Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Trong thời buổi kinh tế thị trường hiện nay khi kinh tế thế giới có nhiều biến động thì Việt Nam cũng bị tác động không nhỏ, năm 2008 cuộc khủng hoảng tài chính, tín dụng ở Mỹ diễn biến phức tạp, ảnh hưởng nhất định đối với nền kinh tế và hoạt động của các tổ chức tín dụng Việt Nam vì vậy các hoạt động của ngành ngân hàng bị ảnh hưởng nặng nề, nhiều ngân hàng tỏ ra bối rối trong các hoạt động huy động và cho vay vì không biết diễn biến thị trường thế nào. Kết quả là trong năm 2008 tă

doc91 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1612 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng trưởng của các ngân hàng chậm lại, chất lượng nợ bị suy giảm, tỷ lệ nợ xấu gia tăng điều này đe dọa trực tiếp đến sự phát triển của hệ thống ngân hàng trong thời gian tới. Trong thời gian này cầu đặt ra đối với ngân hàng là phải nắm bắt diễn biến thị trường, để thích nghi và tồn tại và còn phải giữ vai trò tiên phong trong việc định hướng cho những hoạt động của các doanh nghiệp. Nhận thức được vai trò và sự cần thiết của hoạt động ngân hàng trong thời buổi hiện nay tôi đã chọn đề tài: “ Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam” làm chuyên đề thực tập của mình nhằm tìm hiểu và đóng góp phần nào vào sự phát triển của các ngân hàng. Kết cấu đề tài gồm 3 chương: Chương I: Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Chương I: Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng Thương mại Họat động tín dụng của Ngân hàng thương mại Khái niệm hoạt động tín dụng Ngân hàng là bộ phận biểu hiện tập trung nhất mọi hoạt động kinh tế của đất nước, mọi thông tin liên quan đến tình hình hoạt động của ngân hàng đều là tiêu điểm chú ý của các doanh nghiệp, chính phủ và mọi tầng lớp dân cư. Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, kinh doanh trao đổi tiền tệ là hoạt động chủ yếu đem lại lợi nhuận cho các ngân hàng thương mại, trong đó quan trọng nhất là quy mô và chất lượng tín dụng của ngân hàng, nó ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính cũng như nền kinh tế nói chung. Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng và sau một khoảng thời gian nhất định được quay trở lại người sở hữu , một lượng giá trị lớn hơn ban đầu, nó là mối quan hệ kinh tế giữa bên đi vay và bên cho vay trong đó bên cho vay chuyển giao cho bên đi vay sử dụng một lượng giá trị trong một thời gian nhất định theo những điều kiện mà hai bên đã thỏa thuận. Vậy tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ mà một bên là ngân hàng, một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay. Với tư cách là ngưới đi vay: Ngân hàng huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội bằng hình thức nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội. Với tư cách là người cho vay: ngân hàng đáp ứng nhu cầu cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu thiếu vốn cần bổ sung trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dung. Với vai trò này ngân hàng đã thực hiện chức năng phân phối lại vốn tiền tệ để đáp ứng nhu cầu xã hội. Đây là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó giữ vai trò điều hòa lượng tiền trong xã hội cho phù hợp, luôn đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt đầy đủ và kịp thời. Tuy nhiên khi cho vay, cái mà ngân hàng thu được là lợi nhuận sau khi đã trừ đi tất cả các khoản phí, đồng thời đi kèm với lợi nhuận dự kiến có rủi ro. Rủi ro tín dụng sẽ xảy ra khi khách hàng không thực hiện đầy đủ những cam kết trong hợp đồng tín dụng vì vậy ngân hàng phải xem xét mối quan hệ giữa lợi nhuận và rủi ro để định ra một mức lãi suất phù hợp và có lợi cho cả ngân hàng và khách hàng. áCác hình thức tín dụng cuả ngân hàng Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các khoản vay theo nhóm dựa trên một số tiêu thức nhất định và tùy từng ngân hàng có cách phân loại khác nhau, phân loại tín dụng một cách khoa học sẽ giúp cho nhà quản trị lập một quy trình tín dụng thích hợp, giảm thiểu rủi ro và dễ quản lý. Có nhiều tiêu thức để phân loại tín dụng, trên thực tế có các cách phân loại sau đây: Theo mục đích sử dụng tiền vay của người vay Căn cứ vào tiêu thức này, tín dụng được chia làm 2 loại: Tín dụng đối với người sản xuất và lưu thông hàng hóa: Đây là loại hình tín dụng cấp cho các đơn vị kinh doanh để tiến hành sản xuất, lưu thông hàng hóa. Nguồn trả nợ của hoạt động này là kết quả hoạt động kinh doanh vì vậy ngân hàng cần phải có đầy đủ thông tin về khách hàng của mình, về phương án sản xuất kinh doanh của họ hay nói cách khác ngân hàng cần phải phân tích tín dụng kỹ lưỡng trước khi cho vay. Tín dụng tiêu dung: là loại tín dụng cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dung như mua sắm nhà cửa, xe cộ hay các loại hàng hóa lâu bền khác. Với loại hình tín dụng này nguồn trả nợ là thu nhập tương lai của người vay và thu nhập này thường có xu hướng ổn định nên ngân hàng không phải phân tích tín dụng quá kỹ Với cách phân loại này ngân hàng sẽ có quy trình nghiệp vụ cụ thể và đảm bảo ngân hàng có đủ tiền cho vay và thu hồi nợ theo đánh giá mức độ rủi ro và mức độ lãi suất được đặt ra cho từng loại cụ thể. TTheo thời hạn sử dụng tiền vay của người đi vay Căn cứ vào tiêu thức này ta chia tín dụng làm 2 loại là: tín dụng có thời hạn và tín dụng không thời hạn Tín dụng có thời hạn: là loại tín dụng mà thời điểm trả nợ được xác định cụ thể cả ngân hàng và khách hàng đều phải tuân thủ theo thời gian đó. Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm và được sử dụng để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của doanh nghiệp và phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của các cá nhân. Với loại hình tín dụng này ngân hàng ít có rủi ro vì trong thời gian ngắn ít có biến động xảy ra và nếu có xảy ra thì ngân hàng có khả năng dự tính được. Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ một năm đến năm năm và chủ yếu được sử dụng để mua sẳm tài sản cố định, cải tiển và đổi mới kỹ thuật , mở rộng sản xuất và xây dựng các công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh. Loại tín dụng này có mức độ rủi ro không cao vì ngân hàng có khả năng dự đoán được những biến động có thể xảy ra. Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên năm năm, loại hình này được sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất quy mô lớn. Loại tín dụng này có mức độ rủi ro rất lớn vì trong thời gian dài thì có những biến động xảy ra không lường trước được và ngân hàng phải tiến hành phân tích tín dụng rõ ràng trước khi cho vay. Tín dụng không thời hạn: là loại tín dụng mà thời hạn hoàn trả tiển vay không được xác định khi ký hợp đồng vay mà thay vào đó là điều kiện về việc thu hồi khoản tiền cho vay của ngân hàng hoặc việc trả nợ của người vay. Việc thu nợ hay trả nợ phụ thuộc vào ý muốn chủ quan trên cơ sở tình hình hoạt động của ngân hàng và của người đi vay. Theo điều kiện đảm bảo Theo tiêu thức này tín dụng được chia làm hai loại là: tín dụng có bảo đảm và tín dụng không có bảo đảm Tín dụng có bảo đảm: là loại tín dụng dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp, cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. Ngân hàng nắm dữ tài sản của người đi vay để sử lý thu hồi nợ khi người đi vay không thực hiện các nghĩa vụ đã được cam kết trong hợp đồng tín dụng. Hình thức này được áp dụng đối với những khách hàng không có uy tín cao với ngân hàng. Mặc dù có tài sản bảo đảm nhưng hình thức tín dụng này vẫn có độ rủi ro cao vì tài sản có thể bị mất giá hay người bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ của mình. Tín dụng không có bảo đảm: là loại tín dụng không có tài sản thế chấp, cẩm cố hoặc không có sự bảo lãnh của người thứ ba. Việc cấp tín dụng chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Muốn vậy ngân hàng phải đánh giá hiệu quả sử dụng tiền vay của người vay , khách hàng không được phép giao dịch với bất kỳ ngân hàng nào khác. Mặc dù không có tài sản đảm bảo nhưng đây là một loại tín dụng ít rủi roc ho ngân hàng vì khách hàng có uy tín rất lớn và khả năng trả nợ rất cao thì mới được cấp tín dụng mà không cần đảm bảo. Theo đồng tiền được sử dụng trong cho vay Theo tiêu thức này tín dụng được chia làm hai loại: cho vay bằng đồng bản tệ và cho vay bằng đồng ngoại tệ Cho vay bằng đồng bản tệ: là loại tín dụng mà ngân hàng cấp tiền cho khách hàng vay bằng VND, đây là loại hình tín dụng thường xuyên áp dụng cho vay thanh toán trong nước Cho vay bằng ngoại tệ: là loại tín dụng mà ngân hàng cấp tiền cho khách hàng bằng đồng ngoại tệ, loại hình tín dụng này thường áp dụng cho vay phục vụ nhập khẩu là chủ yếu. Theo đối tượng tín dụng Căn cứ vào tiêu thức này tín dụng được chia làm hai loại: cho vay để đáp ứng yêu cầu về tài sản lưu động và cho vay để đáp ứng yêu cầu về tài sản cố định Cho vay để đáp ứng yêu cầu về tài sản lưu động: là loại tín dụng được sử dụng để bù đắp vốn lưu động thiếu hụt tạm thời. Đây là loại tín dụng có mức độ rui ro thấp vì vốn lưu động của doanh nghiệp là vốn luân chuyển trong chu ký sản xuất kinh doanh nên ngân hàng có thể theo dõi thường xuyên và nếu có biến động xảy ra thì kịp thời thu hồi vốn. Cho vay để đáp ứng yêu cầu về tài sản cố định: loại hình cho vay với mục đích đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng mới. Hình thức tín dụng này thường có mức độ rủi ro cao vì khả năng thu hồi vốn chậm hơn. Ngoài ra tín dụng còn được chia theo các cách sau Theo xuât sứ tín dụng gồm: tín dụng gián tiếp và tín dụng trực tiếp Theo đối tượng được cho vay gồm: tín dụng cho doanh nghiệp – tổ chức tài chính khác vay, tín dụng cho nhà nước vay, tín dụng cho người tiêu dùng vay. Dựa vào các cách phân loại trên các nhà phân tích sẽ biết được kết cấu tín dụng của từng loại tín dụng, tỷ trọng từng loại tín dụng trong tổng dư nợ. Từ kết cấu tín dụng đó so sánh với kết cấu nguồn huy động , so với nhu cầu của nền kinh tế sẽ giúp cho các nhà phân tích đánh giá xem kết cấu tín dụng đã phù hợp với ngân hàng chưa từ đó đưa ra các giải pháp thích hợp để nâng cao vai trò của hoạt động tín dụng. VVai trò của hoạt động tín dụng đối với sự phát triển kinh tế ĐĐối với nền kinh tế: TDNH góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội. Vai trò quan trọng nhất của tín dung là cung ứng vốn một cách kịp thời cho các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của các chủ thể trong nền kinh tế. Các chủ thể này có thể đẩy nhanh tốc độ sản xuất, cũng như tốc độ tiêu thụ sản phẩm . Một hệ thống các hình thức tín dụng đa dạng không những thỏa mãn nhu cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế mà còn làm cho sự tiếp cận các nguồn vốn tín dung trở nên dễ dàng hơn, tiết kiệm chi phí giao dịch và giảm bớt chi phí nguồn vốn cho chủ thể hinh doanh . Việc mở rộng và nâng cao hiệu quả các hình thức tín dung sẽ tạo ra sự chủ động cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, không bị giới hạn bởi nguồn vốn tài chính. Giúp nhà sản xuất tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư mới và nâng cao năng lực sản xuất của xã hội. Các nguồn vốn tín dụng được cung ứng luôn kèm theo các điều kiện để hạn chế rủi ro đạo đức và rủi ro lựa chọn đối nghịch buộc người đi vay phải quan tâm thực sự đến hiệu quả sử dụng vốn, để đảm bảo mối quan hệ lâu dài với tổ chức cung ứng tín dung. TDNH là kênh chuyển tải tác động tác động của Nhà nước đến các mục tiêu vĩ mô, mục tiêu vĩ mô bao gồm: Ôn định giá cả ,tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm. Việc bảo đảm đạt được mục tiêu kinh tế vĩ mô hài hòa phụ thuộc, một phần vào khối lượng và cơ cấu tín dung. Vấn đề này, đến lượt nó lại phụ thuộc vào các điều kiện tín dung như: lãi suất, điều kiện vay, yêu cầu thế chấp, bảo lãnh và chủ trương mở rộng tín dung được quy định trong chính sách tín dung trong từng thời kì. Như vậy, thông qua việc thay đổi và điều chỉnh các điều kiện tín dung. Nhà nước có thể thay đổi quy mô tín dụng hoặc chuyển hướng của nguồn tín dung, nhờ đó mà ảnh hưởng đến tổng cầu của nền kinh tế cả về quy mô và kết cấu. Sự thay đổi của tổng cầu dưới tác dụng của chính sách tín dung sẽ tác động ngược lại tới tổng cung và các điều kiện sản xuất khác. Điểm cân bằng cuối cùng giữa tổng cầu và tổng cung dưới tác động của chính sách tín dung để đạt được mục tiêu vĩ mô TDNH là công cụ thực hiện các chính sách: Khi các đối tượng chính sách được sử dụng vốn từ nguồn tài trợ không hoàn lại thì hiệu quả sử dụng vốn không cao; thay thế bằng nguồn tài trợ có hoàn lại nhưng lãi suất thấp,lãi suất ưu đãi thì hiệu quả sử dụng vốn tăng . TDNH còn là động lực đối với việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH nền kinh tế. TDNH góp phần thúc đẩy quá trình mở rộng mở rộng mối quan hệ giao lưu kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Hoạt động tín dung góp phần ổn định thị trường, ổn định giá trị đồng tiền, góp phần mang lại một môi trường đầu tư hấp dẫn Đối với khách hàng : Thỏa mãn nhu cầu vốn và sử dụng vốn của khách hàng .Trong đó có nhu cầu tiết kiệm của người thừa vốn và cung cấp vốn cho khách hàng thiếu vốn; giúp họ nắm bắt các cơ hội đầu tư và sử dụng vốn hiệu quả… Đối với bản thân ngân hàng : Đối với hầu hết các ngân hàng ,dư nợ tín dung thường chiếm tới hơn ½ tổng tài sản có và thu nhập từ tín dung chiếm khoảng 1/2 đến 2/3 tổng thu nhập của ngân hàng. Mặt khác rủi ro trong kinh doanh ngân hàng có xu hướng tập trung chủ yếu vào hoạt động tín dung Khi ngân hàng rơi vào tình trạng tài chính khó khăn nghiêm trọng thì nguyên nhân thường phát sinh từ hoạt động tín dung của ngân hàng. Ngân hàng không thể thu hồi được vốn,có thể do: một chính sách tín dụng kém hiệu quả, ngân hàng buông lỏng quản lý tín dung, cấp tín dụng không minh bạch, hay do nền kinh tế đang đi xuống không lường trước được. Do vậy cần phải có những chính sách, biện pháp phù hợp nhằm đảm bảo lành mạnh và hiệu quả, để bảo vệ những người gửi tiền và cổ đông của ngân hàng. Như vậy : TDNH có vai trò quan trọng không chỉ với bản thân ngân hàng mà với toàn xã hội. Chất lượng tín dụng của Ngân hàng Thương mạị KKhái niệm chất lượng tín dụng Chất lượng tín dụng của NH là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh mức độ thích nghi của NH với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh của một NH trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và được thể hiện trên ba khía cạnh sau: Đối với khách hàng: tín dụng phát ra phải phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng với lãi suất kỳ hạn nợ hợp lý, thủ tục đơn giản, thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng. Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hóa, góp phần giải quyết việc làm, khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế , thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt các quan hên tăng trưởng tín dụng với tăng trưởng kinh tế Đối với ngân hàng thương mại: phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với bản thân ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường với các nguyên tắc nhất định và có lãi cho ngân hàng. Chất lượưg tín dụng được xác định quan nhiều yếu tố như: thu hút được nhiều khách hàng tốt, thủ tục đơn giản thuận tiện, mức độ an toàn vốn tín dụng, chi phí và lãi suất như thế nào. Để đảm bảo chất lượng tín dụng tốt thì ngân hàng phải hiểu và thực hiện tốt quy trình tín dụng. Như vậy chất lượng tín dụng là một phạm trù rộng lớn. Để có được chất lượng tín dụng thì hoạt động tín dụng phải có hệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín hay nó cách khác chất lượng tín dụng tỷ lệ với hiệu quả và độ tin cậy trong hoạt động tín dụng. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng: Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh độ thích nghi cuả ngân hàng thương mại với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, để đánh giá được ngân hàng mạnh hay yếu thì phải đánh giá được chất lượng tín dụng và đánh giá dựa trên trên hai khía cạnh định tính và định lượng. Chỉ tiêu định tính Đối với khách hàng :chất lượng tín dụng được thể hiện qua các chỉ tiêu: Cảm giác an tâm của ngân hàng khi đến giao dịch với ngân hàng, nếu ngân hàng có đầy đủ các dịch vụ như có bãi gửi xe, nhân viên trông xe miễn phí, có bảo vệ thì sẽ tạo được một ấn tượng đầu tiên rất tốt trong lòng khách hàng. Ngoài ra nếu ngân hàng có sơ đồ làm việc của các phòng ban thì khách hàng không bị bỡ ngỡ và đỡ tốn thời gian tạo độ tin tưởng cho khách hàng. Quy trình thủ tục tín dụng: đảm bảo đúng quy trình thủ tục nhưng phải nhanh chóng. Khả năng cung ứng vốn của NHTM đầy đủ và kịp thời, đáp ứng nhu cầu vốn cho khách hàng,không gây sự ách tắc chậm trễ về vốn gây ảnh hưởng đến kinh doanh như vi phạm hợp đồng kinh tế do NHTM giải ngân trễ khi thanh toán. Điều kiện tài sản bảo đảm: điều kiện tài sản bảo đảm là cần thiết tuy nhiên nếu quá khắt khe, khách hàng sẽ khó lòng đáp ứng. * Theo quy định hiện hành : Nghị định 163; Quy định về giao dịch bảo đảm thì : + Một tài sản có thể được thế chấp tại nhiều TCTD. + Giá trị khoản tín dụng có thể cao hơn,thấp hơn, hoặc bằng giá trị của TSBĐ. + Thứ tự ưu tiên thanh toán theo thứ tự đăng ký giao dịch bảo đảm. Chi phí sử dụng vốn hợp lý và chất lượng nghiệp vụ tín dụng tốt. Các hỗ trợ khác: bên cạnh vốn thì các hỗ trợ khác cũng đóng vai trò quan trọng như: dịch vụ thanh toán, mở tài khoản, thẻ tín dụng. Đối với các NHTM: chất lượng tín dụng được thể hiện qua các chỉ tiêu sau: Hoạt động tín dụng phải bảo đảm mục tiêu định hướng của NH trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn Khả năng hoàn trả gốc và lãi đúng hạn của người đi vay. Chất lượng quản lý rủi ro tín dụng,mức độ chấp hành các quy định của pháp luật về hoạt động tín dụng của các NHTM. Các chỉ tiêu định lượng Chỉ tiêu tổng dư nợ và kết cấu dư nợ Tổng dư nợ là chỉ tiêu phản ánh khối lượng tiền ngân hàng cấp cho nền kinh tế taị một thời điểm. tổng dư nợ bao gồm dư nợ cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, tổng dư nợ thấp chứng tỏ hoạt động tín dụng của ngân hàng yếu kém không có khả năng mở rộng quy mô, quan hệ khách hàng kém, trình độ cán bộ công nhân viên thấp, không có lòng tin của khách hàng. Tuy nhiên không phải chỉ tiêu này càng cao thì chất lượng tín dụng càng cao vì đằng sau những khoản tín dụng đó còn chứa đựng yếu tố rủi ro mà ngân hàng phải gánh chịu Chỉ tiêu tổng dư nợ phản ánh quy mô tín dụng của ngân hàng, sự uy tín của ngân hàng đối với doanh nghiệp. Tổng dư nợ của ngân hàng khi so sánh với thị phần tín dụng của ngân hang sẽ cho chúng ta biết dư nợ tín dụng của ngân hàng cao hay thấp. Kết cấu dư nợ phản ánh tỷ trọng của các loại dư nợ trong tổng dư nợ, phân tích kết cấu dư nợ sẽ giúp ngân hàng biết được ngân hàng cần đẩy mạnh cho vay theo loại hình nào để cân đối với thực lực của ngân hàng. Kết cấu dư nợ khi so sánh với kết cấu nguồn huy động sẽ cho biết rủi ro của loại hình cho vay nào là nhiều tử đó ngân hàng có biện pháp hợp lý. Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn Hiện tượng nợ quá hạn phát sinh từ mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo khi người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình đúng hạn theo cam kết trước đó. Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của ngân hàng thương mại ở một thời điểm nhất định thường là vào cuối các tháng, quý, năm. Tỷ lệ nợ quá hạn dưới 5% thì chất lượng tín dụng được coi là tốt Tỷ lệ nợ quá hạn = Nợ quá hạn Tổng dư nợ Khi một khoản vay khoản vay không được trả đúng hạn như đã cam kết mà không có lý do chính đáng thì được coi là nợ quá hạn và phải chịu lãi suất cao hơn mức lãi suất bình thường, trên thực tế phần lớn các khoản nợ quá hạn là các khoản nợ có vấn đề và chứa đựng lớn khả năng không thu hồi được vốn. Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì ngân hàng càng gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh vì sẽ có nguy cơ mất vốn, mất khả năng thanh toán, mất khách hàng, giảm uy tín và giảm lợi nhuận hay nói cách khác tỷ lệ nợ quá hạn cao thì chất lượng tín dụng càng thấp và ngược lại. Để đánh giá chính xác hơn người ta chia tỷ lệ nợ quá hạn làm 2 loại: Tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng thu hồi = Nợ quá hạn có khả năng thu hồi Nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn không có khả năng thu hồi = Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi Nợ quá hạn Hai chỉ tiêu này cho ta biết bao nhiêu phần trăm trong tổng nợ quá hạn có khả năng thu hồi và bao nhiêu không có khả năng thu hồi vì vậy ta đánh giá chính xác hơn về chất lượng tín dụng. Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng Chỉ tiêu này thường được các ngân hàng thương mại tính toán hàng năm để đánh giá khả năng tổ chức quản lý và sử dụng vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu khách hàng Vòng quay vốn tín dụng = doanh số thu nợ Dư nợ bình quân Chỉ tiêu này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng, vòng quay vốn tín dụng càng cao chứng tỏ nguồn vốn vay ngân hàng đã chu chuyển nhanh, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hóa, do vòng quay tín dụng nhanh nên ngân hàng đã đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp đồng thời ngân hàng cũng có vốn để đầu tư vào lĩnh vực khác đem lại lợi nhuận và hiệu quả cao cho ngân hàng. Như vậy nếu vòng quay vốn tín dụng càng cao phản ánh tình hình quản lý vốn tín dụng càng tốt, chất lượng tín dụng càng cao, ngân hàng đóng góp càng nhiều vào sự phát triển chung của toàn nền kinh tế. Chỉ tiêu thu nhập từ hoạt động tín dụng Đây là chỉ tiêu cơ bản nhất và rõ ràng nhất để phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng, nguồn thu từ hoạt động tín dụng chứng tỏ các khoản cho vay không chỉ thu hồi được nợ gốc mà còn có lãi đảm bảo được độ an toàn của nguồn vốn cho vay. Đây là chỉ tiêu quan trọng được hầu hết các ngân hàng theo dõi vì đây là nguồn thu chủ yếu để ngân hàng tồn tại và phát triển. Thu nhập từ họat động tín dụng = Lãi từ hoạt động tín dụng Tổng thu nhập Chỉ tiêu doanh số cho vay Chỉ tiêu này phản ánh quy mô cấp tín dụng của ngân hàng cho nền kinh tế, chỉ tiêu này thường được theo dõi trong thời gian dài và nó cho thấy khả năng hoạt động tín dụng qua các năm, sự tăng trưởng dư nợ tín dụng qua các năm, có thể so sánh quy mô dư nợ tín dụng của ngân hàng với các ngân hàng khác trong cùng hệ thống. Chỉ tiêu các thông số quy định Chất lượng tín dụng còn được đánh giá thông qua việc đảm bảo các quy chế, thể lệ tín dụng chung đã được quy định trước như cho vay một khách hàng, hệ số an toàn vốn tối thiểu là 8%. Hệ số an toàn vốn tối thiểu cho biết một đồng vốn tự có bảo vệ bao nhiêu đồng tài sản có rủi ro của ngân hàng thương mại, nó được tính bằng công thức sau: Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu = Vốn tự có Tài sản có rủi ro quy đổi Để đảm bảo khả năng thanh toán mọi ngân hàng thương mại đều tuân theo quy định về giới hạn cho vay của một khách hàng tối đa là 15% vốn tự có. Dư nợ của một khách hàng không quá 10% vốn điều lệ và các qũy Ngoài các chỉ tiêu trên chất lượng tín dụng ngân hàng còn được đánh giá thông qua các chỉ tiêu dưới đây: Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn Chỉ tiêu này cho phép chúng ta xem xét và đánh giá tỷ trọng cho vay đã phù hợp với khả năng đáp ứng của bản thân ngân hàng cũng như nhu cầu về vốn của nền kinh tế hay chưa. Trên cơ sở đó các ngân hàng thương mại có thể biết được khả năng mở rộng tín dụng của mình vẫn đảm bảo theo quy định của ngân hàng trung ương và vẫn đảm bảo mở rộng tín dụng tối đa trong khả năng của ngân hàng. Từ đó có thể quyết định quy mô và tỷ trọng đầu tư vào các lĩnh vực một cách hợp lý để vừa đảm bảo an toàn vốn cho vay, vừa có lợi nhuận cao. Chỉ tiêu này được thể hiện thông qua công thức sau: Hiệu suất sử dụng vốn = Tổng dư nợ Tổng vốn huy động Các nhân tố ảnh hưởng đến chất luợngtín dụng CCác nhân tố từ phía ngân hàng CChính sách tín dụng của ngân hàng Chính sách tín dụng của ngân hàng là một trong những chính sách quan trọng nằm trong chiến lược kinh doanh của ngân hàng, đó là yếu tố đầu tiên tác động đến việc cung ứng vốn cho nền kinh tế. Đây là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng của ngân hàng, nó có ý nghĩa quyế định đến sự thành công hay thất bại của ngân hàng. Tuy nhiên chính sách tín dụng của ngân hàng phải phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của nhà nước, của ngân hàng trung ương đồng thời phải hài hòa giữa quyền lợi của người gửi tiền, của ngân hàng và của người đi vay. Chính sách tín dụng là đường lối, phương tiện đảm bảo cho hoạt động tín dụng đi đúng hướng, nó có tác dụng quan trọng liên quan đến toàn bộ chất lượng và quy mô tín dụng của ngân hàng. Chính sách tín dụng thường được xác đính trước rấ rõ ràng, nó bao gồm các yếu tố về hạn mức tín dụng, kỳ hạn của các khoản vay, lãi suất cho vay và các khoản lệ phí, các loại cho vay được thực hiện. Những yếu tố này được xây dựng dựa trên nhiều yếu tố khác nhau như các điều kiện kinh tế, chính sách tiền tệ và tài chính của ngân hàng nhà nước, khả năng về vốn của ngân hàng và nhu cầu tín dụng của khách hàng. Khi các yếu tố này thay đổi thì chính sách tín dụng cũng thay đổi tùy vào điều kiện cụ thể mà ngân hàng có sự điều chỉnh cho hợp lý, đối với mỗi khách hàng ngân hàng có thể đưa ra các chính sách khác nhau cho phù hợp vì vậy ta thấy tồn tại nhiều hình thức tín dụng khác nhau đối với mỗi loại khách hàng. Tuy nhiên Một chính sách TD cần đạt được 3 mục tiêu: Lợi nhuận; An toàn; Sự lành mạnh của các khoản TD. Chính sách tín dụng có ý nghĩa lớn với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, đây là yếu tố tạo ra sự khác biệt đặc trưng của từng ngân hàng, chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiề khách hàng và đảm bảo được khả năng sinh lời từ hoạt động tín dụng trên cơ sở hạn chế rủi ro, nâng cao uy tín và tạo dựng thương hiệu tin cậy với khách hàng vì vậy mà chất lượng tín dụng đước nâng cao. Quy trình tín dụng Quy trình tín dụng là tổng hợp các nguyên tắc, quy định, những nội dung, nghiệp vụ cơ bản, các bước tiến hành trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng của NH, nó phải tuân thủ theo một trình tự nhất định: từ khâu chuẩn bị hồ sơ đề nghị cấp tín dụng, phát tiền vay, kiểm tra trong quá trình vay cho đến khi chấm dứt quan hệ tín dụng và thu hồi nợ. Một quy trình hợp lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả; giảm thiểu rủi ro cho hoạt động TD. Do đó để nâng cao hiệu quả hoạt động TD và bảo đảm an toàn vốn trong kinh doanh NH phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình cho vay vốn. Một bước quan trọng trong quy trình tín dụng là công tác thu thập thông tin tín dụng, thông tin tín dụng càng nhanh, càng chính xác thì ngân hàng càng tránh được rủi ro. Thông tin tín dụng có thể thu thập từ rất nhiều nguồn khác nhau như: từ trung tâm tín dụng của ngân hàng nhà nước, từ phòng thông tin tín dụng của các ngân hàng thương mại, từ báo chí, các tổ chức nghề nghiệp, hoặc cán bộ tín dụng thu thập trực tiếp thông qua điều tra tín dụng trực tiếp khách hàng hoặc qua quá trình thẩm định. Tóm lại, thông tín tín dụng là rất cần thiết cho hoạt động tín dụng của mọi ngân hàng thương mại. Chuẩn bị cho vay: gồm ba giai đoạn: khai thác và tìm kiếm khách hàng; hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và thành lập hồ sơ vay; phân tích thẩm định khách hàng và phương án, dự án vay vốn. Chất lượng tín dụng phụ thuộc nhiều vào công tác thẩm định và quy định về điều kiện, thủ tục cho vay của từng ngân hàng vì vậy giai đoạn chuẩn bị cho vay có vai trò rất quan trọng. Kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay để ngân hàng nắm được diễn biến của khoản tín dụng đã cung cấp cho khách hàng để có những hành động điều chỉnh và can thiệp khi cần thiết, phòng ngừa và hạn chế rủi ro tối đa hay nâng cao được chất lượng tín dụng. Công tác thu hồi và giải quyết nợ là khâu quan trọng quyết định đến chất lượng tín dụng, việc thu nợ tín dụng đúng hạn như trong cam kết đã thỏa thuận là một thành công của ngân hàng. Tuy nhiên không phải lúc nào các khoản nợ cũng được thu hồi đúng hạn vì vậy ngân hàng phải kịp thời phát hiện những biểu hiện bất lợi xảy ra với khách hàng và đưa ra biện pháp sử lý kịp thời hoặc tư vấn cho khách hàng nhằm giảm thiểu được những khoản nợ quá hạn góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. Các khâu trong quy trình tín dụng thường được thực hiện rất nghiêm ngặt tuy nhiên trong những điều kiện cụ thể chúng ta có thể áp dụng khác nhau đối với mỗi loại khách hàng khác nhau có thể chủ động linh hoạt thực hiện các bước trong quy trình tín dụng cho phù hợp nhằm đảm bảo chất lượng tín dụng tốt và tạo lợi nhuận cho ngân hàng. Công tác tổ chức ngân hàng Để tạo điều kiện cho việc quản lý có hiệu quả các khoản vốn TD thì cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban, có sự đoàn kết thống nhất từ trên xuống dưới, từ ban lãnh đạo đến các cán bộ công nhân viên. Điều đó có ý nghĩa công tác tổ chức của NH được thực hiện tốt chính là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ TD, tổ chức của ngân hàng cần cụ thể hóa và xắp xếp có khoa học, có tính linh hoạt trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc đã định Ngân hàng được tổ chức có khoa học sẽ đảm bảo được sự phối hợp chặt chẽ nhịp nhàng giữa các phòng ban và giữa các ngân hàng với nhau trong toàn hệ thống cũng như với các cơ quan liên quan khác. Qua đó sẽ tạo điều kiện đáp ứng kịp thời các yêu cầu của khách hàng, quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín dụng, giải quyết kịp thời các khoản vốn tín dụng có vấn đề, ngoài ra đội ngũ cán bộ tốt còn giúp NH tránh được những rủi ro có thể xảy ra , nhờ đó chất lượng tín dụng là ổn định . Phẩm chất và trình độ cán bộ Chất lượng đội ngũ cán bộ ngân hàng là nhân tố quyết định sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng đặc biệt là trong hoạt động tín dụng vì cán bộ tín dụng là người tham gia trực tiếp vào mọi khâu của quy trình tín dụng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nói đến phẩm chất và trình độ cán bộ chúng ta phải kể đến đạo đức nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm, trình độ chuyên môn nghiệp vụ là những yếu tố quyết định đến sự thành công của công tác tín dụng Ngoài ra là một cán bộ tín dụng của ngân hàng cần phải có sự hiểu biết về luật pháp, môi trường kinh tế - xã hội, đường lối phát triển của đất nước, sự biến đổi của thị trường, dự báo tình hình biến động có thể xảy ra từ đó tư vấn lại cho khách hàng xây dựng lại phương án kinh doanh cho phù hợp. Kiểm soát nội bộ Một việc mà bất cứ ngân hàng nào cũng phải tiến hành thường xuyên và liên tục đó là công tác kiểm soát nội bộ nhằm duy trì chất lượng, hiệu quả kinh doanh theo kế hoạch đề ra. Thanh tra, kiểm soát là nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác NHTM trong mọi hoạt động, làm tốt công tác ._.này ngân hàng cần sắp xếp một đội ngũ cán bộ có phẩm chất và trình độ tốt để công tác tín dụng được thực hiện theo đúng quy trình nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng. Thông qua kiểm soát nội bộ giúp cho ban lãnh đạo ngân hàng nắm được tình hình hoạt động kinh doanh đang diễn ra theo chiều hướng thế nào từ đó có những biện pháp kịp thời và hợp lý hơn. Tình hình huy động vốn NH là trung gian tài chính mà hoạt động đặc trưng của nó là nhận tiền gửi,sử dụng số tiền đó để cho vay, và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Vì vậy muốn mở rộng cho vay thì trước hết phải huy động được nguồn. Nguồn vốn càng huy động được nhiều, đa dạng thì khả năng cho vay càng lớn. Chất lượng của nguồn vốn ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng, vốn huy động ngắn hạn là nguồn chủ yếu để cho vay ngắn hạn, tương tự với vốn huy động trung và dài hạn vốn huy động càng lớn ngân hàng càng có khả năng cho vay mở rộng hoạt động tín dụng. Nếu ở ngân hàng không co sự phù hợp về kỳ hạn giữa nguồn huy động và cho vay mà không dự kiến được nguồn bù đắp thì rủi ro thanh khoản xảy ra làm ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng. CCác nhân tố từ phía khách hàng Khách hàng là người trực tiếp sử dụng khoản vay từ ngân hàng, do đó có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng của NH vì khách hàng là người trực tiếp lập phương án, dự án xin vay và sau khi được ngân hàng chấp nhận thì khách hàng là người trực tiếp sử dụng vốn vay để kinh doanh. Khoản tín dụng đó có mang lại hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào khách hàng, phụ thuộc vào phương án sử dụng vốn của họ. Đối với khách hàng tiêu chuẩn quản lý tập trung vào khả năng hoàn trả của khách hàng: Một là: Mục đích sử dụng vốn, đây là yếu tố hàng đầu quyết định tính khả thi và khả năng trả nợ của khách hàng. Vốn vay phải được sử dụng hợp pháp và theo cam kết đã thỏa thuận nhằm thuận tiện cho sự quản lý và theo dõi của ngân hàng. Hai là: Tính khả thi của phương án, dự án sản xuất kinh doanh của khách hàng . Tính khả thi cao thì rủi ro thấp và ngược lại, đây là yếu tố quan trọng với mỗi ngân hàng trước khi tiến hành cho vay đều phải thẩm định tính khả thi trước, nếu dự án không khả thi thì không thể tiến hành cấp vốn vì như vậy sẽ làm cho chất lượng tín dụng suy giảm. Ba là: Năng lực của khách hàng, năng lực của khách hàng bao gồm năng lực pháp lý và năng lực tài chính. Đây là yếu tố quyết định đến việc khách hàng sử dụng vốn vay có hiệu quả hay không, nếu năng lực của khách hàng yếu kém, không dự đoán được những biến động lên xuống của thị trường, không hiểu biết nhiều trong sản suất kinh doanh thì sẽ dễ dàng bị thất bại trong kinh doanh từ đó làm ảnh hưởng đến khả năng trả nợ ngân hàng, suy giảm chất lượng tín dụng của ngân hàng và ngược lại khi năng lực khách hàng cao thì chất lượng tín dụng cũng được đảm bảo. Bốn là: Tư cách đạo đức của khách hàng.đây là vấn đề hết sức nhạy cảm. Sự trung thực của khách hàng ảnh hưởng lớn tới chất lượng tín dụng của ngân hàng, nếu các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng không cung cấp các số liệu trung thực thì sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trong việc nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh cũng như việc quản lý vốn vay của khách hàng để có quyết định đúng đắn. Nếu khách hàng sử dụng vốn vay ngân hàng không đúng đối tượng kinh doanh, không đúng phương án, mục đích thì gây khó khăn cho ngân hàng trong quá trình theo dõi kiểm soát làm giảm chất lượng tín dụng. Năm là: rủi ro trong công việc kinh doanh của khách hàng, đây là yếu tố khách quan rủi ro xảy đến với nhiều lý do mà cả ngân hàng và khách hàng đều không lường trước được như do thiên tai, hỏa hoạn, do thay đổi chính sách, do bị lừa đảo, trộm cắp. Với loại rủi ro này thì cả ngân hàng và doanh nghiệp đều phải chấp nhận và tìm hướng giải quyết chung mà không thể ép khách hàng trả nợ đúng thời hạn được. Sáu là: Tài sản đảm bảo của khách hàng, đây được coi là phần tài sản thế chấp của khách hàng cho ngân hàng để được vay vốn, những tài sản này thường là nhà xưởng, máy móc thiết bị, mặc dù những tài sản này thường có giá trị thấp hơn nhiều so với lượng vốn mà các doanh nghiệp muốn vay tuy nhiên ngân hàng vẫn cho vay vì nếu theo đúng chế độ thì hầu hết các doanh nghiệp đều không vay được. Bẩy là: Sự không theo kịp quá trình đổi mới, yếu tố này chủ yếu tồn tại với những khách hàng là các doanh nghiệp nhà nước, vốn tự có của họ ít nhưng lại được giao những nhiệm vụ sản xuất kinh doanh lớn ngoài ra còn tồn tại kiểu chế độ bao cấp nên vẫn duy trì sự trì trệ trong sản xuất kinh doanh vì vậy ngay cả khi thua lỗ không trả được ngân hàng họ vẫn trông chờ sự giúp đỡ của nhà nước gây ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của ngân hàng. Các nhân tố khác Chất lượng tín dụng chịu tác đông của rất nhiều nhân tố, ngoài các nhân tố ở trên chất lượng tín dụng còn chịu tác động của một số nhân tố khách quan bên ngoài khác, ta có thể chia làm ba nhân tố chính sau: Các nhân tố kinh tế Để NH có thể huy động được nhiều nguồn vốn mở rộng hoạt động cho vay, phục vụ cho sự phát triển kinh tế thì điều kiện cần thiết là phải có 1 nền kinh tế ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động NH . Nền kinh tế ổn định, thì giá cả luôn ở mức ổn định, tránh được tình trạng lạm phát hoặc giảm phát sẽ tránh cho NH khỏi phải chịu những thiệt hại lớn do sự mất giá của đồng tiền, tránh sự giảm sút về chất lượng TD. Mặt khác nền kinh tế ổn định hoạt động đầu tư của toàn xã hội tăng dẫn đến việc thiếu hụt vốn của các chủ thể đầu tư là điều kiện tốt cho NH mở rộng quy mô hoạt động TD và làm phong phú thêm các sản phẩm dịch vụ đi kèm. Tuy nhiên một xã hội muốn tồn tại và phát triển thì nhất định phải có tăng trưởng với mục tiêu tăng trưởng đã định trước thì nó sẽ kéo theo một tỷ lệ lạm phát đi kèm vì vậy ngân hàng cần xác định được mục tiêu tăng trưởng và tỷ lệ lạm phát nhất định để có chính sách tín dụng phù hợp nhất. Chu kỳ kinh tế cũng có ảnh hưởng tới chất lượng TD. Trong thời kì kinh tế phát triển ổn định, mức độ tăng trưởng cao, sản xuất kinh doanh sẽ được mở rộng, nhu cầu vốn tăng ,hiệu quả sử dụng vốn của khách hàng tăng. Giảm bớt những rủi ro TD, đồng nghĩa với chất lượng TD tăng. Ngược lại, nền kinh tế bị suy thoái, sản xuất bị thu hẹp, kinh doanh thua lỗ, thì hoạt động TD cũng gặp nhiều khó khăn như: Nợ khó đòi tăng, nợ quá hạn tăng. Đồng nghĩa với chất lượng TD giảm sút . Ngoài ra các chính sách, cơ chế về quản lý kinh tế nói chung và quản lý doanh nghiệp nói riêng có liên quan đến vấn đề đầu tư vốn của doanh nghiệp cũng có ảnh hưởng đến chất lượng TD như: thuế,chế độ chuẩn mực kế toán tài chính…. Hay bất kỳ một chính sách ưu tiên nào về một ngành, một lĩnh vực nào đó như đảm bảo môi trường hay chính sách phát triển bền vững đều có ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của ngân hàng. Tính chất và mức độ cạnh tranh của nền kinh tế có ảnh hưởng tới nguồn thu, lợi nhuận của khách hàng, từ đó ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của khách hàng. Chất lượng TD từ đó mà có biến động. Cũng giống như các ngành khác, ngành ngân hàng cũng phải đối mặt với áp lực cạnh tranh ngay trong nội bộ ngành. Trong điều kiện nền kinh tế mở cửa, hội nhập với thế giới, sự tăng nhanh của số lượng các NH thương mại cổ phần, các chi nhánh NH nước ngoài, với các sản phẩm dịch vụ khá hoàn hảo, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng, đang đặt ra sức ép cạnh tranh lớn cho các NHTM quốc doanh, vốn đã cồng kềnh về tổ chức và kém năng động trong cạnh tranh. Điều này ảnh hưởng lớn đến chất lượng TD. Ngoài ra chất lượng tín dụng còn phụ thuộc vào chất lượng khách hàng, tín dụng là chiếc cầu nối giữa các ngành sản xuất và kinh doanh dịch vụ với nhau do vậy mọi dấu hiệu tốt hay xấu trong hoạt động sản xuất và kinh doanh đều có ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng qua tác động lây chuyền. Nhóm các nhân tố xã hội Các yếu tố xã hội ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng, là các nhân tố trực tiếp tham gia vào quan hệ tín dụng, đó là người gửi tiền, người vay tiền và ngân hàng thương mại. Đạo đức, tập quán, thói quen và trình độ nhận thức của khách hàng có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng khoản vay. Các tệ nạn xã hội như: cờ bạc ,lô đề, ma túy…. Có ảnh hưởng đến chất lượng TD một cách gián tiếp thông qua việc sử dụng vốn sai mục đích của khách hàng. Người gửi tiền là người có nhu cầu tiết kiệm tiền, họ mong muốn nhận được từ ngân hàng một khoản tiền lãi sau một khoản thời gian đã cam kết. Sự tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng sẽ làm tăng thêm tính ổn định của nguồn vốn huy động để đáp ứng nhu cầu của người vay. Đối với người đi vay họ mong muốn nhu cầu vay của mình được đáp ứng để có một khoản tín dụng sử dụng cho mục đích riêng của mình với sự xác định rõ ràng khối lượng vay, thời hạn và lãi suất vay. Nếu ngân hàng thu hút được nhiều khách hàng đồng nghĩa với việc hoạt động tín dụng diễn ra theo chiều hướng thuận lợi và chất lượng tín dụng được nâng cao. Ngân hàng là tổ chức tài chính trung gian, quy mô và phạm vi hoạt động cũng phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn tự có của ngân hàng, khả năng huy động vốn cũng như uy tín và trình độ quản lý của ngân hàng, ngoài ra còn phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật nghiệp vụ và mạng lưới hoạt động của ngân hàng. Ngoài ra yếu tố đạo đức xã hội là một yếu tố quan trọng, nó liên quan đến rủi ro tín dụng trong trường hợp lợi dụng loàng tin để lừa đảo hoặc do điều kiện sống còn khó khăn hay trình độ dân trí chưa cao kém hiểu biết dẫn đến chưa hiểu đúng bản chất của hoạt động ngân hàng và hoạt động tín dụng hay do làm ăn kém hiệu quả nhiều khi không phát huy tốt chức năng của phương tiện tín dụng làm giảm chất lượng tín dụng. Bên cạnh đó các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội ở các nước trong khu vực và trên thế giới cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Trong tình hình hiện tại bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng đều đặt mình trong hợp tác toàn diện với các nước khác nhau trên thế giới, các quan hệ kinh tế xã hội được mở rộng theo đó là loại hình doanh nghiệp đa quốc gia cũng ngày càng tăng lên về số lượng và quy mô hoạt động vì vậy mọi sự biến động về kinh tế, xã hội, văn hóa trên thế giới cũng có ảnh hưởng tới tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của các ngân hàng. Các nhân tố pháp lý Lĩnh vực ngân hàng tài chính là lĩnh vực nhạy cảm với chính sách pháp luật của Nhà nước, vì vậy cần hoàn thiện hệ thống pháp lý riêng cho ngành ngân hàng. Nhân tố pháp lý bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, sự đầy đủ và thống nhất của hệ thống văn bản luật và quá trình chấp hành luật, trình độ dân trí trong lĩnh vực này. Thực tế đã chứng minh, trong nền kinh tế thị trường nhiều năm qua trên mọi quốc gia thì pháp luật đã trở thành bộ phận không thể thiếu đặc biệt trong các nước có nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Nếu không có pháp luật hay pháp luật không phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế thị trường thì mọi hoạt động trong xã hội sẽ bị hỗn loạn Pháp luật có một vị trí vô cùng quan trọng trong việc tạo ra một môi trường pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh được thuận tiện và đạt hiệu quả kinh tế cao, là cơ sở để giải quyết mọi tranh chấp khiếu nại xảy ra vì vậy pháp luật có tác động lớn đến mọi hoạt động nói chung và chất lượng tín dụng nói riêng. Để chất lượng tín dụng tốt thì quan hệ tín dụng phải được các bên tuân thủ theo quy định của pháp luật cũng như cam kết của các bên tham gia. Nhân tố khoa học kỹ thuật, công nghệ : Sự tiến bộ của khoa học công nghệ quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng và hoạt động NH, áp dụng tiến bộ công nghệ vào trong hoạt động ngân hàng là yêu cầu cấp thiết trong xu thế hội nhập hiện nay, mở rộng các loại hình dịch vụ ra thế giới, liên kết với các tổ chức tín dụng ngân hàng trong và ngoài nước đều phải áp dụng tiến bộ khoa hoc công nghệ cho phù hợp xu thế chung. Sự đòi hỏi của nền kinh tế và tiến bộ xã hội ngành ngân hàng không thể nằm ngoài quy luật phát triển , nên yêu cầu hiện đại hóa NH là yêu cầu cấp thiết. Trên đây là những nhân tố chính tác động đến chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại, chúng ta tiến hành nghiên cứu các yếu tố này với mục đích hạn chế rủi ro, bảo toàn nguồn vốn và nâng cao thu nhập, lợi nhuận từ hoạt động tín dụng cho các ngân hàng thương mại, hợp pháp hóa các hoạt động ngân hàng, đảm bảo cho ngân hàng hoạt động theo đúng pháp luật, tạo môi trường pháp lý lành mạnh và ổn định để hoạt động tín dụng có hiệu quả. Ngoài ra, nghiên cứu các yếu tố trên cũng tạo ra sự gắn kết đưa hoạt động ngân hàng đến mọi nơi trong xã hội tạo điều kiên cho ngân hàng phát triển cũng như sự phát triển toàn nền kinh tế. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng CChất lượng tín dụng đối với sự phát triển của nền kinh tế Chất lượng tín dụng góp phần phát triển chất lượng sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế. Chất lượng tín dụng được bảo đảm, có nghĩa là ngân hàng đang trên đà phát triển tốt, nhờ vậy mà có điều kiện cấp tín dụng kịp thời, đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh của khách hàng. Mặt khác để bảo đảm chất lượng tín dụng thì ngân hàng tiến hành kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng vốn tín dụng của khách hàng qua đó cùng với khách hàng chấn chỉnh, phát hiện những sai phạm trong quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Trong điều kiện nền kinh tế hội nhập, cùng với sự cạnh tranh gay gắt của các tổ chức tín dụng trên thị trường thì NHTM thực hiện tốt việc nâng cao chất lượng tín dụng, cũng chính là NHTM đã tạo lòng tin ở khách hàng. Khách hàng có quyền lựa chọn bất cứ một ngân hàng nào làm đối tác, điều đó đồng nghĩa với việc khách hàng chỉ đến giao dịch khi NHTM đó thực sự tạo điều kiện, giúp đỡ họ thực hiện việc kinh doanh đat hiệu quả thông qua quan hệ tín dụng và các dịch vụ khác. Nhờ đó mà NHTM tăng thêm số lượng khách hàng, thu hút thêm nhiều nguồn vốn và mở rộng tín dụng, điều này là có lợi cho cả hai bên. Việc nâng cao chất lượng tín dụng góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, sản xuất lưu thông hàng hóa ngày càng gia tăng nhằm đáp ứng đươc các nhu cầu giao dịch ngày càng nhiều của xã hội. Chính vì vậy, việc nâng cao chất lượng tín dụng luôn được đặt lên hàng đầu. Nâng cao chất lượng tín dụng sẽ tạo điều kiện cho NH làm tốt chức năng trung gian tín dụng trong nền kinh tế: là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. Góp phần điều hòa vốn trong xã hội, phân bổ vốn cho đầu tư được hợp lý, giúp cho xã hội bớt lãng phí ở những nơi thừa vốn, giảm khó khăn cho nơi thiếu vốn, giải quyết tốt quan hệ cung cầu, đẩy mạnh tốc độ luân chuyển hàng hóa và tiền tệ. TDNH là một trong những công cụ để Nhà nước thực hiện chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế. Do vậy chất lượng tín dụng được nâng cao sẽ góp phần làm tăng hiệu quả sản xuất xã hội, giúp đầu tư đúng hướng để khai thác khả năng tiềm tàng về tài nguyên lao động ; đảm bảo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển cân đối giữa các ngành nghề trong khu vực. Ngoài ra nâng cao chất lượng tín dụng còn góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tóm lại : Nâng cao chất lượng tín dụng là cần thiết và tất yếu bởi chất lượng tín dụng quyết định đến sự tồn tại và phát triển lâu dài của hệ thống NHTM nói riêng và cho nền kinh tế -xã hội nói chung.Để thực hiện tốt công việc này chúng ta cần đi sâu phân tích, đánh giá để thấy rõ những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng và tìm giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng tín dụng. CChất lượng tín dụng đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại Chất lượng tín dụng quyết định sự tồn tại và phát triển cho toàn hệ thống ngân hàng vì chất lượng tín dụng tốt thì hoạt động tín dụng của ngân hàng có hiệu quả cao vì vậy thu nhập của ngân hàng lớn, ngân hàng có thể mở rộng quy mô, áp dụng tiến bộ công nghệ và cải thiện nguồn nhân lực. Nhờ nâng cao chất lượng tín dụng, tình hình tài chính của ngân hàng được cải thiện tạo ra thế mạnh trong cạnh tranh. Từ đó ngân hàng có thể thu hút thêm khách hàng làm cho hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả và có được những khoản lợi nhuận để bổ sung vốn đầu tư. Chất lượng tín dụng quyết định sự tồn tại lâu dài của ngân hàng. Nâng cao chất lượng tín dụng giúp cho ngân hàng tránh được những rủi ro tổn thất có thể xảy ra, góp phần thúc đẩy phát triển các quan hệ tín dụng, ổn định tình hình tài chính, kinh tế xã hội. Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Kết quả kinh doanh của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Về huy động vốn Ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với đặc trưng cơ bản là “ Huy động vốn để cho vay”, do đó nguồn vốn có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả kinh doanh của một ngân hàng. Với ngân hàng ngoại thương Việt Nam cũng vậy, trong điều kiện kinh tế thị trường hết sức khó khăn trong năm 2008 ban lãnh đạo ngân hàng đã kiên quyết chỉ đạo tăng cường công tác huy động vốn đặt công tác huy động vốn lên trên là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu cần chú ý phát triển. Vì vậy trong năm 2008 các chỉ tiêu tổng tích sản và huy động vốn từ nền kinh tế đã hoàn thành vượt mức không chỉ so với kế hoạch đã được điều chỉnh mà còn so với kế hoạch đã được thông qua từ đầu năm. Tổng nguồn vốn huy động trong năm 2008 là 220.950 tỷ đồng cao hơn so với chỉ tiêu kế hoạch điều chỉnh (200.000 tỷ đồng) và chỉ tiêu kế hoạch được duyệt từ đầu năm (211.000 tỷ đồng) và tăng 12,7% so với năm 2007. Phát huy vai trò là một ngân hàng hàng đầu của Việt Nam, ngân hàng Ngoại thương Việt Nam không ngừng lớn mạnh từng ngày. Tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng tăng liên tục qua các năm. Trong giai đoạn 2004-2006, thị trường tiền tệ có nhiều biến động về lãi suất trong nước và trên thị trường quốc tế, tình hình lạm phát, cạnh tranh về huy động vốn giữa các TCTD trong nước gây ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của các NHTM nói chung và NHNT nói riêng. Trước các biến động về giá huy động vốn trên thị trường, NHNT đã chủ động áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt trên cơ sở cung – cầu vốn thị trường, tích cực cải thiện chênh lệch lãi suất cho vay – huy động và chênh lệch lãi suất giữa các Chi nhánh; cải thiện quản trị thanh khoản dựa trên hệ thống thông số an toàn và phát triển nhiều công cụ huy động vốn mới (chứng chỉ tiền gửi, lãi suất bậc thang, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm bảo an...). Các biện pháp chủ động và linh hoạt trong điều chỉnh lãi suất đối với cá nhân, doanh nghiệp cả VND và ngoại tệ đã góp phần giảm thiểu tác động thị trường đối với việc huy động vốn, nâng cao hệ số sử dụng vốn, chất lượng quản trị vốn và sau cùng là hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Đến năm 2006 thị phần huy động vốn của NHNT chiếm 18,2% tổng huy động vốn toàn ngành. Vốn huy động năm 2006 đạt trên 152.000 tỷ VND, tăng 21,50% so với năm 2005 và 37,52% so với năm 2004. Năm 2006 cũng là năm tăng trưởng mạnh trong công tác huy động vốn từ kênh phát hành giấy tờ có giá (bao gồm các loại kỳ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ tiền gửi), tăng hơn 66,87% so với năm 2005, góp phần làm sôi động thị trường các công cụ nợ ngắn hạn và dài hạn vốn là một phần không tách rời của thị trường tài chính. Tuy nhiên, đến năm 2006, tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức kinh tế và dân cư đã giảm xuống chỉ còn 46,45% vốn huy động; trong khi tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức kinh tế và dân cư tăng lên 52,93% vốn huy động; tiền gửi khác (bao gồm tiền gửi của KBNN và TCTD) chiếm 0,62% vốn huy động. Trong năm 2007 hoạt động huy động vốn của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chịu tác động nhiều do sự biến động của thị trường tài chính tiền tệ, năm 2007 cũng là năm có nhiều biến động lớn trong mọi hoạt động kinh tế xã hội trong nước do việc Việt Nam chính thức trở thành viên của WTO. Việc này cũng có tác động lớn đến tình hình huy động vốn của ngân hàng trong thời kỳ hội nhập, cạnh tranh của các ngân hàng thương mại ngày càng trở nên gay gắt hơn, việc mở rộng quy mô, tăng lãi suất huy động, tung ra nhiều sản phẩm mới và các chương trình khuyến mại để thu hút khách hàng đều được các ngân hàng triển khai mạnh nhằm tăng thị phần trong thời kỳ hội nhập trước khi các ngân hàng nước ngoài tràn vào. Trong thời gian này hoạt động huy động vốn của ngân hàng Ngoại thương cũng gặp nhiều khó khăn do cục dự trữ liên bang Mỹ liên tục cắt giảm lãi suất trong khi tỷ giá bất lợi cho người giữ tiền do USD mất giá vì vậy hoạt động huy động USD gặp nhiều khó khăn do lãi suất USD có xu hướng giảm. Tuy vậy trong năm 2007 ngân hàng Ngoại thương vẫn có tỷ lệ huy động vốn ngoại tệ cao nhất trong các ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Kết thúc năm 2007 ngân hàng Ngoại thương đã thu hút được175.436 tỷ đồng tăng 17.2% so với năm 2006. Trong đó vốn huy động từ các tổ chức kinh tế và dân cư đạt 144.810 tỷ đồng, chiếm 82.5% trong tổng vốn huy động. Vốn huy động VND đạt 71.975 tỷ đồng, vốn huy động ngoại tệ đạt 72.150 tỷ quy đồng, tăng 29% so với năm 2006. Sau đây ta có bảng biểu về tình hình huy động vốn qua các năm của ngân hàng Ngoại thương việt nam: Bảng 1: Nguồn vốn huy động qua các năm Đơn vị: tỷ đồng Năm 2004 2005 2006 2007 2008 Vốn huy động 110.529 125.102 152.000 175.436 220.950 ( Nguồn: Báo cáo tài chính các năm) Ta thấy tình hình huy động vốn của ngân hàng Ngoại thương liên tục tăng qua các năm. Có được sự tăng trưởng như vậy là do sự tăng trưởng chung của toàn bộ hệ thống chi nhánh ngân hàng trên toàn quốc và công tác quản trị vốn, lãi suất linh hoạt của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Trong năm 2008 hầu hết các chi nhánh của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đều có sự tăng trưởng huy động vốn so với năm 2007, đặc biệt phải kể đến chi nhánh Vũng Tàu, Sở Giao Dịch, Nam Sài Gòn, Thành Công. Mặt khác hoạt động quản trị vốn, lãi suất được thực hiện hài hòa giữa các mục tiêu “ An toàn thanh khoản – Hiệu quả kinh doanh ”, trong năm 2008 mặc dù có những lúc nhu cầu vốn tăng rất lớn nhưng nguồn vốn tại NHNT luôn đảm bảo sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu thanh toán của khách hàng và đảm bảo thực hiện nghĩa vụ đảm bảo dự trữ bắt buộc tại NHNN. Trong năm 2008 có thể nói NHNT là một trong những ngân hàng đã duy trì được trạng thái thanh khoản ổn định nhất trên thị trường trong giai đoạn căng thẳng, trong lúc tình trạng thiếu tiền đồng phổ biến đặc biệt là ở các NHTM cổ phần để thực hiện các chính sách tiền tệ của NHNN thì NHNT vẫn duy trì hoạt động cho vay trên thị trường liên ngân hàng với khối lượng lớn và thường xuyên đóng vai trò hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng khác. Cũng trong năm 2008 công tác quản trị lãi suất của NHNT cũng được điều hành linh hoạt theo định hướng điều hành chính sách tiền tệ của NHNN và biến động lãi suất trên thị trường, vừa đảm bảo nguồn vốn ổn định, vừa đảm bảo mức tăng trưởng tín dụng hợp lý trong từng thời kỳ đảm bảo chênh lệch lãi suất đầu vào đầu ra. Chính vì vậy hoạt động huy động vốn vẫn tăng trưởng ổn định và ngân hàng vẫn tạo ra được lợi nhuận cao. HHoạt động tín dụng Song song với nghiệp vụ huy động vốn thì nghiệp vụ sử dụng vốn có vai trò quyết định trong quá trình hoạt động kinh doanh của 1 ngân hàng, những sai lầm trong nghiệp vụ sử dụng vốn sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường, thậm chí dẫn đến phá sản của một ngân hàng. Trong hoạt động sử dụng vốn chúng ta đi sâu tìm hiều hoạt động tín dụng của NHNT Việt Nam. Xét về lĩnh vực hoạt động tín dụng chúng ta sẽ thấy sự bất ngờ trong sự tăng trưởng dư nợ tín dụng của NHNT trong những năm trước. Trong giai đoạn 2001-2006, dư nợ tín dụng tăng trưởng mạnh, đặc biệt là năm 2002 khi có chủ trương bứt phá tín dụng. Dư nợ tín dụng tăng trung bình 32,7%/năm. Dư nợ cho vay tăng trưởng nhanh nhưng chất lượng tín dụng vẫn được NHNT quan tâm hàng đầu. Bằng việc áp dụng một số mô thức quản lý mới nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, số nợ xấu và tỷ lệ dư nợ xấu trong tổng dư nợ cho vay đã liên tục giảm. Nhìn chung, cơ cấu tín dụng của NHNT hiện được phân bổ khá hợp lý: (i) dư nợ theo mặt hàng/lĩnh vực đầu tư hợp lý: tổng dư nợ cho vay của 10 mặt hàng/lĩnh vực đầu tư lớn nhất của NHNT chiếm khoảng 40% so với tổng dư nợ và không có mặt hàng/lĩnh vực đầu tư nào có tỷ trọng dư nợ trên 10%; (ii) khu vực đầu tư được chỉ đạo tập trung hơn cho các khu vực kinh tế phát triển; (iii) mảng tín dụng bán lẻ được mở rộng tại các khu vực đô thị và thành phố đông dân cư… Giai đoạn 2004-2006: do tập trung nguồn lực và thời gian cho việc triển khai áp dụng các chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực quản trị rủi ro, nên NHNT thực hiện chủ trương tăng trưởng tín dụng thận trọng hơn. Áp dụng quy trình tín dụng mới theo tiêu chuẩn quốc tế: tách bạch hoạt động quan hệ khách hàng, quản lý rủi ro và xử lý tác nghiệp. Mở rộng cho vay với các nhóm khách hàng mà hoạt động kinh doanh có độ an toàn cao; hạn chế cho vay đối với nhóm khách hàng hoạt động kinh doanh có độ rủi ro cao, kém hiệu quả. Tận dụng cơ hội phát triển tín dụng tại các khu vực có môi trường kinh tế thuận lợi; áp dụng chính sách cho vay thận trọng tại các khu vực kinh tế chưa phát triển đồng đều, ổn định. Mở rộng cho vay đối với các ngành kinh tế mũi nhọn, mặt hàng có thị trường tiêu thụ ổn định; cho vay thận trọng đối với các mặt hàng có nhiều biến động về thị trường, giá cả. Đây được coi là giai đoạn mà NHNT thực hiện một bước đột phá trong hoạt động tín dụng. Sau khi hoàn thiện việc cơ cấu lại tổ chức quản trị rủi ro theo thông lệ quốc tế, NHNT chủ trương đẩy mạnh hoạt động tín dụng kể từ năm 2007 vì vậy hoạt động tín dụng lại tăng trưởng với tốc độ cao. Bảng 2: Dư nợ tín dụng qua các năm Đơn vị: tỷ đồng Năm 2004 2005 2006 2007 2008 Dư nợ tín dụng 53.603 61.044 67.742 97.532 111.642 (Nguồn: Báo cáo thường niên các năm) Với bước ngoặt năm 2006 tạo ra động lực phát triển hoạt động tín dụng cho năm 2007 và năm 2008 vì vậy hoạt động tín dụng của NHNT trong năm 2007 khá thuận lợi. Tỷ trọng sử dụng vốn cho tín dụng tăng từ 39% năm 2006 lên 49% năm 2007; tổng dư nợ tín dụng trong năm 2007 đạt 97,532 tỷ đồng, tăng 44% so với năm 2006. Tuy nhiên tỷ lệ nợ xấu lại tăng từ 2.66% năm 2006 lên 3,87% năm 2007 và 3,5% năm 2008 do tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tăng dẫn đến chi phí sản xuất tăng cao, lãi suất vay vốn cao, tỷ giá trên thị trường thường xuyên biến động phức tạp làm tăng chi phí vốn đồng thời làm gia tăng tỷ giá của doanh nghiệp, hiệu quả đầu tư không cao do vậy các doanh nghiệp khó khăn trong việc đáp ứng điều kiện vay vốn của ngân hàng. Tuy gặp nhiều khó khăn nhưng NHNT vẫn áp dụng nhiều chính sách tăng trưởng tín dụng hợp lý theo sự chỉ đạo của Chính phủ vì vậy ngân hàng thực hiện chủ trương kiềm chế tốc độ tăng trưởng tín dụng để góp phần kiềm chế lạm phát, cùng chia sẻ khó khăn với khách hàng. Vì vậy trong năm 2008 NHNT đã hai lần điều chỉnh tỷ tiêu tăng trưởng tín dụng và giữ mức tăng trưởng ở 15% ( thực tế năm 2008 tăng trưởng là 16,4%). Là một ngân hàng chủ lực có tầm ảnh hưởng lớn trong thị trường tài chính của Việt Nam, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ trong phạm vi kiềm chế tín dụng NHNT cũng thực hiện ưu tiên đáp ứng vốn cho sản xuất, lưu thông, xuất khẩu và nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu, đồng thời thu hẹp cho vay các lĩnh vực nhạy cảm, rủi ro cao hoặc chưa thực sự thiết yếu như chứng khóan, bất động sản, tiêu dung; đồng thời tích cực thu hồi nợ đến hạn, nợ quá hạn và nợ xấu để tạo nguồn phục vụ các lĩnh vực và khách hàng trong mục tiêu phát triển. CCác hoạt động khác Hoạt động thanh toán quốc tế Thanh toán quốc tế là lĩnh vực kinh doanh đối ngoại truyền thống mà NHNT luôn duy trì và khẳng định vị thế hàng đầu trong toàn ngành. Trong những năm qua, kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước liên tục tăng trưởng với tốc độ cao đã tạo thuận lợi cho hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu qua NHNT vì vậy trong những năm qua NHNT tiếp tục khẳng định và phát triển vị trí ngân hàng hàng đầu trong hoạt động thanh toán XNK. Bảng 3: Doanh số thanh toán Xuất – Nhập khẩu Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2006 2007 2008 Giá trị Thị phần Giá trị Thị phần Giá trị Thị phần DSTT XK 12.700 32% 14.163 29.3% 16.831 26.8% DSTT NK 10.100 22,8% 12.160 20.0% 15.670 19.5% (Nguồn: Báo cáo thường niên và bản công bố thông tin) Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu qua NHNT năm 2006 đạt gần 22,8 tỷ USD, tăng 31,3% so với năm 2005, chiếm thị phần 27,4% so với kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Các mặt hàng xuất khẩu có thị phần thanh toán chủ yếu qua NHNT là dầu thô, gạo, thủy sản trong khi các mặt hàng nhập khẩu mà NHNT chiếm thị phần thanh toán lớn là xăng dầu, sắt thép, phân bón, máy móc thiết bị. Trong năm 2007 với bối cảnh thị trường ngày càng khó khăn, nhiều ngân hàng tham gia với các chính sách cạnh tranh nhằm thu hút khách hàng thì doanh số thanh toán XNK qua ngân hàng ngoại thương vẫn được duy trì ở mức độ cao, tiếp tục khẳng định vị trí là ngân hàng thanh toán XNK hàng đầu tại Việt Nam. Tổng doanh số thanh toán XNK năm 2007 là 26,323 triệu USD và chiếm 24,1% thị phần XNK của cả nước. Trong năm 2008 tình hình XNK của cả nước có nhiều diễn biến phức tạp do sự biến động của giá cả các mặt hàng XNK chủ yếu như dầu thô, sắt thép, lương thực…và sự suy thoái của kinh tế toàn cầu tuy nhiên kim ngạch XNK của cả nước vẫn khả quan và hoạt động thanh toán của NHNT cũng được duy trì ổn định mặc dù có giảm chút ít so với năm 2007. Theo đó doanh số thanh toán xuất khẩu đạt 16.831 triệu USD, tăng 17,8% so với cùng kỳ năm trước, các mặt hàng thanh toán chủ yếu là dầu thô, thủy sản, gạo, lâm sản, than và dệt may; doanh số thanh toán nhập khẩu là 15.670 triệu USD tăng 28,9% so với năm 2007. Tiếp tục phát huy thế mạnh dịch vụ thanh toán XNK, trong năm 2009 mặc dù suy thoái kinh tế còn chưa chấm dứt nhưng hoạt động thanh toán XNK của NHNT vẫn có nhiều khả quan và phát triển ổn định do sự phối hợp của cán bộ nhân viên trong công ty nhằm phát triển các sản phẩm thanh toán quốc tế mới và chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán quốc tế. Hoạt động thẻ Trong những năm qua, dịch vụ phát hành và thanh toán thẻ của NHNT đã phát triển với tốc độ rất nhanh, tính tới cuối năm 2006, NHNT đã thu hút 1,8 triệu khách hàng cá nhân và 84.000 khách hàng mới mỗi năm và hoạt động kinh doanh thẻ thực sự trở thành một dịch vụ ngân hàng hiện đại mang tính nền tảng, là mũi nhọn cho chiến lược phát triển dị._.thay đổi quy trình và thủ tục tín dụng ngân hàng đã thực hiện phân tích tín dụng, thẩm định dự án, kiểm tra tình hình khách hàng kỹ lưỡng trước khi cho vay vì vậy hoạt động tín dụng luôn tạo ra có hiệu quả. Một thành tựu của NHNT làm cho khách hàng yên tâm đó là lượng vốn chủ sở hữu của ngân hàng ngày càng gia tăng làm cho hệ số an toàn vốn luôn trong đạt yêu cầu trong mức kiểm soát tạo sự an toàn cho hoạt động của ngân hàng và tâm lý tin tưởg của khách hàng. Đội ngũ nhân viên ngân hàng nói chung và nhân viên tín dụng nói riêng đã không ngừng được tăng cường cả về số lượng và chất lượng để đáp ứng những yêu cầu về nhân sự của ngân hàng trong thời kỳ hội nhập và tiến tới thành lập một Tập đoàn đầu tư tài chính ngân hàng đa năng. Cán bộ tín dụng hầu hết có trình độ đại học và trên đại học chuyên ngành, có trình độ ngoại ngữ tốt, đội ngũ cán bộ có tuổi đời bình quân trẻ, được đào tạo bài bản về lĩnh vực tài chính ngân hàng, có kiến thức về kinh tế thị trường tương đối toàn diện, có trình độ ngoại ngữ, có khả năng thích nghi nhạy bén với môi trường kinh doanh hiện đại và mang tính hội nhập cao. Những tồn tại và nguyên nhân Như ta đã phân tích ở trên, NHNT là một ngân hàng lớn về chất lượng tín dụng và thương hiệu nổi tiếng. Tuy vậy hoạt động tín dụng của ngân hàng còn một số hạn chế nhất định: Chất lượng phân tích tín dụng và thẩm định các dự án còn thấp, cán bộ tín dụng đôi khi còn chưa đi sâu bám sát khách hàng để tiếp cận và theo dõi sự biến động về tài chính cũng như hoạt động kinh doanh và tình trạng các tài sản bảo đảm nhằm đối phó với những biến động xấu có thể ảnh hưởng tới khả năng thu hồi nợ của NH. Hoạt động tín dụng vẫn chủ yếu tập trung ở các doanh nghiệp quốc doanh và một số khách hàng truyền thống mà không biết bên cạnh đó còn rất nhiều khách hàng làm ăn có hiệu quả, cho vay với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thấp và quy mô nhỏ. Đây là vấn đề yếu kém của ngân hàng vì nếu ngân hàng mở rộng cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thì sẽ có tác động tốt với nền kinh tế ngoài ra ngân hàng còn mở rộng thị phần, tăng thu nhập và tăng tính năng động hội nhập cao của ngân hàng đặc biệt trong xu thế hiện nay. Xét về ngành nghề cho vay thì khách hàng của NHNT tập trung chủ yếu trong các ngành chế biến, thương mại và các mặt hàng xuất khẩu vì vậyhoạt động tín dụng của ngân hàng luôn chứa đựng yếu tố rủi ro cao do sự biến động về giá cả, về thị trường và về tỷ giá. Xét về hiệu suất sử dụng vốn thì hiệu suất sử dụng vốn vẫn chưa phải cao mà cho vay lại chủ yếu tập trung trong khu vực quốc doanh, cho vay bằng VNĐ, cho vay ngắn hạn. Đây cũng là vấn đề mà NHNT cũng nên quan tâm và cải thiện vì đây là vấn đề không phải khó với ngân hàng mà nguyên nhân chủ yếu là do NHNT còn quá thận trọng trong cho vay, chưa tin tưởng vào các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vì vậy hiệu suất sử dụng vốn còn thấp trong khi nhu cầu vốn ngoài xã hội còn cao. Chất lượng tín dụng giảm sút trong những năm gần đây đặc biệt trong năm 2008. Tỷ lệ nợ xấu tăng cao hơn nhiều so với năm 2007 và tỷ lệ này bằng với tỷ lệ nợ xấu bình quân của toàn hệ thống ngân hàng, điều này là khó chấp nhận đối với một ngân hàng lớn như NHNT. Một yếu tố cũng đáng quan tâm nữa là về vấn đề nhân sự, tuy đội ngũ nhân sự nói chung và nhân viên tín dụng nói riêng đều là người được đào tạo với trình độ chuyên môn và nghiệp vụ cao, nhanh nhẹn, nhiệt tình và hăng hái học hỏi, tuy nhiên do đội ngũ cán bộ ngân hàng chủ yếu là nhân viên trẻ nên còn thiếu kinh nghiệm, không lường hết được rủi ro trong hoạt động kinh doanh đặc biệt trong nền kinh tế thị trường đầy biến động như hiện nay. Chương III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Định hướng hoạt động tín dụng của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong thời gian tới Dự báo các yếu tố tác động tới hoạt động tín dụng trong thời gian tới Dự báo trong năm 2009 kinh tế thế giới sẽ tiếp tục suy thoái, nhiều nước công nghiệp như Mỹ, Nhật Bản, một số nước EU có thể sẽ tăng trưởng âm. Các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, NIEs … không thể duy trì tốc độ tăng trưởng cao như trước. Do vậy mức độ ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chinh thế giới đến Việt Nam trong năm 2009 còn nặng nề trên nhiều phương diện như xuất khẩu, kiều hối, du lịch, FDI… Về tình hình kinh tế vĩ mô trong nước, năm 2009 được dự báo tăng trưởng chỉ đạt cao nhất là 6% và lạm phát ở mức 10%. Khối doanh nghiệp có thể gặp khó khăn kéo dải đến hết năm 2009, tỷ lệ doanh nghiệp bị gián đoạn sản xuất, thua lỗ thậm chí phá sản có thể gia tăng, xuất khẩu gặp khó khăn điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu tín dụng và khả năng huy động vốn trong nước. Trong năm 2009 kinh tế Việt Nam sẽ yếu hơn rất nhiều so với sự tăng trưởng của các năm trước, điều này chủ yếu do các nguyên nhân sau: Đầu tiên là do xuất khẩu: Việt Nam đã rất thành công trong việc phát triển các ngành công nghiệp phục vụ xuất khẩu, nhưng trong năm nay nhu cầu đối với các mặt hàng xuất khẩu đã giảm mạnh. Việc xuất khẩu của các nước khu vực châu Á đã rơi xuống mức đáng báo động do người tiêu dùng ở Mỹ, châu Âu và các thị trường khác cắt giảm chi tiêu mạnh, nhập khẩu của các thị trường chính như Mỹ, EU, Nhật Bản dự tính giảm khoảng 52% trong năm nay. Thứ hai là do tiêu dùng. Với tỷ lệ thất nghiệp gia tăng (vì những vấn đề phát sinh trong các khu vực sản xuất hàng xuất khẩu) và thu nhập bị giảm do lạm phát cao trong năm 2008, tiêu dùng cá nhân sẽ bi cắt giảm. Thứ ba là vì đầu tư. Đầu tư phát triển mạnh trong những năm qua nhờ dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ồ ạt chảy vào Việt Nam. Tuy nhiên với khủng hoảng tín dụng và sự suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay, dòng vốn này sẽ bị ảnh hưởng nặng nề. Các công ty nước ngoài có nhiều tiền mặt sẽ hết sức thận trọng, trong khi những công ty thiếu tiền mặt sẽ phải xoay sở để huy động vốn. Ngoài ra, rất nhiều khoản đầu tư đã được dành vào việc xây dựng các cơ sở mới phục vụ cho xuất khẩu, do vậy ý định xây dựng các nhà máy mới sẽ giảm đi nhiều. Thị trường bất động sản đang đi xuống cũng làm ảnh hưởng đến nhu cầu đầu tư. Việt Nam sẽ đối mặt với một môi trường kinh tế đầy thách thức và đạt mức tăng trưởng thấp. Tuy nhiên trong trung và dài hạn, Việt Nam thể hiện là một điểm đến hấp dẫn cho nhà đầu tư nước ngoài. Quá trình công nghiệp hóa đang tiếp diễn mạnh mẽ, việc xây dựng cơ sở hạ tầng, mức lương tăng, đời sống phồn vinh hơn, nền kinh tế tiếp tục được cải tổ, nguồn nhân lực trẻ là những lí do để chúng ta có thể lạc quan. Tuy nhiên không thể bảo đảm một tương lai tươi sáng, vì điều này phụ thuộc vào việc Chính phủ Việt Nam theo đuổi các chính sách đúng đắn và tạo ra những nền tảng tốt cho việc kinh doanh phát triển một cách vững chắc. Những thách thức lớn nhất bao gồm cải thiện hệ thống giáo dục, phát triển cơ sở hạ tầng, chống tham nhũng và cải cách các doanh nghiệp nhà nước. Tất cả những điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tín dụng của NHNT, cụ thể là nó sẽ có tác động xấu tới hoạt động tín dụng của ngân hàng trong thời gian tới vì vậy NHNT nên có chuẩn bị biện pháp hợp lý để phát triển hoạt động tín dụng cho phù hợp. Phương hướng nhiệm vụ về chất lượng tín dụng trong thời gian tới Trong năm 2009 mặc dù có nhiều khó khăn tuy nhiên NHNT cần phải giữ vững hoạt động tín dụng và gia tăng vị thế của mình trên thị trường. Các biện pháp cụ thể để phát triển tín dụng phải theo hướng đón đầu các giải pháp của Chính phủ về thúc đẩy sản xuất, kích cầu cũng như định hướng về chính sách tài khóa tiền tệ Đối với rủi ro tín dụng cần cụ thể hóa chủ trương quản lý và thu hồi nợ xấu, nợ có vấn đề là công việc thường xuyên và liên tục. Phấn đấu đạt và vượt mức chỉ tiêu khống chế tỷ lệ nợ xấu đã xác định. Phải luôn quán triệt chủ trương của Chính phủ và NHNN là mở rộng nhưng không được hạ chuẩn, hạ thấp các điều kiện tín dụng theo quy định. Cùng với việc hạn chế phát sinh mới cần phải tiếp tục đẩy mạnh công tác thu hồi nợ xấu nhất là các khoản đã được xử lý, xử lý các tài sản bảo đảm để tạo thêm nguồn, tăng thu nhập cho ngân hàng. Ngoài ra NHNT cần chú ý áp dụng một số biện pháp sau: Một là , tiếp tục đổi mới tư duy tín dụng theo nguyên tắc thương mại, thị trường, coi trọng hiệu quả bền vững trên cơ sở lợi nhuận có điều chỉnh rủi ro là yêu cầu cơ bản nhất xuyên suốt quá trình hoạt động. Hai là , xây dựng văn hoá tín dụng, có phát huy tinh hoa truyền thống, kết hợp với những kỹ năng, công nghệ tín dụng hiện đại và phương pháp quản lý tiên tiến, với đặc trưng cơ bản là: Lợi ích của ngân hàng, chính là lợi ích của người lao động; Chủ động lựa chọn khách hàng trên cơ sở đáp ứng tiêu chuẩn tín dụng, khả năng trả nợ đúng hạn để cấp tín dụng; Tự giác tuân thủ cơ chế, chính sách và quy trình. Ba là, thực hiện chính sách tín dụng linh hoạt, hiệu quả, phù hợp với từng đối tượng khách hàng, nhu cầu tín dụng. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách tín dụng đảm bảo tính đầy đủ, đồng bộ, nhất quán và tiện lợi người thực thi chính sách tín dụng. Thực hiện chính sách tín dụng linh hoạt, thích ứng với môi trường kinh tế, trên cơ sở cập nhật thông tin, phân tích, đánh giá thực trạng và dự báo triển vọng từng ngành hàng, sản phẩm. Phát triển đa dạng các sản phẩm tín dụng chuyên biệt và cải tiến các sản phẩm hiện có. Xây dựng quy trình phê duyệt nhanh đối với các sản phẩm tín dụng nhỏ lẻ, hoặc các sản phẩm tín dụng ít chịu rủi ro. Thiết lập luân chuyển tài liệu, hồ sơ điện tử để giảm thiểu thời gian giải quyết các khoản tín dụng vượt cấp. Bốn là, hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, nâng cao hiệu quả công tác quản lý rủi ro tín dụng theo thông lệ tốt nhất, phù hợp với bản chất, quy mô và mức độ phức tạp của hoạt động tín dụng, để: Đo lường rủi ro đối với các khoản tín dụng cũng như của toàn bộ danh mục tín dụng, trong mọi hoạt động tín dụng nội bảng và ngoại bảng. Hoàn thiện và nâng cấp hệ thống thông tin quản lý cung cấp đầy đủ thông tin về cơ cấu và chất lượng danh mục tín dụng, bao gồm xác định sự tập trung rủi ro và kiểm định các giới hạn rủi ro. Thực hiện giám sát hiệu quả, liên tục diễn biến các khoản tín dụng trong những điều kiện kinh tế bình thường, cũng như các tình huống xấu nhất để phát hiện sớm và xử lý các khoản nợ có vấn đề. Năm là, xây dựng hệ thống định giá tín dụng có điều chỉnh rủi ro trên cơ sở đánh giá chính xác chi phí sử dụng vốn, chi phí hoạt động, chi phí vốn chủ sở hữu, chi phí rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng. Sáu là, đổi mới mô hình tổ chức bộ máy quản lý tín dụng theo thông lệ quốc tế, theo đó thành lập bộ phận quản lý nợ để thực hiện giải ngân, thu nợ và quản lý dữ liệu trên hệ thống phần mềm. Để đạt được thành tựu như ngày hôm nay, có sự chỉ đạo, hỗ trợ kịp thời của Chính Phủ, NHNN, nhưng cơ bản vẫn là sự nỗ lực phát huy nội lực của NHNT. Thực tiễn đã chỉ ra rằng, chính sách tín dụng chỉ thực sự có hiệu quả nếu phù hợp với xu thế của nền kinh tế, môi trường pháp luật và thực trạng của chính mình. Đổi mới chính sách tín dụng là quá trình liên tục và lâu dài, có kế thừa và phát triển theo thông lệ quốc tế tốt nhất về quản lý khách hàng, quản trị rủi ro để tạo ra những bước đột phá của hoạt động tín dụng, không những tăng trưởng về quy mô, đảm bảo an toàn mà còn nâng cao khả năng sinh lời đã được điều chỉnh rủi ro trên mỗi đồng vốn, đẩy nhanh sự phát triển của các dịch vụ khác, đưa NHNT hội nhập sâu, rộng vào cộng đồng tài chính khu vực và quốc tế. Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Chính sách tín dụng Việc áp dụng chính sách hợp lý có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hoạt động của ngân hàng, thông qua chính sách tín dụng, ngân hàng có thể có được một danh mục tín dụng đa mục đích như : làm tăng khả năng sinh lời, kiểm soát được rủi ro tiềm ẩn, đồng thời đáp ứng được các đòi hỏi từ phía bộ chủ quản. Chính sách tín dụng hợp lý là cơ sở để quản lý chất lượng tín dụng có hiệu quả. Chính sách tín dụng cần quy định rõ ràng cụ thể cho từng loại khách hàng như: thể thưc cho vay, giới hạn kỳ hạn nợ, lãi suất cho vay, thẩm quyền ra quyết định, thủ tục thanh lý thu hồi nợ…. Chính sách tín dụng phải linh hoạt, được xây dựng trên cơ sở đánh giá xếp loại khách hàng. Trong giai đoạn hiện nay khi kinh tế thế giới đang trong thời kỳ suy thoái và có tác động tiêu cực đến nền kinh tế trong nước thì chính sách tín dụng được lựa chọn theo hướng thận trọng. Với NHNT trong giai đoạn này nên áp dụng các chính sách sau: Tiếp tục phát triển quy trình tín dụng mới theo tiêu chuẩn quốc tế: tách bạch hoạt động quan hệ khách hàng, quản lý rủi ro và xử lý tác nghiệp. Xây dựng và phát triển bộ phận quản lý rủi ro chuyên nghiệp, trước mắt cần hoàn thiện cơ cấu quản trị rủi ro thị trường (đặc biệt lưu ý quản trị rủi ro của tài sản gửi ở nước ngoài) và hình thành cơ cấu quản trị rủi ro hoạt động. Nhanh chóng đưa vào áp dụng các công cụ và mô hình tiên tiến về quản trị rủi ro nhất là các biện pháp phòng chống rủi ro lãi suất, tỷ giá, ngoại hối cho cả NHNT và khách hàng. Mở rộng cho vay với các nhóm khách hàng mà hoạt động kinh doanh có độ an toàn cao; hạn chế cho vay đối với nhóm khách hàng hoạt động kinh doanh có độ rủi ro cao, kém hiệu quả. Tận dụng cơ hội phát triển tín dụng tại các khu vực có môi trường kinh tế thuận lợi; áp dụng chính sách cho vay thận trọng tại các khu vực kinh tế chưa phát triển đồng đều, ổn định. Mở rộng cho vay đối với các ngành kinh tế mũi nhọn, mặt hàng có thị trường tiêu thụ ổn định; cho vay thận trọng đối với các mặt hàng có nhiều biến động về thị trường, giá cả. Quy trình tín dụng Để hạn chế tối đa các yếu tố chủ quan và các biểu hiện tiêu cực trong thẩm đinh xét duyệt cho vay và đảm bảo tính kách quan, kịp thời phát hiện khách hàng kém hiệu quả, dự án kém khả thi thì NHNT cần áp dụng quy chế tín dụng theo quy trình nhất định và khoa học đảm bảo thuận tiện cho cả ngân hàng và khách hàng. Thông thường quy trình tín dụng thường gồm 5 bước chính: Lập hồ sơ cấp tín dụng; phân tích tín dụng; quyết định tín dụng; giải ngân; giám sát, thu nợ và thanh lý tín dụng. Đối với khách hàng họ cần nhất là sự nhanh gọn của thủ tục hành chính. Một quy trình tín dụng có quá nhiều bước chi tiết, yêu cầu khách hàng khai báo vô số giấy tờ và làm nhiều thủ tục sẽ khiến cho khách hàng trở nên ngại ngần, giảm sức hút của ngân hàng so với các đối thủ khác. Đối với ngân hàng quy trình tín dụng phải diễn ra 1 cách thống nhất, khoa học, hạn chế phòng ngừa rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng góp phần đáp ứng tốt nhu cầu vốn của khách hàng. Vì thế để đảm bảo lợi ích của ngân hàng và khách hàng : ngân hàng nên thường xuyên thu thập ý kiến của khách hàng và cán bộ trực tiếp cho vay để cập nhật ,sửa đổi quy trình cho phù hợp, đảm bảo an toàn cho ngân hàng và thuận tiện cho khách hàng. Ngân hàng phải chọn lọc, xác định những khâu bắt buộc, những khâu có thể tinh giản được để cả ngân hàng và khách hàng đều thấy hài lòng. Trong quá trình cho vay, cán bộ tín dụng cần tùy theo trình độ của khách hàng và khả năng tiếp cận với những giấy tờ, thủ tục tài chính để hướng dẫn khách hàng hoàn thiện hồ sơ một cách nhanh chóng tránh phiền toái. Đối với những khoản vay nhỏ nên tiến hành phân tích, thẩm định đơn giản. Cải tiến quy trình thủ tục cấp tín dụng mục đích hướng đến khách hàng, mong muốn có được sự hài lòng và tin tưởng của khách hàng . Nâng cao trình độ cán bộ và công nhân viên, định hướng phát triển nguồn nhân lực Trình độ cán bộ công nhân viên ngân hàng là yếu tố có tác động trực tiếp tới chất lượng hoạt động của hệ thống ngân hàng vì vậy nâng cao chất lượng cán bộ là rất cần thiết, để nâng cao chất lượng cán bộ chúng ta làm theo hướng sau: Đào tạo và đào tạo lại cán bộ để thực hiện tốt các nghiệp vụ của ngân hàng hiện đại; tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ ngân hàng gắn liền với thu nhập; tuyển dụng nguồn nhân lực trẻ, có trình độ cao, có chính sách sử dụng và khuyến khích thoả đáng nguồn nhân lực có trình độ về làm việc tại các ngân hàng. Ngân hàng cần có chiến lược phát triển nguồn nhân lực lâu dài, có kế hoạch đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đảm bảo cán bộ ngân hàng có nghiệp vụ chuyên môn giỏi, đáp ứng được yêu cầu hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và mang tính hội nhập cao. Có chính sách hợp lý và xây dựng môi trường văn hoá làm việc phù hợp để ổn định và khai thác được các ưu thế tối đa của nguồn nhân lực. Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực có tính dài hạn thông qua hình thức đào tạo tại nước ngoài. Tham gia các chương trình đào tạo do các tổ chức quốc tế tổ chức tại Việt Nam, học tập kinh nghiệm quản lý điều hành thông qua các cổ đông nước ngoài. Tranh thủ sự trợ giúp thông qua hợp tác quốc tế. Chú ý thực hiện tốt các khóa đào tạo trong khuôn khổ các Dự án hỗ trợ cải cách hệ thống Ngân hàng Việt Nam của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như WB, ADB, IMF,…Đồng thời cần tìm kiếm hợp tác và trợ giúp về đào tạo nguồn nhân lực thông qua các Ngân hàng nước ngoài có chi nhánh đang hoạt động tại Việt Nam. Áp dụng các chính sách ưu đãi, khen thưởng khuyến khích và động viên cán bộ công nhân viên hoạt động và cống hiến hết sức cho ngân hàng, tạo được đội ngũ cán bộ tín nhiêm, trung thành, có năng lực cho ngân hàng. Chế độ thưởng phạt phân minh tạo động lực cho cán bộ nhân viên cống hiến hết mình cho ngân hàng. Các biện pháp khác Ngoài các biện pháp ở trên chúng ta có thể áp dụng các biện pháp sau nhằm hỗ trợ cho sự phát triển của hoạt động tín dụng. Nâng cao năng lực quản trị, dự báo, phân tích xử lý tình huống trong quản trị, điều hành hoạt động ngân hàng. Hội đồng quản trị và Ban điều hành của NHNT cần có kế hoạch và tầm nhìn chiến lược dài hạn, phù hợp với diễn biến kinh tế - xã hội. Chủ động nắm bắt định hướng và dự báo kinh tế của Nhà nước, khả năng thanh khoản và nguồn vốn, sớm khắc phục việc sử dụng vốn bất hợp lý, để đảm bảo an toàn và nâng cao hiệu quả kinh doanh; nâng cao chất lượng và đa dạng hoá hoạt động, trong đó đặc biệt quan tâm đến chất lượng tín dụng; phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng. Tiếp tục tăng vốn điều lệ để tăng cường năng lực tài chính, nâng cao khả năng cạnh tranh, đi đôi với việc đảm bảo khả năng quản lý hiệu quả của vốn điều lệ tăng lên. NHNT cần nghiên cứu kỹ, xác định cổ đông chiến lược phù hợp để đảm bảo việc tham gia góp vốn thực sự hỗ trợ, hợp tác với ngân hàng khi ngân hàng đang trong thời kỳ cổ phần. Cần thường xuyên rà soát để bổ sung, chỉnh sửa kịp thời hệ thống quy chế, quy trình nội bộ, quản lý rủi ro tất cả các mặt hoạt động. Đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ cung cấp trên thị trường theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ truyền thống, phát triển các dịch vụ mới. Xây dựng thêm và hoàn thiện chiến lược phát triển công nghệ ngân hàng phục vụ cho công tác điều hành kinh doanh, quản lý nguồn vốn, quản lý rủi ro, hệ thống thanh toán liên hàng, hệ thống giao dịch điện tử… Đảm bảo dịch vụ được cung cấp nhanh chóng, chính xác, an toàn, đem lại lợi ích cho cả ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế. Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, mặc dù hiện nay NHNT cũng đang ứng dụng các chương trình phần mềm tiên tiến nhất trong hệ thống các NHTM, nhưng để xứng tầm với một ngân hàng quốc tế thì NHNT cần phải nâng cấp và trang bị những phần mềm hiện đại hơn để đem đến sự thuận lợi, nhanh chóng trong hoạt động giao dịch. Trong công tác tín dụng, thông tin là yếu tố đóng vai trò quyết định giúp cho Ngân hàng ra quyết định có đầu tư hay không. Các thông tin từ phía khách hàng cung cấp nhiều khi lại thiếu đầy đủ, chính xác, do vậy cán bộ tín dụng không thể chỉ dựa vào các luồng thông tin do khách hàng cung cấp trong dự án mà cần phải nắm bắt, xử lý các thông tin về mọi vấn đề liên quan đến phương án, dự án từ nhiều nguồn khác nhau. Mặt khác, tổ chức lưu trữ, thu thập các thông tin về khách hàng, thông tin thị trường, thông tin công nghệ, xây dựng hệ thống cung cấp thông tin chấm điểm và xếp hạng tín dụng khách hàng,… dựa trên việc sử dụng các phần mềm tin học. Đây sẽ là căn cứ để đánh giá chính xác hơn về khách hàng vay vốn và nâng cao khả năng, tốc độ xử lý, ra quyết định cho vay và đầu tư. Vì vậy phải nâng cao chất lượng của hệ thống thông tin tín dụng Tăng tỷ trọng cho vay kinh tế tư nhân, tăng tỷ trọng cho vay các lĩnh vực ngành và các sản phẩm được đánh giá là có lợi thế so sánh và sức cạnh tranh cao trên cơ sở phối hợp với các sở, ngành hữu trách để xác định rõ danh mục ngành, nghề, sản phẩm cần ưu tiên đầu tư. Song song đó thực hiện tốt việc cung cấp thông tin, tư vấn giúp người dân và doanh nghiệp vay vốn xây dựng, hoàn thiện các dự án vay vốn có tính khả thi và thực hiện đạt hiệu quả. Trong quá trình giám sát sau khi cho vay, giúp các doanh nghiệp vay vốn hoàn thiện quản trị, điều hành, thực hiện tiết kiện, ngăn ngừa lãng phí vốn. Một số kiến nghị Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Kiến nghị với Chính phủ Trong thời gian tới tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu còn chưa chấm dứt và có tác động xấu tới hoạt động kinh tế trong nước vì vậy vai trò của Chính phủ rất quang trọng. Trước tình hình đó Chính phủ cần có nhiều biện pháp nhằm phát triển và ổn định kinh tế cụ thể như: Trước tiên cần phát triển hệ thống dự báo và phân tích tình hình biến động thị trường trong và ngoài nước nhằm cung cấp thông tin chính xác và kịp thời tạo điều kiện cho phát triển ngành ngân hàng và các lĩnh vực khác đặc biệt trong giai đoạn khủng hoảng toàn cầu hiện nay. Trong việc hoạch định chính sách, cần cân đối một cách thích hợp giữa các mục tiêu đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, ổn định tiền tệ và sự phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng thương mại, tránh tình trạng thắt chặt hoặc thả lỏng quá mức, thay đổi định hướng quá đột ngột làm các ngân hàng không kịp phản ứng gây ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng thương mại cũng như toàn bộ nền kinh tế. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng là một đòi hỏi cấp bách. Nhà nước phải tiếp tục hoan thiện để tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh khuyến khích sản xuất kinh doanh, tạo hành lang pháp lý vững chắc để các thành phần kinh tế yên tâm bỏ vốn ra đầu tư và các ngân hàng công bằng hơn trong cho vay giữa các thành phần kinh tế. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần tiếp tục hoàn thiện, đổi mới môi trường kinh tế, coi đó là giải pháp tổng thể và cơ bản nhất trong quá trình đổi mới mọi lĩnh vực kinh doanh nói chung và lĩnh vực ngân hàng nói riêng, chẳng hạn như: Trong việc ban hành và thực hiện các cơ chế chính sách pháp luật cần nắm bắt nhanh và kịp thời mọi sự phát triển của nền kinh tế xã hội, cần phải thu thập ý kiến đầy đủ, khách quan từ các cơ quan ban ngành, doanh nghiệp để đảm bảo việc thực thi được chính xác, hiệu quả, công bằng và phù hợp với điều kiện thực tế. Hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp lý liên quan đến đảm bảo tiền vay theo hướng có lợi cho ngân hàng trong việc quản lý và thu hồi nợ xấu, đảm bảo hoạt động ngâng hàng phát triển ổn định tạo điều kiện cho các ngành nghề kinh doanh khác cùng phát triển. Thúc đẩy thị trường tài chính, trước hết là thị trường liên ngân hàng và thị trường tiền tệ nhằm xác định khuôn khổ hoạt động của các ngân hàng, tạo thêm nhiều cơ hội đầu tư nhằm phân tán rủi ro, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và đa dạng hóa các công cụ thanh toán nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật như hệ thống thông tin, kiểm toán, kế toán theo chuẩn mực quốc tế để thúc đẩy nền kinh tế phát triển ổn định, tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng phát triển an toàn, bền vững và hội nhập quốc tế. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Với NHNN trong thời gian tới cần nâng cao chất lượng quản lý điều hành cụ thể là: Nâng cao vai trò định hướng trong quản lý và tư vấn cho các ngân hàng thương mại thông qua việc thường xuyên tổng hợp, phân tích thông tin thị trường, đưa ra các nhận định và dự báo khách quan, mang tính khoa học, đặc biệt là liên quan đến hoạt động tín dụng để các ngân hàng thương mại có cơ sở tham khảo, định hướng trong việc hoạch định chính sách tín dụng của mình sao cho vừa đảm bảo phát triển hợp lý vừa phòng ngừa được rủi ro. Tiếp tục hoàn thiện quy chế cho vay, đảm bảo tiền vay trên cơ sở bảo đảm an toàn cho hoạt động tín dụng, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các ngân hàng thương mại, quy định chặt chẽ về trách nhiệm của các ngân hàng thương mại về việc tuân thủ quy chế cho vay và bảo đảm tiền vay, hạn chế bớt các thủ tục pháp lý phức tạp gây khó khăn cho các ngân hàng thương mại. Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp với các bộ ngành có liên quan trong quá trình xử lý nợ xấu, tập trung tháo gở những khó khăn vướng mắc trong thủ tục phát mãi tài sản. Nên có những hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục, trách nhiệm của Tổ chức Tín dụng, nhằm tăng chất lượng tín dụng và giảm nợ xấu cho các NHTM. Nghiên cứu, ban hành các quy định cụ thể để các ngân hàng thương mại áp dụng chuẩn xác, kịp thời các công cụ bảo hiểm cho hoạt động tín dụng như: bảo hiểm tiền vay, quyền chọn và các công cụ tài chính phái sinh khác. Đồng thời, tổ chức đào tạo, hướng dẫn các nghiệp vụ trên để giúp các ngân hàng thương mại vừa đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng, vừa phòng ngừa và phân tán rủi ro trong hoạt động tín dụng. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát, thực hiện thường xuyên công tác thanh tra, kiểm soát dưới nhiều hình thức để kịp thời phát hiện và ngăn chặn những vi phạm tiêu cực trong hoạt động tín dụng nhằm đưa hoạt động tín dụng của ngân hàng vào đúng quỹ đạo luật pháp. Chương trình thanh tra cần được xây dựng chi tiết, khoa học, thông tin được thu thập cần phân tích kỹ lưỡng, tránh mang tính hình thức, nội dung thanh tra nên được cải tiến sao cho chương trình thanh tra đảm bảo kiểm soát được ngân hàng thương mại, thể hiện được vai trò của mình là cảnh báo, ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro và không gây ảnh hưởng đến các hoạt động của các ngân hàng thương mại. Cần xây dựng phương án bổ sung hoặc hoán đổi cán bộ thanh tra giữa các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước để đảm bảo tính khách quan và tạo môi trường hoạt động đa dạng cho cán bộ thanh tra, kiểm tra trau dồi nghiệp vụ. Cần phải xây dựng đội ngũ thanh tra, giám sát chuẩn về nghiệp vụ ngân hàng, nghiệp vụ kiểm tra, có phẩm chất đạo đức tốt, được cập nhật thông tin về chính sách, pháp luật, thị trường để một mặt thực hiện công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các ngân hàng thương mại, mặt khác có thể đưa ra các nhận định, kết luận giúp ngân hàng thương mại nâng cao hiệu quả hoạt động. Ngân hàng Nhà nước phải theo dõi chặt chẽ việc sửa đổi, bổ sung những kiến nghị của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước nhằm đảm bảo hiệu lực và hiệu quả của công tác thanh tra. Hiện nay hoạt động thanh tra ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước chủ yếu là kiểm tra tính tuân thủ pháp luật trong hoạt động của ngân hàng và đánh giá về sự an toàn của ngân hàng thương mại. Về việc đánh giá hệ thống kiểm soát rủi ro của các ngân hàng thương mại thì Thanh tra Ngân hàng Nhà nước chưa thực hiện việc này một cách có hệ thống, chưa có tiêu chí để thực hiện việc đánh giá này và chưa thực sự đánh giá toàn diện, kiến nghị cụ thể về hệ thống kiểm soát rủi ro của các ngân hàng thương mại qua các cuộc thanh tra. Vì vậy, để thanh tra Ngân hàng Nhà nước thực hiện được vai trò đánh giá hệ thống kiểm soát rủi ro của ngân hàng thương mại, cần phải xây dựng tiêu chí cụ thể về đánh giá rủi ro khi thực hiện thanh tra, nội dung hoạt động ngoài thanh tra tuân thủ cần có sự giám sát, theo dõi rủi ro và tiến tới xây dựng hệ thống giám sát từ xa của Thanh tra ngân hàng thông qua mạng thông tin trực tuyến với các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi công nghệ cao và quy chế nghiêm ngặt về bảo mật thông tin để bảo vệ bí mật kinh doanh của các ngân hàng thương mại. KẾT LUẬN Chuyên đề thực tập của em đã trình bày những nội dung cơ bản về hoạt động tín dụng, thực trạng hoạt động tín dụng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng. Từ đó đưa ra những nguyên nhân cũng như những hạn chế trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, đưa ra một số giải pháp nhămg nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. Hoạt động tín dụng của NHNT trong thời gian qua tuy chất lượng tín dụng có giảm chút ít do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính trên toàn thế giới nhưng trong thời gian tới chất lượng tín dụng của NHNT nhất định sẽ được cải thiện và khẳng định vị trí một trong các ngân hàng hàng đầu tại Việt Nam. Mặc dù em đã cố gắng để bản chuyên đề của mình được hoàn thiện nhất nhưng cũng khó tránh khỏi những sai sót, vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô, các cán bộ nhân viên trong ngân hàng và những người quan tâm đến đề tài để bản chuyên đề của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo cáo thường niên của NHNT Việt Nam các năm 2004 – 2008. Báo cáo tổng kết họat động kinh doanh năm 2008 và phương hướng họat động năm 2009 của NHNT Việt Nam Bảng công bố thông tin của NHNT Việt Nam năm 2006, 2007. Điều lệ tổ chức và hoạt động của NHNT Việt Nam. Hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm đổi mới hoạt động ngân hàng trong điều kiện hội nhập quốc tế - Viện nghiên cứu khoa học ngân hàng, NXB Thống kê Hà Nội -2003 Lịch sử Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam 1963-2003 – Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam Viện Kinh tế học, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 2003 Giáo trình tín dụng ngân hàng – NXB thống kê – TS. Hồ Diệu ( chủ biên ) Giáo trình ngân hàng thương mại – NXB thành phố Hồ Chí Minh Các website chính: www.vietcombank.com.vn Ngân hàng Ngoại Thương Việt www.gso.gov.vn Tổng Cục Thống Kê www.vneconomy.com.vn Thời báo Kinh tế Việt Nam www.vietbao.com Việt Báo XÁC NHẬN CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM ………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… Hà nội, ngày …………. tháng ……….. năm 2009 Trưởng Phòng Vốn c ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2511.doc