Mở ĐầU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khoa học công nghệ ngày càng phát triển mạnh mẽ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thúc đẩy nhanh chóng sự ra đời của các ngành công nghệ cao và sử dụng chủ yếu lao động trí tuệ, vì vậy lợi thế về lao động dồi dào và giá rẻ của nước ta không còn nữa. Nguồn lao động giàu về lượng nhưng nghèo về chất là nguyên nhân chính làm kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Vì thế, chất lượng nguồn lao động đang là đề tài được các nhà sử dụng lao động,
133 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1669 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng nguồn lao động nhằm phát triển kinh tế - Xã hội ở thành phố Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các nhà quản lý kinh tế - xã hội rất quan tâm, điều này càng bức xúc, nổi cộm hơn khi số lượng lao động ngày càng tăng nhưng chất lượng lại chậm được cải thiện.
Tuy nước ta có nguồn lao động dồi dào nhưng nhiều doanh nghiệp lại không tuyển được đủ người đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của mình. Lao động giản đơn thừa nhiều đã trở thành gánh nặng trong việc giải quyết việc làm của nhiều cơ quan chức năng. Doanh nghiệp không tuyển được người cần thiết bởi thiếu đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, có kỹ năng và làm được việc.
Lao động là nguồn lực quyết định đối với việc huy động và sử dụng các nguồn lực khác vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mọi vùng miền, mọi quốc gia. Nguồn lao động là một nguồn lực đặc biệt, bởi lao động không chỉ quyết định cho việc phát triển kinh tế mà còn liên quan đến vấn đề con người - xã hội. Vì thế, nâng cao chất lượng nguồn lao động không những là mục tiêu phát triển kinh tế mà còn là mục tiêu xã hội vô cùng quan trọng.
Lao động Việt Nam nói chung và lao động Đà Nẵng nói riêng đã, đang và luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta quan tâm trong hoạch định kế hoạch, chính sách và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nhất là đối với nước ta đang trong quá trình chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng nguồn lao động nhằm phát triển kinh tế - xã hội là vấn đề đòi hỏi sự quan tâm cấp thiết của mọi cấp lãnh đạo, quản lý; mọi ngành, lĩnh vực kinh tế; mọi vùng, miền, địa phương.
Cũng như các địa phương khác, Đà Nẵng là một thành phố có số lượng lao động tương đối dồi dào nhưng chất lượng lao động chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Thực tế, lao động Đà Nẵng vẫn được đào tạo, nâng cao chất lượng nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn thiếu lao động đáp ứng yêu cầu sản xuất. Đây cũng chính là sự thiếu gắn kết giữa nâng cao chất lượng nguồn lao động với phát triển kinh tế - xã hội.
Đà Nẵng là một thành phố trực thuộc trung ương, là trung tâm, là vùng kinh tế năng động và trọng điểm của miền trung, chất lượng nguồn lao động ở Đà Nẵng vừa mang sắc thái chung của cả nước, vừa mang tính đặc thù riêng với “những yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội tương xứng”. Đà Nẵng có yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội rất cao, giá như có một đội ngũ lao động có chất lượng tương xứng, đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố thì sự phát triển sẽ tăng lên so với thực tại.
Chính vì những lẽ trên mà việc “Nâng cao chất lượng nguồn lao động nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Đà Nẵng” là một đề tài mang tính cấp thiết. Đó cũng là lý do mà bản thân tôi chọn vấn đề này làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nâng cao chất lượng nguồn lao động là đề tài được sự quan tâm của nhiều người và đã được đặt ra nghiên cứu ở nhiều nơi. Cụ thể, một số đề tài, tài liệu đã nghiên cứu về chất lượng nguồn lao động hoặc có liên quan đến vấn đề này, như:
- Đề tài "Chất lượng nguồn lao động ở Phú Thọ - Thực trạng và giải pháp", Luận văn thạc sĩ, Trần Tiến Khang, Hà Nội, 2000.
- Đề tài "Nâng cao chất lượng lao động trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thanh Hóa", Luận văn thạc sĩ, Phạm Văn Tuyền, Hà Nội, 2000.
- Đề tài "Giải quyết việc làm cho người lao động tỉnh Đồng Nai - Thực trạng và giải pháp", Luận văn thạc sĩ, Huỳnh Tấn Kiệt, Hà Nội, 2000.
- Đề tài "Phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm ở Thanh Hóa", Luận văn thạc sĩ, Lê Văn Kỳ, Hà Nội, 2004.
- Đề tài "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" (Sách tham khảo), PTS. Mai Quốc Khánh (chủ biên), Hà Nội, 1999.
Các đề tài trên đã nghiên cứu về nguồn lao động ở các khía cạnh, phạm vi khác nhau nhưng chưa có tác giả nào nghiên cứu vấn đề nâng cao chất lượng nguồn lao động nhằm phát triển kinh tế - xã hội tại địa bàn thành phố Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
- Làm rõ những vấn đề cơ bản về chất lượng nguồn lao động và sự tác động của nó đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn lao động ở thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về nguồn lao động, chất lượng nguồn lao động.
- Tìm hiểu và phân tích thực trạng về lao động và chất lượng nguồn lao động tại thành phố Đà Nẵng, cụ thể như:
+ Những nhân tố tác động đến chất lượng nguồn lao động ở thành phố Đà Nẵng.
+ Những thuận lợi và khó khăn về lao động, nguồn lao động ở thành phố Đà Nẵng.
+ Những nguyên nhân làm suy giảm chất lượng nguồn lao động ở thành phố Đà Nẵng.
- Gắn lý luận với thực tiễn phân tích, đánh giá vấn đề chất lượng nguồn lao động.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trên phương diện quản lý kinh tế luận văn nghiên cứu nguồn lao động và chất lượng nguồn lao động đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội dưới góc độ quản lý nhà nước là chủ yếu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Về thời gian: Giai đoạn 1999 - 2005.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, của Thành uỷ, UBND thành phố Đà Nẵng về nguồn lao động và chất lượng nguồn lao động trên địa bàn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dùng các phương pháp nghiên cứu như: thực nghiệm, chuẩn tắc, đối chiếu, so sánh, phân tích tổng hợp, thống kê, phương pháp tiếp cận từ cơ sở thực tiễn, tiếp cận kế thừa. Trong đó, phương pháp thực nghiệm và chuẩn tắc là hai phương pháp chủ yếu nhất.
6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Đóng góp về lý luận
Luận văn cố gắng làm sáng tỏ thêm lý luận về chất lượng nguồn lao động đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
6.2. Đóng góp về thực tiễn
Luận văn đóng góp vào việc phân tích, đánh giá thực trạng lao động, chất lượng nguồn lao động đồng thời đề xuất một số giải pháp cho việc nâng cao chất lượng nguồn lao động ở thành phố Đà Nẵng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
Một số vấn đề cơ bản về nguồn lao động và chất lượng nguồn lao động
1.1. Nguồn lao động và chất lượng nguồn lao động đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội
1.1.1. Một số khái niệm về nguồn lao động
Trước khi tìm hiểu về nguồn lao động ta cần nhận thức cơ bản về nguồn nhân lực.
- Khái niệm về nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực chính là nguồn lực con người, là nguồn lực quan trọng nhất của mỗi quốc gia nói chung hay một địa phương nói riêng, bởi con người vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Theo TS. Mai Quốc Chánh, nguồn nhân lực được hiểu như sau:
Với tư cách là nơi cung cấp lao động cho xã hội, nguồn nhân lực là toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường (không bị khiếm khuyết, dị tật bẩm sinh).
Với tư cách là một nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội.
Với tư cách là tổng hợp cá nhân những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động, nguồn nhân lực là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh thần được huy động vào quá trình lao động. Theo cách hiểu này thì nguồn nhân lực bao gồm những người bắt đầu bước vào độ tuổi lao động, có tham gia vào nền sản xuất xã hội [13, tr.7].
Theo Đại từ điển kinh tế thị trường: Nhân lực: nhìn từ góc độ kinh tế chính trị chủ yếu là chỉ lực lượng và năng lực những người làm lao động sản xuất (bao gồm cả lao động thể lực và lao động trí tuệ) cũng tức là sức lao động [52, tr.1063].
Một cách hiểu khác: Nguồn nhân lực là bộ phận dân số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động [24, tr.95]. Vì thế, nguồn nhân lực phụ thuộc vào cả hai yếu tố: “độ tuổi lao động” theo quy định của mỗi quốc gia và “khả năng tham gia lao động của từng cá nhân”.
Như vậy, nếu nhìn nhận theo những góc độ khác nhau thì nguồn nhân lực được hiểu khác nhau nhưng nhìn chung các cách diễn đạt ấy đều có chung một ý nghĩa là nói lên khả năng lao động của xã hội.
- Khái niệm về nguồn lao động:
Theo giáo trình Kinh tế học phát triển: Nguồn lao động bao gồm tất cả những người trong độ tuổi lao động đang tham gia làm việc hoặc đang tích cực tìm kiếm việc làm [24, tr.96].
Có thể hiểu nguồn nhân lực là một bộ phận của dân số, nguồn lao động lại là một bộ phận của nguồn nhân lực, nguồn lao động bao gồm phần lớn là những người đang làm việc và một số người thất nghiệp. Điều này được tóm tắt theo sơ đồ sau:
Dân số
Nguồn nhân lực
(trong độ tuổi lao động và có khả năng tham gia lao động)
Nguồn lao động (đang làm việc hoặc đang tìm kiếm việc làm)
Có việc làm
Thất nghiệp
Ngoài nguồn lao động (Không có nhu cầu làm việc hoặc đang đi học, nội trợ)
Ngoài độ tuổi lao động hoặc không có khả năng tham gia lao động
ở nước ta, độ tuổi lao động theo quy định: nam từ 15 đến hết 60 tuổi, nữ từ 15 đến hết 55 tuổi.
Từ những khái niệm trên cho thấy:
Thứ nhất, nguồn lao động là một bộ phận của nguồn nhân lực. Bởi trong xã hội có những người hội đủ hai yếu tố “ở độ tuổi lao động” và “có khả năng tham gia lao động” nhưng họ không muốn làm việc, không có nhu cầu lao động hoặc họ đang đi học hay nội trợ gia đình. Đây là lực lượng thuộc nguồn nhân lực nhưng không thuộc nguồn lao động.
Thứ hai, lượng người thất nghiệp là chênh lệch giữa nguồn lao động và tổng số người đang làm việc.
Thứ ba, nguồn nhân lực và nguồn lao động của một quốc gia đều phụ thuộc vào “độ tuổi lao động” theo quy định và “khả năng tham gia lao động” của các cá nhân thuộc quốc gia đó. Ngoài ra nguồn lao động còn phụ thuộc vào đặc điểm, tập tục, thói quen, tình cảm, lối sống, quan niệm về lao động... của người dân nước đó. Chẳng hạn, có quan niệm cho rằng phụ nữ phải là người chuyên nội trợ - không tham gia lao động xã hội, kiếm tiền nuôi gia đình qua việc tham gia lao động xã hội là việc làm của nam giới; hay với lối sống ích kỷ, thích hưởng thụ thì con người sẽ có thói quen chây lười, không thích làm việc, chỉ muốn sống bám vào người khác...
Trong thực tế, khi điều tra, tính toán thì bộ và các sở lao động thương binh & xã hội lại có quan niệm hơi khác về nguồn lao động. “Nguồn lao động theo quy định bao gồm những người tham gia hoạt động kinh tế và những người hiện không làm việc nhưng đang trong độ tuổi lao động” [5, tr.5]. Theo cách tính này thì nguồn lao động có thể lớn hơn dân số trong độ tuổi lao động khi có số người ngoài độ tuổi lao động nhưng vẫn tham gia lao động.
- Khái niệm về chất lượng nguồn lao động:
Trước hết, chúng ta luôn nhìn thấy được lao động là hoạt động của con người, “Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên” [30, tr.230]. Khi lao động, con người sử dụng chính sức lao động của mình để tác động vào đối tượng lao động. “Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó” [30, tr.217-218]. Như vậy theo C.Mác sức lao động chính là năng lực lao động tồn tại dưới dạng năng lực thể chất - sức khỏe, sức cơ bắp và năng lực tinh thần - sức thần kinh, trí óc. Chất lượng lao động xét theo cá nhân, chính là trạng thái của sức lao động, bởi con người khi tham gia lao động suy cho cùng, họ thực hiện công việc tốt đến mức độ nào là do năng lực thể chất, năng lực tinh thần của họ mà thôi.
“Chất lượng nguồn lao động là khả năng lao động của người lao động” [24, tr.97]. Vì vậy chúng ta có thể hiểu: chất lượng lao động là trạng thái nhất định của nguồn lao động, nó được thể hiện qua mối quan hệ giữa các yếu tố hợp thành bản chất bên trong của nguồn lao động.
Như vậy, có thể nói chất lượng nguồn lao động là tổng thể những đặc tính biểu hiện ở từng người lao động và trên phạm vi từng vùng, từng đơn vị sản xuất kinh doanh về các mặt: sức khỏe, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn nghề nghiệp, trình độ tổ chức, phẩm chất, đạo đức, ý thức pháp luật, các yếu tố về tâm lý, tập quán...
Như vậy, chất lượng nguồn lao động được xem là một chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương hay quốc gia; bởi chất lượng nguồn lao động với tư cách là một nguồn lực thì nó là động lực của sự phát triển, còn với tư cách là con người thì nó là trình độ sống của xã hội.Vì thế, có thể nói rằng: chất lượng lao động là một chỉ tiêu kép, nó vừa là chỉ tiêu kinh tế vừa là chỉ tiêu xã hội.
1.1.2. Vai trò của nguồn lao động và chất lượng của nó đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội
Nếu xét nguồn lao động dưới góc độ là con người thì ta thấy rằng trong mọi thời đại, con người luôn chiếm vị trí hàng đầu trong sự phát triển kinh tế - xã hội, vai trò này thể hiện qua một số nội dung chủ yếu sau:
- Người lao động là yếu tố hàng đầu, quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Theo V.L Lênin: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động” [29, tr.30]. Chính con người chế tạo ra công cụ lao động, cải biến đối tượng lao động, tổ chức quá trình lao động, phối hợp các yếu tố sản xuất một cách hợp lý để tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Thông qua hoạt động sản xuất, con người đã từng bước hoàn thiện tư liệu sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngày nay, cho dù khoa học công nghệ đã phát triển mạnh mẽ, đúng như dự báo của C.Mác: “Khoa học là một động lực lịch sử, là lực lượng cách mạng” [31, tr.663] thì nhân tố con người vẫn chiếm một vị trí quan trọng và càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết bởi ở điều kiện này con người phải có một năng lực sáng tạo, một trình độ kỹ thuật cao với một ý thức trách nhiệm lớn lao hơn nhiều.
- Người lao động là chủ thể sáng tạo mới và hoàn thiện quan hệ sản xuất.
Con người không những là yếu tố hàng đầu, quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất mà còn là chủ thể sáng tạo, đổi mới quan hệ sản xuất, bởi lẽ, trong quá trình lao động, con người luôn sáng tạo vươn tới cái hoàn thiện hơn và trăn trở, tìm tòi kỹ thuật mới nhằm đáp ứng nhu cầu cuộc sống ngày càng cao. Đến khi, khoa học - công nghệ mới ra đời lại tiếp tục đòi hỏi con người tự nâng cao trình độ để đáp ứng và kích thích sáng tạo mới hơn. Kết quả của sự tác động qua lại mang tính biện chứng này là con người ngày càng tự cải biến mình, quan hệ sản xuất ngày càng hoàn thiện, xã hội loài người ngày càng tiến bộ.
Trong quá trình này sự phân công và hợp tác lao động đã xuất hiện và diễn ra ngày càng sâu sắc, các lao động cá thể liên kết lại với nhau nhằm huy động sức mạnh tập thể, người quản lý, điều khiển hoạt động chung cũng ra đời và đóng vai trò ngày càng cao. “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần nhạc trưởng”[32, tr.480]. Tính chất xã hội hóa nền sản xuất ngày càng cao không những trong phạm vi quốc gia mà lan tỏa ra cả khu vực và thế giới, lao động quản lý phát triển, đạo đức quản lý ngày càng cần được nâng cao và không thể thiếu trong mọi hoạt động sản xuất. Chính vì thế, quan hệ sản xuất ngày càng được hoàn thiện.
- Người lao động vừa là động lực, vừa là mục tiêu thúc đẩy mọi sự phát triển.
Mọi hoạt động lao động của con người đều nhằm đạt được những lợi ích nhất định. Người lao động làm việc gì, ở đâu, dưới hình thức nào cũng đều nhằm đạt đến nhu cầu lợi ích của mình, lợi ích càng cao càng hấp dẫn con người, thúc đẩy con người hoạt động có hiệu quả hơn.Về điều này, C.Mác cho rằng: “Một khi tư tưởng tách rời lợi ích thì nhất định sẽ làm nhục nó” [33, tr.326]. Cũng vì quan tâm đến lợi ích cùng với tính tự ái, lòng tự trọng vốn có của con người đã tạo nên sự hăng hái thi đua trong lao động - đây là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển sản xuất, do đó thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Mọi sự phát triển, suy cho cũng nhằm phục vụ cho nhu cầu của con người, những nhu cầu đó tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, cấp độ khác nhau nhưng đều có quan hệ chặt chẽ với nhau và chi phối mạnh mẽ hành vi của con người. Nền kinh tế nào hướng trực tiếp vào nhu cầu con người, phục vụ cho con người thì nền kinh tế đó sẽ phát triển nhanh. Nền kinh tế tư bản phát triển nhanh vì đã biết coi trọng con người với tư cách là thị trường tiêu thụ hàng hóa. Thật ra, không có một nền kinh tế nào mà không vì con người; chỉ có sự khác nhau về mức độ phục vụ cao hay thấp, phạm vi phục vụ cho nhiều hay ít người. Với mục tiêu, bản chất chính trị của xã hội XHCN thì nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà chúng ta đang xây dựng là nền kinh tế đặt con người lên vị trí hàng đầu, coi sự phát triển và tiến bộ của xã hội là mục tiêu số một. Như vậy, con người chính là mục tiêu của sự phát triển.
Khi xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mọi quốc gia đều phải dựa trên cơ sở tiềm năng về con người, vật chất kỹ thuật của đất nước. Khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh mọi chủ thể đều phải xem xét lựa chọn, sử dụng các yếu tố sản xuất như thế nào cho phù hợp và hiệu quả nhất. Những cơ sở tiềm năng kinh tế, những yếu tố sản xuất mà quốc gia hay chủ thể kinh tế quan tâm, suy cho cùng chính là các nguồn tài nguyên thiên nhiên, khoa học công nghệ, lao động và vốn, trong kinh tế học người ta gọi đó là các nguồn lực kinh tế. Trong 4 nguồn lực nói trên thì nguồn lực lao động là nguồn lực có vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi vì lao động chính là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế, thiếu nó thì không có hoạt động kinh tế nào tiến hành được. Mọi hoạt động kinh tế - xã hội sẽ ngừng lại ngay và không còn ý nghĩa gì nữa nếu như không có sự tác động và tham gia của con người. Nói một cách đơn giản, dễ hiểu: hoạt động kinh tế - xã hội là hoạt động của con người, do con người quản lý, điều hành và thực hiện - nó xuất phát từ ý chí của con người, do con người hành động và nhằm thỏa mãn mục đích của con người (đó là mục đích tồn tại và phát triển). Hoạt động kinh tế - xã hội là hoạt động của con người, do con người và vì con người.
Xét rộng hơn, chúng ta có thể dễ dàng thấy đựơc quá trình phát triển kinh tế - xã hội của một địa phương hay một quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào vai trò của con người tham gia trong các quá trình đó. Nói cách khác, hiệu quả của mọi hoạt động kinh tế, tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của một địa phương hay quốc gia là do nguồn lao động quyết định- chính nguồn lao động là nhân tố quyết định hàng đầu và không thể thay thế được hoàn toàn bởi một nguồn lực nào khác. Nói về điều này giáo trình kinh tế học phát triển cũng phân tích rõ:
* Lao động là nhân tố quyết định việc tổ chức, sử dụng có hiệu qủa các nguồn lực khác. Ngày nay khi phân tích các bộ phận cấu thành nguồn lực phát triển kinh tế, hầu hết các quốc gia đều khẳng định các nguồn lực chủ yếu: lao động, tài nguyên thiên nhiên, vốn và khoa học công nghệ. Nhưng cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định rằng, nguồn lao động là nhân tố quyết định việc tái tạo, sử dụng, phát triển các nguồn lực còn lại. Không dựa trên nền tảng phát triển cao của nguồn lao động về thể chất, trình độ văn hóa, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý và lòng nhiệt tình... thì không thể sử dụng hợp lý các nguồn lực trên. Thậm chí thiếu một nguồn lực lao động chất lượng cao có thể làm lãng phí, cạn kiệt và hủy hoại các nguồn lực khác. Trong nền kinh tế công nghiệp và nền kinh tế tri thức, nguồn lao động chất lượng cao là nhân tố quyết định.
* Lao động là một bộ phận của các yếu tố “đầu vào” của quá trình sản xuất. Chi phí lao động, mức tiền công thể hiện sự cấu thành của nguồn lực lao động trong hàng hóa, dịch vụ. Như vậy chi phí nguồn lực lao động trở thành nhân tố cấu thành mức tăng trưởng của nền kinh tế.
Hơn nữa, là một bộ phận của dân số, nguồn lao động tham gia tiêu dùng các sản phảm và dịch vụ xã hội. Như vậy, với tư cách bộ phận của dân số thực hiện quá trình tiêu dùng, nguồn lao động trở thành nhân tố tạo cầu của nền kinh tế. Điểm khác biệt cơ bản giữa nguồn lao động với các nguồn lực khác là vừa tham gia tạo cung, vừa tham gia tạo cầu của nền kinh tế, lại vừa trực tiếp điều tiết quan hệ đó gắn với các thể chế kinh tế - xã hội do con người tạo nên. Nguồn lực lao động vừa có nhu cầu tự thân để phát triển với yêu cầu ngày càng cao và phong phú, vừa là chủ thể sáng tạo công nghệ, điều chỉnh cơ cấu kinh tế để thỏa mãn các nhu cầu đó [24, tr.92-93].
Ngược lại, kinh tế phát triển sẽ có tác động đến sự phát triển của nguồn lao động cả về số lượng và chất lượng. Kinh tế phát triển, vật chất của cải tăng lên là điều kiện cho con người nâng cao mức sống về cả vật chất lẫn tinh thần. Hơn thế nữa, nền kinh tế phát triển với sự xuất hiện nhiều ngành nghề mới, những công nghệ mới và phương thức quản lý mới, điều này đòi hỏi con người phải tiếp tục nâng cao chất lượng lao động để thích ứng.
Cả số lượng và chất lượng nguồn lao động đều có tác động quan trọng đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Số lượng nguồn lao động là tổng số người lao động xét về mặt thể lực của họ với tư cách là một yếu tố của quá trình lao động sản xuất.
Số lượng nguồn lao động tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội như thế nào? Trả lời câu hỏi này không phải đơn giản, song chúng ta có thể điểm nét như sau: Nguồn lao động dồi dào sẽ cho phép chủ thể kinh tế huy động và sử dụng dễ dàng nguồn lực này để khai thác các nguồn lực khác nhằm phát triển các ngành kinh tế - xã hội và qua đó thúc đẩy được quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, khác với các yếu tố khác nguồn lao động với tư cách là sức lao động, là con người - có yêu cầu về tâm sinh lý, có quan hệ xã hội, văn hóa, chính trị, kinh tế. Ngoài việc tham gia sản xuất kinh doanh, tạo ra của cải vật chất xã hội họ còn tiêu phí các sản phẩm đã được sản xuất ra qua quá trình sinh ra, lớn lên, già cả và chết đi. Vì thế, việc khai thác mặt lượng của nguồn lao động đòi hỏi các chủ thể phải có cơ chế, chính sách đúng đắn, nếu không thì việc sử dụng các nguồn lực sẽ bị hạn chế.
Chất lượng nguồn lao động có vai trò rất quan trọng đối với qúa trình phát triển kinh tế - xã hội, bởi các lẽ sau đây:
Thứ nhất, cùng một lượng lao động như nhau nhưng với chất lượng khác nhau hiển nhiên sẽ cho ra các kết quả lao động khác nhau rất nhiều. Đồng thời, sự đầu tư về chất cho nguồn lao động cũng sẽ mang lại kết quả cao hơn nhiều so với sự đầu tư về lượng cho nguồn lao động. Thực tế đã cho chúng ta thấy rất rõ về điều này.
Thứ hai, chất lượng nguồn lao động được tăng lên sẽ là điều kiện hàng đầu cho khoa học phát triển, trí tuệ của con người được chuyển hóa thành công nghệ, vốn và tài nguyên thiên nhiên được sử dụng tiết kiệm hơn, hiệu quả hơn. Như vậy, chất lượng lao động là nguồn lực có sức mạnh to lớn thúc đẩy nhanh chóng quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba, chất lượng nguồn lao động là chất lượng của con người nên nó có khả năng phát triển vượt trội và năng lực ấy hầu như không có giới hạn. Điều này đã, đang và sẽ làm cho xã hội loài người đạt được vô số những thành tựu quý báu và kỳ diệu.
Thứ tư, “Các yếu tố khác của quá trình sản xuất không có sức mạnh tự thân, chúng chỉ có thể vận hành và phát huy tác dụng tích cực khi kết hợp với nhân tố con người ” [23, tr.9]. Nghĩa là, các nguồn lực khác không có khả năng tự thân vận động, tất cả đều phụ thuộc ít, nhiều vào nguồn lực lao động nên chất lượng nguồn lao động một khi được cải thiện sẽ tạo nên sự bức phá trong việc nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng các nguồn lực, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Tóm lại, nếu phải làm một phép so sánh về sự tác động và vai trò của số lượng nguồn lao động với chất lượng nguồn lao động đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội thì chúng ta không ngần ngại để trả lời ngay rằng: Chất lượng nguồn lao động có tác động và vai trò to lớn hơn nhiều, nó quyết định hiệu quả và chất lượng của mọi hoạt động kinh tế - xã hội.
1.1.3. Tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn lao động
Để đánh giá về chất lượng nguồn lao động người ta thường dùng hệ thống các chỉ tiêu chủ yếu sau đây:
1.1.3.1. Thể lực (sức khỏe)
Tất cả mọi người chúng ta đều hiểu rằng khi còn trẻ, con người thường rất khoẻ, theo quy luật tự nhiên sức khoẻ sẽ ngày càng giảm xuống khi tuổi đời ngày càng tăng, nếu có tập luyện thì sẽ làm chậm hơn quá trình này nhưng cũng không thể chống chọi mãi với quy luật tự nhiên đó.
Sức khỏe tốt là thứ tài sản quý giá nhất đối với con người, là điều kiện quan trọng để biến tri thức thành sức mạnh vật chất. Sức khỏe là một trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần, không đơn thuần là không có bệnh. Sức khỏe là tổng hòa nhiều yếu tố tạo nên giữa bên trong và bên ngoài, giữa thể chất và tinh thần. Người lao động có sức khỏe tốt và phù hợp với công việc được giao là một điều kiện cần thiết và bắt buộc. Nếu không có sức khỏe thì con người sẽ chẳng thể nào tham gia lao động được. Khi người lao động khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần thì họ mới có thể có khả năng và thực hiện tốt công việc được giao. Bởi vì, với điều kiện sức khỏe tốt thì người lao động mới có thể hưng phấn làm việc và cống hiến nhiều hơn, mới có khả năng tập trung trí tuệ khi làm việc, mới có niềm tin và ý chí để hoàn thành tốt công việc được giao.
Khi đề cập đến vấn đề nguồn lực con người trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta đã khẳng định rằng: “Sự cường tráng về thể chất là nhu cầu của bản thân con người, đồng thời là vốn quý để tạo ra tài sản trí tuệ và vật chất cho xã hội” [14, tr.30].
Cho dù có học vấn cao, có trình độ chuyên môn tay nghề giỏi, có ý thức lao động tốt nhưng thiếu sức khỏe thì người lao động cũng không thể hoạt động lao động hay cống hiến khả năng của mình cho xã hội. Vậy, sức khỏe là một chỉ tiêu chất lượng, là một điều kiện hàng đầu để người lao động tham gia lao động tốt.
1.1.3.2. Trình độ học vấn
Trình độ học vấn của người lao động là mức độ hiểu biết của người lao động về khoa học tự nhiên và xã hội ở cấp học phổ thông. Trình độ học vấn là các mức chuẩn được xã hội thừa nhận và đánh giá qua bằng tốt nghiệp các cấp tiểu học, phổ thông cơ sở, phổ thông trung học hay lớp học cao nhất đã học xong. Trình độ văn hóa của người lao động là những tri thức của nhân loại mà họ tiếp thu được theo những cấp độ khác nhau. Trên thực tế, trình độ văn hóa của người lao động đạt được thông qua nhiều hình thức như: đi học tại các trường lớp, tự học ở nhà, học qua thực tế, kinh nghiệm... song phần lớn là do họ được học qua trường lớp. Xã hội thường đánh giá trình độ văn hóa của người lao động thông qua bằng cấp mà họ có được. Đa số bằng cấp chứng nhận trình độ học vấn phản ánh chính xác trình độ văn hóa của người lao động. Song, có một số người tuy có bằng cấp nhưng khả năng thực tế rất hạn chế, ngược lại, một số khác có năng lực thực tế nhưng không có điều kiện để thi cử, lấy bằng.
Sự hiểu biết về khoa học tự nhiên và xã hội là điều kiện quan trọng để người lao động tiếp xúc, sử dụng máy móc, thiết bị, công nghệ, kỹ thuật ở nơi sản xuất. Nói cách khác, trình độ văn hóa là cơ sở hàng đầu để người lao động tiếp thu các kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, giác ngộ giai cấp, nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật lao động... Người lao động có trình độ là “ Tài sản quý giá nhất ” của quốc gia [22, tr.6]. Do đó, yêu cầu đặt ra đối với người lao động hiện nay là phải học liên tục, học suốt đời. Phải thay đổi quan niệm “học một lần cho cả cuộc đời” bằng quan niệm “học liên tục trong suốt cuộc đời” [44, tr.26]. Trước đây, có nhiều quan niệm sai lệch về việc học, chẳng hạn, ở thời phong kiến học là để làm quan, thời bao cấp học là để thoát ly công việc nặng nhọc... Ngày nay vẫn còn những quan niệm đó và phổ biến hơn nữa là nhiều người cho rằng: học một lần cho cả đời - học đến một cấp nào đó để có thể làm việc hoặc để có công việc ổn định thì không cần phải học nữa! Nếu như vậy thì người lao động sẽ bị lạc hậu về tri thức, gây hạn chế cho kết quả lao động. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, làm cho khối lượng tri thức nhân loại ngày càng rộng lớn, đổi mới và phát triển không ngừng. Điều này, đòi hỏi con người nói chung, lao động nói riêng phải học liên tục để có kiến thức cho bản thân, đồng thời đáp ứng được nhu cầu phát triển sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.3.3. Trình độ chuyên môn, tay nghề, kỹ năng, kỹ xảo
Trình độ chuyên môn là những kiến thức, sự hiểu biết về chuyên môn nghề nghiệp của người lao động theo những cấp độ khác nhau. Trình độ chuyên môn của người lao động có được thường là nhờ qua đào tạo ở các trường đào tạo nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, sau đại học...Trình độ chuyên môn cũng được đánh giá qua bằng cấp với các loại bằng như bằng công nhân kỹ thuật, sơ cấp, trung cấp, đại học, thạc sỹ, tiến sỹ...Trình độ chuyên môn của người lao động được thể hiện ở khả năng ứng dụng lý thuyết, thực hành để sản xuất ra sản phẩm, để chỉ đạo, điều hành, quản lý công việc thuộc lĩnh vực được đào tạo. Trình độ chuyên môn là điều kiện cần thiết, quan trọng đối với cả lao động trực tiếp và lao động gián tiếp - lao động quản lý.
Trình độ kỹ thuật là khái niệm thường được dùng để chỉ trình độ của người lao động về kỹ thuật sản xuất, kỹ năng thực hành công việc hay một lĩnh vực kỹ thuật nhất định. Trình độ kỹ thuật thường bao gồm những kiến thức đã được trang bị ở trường kỹ thuật và phải được ứng dụng vào hoạt động thực tế để trau dồi, củng cố, rèn luyện và hoàn thiện, nếu không sẽ bị khiếm khuyết, mất mác, mai một dần.
Thường thường, đối với lao động trực tiếp sản xuất sản phẩm thì trình độ chuyên môn của người lao động còn thể hiện ở trình độ tay nghề của họ và được xã hội công nhận qua tiêu chuẩn bậc thợ, đây cũng là tiêu chuẩn để người sử dụng lao ._.động trả lương và phân công lao động.
Kỹ năng, kỹ xảo là những năng lực mà người lao động có được trong thao tác sản xuất, vận hành máy móc, sử dụng thiết bị kỹ thuật, thực hiện công việc quản lý... Những năng lực này có được là nhờ sự kết hợp của nhiều yếu tố như: kinh nghiệm thực tiễn, tính ham hiểu biết, sự kiên trì tìm tòi, lòng say mê với nghề nghiệp, khả năng bẩm sinh...Và cũng chính những yếu tố này là điều kiện, cơ sở cho những phát minh, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, những tích lũy kinh nghiệm, nghệ thuật quản lý ra đời.
Trình độ chuyên môn, kỹ thuật, tay nghề, kỹ năng kỹ xảo là một tiêu chuẩn, một yêu cầu đặc biệt quan trọng đối với người lao động hiện nay, nhất là trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và trước ngưỡng cửa hội nhập nền kinh tế với khu vực và thế giới. Có việc hay thất nghiệp, hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển như thế nào, tốc độ tăng trưởng kinh tế ra sao... phần lớn là phụ thuộc vào tiêu chí này. Đây là một chỉ tiêu đặc biệt để đáng giá chất lượng nguồn lao động.
1.1.3.4. Phong cách tác phong
Phẩm chất của người lao động được thể hiện qua phong cách, tác phong lao động. Đây là chỉ tiêu phản ánh mặt định tính, khó có thể định lượng được. Phong cách, tác phong của người lao động được hình thành từ truyền thống văn hóa văn minh dân tộc, tâm lý, phong tục tập quán, lối sống...Đấy là những phạm trù biểu hiện những suy nghĩ, những thói quen đã tồn tại khá lâu trong hoạt động sản xuất và sinh hoạt của dân cư ở từng vùng, từng dân tộc và từng ngành sản xuất. Về thực chất, tâm lý, tập quán, lối sống là những yếu tố tác động đến chất lượng nguồn lao động, trong đó có nhiều yếu tố cấu thành trí lực người lao động nên người ta vẫn thường xem đấy là những yếu tố tạo thành chất lượng nguồn lao động.
Phong cách, tác phong của người lao động trong hoạt động sản xuất kinh doanh được thể hiện ở thái độ làm việc, tốc độ thao tác, tính nghiêm túc chấp hành giờ giấc lao động, ý thức tổ chức kỷ luật, mức độ đoàn kết gắn bó giữa các cá nhân, tinh thần trách nhiệm đối với công việc... Rõ ràng, đây là những chỉ tiêu không kém phần quan trọng đóng góp vào kết quả sản xuất kinh doanh. Do đó, phong cách tác phong cũng là một chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá chất lượng của nguồn lao động.
1.1.3.5. Cơ cấu lao động
Chất lượng nguồn lao động không chỉ được xem xét dưới góc độ cá nhân người lao động thông qua các chỉ tiêu về chất lượng của cá nhân, mà còn được nhìn nhận ở góc độ tổng thể nguồn lao động. Trên góc độ tổng thể nguồn lao động, chất lượng nguồn lao động thể hiện ở cơ cấu nguồn lao động xét theo ngành nghề và cơ cấu lao động trong từng ngành cụ thể, cũng như cơ cấu xét theo tính chất lành nghề của chất lượng chuyên môn.
Cơ cấu lao động hợp lý sẽ cho phép sử dụng có hiệu quả nguồn lao động. Ngược lại, cơ cấu lao động thiếu hợp lý sẽ không chỉ gây lãng phí sức lao động, mà còn có thể gây ra nhiều hậu quả tiêu cực về mặt kinh tế - xã hội. Cơ cấu lao động hiện nay ở nước ta còn nhiều bất hợp lý, chẳng hạn, cơ cấu về trình độ đào tạo giữa đại học, trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật là 1/ 0,91/ 2,77 (năm 2004), tỷ lệ này còn chênh lệch rất lớn so với tỷ lệ hợp lý theo kinh nghiệm của nhiều nước đó là 1/ 4/ 10.
Ngoài các chỉ tiêu trên, chất lượng nguồn lao động còn được đánh giá qua trình độ và ý thức pháp luật của người lao động. Đó là mức độ tuân thủ pháp luật của người lao động. Người lao động sống và làm việc theo pháp luật, năng động hơn người lao động sống và làm việc theo những điều mà luật không cấm. Sự chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của người lao động sẽ tạo nên tính trật tự, an toàn và thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lao động
Chất lượng nguồn lao động chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, chính vì thế làm cho nguồn lao động không ngừng biến đổi về cả số lượng và chất lượng. Có thể phân nhóm các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lao động như sau:
1.1.4.1. Các nhân tố tự nhiên
Đó là các yếu tố về tự nhiên như thời tiết, khí hậu, địa hình, nguồn nước, nguồn tài nguyên khoáng sản, rừng, biển... Các yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến chất lượng nguồn lao động.
Các nhân tố tự nhiên tác động trực tiếp đến người lao động làm ảnh hưởng đến sức khỏe của họ. Điều kiện thời tiết, khí hậu, nguồn nước, điều kiện thiên nhiên rừng, biển, bầu không khí có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của người lao động về cả mặt thể chất lẫn tinh thần. Chẳng hạn, với khí hậu ôn hòa, nguồn nước không ô nhiễm người lao động sẽ được đảm bảo hơn về sức khỏe, hít thở một bầu không khí trong lành con người tự nhiên cảm thấy tinh thần sảng khoái...
Các nhân tố tự nhiên với tư cách là nguồn lực kinh tế là cơ sở cho sự phát triển kinh tế - xã hội, vì thế nó sẽ tạo ra những điều kiện vật chất để nâng cao chất lượng nguồn lao động cả về sức khỏe và trí tuệ. Mức độ tác động của các nhân tố này tùy thuộc vào trình độ khai thác và sử dụng các nguồn lực tự nhiên.
1.1.4.2. Các nhân tố kinh tế
Các nhân tố kinh tế bao gồm tiềm lực kinh tế và trình độ phát triển kinh tế của địa phương hay quốc gia.
Tiềm lực kinh tế chính là quỹ đất đai, cơ sở hạ tầng sản xuất, cơ sở hạ tầng xã hội, quỹ tài chính, tiền tệ, quỹ dự trữ... Tiềm lực kinh tế mạnh mẽ hay yếu kém sẽ tạo điều kiện thuận lợi hay gây trở ngại đến việc cải thiện chất lượng nguồn lao động. Ví dụ, với khả năng tài chính eo hẹp thì việc đầu tư cho giáo dục, đào tạo, đào tạo lại nguồn lao động sẽ bị hạn chế và như thế chất lượng lao động cũng khó có thể nâng cao được. Tiềm lực kinh tế yếu kém làm cho sức phát triển nền kinh tế bị hạn chế, do đó, đời sống người lao động gặp khó khăn, sức khỏe người lao động theo đó cũng giảm sút.
Trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia thể hiện ở cơ chế vận hành nền kinh tế, phạm vi tham gia phân công, hợp tác lao động, mức độ tiêu dùng, nhu cầu xã hội... Hiện nay ở nước ta, với cơ chế thị trường, yêu cầu hội nhập, mức độ tiêu dùng và nhu cầu xã hội ngày càng tăng, những nhân tố này đã ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng nguồn lao động.
Trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia hay một địa phương là kết quả của việc khai thác và sử dụng các nguồn lực kinh tế, trong đó có nguồn lực lao động, đồng thời, nó cũng là cơ sở cho nguồn lao động phát triển. Nghĩa là, trình độ phát triển kinh tế vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của chất lượng nguồn lao động. Sự phát triển trí tuệ, kỹ năng lao động, đời sống người lao động phụ thuộc rất nhiều vào trình độ phát triển kinh tế.
1.1.4.3. Các nhân tố xã hội
Các nhân tố xã hội như phong tục tập quán, truyền thống văn hóa, thể chế chính trị có tác động quan trọng đến chất lượng nguồn lao động.
Phong tục tập quán, truyền thống văn hóa ảnh hưởng đến nhận thức đầu tư cho học tập, qua đó ảnh hưởng đến ý thức, khả năng lao động tức chất lượng lao động.
Thể chế chính trị có tạo điều kiện cho việc nâng cao chất lượng nguồn lao động hay không là tùy thuộc vào chế độ chính trị đó có quan tâm đến đời sống người lao động hay không. Trên thực tế, sự tác động này thể hiện thông qua sự tác động của các chính sách kinh tế, xã hội của Nhà nước, của chính phủ đến người lao động (như chính sách việc làm, chính sách tiền lương, thu nhập, chính sách ưu đãi lao động chất lượng cao...)
Trong các nhân tố xã hội thì nhân tố chủ quan của con người, nhất là sự quan tâm đến giáo dục - đào tạo, đấy là nhân tố quan trọng nhất. Giáo dục - đào tạo có ảnh hưởng rất lớn, có tác dụng rất quan trọng đến chất lượng nguồn lao động. Nền tảng tri thức, trình độ chuyên môn, nghề nghiệp, kể cả tác phong lao động cao hay thấp, được cải thiện hay không là tùy thuộc vào việc giáo dục, đào tạo.
Nhân tố giáo dục - đào tạo tác động đến chất lượng nguồn lao động không chỉ trong thời điểm trước mắt mà còn có ảnh hưởng rất lớn đến tương lai. Bởi các thế hệ luôn nối tiếp nhau, học sinh ở các cấp trong hiện tại sẽ là nguồn lao động ở các lứa tuổi trong tương lai. Hơn nữa, việc giáo dục, đào tạo phân ban, phân ngành, hướng nghiệp cũng sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến cơ cấu lao động theo ngành nghề, theo cấp độ chuyên môn kỹ thuật. Vì thế, mọi chính phủ luôn quan tâm đến việc đầu tư các nguồn lực cho giáo dục, đào tạo và kể cả việc hoạch định chính sách, chiến lược giáo dục, đào tạo cơ bản, tổng thể và dài hạn.
1.2. Yêu cầu cấp bách của việc nâng cao chất lượng nguồn lao động
Việc nâng cao chất lượng nguồn lao động là một yêu cầu tất yếu khách quan bởi các lẽ sau đây:
1.2.1. Nhu cầu tiêu dùng của con người ngày càng tăng
Con người không những tồn tại mà còn phát triển. Điều này chính là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của con người. Nhu cầu tiêu dùng của con người ngày càng phong phú và đa dạng, đòi hỏi sản phẩm sản xuất ra ngày càng tăng cả về số lượng, chủng loại và chất lượng. Muốn vậy, phải có nguồn lao động có chất lượng tương xứng nên việc nâng cao chất lượng nguồn lao động là một yêu cầu tất yếu khách quan.
1.2.2. Nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống của con người
Việc tăng cường bồi dưỡng sức khỏe, mở mang tầm nhận thức hiểu biết, nâng cao trình độ chuyên môn tay nghề, không chỉ do yêu cầu phát triển sản xuất mà còn xuất phát từ chính nhu cầu của con người. Khi sống và làm việc, bản thân mỗi con người luôn muốn mình là người hữu ích cho gia đình, cho xã hội; thêm vào đó, do lòng tự trọng, tính tự ái sẵn có, nên con người cứ mãi có nhu cầu rèn luyện thể lực và phấn đấu học tập không ngừng. Đây là nhu cầu tự thân con người và là điều kiện tốt cho việc nâng cao chất lượng nguồn lao động của xã hội.
1.2.3. Cơ chế thị trường đòi hỏi nguồn lao động chất lượng cao
Cơ chế thị trường đề cao người tiêu dùng, xem khách hàng là thượng đế và coi trọng nhu cầu xã hội. Nhu cầu xã hội lại không ngừng thay đổi, người tiêu dùng luôn muốn có những sản phẩm hữu ích phục vụ cho nhu cầu của họ, nhưng phải với giá thành tương đối rẻ. Điều này khiến các chủ thể kinh tế phải hướng đến người tiêu dùng trên tất cả các mặt: số lượng, chủng loại, chất lượng và cả giá thành sản phẩm. Một trong những giải pháp quan trọng để giải quyết được các vấn đề trên là phải nâng cao chất lượng nguồn lao động.
Mặt khác, cơ chế thị trường là cơ chế tự do kinh tế và thừa nhận lợi ích cá nhân. Chính sự đề cao tự do kinh tế cộng với sự thừa nhận lợi ích cá nhân, về mặt tích cực đã tạo ra sự năng động, tính nhạy bén của từng ngành, từng cơ sở kinh tế và từng người lao động. Đây vừa là kết quả, vừa là điều kiện cho quy luật cạnh tranh phát huy tính tích cực của nó, vì trong cạnh tranh, bằng cải tiến thiết bị, nâng cao tay nghề công nhân, sự năng động trong tìm kiếm sản xuất các giá trị sử dụng mới là con đường cơ bản để từng doanh nghiệp, từng ngành đạt được lợi nhuận siêu ngạch [26, tr.18]. Như vậy, tự do kinh tế đã đòi hỏi và thúc đẩy nâng cao chất lượng lao động.
Cuối cùng, sự cạnh tranh quyết liệt trong nền kinh tế thị trường dẫn đến sự sàng lọc tự nhiên, đào thải những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, yếu kém. Muốn không bị đào thải, các doanh nghiệp phải tiến hành đổi mới công nghệ, thường xuyên nâng cao chất lượng nguồn lao động - kể cả lao động quản lý và lao động trực tiếp sản xuất sản phẩm.
Thế nhưng, nền kinh tế thị trường với những hạn chế và khuyết tật của nó như: phân hóa giàu nghèo, tiêu cực xã hội, ô nhiễm môi trường, độc quyền sản xuất, bất bình đẳng về kinh tế, xã hội... Những điều này gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng nguồn lao động ở các mặt: thể lực, trí lực, bởi chúng tạo ra những hạn chế về môi trường tự nhiên, về đời sống vật chất lẫn tinh thần, về cả sự phấn đấu và cơ hội học tập của người lao động.
Như vậy cơ chế thị trường đòi hỏi nâng cao chất lượng nguồn lao động vừa nhằm đáp ứng yêu cầu, tính chất phát triển của nó vừa để giảm bớt những ảnh hưởng xấu của nó đối với nguồn lao động nói riêng và sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
1.2.4. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi nâng cao chất lượng nguồn lao động
Muốn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mỗi quốc gia cần phải có những nguồn lực cần thiết, trong đó nguồn lao động là nguồn lực đóng vai trò quyết định, vì lao động sử dụng và quyết định hiệu quả các nguồn lực khác. “Nước ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ một mặt bằng kinh tế thấp kém và đội ngũ lao động chất lượng thấp. Vì thế, để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, một đòi hỏi cấp bách là không thể không nâng cao chất lượng nguồn nhân lực” [20, tr.24].
Mặt khác, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời đại ngày nay đòi hỏi phải có nguồn lao động vói những yêu cầu mới cao hơn. Đó là “người lao động có trí tuệ, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học công nghệ hiện đại” [15, tr.9].
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra nhanh hay chậm là tùy thuộc phần lớn vào chất lượng nguồn lao động. Muốn sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công nhanh chóng chúng ta phải có nguồn lao động chất lượng cao. Lực lượng lao động “dồi dào, giá rẻ” đã không còn là lợi thế trong thời đại ngày nay. Nói cách khác, nguồn lao động có sức khỏe, có trình độ học vấn, chuyên môn cao có khả năng tiếp thu và sử dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại; đồng thời phải có phẩm chất đạo đức, chính trị tốt đẹp, vững vàng mới có thể đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.2.5. Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực đòi hỏi nâng cao chất lượng nguồn lao động
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng XHCN,...” [16, tr.120]. Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ: "Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác" [17, tr.112].
Đối với những nước đang phát triển, kinh tế còn yếu kém, doanh nghiệp nhỏ bé, sức cạnh tranh còn thấp, trình độ quản lý nhà nước và kinh doanh còn hạn chế, thì hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực không chỉ có cơ hội mà còn có cả khó khăn, thách thức, thậm chí khó khăn thách thức là lớn, nhưng nêu cứ đứng ngoài cuộc, khó khăn có thể còn lớn hơn nhiều [43, tr.15]. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế khách quan chi phối sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế, bắt nguồn từ quy luật phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. Nước ta cũng không nằm ngoài quy luật đó, song để hội nhập có kết quả chúng ta phải có những điều kiện cần thiết, trong đó quan trọng là chất lượng nguồn lao động. “Tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao là một tiền đề hết sức quan trọng cho sự thành công của quá trình hội nhập kinh tế” [1, tr.213]. Nếu nguồn lao động của ta còn hạn chế không theo kịp yêu cầu đòi hỏi của hội nhập kinh tế quốc tế thì người nước ngoài sẽ lái chúng ta theo hướng của họ nhằm đạt lợi ích kinh tế cho họ.
Vậy, việc nâng cao chất lượng nguồn lao động cho hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề cấp thiết.
1.3. Kinh nghiệm về việc nâng cao chất lượng nguồn lao động của một số nước và vận dụng vào nước ta
1.3.1. Kinh nghiệm về việc nâng cao chất lượng nguồn lao động của một số nước có nền kinh tế phát triển
Các nước phát triển đều có nguồn lao động có chất lượng rất cao, được như vậy là nhờ sự quan tâm lớn của chính phủ và doanh nghiệp đến nâng cao chất lượng nguồn lao động. Tuy ở các nước đó nền kinh tế thị trường rất phát triển, nhưng việc kế hoạch hóa cho các vấn đề lựa chọn, bồi dưỡng, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn lao động vẫn được chú trọng.
Mỹ là nước rất quan tâm đến chất lượng lao động, ở nước này “trong thập kỷ 90, triết lý kinh doanh đã có một bước ngoặc từ quan niệm coi công nghệ là trung tâm sang coi con người là trung tâm, ưu tiên phát triển con người ở các khía cạnh tri thức, trình độ chuyên môn và động cơ lao động” [13, tr.21].
Quan điểm của chính phủ Mỹ là hướng vào phát triển công nghệ cao, bồi dưỡng nhân tài, thu hút chất xám, trọng tri thức, lấy giáo dục đại học làm phương tiện để chiếm lĩnh vị trí dẫn đầu trong phát minh và làm chủ công nghệ mới, xem đây là chiến lược cạnh tranh với quốc tế. Điều này đã đưa Mỹ trở thành nước dẫn đầu về số lượng phát minh và làm chủ công nghệ mới, giáo dục đại học ở Mỹ được nhiều nước học tập. Song, cũng chính điều này làm nền giáo dục Mỹ mất cân đối. Mỹ có nhiều trường đại học xuất sắc nhưng lại thiếu các trường đại học trung bình. Hệ thống giáo dục phổ thông của Mỹ hiệu quả thấp và tồn tại nhiều tệ nạn xã hội trong học sinh phổ thông. “Sự đầu tư cho các bậc học cũng mất cân đối, đầu tư ngân sách cho một sinh viên đại học lớn gấp 55 lần so với một học sinh phổ thông. Ngân sách đào tạo nghề của Mỹ kém xa so với các nước Tây Âu (kém hai lần so với Anh, Pháp, Tây Ban Nha; 3 lần so với Đức; 6 lần so với Thụy Điển). Điều đó dẫn đến kết quả là tuy Mỹ tạo ra được một bộ phận dân cư có học vấn cao nhưng trình độ học vấn chung của đại bộ phận dân cư và trình độ lành nghề của đội ngũ công nhân lại kém hơn so với các nước Tây Âu” [13, tr.24].
Nhật Bản là một nước có nền kinh tế phát triển, được như thế là nhờ nhiều yếu tố, nhưng quan trọng nhất vẫn là yếu tố con người. Chăm lo phát triển nguồn nhân lực, thường xuyên nâng cao chất lượng nguồn lao động là vấn đề chính phủ Nhật luôn quan tâm. Như các nước Tây Âu và Đức, Nhật Bản luôn chú ý đến tầng lớp dân chúng. Nhật Bản có nền giáo dục bậc thấp tốt nhất thế giới, chính nhờ đó mà nguồn lao động của nước này có trình độ tay nghề cao. Trong giáo dục Nhật Bản rất chú ý đến đạo đức, nhân cách, kỷ luật, lòng yêu lao động, sự kiên trì, nhẫn nại, tính tiết kiệm... đây là những yếu tố dẫn đến năng suất, chất lượng và hiệu quả cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh việc giáo dục của chính phủ, các doanh nghiệp ở Nhật Bản luôn chú trọng đào tạo và đào tạo lại lao động, bồi dưỡng và phát triển nguồn lao động, vì người lao động ngoài việc có tay nghề còn phải tiếp tục phát huy năng lực và nắm vững những chuyên môn mới, có như thế họ mới làm chủ thực sự quá trình lao động và có khả năng sáng tạo trong lao động.
Mặt khác, các doanh nghiệp ở Nhật Bản có chính sách đào tạo và sử dụng cán bộ của doanh nghiệp rất rõ ràng, hình thức đào tạo phong phú, chất lượng đào tạo cao. “ Việc đào tạo và bồi dưỡng được bắt đầu từ những hoạt động định hướng cho công nhân viên nhằm cung cấp cho họ kiến thức cơ sở về nghề nghiệp, mục đích hoạt động của hãng, tìm hiểu các quá trình sản xuất. Bước tiếp theo là đào tạo theo kiểu kèm cặp tại chỗ và gởi đi học ở các khóa đào tạo tại trường của hãng hay của các trường chính quy. Ngoài ra, cán bộ còn được mở rộng tầm nhìn và phát triển kỹ năng bằng cách luân chuyển vị trí làm việc hoặc được khuyến khích tham gia các nhóm làm việc có chuyên môn cao để bộc lộ năng lực cá nhân” [13, tr.27-28]. Việc đào tạo theo những cách thức trên nhằm nâng cao khả năng thích ứng với công việc khi điều kiện lao động và thị trường thay đổi. Chế độ thuê mướn lao động suốt đời cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp yên tâm đầu tư vào đào tạo lao động của mình.
Điều đáng chú ý là tất cả các biện pháp kích thích lao động đều tập trung vào những yếu tố kinh tế và những yếu tố tâm lý. Đó là việc động viên về kinh tế ở doanh nghiệp như: tăng lương hàng năm, thưởng theo định kỳ, trợ cấp phúc lợi...; việc động viên tâm lý dưới nhiều hình thức: sinh hoạt tinh thần, văn hóa công ty. Sự kết hợp khéo léo giữa động viên kinh tế và động viên tâm lý cùng với những tố chất sẵn có (truyền thống yêu lao động, tinh thần tập thể) đã góp phần tạo nên ở Nhật một đội ngũ lao động luôn toàn tâm, toàn ý với công việc chung - đội ngũ lao động chất lượng cao.
Nhật Bản còn chú trọng khai thác năng lực sáng tạo của nguồn lao động, chẳng hạn ở mỗi công ty đều có sẵn một thùng phiếu để thu nhận các sáng kiến của mọi người trong công ty, người lao động cũng có thể góp ý trực tiếp với ban lãnh đạo, những sáng kiến này đều được trân trọng và đánh giá khách quan, có chế độ động viên, khen thưởng phù hợp. Triết lý coi trọng nhân viên, tin tưởng vào khả năng vô hạn của con người đã giúp các doanh nghiệp Nhật Bản có được đội ngũ nhân viên năng động, sáng tạo, mạnh dạn thực hiện nhiều ý tưởng mới, thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển của doanh nghiệp.
Các nước Tây Âu rất coi trọng giáo dục, đào tạo và có quan điểm phát triển nguồn nhân lực rất đúng đắn: đầu tư cho giáo dục đào tạo là đầu tư rất có hiệu quả về mặt kinh tế, đồng thời duy trì chính sách phát triển nguồn nhân lực, hướng vào nhu cầu thị trường nhưng có sự điều tiết của Nhà nước để tránh mất cân đối. Các chính phủ ấy đều đầu tư ngân sách cao cho giáo dục, đào tạo; nhiều nước đã thể chế hóa giáo dục đào tạo bằng pháp luật (trợ giúp việc làm, đào tạo, đào tạo lại...).
Hệ thống giáo dục đào tạo ở Tây Âu, đặc biệt là ở Đức, là một hệ thống dạy nghề rất tốt bên cạnh cạnh hệ thống giáo dục có hiệu quả. Nếu giáo dục đại học ở Mỹ là tốt nhất thế giới thì giáo dục chuyên nghiệp dạy nghề ở Đức là tốt nhất thế giới. Chính nhờ điều này mà các nước Tây Âu đã có những nguồn lao động với tay nghề vững, chất lượng cao. Trong phát triển nguồn lao động các nước Tây Âu còn rất chú ý đến nguồn lực con người cho nghiên cứu, ứng dụng và sáng tạo khoa học công nghệ, nhờ thế khoa học công nghệ cũng được phát triển nhanh chóng.
Các nước phát triển đều rất chú trọng đến cơ cấu đào tạo nguồn lao động nhằm đảm bảo có một nguồn lao động hợp lý, đáp ứng yêu cầu cân đối giữa các ngành nghề, giữa các trình độ đào tạo. Điều này góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng của nền kinh tế.
1.3.2. Kinh nghiệm về việc nâng cao chất lượng nguồn lao động của một số nước trong khu vực
Một số nước trong khu vực có những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội khá giống nước ta, nhưng trình độ phát triển kinh tế lại hơn ta khá xa, điều đó do nhiều nguyên nhân, song có một nguyên nhân đáng kể đó là do họ có nguồn lao động chất lượng cao. Có thể điểm nét về việc nâng cao chất lượng nguồn lao động ở một số nước sau:
Singapore là một quốc gia thuộc Đông Nam á với diện tích đất nhỏ và dân số ít nhưng đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế kỳ diệu. Bù lại nguồn tài nguyên thiên nhiên khan hiếm, Singapore trông chờ vào tài năng và kỹ năng của con người để phát triển kinh tế.
“Giáo dục, đào tạo là động lực chủ yếu thông qua đó mỗi cá nhân đều có được cơ hội phát triển ngang nhau. Chiến lược phát triển nguồn lao động của Singapore dựa trên những nguyên tắc sau:
- Giáo dục cho tất cả mọi người có được năng lực tối đa.
- Phát triển những kỹ năng đáp ứng được nhu cầu của các ngành công nghiệp và doanh nghiệp.
- Khuyến khích tiếp tục đào tạo và đào tạo lại để thích ứng với sự phát triển nhanh chóng của kỹ thuật và tiếp thu thêm những kỹ năng mới” [37, tr.130-131].
Thực tế cho thấy ngân sách dành cho giáo dục ở Singapore rất cao và tăng liên tục từ những năm 70 của thế kỷ XX đến nay. Singapore là nước có đội ngũ tri thức lớn, có khả năng tiếp thu và áp dụng thành công vốn tri thức mới và công nghệ tiên tiến, đấy là nhờ vào coi trọng giáo dục đào tạo.
Hàn Quốc là một nước thực hiện công nghiệp hóa nhanh, trong khoảng 30 năm trở lại đây đã đạt được sự phát triển thần kỳ về kinh tế, hiện là nước có mức thu nhập khá. Với “chiến lược phát triển hướng ngoại, xuất khẩu là động lực” đã thúc đẩy nhanh sự phát triển về kinh tế của quốc gia này. Ngoài ra, sự phát triển ấy còn nhờ vào một chính sách hết sức quan trọng, đó là chính sách chính phủ gọn nhẹ, hữu hiệu và xác lập một hệ thống công vụ hợp lý với nguồn nhân lực có chất lượng.
Hệ thống công vụ của Hàn Quốc dựa trên “công quyền” và “công trạng”. Thực chất, “công quyền” là tạo lập các quyền hạn để thực thi nhiệm vụ, “công trạng” là dựa vào mức độ hoàn thành nhiệm vụ để đánh giá. Hệ thống này chủ yếu áp dụng cho lao động quản lý trong cả lĩnh vực kinh tế và xã hội. Chất lượng nguồn nhân lực (trong đó có nguồn lao động) được tăng lên cũng nhờ vào một phần hoạt động của hệ thống này.
Hàn Quốc đã thực thi chế độ thi tuyển nghiêm ngặt, theo dõi và ghi lại quá trình công tác của công chức và người lao động, xem đó như một chứng chỉ nghề nghiệp. Các tiêu thức để đánh giá công chức và người lao động là: kiến thức nghề nghiệp, năng lực hoạt động, tinh thần trách nhiệm, số lượng công việc, chất lượng công việc, khả năng quyết đoán và lãnh đạo quản lý (đối với lao động quản lý). Việc đánh giá được tiến hành 6 tháng một lần, theo phương thức cho điểm và lấy kết quả đó làm cơ sở để khen thưởng, đề bạt, tăng lương. Tiền lương của công chức và người lao động được căn cứ vào: số lượng công việc đảm nhận, chất lượng công việc đã hoàn thành, mức độ trách nhiệm theo chức vụ, cấp bậc nghề nghiệp. Đấy là chính sách tiền lương được xem là hợp lý. Chính sách tiền lương hợp lý và mức lương khá cao đã khuyến khích người lao động hăng hái làm việc, tích cực học tập, tăng cường ý thức trách nhiệm. Nhờ đó, chất lượng nguồn lao động được nâng lên rõ rệt.
Trung Quốc là nước đông dân nhưng có nền kinh tế phát triển và tăng trưởng nhanh. Trung Quốc đã thực hiện việc kết hợp giữa giáo dục để có trình độ học vấn với huấn luyện chuyên ngành để bồi dưỡng nhân tài. Giáo dục đại học ở Trung Quốc bị gián đoạn 10 năm trong thời kỳ cách mạng văn hóa, ngày nay Trung Quốc cũng đã nhận thức được rằng cần phải đẩy nhanh tốc độ đào tạo để đáp nhu cầu nhân lực của đất nước. Trung Quốc đã tiến hành một loạt cải cách và tìm tòi về chế độ nhân sự nhằm tạo ra những điều kiện thực hiện tuyển chọn, sát hạch, kiểm tra, giám sát lao động; đưa ra hàng loạt những quy định tương đối chi tiết về chế độ chịu trách nhiệm của cán bộ, người lao động; thực hiện cải cách chế độ tiền lương... Tất cả những việc làm ấy đều nhằm mục đích nâng cao chất lượng nguồn lao động, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội.
1.3.3. Một số bài học có thể xem xét và vận dụng vào nước ta
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước kinh tế phát triển và các nước trong khu vực về nâng cao chất lượng nguồn lao động có thể rút ra một số bài học để xem xét, vận dụng vào nước ta:
Thứ nhất, xem trọng giáo dục phổ thông, giáo dục bậc thấp, chú ý đến tầng lớp dân chúng.
Giáo dục phổ thông phải được xem trọng, vì đây là nơi trang bị kiến thức cơ sở để học sinh có thể bước vào một nghề nghiệp, nếu không đủ trình độ, điều kiện để lên đại học. Giáo dục bậc thấp phải được chú trọng, nhất là đối với các nước đang phát triển bởi đây là điểm khởi đầu, cũng là nơi phổ biến những kiến thức khái quát nhất. Tầng lớp dân chúng thường chỉ dừng lại ở giáo dục phổ thông hay bậc thấp, song lại chiếm đại đa số trong lực lượng lao động nên cần phải được quan tâm nhiều. Trong giáo dục bậc thấp hay phổ thông cần giáo dục đồng bộ cả: đức, trí, thể, mỹ để đội ngũ lao động có đủ: kiến thức, kỹ năng, sức khỏe và đạo đức.
Thứ hai, coi trọng giáo dục chuyên nghiệp dạy nghề.
Giáo dục chuyên nghiệp chuyên nghiệp dạy nghề sẽ tạo ra đội ngũ lao động có chuyên môn, có tay nghề. Cần coi trọng giáo dục dạy nghề theo giác độ mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng của các cơ sở dạy nghề nhằm một mặt, thu hút các học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học, mặt khác, nâng cao được chất lượng nguồn lao động.
Thứ ba, nâng cao chất lượng giáo dục đại học, chú ý nguồn lực con người cho nghiên cứu, ứng dụng và sáng tạo khoa học công nghệ.
Phải nâng cao chất lượng giáo dục đại học để tạo ra cho đất nước những cán bộ khoa học, kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế, quản trị kinh doanh có năng lực thật sự. Đây chính là đội ngũ lao động có trình độ cao đáp ứng cho nhu cầu phát triển của sản xuất kinh doanh và thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng của nền kinh tế, đồng thời đây cũng chính là nguồn lực con người cho nghiên cứu, ứng dụng và sáng tạo khoa học công nghệ - điều kiện đầu tiên cho khoa học công nghệ phát triển. Tất cả những vấn đề này đều có tác dụng nâng cao chất lượng nguồn lao động.
Thứ tư, doanh nghiệp khuyến khích người lao động tham gia nghiên cứu, sáng tạo đóng góp cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Chính việc chú trọng khai thác năng lực nghiên cứu, sáng tạo của người lao động tại doanh nghiệp sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất, vì nó xuất phát từ sản xuất nên thiết thực đối với sản xuất, chất lượng lao động qua đó cũng được nâng lên.
Thứ năm, Nhà nước phải quan tâm nhiều đến cơ cấu lao động qua đào tạo.
Cơ cấu lao động qua đào tạo hợp lý sẽ tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế, bởi nếu ngược lại thì vừa dư thừa lao động không thích ứng, vừa thiếu lao động cần thiết cho sản xuất kinh doanh. Cơ cấu lao động hợp lý là một tiêu chí phản ánh chất lượng nguồn lao động cao.
Thứ sáu, Nhà nước có chiến lược, doanh nghiệp có trách nhiệm đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng cán bộ.
Nhà nước phải thực hiện kế hoạch hóa công tác chất lượng cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu của từng giai đoạn phát triển. Doanh nghiệp phải có định hướng, nhiệm vụ nâng cao chất lượng đội ngũ lao động của mình qua việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Doanh nghiệp thực hiện liên kết với các trường nhằm đảm bảo đầu ra phù hợp với nhu cầu thực tế.
Thứ bảy, Nhà nước, doanh nghiệp cần đầu tư thích đáng cho đào tạo, bồi dưỡng nguồn lao động.
Nếu chỉ có chiến lược, kế hoạch đào tạo,bồi dưỡng nguồn lao động mà không đầu tư tài chính thì chiến lược, kế hoạch ấy chỉ là lý thuyết suông.
Nhà nước cần giành phần ngân sách thõa đáng cho đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn kỹ thuật và cả sự quan tâm đến giáo dục nâng cao trình độ văn hóa để làm nền tảng, tri thức cơ sở cho sự phát triển nhằm tạo ra cho tương lai nguồn lao động chất lượng cao. Doanh nghiệp trước và trong quá trình sử dụng lao động cũng phải quan tâm đầu tư tài chính cho đào tạo, bồi dưỡng lao động, phục vụ thiết thực cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Thứ tám, Nhà nước và doanh nghiệp cần thực hiện chế độ tiền lương phù hợp, chính sách đãi ngộ lao động thích đáng.
Chế độ tiền lương, chính sách đãi ngộ cần căn cứ vào mức độ hoàn thành và chất lượng công việc. Điều này có tác dụng rất lớn trong việc kích thích con người phấn đấu nâng cao trình độ nghề nghiệp, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ. Nhờ thế chấ._.h hướng cơ cấu lao động của thành phố. Phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp thành các loại: Giỏi, khá tiếp tục đào tạo cao hơn; số còn lại đưa qua đào tạo công nhân kỹ thuật, học nghề. Như thế vừa tránh được tình trạng quá tải của đại học và sự thiếu vắng học sinh ở các trường dạy nghề; vừa tạo được cơ cấu lao động hợp lý đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế.
- Cơ cấu lao động theo ngành, lĩnh vực cần chuyển dịch theo cơ cấu kinh tế của thành phố, từ: “Công nghiệp- Dịch vụ- Nông nghiệp” sang “Dịch vụ- Công nghiệp- Nông nghiệp” sau năm 2010. Muốn vậy, có thể thực hiện:
+ Kích cầu lao động của các khu vực doanh nghiệp, các thành phần kinh tế trong lĩnh vực dịch vụ, công nghiệp. (Cầu lao động là khả năng thuê mướn lao động thông qua các quan hệ mua bán sức lao động trên thị trường lao động). Để kích cầu lao động trong các khu vực doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp dân doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ thì cần phải có cơ chế, chính sách thông thoáng, thuận lợi như cho vay vốn ưu đãi, miễn giảm thuế, hỗ trợ thông tin thị trường... Như thế sẽ thúc đẩy đầu tư, hình thành doanh nghiệp, thu hút lao động. Đặt biệt, ở các khu công nghiệp An Đồn, Hoà Khánh, Hoà Khương, công nghiệp nhanh chóng phát triển thì dịch vụ cũng sẽ phát triển theo.
+ Tiếp tục khuyến khích nông nghiệp phát triển theo hướng chuyên canh, thâm canh, cải tiến phương thức trồng trọt, chăn nuôi gắn với công nghiệp chế biến công nghệ cao, gắn với nhu cầu thị trường cả trong nước và nước ngoài. Đây là giải pháp vừa thúc đẩy nông nghiệp phát triển, vừa công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, tạo ra sự phát triển đồng thời và hỗ trợ nhau của cả ba lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ.
+ Khuyến khích các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư đổi mới công nghệ, bồi dưỡng và nâng cao năng lực quản lý, điều hành hoạt động doanh nghiệp nhằm một mặt thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, mặt khác chính sự phát triển ấy sẽ tạo ra “sự điều chỉnh tự nhiên cơ cấu lao động theo ngành nghề” phù hợp với quy luật phát triển khách quan.
- Cơ cấu lao động theo vùng, lãnh thổ cần điều chỉnh theo hướng giảm tải lao động thành thị, nâng mật độ lao động vùng nông thôn (nhất là các xã Hoà Liên, Hoà Ninh, Hoà Bắc). Hướng điều chỉnh này có thể thực hiện bằng cách:
+ Phát triển nông thôn bằng cách gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, khuyến khích xây dựng và phát triển các ngành nghề công nghiệp, dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn.
+ Kiên quyết xử lý những trường hợp di dân tự do, tràn lan, không kiểm soát được bằng các biện pháp hữu hiệu như quản lý hộ khẩu, kiểm soát tạm trú, tạm vắng chặt chẽ.
+ Coi trọng giáo dục đào tạo nghề cho lao động nông thôn, vùng sâu, vùng xa nhằm giúp họ có trình độ văn hoá, tay nghề nhất định. Tạo ra nhận thức về ngành nghề, về thu nhập của lao động ở các vùng này để họ yên tâm, ổn định đời sống, công việc, giảm dần sự cách biệt giữa nông thôn với thành thị, giữa lao động chân tay và lao động trí óc.
+ Lồng ghép các chương trình xoá đói giảm nghèo, cho vay vốn phát triển kinh tế hộ gia đình để thu hút lao động nhàn rỗi ở nông thôn vào hoạt động kinh tế, làm cho họ từ bỏ ý tưởng đi ra thành thị để kiếm việc.
Những giải pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc nâng cao đời sống cho lao động ở nông thôn, tránh được những phức tạp trong quản lý lao động di dời ra thành thị, hiện đại hoá sản xuất nông nghiệp, thu hẹp khoảng giữa nông thôn với thành thị.
3.3.6. Giải pháp về sự hỗ trợ từ phía Nhà nước
Bản thân tôi thiết nghĩ: Để nâng cao chất lượng nguồn lao động, UBND thành phố Đà Nẵng với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương cần thực hiện một số công việc mang tính chất tác động, tạo môi trường, định hướng và cũng là giải pháp như sau:
- UBND thành phố cần có quyết định thành lập, phê duyệt quy chế hoạt động liên ngành về vệ sinh an toàn thực phẩm thành phố và y tế lao động; chỉ đạo triển khai rộng rãi hơn nữa công tác giữ gìn vệ sinh môi trường làm việc, đẩy mạnh công tác bảo hộ lao động và an toàn lao động. Mặt khác, nên bổ sung kinh phí đầu tư nâng cấp cơ sở, thiết bị và quan tâm nhiều hơn đến công tác đào tạo, định biên cán bộ y tế cho Trung tâm Y tế dự phòng nói riêng và các bệnh viện tại Đà Nẵng nói chung. Tất cả hoạt động này sẽ có tác dụng lớn đến việc đảm bảo và nâng cao sức khoẻ cho người lao động.
- UBND thành phố cần ban hành và thực hiện nghiêm túc ngay từ đầu các quy định về sản xuất gắn với trách nhiệm bảo vệ môi trường, xử lý kiên quyết và phạt nặng đối với các trường hợp vi phạm gây ô nhiễm môi trường. Về lĩnh vực này, Nhà nước các cấp có thể học tập thêm kiến thức và kinh nghiệm quản lý môi trường của các nước phát triển. Bảo vệ môi trường là vấn đề vô cùng quan trọng, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của con người - trung tâm động lực, mục tiêu của sự phát triển.
- Tiếp tục xem trọng và đầu tư, ưu đãi hơn nữa cho giáo dục phổ thông, nhất là giáo dục tiểu học và phổ thông cơ sở, bởi giáo dục ở các cấp học này có thể trang bị được những kiến thức cơ sở cho con người bước vào một nghề nghiệp nhất định. Đối với gia đình diện nghèo, hoàn cành khó khăn nếu có được những bằng cấp cơ sở này thì họ sẽ có điều kiện để học cao hơn nữa sau khi đã đi làm, có thu nhập ổn định cùng với một ý chí, nghị lực cao. Mặt khác,
với những kiến thức cơ sở ấy người lao động sẽ dễ dàng tiếp thu chuyên môn nghề nghiệp khi được đào tạo.
- Có đầu tư thích đáng cho giáo dục chuyên nghiệp dạy nghề và giáo dục đại học, sau đại học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn lao động ở tất cả các trình độ chuyên môn từ thợ, công nhân kỹ thuật cho đến kỹ sư lành nghề, chuyên sâu. Đầu tư của UBND thành phố cần thực hiện trên tất cả các mặt: tiền vốn, kỹ thuật, đội ngũ giáo viên... và mọi khâu từ tổ chức đến thực hiện đều phải có dự án, kế hoạch, tiến trình chuẩn bị tốt nhằm đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất.
- Sau Quyết định số 86/2000/QĐ-UB, Thông báo số 55/TB-UBND, UBND thành phố cần tiếp tục nghiên cứu đề ra những chích sách thu hút, đãi ngộ lao động phù hợp với điều kiện của thành phố, với từng diện lao động và mở rộng với nhiều diện lao động hơn (kể cả lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp hơn như trung cấp kỹ thuật, cao đẳng nghiệp vụ khá, giỏi) nhằm khai thác, huy động tối đa năng lực của mọi đối tượng.
- UBND thành phố cần xây dựng chiến lược đào tạo lao động phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố thực hiện liên kết đào tạo với các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học. Cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa đào tạo và sử dụng lao động nhằm tránh lãng phí trong đào tạo, giảm thiểu tình trạng bất cập giữa nhu cầu sử dụng và chuyên môn đã qua đào tạo của người lao động.
- UBND thành phố cần phối hợp với các ban, ngành, tổ chức đoàn thể chính trị xã hội giám sát, theo dõi và có những can thiệp cần thiết đối với doanh nghiệp trong việc thực hiện các quy định về sử dụng, đối xử, trả lương và đãi ngộ lao động. Trong điều kiện lao động dôi dư, một số doanh nghiệp dễ vi phạm các quy định sử dụng lao động như ngược đãi nhân công, bóc lột sức lao động qua việc chi trả lương, thưởng quá thấp... Do sợ bị thất nghiệp đôi khi người lao động không dám phản ứng, chính quyền không thấy được sự việc, vì thế cần có cách thức theo dõi, kiểm tra sát thực. Vấn đề này càng phải thực hiện tốt hơn, nhất là khi chúng ta đã hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, thực sự tham gia vào tổ chức WTO.
- UBND thành phố kết hợp với các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trên địa bàn thành phố thực hiện tuyển lao động bằng phương thức sát hạch, thi tuyển nghiêm ngặt theo những mức độ yêu cầu cao thấp khác nhau thích hợp với từng loại lao động cụ thể. Người có trình độ cao, giỏi phải đảm nhận công việc chuyên sâu, phức tạp; người có trình độ thấp hoặc kém hơn thì được bố trí công việc vừa phải, đơn giản, tạo ra sự phân bổ hợp lý giữa người và việc. Việc làm này, một mặt sẽ đảm bảo được chất lượng lao động cần tuyển, mặt khác sẽ tạo ra động cơ thúc đẩy xã hội học tập thật sự, nghiêm túc, xoá bỏ nạn “văn bằng hình thức”, “chạy chọt, đút lót, xin điểm” khi còn ở ghế nhà trường.
- UBND thành phố cần tiếp tục tăng cường quản lý an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định nhằm thu hút đầu tư của mọi thành phần kinh tế, qua đó có điều kiện để xã hội sử dụng lao động, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và đời sống cho người lao động, thúc đẩy nâng cao chất lượng nguồn lao động.
- Đẩy mạnh cải cách hoạt động tư pháp, củng cố cơ quan bảo vệ pháp luật, thực hiện nghiêm túc công tác kiểm tra, thanh tra và xét xử các vụ việc vi phạm pháp luật, tạo môi trường lành mạnh cho phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện giải pháp này, một mặt sẽ tạo môi trường pháp luật thu hút đầu tư, qua đó nguồn lao động được huy động và sử dụng; mặt khác, do là thành viên của xã hội nên người lao động cũng là đối tượng chịu sự điều chỉnh của pháp luật, họ sẽ tự xem xét lối sống, hành vi xử sự của mình, tự ý thức sống và làm việc theo pháp luật, điều này làm cho chất lượng nguồn lao động được nâng lên.
Kết luận
Lao động là nguồn lực quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế-xã hội, bởi lao động là trung tâm, là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế-xã hội. Chất lượng nguồn lao động được nâng lên sẽ là tiền đề, cơ sở cho việc khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khác. Vì thế, nâng cao chất lượng nguồn lao động nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội là yêu cầu vô cùng quan trọng của mọi quốc gia, vùng miền và địa phương; là vấn đề không những có tác động to lớn về mặt kinh tế mà còn mang ý nghĩa sâu sắc về mặt chính trị, xã hội. Nâng cao chất lượng nguồn lao động nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Đà Nẵng nói riêng, của cả nước nói chung vừa là vấn đề cơ bản, mang tính chiến lược lâu dài, vừa là nhiệm vụ cấp bách trước mắt.
Qua nghiên cứu lý luận, phân tích thực tế và trăn trở với đề tài này, bản thân tôi nhận thấy rằng:
Điều thứ nhất: Nâng cao chất lượng nguồn lao động thực chất chính là nâng cao điều kiện sống, sinh hoạt và khả năng làm việc, cống hiến của con người. Quá trình nâng cao chất lượng nguồn lao động là quá trình làm cho:
+ Sức khoẻ, tâm tư, tình cảm, suy nghĩ, lối sống, tư duy của con người được thay đổi theo chiều hướng hoàn thiện.
+ Năng lực làm việc, mức cống hiến của người lao động cho xã hội ngày càng tăng lên.
+ Xét về mặt tổng thể thì cơ cấu lao động sẽ chuyển dịch theo xu thế hợp lý hơn.
Điều thứ hai: Nâng cao chất lượng nguồn lao động là công việc gần như “không có điểm dừng”, bởi kết quả hiện tại đã cao hơn so với trước đó, thậm chí cao hơn bội phần, nhưng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội thì cứ tăng lên không ngừng, đây cũng là lý lẽ để giải thích cho câu hỏi: “Tại sao ở các nước phát triển vẫn luôn đặt ra nhiệm vụ và mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn lao động của mình?”. Mọi sự vật, hiện tượng trong đời sống đều tuân thủ quy luật tự nhiên đó là: “luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển không ngừng”. Vì thế, đây là đề tài mà chắc chắn trong tương lai chúng ta sẽ còn tiếp tục nghiên cứu, đánh giá và tìm những giải pháp với tầm mức cao hơn.
Điều thứ ba: Trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng thường nói rằng: “giáo dục- đào tạo là giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng nguồn lao động” điều này chỉ đúng nhưng chưa đủ. Thật là phiến diện khi không coi trọng các vấn đề về môi trường sống, về thu nhập, về cơ cấu và phân bổ lao động và cả đến tâm tư, tính cách, suy nghĩ, tình cảm, truyền thống dân tộc và tập quán địa phương. Sức khoẻ của nhân dân nói chung, người lao động nói riêng thật ra là vốn quý nhất, phải được đặt lên hàng đầu. Tính tổ chức kỷ luật, phong cách con người, tác phong lao động đấy mới chính là những vấn đề khó tác động để thay đổi nhất. Cơ cấu lao động là kết quả của giáo dục đào tạo, của sức khoẻ, năng lực gắn với công việc, của nhận thức, của quan niệm sang hèn trong con người về nghề nghiệp... Mỗi vấn đề trên đều có ảnh hưởng nhất định đến chất lượng nguồn lao động, chúng không tách rời nhau, mà hoà quyện lẫn nhau, quan hệ mật thiết với nhau, đòi hỏi khi giải quyết những vướng mắc, hạn chế, phải tiến hành tổng hợp nhiều biện pháp thì mới có thể đạt được kết quả cao.
Điều thứ tư: Sự quan tâm của UBND và các cấp chính quyền thành phố về việc đào tạo nghề, giải quyết việc làm và thu nhập đối với các diện: hộ gia đình giải toả, di dời chỗ ở, tái định cư sau quy hoạch, chỉnh trang đô thị, là việc làm cần thiết và quan trọng. Đây là chính sách xã hội mà khi thực hiện nó, chúng ta sẽ đạt được đồng thời 2 mục tiêu:
- Nhanh chóng ổn định đời sống cho nhân dân sau khi di chuyển chỗ ở.
- Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành nghề, nâng cao chất lượng nguồn lao động.
Quy hoạch, kiến thiết, xây dựng cơ sở hạ tầng là công việc cần thiết nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, nhưng không vì thế mà gây ra khó khăn cho vấn đề đời sống và việc làm. Ngược lại, nếu vì sợ trở ngại khi thay đổi đời sống và việc làm của nhân dân mà thiếu mạnh dạn trong quy hoạch, kiến thiết cơ sở hạ tầng thì sẽ gây ra hạn chế cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Những mâu thuẩn trên đã được các cấp lãnh đạo, quản lý của thành phố giải quyết ổn thoả. Đây là điểm đặc sắc, nổi trội, tạo ra cho Đà Nẵng một gương mặt điển hình trong công tác chỉnh trang đô thị.
Đánh giá về thực trạng chất lượng nguồn lao động ở thành phố Đà Nẵng, chúng ta thấy được nhiều mặt mạnh như: So với cả nước thì mức sống, thu nhập của người lao động vào mức khá; trình độ văn hoá và chuyên môn, nghề nghiệp tương đối cao; sự siêng năng, chăm chỉ, nhất là khả năng vượt khó của con người nơi đây rất cao. Tuy nhiên, vẫn còn những mặt yếu kém, hạn chế nhất định, đó là: cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn thiếu hợp lý; các kết quả trong thực hiện nâng cao chất lượng nguồn lao động đã đạt được khá nhiều nhưng chưa tương xứng với tiềm năng vốn có.
Với rất nhiều nổ lực trong nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn của đề tài, tác giả đã cố gắng hoàn thành những nội dung chủ yếu của đề tài. Song đây là một đề tài rộng lớn, chứa đựng nhiều nội dung phức tạp, thời gian và khả năng lại có hạn nên chắc chắn nội dung sẽ còn những khiếm khuyết nhất định, tác giả chỉ mong có một sự đóng góp rất nhỏ về suy nghĩ của mình cho vấn đề nâng cao chất lượng nguồn lao động nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Đà Nẵng.
Kiến nghị
Qua nghiên cứu đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội và phân tích thực trạng về chất lượng lao động trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, tôi xin đề xuất một số kiến nghị sau:
Một là, so với mặt bằng chung của cả nước thì chất lượng nguồn lao động của Đà Nẵng là tương đối cao, song với tầm vóc Đà Nẵng là thành phố trực thuộc Trung ương, vùng kinh tế trọng điểm, quan trọng của miền Trung, thì chất lượng nguồn lao động hiện tại là chưa tương xứng, chưa đáp ứng được yêu cầu cao cho sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố; vì thế, cần có sự cố gắng hơn nữa của mọi chủ thể: Nhà nước, các ngành, các đơn vị kinh tế và nhân dân để nâng cao hơn chất lượng nguồn lao động tại đây.
Hai là, đẩy mạnh hơn nữa quản lý nhà nước trên một số phương diện như: quản lý môi trường sinh thái; quản lý việc tuân thủ, chấp hành các quy định của Nhà nước về bảo hộ và an toàn lao động tại các doanh nghiệp; quản lý các hoạt động mua bán, lưu thông hàng hoá trên thị trường, nhất là những sản phẩm thiết yếu cho nhu cầu của con người (thuốc men, lương thực, thực phẩm...) tránh gây hại đến sức khoẻ và tính mạng của con người, nhằm nâng cao chất lượng nguồn lao động của thành phố.
Ba là, huy động thêm nguồn vốn đầu tư từ mọi phía: Nhà nước, các tổ chức kinh tế - xã hội trong, ngoài nước, nhân dân và người lao động cho hoạt động giáo dục- đào tạo. Tuy đã có rất nhiều tiến triển và thành tích song công tác giáo dục, đào tạo tại Đà Nẵng nếu được đầu tư thêm về vốn thì chắc chắn sẽ giảm thiểu các hạn chế, tạo điều kiện tốt hơn cho việc nâng cao chất lượng nguồn lao động.
Bốn là, cần xác định rõ mục tiêu giáo dục, chương trình và phương pháp dạy học. Mục tiêu giáo dục văn hoá là trang bị những kiến thức cơ sở cho con người sống, học tập chuyên môn và làm việc; do đó chương trình giáo dục không nhất thiết phải quá nặng nề như hiện nay. Giáo trình không nên nhồi nhét, quá tải, thay đổi liên tục, làm mất đi sự ổn định và gây ra sự lãng phí trong giáo dục. Tại nhiều nước phát triển như ở Mỹ chẳng hạn, giáo trình dạy học rất dễ hiểu, đơn giản, yêu cầu không cao như ở ta, thế nhưng họ vẫn tạo ra được một đội ngũ lao động có chất lượng cao. Cần quan tâm nhiều đến khoa học ứng dụng hơn là lý thuyết “chay”, học phải đi đôi với hành chính là ở chỗ này.
Năm là, UBND và các cấp chính quyền thành phố cần chú trọng đầu tư ngân sách và có những chính sách, chế độ ưu tiên hơn nữa cho các vùng ven đô, nông thôn, trung du, miền núi, hải đảo nhất là trên lĩnh vực giáo dục- đào tạo. So với đô thị thì các vùng này còn gặp rất nhiều khó khăn về mọi mặt, điều kiện về ăn ở, đi lại, học hành, làm việc không bằng trung tâm thành phố, mặc dầu đã được chính quyền quan tâm nhưng chênh lệch về phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng vẫn còn lớn. Ngân sách và chế độ ưu tiên sẽ là tiền đề, động lực thúc đẩy các vùng khó khăn vươn lên, sẽ là điều kiện tạo cơ hội học tập cho mọi người ở đấy, nhờ thế sẽ góp phần nâng cao thêm chất lượng nguồn lao động của thành phố.
Bản thân tôi thiết nghĩ: Nếu những kiến nghị trên được thực hiện từng bước thì chắc chắn sẽ góp phần đáng kể cho việc nâng cao chất lượng nguồn lao động, thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
danh mục Tài liệu tham khảo
Nguyễn Dũng Anh (2004), Kinh nghiệm của một số nước Đông á và Đông Nam á về sử dụng nguồn nhân lực đáp ứng quá trình toàn cầu hoá kinh tế và rút ra bài học, Hội thảo "Toàn cầu hoá kinh tế những cơ hội và thách thức đối với miền Trung".
Báo Đà Nẵng (2000), Đà Nẵng bước vào thế kỷ XXI, Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ban Chỉ đạo chăm sóc sức khoẻ nhân dân (2006), Tài liệu hội nghị công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm (giai đoạn 2001-2005), Đà Nẵng.
Ban Chỉ đạo điều tra lao động-việc làm thành phố Đà Nẵng, Sở Lao động thương binh và xã hội thành phố Đà Nẵng (2005), Báo cáo kết quả điều tra lao động việc làm thành phố Đà Nẵng năm 2005, Đà Nẵng.
Ban Chỉ đạo điều tra lao động-việc làm thành phố Đà Nẵng, Sở Lao động thương binh và xã hội thành phố Đà Nẵng (2006), Báo cáo kết quả điều tra lao động việc làm thành phố Đà Nẵng năm 2006, Đà Nẵng.
Bộ Chính trị (2003), Nghị quyết 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.
Bộ Lao động-Thương binh và xã hội (2002), Số liệu thống kê lao động-việc làm ở Việt Nam 2001, Nxb Lao động-Xã hội, Hà Nội.
Bộ Lao động-Thương binh và xã hội (2003), Số liệu thống kê lao động-việc làm ở Việt Nam 2002, Nxb Lao động-Xã hội, Hà Nội.
Bộ Lao động-Thương binh và xã hội (2004), Số liệu thống kê lao động-việc làm ở Việt Nam 2003, Nxb Lao động-Xã hội, Hà Nội.
Bộ Lao động-Thương binh và xã hội (2005), Số liệu thống kê lao động-việc làm ở Việt Nam 2004, Nxb Lao động-Xã hội, Hà Nội.
Bộ Lao động-Thương binh và xã hội (2006), Số liệu thống kê lao động-việc làm ở Việt Nam 2005, Nxb Lao động-Xã hội, Hà Nội.
Bộ Lao động- Thương binh và xã hội (2005), Quyết định số 1000/2005/QĐ-BLĐTBXH (ngày 7-6-2005) của Bộ trưởng về việc phê duyệt Đề án “Phát triển xã hội hoá dạy nghề đến năm 2010”, Hà Nội.
Mai Quốc Chánh (1999), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Hội nghị Đại biểu toàn quốc khoá VIII, Nxb Chính trị qiốc gia, Hà Nội..
Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 2, Ban chấp hành TW (khoá VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Bộ thành phố Đà Nẵng (2006), Văn kiện Đại hội lần thứ XIX, Đà Nẵng.
Đại học Đà Nẵng (2006), Báo cáo tổng kết năm học 2005-2006, Đà Nẵng.
Phạm Quang Đạt (2002), Phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Nguyễn Đình (2006), “Bàn luận về thị trường nhân lực”, Tạp chí Doanh nghiệp Thương mại, (Số 3-4/2006), tr.47.
Nguyễn Đỗ (1997), “Con người-Tài sản quý nhất”, Thời báo kinh tế Việt Nam, (39), tr.6.
Trần Thị Bích Hạnh (2003), Sử dụng có hiệu quả nguồn lao động ở các vùng kinh tế trọng điểm miền Trung trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình Kinh tế học phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Minh Huệ (2006), “Khi “Biết người- biết ta””, Tạp chí Kinh tế - Châu á Thái Bình Dương, (Số 18), tr.26-27.
Trần Tiến Khang (1999), Chất lượng nguồn lao động ở Phú Thọ, thực trạng và giải pháp, Luận án thạc sĩ khoa học kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Tâm Lân (2007), "Môi trường tự nhiên Đà Nẵng: Báo động đỏ!", Báo Lao động, (số 11), ngày 13/01/2007, tr.3.
Liên Hợp Quốc tại Việt Nam (2002), Các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG) đưa các mục tiêu MDG đến với người dân, Hà Nội.
V.I.Lênin (1987), Toàn tập, Tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
C.Mác (1984), Tư bản, tập thứ nhất, quyển 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), C.Mác, Ăngghen tuyển tập, tập 5, Nxb Sự thật, Hà Nội.
C.Mác, Ph.Ăngghen (1993), C.Mác, Ăngghen toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác, Ph.Ăngghen (1983), C.Mác, Ăngghen toàn tập, tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đỗ Mười (1997), Về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyên Ngọc (2005), Tìm hiểu con người xứ Quảng, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
P.V (2006), “Phổ cập bậc trung học-những thách thức”, Báo Giáo dục-Thời đại, Chủ nhật (Số 25), tr.13.
Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam ban Asean (1997), Việt Nam hội nhập ASEAN, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
Sở Lao động thương binh và xã hội (2006), Báo cáo nghiên cứu đánh giá hoạt động của thị trường lao động thành phố Đà Nẵng, Đà Nẵng.
Sở Giáo dục đào tạo (2006), Báo cáo tổng kết năm học 2005-2006, Đà Nẵng.
Sở Nội vụ (2007), Báo cáo về kết quả và hiệu quả thực hiện chủ trương thu hút nguồn nhân lực của thành phố Đà Nẵng, Đà Nẵng.
Manfred S.chreiner (2002), Quản lý môi trường Con đường kinh tế dẫn đến nền kinh tế sinh thái, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
Trung tâm Y tế Dự phòng thành phố Đà Nẵng (2006), Báo cáo hoạt động y tế lao động 5 năm 2001-2005, Đà Nẵng.
Trần Nguyễn Tuyên (2004), “Nâng cao sức cạnh tranh của kinh tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương, Số1/2004), tr 15.
Phạm Văn Tuyền (2000), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Thanh Hoá, Luận án thạc sĩ khoa học kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2004), Chương trình phát triển giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có trình độ cao, đáp ứng nhiệm vụ của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, (Ban hành kèm theo QĐ số 117/QĐ-UB ngày 07-7-2004), Đà Nẵng.
Uỷ ban nhân dân thành phố (2004), Chương trình xây dựng thành phố “5 không” xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao chất lượng các hoạt động y tế, thể dục, thể thao, (Ban hành kèm theo QĐ số 136/2004/QĐ-UB, ngày 12-5-2004), Đà Nẵng.
Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2005), Đề án giải quyết việc làm cho người trong độ tuổi lao động của thành phố, (Ban hành kèm theo QĐ số 142/2005/QĐ-UBND, ngày 3-10-2005), Đà Nẵng.
Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2000), Quyết định số 86/2000/QĐ-UB về việc thực hiện một số chính sách, chế độ đãi ngộ ban đầu đối với những người tự nguyện đến làm việc lâu dài tại thành phố và chế độ khuyến khích đối với cán bộ, công chức, viên chức đang công tác tại thành phố Đà Nẵng, Đà Nẵng.
Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2006), Thông báo số 55/TB-UBND, (ngày 25-9-2006) về việc tiếp nhận và bố trí công tác các đối tượng theo chủ trương thu hút nguồn nhân lực của UBND thành phố Đà Nẵng, Đà Nẵng.
Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2007), Quyết định số: 14/2007/QĐ-UB, ngày 14 tháng 2 năm 2007 về việc Ban hành Đề án đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động dạy nghề trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đến năm 2010, Đà Nẵng.
Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2005), Quyết định số: 65/2005/QĐ-UB Đà Nẵng, ngày 24 tháng 5 năm 2005 Ban hành Đề án hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm, ổn định đời sống đối với lao động bị thu hồi đất sản xuất, di dời, giải toả trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Đà Nẵng.
Viện Nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa (1998), Đại từ điển kinh tế thị trường, Nxb Hà Nội.
Trần Thị Vui (2006), “Người Việt Nam ở nước ngoài - một nguồn lực quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Tạp chí Báo chí tuyên truyền, (Số 7-2006), tr.23, 26.
Phụ lục
Phụ lục 1
DANH SáCH CáC CƠ Sở DạY NGHề
Tính đến tháng 09/2006
TT
Tên cơ sở
Địa chỉ
Công
lập
Ngoài
C.lập
A
THUộC Bộ NGàNH TRUNG ƯƠNG
I
Các trường/trung tâm dạy nghề
01
Trường Trung cấp nghề số 5
85 Ngũ Hành Sơn
X
02
Trường TC nghề CNKT Đường bộ V
693/34 Trần Cao Vân
X
03
Tr TC nghề Kỹ thuật C/nghiệp Tàu thuỷ III (thuộc Tập đoàn CN Tàu thủy Việt Nam)
396 Điện Biên Phủ
X
04
TT Đào tạo Kỹ thuật nghiệp vụ đường sắt
Hoà Hiệp
X
05
TT Kiểm định Kỹ thuật an toàn Khu vực 3
97 Quang Trung
X
II
Các trường cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp có dạy nghề
01
Trường Cao đẳng Công nghệ
48 Cao Thắng
X
02
Trường Cao đẳng Giao thông vận tải II
28 Ngô Xuân Thu
X
03
Trường Cao đẳng Lương thực thực phẩm
101B Lê Hữu Trác
X
04
Trường Cao đẳng Thương mại
45 Dũng Sĩ Thanh Khê
X
05
Trường Cao đẳng Đông Du (ngoài công lập
369 Phan Chu Trinh
X
06
Trường TCCN Kỹ thuật Xây dựng (thuộc Tổng Cty Xây dựng miền Trung)
Hoà Hiệp
X
07
Trường TCCN Bưu điện và viễn thông II (thuộc Tập đoàn Bưu chính Viễn thông)
75 Nguyễn Khuyến
X
B
THUộC ĐịA PHƯƠNG
I
CƠ Sở DạY NGHề THUộC Sở LAO ĐộNG - THƯƠNG BINH Và Xã HộI
01
Tr Kỹ thuật - Kinh tế Đà Nẵng
99 Tô Hiến Thành
X
02
TT Dịch vụ việc làm Đà Nẵng
21 Phan Chu Trinh
X
03
Tr DN Kỹ thuật Công nghệ Đà Nẵng thuộc Công ty CP PTROLIMEX
179 Nguyễn V Thoại
X
04
Tr DN Kỹ thuật Kinh tế Cao Thắng
369 Phan Chu Trinh
X
05
Tr DN Công kỹ nghệ Đông Dương
Hà Huy Tập
X
06
Phân hiệu Trường Đào tạo Việt Mỹ (thuộc Cty TNHH Liên Việt Mỹ 100% vốn NN)
85 Nguyễn Văn Linh
X
07
TT DN Làng trẻ em SOS
Làng SOS Đà Nẵng
X
08
TT DN Huỳnh Đình Thu
456/2 Ông ích Khiêm
X
09
TT DN Điện Biên Phủ
18/2Nguyễ Đức Trung
X
10
TT Dạy nghề Phan Tiến Bé
563 Trần Cao Vân
X
11
TT Đào tạo thẩm mỹ Sài Gòn tại ĐN
118 Hàm Nghi
X
12
TT Đào tạo lái xe ô tô mô tô STC thuộc Cty Cổ phần DVTM vận tải
27 Phan Đăng Lưu
X
13
TT Đào tạo và Dạy nghề 579 thuộc Cty Cổ phần Đầu tư và XD 579
12 Nguyễn Văn Linh
X
14
TT Đào tạo nghề Mai Linh (thuộc Công ty Cổ phần Mai Linh)
89 Thái Phiên
X
15
Công ty TNHH TM và Dvụ Tuyết Phi
113 Lê Đình Lý
X
II
CáC TRƯờNG, TRUNG TÂM DạY NGHề THUộC Sở, NGàNH KHáC
01
Tr TC KTNV Giao thông Công chính ĐN
182 H Thúc Kháng
X
02
TT Giới thiệu việc làm KCN và Chế xuất
310 Hoàng Diệu
X
03
TT Xúc tiến Du lịch Đà Nẵng
118 Lê Lợi
X
04
TT Xúc tiến Thương mại Đà Nẵng
23 Trần Quý Cáp
X
05
TT Tư vấn Hỗ trợ HTX, DN vừa & nhỏ
79 Lý Thái Tổ
X
06
Công ty Cơ khí ô tô và thiết bị điện ĐN
128 Ông ích Khiêm
X
07
TT Đào tạo nghề (Cty XD và PT hạ tầng)
08 Trần Quý Cáp
X
III
CáC CƠ Sở Có DạY NGHề THUộC Sở GIáO DụC Và ĐàO TạO
01
Tr TCCN Ktế Kỹ thuật Phương Đông
18 Phan Đăng Lưu
X
02
TT Giáo dục thường xuyên Đà Nẵng
825 Ngô Quyền
X
03
TT Giáo dục thường xuyên Ngũ Hành Sơn
527 Lê Văn Hiến NHS
X
04
TT KT Tổng hợp Hướng nghiệp Sơn Trà
196 Nguyễn Công Trứ
X
IV
CáC TRUNG TÂM DạY NGHề THUộC HộI ĐOàN THể
01
TT Dịch vụ việc làm Phụ nữ
02 Phan Chu Trinh
X
02
TT Giới thiệu việc làm Liên đoàn Lao động
Đò Xu, Hoà Cường
X
03
TT Dạy nghề và GTVL làm Thanh niên (Thuộc Hội Liên hiệp Thanh niên TPĐN)
29 Trần Phú
X
04
TT Đào tạo chất lượng cao (thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật TP Đà Nẵng)
138 Hàm Nghi
X
05
TT Đào tạo hướng nghiệp từ thiện (thuộc Hội Chữ thập đỏ TP Đà Nẵng)
283 Lê Văn Hiến
X
06
TT H/nghiệp Dạy nghề Hoa Mai (thuộc Hội Bảo trợ Người tàn tật và trẻ mồ côi)
Tổ 27 Phường Hòa Hải
X
V
CáC TRUNG TÂM DạY NGHề QUậN, HUYệN
01
Trung tâm Đào tạo nghề Hoà Vang
657 Trường Chinh
X
02
Trung tâm Đào tạo nghề Liên Chiểu
Tổ 8, Đà Sơn, HKhánh
X
03
TT Hướng nghiệp từ thiện Ngũ Hành Sơn
251 Lê Văn Hiến
X
Phụ lục 2
TổNG HợP CáC CƠ Sở DạY NGHÊ TRÊN ĐịA BàN THàNH PHố
Thời điểm: 01/09/2006
Số
TT
Phân nhóm cơ sở dạy nghề
Tổng số cơ sở
Chia theo sở hữu
Công lập
Ngoài công lập
A
TRựC THUộC TRUNG ƯƠNG
12
11
01
Cơ sở dạy nghề
04
04
00
Cơ sở khác có dạy nghề
08
07
01
B
TRựC THUộC ĐịA PHƯƠNG
35
17
18
Cơ sở dạy nghề
22
06
16
Cơ sở khác có dạy nghề
13
11
02
I
Thuộc Sở Lao động - TBXH
15
02
13
1
Cơ sở dạy nghề
13
01
12
2
Cơ sở khác có dạy nghề
02
01
01
II
Thuộc Sở, ngành khác
07
07
00
1
Cơ sở dạy nghề
02
02
00
2
Cơ sở khác có dạy nghề
05
05
00
III
Thuộc Sở Giáo dục và Đào tạo
04
03
01
1
Cơ sở dạy nghề
00
00
00
2
Cơ sở khác có dạy nghề
04
03
01
IV
Thuộc Hội đoàn thể
06
03
03
1
Cơ sở dạy nghề
04
01
03
2
Cơ sở khác có dạy nghề
02
02
00
V
Thuộc quận huyện
03
02
01
1
Cơ sở dạy nghề
03
02
01
2
Cơ sở khác có dạy nghề
00
00
00
Tổng cộng (A+B)
47
18
19
Cơ sở dạy nghề
26
10
16
Cơ sở khác có dạy nghề
21
08
13
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LuanvanLan_hoanchinh.doc
- bia moi.doc