Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa

LỜI MỞ ĐẦU Trong khoảng hai mươi năm trở lại đây, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế tất yếu của thời đại và diễn ra ngày càng sâu về nội dung, ngày càng rộng về quy mô trên nhiều lĩnh vực. Trong xu thế đó, Việt Nam cũng đã và đang thực hiện giai đoạn đầu tiên của quá trình hội nhập quốc tế. Việt Nam đã gia nhập khối ASEAN; tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); ký hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ; đặc biệt mới đây nhất là Việt Nam đã trở thành thành viên

doc79 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1474 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thứ 150 của tổ chức thương mại Thế giới (WTO) và tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế quốc tế cũng như ký kết các hiệp định thúc đẩy quan hệ thương mại song phương khác. Hệ thống NHTM Việt Nam cũng không nằm ngoài bối cảnh này. Không thể có một nền kinh tế khoẻ mạnh nếu có một hệ thống NHTM còn nhiều vấn đề. Xã hội càng phát triển thì vai trò của NHTM đối với nền kinh tế ngày càng lớn. NHTM với vai trò là “kênh truyền dẫn vốn trong nền kinh tế”, đảm bảo cho nền kinh tế vận động nhịp nhàng và có hiệu quả. Trong các hoạt động thường xuyên và cơ bản, tín dụng được xem là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng nói riêng và của các trung gian tài chính nói chung, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất. Do vậy, làm thế nào để củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng là điều luôn được các nhà quản lý ngân hàng, các nhà chính sách và các nhà nghiên cứu quan tâm. Trong quá trình thực tập tại Chi nhánh NHCT Đống Đa em đã có những hiểu biết nhất định về tầm quan trọng của hoạt động tín dụng. Xuất phát từ thực tiễn đó em đã chọn đề tài “ Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Chi nhánh NHCT Đống Đa” làm chuyên đề cho mình. Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm có 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về chất lượng tín dụng ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng tại Chi nhánh NHCT Đống Đa Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Chi nhánh NHCT Đống Đa Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo, PGS.TS Nguyễn Hữu Tài, các bác, các anh chị trong phòng khách hàng số 1 Chi nhánh NHCT Đống Đa đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Do trình độ lý luận và hiểu biết thực tế còn hạn chế nên chuyên đề của em khó tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy giáo hướng dẫn – PGS.TS Nguyễn Hữu Tài, các thầy cô giáo khoa Ngân hàng – Tài chính và các bác, các anh chị phòng khách hàng số 1 Chi nhánh NHCT Đống Đa để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Tổng quan về NHTM 1.1.1 Khái niệm về NHTM Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó NHTM thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Vậy mà vẫn có sự nhầm lẫn trong việc định nghĩa ngân hàng là gì? Theo luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Các ngân hàng cũng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ các yếu tố trên đang không ngừng thay đổi. Thực tế, rất nhiều tổ chức tài chính – bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng đang đối phó với các đối thủ cạnh tranh ( các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ môi giới khác. Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét ngân hàng trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. 1.1.2 Hoạt động chủ yếu của NHTM 1.1.2.1 Huy động vốn Huy động vốn là hoạt động tạo nguồn vốn cho NHTM, nó đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng huy động vốn từ các nguồn chủ yếu: Vốn chủ sở hữu: Để bắt đầu hoạt động ngân hàng (được pháp luật cho phép) chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định. + Nguồn vốn hình thành ban đầu: Tuỳ theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước, ngân sách Nhà nước cấp ( vốn của Nhà nước). Nếu là ngân hàng cổ phần, các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh góp; ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu tư nhân. + Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động: Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều phương thức khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể: Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện nguồn thu nhập ròng lớn hơn không, chủ ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng yêu cầu gia tăng vốn của chủ do ngân hàng Nhà nước quy định… + Các quỹ: Ngân hàng có nhiều quỹ: Quỹ dự phòng tổn thất, quỹ bảo toàn vốn, quỹ thặng dư, quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng… mỗi quỹ có mục đích riêng. Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu nhập của ngân hàng. + Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần: Các khoản vay trung và dài hạn của NHTM có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận vốn sở hữu của ngân hàng do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn. Nguồn tiền gửi: Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. + Tiền gửi thanh toán: Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Nhìn chung lãi suất của khoản tiền này rất thấp ( hoặc bằng không), thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp. + Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội: Nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian xác định. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền, ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kì hạn. Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có kì hạn được hưởng lãi suất cao hơn tuỳ theo độ dài của kì hạn. + Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng. Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. + Tiền gửi của các ngân hàng khác: Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, NHTM này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên quy mô này thường không lớn. Nguồn đi vay: Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM, tuy nhiên, khi cần, ngân hàng thường vay mượn thêm. + Vay NHNN: Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của NHTM. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ, NHTM thường vay NHNN. Hình thức cho vay chủ yếu của NHNN là tái chiết khấu ( hoặc tái cấp vốn). + Vay các tổ chức tín dụng khác: Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ NHNN. + Vay trên thị trường vốn: Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ ( kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. 1.1.2.2 Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ Ngân hàng thực hiện các dịch vụ thanh toán sau: + Cung ứng các phương tiện thanh toán + Thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng + Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được nhà nước cho phép + Thực hiện các dịch vụ thu hộ và chi hộ + Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác do NHNN quy định Ngân quỹ của một ngân hàng thường gồm: + Tiền mặt trong két: Có thể gồm nội tệ, ngoại tệ. Tiền mặt dùng để chi trả nhanh chóng, tuy nhiên, tiền mặt không sinh lời. Tiền mặt gắn với các chi phí phát sinh như bảo quản, chuyển, đếm… + Tiền gửi tại ngân hàng khác: Gồm tiền gửi tại NHNN, tại các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác. NHTM phải thực hiện dự trữ bắt buộc. Ngân hàng với vai trò thủ quỹ cho nền kinh tế, có trách nhiệm chi trả kịp thời mọi nhu cầu của người gửi tiền dưới hình thức chuyển khoản và cả bằng tiền mặt. Do vậy, ngân hàng luôn phải giữ một lượng tiền mặt trong két và tiền gửi tại các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác. Nhìn chung ngân quỹ của ngân hàng là tài sản không sinh lời, song lại là tài sản có tính thanh khoản cao nhất, đáp ứng nhu cầu chi trả thường xuyên. Do vậy, mỗi ngân hàng đều cố gắng giữ ngân quỹ ở mức thấp nhất có thể được. 1.1.2.3 Hoạt động tín dụng Hoạt động chủ yếu của NHTM là tài trợ cho khách hàng trên cơ sở tín nhiệm ( tín dụng). Hình thức tín dụng truyền thống của NHTM là cho vay ngắn hạn có đảm bảo bằng tài sản, giúp khách hàng mua hàng hoá, nguyên nhiên vật liệu; sau đó mở rộng thành nhiều hình thức khác nhau như cho vay thế chấp bằng bất động sản, bằng các chứng khoán, giấy tờ có giá… hoặc không cần thế chấp. Các NHTM lớn hiện nay thực hiện đa dạng các hình thức tín dụng từ cho vay ngắn, trung và dài hạn, bảo lãnh cho khách (để khách hàng có thể phát hành các chứng khoán huy động vốn, mua hàng mà chưa cần trả tiền ngay, hoặc vay của người thứ ba…), mua các tài sản để cho thuê… Các hình thức tín dụng này, một mặt mang lại thu nhập, mặt khác chứa đựng rủi ro cho ngân hàng. 1.1.2.4 Hoạt động khác Góp vốn mua cổ phần: Ngân hàng có thể tham gia góp vốn với các tổ chức khác ( không thể hiện dưới hình thức nắm giữ chứng khoán). Ví dụ, như tham gia hùn vốn vào các ngân hàng liên doanh, các công ty… Dịch vụ uỷ thác: NHTM thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân… Các hoạt động này tạo nên nguồn uỷ thác tại ngân hàng. Tổng quan về tín dụng Ngân hàng 1.2.1 Khái niệm và các nguyên tắc tín dụng Ngân hàng Tín dụng là hoạt động chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Có thể hiểu rằng: “ Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là Ngân hàng, còn bên kia là các pháp nhân và thể nhân khác trong nền kinh tế theo nguyên tắc hoàn trả”. Việc hoàn trả được nợ gốc trong tín dụng có nghĩa là việc thực hiện được giá trị hàng hoá trên thị trường, còn việc hoàn trả được lãi vay trong tín dụng là việc thực hiện được giá trị thặng dư trên thị trường. Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất cho NHTM. Chính vì vậy, hoạt động tín dụng của NHTM phải dựa trên một số nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời. + Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn ( gốc) và lãi với thời gian xác định: Các khoản tín dụng của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn. Ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi như đã cam kết. Do vậy, ngân hàng luôn yêu cầu người nhận tín dụng phải thực hiện đúng cam kết này. Đây là điều kiện để ngân hàng tồn tại và phát triển. + Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo mục đích được thoả thuận với ngân hàng, không trái với các quy định của pháp luật và các quy định khác của ngân hàng cấp trên. Luật pháp quy định phạm vi hoạt động cho các ngân hàng. Bên cạnh đó mỗi ngân hàng có thể có mục đích và phạm vi hoạt động riêng. Mục đích tài trợ được ghi trong hợp đồng tín dụng đảm bảo ngân hàng không tài trợ cho các hoạt động trái luật pháp và việc tài trợ đó là phù hợp với cương lĩnh của ngân hàng. + Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án ( hoặc dự án) có hiệu quả. Thực hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất. Phương án hoạt động có hiệu quả của người vay minh chứng cho khả năng thu hồi vốn đầu tư và có lãi để trả nợ ngân hàng. Các khoản tài trợ của ngân hàng phải gắn liền với việc hình thành tài sản của người vay. Trong trường hợp xét thấy kém an toàn, ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo khi vay. 1.2.2 Phân loại tín dụng ngân hàng Có rất nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau tuỳ theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng. Sau đây là một số cách phân loại: 1.2.2.1 Phân loại theo thời gian Theo thời gian , tín dụng được phân chia thành: + Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống. Tín dụng ngắn hạn nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất. + Tín dụng trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm, được sử dụng khi doanh nghiệp có nhu cầu mua sắm TSCĐ, cải tiến và đổi mới kĩ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các dự án có quy mô nhỏ, có thời hạn thu hồi vốn nhanh + Tín dụng dài hạn : Trên 5 năm, chủ yếu được sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất với quy mô lớn. Việc xác định thời hạn trên cũng chỉ có tính chất tương đối vì nhiều khoản cho vay không xác định trước được chính xác thời hạn. Phân chia tín dụng theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tài sản. 1.2.2.2 Phân loại theo hình thức Theo hình thức tài trợ tín dụng chia thành: + Chiết khấu : Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn ( hoặc một giấy nợ) + Cho vay : Là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. + Bảo lãnh : Là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi. + Cho thuê : Là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng. 1.2.2.3 Phân loại theo tài sản đảm bảo Theo hình thức này, tín dụng được chia thành: + Tín dụng có tài sản đảm bảo : Là loại tín dụng dựa trên cơ sở các bảo đảm như đảm bảo bằng uy tín người thứ ba, đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản. Tài sản đảm bảo cho phép ngân hàng có nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất không có hoặc không đủ. + Tín dụng không cần tài sản đảm bảo : Là loại tín dụng không có tài sản cầm cố, thế chấp, hoặc không có sự bảo lãnh của người thứ ba. Việc cấp tín dụng chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Hình thức này áp dụng với các khách hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. 1.2.2.4 Phân loại theo cách thức cho vay Theo cách phân loại trên, tín dụng được chia thành: + Cho vay thấu chi : Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép khách hàng được chi trội ( vượt ) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng… + Cho vay trực tiếp từng lần : Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Theo từng kì hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả. + Cho vay theo hạn mức : Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Trong nghiệp vụ này ngân hàng không xác định trước kì hạn nợ và thời hạn tín dụng. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ. + Cho vay luân chuyển : Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Theo hình thức này, giá trị hàng hoá mua vào ( có hoá đơn hợp pháp, hợp lệ, đúng đối tượng ) đều là đối tượng được ngân hàng cho vay; thu nhập bán hàng đều là nguốn để chi trả cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo khối lượng và chất lượng quan hệ nợ nần của người vay. Các khoản phải thu và hàng hoá trong kho trở thành vật đảm bảo cho khoản cho vay. + Cho vay trả góp : Là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp. Khả năng thu nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Do rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng. + Cho vay gián tiếp : Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp. Bên cạnh đó ngân hàng cũng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian như nhóm sản xuất, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ… Cho vay gián tiếp áp dụng với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. 1.2.3 Vai trò của tín dụng Ngân hàng 1.2.3.1 Đối với nền kinh tế Tín dụng ngân hàng là công cụ, đòn bẩy mạnh mẽ, góp phần thực hiện các chính sách kinh tế của Chính phủ, điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xã hội. Tăng trưởng kinh tế gắn với mức vốn đầu tư tương ứng bằng các nguồn vốn tích luỹ trong nước, vốn từ nước ngoài. Tín dụng ngân hàng góp phần giảm hệ số tiền nhàn rỗi và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong tất cả các thành phần kinh tế thông qua đi vay để cho vay. Đồng thời tín dụng ngân hàng cũng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình mở rộng giao lưu kinh tế quốc tế. Việc điều chỉnh nền kinh tế thị trường ở tầm vĩ mô của nhà nước được thực hiện bằng nhiều công cụ, trong đó công cụ tín dụng ngân hàng có ý nghĩa quan trọng. Bởi vì thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng, sẽ làm biến đổi điều kiện sản xuất kinh doanh, dịch vụ của các chủ thể kinh tế theo hướng tối ưu, góp phần làm cho chu kỳ vận động của tiền tệ rút ngắn về thời gian, nâng cao vòng quay của tiền tệ. Tín dụng là động lực mạnh mẽ đối với việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhà nước có thể tập trung vốn tín dụng thông qua ngân hàng để đầu tư phát triển nông nghiệp và các ngành kinh tế mũi nhọn nhằm tạo cơ cấu kinh tế hợp lý. 1.2.3.2 Đối với khách hàng Với chức năng chính là “đi vay để cho vay”, ngân hàng đứng ra huy động tiền gửi từ dân cư và các doanh nghiệp. Mỗi cá nhân và tổ chức, khi có nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời, có thể gửi vào ngân hàng như một sự lựa chọn an toàn và là quyết định đầu tư ít rủi ro. Ngân hàng dùng số vốn tạm thời này để cung cấp cho các cá nhân và các doanh nghiệp khác đang có nhu cầu về vốn. Do có ngân hàng đứng ra làm trung gian cho quá trình luân chuyển vốn, làm cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, tín dụng trở thành động lực kích thích các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và dân cư trong các thành phần kinh tế thực hiện tiết kiệm, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, phân tán thành nguồn vốn đầu tư cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đồng thời, tín dụng ngân hàng kích thích và buộc các doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên vốn chủ sở hữu và vốn vay. Một trong những nguồn đi vay là từ ngân hàng. Đây là nguồn tài trợ hiệu quả vì nó thoả mãn nhu cầu vốn về cả số lượng và thời hạn. Hơn nữa, để có thể vay vốn được từ ngân hàng, các doanh nghiệp buộc phải nâng cao uy tín của mình để đảm bảo được các nguyên tắc tín dụng. Nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm hiểu thị trường, khai thác thông tin, định lượng hoạt động kinh doanh của mình sao cho có hiệu quả. Điều đó làm tăng hiệu quả của các dự án và phương án. Mặt khác, thông qua các khoản cho vay của ngân hàng, thị trường sẽ có thêm thông tin về chất lượng tín dụng của từng khách hàng và nhờ đó giúp cho khách hàng có khả năng nhận thêm các khoản tín dụng mới từ những nguồn khác với chi phí thấp hơn. 1.2.3.3 Đối với Ngân hàng Như đã nói ở trên, tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng nói riêng và của các trung gian tài chính nói chung. Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất (quá nửa giá trị tổng tài sản) ở phần lớn các NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Tín dụng tạo thu nhập từ lãi lớn nhất, từ 1/2 đến 1/3 nguồn thu của ngân hàng và cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất. Tình trạng khó khăn về tài chính của một ngân hàng thường phát sinh từ các khoản cho vay khó đòi, bắt nguồn từ một số nguyên nhân sau: Quản lý yếu kém, cho vay không tuân thủ nguyên tắc tín dụng, chính sách cho vay không hợp lý và tình trạng suy thoái ngoài dự kiến của nền kinh tế. Những rủi ro này đều có thể gây ra tổn thất, làm giảm thu nhập của ngân hàng. Có nhiều khoản tài trợ mà tổn thất có thể chiếm phần lớn vốn của chủ, đẩy ngân hàng đến phá sản. Do vậy, các ngân hàng phải cân nhắc kĩ lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lời khi quyết định tài trợ. Chất lượng tín dụng NHTM 1.3.1 Quan niệm về chất lượng tín dụng NHTM Quan niệm về chất lượng tín dụng ngày càng được mở rộng và hiểu một cách sâu xa hơn. Nếu như trước đây, chất lượng tín dụng chỉ bó hẹp trong khái niệm an toàn tín dụng, phản ánh mức tổn thất phát sinh trực tiếp từ rủi ro đối với các khoản vay của ngân hàng. Chất lượng tín dụng NHTM được coi là cao khi có ít các khoản nợ xấu, nợ quá hạn và thiệt hại từ các khoản nợ đó là nhỏ. Một khoản tín dụng được coi là có chất lượng nếu nó được hoàn trả theo đúng hợp đồng. Ngày nay, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, việc đánh giá chất lượng tín dụng phức tạp hơn nhiều. Chất lượng tín dụng được xác định bằng tổng thể tất cả các tiêu chí và sự đánh giá chúng cũng có những linh động nhất định. Như vậy, chất lượng tín dụng phải căn cứ vào sự thoả mãn nhu cầu của khách hàng, sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, sự phát triển của nền kinh tế: + Đối với khách hàng: Chất lượng tín dụng thể hiện ở sự phù hợp về lãi suất và kì hạn của khoản vay, mức độ đáp ứng nhu cầu vốn cho kinh doanh và sự thuận tiện trong giao dịch. + Đối với ngân hàng: Chất lượng tín dụng được thể hiện ở phạm vi, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực và quy mô ngân hàng, vừa đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường, vừa đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Chất lượng tín dụng được đánh giá dựa vào việc thanh toán gốc, lãi đúng hợp đồng và sự hợp tác của khách hàng trong thời kỳ vay vốn. + Đối với nền kinh tế: Chất lượng tín dụng thể hiện ở việc tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh, lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn, qua đó thúc đẩy sự tăng trưởng của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế. 1.3.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng 1.3.2.1 Chỉ tiêu định tính Đây là các chỉ tiêu phản ánh hình ảnh của ngân hàng thông qua cảm nhận đầu tiên của khách hàng khi đến với ngân hàng. Trước hết là bộ máy tổ chức, nếu các hoạt động hướng tới khách hàng của ngân hàng được phân theo tiêu thức đối tượng khách hàng - sản phầm nhằm đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của khách hàng và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, điều này sẽ tạo nên cảm giác an tâm của khách hàng khi đến giao dịch tại ngân hàng. Thứ hai, đó là tác phong làm việc. Nếu các ngân hàng quan tâm và có kế hoạch triển khai đổi mới phong cách làm việc hành chính trước đây, bố trí phục vụ khách hàng trong cả những ngày nghỉ, sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho khách hàng trong việc giao dịch tại ngân hàng. Bên cạnh những yếu tố mang tính hình thức đó là các yêu cầu của ngân hàng đối với khách hàng, là tinh thần phục vụ khách hàng của nhân viên ngân hàng. Sự thoả mãn của mỗi khách hàng phụ thuộc khá nhiều vào tiêu thức này. Mỗi nhân viên khi làm việc với khách hàng cần thể hiện thái độ thân thiện trong việc tư vấn, giải đáp thắc mắc của khách hàng. Đến với ngân hàng, thái độ nhiệt tình, cởi mở và sự thông thạo nghiệp vụ của mỗi nhân viên, sẽ khiến cho khách hàng hài lòng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xúc tiến các khoản vay và ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. 1.3.2.2 Các chỉ tiêu định lượng Chỉ tiêu về tổng dư nợ và kết cấu dư nợ Chỉ tiêu tổng dư nợ là chỉ tiêu phản ánh quy mô cấp tín dụng của ngân hàng cho nền kinh tế tại một thời điểm. Tổng dư nợ bao gồm: dư nợ cho vay ngắn hạn, dư nợ cho vay trung và dài hạn. Tổng dư nợ thấp chứng tỏ hoạt động của ngân hàng là chưa tốt, khả năng marketing cũng như trình độ cán bộ ngân hàng chưa cao, quy mô huy động vốn chưa được mở rộng. Tuy nhiên, không phải chỉ tiêu này càng cao thì chất lượng tín dụng càng cao. Bởi lẽ, khi ngân hàng cho vay vượt quá một giới hạn nào đó, cũng là lúc ngân hàng phải chấp nhận những rủi ro trong kinh doanh. Khi so sánh chỉ tiêu tổng dư nợ và tổng tài sản có sẽ giúp ngân hàng tính toán hiệu quả tín dụng của một tài sản có và quy mô hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Kết cấu dư nợ phản ánh tỉ trọng của các loại dư nợ trong tổng dư nợ. Việc xác định kết cấu dư nợ sẽ giúp ngân hàng điều chỉnh, đẩy mạnh loại hình cho vay có lợi nhất. Chỉ tiêu về tỷ lệ nợ quá hạn Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Khi một món nợ không trả được vào kỳ hạn nợ, toàn bộ nợ gốc còn lại của hợp đồng sẽ được chuyển thành nợ quá hạn. Khi phân tích tài sản có, công việc đầu tiên của người quản trị là phải phân loại các khoản nợ để quản lý một cách hiệu quả các khoản nợ này. Nhìn chung nó được chia làm 5 loại: + Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn + Nhóm 2: Nợ cần chú ý + Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn + Nhóm 4: Nợ nghi ngờ + Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn Ba nhóm nợ sau được gọi là nợ quá hạn, nợ bị xếp loại. Tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn cao không chỉ báo động sẽ phát sinh khoản phải thanh lý lớn trong tương lai, mà còn thể hiện sự giảm sút thu nhập ở hiện tại do các khoản nợ này không còn đem lại lợi nhuận hoặc đem lại lợi nhuận rất ít không đáng kể. Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của NHTM tại một thời điểm nhất định: Nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = —————— * 100 Tổng dư nợ Chỉ số này thể hiện chất lượng tín dụng. Theo qui định của NHNN, các ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ lớn hơn 7% được xem là ngân hàng yếu kém. Nếu chỉ số này nhỏ hơn 5%, ngân hàng đó được đánh giá là ngân hàng có nghiệp vụ tín dụng tốt, chất lượng cho vay cao và được nhận nhiều thang điểm cao trong hàng xếp loại các tổ chức tín dụng. Chỉ tiêu thu nhập từ hoạt động tín dụng Mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của NHTM là tối đa hoá lợi ích của chủ sở hữu. Chất lượng tín dụng được nâng cao chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó góp phần nâng cao khả năng sinh lời của ngân hàng. Một khoản tín dụng có chất lượng cao sẽ đem lại một khoản thu nhập cho ngân hàng. Thu nhập từ hoạt động tín dụng đóng vai trò quan trọng đối với ngân hàng và là kết quả tài chính quan trọng được quan tâm hàng đầu. Đối với phần lớn các NHTM, thu nhập từ tín dụng chiếm bộ phận chủ yếu trong tổng thu nhập và quyết định độ lớn của thu nhập ròng. Tỷ trọng thu nhập từ Thu nhập từ hoạt động tín dụng hoạt động tín dụng = ——————————————— * 100 Tổng thu nhập Lợi nhuận do hoạt động tín dụng mang lại chứng tỏ không những các khoản vay thu hồi được gốc mà còn có lãi, đảm bảo độ an toàn của nguồn vốn cho vay. Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng Đây là chỉ tiêu phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng, nó được xác định: Doanh số thu nợ trong kỳ Vòng quay vốn tín dụng = ———————————— Dư nợ cho vay bình quân Vòng quay vốn tín dụng càng cao chứng tỏ nguồn vay ngân hàng luân chuyển càng nhanh, tham gia càng nhiều vào chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá. Chỉ tiêu này càng tăng, phản ánh tình hình sử dụng vốn tín dụng càng tốt, chất lượng tín dụng càng cao. Chỉ tiêu này cao trước hết thể hiện khả năng thu nợ tốt. Nó còn thể hiện hiệu quả cho vay của ngân hàng. Tuy nhiên, một yếu tố cần xem xét, đó là “ dư nợ bình quân”. Khi dư nợ bình quân thấp, sẽ làm cho vòng quay vốn tín dụng lớn, nhưng lại không phản ánh chất lượng khoản tín dụng là cao bởi thực tế nó thể hiện quy mô huy động vốn của ngân hàng là chưa lớn. Do vậy, chỉ tiêu này cần được kết hợp xem xét cùng với chỉ tiêu “ hiệu suất sử dụng vốn”. Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn giúp ngân hàng so sánh khả năng cho vay của mình với khả năng huy động vốn, đồng thời xác định hiệu quả của một đồng vốn huy động. Tổng dư nợ Hiệu suất sử dụng vốn = ————————— Tổng vốn huy động Chỉ số này càng lớn, vốn tồn đọng càng ít, đồng thời rủi ro tín dụng càng lớn. Trên thực tế, tỷ lệ trên dao động từ 30% đến 100%. Thông thường vào khoảng trên 80% là tốt, nếu dưới hoặc trên mức đó có thể gây ảnh hưởng tiêu cực tới ngân hàng. Lúc đó, tính thanh khoản của ngân hàng sẽ bị đe doạ do khối lượng dự trữ không được đảm bảo. Tuy vậy, để xác định một tỷ lệ phù hợp còn phụ thuộc vào kết cấu vốn huy động, lĩnh vực ngân hàng tập trung tài trợ và nhiều nhân tố khác. Bên cạnh c._.ác chỉ tiêu trên, ngân hàng còn sử dụng rất nhiều các chỉ tiêu khác để đánh giá chất lượng tín dụng. Chẳng hạn như: + Tỷ lệ an toàn toàn vốn tối thiểu (CAR) : Vốn chủ sở hữu CAR = ——————————————— Tổng tài sản có điều chỉnh rủi ro Chỉ tiêu này cho biết, một đồng vốn tự có bảo vệ cho bao nhiêu đồng tài sản có rủi ro của NHTM. + Chỉ tiêu tỷ trọng từng loại trên tổng nguồn vốn huy động: Tỷ trọng từng loại tiền gửi Số dư từng loại tiền gửi trên tổng vốn huy động = ———————————— * 100 Tổng số vốn huy động Chỉ số này xác định kết cấu của nguồn vốn huy động để phát hiện mặt mạnh, điểm yếu của ngân hàng trong kinh doanh. Nếu ngân hàng nào có tỷ trọng tiền gửi trong kỳ hạn cao, ngân hàng đó sẽ có nhiều thuận tiện trong việc tạo ra lợi nhuận. Ngược lại, ngân hàng nào có tỷ lệ tiền gửi với lãi suất cao chiếm tỷ trọng lớn sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc giải quyết đầu ra của vốn. 1.3.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng 1.3.3.1 Nhân tố chủ quan Đây là các nhân tố xuất phát từ bản thân ngân hàng cho vay: Chính sách quản trị tín dụng của ngân hàng Cho đến nay hầu như chưa có NHTMNN nào ban hành chiến lược, chính sách phát triển và quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng một cách đầy đủ bằng văn bản. Tất cả các chỉ đạo từ NHTW mới chỉ là từng bản hướng dẫn thi hành quy chế, cho vay, bảo lãnh, bảo đảm tiền vay và các quy chế khác do NHNN Việt Nam ban hành. Các NHTW chưa làm tốt công tác dự báo và định hướng cho các chi nhánh trong từng giai đoạn phát triển kinh tế. Kế hoạch tín dụng chỉ mang tính thủ tục. Những khuyến cáo về các ngành hàng không nên cho vay, đầu tư hay khống chế thường chỉ được đưa sau khi rủi ro tín dụng đã phát sinh ở một số chi nhánh khác hay tín dụng đã tăng trưởng đến mức nóng. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng không có chính sách cho vay thận trọng với những doanh nghiệp có vấn đề, chính sách đối với các công ty, nhóm công ty có liên quan. Có những doanh nghiệp chỉ gặp khó khăn có tính tạm thời, nếu được ngân hàng hỗ trợ và tư vấn nâng cao hiệu quả kiểm soát chi phí, kiểm soát vốn thì có thể phục hồi và trả được nợ cho ngân hàng. Tầm nhìn chiến lược không tốt của các ngân hàng cũng là nguyên nhân của tình trạng cạnh tranh thu hút khách hàng bằng cách giảm giá. Lãi suất cho vay được giảm bất chấp rủi ro là một yếu tố tác động lớn đến chất lượng tín dụng của các ngân hàng. Quy trình cấp tín dụng và mô hình quản trị rủi ro tín dụng Quy trình cấp tín dụng hiện tại đang tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao do các khoản vay chưa được thực hiện rà soát rủi ro một cách độc lập với bộ phận bán hàng. Thực tế cho thấy, có khách hàng sản xuất kinh doanh thua lỗ, năng lực tài chính yếu kém,vốn nhỏ bé trong đó, nhà cửa đất đai lại chưa có giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu, quyền quản lý nhưng để có vốn hoạt động họ đã nâng khống vốn tự có rồi lập nhiều dự án, có cả dự án thuộc lĩnh vực mà họ chưa từng có kinh nghiệm để đi vay. Vậy mà, có TCTD không những quyết định cho vay mà còn nhận bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Hậu quả là các dự án kém hiệu quả, nợ tồn đọng khó có khả năng thu hồi, vì thế không những nguy cơ tổn thất cho TCTD là khá lớn mà uy tín của TCTD cũng bị giảm sút nghiêm trọng. Đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng Đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng ngân hàng. Nhân viên ngân hàng phải tiếp cận với nhiều ngành nghề, nhiều vùng, thậm chí nhiều quốc gia. Để cho vay tốt, họ phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi trường mà khách hàng đang sống. Họ phải có khả năng dự báo các vấn đề liên quan đến người vay… Như vậy, họ cần phải được đào tạo và tự đào tạo kĩ lưỡng, liên tục và toàn diện. Khi nhân viên tín dụng cho vay đối với khách hàng mà họ chưa đủ trình độ để hiểu kĩ lưỡng, rủi ro tín dụng luôn rình rập họ. Bên cạnh đó, đạo đức của cán bộ ngân hàng là một trong các yếu tố tối quan trọng để giải quyết vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng. Bộ phận tín dụng là nơi trực tiếp thẩm định dự án vay vốn và khả năng trả nợ của khách hàng cũng như trực tiếp kiểm tra kho tàng, tài sản thế chấp, giám sát giải ngân, kiểm tra sử dụng vốn vay, là đầu mối tiếp xúc với khách hàng nên nếu đạo đức nghề nghiệp không tốt sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng món vay và khả năng thu hồi nợ của ngân hàng. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ tha hoá về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng. Giám sát, kiểm tra sau khi cho vay Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà nơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần được quản lý một cách chủ động để đảm bảo sẽ được hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và ngân hàng nói chung. Việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra trong hợp động tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng nhằm tìm ra những cơ hội kinh doanh mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên trong thời gian qua các NHTM chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này một phần do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà NHTM yêu cầu. 1.3.3.2 Nhân tố khách quan Bên cạnh yếu tố thuộc về bản thân ngân hàng, môi trường kinh doanh và yếu tố khách hàng cũng có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng tín dụng ngân hàng. Yếu tố thuộc về khách hàng ( yếu tố phi hệ thống) + Thứ nhất, tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch. Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng là nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng. + Thứ hai, năng lực quản trị kinh doanh của khách hàng yếu kém. Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế. + Cuối cùng, là yếu tố sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay. Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên, những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác. Yếu tố thị trường ( yếu tố hệ thống ) + Thứ nhất, môi trường kinh tế không ổn định. Nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ tăng trưởng, các ngành nói chung đều kinh doanh thuận lợi hơn, tỷ lệ thu hồi nợ vì thế tăng đồng thời dư nợ đối với nền kinh tế tăng làm giảm tỷ lệ các khoản nợ xấu. Nhưng trong thời kỳ kém tăng trưởng, các ngành kinh doanh sản phẩm tiêu dùng bền vững, hàng cao cấp, các ngành dịch vụ như du lịch, văn phòng, các ngành xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng, đặc biệt kinh doanh bất động sản… sẽ gặp nhiều khó khăn hơn các ngành hàng thiết yếu như lương thực, thực phẩm, nhiên liệu…Các món vay, đặc biệt là trung, dài hạn được quyết định dễ dãi trong thời kỳ tăng trưởng sẽ trở thành khó đòi vài năm sau đó. Mặt khác, Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh của các NHTM trong nước và quốc tề trong môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các ngân hàng trong nước với hệ thống quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút. + Bên cạnh đó, môi trường pháp lý chưa thuận lợi. Đầu tiên là sự kém hiệu quả của cơ quan luật pháp cấp địa phương. Trong những năm gần đây, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, NHNN và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, luật và các văn bản đã có song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng lại hết sức chậm chạp và còn phải gặp nhiều vướng mắc bất cập. Tiếp theo, là những rủi ro trong chính sách. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia ngân hàng trên thế giới, cũng giống các nước đang phát triển khác, chất lượng tín dụng tại các ngân hàng của Việt Nam chịu nhiều tác động của yếu tố rủi ro chính sách. Sự không ổn định trong chính sách khiến các doanh nghiệp khó có thể chủ động trong chiến lược kinh doanh của mình. Môi trường pháp lý không ổn định thường xuyên sẽ gián tiếp làm suy yếu điều kiện tài chính của người vay. Ngoài ra, hệ thống thông tin quản lý còn nhiều bất cập. Hiện nay ở Việt Nam chưa có một cơ chế thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng ( CIC ) của NHNN đi vào hoạt động hơn một thập niên và đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật. Đây chính là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế. Trên đây là những nhân tố chính tác động tới chất lượng tín dụng ngân hàng. Để nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng, các yếu tố trên cần phải được nghiên cứu và nhận thức đúng đắn, kết hợp với hoạt động thực tiễn của các NHTM để đưa ra biện pháp khắc phục có tính khả thi cao. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NHCT ĐỐNG ĐA 2.1 Khái quát về chi nhánh NHCT Đống Đa 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh NHCT Đống Đa Từ NHNN quận Đống Đa, hoạt động trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp chuyển, tách thành Chi nhánh NHCT quận Đống Đa từ 1/7/1988, sau đó được đổi thành chi nhánh NHCT Đống Đa từ 1/4/1993. Qua 20 năm thành lập và đổi mới, phải đương đầu với nền kinh tế hàng hoá hết sức sôi động và cạnh tranh nghiệt ngã với trên 70 ngân hàng và TCTD trong nước và chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động trên cùng địa bàn Hà Nội. Không chịu bó tay trước bất kỳ khó khăn nào, bằng ý chí vươn lên từ nội lực của gần 300 cán bộ công nhân viên chức, có sự chỉ đạo chặt chẽ của NHCT Việt Nam, NHNN thành phố, từng bước chi nhánh NHCT Đống Đa hoà nhập cơ chế thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh, đứng vững và ngày càng phát triển ổn định trong kinh doanh dịch vụ tiền tệ - ngân hàng, góp phần trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá kinh tế thủ đô. Chi nhánh gắn đổi mới công nghệ, từng bước hiện đại hoá ngân hàng, thực hiện mục tiêu kinh doanh mà chi nhánh đề ra từ nhiều năm là: “ Kinh tế phát triển, an toàn vốn, thực hiện đúng pháp luật, lợi nhuận hợp lý” với phương châm “ Tiếp tục đổi mới, nâng cao trách nhiệm, phục vụ tốt khách hàng”. Sau 20 năm thành lập và đổi mới, chi nhánh NHCT Đống Đa đã gặt hái được nhiều thành quả đáng khích lệ. Với chức năng kinh doanh nghiệp vụ tiền tệ - tín dụng – ngân hàng, NHCT khu vực Đống Đa luôn bảo đảm sự ổn định và phát triển, lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước, là đảng bộ vững mạnh 15 năm liên tục, là đơn vị được NHCT Việt Nam khen ngợi nhiều năm liên tục đạt danh hiệu kinh doanh giỏi toàn diện. Vinh dự hơn là năm 1995, được chủ tịch nước tặng thưởng cho cán bộ công nhân viên NHCT Đống Đa huân chương lao động hạng Ba về thành tích kinh doanh tiền tệ ngân hàng, năm 1998, chủ tịch nước tặng thưởng huân chương lao động hạng Nhì. Năm 2002, chủ tịch nước tặng thưởng huân chương lao động hạng Nhất và đặc biệt năm 2003, chi nhánh được nhận danh hiệu “Đơn vị anh hùng lao động thời kỳ đổi mới”. Vinh dự to lớn này là do sự cổ vũ, động viên và ghi nhận của Đảng và Nhà nước về kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHCT Đống Đa trong sự nghiệp đổi mới hoạt động ngân hàng, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới kinh tế đất nước. Tuy nhiên, không tự bằng lòng với kết quả đạt được, chi nhánh NHCT Đống Đa sẽ tiếp tục phát huy phấn đấu cao hơn nữa chất lượng kinh doanh góp phần xây dựng, phát triển kinh tế thủ đô nói riêng và đất nước nói chung với mục tiêu: “Kinh tế phát triển, an toàn vốn, thực hiện đúng pháp luật”. 2.1.2 Cơ cấu tổ chức của chi nhánh NHCT Đống Đa Hiện nay, chi nhánh NHCT Đống Đa có 10 phòng và 01 tổ nghiệp vụ, cụ thể: Phòng khách hàng số 1, phòng khách hàng số 2, phòng khách hàng cá nhân, phòng quản lý rủi ro, phòng kế toán, phòng thanh toán xuất nhập khẩu, phòng tiền tệ - kho quỹ, phòng tổ chức - hành chính, phòng thông tin điện toán, phòng tổng hợp và tổ quản lý nợ có vấn đề, hoạt động theo chức năng và nhiệm vụ riêng đã được phân công theo sự chỉ đạo và điều hành của Ban giám đốc. Cơ cấu này được thể hiện qua sơ đồ sau: Chi nhánh NHCT Đống Đa Phòng Kế tóan Phòng thanh toán xuất nhập khẩu Phòng quản lí nợ có vấn đề Phòng khách hàng cá nhân Hai phòng khách hàng 1,2 Phòng thông tin điện toán Phòng tổng hợp Phòng Tổ chức – Hành chính Phòng quản lí rủi ro Phòng tiền tê – kho quỹ BAN LÃNH ĐẠO: 1 GĐ 3 PGĐ Phòng giao dịch Cát Linh 15 Quỹ tiết kiệm Phòng giao dịch Kim Liên Sơ đồ cơ cấu tổ chức của chi nhánh NHCT Đống Đa Phòng khách hàng số 1,2: Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các doanh nghiệp đang có quan hệ tín dụng tại phòng, để khai thác vốn bằng VNĐ và ngoại tệ. Thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tín dụng, quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của NHCT Việt Nam. Quảng cáo, tiếp thị, giới thiệu và bán các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho các doanh nghiệp đang có quan hệ tín dụng. Phòng khách hàng cá nhân: Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các cá nhân, để khai thác vốn bằng VNĐ và ngoại tệ. Thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tín dụng, quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của NHCT Việt Nam. Trực tiếp quản cáo, tiếp thị, giới thiệu và bán các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho các khách hàng cá nhân. Phòng quản lý rủi ro: Là phòng có nhiệm vụ tham ưu cho Giám đốc chi nhánh về công tác quản lý rủi ro của chi nhánh. Quản lý giám sát thực hiện danh mục cho vay, đầu tư đảm bảo tuân thủ các giới hạn tín dụng cho từng khách hàng. Thẩm định hoặc tái thẩm định khách hàng, dự án, phương án đề nghị cấp tín dụng. Thực hiện chức năng đánh giá, quản lý rủi ro trong toàn bộ các hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa theo chỉ đạo của NHCT Việt Nam. Tổ quản lý nợ có vấn đề: Là phòng chịu trách nhiệm về quản lý và xử lý các khoản nợ có vấn đề ( bao gồm các khoản nợ: Cơ cấu lại thời hạn trả nợ, nợ quá hạn, nợ xấu). Quản lý, khai thác và xử lý tài sản đảm bảo nợ vay theo quy định của Nhà nước nhằm thu hồi các khoản nợ gốc và lãi tiền vay. Quản lý, theo dõi và thu hồi các khoản nợ đã được xử lý rủi ro. Phòng kế toán: Là phòng nghiệp vụ thực hiện các giao dịch trực tiếp với khách hàng. Các nghiệp vụ và các công việc liên quan đến công tác quản lý tài chính, chi tiêu nội bộ tại chi nhánh. Cung cấp các dịch vụ ngân hàng liên quan đến nghiệp vụ thanh toán, xử lý hạch toán các giao dịch. Quản lý và chịu trách nhiệm đối với hệ thống giao dịch trên máy, quản lý quỹ tiền mặt đến từng giao dịch viên theo đúng quy định của Nhà nước và NHCT Việt Nam. Thực hiện nhiệm vụ tư vấn cho khách hàng về sử dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Phòng thanh toán xuất nhập khẩu: Là phòng nghiệp vụ tổ chức thực hiện nghiệp vụ về thanh toán xuất nhập khẩu và kinh doanh ngoại tệ tại chi nhánh theo quy định của NHCT Việt Nam. Phòng tiền tệ - kho quỹ: Là phòng nghiệp vụ quản lý an toàn kho quỹ, quản lý quỹ tiền mặt theo quy định của NHNN và NHCT Việt Nam. Tạm ứng và thu tiền cho các quỹ tiết kiệm, các điểm giao dịch trong và ngoài quầy, thu chi tiền mặt cho các doanh nghiệp có nguồn thu, chi tiền mặt lớn. Phòng tổ chức – hành chính: Là phòng nghiệp vụ thực hiện công tác tổ chức cán bộ và đào tạo tại chi nhánh theo đúng chủ trương chính sách của Nhà nước và quy định của NHCT Việt Nam. Thực hiện công tác quản lý và văn phòng phục vụ hoạt động kinh doanh tại chi nhánh, thực hiện công tác bảo vệ, an ninh an toàn của chi nhánh. Phòng thông tin điện toán: Là phòng nghiệp vụ thực hiện công tác quản lý, duy trì hệ thống thông tin điện toán tại chi nhánh. Bảo trì bảo dưỡng thiết bị công nghệ thông tin để đảm bảo thông suốt hoạt động của hệ thống mạng, máy tính của chi nhánh. Phòng tổng hợp và tiếp thị: Là phòng nghiệp vụ tham mưu cho giám đốc chi nhánh dự kiến kế hoạch kinh doanh, tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh, thực hiện báo cáo hoạt động hàng năm của chi nhánh. 2.1.3 Hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHCT Đống Đa Năm 2007 là năm rất khó khăn của chi nhánh NHCT Đống Đa do gánh nặng của nợ xấu và lỗ luỹ kế của năm 2006 lớn, làm cho thu nhập của cán bộ công nhân viên chi nhánh thuộc lại thấp nhất trong hệ thống NHCT. Mặt khác áp lực cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng gay gắt. Tình hình trên cũng ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của chi nhánh. 2.1.3.1 Tình hình huy động vốn Tính đến 31/12/2007, tổng nguồn vốn huy động ( bao gồm cả VNĐ và ngoại tệ) đạt 4503 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 17%, số tuyệt đối tăng 652 tỷ đồng, so với kế hoạch đạt 107% tăng 302 tỷ đồng. Chi nhánh xác định huy động vốn là nhiệm vụ quan trọng và tập trung tăng trưởng bền vững nguồn vốn huy động. Trong năm 2007, do giá vàng, giá bất động sản biến động mạnh và tăng cao nên một phần vốn đã chảy qua kênh đầu tư này, mặt khác sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt vì vậy việc huy động vốn rất khó khăn. Tuy nhiên, do chi nhánh đã làm tốt công tác phục vụ khách hàng, cải tiến phong cách phục vụ thuận lợi, nhanh chóng, có nhiều hình thức chăm sóc khách hàng đa dạng, đáp ứng nhu cầu gửi tiền của dân cư và các tổ chức kinh tế, vì vậy nguồn vốn huy động đã liên tục tăng trưởng. Chi nhánh đã triển khai đa dạng hoá các hình thức huy động như: huy động tiết kiệm, kỳ phiếu, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm lãi suất bậc thang… Mặt khác, chi nhánh còn tích cực tìm kiếm, chăm sóc các khách hàng chiến lược có nguồn tiền gửi lớn về hoạt động tại chi nhánh. Bên cạnh đó, chi nhánh vẫn duy trì được quan hệ truyền thống với các đơn vị có số dư tiền gửi lớn nhu: Tổng công ty Xi măng, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam… 2.1.3.2 Tình hình sử dụng vốn Đầu tư vốn tín dụng: Năm 2007, tổng dư nợ cho vay đạt 1198 tỷ đồng, so với kế hoạch đạt 85%. Dư nợ của chi nhánh giảm do Chi nhánh chủ trương chọn lọc khách hàng, chỉ đầu tư cho vay đối với khách hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có khả năng trả nợ ngân hàng; những đơn vị có nợ quá hạn lớn, kinh doanh thua lỗ chi nhánh không thể đầu tư vốn tín dụng tiếp mà chỉ thu nợ. Hoạt động tín dụng đã thực hiện theo đúng quy trình của NHCT Việt Nam, hoạt động thẩm định rủi ro được độc lập với hoạt động thẩm định cho vay, trong năm đã thẩm định 302 món. Công tác thẩm định rủi ro được thực hiện trên cơ sở thu thập và phân tích thông tin để phục vụ cho việc thẩm định các dự án, phương án thông qua nhiều nguồn thông tin như qua các phương tiện thông tin đại chúng, mạng internet, tình hình giá cả, cung cầu trên thị trường, CIC… Qua thẩm định đã giúp các phòng cho vay đúng đối tượng, mục đích vay và theo đúng quy trình nghiệp vụ. Đồng thời cũng góp phần phát hiện những phương án, dự án không khả thi, không hợp lệ để thông báo cho các phòng khách hàng. Trong cơ cấu dư nợ, dư nợ cho vay trung dài hạn đạt 312 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 26% tổng dư nợ. + Dư nợ ngoại tệ đạt 304 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 25% tổng dư nợ + Dư nợ cho vay có tài sản bảo đảm đạt thấp so với kế hoạch, đạt 31% ( kế hoạch 62%) Nghiệp vụ bảo lãnh: Chi nhánh tiếp tục phát triển và đa dạng hoá các nghiệp vụ bảo lãnh như: Bảo lãnh mở L/C, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh bảo hành…Tổng dư bảo lãnh đến 31/12/2007 là 279 tỷ đồng. 2.1.3.3 Tình hình thanh toán quốc tế và kinh doanh đối ngoại Trong năm qua, NHCT Đống Đa đã làm tốt công tác dịch vụ về thanh toán quốc tế như: + Dịch vụ thanh toán và chuyển tiền kiều hối gồm chuyển tiền qua mạng Swift và chuyển tiền Western Union. + Dịch vụ phát hành và thanh toán L/C, nhờ thu nhập khẩu… + Các dịch vụ mua bán ngoại tệ. Nhờ vậy mà trong năm 2007, thu dịch vụ từ hoạt động thanh toán quốc tế và bảo lãnh đạt 4,4 tỷ đồng ( chiếm 41% trong tổng thu phí) và lãi kinh doanh ngoại tệ đạt 482 triệu đồng. 2.1.3.4 Kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHCT Đống Đa Do áp dụng chương trình hiện đại hoá ngân hàng nên các kênh thanh toán qua ngân hàng nhanh chóng, thuận tiện và an toàn. Mặc dù lượng chứng từ thanh toán lớn và đường truyền liên tục bị lỗi nhưng chi nhánh đã bố trí cán bộ hợp lý, cộng với sự cố gắng, nhiệt tình của các cán bộ giao dịch nên việc thanh toán vẫn kịp thời, chính xác, không gây ách tắc cho khách hàng trong giao dịch. Trong năm, doanh số thanh toán đạt 90390 tỷ đồng, trong đó doanh số thanh toán không dùng tiền mặt là 80975 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 90%. Thu dịch vụ phí đạt 10749 triệu đồng, đạt 90% kế hoạch và bằng 131% so với năm 2006. Tổng thu tiền mặt đạt 7645 tỷ đồng và tổng chi tiền mặt đạt 7358 tỷ đồng. Kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHCT Đống Đa năm 2007 được cụ thể qua biểu sau: Biểu 1: Kết quả kinh doanh của chi nhánh NHCT Đống Đa năm 2007 Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Thực hiện Tổng thu nhập 468,017 Tổng chi phí 347,788 Lợi nhuận chưa trích DPRR 120,229 Trích DPRR 87,326 Lợi nhuận sau trích DPRR 32,903 Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2007 chi nhánh NHCT Đống Đa 2.2 Thực trạng chất lượng tín dụng tại chi nhánh NHCT Đống Đa 2.2.1 Thực trạng cho vay và dư nợ tín dụng Hoạt động tín dụng nói chung và cho vay nói riêng là hoạt động đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Doanh số cho vay của chi nhánh trong một số năm gần đây được thể hiện qua biểu sau: Biểu 2: Doanh số cho vay tại chi nhánh NHCT Đống Đa Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Theo thành phần KT Quốc Doanh 1100 48,2 846 51,3 969 51 Ngoài Quốc Doanh 1180 51,8 802 48,7 931 49 Theo thời gian Ngắn hạn 2080 91,2 1403 85,1 1710 90 Trung và dài hạn 200 8,8 245 14,9 190 10 Doanh số cho vay 2280 100 1648 100 1900 100 Nguồn: Phòng tổng hợp chi nhánh NHCT Đống Đa Sơ đồ minh hoạ biểu 2 ( theo thành phần kinh tế) Qua biểu 2 ta thấy, doanh số cho vay của chi nhánh qua các năm có xu hướng giảm, năm 2005 doanh số cho vay đạt 2280 tỷ, đển năm 2006 giảm mạnh xuống chỉ đạt 1648 tỷ và năm 2007 đạt 1900 tỷ đồng. Sở dĩ doanh số cho vay có xu hướng giảm vì trong những năm này, chi nhánh chủ trương chọn lọc khách hàng, chỉ đầu tư cho vay đối với khách hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có khả năng trả nợ ngân hàng. Hơn thế nữa, việc tìm kiếm khách hàng mới kinh doanh có hiệu quả để đầu tư là rất khó khăn một mặt do tình hình cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt, một mặt do cán bộ của chi nhánh chưa tích cực, chủ động. Về tỷ trọng cho vay theo thành phần kinh tế, ta thấy doanh số cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có xu thế tăng, bởi lẽ bên cạnh việc duy trì quan hệ tín dụng với khách hàng truyền thống, chi nhánh đã mở rộng, quan tâm cho vay các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, có phương án khả thi, có tài sản đảm bảo, kết quả cho vay ngoài quốc doanh tăng trưởng đáng kể chiếm 49% tổng dư nợ năm 2007. Theo thời gian, tỷ trọng cho vay ngắn hạn luôn chiếm tỷ trọng rất lớn qua các năm, năm 2005 tỷ trọng cho vay ngắn hạn là 91,2%, năm 2006 đạt 85,1% và năm 2007 là 90%. Điều này thể hiện chi nhánh đã thu hút được một lượng khách hàng khá lớn vay vốn để thoả mãn nhu cầu ngắn hạn như bổ sung vốn lưu động, tiêu dùng. Cho vay ngắn hạn giúp ngân hàng tận dụng tốt được nguồn vốn huy động do tăng vòng quay vốn và rủi ro thấp hơn. Tuy nhiên tỷ trọng giữa cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn là rất mất cân đối, chi nhánh cũng nên quan tâm để nâng cao tỷ trọng cho vay trung và dài hạn vì đây mới là nguồn tiềm năng đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. Nếu doanh số cho vay phản ánh dung lượng hoạt động cho vay trong kỳ của chi nhánh thì dư nợ là chỉ tiêu phản ánh số tiền mà ngân hàng hiện đang cho vay tính đến thời điểm cụ thể. Thực trạng dư nợ của chi nhánh như sau: Biểu 3: Dư nợ tại chi nhánh NHCT Đống Đa Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Ngắn hạn 1500 68,2 1083 68,7 886 74 Trung và dài hạn 700 31,8 494 31,3 312 26 Dư nợ 2200 100 1577 100 1198 100 Nguồn: Phòng tổng hợp chi nhánh NHCT Đống Đa Sơ đồ minh hoạ biểu 3 Ta thấy, dư nợ của chi nhánh cũng có xu hướng giảm qua các năm, năm 2005 dư nợ đạt 2200 tỷ đồng, tới năm 2007 con số này đạt 1198 tỷ đồng ( so với kế hoạch chỉ đạt 85%). Nguyên nhân, bên cạnh việc thực hiện chỉ đạo của NHCT Việt Nam là công tác đầu tư cho vay được đặc biệt coi trọng với định hướng từng bước nâng cao chất lượng tín dụng, những ngày cuối tháng 12/2007 Chi nhánh đã động viên những khách hàng có điều kiện trả nợ trước hạn gần 100 tỷ đồng. Về kết cấu dư nợ, biểu 3 cho thấy dư nợ đối với cho vay ngắn hạn có sự giảm về con số tuyệt đối qua các năm, song tỷ trọng vẫn có xu hướng tăng, chiếm tỷ trọng lớn, năm 2007 tỷ trọng dư nợ ngắn hạn đạt 74%, tăng 5,3% so với năm 2006. Điều này do cùng với sự giảm của dư nợ ngắn hạn là sự giảm của dư nợ trung và dài hạn ( sơ đồ minh hoạ biểu 3), nên làm tăng đáng kể tỷ trọng của dư nợ ngắn hạn. 2.2.2 Thực trạng thu nợ Doanh số thu nợ của chi nhánh qua các năm được tổng hợp ở biểu sau: Biểu 4: Doanh số thu nợ Đơn vị : Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Ngắn hạn 1830 82,1 1820 80,1 1907 83,7 Trung và dài hạn 400 17,9 451 19,9 372 16,3 Doanh số thu nợ 2230 100 2271 100 2279 100 Nguồn: Phòng tổng hợp chi nhánh NHCT Đống Đa Sơ đồ minh hoạ biểu 4 Ta thấy, do chi nhánh thực hiện theo chỉ đạo của NHCT Việt Nam nên qua các năm, doanh số thu nợ đều tăng, năm 2005 doanh số thu nợ là 2230 tỷ đồng, năm 2006 con số trên tăng mạnh đạt 2271 tỷ và năm 2007 đạt 2279 tỷ. Trong đó, tỷ lệ thu nợ trong ngắn hạn vẫn tăng và lớn hơn nhiều so với thu nợ trong trung và dài hạn bởi lẽ các khoản cho vay ngắn hạn thường chứa ít rủi ro hơn là các khoản vay trong dài hạn, đồng thời việc thu nợ trong ngắn hạn luôn hiệu quả hơn trong trung và dài hạn. Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng của chi nhánh được thể hiện qua biểu sau: Biểu 5: Vòng quay vốn tín dụng tại chi nhánh NHCT Đống Đa Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Doanh số thu nợ 2230 2271 2279 Dư nợ cho vay bình quân 2175 1888,5 1387,5 Vòng quay vốn tín dụng 1,03 1,20 1,64 Nguồn: Phòng tổng hợp chi nhánh NHCT Đống Đa Biểu trên cho thấy vòng quay vốn tín dụng của chi nhánh năm sau đều cao hơn năm trước, năm 2005 là 1,03 vòng, năm 2006 là 1,2 vòng và năm 2007 là 1,64 vòng. Chỉ tiêu này cho biết vòng quay của vốn huy động, tức là với 1 đồng vốn nhưng nếu càng cho vay, quay vòng nhiều lần thì càng thu được nhiều lợi nhuận, nên chỉ số này càng cao càng tốt. Tuy nhiên, nếu dư nợ cho vay bình quân thấp thì vòng quay vốn tín dụng vẫn có thể cao. Qua các biểu trên ta thấy, mặc dù dư nợ cho vay có xu hướng giảm nhưng tình hình thu nợ của chi nhánh là khá tốt nên vòng quay vốn tín dụng là khá lớn. Điều này chứng tỏ công tác thu nợ của chi nhánh là bước đầu có hiệu quả. Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn của chi nhánh được tổng kết qua biểu sau: Biểu 6: Hiệu suất sử dụng vốn Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng dư nợ 2200 1577 1198 Tổng vốn huy động 3556 3851 4503 Hiệu suất sử dụng vốn 62% 41% 27% Nguồn: Phòng tổng hợp chi nhánh NHCT Đống Đa Từ biểu trên ta thấy, vốn chi nhánh huy động chưa được sử dụng nhiều vào việc cho vay. Trong 3 năm quan sát, hiệu suất sử dụng vốn liên tục giảm, từ 62% năm 2005, còn 41% năm 2006 và chỉ đạt có 27% vào năm 2007. Hiệu suất sử dụng vốn trong 2 năm 2006 và 2007 thấp do chi nhánh thực hiện theo chỉ đạo của NHCT Việt Nam, chỉ đầu tư cho vay đối với khách hàng hoạt động có hiệu quả, những đơn vị có nợ quá hạn, kinh doanh thua lỗ, chi nhánh đã không tiếp tục đầu tư vốn tín dụng mà chỉ thu nợ, từng bước nâng cao chất lượng tín dụng của chi nhánh. Tuy nhiên, tỷ lệ này là chưa tốt vì chưa đảm bảo được tính thanh khoản của ngân hàng và chưa đáp ứng được hiệu quả sử dụng vốn. 2.2.3 Tình hình nợ quá hạn Để đánh giá chính xác chất lượng tín dụng, chúng ta cần xem xét thực trạng nợ quá hạn cũng như tỷ lệ nợ quá hạn của chi nhánh trong vài năm trở lại đây. Tình hình nợ quá hạn và nợ xấu của chi nhánh được thể hiện qua biểu sau: Biểu 7: Tình hình nợ quá hạn của chi nhánh NHCT Đống Đa Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Nợ quá hạn 24 95,49 77,87 Tổng dư nợ 2200 1577 1198 Tỷ lệ nợ quá hạn 1,1% 6,1% 6,5% Nợ xấu 170,1 92,281 Nguồn: Phòng tổng hợp chi nhánh NHCT Đống Đa Qua biểu 7 ta thấy, xét về con số tuyệt đối, so với năm 2006, nợ quá hạn đã giảm hẳn từ 95,49 tỷ đồng xuống là 77,87 tỷ đồn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7686.doc
Tài liệu liên quan