nữ từ 15 đến 55) có khả năng lao động. Đây là lực lượng lao động tiềm tàng có thể huy động vào các hoạt động của nền kinh tế - xã hội. Khác với nguồn lực vật chất, con người rất nhạy cảm với những tác động qua lại của mọi mối quan hệ tự nhiên, kinh tế xã hội diễn ra tại môi trường nơi họ sống, làm việc, họ có thể tự quyết định và hành động theo ý mình... Do đó việc quản lý và sử dụng nguồn lực con người rất khó khăn so với quản lý và sử dụng các nguồn lực vật chất khác. Ở đây, nguồn nhân lực là khái niệm chỉ số dân, cơ cấu dân số và nhất là chất lượng con người với tất cả các đặc điểm và sức mạnh của nó trong sự phát triển xã hội. Với cách hiểu như vậy, khái niệm "nguồn nhân lực" có nội dung rộng lớn. b,Phát triển nguồn nhân lực. Phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia hay vùng lãnh thổ là tạo ra sự biến đổi số lượng và chất lượng về mặt thể lực, trí lực, kỹ năng kiến thức, tinh thần của từng người lao động, tạo lập một cơ cấu, đội ngũ nhân lực hợp lý, sử dụng năng lực của từng con người cùng toàn bộ đội ngũ nhân lực vì sự tiến bộ kinh tế, xã hội.... phát triển nguồn nhân lực không chỉ đơn thuần là tăng số lượng lao động mà còn phải tăng chất lượng lao động nghiên cứu về nguồn nhân lực phải xem xét đánh giá cả hai mặt: số lượng và chất lượng. Đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực không chỉ cần thiết mà còn là điều kiện đủ để tạo động lực cho người lao động làm việc có hiệu quả cũng như đảm bảo cho việc giáo dục và đào tạo. Có thể liệt kê một số định nghĩa của một số tổ chức liên Hiệp quốc về phát triển nguồn nhân lực sau đây: - Theo UNESCO: Phát triển nguồn nhân lực là toàn bộ sự lành nghề của dân cư trong mối quan hệ qua lại với sự phát triển của đất nước. - ILO cho rằng phát triển nguồn nhân lực bao hàm một phạm vi rộng hơn chứ không chỉ có sự chiếm lĩnh ngành nghề hoặc ngay cả việc đào tạo nói chung. Quan niệm này dựa trên cơ sở nhận thức cho rằng con người có nhu cầu sử dụng năng lực của mình để tiến tới được việc làm hiệu quả cũng như thoả mãn về nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân. Sự lành nghề được hoàn thiện nhờ bổ sung nâng cao kiến thức trong quá trình sống và làm việc đáp ứng những kỳ vọng của con người. Cũng như vậy, những quan điểm, thái độ phát triển về một cá nhân và xã hội là cần thiết để lồng ghép nguyện vọng cá nhân vào khuôn khổ xã hội hay quốc gia một cách đồng bộ. - UNIDO: Phát triển con người một cách hệ thống vừa là mục tiêu vừa là đối tượng của sự phát triển của một quốc gia. Nó bao gồm mọi khía cạnh kinh tế và khía cạnh xã hội như nâng cao khả năng cá nhân, tăng năng lực sản xuất và khả năng sáng tạo, bồi dưỡng chức năng đào tạo thông qua giáo dục, đào tạo nghiên cứu và hoạt động thực tiễn. - FAO: Nhìn nhận phát triển nguồn nhân lực như một quá trình mở rộng khả năng tham gia hiệu quả vào phát triển bao gồm cả tăng năng lực sản xuất. Qua một số định nghĩa trên có thể thấy rằng phát triển nguồn nhân lực là quá trình nâng cao năng lực của con người về mọi mặt để tham gia một cách hiệu quả vào quá trình phát triển quốc gia. Phát triển nguồn nhân lực chính là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực của con người vì sự tiến bộ kinh tế, xã hội. Phát triển nguồn nhân lực thúc đẩy sự tăng trưởng trong thế giới kỹ thuật cao ngày nay. Khác với đầu tư cho nguồn lực phi con người, đầu tư cho con người tức là sẽ va chạm đến đời sống của cá nhân, gia đình, cộng đồng của họ và đến toàn xã hội nói chung. Trong phạm vi đề tài này sẽ phân tích phát triển NNL dưới góc độ nâng cao năng lực cá nhân ,tăng năng lực sản xuất và khả năng sáng tạo, bồi dưỡng chức năng đào tạo thông qua giáo dục , đào tạo, nghiên cứu và hoạt động thực tiễn, hoạt động y tế chăm sóc sức khoẻ cộng đồng ,tăng cường sự tiếp cận của NNL với sự tiến bộ của khoa học công nghệ, sự tham gia vào các hoạt động của đời sống kinh tế xã hội.Tăng tự do kinh tế , xã hội, chính trị để con người có cơ hội trở thành người lao động sáng tạo, có năng suất, được tôn trọng quyền cá nhân và đản bảo quyền con người 1.2. Đặc điểm của nguồn nhân lực. Lịch sử loài người trước hết là lịch sử lao động sản xuất, vì vậy nguồn nhân lực trước hết cũng được biểu hiện ra là người lao động là lực lượng lao động (số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động), là người lao động (đội ngũ lao động có và sẽ có trong tương lai gồm). Từ khía cạnh này, có thể hiểu rằng khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người trước tiên là tạo việc làm và khai thác hợp lý nguồn lao động. Nguồn nhân lực phản ánh khía cạnh cơ cấu dân cư và cơ cấu lao động trong các ngành, các vùng, cơ cấu lao động đã qua đào tạo trong các lĩnh vực và khu vực kinh tế, cơ cấu trình độ lao động, cơ cấu độ tuổi trong lực lượng lao động, cơ cấu nguồn lao động dự trữ... Cơ cấu dân cư và lao động ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và sức mạnh của nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực phản ánh chủ yếu phương diện chất lượng dân sỗ, đặc biệt là chất lượng của lực lượng lao động hiện tại và trong tương lai gần, thể hiện qua hàng loạt yếu tố. Đó là: sức khoẻ cơ thể và sức khoẻ tâm thần, mức sống tuổi thọ, trình độ giáo dục và đào tạo về văn hóa chuyên môn nghề nghiệp, trình độ học vấn... nghĩa là nói đến nguồn lực con người là phải nói đến sức lao động (thể lực và trí lực) của con người, nói đến chất lượng con người, bao gồm cá thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ. Năng lực và phẩm chất, thái độ và phong cách làm việc... Nói cách khác, đó là toàn bộ những năng lực phẩm chất sinh lý - tâm lý - xã hội của con người tạo nên nhân cách trong mỗi cá nhân. Phát huy nguồn lực con người chính là nuôi dưỡng và khai thác có hiệu quả những năng lực và phẩm chất đó. Nguồn nhân lực còn hàm chứa cả sự liên hệ, tác động qua lại giữa các yếu tố nội dung tại trong nó, sự ảnh hưởng qua lại giữa nguồn lực con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, giữa nguồn lực con người với các nguồn lực khác. Mặt khác, nó cũng nói lên sự biến đổi và xu hướng của sự biến đổi về số lượng, chất lượng, cơ cấu dân cư và lực lượng lao động. Nguồn nhân lực còn chỉ ra rằng con người được xem xét với tư cách là một nguồn lực, nguồn lực nội tại, cơ bản trong hệ thống các nguồn lực của sự phát triển xã hội. Là một nguồn lực cũng như các nguồn lực khác con người tạo ra sức mạnh và tham gia vào quá trình thúc đẩy sự phát triển quốc gia, dân tộc. Song nguồn lực con người khác với các nguồn lực khác ở chỗ, có nó, các nguồn lực khác mới được huy động và có ý nghĩa tích cực với sự phát triển xã hội, vì thế nó là nguồn lực của mọi nguồn lực. Mặt khác, nó không chỉ là chủ thể quyết định sự vận động và phát triển xã hội, mà còn là khách thể của các quá trình kinh tế - xã hội, là đối tượng chính mà sự phát triển xã hội phải hướng vào phục vụ. Như vậy khi nói đến nguồn lực con người là vai trò của nó phải xem xét con người với tư cách là chủ thể vừa với tư cách là khách thể của các quá trình kinh tế - xã hội. Là chủ thể, con người khai thác, sử dụng các nguồn lực khác hiện có, đồng thời qua đó, góp phần tạo ra các nguồn lực mới để duy trì sự tồn tại và phát triển xã hội. Là khách thể, con người trở thành đối tượng được khai thác cả về thể lực và trí lực cho mục tiêu phát triển xã hội. Dĩ nhiên hai tư cách này tồn tại không tách dời nhau, vì lẽ không khai thác các nguồn lực khác, con người tất yếu phải sử dụng trí lực và thể lực của chính mình, chính con người với sức lực và trí lực của mình quyết định mục tiêu cách thức, nội dung và hiệu quả khai thác các nguồn lực khác. Ngược lại, quá trình khai thác trí lực và thể lực ở con người đều có quan hệ với các nguồn lực khác ở các mức độ khác nhau. Với ý nghĩa đó, con người vừa là chủ thể, vừa là khách thể, vừa là động lực, vừa là mục tiêu của các quyết định kinh tế - xã hội, và do vậy, nguồn lực con người giữ vị trí trung tâm không chỉ trong hệ thống các nguồn lực của sự phát triển xã hội mà còn của chính sự phát triển xã hội. 1.4. Phân loại nguồn nhân lực. Theo cách phân loại trong tác phẩm”nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước”, thì nguồn nhân lực được phân thành 3 loại sau: 1.4.1. Nguồn nhân lực có sẵn trong dân cư. Bao gồm toàn bộ những người nằm trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, không kể đến trạng thái có làm việc hay không. Theo thống kê của Liên Hợp quốc, khái niệm này gọi là dân cứ hoạt động, có nghĩa là tất cả những người có khả năng làm việc trong dân cư tính theo độ tuổi lao động quy định. Độ tuổi lao động là giới hạn về những điều kiện cơ thể, tâm lý - sinh lý xã hội mà con người tham gia vào quá trình lao động. Giới hạn độ tuổi lao động được quy định tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, của từng nước và trong từng thời kỳ. Giới hạn độ tuổi lao động bao gồm: Giới hạn dưới: quy định số thanh niên bước vào độ tuổi lao động, ở nước ta hiện nay là 15 tuổi. Giới hạn trên: quy định độ tuổi về hưu, ở nước ta quy định độ tuổi này là 55 tuổi đối với nữ và 60 tuổi đối với nam. Nguồn nhân lực có sẵn trong dân cư chiếm một tỷ lệ tương đối lớn trong dân số thường từ 50% hoặc hơn nữa, tuỳ theo đặc điểm dân số và nhân lực từng nước. Theo tài liệu nghiên cứu gần đây cho thấy, số người trong độ tuổi lao động ở các nước kinh tế chậm phát triển chiếm tỷ lệ (55 - 57%) so với các nước công nghiệp phát triển (64 - 66%), chính vì thế gánh nặng về số người không lao động ở các nước nghèo càng nặng hơn. 1.4.2. Nguồn nhân lực tham gia vào hoạt động kinh tế. Còn được gọi là dân số hoạt động kinh tế. Đây là số người có công ăn việc làm, đang hoạt động trong các ngành kinh tế và văn hóa của xã hội. Như vậy giữa nguồn nhân lực sẵn có trong dân số và nguồn nhân lực tham gia vào hoạt động kinh tế có sự khác nhau. Sự khác nhau này do có một bộ phận những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, nhưng vì nhiều nguyên nhân khác nhau chưa tham gia vào hoạt động kinh tế (thất nghiệp, có việc làm nhưng không muốn làm việc, còn đang học tập, có nguồn thu nhập khác không cần đi làm,...). 1.4.3. Nguồn nhân lực dự trữ. Các nguồn nhân lực dự trữ trong nền kinh tế bao gồm những người trong độ tuổi lao động, nhưng vì các lý do khác nhau, họ chưa có công việc làm ngoài xã hội. Số người này đóng vai trò của một nguồn dự trữ về nhân lực, gồm có: - Những người làm công việc nội trợ trong gia đình: khi điều kiện kinh tế của xã hội thuận lợi, nếu bản thân họ muốn tham gia lao động ngoài xã hội, họ có thể nhanh chóng rời bỏ công việc nội trợ để làm công việc thích hợp ngoài xã hội. - Những người tốt nghiệp ở các trường phổ thông và các trường chuyên nghiệp được coi là nguồn nhân lực dự trữ quan trọng và có chất lượng. Đây là nguồn nhân lực ở độ tuổi thanh niên, có học vấn có trình độ chuyên môn (nếu được đào tạo tại các trường dạy nghề và các trường trung cấp, cao đẳng, đại học). Tuy nhiên, khi nghiên cứu nguồn nhân lực này cần phải chia tỉ mỉ hơn: + Nguồn lực đã đến tuổi lao động, tốt nghiệp trung học phổ thông, không tiếp tục học nữa, muốn tìm công việc làm. + Nguồn lực đã đến tuổi lao động, chưa học hết trung học phổ thông, không tiếp tục học nữa, muốn tìm việc làm. + Nguồn nhân lực ở độ tuổi lao động đã tốt nghiệp ở các trường chuyên nghiệp (trung cấp, cao đẳng, đại học) thuộc các chuyên môn khác nhau tìm việc làm. - Những người đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự cũng thuộc nguồn nhân lực dự trữ có khả năng tham gia vào hoạt động kinh tế. Số người thuộc nguồn nhân lực dự trữ này cũng cần phân loại để biết rõ có nghề hay không có nghề, trình độ văn hóa, sức khoẻ,..., từ đó tạo công việc làm thích hợp. Những người trong độ tuổi lao động đang bị thất nghiệp (có nghề hoặc không có nghề) muốn tìm việc làm, cũng là nguồn nhân lực dự trữ, sẵn lòng tham gia vào hoạt động kinh tế. 2.Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá . Theo quan niệm hiện nay, con người vừa là trung tâm của sự phát triển đồng thời cũng là trung tâm của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá.Vai trò trung tâm đó thể hiện ở chỗ họ vừa là người thực hiện quá trình CNH-HĐH, vừa là đối tượng hưởng thụ những thành quả của quá trìng này.Vì thế phát triển NNL vừa thúc đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH theo hướng hợp lý,vừa nâng cao chất lượng thụ hưởng của quá trìng đó. 2.1.Con người chủ thể thực hiện quá trình CNH, HĐH. CNH,HĐH là một quá trình kinh tế xã hội, chứ không phải là một quá trìng tự nhiên.Qúa trình này diễn ra chỉ khi có sự thực hiện của mỗi cá thể con người nói riêng và của toàn thể nhân loại nói chung. Đây là một quá trình vận động diễn ra trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế xã hội, nó làm cải biến các mặt của đời sống kih tế xã hội theo hướng tiến bộ hơn, đồng thời qua đó cũng tác động vào giới tự nhiên qua việc khai thác các nguồn lực tự nhiên .Chính con người với sức lực và trí tuệ của mình mới là nhân tố quyết định hiệu quả của việc khai thác nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác.Con người với những hiểu biết của mình đã biến những tri thức khai phá từ tự nhiên thành các lý thuyết khoa học và kết hợp với sự khéo léo của mình đã tạo ra những công nghệ để phục vụ cho quá trình khai thác và chinh phục tự nhiên. Đồng thời con người cũng tác động qua lại lẫn nhau , và chịu sự tri phối của các điều luật thể chế chính trị.Chỉ có con người mới có thể cải biến được các mối quan hệ này để tạo ra sự phát triển bình đẳng và sự tăng trưởng bền vững về kinh tế và phát triển ổn định về măt xã hội, sự bền vững về môi trường.Con người là chủ thể của quá trình công nghiêp hoá hiện đại hoá , cho nên muốn quá trình nay diễn ra theo hướng tốt đẹp thì đòi hỏi bản thân mỗi cá nhân tham gia vào quá trình này phải có nhũng phẩm chất tốt đẹp .Con người không chỉ có thể lực khoẻ mạnh mà cần phải có một tri thức rộng lớn ,sự hiểu biết, có tay nghề thành thạo , được đào tạo bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiến gắn liền với một nền khoa học công nghệ hiện đại .Do tầm quan trọng của tri thức như vậy , ngày nay ở hầu hết các quốc gia trên thế giơí đều tìm cách nâng cao hàm lượng trí tuệ trong đội ngũ những người lao động . Để làm được việc này thì các biện pháp giáo dục và đào tạo đóng vai trò hết sức quan trọng .Kinh nghiệm lịch sử chỉ ra rằng không một quốc gia nào ,một dân tộc nào trên thế giới có thể trở nên giàu có và có tỷ lệ tăng trưởng cao trước khi đạt được giáo dục phổ thông .Các nước cnh mới như Singapo,Hàn Quốc cũng như một số nước và vùng lãnh thổ khác có tốc độ tăng trưởng nhanh trong những thập kỷ 70,80 đều đạt được mức phổ cập giáo dục tiểu học trước khi nền kinh tế đó cất cánh .Như vậy có thể nói việc phát triển nguồn nhân lực chính là góp phần vào thúc đẩy quá trình CNH,HĐH diễn ra nhanh hơn và đúng hướng hơn. 2.2.Con ngườ._.i là đối tường hưởng thụ những thành quả từ quá trình này. Mục đích khi xác định mô hình công nghiệp hoá,hiện đại hoá của mỗi quốc gia là tạo ra một nền kinh tế phát triển cao , một xã hội văn minh hiện đại , sự bình đẳng của các cá nhân trong hưởng thụ những thành quả mà quá trình này đem lại.Như vậy khi quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá diễn ra thì mọi người đều có quyền hưởng thụ những thành quả mà nó đem lại nhưng phải theo mức độ đóng góp của mỗi cá nhân vào quá trình đó. Để tạo được sự bình đẳng trong hưởng thụ thì cần phải tạo ra sự bình đẳng trong quá trình tham gia .Chính là khẩu hiệu :”làm theo năng lực và hưởng theo mức độ đóng góp”mà chúng ta vẫn đang thực hiện .Như vậy muốn mọi cá nhân có sự hưởng thụ ngày càng cao về vật chất và tinh thần thì việc cần thiết là phải nâng cao các năng lực cho họ , đó chính là quá trình trang bị cho họ những tri thức về mọi mặt của đời sống xã hội và việc này dược thực hiện thông qua hoạt động phát triển con người của mỗi quốc gia .Như vậy phát triẻn nguồn nhân lực đã gián tiếp nâng cao chất lượng thụ hưởng những thành quả của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đem lại . Tóm lại phát triển nguồn nhân lực vừa thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa diễn ra theo hướng hợp lý hơn lại vừa nâng cao chất lượng thụ hưởng những thành quả mà quá trình này đem lại .Vì vậy mà hoạt động phát triển nguồn nhân lực đang trở thành một vấn đề vô cùng cấp thiết và được tiến hành song song với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá .Hai hoạt động này có mối quan hệ biện chứng với nhau chúng bổ sung hỗ trợ nhau . III. Chất lượng nguồn nhân lực và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực. 1. Các tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực. 1.1. Chỉ tiêu phản ánh tình trạng sức khoẻ của dân cư. Sức khoẻ là trạng thái thoải mái về thể chất tinh thần và xã hội chứ không phải đơn thuần là không có bệnh tật. Sức khoẻ là tổng hòa nhiều yếu tố tạo nên giữa bên trong và bên ngoài, giữa thể chất và tinh thần có nhiều chỉ tiêu biểu hiện trạng thái về sức khoẻ. Bộ Y tế nước ta quy định có 3 loại: A: Thể lực tốt, loại không có bệnh tật gì. B: Trung bình. C: Yếu, không có khả năng lao động. Gần đây Bộ Y tế kết hợp với Bộ Quốc phòng căn cứ vào 8 chỉ tiêu để đánh giá. - Chỉ tiêu thể lực chung: chiều cao, cân nặng, vòng ngực. - Mắt. - Tai, mũi, họng. - Răng hàm mặt. - Nội khoa. - Ngoại khoa. - Thần kinh tâm thần. - Da liễu. Căn cứ chỉ tiêu trên để chia thành 6 loại: rất tốt, tốt, khá, trung bình, kém và rất kém. Bên cạnh việc đánh giá trạng thái sức khoẻ của người lao động người ta cần nêu ra các tiêu chí trên đánh giá sức khoẻ của quốc gia thông qua: - Tỷ lệ sinh thô, chết thô, tỷ lệ tăng tự nhiên. - Tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 1 tuổi và dưới 5 tuổi. - Tỷ lệ dừng mức sinh. Tuổi thọ trung bình. Cơ cấu giới tính, tuổi tác,... 1.2. Chỉ tiêu biểu hiện trình độ văn hóa của người lao động. Trình độ văn hóa của người lao động là sự hiểu biết của người lao động đối với những kiến thức phổ thông về tự nhiên. Trong chừng mực nhất định, trình độ văn hóa của dân số biểu hiện mặt bằng dân trí của quốc gia đó. Trình độ văn hóa được biểu hiệu thông quan hệ tỷ lệ như: - Số lượng người biết chữ và chưa biết chữ và chưa biết chữ. - Số người có trình độ tiểu học. - Số người có trình độ phổ thông cơ sở (cấp II). - Số người có trình độ phổ thông trung học (cấp III). - Số người có trình độ đại học và trên đại học, ... Trình độ văn hóa của dân số hay của nguồn nhân lực là một chỉ tiêu hết sức quan trọng phản ánh chất lượng của nguồn nhân lực và có tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển kinh tế xã hội. Trình độ văn hóa cao tạo khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn. 1.3. Chỉ tiêu phản ánh trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động. Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết, khả năng thực hành về chuyên môn vào đó, nó biểu hiện trìnhđộ được đào tạo ở các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và sau đại học, có khả năng chỉ đạo quản lý một công việc thuộc một chuyên môn nhất định. Do đó trình độ chuyên môn của nguồn nhân lực được đo bằng: - Tỷ lệ cán bộ trung cấp. - Tỷ lệ cán bộ cao đẳng, đại học. - Tỷ lệ cán bộ trên đại học... Trong mỗi chuyên môn có thể phân chia thành những chuyên môn nhỏ hơn như đại học bao gồm kỹ thuật, kinh tế, ngoại ngữ..., thậm chí trong từng chuyên môn lại chia thành những chuyên môn nhỏ hơn nữa. Trình độ kỹ thuật của người lao động được dùng để chỉ trình độ của người được đào tạo ở các trường kỹ thuật, được trang bị kiến thức nhất định, những kỹ năng thực hành về công việc nhất định. Trình độ kỹ thuật được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu: - Số lao động được đào tạo và lao động phổ thông. - Số người có bằng kỹ thuật và không có bằng. - Trình độ tay nghề theo bậc thợ. Trình độ chuyên môn và kỹ thuật thường được kết hợp chặt chẽ với nhau, thông qua chỉ tiêu số lượng lao động được đào tạo và không được đào tạo trong từng tập thể nguồn nhân lực. 1.4. Chất lượng nguồn nhân lực còn được thể hiện thông qua chỉ số phát triển con người (HDI - Human Development Index). Chỉ số này được tính bằng 3 chỉ tiêu chủ yếu: - GDP bình quân đầu người (Iw) biểu hiện phương tiện để nâng cao mức sống. - Trình độ dân trí (IE) gồm tỷ lệ người biết chữ, số năm đến trường bình quân. - Tuổi thọ bình quân (IA) biểu thị trực tiếp chất lượng cuộc sống con người. Như vậy ,HDI là thước đo tổng hợp so với các chỉ tiêu khác .Thu nhập và thu nhập bình quân đầu người chỉ là phương tiện để có được sự phát triển con người , còn các chỉ tiêu khác phản ánh nhu cầu cơ bản của con người chỉ phản ánh từng mặt cụ thể .Do vậy năm 1990 , báo cáo phát triển con người đã sử dụng chỉ tiêu này để thực hiện việc xếp hạng các nước theo trình độ phát triển con người.Chỉ số HDI nhận các giá trị biến thiên từ 0 tới 1 .Trong thực tế giá trị HDI của một nước chỉ ra khoảng cách giữa mức độ tiến bộ trong phát triển con người đã đat được với giá trị cao nhất có thể là 1 .Thách thức đặt ra đối với mỗi nước là phảỉ tìm cách rút ngắn khoảng cách đó ,khi HDI của một nước càng gần tới 1 thì trình độ phát triển con người của nước đó càng cao.Thứ hạng của các nước theo chỉ số HDI có thể khác thứ hạng theo chỉ số GDP thực tế bình quân đầu người.Những nước có thứ hạng GDP trừ đi thứ hạng theo chỉ số HDI là dương phản ánh nước đó đã chú trọng sử dụng thành quả của tăng trưởng kinh tế để cải thiện đời sống , nâng cao phúc lợi cho người dân của nước mình 1.5. Ngoài những chỉ tiêu có thể lượng hóa được như trên người ta còn xem xét chỉ tiêu năng lực phẩm chất của người lao động. Chỉ tiêu này phản ánh mặt định tính mà khó có thể định lượng được. Nội dung của chỉ tiêu này được xem xét thông qua các mặt: - Truyền thống dân tộc bảo vệ tổ quốc. - Truyền thống về văn hóa văn minh dân tộc. - Phong tục tập quán đời sống... Nhìn chung chỉ tiêu này nhấn mạnh đến ý chí, năng lực tinh thần của người lao động. 2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Chất lượng của lao động được đánh giá qua trình độ học vấn, chuyên môn và kỹ năng của lao động cũng như sức khoẻ của họ. Điều này lại phụ thuộc vào hoạt động giáo dục đào tạo và các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe. 2.1. Giáo dục và việc cải thiện chất lượng nguồn nhân lực. Giáo dục theo nghĩa rộng là tất cả các dạng học tập của con người nhằm nâng cao biểu thức và kỹ năng của con người trong suốt cả cuộc đời. Giáo dục phổ thông (giáo dục cơ bản) nhằm cung cấp những biểu thức cơ bản để phát triển năng lực cá nhân. Giáo dục nghề và giáo dục đại học (đào tạo) vừa giúp người học có kiến thức đồng thời còn giúp cung cấp tay nghề, kỹ năng và chuyên môn. Với mỗi trình độ đào tạo nhất định, người được đào tạo biết được họ sẽ phải đảm nhận những công việc gì? Yêu cầu kỹ năng cũng như chuyên môn nghề nghiệp phải như thế nào? Vai trò của giáo dục đối với việc nâng cao chất lượng lao động được phân tích qua các nội dung sau. Thứ nhất, giáo dục là cách thức để tăng tích luỹ vốn con người đặc biệt là tri thức và sẽ giúp cho việc sáng tạo ra công nghệ mới, tiếp thu công nghệ mới do đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dài hạn. Thứ hai, Giáo dục tạo ra một lực lượng lao động có trình độ, có kỹ năng làm việc với năng suất cao ,là cơ sở thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững. Vai trò của giáo dục thường được các nhà kinh tế đánh giá bằng chỉ tiêu "tổng suất lợi nhuận cho giáo dục". Về lý thuyết, tỷ suất lợi nhuận từ đầu tư do giáo dục cũng giống lợi nhuận từ đầu tư ở một mức độ giáo dục nhất định với tổng các chi phí. So sánh chỉ số này giữa các cấp giáo dục có thể giúp cho việc đánh giá lợi ích kinh tế của đầu tư giáo dục ở các cấp học nào có hiệu quả hơn. Kết quả nghiên cứu của các nước cho thấy tỷ suất lợi nhuận đầu tư vào cấp tiểu học là cao hơn các cấp học khác. Chẳng hạn, tỷ suất lợi nhuận chung của thế giới (đầu thập niên 90) ở cấp tiểu học là 18,4% trung học là 13,1%, đại học là 10,9%. Các số liệu tương ứng của Việt Nam là 10,8%, 3,8%, 3,0%. Như vậy có thể thấy rằng giáo dục tiểu học và giáo dục cơ bản là có hiệu quả hơn, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Do vậy chính sách giáo dục của các nước đang phát triển cũng tập trung nhiều và ưu tiên nhiều hơn cho giáo dục tiểu học. Thứ ba, giáo dục cho việc cung cấp kiến thức và những thông tin để người dân đặc biệt là phụ nữ có thể sử dụng những công nghệ nhằm tăng cường sức khoẻ, dinh dưỡng. Chẳng hạn tỷ lệ tử vong trẻ em giảm xuống, tỷ lệ dinh dưỡng trẻ em tăng lên cùng với học vấn của cha mẹ, đặc biệt là người mẹ vì biết sinh hoạt vệ sinh hơn hay biết cách sử dụng những thức ăn giàu dinh dưỡng hơn... Với ý nghĩa trên giáo dục còn giúp bổ sung cho các dịch vụ y tế (giảm nhu cầu về những dịch vụ y tế). 2.2. Dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ và cải thiện chất lượng lao động. Sức khoẻ có tác động tới chất lượng lao động cả hiện tại và tương lai. Người lao động có sức khoẻ tốt có thể mang lại những lợi ích trực tiếp hoặc gián tiếp bằng việc nâng cao sức bền bỉ dẻo dai và khả năng tập trung cao trong khi làm việc. Sức khoẻ của người lao động thông thường, được đánh giá ở thể (chiều cao, cân nặng). Điều này lại phụ thuộc vào chế độ dinh dưỡng và chăm sóc sức khoẻ. Đối với người đang làm việc, thể lực và tuổi thọ của họ một mặt phụ thuộc vào yếu tố dinh dưỡng song mặt sang mặt khác còn phụ thuộc vào dịch vụ chăm sóc sức khoẻ thường xuyên (đặc biệt đối với những ngành nghề độc hại) và chính sách bảo hiểm y tế với người lao động. Trên thực tế hầu hết các nước còn quan tâm đến chất lượng nguồn lao động trong tương lai. Thể hiện ở việc nuôi dưỡng và chăm sóc sức khoẻ tốt cho trẻ em. Đây là cách thức để giúp cho thế hệ trẻ phát triển tốt thể lực, lành mạnh về tinh thần và do đó cũng giúp trẻ có đủ năng lực, để nhanh chóng tiếp thu kiến thức kỹ năng qua giáo dục ở nhà trường. Như vậy có thể nói hoạt động giáo dục và hoạt động y tế, chăm sóc sức khoẻ có tác động hỗ trợ nhau, bổ sung trong cải thiện chất lượng nguồn nhân lực. 2.3. Tác phong công nghiệp, tính kỷ luật của người lao động và chất lượng lao động. Bên cạnh hai yếu tố có ảnh hưởng đến chất lượng lao động là trình độ, kỹ năng và sức khoẻ của người lao động như đã nói trên thì ngày nay, các nhà quản lý cho rằng chất lượng lao động, hiệu quả công việc còn liên quan đến tác phong, tinh thần thái độ và tính kỷ luật của người lao động. Trong khu vực thành thị (khu vực hiện đại) điều kiện làm việc ngày càng có xu hướng hiện đại hóa. Trong hoạt động kinh tế, sự phối hợp trong công việc giữa các cá nhân trong cùng một tổ chức và giữa các tổ chức với nhau có xu hướng gia tăng và đặt ra yêu cầu cao (tính nhịp nhàng, tính hiệu quả...). Điều này đòi hỏi người lao động phải có tác phong công nghiệp; tinh thần tự chủ sáng tạo; thái độ hợp tác và tính kỹ luật chặt chẽ. 2.4. Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực. Ngoài ra, chất lượng nguồn nhân lực còn chịu ảnh hưởng vào những chủ trương, chính sách phát triển và sử dụng nguồn nhân lực của mỗi quốc gia như: chính sách dân số, chính sách việc làm,... Ngày nay do yêu cầu của quá trình CNH, HĐH và xu hướng hội nhập quốc tế đòi hỏi mỗi quốc gia đều phải có những chiến lược phát triển nguồn nhân lực một cách hợp lý, nhằm đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển bền vững. 2.5.Các yếu tố về thị trường lao động. Nguồn lao động sau khi đã được đào tạo để hình thành nên các kỹ năng kỹ xảo , thì cần phải được xã hội tạo điều kiện cho họ có các cơ họi đế sử dụng các năng lực đã được tích luỹ cho các hoạt động kinh tế xã hội ,chính trị ,… đây cũng chính là việc thực hiện một chính sách công bằng đối với mọi cá nhân tạo ra sự tăng trưởng và phát triẻn bền vững . Để thực hiện được điều đó thì các quốc gia cần có chính sách tạo cơ hội tìm kiếm việc làm , chế độ tuyển dụng và tạo môi trường phát huy tính chủ động sáng tạo của mỗi người, các qui chế dân chủ ,trong đó cơ quan đại diện ch người lao động là công đoàn cân phải phát huy được vai trò của mình là người bảo vệ và đại diện cho quyền lợi của người lao động trước pháp luật. 2.6.Các chính sách về kế hoạch hoá gia đình tăng,cường chất lượng sinh sản Chất lượng nguồn nhân lực của mỗi quốc gia cũng phụ thuộc nhiều vào các chính sách về kế hoạch hoá gia đình , tăng cường chất lượng sinh sản mà cụ thể la sức khoẻ của bà mẹ trẻ em . Các chương trình khám chữa bệnh cho người nghèo, những người yếu thế trong xã hội ,các chương trình tuyên truyền về các tệ nạn xã hội như :ma tuý , mại dâm…đều có những tác động rất tích cực tới việc nâng cao sức khoẻ của cộng đồng , qua đó sẽ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong tương lai. IV. Kinh nghiệm quốc tế trong phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 1. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực của Thuỵ Điển. Hệ thống các chính sách phát triển nguồn nhân lực ở Thuỵ Điển đa dạng và vì quyền lợi của con người. Chính sách phát triển nguồn nhân lực là một bộ phận cấu thàh không thể thiếu trong chính sách phát triển kinh tế của Chính phủ. 1.1. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng. Các chính sách đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội được thực hiện thông qua các chương trình chủ yếu sau: Chương trình trợ cấp tuyển dụng lao động cá thể: Là chương trình được được vào áp dụng từ tháng 1/1998, thay cho chương trình lao động công ích trước đây là nhằm mục tiêu giúp từ người thay thế cho các công nhânh ngừng làm việc để đi học tập, bồi dưỡng. Mục tiêu của chương trình là giúp cho những người thất nghiệp lâu, có đăng ký tại cơ quan dịch vụ nhân dụng, có thể tìm việc làm dễ dàng hơn. Tiền trợ cấp được thực hiện dưới dạng trợ cấp lương và được trả thẳng cho các chủ sử dụng lao động có thuê người thất nghiệp. Mục tiêu là khuyến khích các chủ sử dụng lao động này đẩy nhanh quy trình tuyển dụng và thuê những người thất nghiệp vào thay thế cho các công nhân có cơ hội đi học tập và đào tạo mà vẫn được trả lương. Quy mô của mỗi khoản trợcấp tuyển dụng cá nhân này tối đa khoảng 50% tổng chính sách phí lương, nhưng không được quá mức 359kron/ngày. Chương trình học việc tại chỗ: Đây là chương trình mới được đưa vào áp dụng từ tháng 1/1999, thay thế cho chương trình học bổng học việc trước đây. Người thất nghiệp nếu thấy cần có một thời gian đào tạo tại nơi làm việc có thể tham gia vào chương trình ở mức tối đa là 6 tháng. Trong thời gian đó, họ được nhận trợ cấp ở mức tương đương với mức bồi hoàn thất nghiệp. Có nhiều trường hợp, chỉ sử dụng lao động trả khoản tiền trợ cấp này cho công nhân của mình đi đào tạo, số tiền đó được nhập vào kinh phí của chương trình để trang trải các chính sách phí đào tạo Chương trình đào tạo nhân dụng: nội dung cơ bản của chương trình là đào tạo người lao động để có các nghề mà thị trường lao động đang thiếu hiện nay, hay các nghề đang cần cho việc phát triển kinh tế tương lai gần. Trong thời gian kinh tế suy thoái, người lao động có thể tận dụng cơ hội không có việc làm đi học đi đào tạo nghề nghiệp mới mà thị trường nhất định sẽ cần khi nền kinh tế phục hồi trở lại. Bên cạnh đó, để giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới, chương trình này còn giúp cho người lao động có khả năng lựa chọn nghề nghiệp một cách rộng rãi hơn bất kể đó là lao động nam hay nữ. Những người tham gia vào chương trình này được nhận khoản trợ cấp ngang bằng với trợ cấp thất nghiệp mà họ có thể được hưởng nhưng không ít hơn 240kron/ngày đối với các khóa đào tạo toàn dụng thời gian. Những người khác có thể được nhận mức trợ cấp 103kron/ngày. Chương trình phát triển các viện nghiên cứu về nhân dụng: Các viện nghiên cứu về nhân dụng và các cơ quan dịch vụ nhân dụng được trao nhiệm vụ phối hợp tìm giải pháp cho những người lao động không nghề nghiệp, hoặc có những nghề không phù hợp với nhu cầu của thị trường. Các viện nghiên cứu có đội ngũ cán bộ chuyên môn và các nguồn lực khác để thực hiện việc đánh giá năng lực làm việc, tính định hướng công việc khả năng thích nghi với chỗ làm việc, ... của người lao động. Một số viện nghiên cứu nhân dụng có kinh nghiệm và chuyên môn tốt trong việc giúp đỡ những người tàn tật hoà nhập vào thị trường lao động. Những người tham gia vào các chương trình của các viện này được hưởng khoản trợ cấp đào tạo ngang bằng với trợ cấp thất nghiệp. 1.2. Chính sách thị trường lao động chủ động. Thuỵ Điển là nước có hệ thống các chính sách thị trường lao động chủ động được đánh giá cao ngay từ thời kỳ sau chiến tranh thế giới thứ II. Trong đó, nguyên tắc huy động tinh thần tích cực cá nhân được coi là nền tảng cho chính sách này được thể hiện ở các chương trình đào tạo nhiều chỗ làm việc, đào tạo và chính sách trợ cấp. Cơ sở để thực hiện nhiệm vụ này là nguyên tắc huy động tinh thần tự thân vận động và nâng cao kỹ năng cho người lao động. Nói một cách cụ thể là tạo điều kiện cho người lao động, nhất là những người lao động thất nghiệp, có thể tìm được việc làm mới như: đào tạo hoặc đào tạo lại, giao cho các công việc làm tạm thời hoặc tạo điều kiện cho họ "vừa học vừa làm"... chỉ khi nào không thể tìm được các cơ hội tương tự, mới tìm đến các biện pháp hỗ trợ xã hội. 2. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực của Nhật Bản. Trong số các nước công nghiệp phát triển hiện nay, Nhật Bản là nước có mức năng suất lao động cao xét cả từ khía cạnh các con số tính toán tuyệt đối lẫn từ phía so sánh với tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Trong số những yếu tố quan trọng nhất là nêu thành tựu này, người ta thường nhấn mạnh tỷ lệ toàn dụng lao động cao, kể cả so với các nước phát triển ở Châu Âu. 2.1. Đào tạo phát triển nguồn nhân lực. Thông thường hoạt động đào tạo được phân chia thành hai loại: đào tạo tại chỗ và đào tạo bên ngoài xí nghiệp. Cũng như ở các nước công nghiệp phát triển khác ở Nhật Bản, dạng đào tạo tại chỗ (vừa học vừa làm) giữ vai trò quan trọng nhất trong các phương pháp đào tạo. Loại hình đào tạo này được đặc biệt coi trọng là vì: thứ nhất, đây là dạng đào tạo ít tốn kém nhất, người lao động học hỏi ngay trong quá trình làm việc của họ; thứ hai, hoạt động đào tạo tại chỗ có tính linh hoạt cao, cho phép có những điều chỉnh để đáp ứng nhu cầu, đặc điểm và năng lực của từng cá nhân. Hơn nữa, đào tạo tại chỗ cho phép tập trung sự chú ý trực tiếp vào việc phát triển các tri thức và kỹ năng cần biết ngay trong công việc thường nhật của đối tượng được đào tạo. Giáo dục và đào tạo là vấn đề được Nhà nước Nhật Bản đặc biệt quan tâm. Điều này thể hiện qua tỷ lệ chi phí cho giáo dục trong tổng chỉ tiêu của Chính phủ. Ngoài việc dành các khoản chi phí lớn cho giáo dục và đào tạo, ngay sau chiến tranh, Nhật Bản đã tiến hành dân chủ hoá hệ thống giáo dục. Bên cạnh việc tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người trong việc thụ hưởng các dịch vụ giáo dục, Chính phủ Nhật Bản còn hướng nhiều nỗ lực vào việc tạo lập một hệ thống giáo dục mới. Nhật Bản đã mở rộng chế độ giáo dục phổ cập không mất tiền từ 6 năm trở thành 9 năm trong hệ thống giáo dục 12 năm. Các trường học phổ thông cũng được tổ chức lại cùng với hệ thống giáo dục đại học. Đặc biệt ở Nhật các trường đại học kỹ thuật hệ 1 năm và 2 năm đào tạo các kỹ sư thực hành rất được chú ý phát triển. Giáo dục phổ cập được ưu tiên bằng việc miễn phí và mở rộng mạng lưới các trường lớp trong phạm vi toàn quốc, kể cả ở nơi có rất ít học sinh. Mục tiêu quan trọng nhất của chương trình giáo dục phổ cập là đảm bảo trình độ phổ thông cho học sinh cả nước. Vào thời kỳ sau chiến tranh, để có thể tiếp thu được công nghệ tiên tiến của phương Tây và đưa công nghệ mới vào phục vụ cho mục tiêu phát triển nhanh nền kinh tế đất nước, Nhật Bản đã sử dụng nhiều chính sách, biện pháp khuyến khích khác nhau. Một trong các chính sách rất đáng chú ý là chính sách "du học tại chỗ". Thực hiện chính sách này, người Nhật đã liên kết với các trường đại học của Mỹ với các nước tiên tiến phương Tây khác mở chi nhánh đại học tại Nhật, mời giáo viên, sử dụng các chương trình, nội dung giảng dạy của các nước đó. Kết hợp với điều kiện Nhật Bản. Phương thức này một mặt cho phép các sinh viên Nhật tiếp cận được các tri thức khoa học kỹ thuật tiên tiến, mặt khác đảm bảo cho họ không bị thoát ly khỏi thực tế phát triển của đất nước mình. 2.2. Chế độ sử dụng lao động thích hợp. Một đặc điểm nổi bật của thị trường lao động Nhật Bản là tỷ lệ thất nghiệp hoặc thiếu việc làm trong số các lao động trẻ tương đối thấp. Tại Nhật Bản rất phổ biến việc người lao động đi làm đôi trong một công ty. Điều này có được là nhờ cách bố trí công việc theo kiểu luân phiên cùng bù giú đạt được mục tiêu: tạo ra một phạm vi rộng các kỹ năng cho cá nhân người lao động, đồng thời cho phép các công ty chủ động linh hoạt trong việc đáp ứng các nhu cầu luôn thay đổi về thành phần tay nghề của lao động: giúp hình thành một đội ngũ lao động đa ngành, cùng một lúc có thể thực hiện được nhiều công đoạn khác nhau trong quá trình sản xuất. ở Nhật Bản còn có một loại hình luân chuyển lao động rất đặc trưng nữa là việc trao đổi lao động giữa các công ty có quan hệ làm ăn lâu dài với nhau trên cơ sở các thoả thuận song phương. Cách luân chuyển này được gọi theo tiếng Nhật là Suykko. Về thực chất đây là một dạng biến thiên của thị trường lao động, nơi các công ty đang thừa nhân lực nhượng lại số lao động dư dôi cho các hãng đang cần người làm các công việc còn trống chỗ. Khác với các nước phương tây, ở Nhật Bản công đoàn không phải là những tổ chức theo ngành dọc, trên phạm vi toàn quốc, mà là các tổ chức phát triển cộng đồng ủa người lao động trong phạm vi từng xí nghiệp. Tuy nhiên, đặc điểm khác biệt nhất ở đây là các công đoàn ở Nhật Bản là người đại diện của giới thợ, các tổ chức này luôn duy trì được các mối quan hệ mang tính hợp tác với giới chủ và các nhà quản lý. Việc khuyến khích và tạo động cơ để người lao động làm việc chăm chỉ và có hiệu quả là vấn đề được quan tâm hàng đầu ở Nhật Bản, bên cạnh việc sử dụng các công cụ khuyến khích kinh tế như tăng tiền công và tiền thưởng, họ còn rất thành công trong việc sử dụng các hệ thống phân bổ, đề bạt lao động. 3. Kinh nghiệm của nước có nền kinh tế chuyển đổi. Các cải cách trong thời gian hơn một thập kỷ qua về kinh tế chính trị và xã hội tại các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa cũ đòi hỏi phải có những thay đổi căn bản. Trong đó có vấn đề phát triển nguồn nhân lực. 3.1. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay nghề. Tại nhiều nước Đông Âu có nền kinh tế chuyển đổi, chính sách đào tạo lại tay nghề đã được sử dụng như một trong những chính sách tích cực nhất đối với việc phát triển nguồn nhân lực. Hoạt động đào tạo bao gồm cả bồi dưỡng, nâng cao tay nghề và đào tạo các ngành nghề mới. Tại các nước kinh tế thị trường truyền thống hoạt động đào tạo được sử dụng để nâng cao tay nghề tăng khả năng di chuyển chỗ làm việc cho công nhân và ngăn ngừa thất nghiệp cho cơ cấu. Còn tại các nước đang chuyển đổi, đào tạo được sử dụng như một biện pháp đối ứng với nhu cầu tức thời của thị trường lao động do có sự thay đổi trong nhu cầu các ngành nghề mới, do hàng loạt công nhân tại các nhà máy xí nghiệp sẽ không thể tìm kiếm được việc làm trong điều kiện mới nếu không được đào tạo lại. 3.2. Chính sách tạo việc làm. Tại các nước đang chuyển đổi ở Đông Âu, các biện pháp tạo công ăn việc làm, nhất là các công việc tạm thời, thường được sử dụng giảm nhẹ ảnh hưởng của nạn mất việc làm hàng loạt khi cơ cấu lại sản xuất. Mục tiêu chính của chính sách tạo việc làm là ngăn chặn thất thoát nguồn vốn con người và phòng ngừa những tác động xấu về mặt xã hội đối với một bộ phận lớn dân cư. Việc làm có thể được tạo ra không khí trong khu vực Nhà nước mà còn ở các khu vực kinh tế tư nhân. Các công cụ thường được sử dụng trong khi thực hiện chính sách tạo công ăn việc làm thường là: trợ cấp cho các doanh nghiệp, thực hiện các chương trình việc làm của Nhà nước, hoặc giúp đỡ những người có thể thành lập các doanh nghiệp mới. 4. Một số kinh nghiệm có thể áp dụng cho Việt Nam. 4.1. Xây dựng khung thể chế hữu hiệu. Phát triển nguồn nhân lực là vấn đề quyết định đối với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của mọi quốc gia. Và vì vậy thường được ưu tiên đầu tư và tiến hành trước. Để làm được như vậy, các nước đều xác định rõ các mục tiêu cụ thể và theo đó là các chính sách, chương trình thích hợp, cho dù mức độ các chính sách và chương trình khác nhau, nhưng về cơ cấu các chương trình này đều nhằm phát huy cao độ sự nỗ lực của cá nhân con người trong toàn bộ quá trình lao động, đào tạo. Các chính sách được xác định trên cơ sở nguyên tắc thị trường với các hình thức thích ứng với tính đa dạng của các loại hình doanh nghiệp tổ chức đào tạo trong khung luật pháp, thể chế hữu hiệu. - Coi trọng giáo dục phổ thông theo giác độ chính trị các kiến thức cơ sở để học sinh có thể bước vào một nghề nghiệp nếu không có đủ trình độ, điều kiện hoặc không muốn học tiếp lên đại học. Đồng thời chú trọng giáo dục đồng bộ "đức, trí, thể, năng" để học sinh có thể trở thành những người lao động có kiến thức, kỹ năng, sức khoẻ, đạo đức tốt trong tương lai. - Coi trọng dạy nghề theo giác độ mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng các cơ sở dạy nghề để có thể thu hút được các học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học. - Nâng cao chất lượng giáo dục đại học để có thể cung cấp cho đất nước những cán bộ quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh thực sự có trình độ và kỹ năng tương xứng với bằng cấp. 4.2. Chú trọng áp dụng các loại hình chính sách thị trường lao động chủ động. Kinh nghiệm của các nước cho thấy rằng có rất nhiều loại hình chính sách thị trường lao động có thể áp dụng, từ những chính sách mang tính chủ động, khơi dậy tiềm năng và các nỗ lực cá nhân của người lao động (chính sách đào tạo và đào tạo lại kỹ năng, chính sách hỗ trợ thành lập doanh nghiệp) đến các chính sách hỗ trợ trực tiếp, nhất thời cho những người lao động bị thất nghiệp, hay tạm thời bị mất việc; hoặc các chính sách khuyến khích, hỗ trợ, đối với chủ sử dụng lao động để họ tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao động. Để có thể thu hẹp dần khoảng cách giữa các hoạt động đào tạo bồi dưỡng tay nghề với nhu cầu hiện có của thị trường lao động, nhiều biện pháp đã được áp dụng như: xác định rõ ràng các lĩnh vực, ngành nghề hiện có đang thiếu công nhân, thiếu những người có tay nghề cao; tiêu chuẩn chất lượng được quy định chặt chẽ; có sự phối hợp chặt chẽ hơn trong khi hoạch định giữa chính sách đào tạo bồi dưỡng và chính sách điều chỉnh cơ cấu nhất là cấp địa phương. 4.3. Phát triển mạnh khu vực doanh nghiệp nhỏ. Trước đây, ở Việt Nam, cũng giống như hầu hết các nước thuộc khối XHCN cũ nhất là các doanh nghiệp kiểu gia đình, các doanh nghiệp theo kiểu tự tạo việc làm bị coi là không hợp pháp và vì vậy hầu như không tồn tại. Trong thời gian gần đây, các nước này chuyển sang hướng kinh tế thị trường, hình thức công ăn việc làm theo kiểu tự tạo, mang tính chất gia đình bắt đầu nảy nở. Đại bộ phận các công việc được tạo ra là các công việc đòi hỏi kỹ năng thấp, hoặc quy mô kinh doanh nhỏ. Nhưng bù vào đó, lại có tính linh hoạt cao để đáp ứng các thay đổi của thị trường. Việc chú trọng phát triển các cụm công nghiệp nhỏ, mang tính truyền thống địa phương, ngoài việc tạo ra các sản phẩm cần thiết xã hội, còn là cách thức tốt để giải quyết vấn đề việc làm cho nhiều người và rút ngắn chênh lệch cung cầu lao động trên thị trường. Qua đây, vai trò của nguồn nhân lực đối với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đã được làm rõ, và việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết ở các quốc gia nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Thực trạng về chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam sẽ được làm rõ ở chương tiếp theo. Chương II: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1996 đến nay I. Tình hình phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam. 1. Tăng trưởng nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực trong những năm vừa qua đã được cải thiện nhưng nhìn chung vẫn còn thấp, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và sự khác biệt giữa các vùng là rất đáng kể. Điểm nổi bật về số lượng, cơ cấu của dân số Việt Nam là nguồn nhân lực ở cơ cấu trẻ. Dân số Việt Nam thuộc loại có tốc độ tăng tự nhiên cao. Quy mô dân số quyết định quy mô lực lượng lao động, do tỷ lệ dân số trẻ chiếm đại đa số, quy mô dân số trong độ tuổi lao động cao, dân số và nguồn nhân lực có cơ cấu trẻ về lâu về dài sẽ là một lợi thế song trước mắt sẽ là bất lợi với nền kinh tế còn kém phát triển như Việt Nam do bình quân số người phải nuôi dưỡng (trẻ em) trên một lao động cao hơn các nước khác gây trở ngại trong việc giải quyết việc làm,gây sức ép quá tải cho hệ thống giáo dục, y tế cũng như các dịch vụ xã hội khác. 1.1.Tốc độ tăng lực lượng lao động luôn lớn hơn tốc độ tăng dân số. Trong 4 thập kỷ, tỷ lệ tăng dân số Việt Nam đã giảm từ 3.05% xuống 1,53% tỷ lệ gia tăng lực lượng lao động giảm từ 3,02% xuống còn 2,66 % nhưng tỷ lệ tăng lao động vẫn cao hơn tỷ lệ tăng dân số. Năm 2001, nguồn nhân lực trong độ tuổi lao động ở nước ta cao hơn 45,7 triệu người, trong đó khu vực nông thôn gần 34,4 triệu người, khu vực thành thị 12,3 triệu người; con số này của năm 2004 tương ứng là 51,34 triệu người; 36,92 triệu người và 14,42 triệu người. Giai đoạn 2001-2005 tốc độ tăng trưởng nguồn nhân lực bình quân._.phí mà vẫn tạo ra đội ngũ lao động khoa học - công nghệ và quản lý trình độ phục vụ phát triển kinh tế, khoa học - công nghệ và an ninh, quốc phòng của đất nước. 1.1.5. Phát triển nguồn nhân lực là sự nghiệp chung của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Giáo dục là sự nghiệp chung không chỉ được hiểu là mọi người có trách nhiệm tích cực góp phần vào sự nghiệp phát triển giáo dục, đóng góp trí tuệ, nhân lực, vật lực, tài lực cho giáo dục, mà còn được hiểu là mọi người có cơ hội tiếp cận với học vấn phổ thông và nghề nghiệp. Kết hợp đào tạo ở nhà trường thực tiễn lao động sản xuất gắn với học với hành, Nhà nước cần chăm lo xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục và ban hành những chính sách phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Các doanh nghiệp, người sử dụng lao động, người học và mọi tầng lớp nhân dân có trách nhiệm tham gia góp ý, đóng góp trí tuệ và vật lực cho sự nghiệp chung đó. Phát triển giáo dục sẽ tạo ra tiềm lực về trí tuệ cho đất nước, xây dựng đội ngũ lao động - khoa học công nghệ trình độ cao và tạo ra động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội. 1.1.6. Phát triển nguồn nhân lực phải tính đến sự hội nhập quốc tế và khu vực trên cơ sở kế thừa và giữ vững tinh hoa văn hóa dân tộc. Muốn phát triển giáo dục phải học tập kinh nghiệm thế giới và tăng cường giao lưu quốc tế. Quốc tế hóa, hội nhập là xu thế của thời đại chúng ta, và giáo dục cũng nằm trong quy luật chung đó. Do vậy chúng ta cần tăng cường học tập những kinh nghiệm quốc tế; đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo theo hướng của các nước tiên tiến; nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ giảng dạy. Tất cả những đổi mới nói trên đều cần đến sự hợp tác với giáo dục của các nước tiên tiến và sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế. Tuy nhiên cần tính đến những điều kiện văn hóa, kinh tế chính trị và xã hội nước ta để vận dụng cho phù hợp, sao cho hòa nhập nhưng không hòa tan, chắt lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại và giữ vững bản sắc dân tộc trong phát triển giáo dục. Vận dụng sáng tạo những quan điểm giáo dục của cha ông vào đào tạo thế hệ ngày nay là vô cùng cần thiết. Phát triển một nền giáo dục hiện đại mang bản sắc văn hóa Việt Nam để thực sự phát huy sức mạnh của dân tộc thời đại và tận dụng sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế. Giáo dục đào tạo của nước ta phải lựa chọn chiến lược, phương thức phát triển riêng, mang bản sắc riêng phù hợp với truyền thống dân tộc và sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. 1.2. Phương hướng phát triển. Giáo dục đào tạo phải tiếp cận theo hướng, một mặt phải đảm bảo tỷ lệ cơ cấu nguồn nhân lực hài hòa, cân đối (hình tháp hợp lý) theo từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu của thị trường lao động, mặt khác phải đáp ứng yêu cầu chất lượng. Do điều kiện đầu tư cho giáo dục đào tạo sắp tới cần rất hạn chế, nhưng lại phải đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ cao để đuổi kịp các nước trong khu vực, mặt khác phải đảm bảo tính công bằng xã hội cho mọi người, góp phần phát triển hài hòa thành thị và nông thôn, vì vậy giáo dục đào tạo phải phát triển theo hai hướng mũi nhọn và đại trà: + Mũi nhọn: đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật lành nghề, kỹ thuật viên (trong đó một số có trình độ đại học, cao đẳng) đủ khả năng trí tuệ tiếp cận và sử dụng thành thạo các phương tiện kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Theo hướng này bên cạnh việc mở thêm trường mới sẽ hình thành một bộ phận chất lượng cao của hệ thống giáo dục đào tạo, tuy số lượng không nhiều nhưng là tinh hoa để đáp ứng nhu cầu phát triển của đấtnước và đạt các chuẩn mực khu vực và quốc tế, là khâu đột phá để thoát khỏi sự tụt hậu về trình độ nhân lực hiện nay. Dự kiến có các trường chất lượng cao ở các hành lang kinh tế trọng điểm nhằm đáp ứng nguồn nhân lực có kỹ thuật cao cho các khu công nghệ cao, các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất... Và bước đầu tính đến khả năng xuất khẩu lao động. + Đại trà: mở rộng các loại hình đào tạo nghề nghiệp ngắn hạn, từng bước phổ cập nghề cho tất cả mọi người lao động bằng cách lớm hình thành nền giáo dục kỹ thuật trong xã hội. Từng bớc được giáo dục kỹ thuật tổng hợp, kỹ thuật ứng dụng vào các trường phổ thông, trang bị kiến thức và kỹ năng cần thiết, nhằm giúp cho học sinh tiếp cận với thế giới nghề nghiệp, định hướng và lựa chọn nghề nghiệp phù hợp khi có điều kiện tiếp tục học lên cũng như vào đời lao động kiếm sống. Theo hướng này hình thành các loại hình trung tâm đào tạo nghề nghiệp, mở rộng các loại hình trường ngoài công lập như trường lớp bên cạnh xí nghiệp, các loại hình trường lớp bán công, dân lập, tư thục và chú ý đến việc đào tạo nghề tại các làng nghề truyền thống nhằm đáp ứng nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế xã hội địa phương, CNH nông thôn, chuyển đổi cơ cấu lao động và giải quyết việc làm cho xã hội. 1.3. Mục tiêu phát triển nguồn nhân lực. Phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào trước năm 2010, phổ cập giáo dục trung học (bao gồm trung học phổ thông hoặc trung học dạy nghề, chuyên nghiệp) vào trước 2020: Nâng tỷ lệ người lao động qua đào tạo lên 40% (2010) gắn với việc phát triển các ngành nghề và việc làm phi nông nghiệp, nhất là ở khu vực nông nghiệp, nông thôn. Thực hiện tiêu chuẩn hóa về trình độ đội ngũ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính Nhà nước và lực lượng vũ trang, giáo viên các cấp, cán bộ khoa học, công nghệ, cán bộ khoa học quản lý sản xuất, kinh doanh, kỷ sư, công nhân kỹ thuật bậc cao trong các ngành kinh tế mũi nhọn, các ngành công nghệ cao, công nghệ truyền thống, các ngành văn hóa, nghệ thuật, thể thao... nhằm đảo bảo đáp ứng yêu cầu về chất lượng và CNH, HĐH đất nước đặt ra. Xây dựng đội ngũ người tài, có khả năng tiếp thu, triển khai ứng dụng và sáng tạo các thành tựu khoa học, công nghệ trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng, an ninh, sản xuất, kinh doanh...., tăng số lượng cán bộ có trình độ đại học trong các tổ chức nghiên cứu triển khai gấp 4 lần so với hiện nay. Tạo việc làm cho 1,5 triệu người /năm, tăng thêm hộ khá giàu, không còn hộ đói, giảm về cơ bản hộ nghèo. Giảm số người thất nghiệp ở thành thị xuống 5%, nâng cao sức sử dụng thời gian lao động nông thôn là 75% - 80%. Các mục tiêu về sức khoẻ cần đạt được vào năm 2010: Tuổi thọ trung bình tăng lên 71 tuổi, tỷ suất mẹ chết giảm xuống còn 70/100.000 trẻ đẻ sống, tỷ lệ trẻ em chết dưới 1 tuổi hạ xuống còn khoảng 25% trẻ đẻ sống, tỷ lệ trẻ chết dưới 5 tuổi hạ xuống là 32% trẻ đẻ sống; tỷ lệ trẻ chết dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng hạ xuống còn 20% - 22%; chiều cao trung bình thanh niên đạt 1m60. Làm giảm tỷ lệ mắc và tử vong các bệnh truyền nhiễm gây dịch, không để dịch lớn xảy ra. Khống chế đến mức thống nhất tỷ lệ chết của các bệnh tả, thương hàn, sốt xuất huyết, sốt nét, dịch hạch, viêm gan B, viêm gan Nhật Bản, các bệnh lây qua đường tình dục... duy trì kết quả thanh toán bệnh bại liệt, uốn ván sơ sinh. Hạn chế tốc độ gia tăng tỷ lệ lây nhiễm HIV/AIDS. 2. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam trong thời gian tới. 2.1. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dưới góc độ giáo dục, đào tạo và dân số. 2.1.1. Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. 2.1.1.1. Giáo dục phổ thông. - Đổi mới mục tiêu và chương trình, phương pháp giảng dạy. + Mục tiêu đào tạo của giáo dục phổ thông là từng bước chuẩn bị cho thế hệ trẻ tự tin, sáng tạo và bước vào xã hội tương lai trên cơ sở có trình độ học vấn phổ thông, cơ bản toàn diện và kỹ năng lao động đáp ứng những định hướng phát triển kinh tế - xã hội, có sức khoẻ, có ý thức bản thân và có trách nhiệm với gia đình, xã hội. Mục tiêu đào tạo giáo dục phổ thông thể hiện tính phát triển theo từng giai đoạn ở tiểu học, trung học cơ sở và phổ thông trung học. Người được đào tạo ở trung học cơ sở phải được cung cấp vốn học phổ thông cũng như kỹ thuật nghề nghiệp tối thiểu để thực hiện phân hóa sơ bộ có kết quả, ổn định dần việc chọn hướng đi thích hợp. Phổ thông trung học - vị trí bản lề trong giáo dục đào tạo có trách nhiệm hoàn chỉnh vốn học vấn và kỹ thuật nghề nghiệp phổ thông. + Đổi mới chương trình: từng bước thử nghiệm tiến tới xây dựng bộ chương trình thống nhất trong phạm vi cả nước từ năm 2004 ở trung học cơ sở và từ năm 2009 ở trung học phổ thông phù hợp với những đổi mới của chương trình tiểu học bắt đầu vào năm 2000. Cấu trúc bộ chương trình gồm: Khung chương trình bảo đảm tính phổ thông, cơ bản toàn bộ, hướng nghiệp sát với xu thế thời đại song vẫn gắn cuộc sống đồng thời tạo khả năng để mọi người có cơ hội phổ cập trung học cơ sở, tiến tới phổ cập trung học phổ thông. Tăng dần tỷ lệ số môn học tự chọn trong chương trình 5% ở trung học cơ sở từ năm 2004 lên 15% ở trung học phổ thông vào năm 2009. Xây dựng các môn học thích hợp. Biên soạn hệ thống sách giáo khoa, tăng cường tài liệu tham khảo cho giáo viên học sinh, phân phối kịp thời nhất là nông thôn vùng xa, miền núi hải đảo. + Về đổi mới phương pháp giảng dạy. Phát triển tư dung độc lập, sáng tạo của học sinh. Chuyển nhanh việc giảng dạy theo hướng tích cực hoạt động của học sinh. Rèn và tạo điều kiện cho học sinh có khả năng biểu đạt vấn đề một cách rõ ràng, lưu loát. Từng bước tăng cường và nâng cao chất lượng việc sử dụng phương tiện dạng học trong giảng đường để nâng cao hiệu quả giờ học, phát triển năng lực thực hành ở học sinh. Hướng dẫn các học sinh cách đọc sách tham khảo tài liệu để tới sinh có thể tự học, tự nghiên cứu có hiệu quả, xây dựng chuẩn đánh giá giờ dạy. - Thực hiện phân hóa dạy học tích cực gắn với hướng nghiệp, định nghiệp cho học sinh sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở. + Phân hướng hợp lý khi học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở: đa dạng hóa các loại hình trường phổ thông như công lập, dân lập, bán công, tư thục, đồng thời cần phải quan tâm để có tỷ lệ cân đối giữa số học sinh học lên cấp phổ thông trung học và số học sinh vào trường trung học dạy nghề góp phần khẳng định rõ vị trí của trung học cơ sở. Một bộ phận cơ sở của bậc trung học mới gồm trung học phổ thông và trung học nghề. + Thực hiện phân ban nhằm hoàn thiện cơ cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân, từ năm 2009 chuyển mạnh toàn bộ các trường trung học phổ thông sang hướng đào tạo có phân ban gắn với hướng nghiệp, định nghiệp cho học sinh. - Tăng cường đầu tư và sử dụng hiệu quả nguồn vốn giáo dục. Đi đôi với việc tăng ngân sách Nhà nước cho giáo dục phổ thông, việc huy động các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư và đóng góp cho giáo dục, cần đặc biệt quan tâm nâng cao chất lượng quản lý ở các cấp, đào tạo và bồi dưỡng năng lực quản lý của để nguồn vốn trong giáo dục đào tạo được sử dụng tập trung có hiệu quả. + Mở rộng và hoàn chỉnh hệ thống mạng lưới trường: tiếp tục xây dựng hệ thống các trường trung học cơ sở theo các xã, cụm xã, trường phổ thông trung học trên địa bàn quận, huyện phù hợp với địa bàn dân cư... Và tính đến liên thông giữa 2 cấp trung bậc trung học phổ thông. Hoàn thành việc tách trường độc lập theo từng cấp học trong phạm vi cả nước. Tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường. - Xây dựng đội ngũ giáo viên. Đáp ứng yêu cầu về số lượng, ổn định theo vùng, đồng bộ về cơ cấu, cần phải: Đổi mới công tác dự báo nhu cầu giáo viên ở từng tỉnh để các trường sư phạm định hướng trước nhu cầu tuyển sinh ở từng môn cũng như có sự cân đối từ tầm vĩ mô bảo đảm đủ số lượng giáo viên trước từng văn học. Đa dạng hóa hình thức đào tạo, bồi dưỡng giáo viên một cách hiệu quả, kết hợp hợp lý giữa đào tạo chính quy và đào tạo tại chức. Có chỉ tiêu đào tạo đội ngũ giáo viên theo địa chỉ trên quy hoạch tổng thể của sự phát triển giáo dục theo từng giai đoạn. Kết hợp giải pháp cơ bản, lâu dài với giải pháp tình thế, nhất thời (ký kết hợp đồng với những giáo viên nghỉ hưu có trình độ chuyên môn cao, có tâm huyết nghề nghiệp tiếp tục dạy học). Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên: Đòi hỏi cần phải quan tâm đồng bộ từ chọn đào tạo trong các trường sư phạm - đẩy mạnh công tác bồi dưỡng giáo viên thường xuyên trong các trường phổ thông. Có kế hoạch bồi dưỡng, nâng tỷ lệ số cán bộ giảng dạy của các trường sư phạm có trình độ sau đại học lên 50% vào năm 2010 để có trường có đủ điều kiện đào tạo đội ngũ giáo viên đáp ứng những đòi hỏi của các trường phổ thông trong giai đoạn mới. Nâng cao chất lượng tuyển sinh vào các trường sư phạm; có chính sách thu hút những học sinh giỏi, có phẩm chất tư cách đạo đức, sư phạm và ra dạy học. Đối với chương trình đào tạo trong các trường sư phạm để các trường cao đẳng bất đầu từ năm 2002 và các trường đại học sư phạm từ năm 2004 chính thức được đưa vào giảng dạy. Đa dạng hóa những hình thức đào tạo, bồi dưỡng giáo viên: thực hiện chương trình bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng chuẩn hóa có hiệu quả thiết thực theo hướng mở rộng các trường đại học không phải sư phạm và một số viện nghiên cứu đào tạo có đủ điều kiện cùng tham gia chuẩn hóa, nâng tỷ lệ giáo viên trung học cơ sở có trình độ đại học 60% vào năm 2010 và 80% vào năm 2020; cùng tỷ lệ giáo viên trung học phổ thông có trình độ thạc sĩ lên 10% vào 2010 và 40% vào năm 2020. - Đổi mới công tác quản lý và đào tạo cán bộ quản lý giáo dục phổ thông. Bảo đảm tính hợp lý, đồng bộ trong việc phân cấp quản lý giáo dục đào tạo từ trung ương đến địa phương, thực hiện sự coi quản lý trường là một nghề cần được đào tạo chuẩn. - Thực hiện công tác phổ cập. 2.1.1.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp vào giáo dục đại học. - Củng cố mạng lưới các trường đại học và chuyên nghiệp: - Về các trường đại học, bao gồm các loại hình đại học đa lĩnh vực, đa ngành, đại học đơn ngành, đại học mở, đại học cộng đồng và đại học dân lập. Việc củng cố các trường đại học quốc gia và đại học khu vực nhằm xây dựng một số trung tâm đào tạo chất lượng, uy tín cao dựa trên tiềm năng của các cơ sở được lựa chọn. Nhà nước cho phép các tổ chức và cá nhân nước ngoài mở trường đại học tại Việt Nam hoặc liên kết với các cơ sở đại học trong nước đào tạo. Về mạng lưới các cơ sở kỹ thuật và nghề nghiệp: Hình thàh các trường trọng điểm đây là hệ xương sống của ngành nhằm mục tiêu đào tạo kỹ thuật viên và công nhân kỷ thuật lành nghề cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Các trường này sẽ giữ vai trò nòng cốt của hệ thống các trường công lập bên cạnh việc đa dạng hóa các loại hình đạo khác. Các này là trường đa hệ, đa ngành nghề, có đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên đạt tiêu chuẩn cần thiết. + Các trường khác: Các trường này sẽ do Bộ, ngành các địa phương và các công ty, liên hiệp quản lý. + Các loại hình trung tâm dạy nghề: xây dựng mạng lưới hệ thống trung tâm dạy nghề. Phát triển các cơ sở dạy nghề cho người khuyết tật, trẻ em lang thang cơ nhở. Xây dựng một số cơ sở dạy nghề lưu động đáp ứng nhu cầu học tập nghề nghiệp của các vùng sâu, vùng xa và vùng núi cao, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng và tạo cơ hội cho mọi người có mong muốn học tập nghề nghiệp. + Các trường, lớp dạy nghề bán công, dân lập tư thục. - Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy. Quy hoạch và phát triển đội ngũ cán bộ giảng dạy trên cơ sở các chuẩn mực đã đạt được xác định nhằm sớm tạo ra đội ngũ cán bộ giảng dạy đủ mạnh cho sự nghiệp phát triển giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp và giáo dục đại học đến năm 2020 và những năm tiếp theo. Xây dựng tiêu chuẩn đội ngũ cán bộ giảng dạy của một trường đại học, cao đẳng, một khoa, bộ môn về các mặt trình độ, chức danh, cơ cấu tuổi tác, giới tính. Chuẩn hóa đội ngũ giáo viên trung học chuyên nghiệp và dạy nghề theo hướng đảm bảo cho đa số giáo viên tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, kỹ thuật hoặc tốt nghiệp cao đẳng, đại học được bồi dưỡng chương trình vụ sư phạm. Chú trọng bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho giáo viên thực hành, áp dụng phương pháp dạy học tiên tiến vào đào tạo nghề nghiệp. - Đa dạng hóa và sử dụng có hiệu quả nguồn lực cho giáo viên kỹ thuật nghề nghiệp và giáo dục đại học. Sử dụng có hiệu quả ngân sách Nhà nước đầu tư cho giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp và giáo dục đại học, nghiên cứu cải tiến mô hình phân bố ngân sách. Chuyển từ mô hình chính sang mô hình phân bổ trọn gói nhằm khuyến khích các trường nâng cao hiệu quả đào tạo như giảm chi phí đơn vị và nâng cao chất lượng cũng như chuyển phương thức kiểm soát chi phí sang phương thức giám sát chi. Cùng với việc xây dựng quy chế sử dụng ngân sách hợp lý và có hiệu quả, phải tăng cường cách thức chia sẽ chi phí đào tạo bằng đóng góp của cộng đồng, các doanh nghiệp người sử dụng lao động, người học và tăng cường khả năng của các cơ sở cung cấp giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp và giáo dục đại học phi công lập. Xây dựng môi trường pháp lý bảo đảm các trường phái công lập có điều kiện nâng cao chất lượng. Việc hỗ trợ tài chính cho học sinh, sinh viên sẽ chuyển từ phương thức cấp học bổng sang phát triển các chương trình cho vay. Các địa phương cần phải dành nguồn kinh phí cũng như quỹ đất thuận lợi nhất cho việc xây dựng trường dạy nghề giống như việc các địa phương đã dành đất cho xây dựng các nhà máy, công ty liên doanh với nước ngoài, có như vậy mới có điều kiện thu hút các nguồn đầu tư trong và ngoài nước xây dựng trường. - Liên kết chặt chẽ đào tạo, nghiên cứu khoa học và sản xuất. Nhà nước cần phát huy tiềm năng của đội ngũ cán bộ khoa học trình độ cao, cơ sở vật chất sẵn có của các trường đại học, các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề và sử dụng các kết quả nghiên cứu khoa học, phương tiện kỹ thuật vào nâng cao chất lượng đào tạo. Tăng cường các điều kiện hỗ trợ dạy học trên cơ sở ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, bổ sung và hoàn thiện cơ chế nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ trong trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Kết hợp chặt chẽ cnc khoa học với đào tạo sau đại học, nhất là đào tạo bậc thạc sĩ và tiến sĩ. Xây dựng và thực hiện chính sách gắn đào tạo với sử dụng. Quy định chỉ có những người có bằng hoặc chứng chỉ qua đào tạo nghề mới được hành nghề. Có chính sách đền bù chi phí đào tạo khi người đào tạo không thực hiện các cam kết vè trách nhiệm và nghĩa vụ sau khi tốt nghiệp. Thực hiện nguyên lý gắn đào tạo với sản xuất, quá trình đào tạo phải gắn với cơ sở sản xuất để một mặt tận dụng trang thiết bị, công nghệ sẵn có, mặt khác giúp cho học sinh làm quen với vị trí lao động sau này. - Tăng cường hợp tác quốc tế là một trong những hướng chiến lược để tận dụng nguồn tài chính, cơ sở vật chất, công nghệ cao, chuyên gia giỏi cho công tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và đào tạo đại học. 2.2. Một số giải pháp nâng cao trạng thái sức khoẻ của nguồn nhân lực. 2.2.1. Nâng cao hiệu quả của hoạt đông y tế dự phòng Tiếp tục và hoàn thiện hệ thống y tế dự phòng .Mở rộng và khai thác có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế và sức khoẻ .phát triển các phong trào vệ sinh ,phòng bệnh và thể dục thể thao .Triển khai mạnh mẽ các biện pháp kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm .Kịp thời dự báo và có biện pháp ngăn ngừa để hạn chế tối đa những tác động tiêu cực đối với sức khỏe do thay đổi lối sống ,môi trường và điều kiện lao động trong quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá.nâng cao năng lực giám sát, phát hiện và khống chế dịch bệnh đặc biệt là HIV/AIDS và các dịch bệnh mới phát sinh. Đẩy mạnh phòng chống các bệnh nghề nghiệp .Củng cố và phát triển y tế học đường .Chú trọng chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em,người cao tuổi và các hoạt động phục hồi chức năng.Kết hợp quân dân y trong bảo vệ chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân và các lực lượng vũ trang,nhất là ở các vùng sâu vùng xa ,biên giới hải đảo …chủ động phòng chống và giảm nhẹ và khắc phục hậu quả của các tình huống khẩn cấp như dịch bệnh , thảm hoạ thiên tai…đưa chương trình kết hợp quân dân y thành một nội dung của chương trình mục tiêu y tế quốc gia. 2.2.1.Tăng cường chất lượng khám chữa bệnh của hoạt động y tế chuyên sâu. Củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở cả về cơ sở vật chất ,trang thiết bị và cán bộ.Xây dựng nâng cấp các bệnh viện , nhất là bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh và huỵện để có đủ khả năng giải quyết một cách cơ bản nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân ngay tại địa phương.Từng bước phảt triển mạng lưới các khoa và bệnh viện điều dưỡng phục hồi chức năng.Quy hoạch mạng lưới khám chữa bệnh theo địa bàn dân cư,tiêp tục đầu tư và khai thác có hiệu quả các trung tâm y tế chuyên sâu hiện có ,xây dựng thêm một số trung tâm y tế chuyên sâu mới. Đẩy mạnh nghiên cứu kế thừa ,bảo tồn và phát triển y dược cổ truyền thàn một chuyên ngành khoa học.Thành lập Viên Y học cổ truyền ,củng cố và phát triển bộ môn y học cổ truyền tại các trường đại học ,cao đẳng và trung học y tế.Nâng cấp các bệnh viện y học cổ truyền và các khoa đông y tại các bệnh viện đa khoa .Phát triển ngành dược thành một ngành kinh tế -kỹ thuật mũi nhọn ,phát triển mạnh công nghiệp dược ,nâng cao năng lực sản xuất thuốc trong nước , ưu tiên các dạng bào chế công nghệ cao.Quy hoạch và phát triển các vùng dược liệu ,các cơ sở sản xuất nguyên liệu hoá dược .Củng cố mạng lưới lưu thông phân phối và cung ứng thuốc để ổn định thị trường thuốc phòng và chữa bệnh cho nhân dân. Đẩy mạnh nghiên cứu và sản xuất vác-xin,sinh phẩm y tế.Phát triển công nghiệp trang thiết bị y tế theo hướng hiện đại. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học,tiếp cận và ứng dụng những thành tựu về khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ sinh học và công nghệ thông tin;từng bước đưa nền y học nước ta đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.Mở rộng hợp tác và tranh thủ sự giúp đỡ và đầu tư nguồn lực của các nước,các tổ chức quốc tế; tiếp thu các thành tựu về khoa học công nghệ và kinh nghiệm quản lý phục vụ sự nghiệp chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân. 2.3.Giải pháp bồi dưỡng tác phong công nghiệp cho người lao động. Đây là một trong những giải pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của nước ta .Việc tạo ra những động lực để kích thích mọi người chăm học ,chăm làm , động viên tính tích cực xã hội của người lao động làm cho họ năng động thiện chí cầu tiến, từ đó đi đến sáng tạo …đó là một vấn đề cực kỳ quan trọng trong tổ chức quản lý vĩ mô cũng như vi mô nguồn lực con người . Ở đây cần phải chú trọng đến cả lợi ích vật chất và tinh thần cho người lao động.Lấy kết quả , hiệu quả công việc là thước đo đánh giá quan trọng nhất .Có chế độ khen thưởng hợp lý cho người lao động. 2.4.Các cơ chế chính sách của Đảng và nhà nước về phát triển nguồn nhân lực. Để hoạt động phát triển nguồn nhân lực được tốt thì chính sách , cơ chế của nhà nước phải giải phóng và phát huy được tiềm năng của người lao động , có hệ thống chính sách đào tạo ,sử dụng hợp lý nguồn nhân lực bao gồm : tuyển dụng, chính sách lao động ,phân công lao động ,phân bổ nguồn nhân lực, chính sách cán bộ tiền lương , khen thưởng . Đặc biệt chú ý tới xây dựng và thực thi chính sách trọng dụng nhân tài :chăm lo, phát huy ,bồi dưỡng nguồn lực con người là bộ phận quan trọng nhất trong chiến lược con người , là nhiệm vụ trung tâm của sự nghiệp giáo dục nước ta trong thời gian tới nhằm tạo ra những điều kiện cơ bản để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ ,văn minh, mọi người mọi nhà ấm no hạnh phúc.Trong nhiệm vụ trọng đại này chăm lo,phát huy, bồi dưỡng nhân tài có một ý nghĩa đặc biệt, nhất là trong thời đaị công nghệ thông tin, công nghệ cao,kinh tế tri thức và toàn cầu hoá như hiện nay. 2.5.Phát triển mạnh khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo số liệu thống kê thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ hàng năm tạo ra số chỗ làm việc rất lớn , đồng thời khu vực này cũng đã góp phần vào nâng caochất lượng nguồn nhân lực nhờ có chính sách đào tạo nghề cho người lao động .Vì vậy nhà nước cần khuyến khích và tạo điều kiện cho các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển . Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào những ngành lĩnh vực giải quyết nhiều việc làm và không đòi hỏi trình độ chuyên môn kỹ thuật quá cao như:da giầy ,dệt may , chế biến nông , thuỷ , hải sản…có sự trợ giúp các doanh nghiệp cả về vật chất tinh thần .Cải cách tủ tục hành chính theo hướng rút ngăn thời gian đăng kí kinh doanh cho các doanh nghiệp .Các thủ tục trong thuê mặt bằng sản xuất kinh doanh cũng cần được tinh giảm… 2.6.Nhóm giải pháp hỗ trợ ,khuyến khích thị trường lao động phát triển Nâng cao tính chuyên nghiệp và hiện đại hóa thiết bị kỹ thuật của các cơ quan thống kê và cung ứng thông tin thị trường lao động các cấp .Tăng cường các hình thức hiệu quả về thu thập ,xử lý , cung ứng thông tin thị trường lao động của các cơ quan chức năng về quản lý lao động.Phát triển hệ thống môi giới tư vấn việc làm và nghề nghiệp để làm cầu nối cho cung cầu lao động gặp nhau.Phát triển các hình thức thông tin thị trường lao động(hội chợ việc làm, trang web làm việc trên internet, thông tin và quảng cáo việc làm).Có cơ chế hiệu quả trong nghiên cứu, xử lý ứng dụng thông tin thị trường lao động các nước để phục vụ cho đào tạo và xuất khẩu lao động.Tiếp tục hoàn thiện chính sách thị trường lao động thụ động, như chính sách trợ cấp thất nghiệp, bảo hiểm xã hội , đào tạo lại giải quyết lao động dôi dư…bảo đảm cho thị trường lao động hoạt động hiệu quả.Hoàn thiện chính tiền lương , tiền công theo hướng đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, bảo vệ quyền và lơi ích của người lao động và người sử dụng trong quan hệ lao động .Các chính sách tiền công tiền lương tác động linh hoạt đến hoạt động của thị trường lao động, tạo ra động lực kích thích tăng trưởng kinh tế và phát triển toàn diện nguồn nhân lực.Hoàn thiện môi trường pháp lý góp phần thúc đẩy hoạt động có hiệu quả hơn của các loại thị trường :vốn, sản phẩm khoa học và công nghệ, hàng hoá, dịcch vụ, bất động sản…Sự hoạt động của các loại thị trường này có tác động kích thích phát triển ngành nghề, tăng trưởng sản phẩm và tạo ra sự tăng cầu lao động trên thị trường lao động. 2.7. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dưới góc độ phát triển việc làm. Để góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển nguồn nhân lực đến năm 2010, phương pháp và giải pháp phát triển việc làm ở Việt Nam giai đoạn 2006-2010 cần tập trung vào các nội dung sau: Phát triển việc làm phải nhằm đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động, cơ cấu việc làm phù hợp với yêu cầu phát triển góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng, hiệu quả lao động và sức cạnh tranh trên thị trường. Phát triển mạnh các ngành kinh tế mũi nhọn, theo hướng xuất khẩu, các khu du lịch dịch vụ với chất lượng ngày càng cao, các ngành công nghiệp; dịch vụ có hàm lượng chất xám cao, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế mở tạo nhiều việc làm. Thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, trước hết là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh tế trang trại kinh tế hộ gia đình, phát triển các ngành sử dụng công nghệ phù hợp có khả năng thu hút nhiều lao động. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động có chuyên gia, khuyến khích hỗ trợ tìm việc làm, tái làm việc hoặc tự tạo việc làm mới cho lao động thất nghiệp, lao động thiếu việc làm, lao động cần chuyển dịch việc làm phù hợp đặc biệt là lao động trẻ, lao động nữ, lao động thuộc gia đình nghèo và lao động ở những vùng bị chuyển đổi mục đích sử dụng ruộng đất. Thực hiện đồng bộ giải pháp về mặt pháp lý nhằm tạo môi trường thuận lợi ngoài những chính sách chế độ hiện hành các cấp, các ngành liên quan cần tiếp tục nghiên cứu ban hành những quy định cụ thể tháo gỡ kịp thời những vướng mắc, quy tắc cản trở phát triển sản xuất kinh doanh, của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Đồng thời Nhà nước cần nghiên cứu bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành chính sách mới các chính sách và giải pháp về di dân có tổ chức bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán, phù hợp với tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển những năm tới, có cơ chế quản lý và phối hợp đồng bộ giữa nơi đi và nơi đến nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý Nhà nước đối với các hướng di dân khác nhau đảm bảo sự phân bố hợp lý nguồn nhân lực của đất nước. Kết luận Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của nước ta hiện nay đang trở nên cấp bách hơn bao giờ hết .Nó đã và đang là nhiệm vụ của toàn đảng toàn dân , mỗi cá nhân cũng phải ý thức được nhiệm vụ của mình trong đào tạo phát triển nguồn nhân lực.Mọi người phải bằng cách này hay cách khác tự bôi dưỡng nâng cao trình độ của mình nhằm đáp ứng yêu cầu của thời đại mới nếu không muốn bị tụt hậu và bị xã hội đào thải.Bên cạnh đó các cơ quan có trách nhiệm trong quản lý và phát triển nguồn nhân lực cũng phải thực hiện tốt nhiệm vụ của mình nhằm góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quốc gia, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trên trường quốc tế.Vì tính cấp thiết của vân đề nên tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài :”Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầc công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước trong giai đoạn hiện nay”, đề tài đã đánh giá phần nào thực trạng nguồn nhân lực của nước ta và đã đề xuất một số giải pháp để giải quyết vấn đề.Tuy nhiên do phạm vi của đề tài khá rộng và thời gian nghiên cứu lại ngắn cho nên chắc chăn đề tài sẽ không tránh khỏi một số thiếu xót ,tôi xin nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo.Tôi xin chân thành cám ơn! Danh mục tài liệu tham khảo 1.Công nghiệp hoá,hiện đại hoá ở Việt Nam lý luận và thực tiễn-NXB chính trị quốc gia Hà Nội –2002 2.Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước-NXB chính trị quốc gia năm 1999 3. Nguyễn Hoài, Hai vấn đề cơ bản của công nghiệp Việt Nam đến năm 2020, thời báo kinh tế Việt Nam 25/3/2005 4.Quản lý nguồn nhân lực Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn- NXB khoa học và xã hội năm2004 5.Vấn đề tạo nguồn nhân lực tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá-Vũ Huy Chương – NXB chính trị quốc gia năm2002 6.Tạp chí kinh tế phát triển số 91 năm2005 7. Tạp chí nghiên cứu con người số 3(98)2005 8.Tạp chí lao động xã hội số từ 16-31/7/2005 9.Tạp chí thống kê năm 2005 10. Báo cáo phát triển con người của UNDP năm 2005 11. Các Website của bộ giáo dục, bộ y tế , tổng cục thống kê 12.Văn kiện đại hội Đảng 9 và Dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội 10 của Đảng 13.Gíáo trình kinh tế phát triển và giáo trình kế hoạch hoá phát triển kinh tế - xã hội MỤC LỤC Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32306.doc