Tài liệu Nâng cao chất lượng hoạt động môi giới tại Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội (HabuBank): ... Ebook Nâng cao chất lượng hoạt động môi giới tại Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội (HabuBank)
81 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1340 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng hoạt động môi giới tại Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội (HabuBank), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC 1
LỜI MỞ ĐẦU 3
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG MÔI GIỚI CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN 4
I. Những vấn đề cơ bản về Công ty chứng khoán 4
1. Khái niệm Công ty chứng khoán 4
2. Vai trò của Công ty chứng khoán 5
3. Mô hình hoạt động của Công ty chứng khoán 6
4. Các hoạt động cơ bản của các Công ty chứng khoán 7
II. Nội dung hoạt động môi giới của các Công ty chứng khoán 12
1. Hoạt động môi giới của Công ty chứng khoán 12
2. Nội dung chủ yếu của hoạt động môi giới 14
3. Quy trình nghiệp vụ hoạt động môi giới 17
III. Chất lượng hoạt động môi giới của Công ty chứng khoán 21
1. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt động môi giới 21
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động môi giới của các Công ty chứng khoán 24
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN TẠI CÔNG TY TNHH CHỨNG KHOÁN HABUBANK 30
I. Khát quát về Công ty TNHH Chứng khoán Habubank 30
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty 30
2.Cơ cấu tổ chức, nhân sự của Công ty 31
3. Các hoạt động chính của Công ty 37
II. Thực trạng hoạt động môi giới tại Công ty TNHH Chứng khoán Habubank 39
1. Thực trạng hoạt động môi giới tại Công ty 39
2. Đánh giá thực trạng chất lượng hoạt động môi giới của Công ty 51
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN TẠI CÔNG TY TNHH CHỨNG KHOÁN HABUBANK 59
I. Cơ sở việc nâng cao chất lượng hoạt động môi giới chứng khoán 59
1. Định hướng phát triển của Thị trường Chứng khoán Việt Nam 59
2. Định hướng phát triển của Công ty TNHH Chứng khoán Habubank 60
II. Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động môi giới tại Công ty TNHH Chứng khoán Habubank 61
1. Nâng cao kỹ năng môi giới và công tác đào tạo nhân sự 61
2. Phát triển các dịch vụ chăm sóc khách hàng 65
3. Hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật 69
4. Phát triển đồng bộ các hoạt động kinh doanh của Công ty 69
5. Hình thành rõ nét văn hoá kinh doanh của Công ty 71
6. Chuyên nghiệp hoá các nghiệp vụ môi giới 72
7. Giải pháp về Marketing 73
III. Một số kiến nghị 74
1. Kiến nghị với Bộ, Ngành liên quan 74
2. Kiến nghị với Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội 77
KẾT LUẬN 79
BẢNG BIỂU 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
LỜI MỞ ĐẦU
Đã qua bảy năm và bắt đầu bước sang năm hoạt động thứ tám, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có một thời kỳ phát triển khá ấn tượng. Thị trường chứng khoán Việt Nam đang ở giai đoạn ổn định hơn và tăng trưởng không còn quá nóng như năm trước. Một trong những nhân tố quan trọng đã góp phần ngày một hoàn thiện và phát triển thị trường là phải kể đến vai trò và hoạt động của các Công ty chứng khoán.
Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian nhằm thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán. Công ty chứng khoán là một nhân tố không thể thiếu trong bất kỳ một thị trường chứng khoán nào, nhất là ở một thị trường non trẻ như ở Việt Nam. Thị trường càng phát triển thì các Công ty chứng khoán càng phát triển các dịch vụ cho khách hàng. Đứng trên vai trò là trung gian, là cầu nói giữa người mua và người bán, vai trò của các công ty chứng khoán là rất quan trọng, đặc biệt là hoạt động môi giới chứng khoán. Thị trường càng phát triển thì hoạt động môi giới càng phức tạp. Để đáp ứng mục tiêu thoả mãn nhu cầu của khách hàng và tối đa hoá lợi nhuận cho công ty, hoạt động môi giới phải chú trọng, đặc biệt là nâng cao chất lượng mội giới
Nhằm mục đích nghiên cứu thị trường, nâng cao vai trò của các công ty chứng khoán cũng như phát triển hoạt động môi giới chứng khoán, em đã chọn đề tài:
“Nâng cao chất lượng hoạt động môi giới tại Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội”
Đề tài có 3 chương, bao gồm:
Chương I: Lý luận về chất lượng hoạt động môi giới của các Công ty chứng khoán.
Chương II: Thực trạng hoạt động môi giới chứng khoán tại Công ty TNHH chứng khoán Habubank.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động môi giới chứng khoán tại Công ty TNHH chứng khoán Habubank.
Trình độ nhận thức cũng như năng lực bản thân có hạn, chuyên đề này sẽ không tránh khỏi những hạn chế trong quá trình nghiên cứu, đánh giá cũng như xem xét vấn đề, em kính mong các thầy cô xem xét, đóng góp ý kiến cho em cũng như chuyên đề để chuyên đề có tính khả thi hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG MÔI GIỚI
CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1. Khái niệm Công ty chứng khoán
Thị trường chứng khoán có vai trò hết sức quan trọng trong việc huy động vốn và sử dụng vốn của nền kinh tế. Sự phát triển của thị trường chứng khoán luôn kéo theo sự ra đời của các công ty chứng khoán và những nhà môi giới tài ba.
Theo giáo trình Thị trường chứng khoán - Trường ĐH Kinh tế Quốc dân – Nhà xuất bản Tài chính 2002: “Công ty chứng khoán là một tổ chức tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường tài chính.” Do đó, Công ty chứng khoán có những đặc điểm chung vốn có sau:
Tổ chức trung gian trong giao dịch
Trong Thị trường chứng khoán (sau đây viết tắt là TTCK), người mua và người bán thoả thuận và tiến hành giao dịch thông qua hệ thống của các Công ty chứng khoán chứ không hề trực tiếp gặp nhau như những giao dịch thông thường khác. Nhiệm vụ của Công ty chứng khoán là nhận lệnh của khách hàng, bao gồm cả bên mua và bên bán, nhập lệnh vào hệ thống, sau đó hệ thống tự so khớp, sau đó đưa ra giá khớp với số lượng được khớp là một số nhất định.
Tổ chức trung gian về thông tin:
Cùng với trình độ kỹ thuật tiên tiến và đội ngũ nhân viên có trình độ cao, Công ty chứng khoán luôn đem lại những thông tin có thể phục vụ miễn phí hoặc phục vụ cho việc ra quyết định đầu tư của Công ty chứng khoán hoặc thông tin dịch vụ mà công ty muốn bán cho khách hàng nhằm mục đích giúp khách hàng ra quyết định đầu tư và thu lời. Qua đó, khách hàng có thể có những thông tin có hàm lượng tin cậy cao với mức chi phí thấp hơn rất nhiều so với chi phí mà khách hàng bỏ ra để tự thu thập và xử lý thông tin.
Trung gian về vốn
Để tăng cơ hội đầu tư cho khách hàng cũng như là tăng thu nhập cho Công ty chứng khoán thông qua việc đa dạng hoá các lĩnh vực hoạt động, chức năng trung gian về vốn được thể hiện đặc biệt rõ nét thông qua nghiệp vụ cầm cố, mua bán khống chứng khoán của công ty với khách hàng.
Trung gian về thanh toán
Chức năng trung gian thanh toán được thể hiện rõ nét trong việc thanh toán giữa người phát hành và khách hàng, vì Công ty chứng khoán là một thành viên trong hệ thống thanh toán lưu ký chứng khoán. Công ty thực hiện việc tính toán kết quả cuối cùng sau khi có kết quả bù trừ giữa các nhà đầu tư với nhau hoặc kết quả chuyển xuống từ trung tâm giao dịch.
Trung gian trong đầu tư và rủi ro
Chủ thế có vốn nhàn rỗi không phải đều có khả năng phân tích, đầu tư và trình độ hiểu biết cao. Xuất phát từ hạn chế đó, các quỹ đầu tư ra đời và chủ thể của những chứng chỉ quỹ do quỹ đầu tư phát hành để huy động vốn là những chủ thể có vốn nhàn rỗi và được hưởng lợi tức từ lợi nhuận mà các quỹ đầu tư mang lại.
2. Vai trò của Công ty chứng khoán
Khi thực hiện các chức năng của mình trên thị trường, Công ty chứng khoán có những vai trò sau:
Huy động vốn
Nói một cách đơn giản, các Công ty chứng khoán là cầu nối, là kênh dẫn vốn từ nơi có vốn nhàn rỗi sang bộ phận khác của nền kinh tế đang cần huy động vốn. Các Công ty chứng khoán thường đảm nhiệm vai trò này qua các hoạt động bảo lãnh phát hành và môi giới chứng khoán.
Cung cấp một cơ chế giá cả
Thông qua sở giao dịch chứng khoán và thị trường OTC, Công ty chứng khoán có chức năng cung cấp một cơ chế giá cả nhằm giúp nhà đầu tư có được sự đánh giá đúng thực tế và chính xác về giá trị khoản đầu tư. Công ty chứng khoán còn có một chức năng quan trọng là can thiệp trên thị trường, góp phần điều tiết giá chứng khoán. Theo quy định của các nước, Công ty chứng khoán bắt buộc phải dành ra một tỷ lệ nhất định giao dịch của mình để mua chứng khoán vào khi giá chứng khoán trên thị trường đang giảm và bán ra khi giá chứng khoán cao.
Cung cấp cơ chế chuyển ra tiền mặt
Nhà đầu tư luôn muốn chuyển tiền mặt thành chứng khoán có giá và ngược lại trong môi trường đầu tư ổn định. Các công ty chứng khoán đảm nhận chức năng này giúp nhà đầu tư chịu ít thiệt thòi nhất khi tiến hành đầu tư. Nói cách khác, có thể có một số nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến giá trị đầu tư như tin đồn, nhưng giá trị khoản đầu tư nói chung không giảm đi do cơ chế mua bán.
Thực hiện tư vấn đầu tư
Các Công ty chứng khoán với đầy đủ các dịch vụ không chỉ thực hiện mệnh lệnh của khách hàng mà còn tham gia vào nhiều dịch vụ tư vấn khác nhau thông qua việc nghiên cứu thị trường rồi cung cấp các thông tin đó cho các công ty và các cá nhân đầu tư.
Tạo ra sản phẩm mới
Trong mấy năm gần đây, chủng loại chứng khoán đã phát triển với tốc độ nhanh do một số nguyên nhân, trong đó nguyên nhân dung lượng thị trường và biến động thị trường ngày càng lớn, nhận thức rõ ràng hơn của khách hàng đối với thị trường tài chính và sự nỗ lực trong tiếp thị của các công ty chứng khoán.
Ngoài cổ phiếu và trái phiếu đã được biết đến, các công ty chứng khoán hiện nay còn bán trái phiếu chính phủ, chứng quyền, trái quyền, các hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn và các sản phẩm lai tạo đa dạng khác, phù hợp với thay đổi trên thị trường và môi trường kinh tế.
3. Mô hình hoạt động của Công ty chứng khoán
Hoạt động của các Công ty chứng khoán rất đa dạng và phức tạp, khác hẳn với các doanh nghiệp sản xuất hay thương mại thông thường vì công ty chứng khoán là một loại hình định chế tài chính đặc biệt nên vấn đề xác định mô hình tổ chức kinh doanh của nó cũng có nhiều điểm khác nhau. Tuy nhiên, có thể khái quát thành hai mô hình cơ bản hiện nay là:
3.1. Mô hình đa năng kinh doanh chứng khoán và tiền tệ (hay mô hình phụ thuộc)
Theo mô hình này, các ngân hàng thương mại hoạt động với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô hình này chia làm hai loại:
Loại đa năng một phần: các ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm phải lập công ty độc lập, hoạt động tách rời.
Loại đa năng toàn phần: các ngân hàng được kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm bên cạnh kinh doanh tiền tệ.
Ưu điểm của mô hình này là ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro cho hoạt động kinh doanh chung và có khả năng chịu đựng được các biến động của thị trường chứng khoán. Mặt khác, ngân hàng sẽ tận dụng được thế mạnh chuyên môn và vốn để kinh doanh chứng khoán.
Tuy vậy, mô hình cũng bộc lộ một số hạn chế như: không phát triển được thị trường cổ phiếu vì các ngân hàng có xu hướng bảo thủ và thích hoạt động cho vay hơn là bảo lãnh phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Đồng thời, các ngân hàng cũng rất dễ gây lũng đoạn thị trường, và các biến động trên TTCK, nếu có, sẽ làm ảnh hưởng mạnh đến hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng do không tách bạch giữa hai loại hình kinh doanh.
3.2 Mô hình chuyên doanh chứng khoán (hay mô hình độc lập)
Theo mô hình này, hoạt động chuyên doanh chứng khoán sẽ do các công ty độc lập, chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận, các ngân hàng không được tham gia kinh doanh chứng khoán.
Ưu điểm của mô hỉnh này là:
Hạn chế rủi ro hệ thống ngân hàng
Tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, các nước này có xu hướng xoá bỏ dần hàng rào ngăn cách giữa hai loại hình kinh doanh và ngày nay, các công ty chứng khoán lớn đã mở rộng kinh doanh cả trong lĩnh vực bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ.
4. Các hoạt động cơ bản của Công ty chứng khoán
4.1 Hoạt động môi giới
“Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo đó, Công Ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại Sở Giao Dịch Chứng Khoán hoặc trên thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình”.
Đứng trên vai trò là trung gian trong các giao dịch mua bán giữa các khách hàng, nghiệp vụ môi giới đã thu được thu nhập không nhỏ thông qua các khoản phí cho Công ty chứng khoán. Ngoài ra, Nhân viên hoạt động môi giới là những người nắm thông tin tốt, hiểu rõ khách hàng của mình nhất vì thường xuyên tiếp xúc với khách hàng và cũng chính là hình ảnh của Công ty chứng khoán. Khách hàng lựa chọn Công ty chứng khoán nào để mởi tài khoản, để giao dịch và tham gia đầu tư trên thị trường chủ yếu đều thông qua sự tin tưởng và đánh giá của khách hàng vào phòng Môi giới. Đồng thời, những khảo sát, đánh giá cũng như những sản phẩm mà công ty đưa ra cho khách hàng đều thực hiện thông qua môi giới.
Công ty chứng khoán làm trung gian nhằm giúp cho khách hàng giao dịch được thuận lợi và đạt hiệu quả cao. Thông qua các dịch vụ tư vấn đầu tư, cung cấp thông tin cho khách hàng và chia sẽ những vấn đề về tâm lý trong quá trình đầu tư với họ, hoạt động môi giới đã trở thành người bạn không thể thiếu. Và khi khách hàng đã đặt niềm tin trọn vẹn vào nhân viên môi giới như những người bạn thật sự thì đội ngũ nhân viên môi giới không những thông thạo về các kiến thức chứng khoán mà cần có đạo đức nghề nghiệp. Vậy để trở thành một nhân viên môi giới chuyên nghiệp thì cần có những điều kiện sau:
Kỹ năng truyền đạt thông tin
Hình thức tư vấn cho khách hàng là một phần của hoạt động môi giới. Phẩm chất hay thái độ của người môi giới đối với công việc, với bản thân và với khách hàng được truyền đạt rõ ràng tới hầu hết các khách hàng mà người môi giới thực hiện giao dịch. Để thành công trong việc cung ứng dịch vụ, người môi giới phải đặt lợi ích khách hàng lên trên hết và doanh thu của mình chỉ là yếu tố thứ yếu. Đây là điểm then chốt trong hoạt động dịch vụ tài chính và được thể hiện ngay từ khi tiếp xúc với khách hàng.
Kỹ năng tìm kiếm khách hàng
Trong quá trình nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh cũng như mở rộng và phát triển thị phần công ty, nhân viên môi giới luôn phải tự tìm kiếm cho mình những nguồn khách hàng thật tốt và cả một nguồn những khách hàng tiềm năng. Có nhiều phương pháp để tìm kiếm khách hàng nhưng tựu trung lại là có 6 phương cách:
+ Những đầu mối được gây dựng từ công ty hoặc các tài khoản chuyển nhượng lại
+ Mạng lưới kinh doanh
+ Các chiến dịch viết thư
+ Các cuộc hội thảo
+ Gọi điện làm quen
Kỹ năng khai thác thông tin
Nguyên tắc trong hành nghề môi giới là phải hiểu khách hàng, biết được khả năng tài chính, mức độ chấp nhận rủi ro của khách hàng. Quá trình tiếp xúc thường xuyên với khách hàng đòi hỏi nhân viên môi giới phải biết được các thông tin về khách hàng của mình như: số điện thoại, địa chỉ, ngày sinh nhật và quan trong là biết được tình hình tài chính thật sự của từng nhà đầu tư. Bởi muốn tư vấn được cho khách hàng thì điều quan trong là phải biết được tình hình tài chính của họ để có thể tư vấn những chiến lược đầu tư khác nhau cho các nhà đầu tư khác nhau phù hợp với khả năng chịu đựng của từng người. Ngoài ra, nó còn giúp cho nhà môi giới tăng được khối lượng tài sản quản lý, có chiến lược khách hàng thích hợp.
4.2 Nghiệp vụ tự doanh
Tự doanh là việc Công ty chứng khoán tự tiến hành các giao dịch mua bán chứng khoán cho chính mình. Hoạt động tự doanh của Công ty chứng khoán có thể được thực hiện trên các thị trường giao dịch tập trung như Sở giao dịch chứng khoán, trung tâm giao dịch chứng khoán hoặc trên thị trường OTC… Trên thị trường giao dịch tập trung, lệnh giao dịch của công ty chứng khoán được đưa vào hệ thống và thực hiện tương tự như lệnh giao dịch của các khách hàng. Trên thị trường OTC, các hoạt động này có thể được thực hiện trực tiếp giữa công ty với các đối tác hoặc qua hệ thống mạng thông tin.
Mục đích của hoạt động tự doanh là thu lợi nhuận cho chính công ty từ nguồn vốn sở hữu của chính công ty qua hoạt động mua bán chứng khoán. Hoạt động tự doanh thật sự cần thiết đối với Công ty chứng khoán vì hiện nay nó vẫn là nguồn thu chính cho các Công ty chứng khoán. Đồng thời với hoạt động tự doanh, Công ty chứng khoán giúp cho TTCK trở nên sôi động vì chính Công ty chứng khoán là nhà đầu tư chuyên nghiệp, bên cạnh đó cũng là cho tính thanh khoản của chứng khoán tăng lên, góp phần bình ổn giá chứng khoán trên thị trường.
Trong hoạt động tự doanh, cũng chính vì Công ty chứng khoán kinh doanh trên chính nguồn vốn sở hữu của mình, tự ra quyết định và đặt lệnh mua bán cho chính chứng khoán mà công ty tính toán và lựa chọn, do đó Công ty chứng khoán cần phải có nguồn vốn dồi dào cũng như đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, trình độ chuyên môn cao, khả năng phân tích và đưa ra chiến lược đầu tư hợp lý.
4.3 Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành
Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc Công ty chứng khoán có chức năng bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán ra công chúng, tổ chức việc phân phối chứng khoán và bình ổn giá TTCK vào giai đoạn đầu sau khi phát hành. Như vậy bảo lãnh phát hành chứng khoán bao gồm cả việc tư vấn tài chính và phân phối chứng khoán. Các hình thức bảo lãnh chứng khoán hiện hành là:
Cam kết chắc chắn
Cố gắng tối đa
Tất cả hoặc không
Bảo lãnh tối thiểu, tối đa
4.4 Nghiệp vụ tư vấn đầu tư
Đa số định nghĩa tư vấn chứng khoán là những hoạt động tư vấn về giá trị của chứng khoán nhằm thu phí. Có thể phân loại nghiệp vụ này theo một số tiêu chí như:
Theo hình thức của hoạt động tư vấn: có tư vấn trực tiếp và tư vấn gián tiếp.
Theo mức độ ủy quyền của hoạt động tư vấn: tư vấn gợi ý, tư vấn ủy quyền.
Theo đối tượng của hoạt động tư vấn: tư vấn cho người phát hành và tư vấn đầu tư.
Khi hành động, nhà tư vấn cần tuân theo những nguyên tắc tối thiểu sau:
Không đảm bảo chắc chắn về giá trị của chứng khoán
Luôn nhắc nhở khách hàng rằng những lời tư vấn của mình có thể là không hoàn toàn chính xác và khách hàng cần biết là nhà tư vấn không chịu trách nhiệm về những lời khuyên
Không dụ dỗ hay mời gọi khách hàng mua hoặc không mua một loại chứng khoán nào đó, mọi lời khuyên đều xuất phát từ sự phân tích tình hình, tư duy logic và khách quan.
4.5 Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư
Đây là một dạng nghiệp vụ tư vấn của Công ty chứng khoán nhưng ở dạng cao hơn. Vì trong hoạt động này, khách hàng ủy thác cho Công ty chứng khoán thay mặt mình quyết định đầu tư theo một chiến lược hay một nguyên tắc đã được khách hàng chấp nhận. Một số bước mà Công ty chứng khoán phải làm khi thực hiện nghiệp vụ này:
Công ty chứng khoán và khách hàng tiếp xúc tìm hiểu khả năng của nhau
Công ty chứng khoán và khách hàng tiến hành ký hợp đồng quản lý. Nội dung hợp đồng phải quy định rõ nhiều yếu tố: số tiền và thời hạn ủy thác, mục tiêu đầu tư, giới hạn quyền và giới hạn trách nhiệm của công ty, phí quản lý mà công ty được hưởng.
Thực hiện hợp đồng quản lý. Nếu có phát sinh ngoài hợp đồng thì công ty phải xin ý kiến của khách hàng bằng văn bản và phải thực hiện theo đúng quyết định của khách hàng.
Khi đến hạn kết thúc hợp đồng hay trong trường hợp công ty bị giải thể, phá sản, ngừng hoạt động … công ty phải cùng với khách hàng bàn bạc và quyết định xem có tiếp tục gia hạn hay thanh lý hợp đồng.
4.6 Các nghiệp vụ khác
4.6.1 Nghiệp vụ tín dụng
Cho vay ký quỹ là hình thức cấp tín dụng của Công ty chứng khoán cho khách hàng của mình để họ mua chứng khoán và sử dụng các chứng khoán đó làm vật thế chấp cho khoản vay đó.
Rủi ro đối với Công ty chứng khoán là chứng khoán thế chấp có thể bi giảm giá tới mức giá trị của chúng thấp hơn giá trị khoản vay ký quỹ. Nghiệp vụ này thường đi kèm với nghiệp vụ môi giới, do vậy quy trình giao dịch về căn bản là giống nhau.
4.6.2 Nghiệp vụ tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính công ty
Hoạt động tư vấn đầu tư là việc cung cấp các thông tin, cách thức, đối tượng chứng khoán, thời hạn, khu vực… và các vấn đề có tính chất quy luật về hoạt động đầu tư chứng khoán.
Ngoài dịch vụ tư vấn dầu tư, các Công ty chứng khoán có thể sử dụng kỹ năng để tư vấn cho các công ty về việc thâu tóm, sáp nhập, tái cơ cấu vốn của công ty để đạt hiệu quả hoạt động tối ưu.
4.6.3 Nghiệp vụ quản lý thu nhập chứng khoán
Nghiệp vụ này của công ty chứng khoán xuất phát từ nghiệp vụ quản lý hộ chứng khoán cho khách hàng. Công ty chứng khoán phải tổ chức theo dõi tình hình thu lãi chứng khoán khi đến hạn để thu hộ rồi gửi báo cáo cho khách hàng. Nhưng thông thường, Công ty chứng khoán thường lưu ký tại trung tâm lưu ký chứng khoán.
Ngoài những nghiệp vụ trên, Công ty chứng khoán còn có thể thực hiện một số hoạt động khác như cho vay chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư, kinh doanh bảo hiểm…
NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1. Hoạt động môi giới của công ty chứng khoán
1.1 Khái niệm môi giới chứng khoán
Hoạt động môi giới nói chung trong các nghành nghề là hoạt động làm trung gian kết nối giữa người mua và người bán nhằm mục đích tạo sự thanh khoản cho hàng hóa và để thu phí giao dịch. Vì thế hoạt động môi giới chứng khoán cũng không nằm ngoài quy luật đó. Có thể định nghĩa hoạt động môi giới chứng khoán như sau: môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh chứng khoán trong đó một công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch cơ chế giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán hay thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó.Như vậy thực chất của hoạt động môi giới là thực hiện mua bán hộ cho khách hàng thông qua việc thu phí giao dịch.
Đặc điểm của nghề môi giới chứng khoán:
- Nghề môi giới là một nghề đòi hỏi lao động cật lực và phải được trả thù lao xứng đáng. Nghề môi giới có thể nói không biết trước được thời gian làm việc, bởi vì nếu nhà đầu tư có yêu cầu gặp gỡ thì nhà môi giới cũng phải bố trí thời gian để gặp gỡ. Buổi gặp gỡ có thể diễn ra tại công ty hay tại nhà của khách hàng nhưng cũng có thể diễn ra tại các quán cafê, quán ăn.Và trong mọi hoàn cảnh thì nhà đầu tư vẫn phải tìm ra cách giao tiếp thích hợp nhất để có thể lôi kéo được khách hàng và như vậy nhà môi giới yêu cầu được trả thù lao xứng đáng phù hợp với công sức mà họ bỏ ra.
- Nghề môi giới chứng khoán đòi hỏi người môi giới cần có những phẩm chất như: kiên nhẫn, giỏi phân tích tâm lý và ứng xử trong các cuộc tiếp xúc với các nhà đầu tư tiềm năng.
- Với nghề môi giới chứng khoán thì nỗ lực cá nhân là yếu tố quyết định, đồng thời không thể thiếu sự hỗ trợ của các công ty trong việc cung cấp thông tin và kết quả phân tích cũng như việc thực hiện các lệnh của khách hàng.
1.2 Phân loại môi giới chứng khoán
Nhà môi giới trên thị trường chứng khoán có hai loại: Những nhà trung gian môi giới mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng (họ là nhân viên của một công ty chứng khoán) và nhà môi giới hoạt động độc lập không thuộc một công ty chứng khoán nào
Môi giới giao dịch: Đó là thành viên của một công ty chứng khoán thành viên của một sở giao dịch. Họ làm việc và hưởng lương của CTCK và được bố trí để thực hiện các lệnh mua bán cho các lệnh mua bán cho các CTCK hay khách hàng của công ty trên sàn giao dịch. Các lệnh mua bán được chuyển đến cho các nhà môi giới thừa hành và có thể là từ văn phòng công ty hay cũng có thể từ các môi giới đại diện.
Môi giới độc lập hay “môi giới hai đô la” : Chính là các nhà môi giới làm việc cho chính họ và hưởng hoa hồng theo dịch vụ. Họ là thành viên tự bỏ tiền ra thuê chỗ tại sở giao dịch (sàn giao dịch) giống như các Công ty chứng khoán thành viên khác của Sở giao dịch chứng khoán. Sở dĩ có điều này là vì tại các sở giao dịch nhộn nhịp, lượng lệnh phải giải quyết cho khách hàng của một Công ty chứng khoán gửi tới nhiều lúc quá tải mà các nhân viên môi giới của Công ty này không thể làm xuể, hoặc vì lý do nào đó vắng mặt. Lúc đó Công ty chứng khoán sẽ “hợp đồng” với các nhà môi giới độc lập để thực hiện lệnh cho khách hàng của mình và trả cho loại môi giới này một khoản tiền nhất định. Các nhà môi giới độc lập được trả cứ hai đô la cho một lô tròn chứng khoán (100 cổ phiếu) nên người ta gọi quen thành “môi giới hai đô la”.
Nhà tạo lập thị trường :Nhà tạo lập thị trường theo nghĩa hiểu thì đó là “những người luôn thực hiện những giao dich mua đi bán lại cho một hoặc một số loại thị trường nhằm mục đích tạo tính thanh khoản cho loại chứng khoán đó”.
Hiện nay ở Việt Nam chỉ tồn tại một loại nhà môi giới là môi giới uỷ nhiệm hay môi giới thừa hành. Các nhà môi giới này trực thuộc một công ty chứng khoán. Một nhân viên của công ty chứng khoán muốn trở thành một nhân viên kinh doanh chứng khoán thì họ phải cú chứng chỉ hành nghề do UBCKNN cấp nếu có đủ các điều kiện sau:
Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không thuộc trường hợp đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị Toà án cấm hành nghề kinh doanh;
Có trình độ đại học; có trình độ chuyên môn về chứng khoán và thị trường chứng khoán;
Đạt yêu cầu trong kỳ thi sát hạch do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước tổ chức; đối với người nước ngoài có chứng chỉ chuyên môn về thị trường chứng khoán hoặc những người đã hành nghề chứng khoán hợp pháp ở nước ngoài thì chỉ cần thi sát hạch pháp luật về chứng khoán của Việt Nam.
2. Nội dung chủ yếu của hoạt động môi giới chứng khoán
Nghề môi giới chứng khoán được xem như một sản phẩm của TTCK và ra đời dựa trên nguyên tắc trung gian của TTCK. Với tư cách là một hoạt động tác nghiệp, hoạt động môi giới chứng khoán thể hiện rõ vai trò của mình thông qua những hoạt động chủ yếu sau:
2.1 Thực hiện giao dịch theo yêu cầu của khách hàng
Theo quy trình, nhà đầu tư sẽ gửi lệnh mua hoặc bán chứng khoán của mình tới Công ty chứng khoán, nhân viên môi giới chứng khoán sẽ nhập lệnh vào hệ thống máy tính, đã được nối mạng với Trung tâm giao dịch chứng khoán hoặc Sở giao dịch chứng khoán. Tại đó, hệ thống kỹ thuật sẽ tự so khớp lệnh để tìm đối tác thích hợp cho các nhà đầu tư. Sau đó, giao dịch của khách hàng được thực hiện và Công ty chứng khoán sẽ hạch toán tiền và chứng khoán trên hệ thống tài khoản mà khách hàng mở tại công ty khi kết thúc phiên giao dịch.Mọi công tác hạch toán đều thực hiện dưới dạng bút toán ghi sổ thông qua trung tâm thanh toán và bù trừ chứng khoán. Tuy nhiên, hoạt động môi giới không chỉ dừng lại ở mức độ thực hiện giao dịch theo lệnh của khách hàng mà kèm theo đó là những dịch vụ tư vấn, về đầu tư cũng như là tư vấn chung.
2.2 Cung cấp sản phẩm và dịch vụ tài chính
Như chúng ta đã biết, Công ty chứng khoán là nơi được trang bị đầy đủ về cơ sở vật chất, con người và khung pháp lý để giao dịch của khách hàng được thực hiện một cách chính xác và hiệu quả. Do đó, trong quá trình sử dụng dịch vụ môi giới chứng khoán, các nhà đầu tư được hưởng các dịch vụ về tài chính do Công ty chứng khoán cung cấp.
Hiện nay, hoạt động môi giới tại các Công ty chứng khoán đã đạt đến trình độ “bán hàng tư vấn”. Sau quá trình giao dịch của khách hàng được thực hiện xong, nhân viên tư vấn sẽ tiếp tục chăm sóc tài khoản của khách hàng có tại Công ty chứng khoán, đồng thời đem lại những thông tin cũng như những khuyến cáo về biến động của nền kinh tế đến khách hàng nếu những biến động đó ảnh hưởng không tốt đến tình hình tài chính hay thái độ đầu tư của khách hàng. Từ đó đề xuất những giải pháp gỡ rối cho khách hàng.
2.3 Tư vấn khách hàng và cung cấp thông tin
TTCK ngày càng phát triển thì chất lượng của hoạt động môi giới chứng khoán ngày càng nâng cao, đặc biệt trong mảng tư vấn cho khách hàng. Việc thu thập và xử lý thông tin để lập báo cáo đòi hỏi những khoản đầu tư rất lớn về người và của do đó chỉ có các Công ty chứng khoán mới có khả năng tài chính để trang trải. Những báo cáo này bao gồm:
Phân tích diễn biến tổng thể thị trường
Phân tích động thái của từng khu vực riêng biệt trong thị trường đó.
Phân tích hoạt động của công ty trong từng khu vực
Theo từng yêu cầu cụ thể, nhân viên môi giới sẽ sử dụng những thông tin kèm theo tư vấn để cung cấp cho nhà đầu tư. Những TTCK phát triển, nhân viên môi giới luôn là những người đầu tiên đón nhận thông tin mới nhất từ khắp nơi về lãi suất, thị trường và những thông tin khác liên quan đến cổ phiếu và quyền lợi của khách hàng. Nếu không có nhân viên môi giới, nhà đầu tư sẽ phụ thuộc vào nguồn thông tin đại chúng qua các báo cáo định kỳ về loại cổ phiếu mà mình đang nắm. Nguồn thông tin đó có thể không cân xứng làm ảnh hưởng lớn đến quyết định của nhà đầu tư. Chính vì lẽ đó, nhân viên môi giới trở thành nhà tư vấn tài chính chuyên biệt cho khách hàng khi có đầy đủ thông tin, luôn cập nhật và xử lý công phu.
Khi đầu tư, điều mà khách hàng luôn đặt kỳ vọng vào nhân viên môi giới tư vấn: thời điểm mua – thời điểm bán – diễn biến thị trường. Đưa lời khuyên mua chứng khoán nào không phải việc khó nhất, điều khó nhất chính là khuyến nghị nên bán cái già và bán vào thời điểm nào. Nhân viên môi giới sẽ nghiên cứu các thông số tài chính cá nhân của khách hàng: tỷ lệ lợi tức yêu cầu, mức độ chấp nhận rủi ro… hay các chỉ số kỹ thuật như P/E, giá cả… của từng loại chứng khoán, diễn biến thị trường và dự đoán xu thế sắp tới. Bên cạnh đó, nhân viên môi giới còn phải tìm ra tỉ lệ phân bổ tài sản của khách hàng cho từng loại chứng khoán, tức là danh mục đầu tư tối ưu của từng khách hàng.
2.4 Cải thiện môi trường kinh doanh
2.4.1 Tăng chất lượng và hiệu quả dịch vụ nhờ cạnh tranh
Người ta đánh giá sự thành công của nghề môi giới thông qua số lượng khách hàng và số lượng tài khoản có được tại các Công ty chứng khoán. Do yêu cầu đó, nhân viên môi giới luôn phải trau dồi kiến thức, cập nhật thông tin, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ và chất lượng sản phẩm. Đổi mới và tạo những nét khác biệt trong cung cấp dịch vụ là cách mà nhân viên môi giới thu hút khách hàng. Chính sự cạnh tranh đó, nghề môi giới ngày càng phát triển, chất lượng dịch vụ ngày càng nâng cao và nhà đầu tư ngày càng hưởng nhiều lợi ích hơn.
2.4.2 Hình thành dịch vụ mới và phong phú hơn thị trường
Nhằm đạt được mục tiêu là ngày càng đem đến cho khách hàng những dịch vụ tài chính tốt nhất, Công ty chứng khoán luôn cố gắng phát triển đội ngũ nhân viên môi giới cả về số lượng lẫn chất lượng. Nhưng một bộ phận không thể làm tốt công việc của mình nếu như không có sự hỗ trợ từ các bộ phận có liên quan khác như phân tích, giao dịch… Vòng tròn hỗ trợ đó tạo thành một bộ máy hoàn chỉnh, hiệu quả và chuyên nghiệp, do đó tạo ra nhiều dịch vụ mới. Để giúp đội ngũ môi giới có cơ sở khách hàng ngày càng phong phú, dịch vụ nghiên cứu thị trường được hình thành nhằm phân loại khách hàng theo tiêu chí mà nhân viên môi giới yêu cầu.
2.4.3 Góp phần hình thành nền văn hoá đầu tư
Không những giảm chi phí giao dịch cũng như phát triển các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng, hoạt động môi giới còn đóng góp sức mình trong việc hình thành nền văn hoá đầu tư, thông qua những đặc trưng chủ yếu sau:
Ý thức và thói quen đầu tư trong._. cộng đồng
Khi TTCK phát triển, người có tài chính phần lớn lại chưa hiểu biết nhiều về thị trường và cách đầu tư trên thị trường nên trở thành khách hàng tiềm năng của các Công ty chứng khoán. Khi đó, nhân viên môi giới có trách nhiệm tư vấn cho khách hàng để họ có cơ hội đầu tư và hưởng các dịch vụ đi kèm. Người có tiền hiện nay sẽ ưu tiên đầu tư vào thị trường tài chính. Cho nên nhân viên môi giới sẽ đảm nhận công việc trang bị kiến thức, kỹ năng đầu tư trên thị trường, lựa chọn sản phẩm phù hợp mức độ tài chính và mức độ chấp nhận rủi ro của khách hàng. Qua đó, nhà đầu tư được trang bị các kỹ năng cần thiết để có thể đầu tư. Trong nền kinh tế hiện nay, việc đầu tư tiền dư thừa vào các tài sản tài chính trở thành thói quen và cách cư xử chung của cả cộng đồng; đó là một phần quan trọng của nền văn hoá đầu tư.
Tạo thói quen và kĩ năng sử dụng các dịch vụ tài chính, đặc biệt là dịch vụ môi giới
Tự nhà đầu tư có thể đánh giá được những lợi ích mà dịch vụ mang lại qua đó nhà đầu tư sẽ tin tưởng vào nhân viên môi giới và chấp nhận trả phí để hưởg những lợi ích đó. Trong quá trình hợp tác, nhà đầu tư sẽ nhân thấy nhân viên môi giới nào hợp với mình, từ đó có thể tự phòng ngừa những hành vi liên quan đến đạo đứa nghề nghiệp. Đồng thời xác định được nguyên nhân và phân loại được rủi ro đẻ không quy kết trách nhiệm bớt hợp lý cho nhân viên môi giới. Đây là kết quả của quá trình hoạt động lâu dài cũng là điều kiện để nghề môi giới ngày càng phát triển.
Môi trường pháp lý, sự hiểu biết và tuân thủ phát luật
Hoạt động môi giới là nơi thể hiện rõ nhất những xung đột lợi ích giữa các bên tham gia thị trường do đó, đã góp phần hoàn thiện khung pháp lý trong kinh doanh chứng khoán. Khi hệ thống pháp lý không đủ chặt chẽ và hiệu lực thì sẽ không thể giải quyết triệt để những mâu thuẫn trong thị trường dẫn đến đổ vỡ thị trường. Đồng thời hoạt động môi giới đã góp phần đưa pháp luật đến gần hơn với công chúng đầu tư, vừa giúp nhà đầu tư vừa giúp chính nhân viên môi giới nâng cao ý thức tìm hiểu và chấp hành pháp luật, ngày một điều chỉnh những bất cập trong hệ thống pháp lý về TTCK.
3. Quy trình nghiệp vụ hoạt động môi giới
3.1 Quy trình giao dịch của khách hàng trên TTCK
Khách hàng khi tham gia vào TTCK thì nhất thiết phải tuân thủ các nguyên tắc của thị trường. TTCK là một thị trường tài chính bậc cao với các sản phẩm mang tính chất đặc biệt đó là các sản phẩm tài chính. Vì thế nhà đầu tư muốn tham gia trên thị trường đều phải thực hiện với một quy trình riêng biệt. Quy trình đó bao gồm có các bước sau:
Bước 1: Mở tài khoản cho khách hàng
Trước khi thực hiện mua bán chưng khoán qua hoạt động môi giới thì khách hàng phải mở tài khoản giao dịch tại công ty. Khách hàng sẽ được các nhân viên môi giới hướng dẫn các thủ tục mở tài khoản tại chính Công ty chứng khoán mà nhân viên môi giới đang làm việc. Có thể kháo quát quy trình mở tài khoản của khách hàng bao gồm các bước sau:
+ Bước 1: Nhân viên môi giới gặp gỡ khách hàng mở tài khoản.
+ Bước 2: Nhân viên môi giới khách hàng điền vào Giấy yêu cầu mở tài khoản và ký hợp đồng giao dịch, sao chụp giấy chứng minh thư nhân dân hoặc hộ chiếu, giấy đăng ký kinh doanh đối với khách hàng là tổ chức, kiểm tra sự khớp đúng và tính hợp lệ.
+ Bước 3: Nhân viên môi giới cấp số hợp đồng, số tài khoản và thẻ giao dịch.
+ Bước 4: Tập hợp hồ sơ khách hàng (Hợp đồng, Giấy yêu cầu mở tài khoản, bản sao Giấy CMND, thẻ giao dịch).
+ Bước 5: Phó trưởng phòng môi giới kiểm soát và ký;
+ Bước 6: Trưởng phòng môi giới kiểm tra, ký duyệt Giấy yêu cầu mở tài khoản và Hợp đồng;
+ Bước 7: Nhân viên môi giới chuyển thẻ tài khoản, Hợp đồng cho khách hàng;
+ Bước 8: Nhân viên môi giới lưu hồ sơ của khách hàng và khai báo trên hệ thồng máy nội bộ.
Sau khi giúp khách hàng mở hợp đông giao dịch chứng khoán, nhân viên môi giới hướng dẫn nhà đầu tư nộp tiền ký quỹ và giải đáp các thắc mắc cũng như những yêu cầu của khách hàng.
Bước 2: Nhận lệnh của khách hàng
Khi nhận lệnh của khách hàng, nhân viên môi giới có trách nhiệm kiểm tra số dư tài khoản tiền và chứng khoán cho khách hàng để xem nhà đầu tư có đặt mua bán vượt quá số tiền hay số chứng khoán mình có hay không. Nếu phiếu lệnh hợp lệ, nhân viên môi giới có trách nhiệm nhập lệnh của khách hàng vào hệ thống giao dịch của thị trường. Trong trường hợp lệnh của khách hàng không nhập kịp trong đợt giao dịch thì phải thông báo cho khách hàng và trả lại phiếu lệnh cho khách hàng.
Ngoài việc nhận lệnh trực tiếp từ khách hàng, nhân viên môi giới còn nhận lệnh của khách hàng qua điện thoại, fax, hay hệ thồng máy điện tử. Tuỳ thuộc vào sự phát triển của thị trường.
Bước 3: Thực hiện lệnh của khách hàng
Khi phiếu lệnh được kiểm tra hợp lệ và nhập thành công vào hệ thống máy nội bộ của công ty thì nhân viên môi giới có trách nhiệm thực hiện lệnh của khách hàng vào hệ thống của thị trường.
Trên thị trường giao dịch tập trung, lệnh giao dịch của khách hàng được chuyển đến Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán. Các lệnh được khớp với nhau để hình thành giá cả cạnh tranh tốt nhất trên thị trường tuỳ theo phương thức khớp giá của thị trường. Trên thị trường OTC cũng thực hiện tương tự.
Bước 4: Xác nhận kết quả thực hiện lệnh
Sau khi thực hiện nhập lệnh xong, trên cơ sở số lệnh được khớp do Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán chuyển tới, Công ty chứng khoán trách nhiệm lập thông báo kết quả giao dịch và gửi tới khách hàng.
Đối với các thị trường phát triển, khớp lệnh liên tục thì việc xác nhận giao dịch được thực hiện qua máy móc và việc nay được bù trừ liên tục trên tài khoản của khách hàng. Nhưng đối với các thị trường chưa phát triển, còn non kém mới hình thành như Việt Nam thì quá trình giao dịch chỉ hoàn tất trong một ngày T + n ( trong đó T là ngày giao dịch còn n là ngày thanh toán, ở Việt Nam n = 3) vì vậy khách hàng có thể biêt được việc chứng khoán mình mua được sẽ về trong bao nhiêu ngày và việc mình bán chứng khoán thì tiền bán sẽ về tài khoản mình trong bao nhiêu ngày.
Bước 5: Thực hiện thanh toán bù trừ giao dịch
Sau khi hoàn tất việc giao dịch được thực hiện thì sẽ bắt đầu việc thanh toán giao dịch. Việc đối chiếu lệnh của khách hàng và lệnh khớp nếu trùng nhau thì:
+ Với việc hạch toán tiền mặt mua bán chứng khoán khách hàng sẽ được thông qua Ngân hàng chỉ định thanh toán, nếu Công ty chứng khoán nào có Ngân hàng mẹ thì thường thanh toán qua Ngân hàng đó luôn.Việc phải thanh toán tiền mua bán chứng khoán cộng với một khoản phí giao dịch và hạch toán sẽ được thực hiện trực tiếp trên tài khoản của khách hàng. Nếu là thị trường khớp lệnh liên tục thì quá trình hạch toán diễn ra liên tục và số dư tiền mặt trên tài khoản của khách hàng vì thế cũng thay đổi liên tục
+ Với việc hạch toán chứng khoán sẽ được thông qua Trung tâm lưu kí chứng khoán. Việc chuyển đổi chứng khoán sở hữu ( mà ở đây chủ yếu là chứng khoán ghi sổ) sẽ được Trung tâm lưu ký chuyển đổi giữa các tài khoản với nhau theo hình thức thanh toán bù trừ đa phương hoặc song phương.
3.2 Quy trình môi giới khi đại diện cho khách hàng thực hiện giao dịch
- Bước 1: Nhân viên môi giới nhận lệnh từ khách hàng theo các hình thức: nhận lệnh trực tiếp tại công ty, từ các đại lý hoặc nhận lệnh từ xa qua Fax hoặc qua điện thoại.
- Bước 2: Nhân viên môi giới ghi số lệnh, giờ nhận lệnh. Sau đó nhập lệnh vào hệ thống BOSC, đối chiếu thông tin về khách hàng và kiểm tra số dư.
- Bước 3: Nhân viên môi giới duyệt lệnh theo hình thức uỷ quyền.
- Bước 4: Trưởng hoặc phó phòng duyệt lệnh vượt mức uỷ quyền cho nhân viên môi giới.
- Bước 5: Nhân viên môi giới truyền lệnh đến đại diện giao dịch của công ty tại sàn.
- Bước 6: Đại diện giao dịch nhận lệnh và nhập vào hệ thống của Trung tâm Giao dịch chứng khoán.
- Bước 7: Nhân viên môi giới lập xác nhận kết quả khớp lệnh, Thông báo kết quả giao dịch trình Phó trưởng phòng kiểm soát.
- Bước 8: Trưởng phòng ký duyệt Xác nhận kết quả khớp lệnh và thông báo kết quả giao dịch.
Trong quá trình thực hiện giao dịch nhập lệnh thay khách hàng, nhân viên môi giới cần chú ý:
- Lệnh của khách hàng không khớp trong đợt giao dịch trước sẽ được hệ thống của TTGDCK tự động chuyển sang đợt tiếp theo cùng ngày nếu lệnh đó khách hàng không thực hiện lệnh huỷ (trừ lệnh ATO).
- Đối với lệnh huỷ, nhân viên môi giới đối chiếu với lệnh gốc và thực hiện huỷ lệnh trong hệ thống Ibroker nếu lệnh đó chưa được khớp hoặc chưa được nhập lệnh vào TTGDCK và nhân viên phải thông báo cho đại diện giao dịch để thực hiên huỷ lệnh tại hệ thống của Trung tâm giao dịch chứng khoán hoặc Sở giao dịch chứng khoán.
III. CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt động môi giới
Một Công ty chứng khoán không chỉ đánh giá những lợi ích hiện tại mà hoạt động môi giới đem lại cho công ty mà còn phải xem xét và đánh giá tiềm năng phát triển trong tương lai của nó. Đối với Công ty chứng khoán, đánh giá chất lượng hoạt động môi giới nhằm phát triển và ngày một hoàn thiện nó, đồng thời thoả mãn lợi ích của khách hàng cũng như vai trò của nó trong nền kinh tế. Vì vậy, các chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt động môi giới sẽ gồm những chỉ tiêu xét trên lợi ích mà Công ty chứng khoán đạt được từ hoạt động môi giới cũng như những chỉ tiêu phản ánh lợi ích mà hoạt động môi giới chứng khoán đem lại cho khách hàng cũng như nền kinh tế.
Hiện nay, Việt Nam chưa thống kê và công bố hệ thống chỉ tiêu nhất quán, phản ánh và đánh giá được chất lượng hoạt động môi giới. Nhưng theo những tìm hiểu của cá nhân mang tính chủ quan, chất lượng hoạt động môi giới chứng khoán bao gồm:
1.1 Chỉ tiêu định tính
Chỉ tiêu định tính không thể cân đong đo đếm được, do đó được thể hiện thông qua tính chuyên nghiệp, khả năng hoạt động và sự tác động của hoạt động môi giới tới các hoạt động khác.
Tính chuyên nghiệp của các sản phẩm dịch vụ
Với trình độ kỹ thuật ngày càng tiên tiến, các Công ty chứng khoán ngày càng vươn tới việc cung cấp cho khách hàng những dịch vụ hoàn hảo, những dịch vụ trọn gói như:cung cấp kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá và đưa ra những tư vấn mang tính tối ưu, theo dõi sát sao tài khoản của khách hàng và đưa đến những khuyến cáo nhanh và cần thiết nhất. Tuy nhhiên cũng có Công ty chứng khoán chỉ đơn thuần thực hiện lệnh mua, bán chứng khoán để thu phí giao dịch như một khoản hoa hồng nhỏ. Những điều đó phản ánh tính chuyên nghiệp của mỗi Công ty chứng khoán trong hoạt động môi giới.
Khả năng hoạt động:
Các Công ty chứng khoán có thể cung cấp dịch vụ và thoả mãn những đối tượng khách hàng nào, tính chuyên nghiệp của nhân viên môi giới, số lượng khách hàng mà mỗi nhân viên môi giới có thể quan tâm thực sự, quy mô sàn giao dịch của công ty, công nghệ cũng như cơ sở vật chất kỹ thuật phản ánh khả năng hoạt động của một Công ty chứng khoán.
Mức độ tác động của hoạt động môi giới tới các hoạt động khác:
Hoạt động môi giới không thể phát triển tốt nếu đứng riêng lẻ một mình. Khi hoạt động môi giới hoạt động với chất lượng tốt sẽ kéo theo các hoạt động phân tích chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký chứng khoán…phát triển và ngược lại. Bởi vì những hoạt động đó thực hiện một số nghiệp vụ nhằm bổ trợ cho hoạt động môi giới, giúp cho sản phẩm của hoạt động môi giới hoàn thiện hơn.
1.2 Chỉ số định lượng
Chỉ số định lượng là những thông số có thể tính toán cụ thể để so sánh và đánh giá chất lượng hoạt động môi giới thông qua những kết quả cụ thể.
- Doanh số từ hoạt động môi giới
Doanh số từ hoạt động môi giới: là tổng giá trị giao dịch khớp lệnh tại một Công ty chứng khoán.
Doanh số từ hoạt động môi giới nếu tăng lên qua các năm thể hiện quy mô hoạt động môi giới tăng lên, điều đó cho thấy hoạt động môi giới đang trong giai đoạn phát triển và đang được mở rộng. Điều đó cũng phản ánh cho thấy chất lượng hoạt động môi giới được nâng cao. Tuy nhiên cần phải kết hợp phân tích các chỉ tiêu khác để đảm bảo việc ra quyết định chính xác.
Doanh thu từ hoạt động môi giới
Doanh thu từ hoạt động môi giới là tổng giá trị mà Công ty chứng khoán thu được từ phí môi giới mà khách hàng trả khi sử dụng các sản phẩm dịch vụ của hoạt động môi giới của công ty.
Doanh thu từ hoạt động môi giới được phân tích và tính toán trên số tuyệt đối. Nhưng nó còn được xem xét trong mối tương quan với doanh thu của các hoạt động có liên quan, cũng như trong tổng doanh thu của công ty. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời cũng như vị trí của hoạt động môi giới trong Công ty chứng khoán. Chỉ tiêu này được tính như sau:
Tỷ trọng doanh thu từ hoạt động môi giới
Doanh thu từ hoạt động môi giới
Tổng doanh thu
Biểu phí môi giới cạnh tranh
Một trong những yếu tố ảnh hưởng đến doanh thu của Công ty chứng khoán cũng như quyết định hợp tác của khách hàng chính là mức phí giao dịch và cung cấp các dịch vụ. Một biểu phí cao hơn tương đối so với các Công ty chứng khoán khác sẽ làm giảm đáng kể tính cạnh tranh của hoạt động môi giới chứng khoán và làm giảm quy mô khách hàng cũng như lãi thu được từ hoạt động môi giới của Công ty chứng khoán.
Chỉ tiêu chi phí từ hoạt động môi giới
Công ty chứng khoán muốn cung cấp các dịch vụ đến khách hàng thì cần bỏ ra một khoản vốn để thực hiện việc cung cấp các sản phẩm đó. Chi phí từ hoạt động môi giới phản ánh số tiền mà công ty đã chi trả cho hoạt động môi giới. Quan trọng hơn, chỉ tiêu này cho thấy mức độ hiệu quả của hoạt động môi giới. Nếu chi phí cho hoạt động này mà lớn thì hoạt động môi giới là không hiệu quả.
Lãi thu được từ hoạt động môi giới
Lãi thu từ hoạt động môi giới là phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí đã bỏ ra trong hoạt động môi giới để đạt được doanh thu đó. Công thức như sau:
Lãi từ hoạt động môi giới = Doanh thu từ hoạt động môi giới – Chi phí từ hoạt động môi giới
Chỉ tiêu trên phản ánh khả năng sinh lời của hoạt động môi giới, là chỉ tiêu rất quan trọng trong việc đánh giá chất lượng hoạt động môi giới.
Tài sản đảm bảo
Là số dư tiền và số dư chứng khoản phù hợp với yêu cầu về giao dịch đảm bảo cũng như yêu cầu về an toàn cho Công ty chứng khoán mà không gây thiệt hại quá lớn cho khách hàng. Chỉ tiêu đó được công bố sẽ tăng độ an toàn cho khách hàng và không làm giảm tính cạnh tranh, hấp dẫn của dịch vụ môi giới của Công ty chứng khoán.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động môi giới của các Công ty chứng khoán
Môi giới chứng khoán là một trong những hoạt động của Công ty chứng khoán nên nó hoạt động trong mối quan hệ mật thiết và tương hỗ với các hoạt động khác cũng như các chủ thể khác nhau trên thị trường. Do vậy, chất lượng của hoạt động môi giới chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố, bao gồm các nhân tố chủ quan và khách quan.
2.1 Các nhân tố chủ quan
Nhân tố chủ quan là nhân tố mang tính nội tại từ bản chất của hoạt động môi giới, đây là nhân tố chính có ảnh hưởng lớn tới chất lượng hoạt động môi giới nói riêng và hiệu quả hoạt động của Công ty chứng khoán nói chung. Nhân tố này bao gồm các yếu tố:
Uy tín và quy mô hoạt động của công ty:
Uy tín và quy mô hoạt động của công ty là yếu tố có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng hoạt động môi giới. Uy tín công ty là tài sản vô hình, là yếu tố mang tính cạnh tranh giữa công ty này với công ty khác. Đặc biệt là trong cách nhìn của các nhà đầu tư mới tham gia vào thị trường, họ luôn đặt lòng tin của mình vào các công ty có uy tín để được tư vấn cho các quyết định đầu tư của mình nhằm đạt được an toàn và hiệu quả nhất. Điều mâu thuẫn mà các nhà đầu tư luôn gặp phải đó là lợi nhuận đạt được cũng như độ an toàn và chi phí. Tuy nhiên, nếu Công ty chứng khoán nào giúp nhà đầu tư kiếm được nhiều lợi nhuận hơn thì họ sẽ chấp nhận tiền phí môi giới cao hơn.
Quy mô của công ty phụ thuộc vào quy mô về vốn và bề dày hoạt động của nó. Đối với một số công ty thì bề dày hoạt động và quy mô lớn đã tạo ra được uy tín cho công ty.
Chiến lược kinh doanh của công ty
Hoạt động môi giới là một trong những hoạt động của công ty nên nó cũng nằm trong chiến lược kinh doanh chung của công ty. Chiến lược kinh doanh của công ty là những kế hoạch dài hạn mà công ty đề ra nhằm thực hiện những mục tiêu mà công ty đang hướng tới. Những mục tiêu đó có sát với khả năng thực tế của công ty hay không, kế hoạch đề ra có đúng hướng hay không, có phù hợp với hoàn cảnh hay không,… Nếu trong chiến lược chung đó, công ty không chú trọng đến hoạt động môi giới hoặc chưa đặt hoạt động môi giới trong mối quan hệ với các hoạt động khác thì chất lượng hoạt động môi giới của công ty sẽ không cao. Đồng thời cách thức thực hiện các chiến lược khác nhau hay con đường để đạt được mục tiêu là khác nhau thì kết quả cũng khác nhau.
Hệ thống thông tin và việc phân tích:
Thông tin luôn là vấn đề đặc biệt quan trọng trong TTCK. Hệ thống thông tin là toàn bộ những dữ liệu thông tin mà công ty thu thập được từ nhiều nguồn khác nhau. Hệ thống thông tin này sau khi đã được phân tích rất có ý nghĩa trong hoạt động tư vấn và môi giới cho khách hàng. Những thông tin càng chính xác, hợp pháp và cập nhật liên tục sẽ đem lại độ tin cậy cho khách hàng khi nhân viên môi giới sử dụng để tư vấn.
Để hệ thống thông tin đạt hiệu quả thì mọi khâu trong nó đều phải đạt hiệu quả, đặc biệt là khâu thu thập và xử lý thông tin. Đầu não của hệ thống thông tin chính là bộ phận xử lý thông tin. Bộ phận này gồm yếu tố con người và trang thiết bị kỹ thuật phục vụ. Yếu tố con người càng chất lượng, trang thiết bị kỹ thuật càng hiện đại thì nguồn thông tin đầu và cuối mà các Công ty chứng khoán có được càng đảm bảo có chất lượng cao.
Cơ sở vật chất kỹ thuật:
Các Công ty chứng khoán trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật càng hiện đại, càng công nghệ cao thì thông tin càng được xử lý nhanh nhạy, hiệu quả cũng như việc thực hiện yêu cầu của khách hàng dễ dàng, chính xác và tiết kiệm thời gian.
Mô hình tổ chức và cách thức quản lý:
Căn cứ vào khả năng huy động vốn và hình thức sở hữu của công ty mà quyết định tổ chức công ty theo hình thứ TNHH hay cổ phần. Việc công ty hoạt động theo một mô hình nào có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của công ty và cách thức tổ chức hoạt động và quản lý các phòng ban là khác nhau. Mô hình tổ chức phải phù hợp với các hoạt động khác của công ty. Những yếu tố cần thiết mà mô hình công ty phải thoả mãn là: tính đơn giản, gọn nhẹ nhưng hoạt động hiệu quả. Việc tách bạch các phòng ban chức năng vừa tạo ra tính độc lập tương đối giữa các phòng ban với nhau, vừa tạo ra tính tự chủ trong các phòng ban, đồng thời tạo ra tính chuyên môn hoá trong hoạt động tại công ty.
Các sản phẩm dịch vụ môi giới cung cấp cho khách hàng:
Khách hàng sẽ trung thành với các Công ty chứng khoán hơn cũng như Công ty chứng khoán sẽ thu hút thêm một khối lượng khách hàng mới hợp tác cùng công ty nếu các sản phẩm môi giới mà thoả mãn được nhu cầu của khách hàng.
Nhân tố con người:
Trong mọi hoạt động, con người đều là trung tâm của mọi quyết định. Đối với TTCK và đặc biệt là các Công ty chứng khoán chuyên thực hiện nghiệp vụ môi giới, nhân viên môi giới là yếu tố trung tâm của dịch vụ môi giới chứng khoán. Doanh thu, hiệu quả đầu tư của nhà đầu tư phần lớn là nhờ vào tài năng của nhà môi giới chứng khoán. Sự thành công của nhà môi giới góp phần đáng kể trên thị trường cạnh tranh. Tuy nhiên không phải nhà môi giới nào cũng đạt được kết quả cao trong nghề của mình. Nhân tố ảnh hưởng lớn tới hiệu quả hoạt động của nhà môi giới, bao gồm:
+ Thái độ với khách hàng và công việc:
Nhà môi giới luôn có thái độ niềm nở, sẵn sàng giúp đỡ khách hàng sẽ tạo ra được sự tin tưởng nơi khách hàng. Từ đó nhà môi giới có thể gia tăng được số lượng khách hàng.
+Những tri thức nhà nghề:
Môi giới bản chất là bán hàng tư vấn. Tri thức nhà nghề là yếu tố quan trọng trong bán hàng tư vấn. Trong hoạt động môi giới thì đòi hỏi này càng cao. Người môi giới không những phải hiểu nhiều về lĩnh vực mà mình đang làm mà còn phải có tri thức rộng về tất cả các lĩnh vực khác để khi có một sự biến động nhỏ nào trên thị trường…thì họ có thể thu thập, xử lý thông tin một cách nhanh nhất để cung cấp cho khách hàng trong việc gia tăng cơ hội kiếm lời hoặc hạn chế rủi ro có thể xảy ra. Ngoài ra tâm lý của khách hàng luôn muốn tiếp xúc với người hiểu biết nhiều, có thể nói chuyện về các chủ đề họ muốn chia sẻ…
+Năng lực thái độ truyền đạt:
Trong hoạt động môi giới, môi giới không chỉ đòi hỏi ở nhà môi giới những ctri thức nhà nghề mà còn đòi hỏi ở họ năng lực, thái độ truyền đạt. Nếu nhà môi giới có kỹ năng, trình độ chuyên môn tốt nhưng chưa truyền đạt được hết hoặc truyền đạt một cách lộn xộn gây ra sự khó hiểu từ phía người nghe, không được nhà đầu tư hiểu rõ từ nhà môi giới.
+Sự phát triển liên tục kỹ năng cá nhân và nghiệp vụ:
Kỹ năng của con người có được là do quá trình học tập và thời gian rèn luyện không ngừng. Để thích nghi được với sự biến động của thị trường, khối lượng công việc, chất lượng thông tin xử lý đồng thời là sự canh tranh giữa các nhà môi giới với nhau thì nhà môi giới phải liên tục phát triển kỹ năng cá nhân và nghiệp vụ.
+Quan hệ với khách hàng:
Do các nhà đầu tư luôn có thái độ đề phòng người môi giới, do đó Công ty chứng khoán giúp đỡ khách hàng và đặt mục tiêu của khách hàng lên hàng đầu thì nhà đầu tư sẽ tin tưởng vào người môi giới và Công ty chứng khoán hơn. Khi đó khách hàng sẽ tìm đến với công ty nhiều hơn và công ty sẽ thu được nhiều tiền hoa hồng hơn.
2.2 Nhân tố khách quan
Nhân tố khách quan là những nhân tố từ bên ngoài tác động đến tất cả các Công ty chứng khoán và các hoạt động trên TTCK. Nhân tố này bao gồm những yếu tố:
Sự phát triển của nền kinh tế và sự ổn định về chính trị:
Khi hoạt động môi giới chứng khoán phát triển, kéo theo sự đi lên của các Công ty chứng khoán, sự phát triển của TTCK nói riêng, toàn bộ nền kinh tế nói chung và ngược lại. Mặt khác nền chính trị ổn định là một điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư tham gia vào thị trường.
Môi trường pháp lý:
Nhân tố quan trọng trong việc giám sát các hoạt động môi giới và xử lý các tranh chấp có thể xảy ra trong lĩnh vực hoạt động môi giới có liên quan trực tiếp đến lợi ích kinh tế của từng chủ thể tham gia chính là cơ sở pháp lý. Cơ sở pháp lý về đầu tư, về chứng khoán cũng như TTCK càng hoàn thiện và có hiệu lực cao càng thúc đẩy đầu tư và phát triển thị trường.
Yếu tố chính sách:
Chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách thuế thu nhập…mà chính phủ đưa ra đều có thể tạo điều kiện thuận lợi hay hạn chế hoạt động của các chủ thể tham gia trên TTCK. Đặc biệt trong giai đoạn thị trường mới hình thành những chính sách này cực kỳ quan trọng.
Hiệp hội kinh doanh chứng khoán:
Là một tổ chức có chức năng làm cầu nối giữa nhà kinh doanh chứng khoán và các cơ quan quản lý nhà nước; là tiếng nói chung của các nhà kinh doanh chứng khoán với công chúng đầu tư cũng như cơ quan quản lý nhà nước. Ngoài ra, hiệp hội còn có vai trò trong việc đưa ra những ý kiến đóng góp cho việc ban hành những cơ chế chính sách của cơ quan quản lý nhà nước đối với các công ty kinh doanh chứng khoán. Vì vậy, các ý kiến cũng như chính sách hoạt động của hiệp hội đúng đắn và hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho mọi hoạt động của công ty chứng khoán nói chung và hoạt động môi giới nói riêng và ngược lại.
Sự phát triển của TTCK:
TTCK phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển của các Công ty chứng khoán cũng như các hoạt động khác cùng phát triển và ngược lại. TTCK là môi trường hoạt động của các Công ty chứng khoán và hoạt động môi giới cũng nằm trong mối quan hệ đó.
Thị trường cạnh tranh:
Để tồn tại và phát triển mỗi Công ty chứng khoán sẽ đưa ra những loại hình dịch vụ riêng nhằm thu hút khách hàng đến với công ty. Điều đó tác động trực tiếp tới chất lượng dịch vụ, doanh thu, chi phí và lợi nhuận của công ty. Và để đạt được điều đó, các Công ty chứng khoán luôn nằm trong mối quan hệ cạnh tranh lẫn nhau.
Tập quán văn hoá truyền thống:
Dân chúng có kiến thức về chứng khoán thì họ có cái nhìn mới hơn về TTCK, hoạt động môi giới và vai trò của nhà môi giới chứng khoán. Trình độ dân trí cao, người dân hiểu biết rõ nét và sâu sắc hơn về TTCK thì việc tiếp cận và tham gia vào thị trường bậc cao sẽ thuận lợi cho tất cả các phía, thiết lập nên nền văn hoá đầu tư. Qua đó cũng đòi hỏi nhà môi giới về chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm nghề nghiệp của mình.
Mức thu nhập và tiết kiệm của dân cư:
Mức thu nhập và tỷ lệ tiết kiệm trong dân cư mà cao, tức là nhà đầu tư có khả năng tài chính tham gia tích cực trên thị trường, có khả năng mua các dịch vụ mà các Công ty chứng khoán chuyên nghiệp thực hiện nghiệp vụ môi giới cung cấp. Đây là yếu tố không thể thiếu khi xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động môi giới của các Công ty chứng khoán.
Suy cho cùng, có rất nhiều yếu tố tác động tới chất lượng hoạt động môi giới. Do vậy các Công ty chứng khoán cần phải xem xét một cách tổng thể các nhân tố đó để chủ động trong công tác quản lý, tạo điều kiện nâng cao chất lượng hoạt động môi giới một cách thuận lợi và hiệu quả.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN
TẠI CÔNG TY TNHH CHỨNG KHOÁN HABUBANK
I. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY TNHH CHỨNG KHOÁN HABUBANK
1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty
Ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội( HABUBANK) là một trong các Ngân hàng thương mại hàng đầu tại Việt Nam. Năm 2006 là năm mà HABUBANK lần thứ 7 liên tục được Ngân hàng Nhà Nước xếp vào nhóm ngân hàng loại A và được tạp chí “ The Banker ” của Anh trao giải “ Ngân hàng của năm”. Một trong những chiến lược hàng đầu của HABUBAK là đa dạng hoá sản phẩm, mở rộng các dịch vụ ngoài tín dụng trong đó : Kinh doanh chứng khoán vừa tập trung được các yêu cầu hiện tại vừa chuẩn bị được nguồn lực lớn hơn và hướng tới trở thành một tập đoàn tài chính trong những năm tiếp theo.
Việc thành lập công ty chứng khoán đã được HABUBANK quan tâm từ rất sớm và không nằm ngoài chiến lược về mở rộng và đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ của mình. Việc thành lập công ty chứng khoán sẽ cho phép HABUBANK không những giữ vững được số khách hàng hiện có mà còn mở rộng thêm khách hàng mới thông qua những loại hình kinh doanh mà công ty chứng khoán đang được phép thực hiện.
Công ty TNHH chứng khoán NHTMCP Nhà Hà Nội (sau đây gọi tắt là HBBS) được thành lập ngày 04/11/2005 theo quyết định số 14/UBCK – GPHĐKD của chủ tịch UBCKNN.
Tên đầy đủ : Công ty TNHH chứng khoán ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội
Tên tiếng Anh : HABUBANK Securities Company Ltd.
Tên viết tắt : HBBS
Vốn điều lệ : 150 tỷ
Trụ sở chính : 2C Vạn Phúc – Ba Đình – Hà Nội.
Tel : 84.4.7262480 – 7262483
Website : www.habubanksecurities.com.vn
Chính thức đi vào hoạt động từ tháng 4/2006, với mục tiêu trở thành một trong những công ty chứng khoán hàng đầu trên thị trường, cung ứng một cách toàn diện các sản phẩm và dịch vụ có tính sáng tạo cao và mang lại giá trị thực sự cho khách hàng. HBBS đã đầu tư lớn và không ngừng hoàn thiện cơ sở vật chất cũng như đội ngũ cán bộ trong công ty.
Sơ lược quá trình phát triển
- Ngày 03/ 11/ 2005: Chính thức thành lập Công ty chứng khoán NH TMCP Nhà Hà Nội, hoạt động 50 năm có số vốn tối thiểu 20.000.000 đồng
- Ngày 26/05/ 2006: HBBS được bổ sung thêm các loại hình kinh doanh chứng khoán: Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán và Bảo lãnh phát hành chứng khoán.
- Ngày 23/ 12/ 2006: Vốn điều lệ tăng lên 50.000.000 đồng
- Ngày 31/ 12/ 2006: Lợi nhuận trước thuế qua 8 tháng hoạt động (07/ 04/ 2006 đến 31/ 12/ 2006) đạt 18,4 tỷ đồng, vượt 381% so với kế hoạch đã đặt ra.
- Ngày 05/ 01/ 2007: Bảo lãnh phát hành thành công 500 tỷ đồng trái phiếu đợt I, kỳ hạn 5 năm của Vinashin.
- Ngày 05/ 03/ 2007: Bảo lãnh phát hành thành công 500 tỷ VNĐ trái phiếu kỳ hạn 5 năm của Lilama.
- Ngày 13/ 04/ 2007: Phối hợp cùng Deustch Bank hỗ trợ thành công phát hành 3000 tỷ VNĐ trái phiếu kỳ hạn 10 năm của Vinashin. Đây là đợt phát hành có tổng giá trị phát hành lớn nhất.
- Ngày 06/ 06/ 2007: Phối hợp cùng Deustch Bank hỗ trợ thành công phát hành 1000 tỷ trái phiếu kỳ hạn 10 năm của Lilama.
- Ngày 24/ 08/ 2007: Vốn điều lệ của HBBS tăng từ 50 tỷ lên 150 tỷ VNĐ
2. Cơ cấu tổ chức nhân sự của công ty
2.1 Cơ cấu tổ chức của công ty
HBBS được tổ chức theo mô hình công ty TNHH một thành viên với chủ sở hữu duy nhất là Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội, bộ máy lãnh đạo của công ty được phân chia thành : Chủ tịch hội đồng quản trị, giám đốc và ba phó giám đốc, trong đó có một phó giám đốc phụ trách trực tiếp chi nhánh Hồ Chí Minh, hai phó giám đốc ở trụ sở Hà Nội phụ trách các phòng ( Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty được thể hiện qua bảng 1.1)
Công ty có trụ sở chính tại 2C Vạn Phúc, Hà Nội và chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh. Tại 2 địa điểm này, HBBS đều có phòng môi giới, phòng kinh doanh, hành chính tổng hợp và kế toán lưu ký. Trong thời gian sắp tới, để đáp ứng việc triển khai nghiệp vụ kinh doanh công ty sẽ xúc tiến thành lập thêm chi nhánh, phòng giao dịch và đại lý nhận lệnh tại các tỉnh và thành phố trong cả nước.
Biểu 1: Sơ đồ tổ chức
Phã gi¸m ®èc1
Trô së Hµ Néi
Phã gi¸m ®èc 2
Trô së Hµ Néi
Phã gi¸m ®èc 3
Chi nh¸nh TPHCM
Phßng M«i giíi chøng kho¸n
Phßng Kinh doanh
Phòng HCTH& KT lu ký CK
Phßng T vÊn
Phßng ph©n tÝch
Phßng
M«i giíi chøng kho¸n
Phßng HCTH& KT lu ký CK
Phßng Kinh doanh
Gi¸m ®èc c«ng ty
Chñ tÞch c«ng ty
KIÓM TRA,
KIÓM SO¸T Néi bé
Nguồn: Phòng hành chính tổng hợp HBBS
HBBS có các phòng, ban nghiệp vụ như: Phòng tư vấn, phòng phân tích, phòng môi giới, phòng kế toán lưu ký và thanh toán bù trừ, các phòng ban hỗ trợ khác.
Mỗi phòng ban của công ty có nhiệm vụ và chức năng khác nhau mang tính đặc thù nhưng giữa chúng đều có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau cùng phát triển.
Quầy lễ tân
+ Cung cấp bản tin chứng khoán hàng ngày cho nhà đầu tư, giải quyết và giúp đỡ khách hàng khi tới liên hệ và giao dịch
+ Hoàn trả thông báo kết quả giao dịch cho nhà đầu tư trong những ngày giao dịch trước đó.
+ Nhận fax kết quả giao dịch từ Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và chuyển sang cho nhân viên môi giới trả lời kết quả giao dịch cho khách hàng.
+ Trả lời thắc mắc cho khách hàng và thực hiện các nghiệp vụ văn phòng.
Phòng môi giới
Có 14 nhân viên trực tiếp nhập lệnh và 6 nhân viên đ._.ng ta có thể thấy, các dịch vụ do các Công ty chứng khoán cung cấp vẫn còn rất đơn điệu, chủ yếu vẫn là những dịch vụ quen thuộc và chưa có bước đột phá mới, HBBS cũng không nằm ngoài trường hợp đó. Chính vì lẽ đó, HBBS cần nghiên cứu cung cấp các sản phẩm dịch vụ mới mang đặc trưng của công ty, mang tính chất trọn gói cho khách hàng, trên cơ sở các dịch vụ có sẵn như: tư vấn chứng khoán kết hợp với môi giới giao dịch kèm theo các nghiệp vụ phụ trợ như ứng trước tiền bán chứng khoán cho khách hàng, cầm cố chứng khoán niêm yết …
Bên cạnh đó, công ty cần nâng cao tiện ích của các dịch vụ hiện tại như:
- Đối với dịch vụ ứng trước tiền bán chứng khoán: HBBS nên cho phép khách hàng có thể ứng một phần trong tổng số tiền bán chứng khoán thu được theo thông báo kết quả bán chứng khoán của mình chứ không cần thiết phải ứng toàn bộ. Số phí khấu trừ chỉ tính trên số tiền mà khách hàng ứng chứ không tính trên tổng số tiền bán chứng khoán thu được. Bởi vì trong nhiều trường hợp khách hàng chỉ có nhu cầu cần một lượng tiền nhỏ so với tổng số tiền bán chứng khoán thu được nhưng lại phải ứng toàn bộ khoản tiền đó với mức phí ứng cao hơn rất nhiều. Điều đó gây lãng phí khá lớn cho khách hàng bởi tiền phí ứng trước được tính bằng 0,04% tổng số tiền ứng trước.
- Đối với dịch vụ cho vay cầm cố chứng khoán niêm yết, công ty có thể kết hợp với Ngân hàng Habubank nâng hạn mức được vay của khách hàng từ 40% thị giá của chứng khoán lên mức cao hơn như những Công ty chứng khoán có Ngân hàng mẹ khác như: Ngân hàng Nông nghiệp&Phát triển Nông thôn, Ngân hàng TMCP Ngoài quốc doanh (VPBank), mở rộng danh mục chứng khoán được phép cầm cố ở cả Sàn giao dịch thành phố Hồ Chí Minh lẫn Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội…
- Đảm bảo cung cấp đầy đủ bản tin chứng khoán và bản tin 24h hàng ngày cho khách hàng thông qua email, nội dung bản tin được phân tích sát thực hơn, không chỉ bao hàm thông tin cơ bản, nâng cấp hệ thống thông báo kết quả giao dịch và số dư đầu ngày cho khách hàng thông qua tin nhắn SMS, mở rộng hình thức nhận lệnh ngoài 2 hình thức: trực tiếp và qua điện thoại…
Xã hội hiện nay ngày càng phát triển, mức thu nhập ngày càng tăng cao, người dân không còn ăn no, ăn đủ mà còn ngày càng vươn tới ăn chất lượng, ăn ngon. Mong muốn hưởng thụ các dịch vụ chăm sóc khách hàng cũng như thế. TTCK bao gồm rất nhiều thành phần xã hội tham gia, thêm vào đó là mức sống dân cư ngày càng cao như đã đề cập ở trên, do đó khách hàng cũng đòi hỏi những dịch vụ tiện ích mà HBBS cung cấp cho họ cũng có chất lượng cao. Đối với những khách hàng chỉ yêu cầu môi giới chứng khoán, công ty sẽ cung cấp những dịch vụ có giảm giá, nghĩa là chỉ tính phí môi giới giao dịch, nhằm khuyến khích họ giao dịch nhiều hơn. Bên cạnh đó công ty cũng cần thiết kế những sản phẩm dịch vụ mang tính chất trọn gói: bao gồm đầy đủ các sản phẩm phân tích, tư vấn chứng khoán kết hợp với môi giới giao dịch kèm theo các nghiệp vụ phụ trợ như ứng trước tiền bán chứng khoán, cầm cố chứng khoán với tỷ lệ ưu đãi, nhất là khách hàng chiến lược và khách VIP. Mỗi một sản phẩm dịch vụ cung cấp cho khách hàng phải được thiết kế dựa trên nhu cầu của khách hàng và gắn với lợi ích mà khách hàng kỳ vọng mức cao nhất. Khách hàng luôn đòi hỏi khi sử dụng dịch vụ, họ có được những cơ hội đầu tư tốt nhất mà không tốn nhiều chi phí và thời gian để thực hiện. Đôi khi, khách hàng có thể chấp nhận chi phí môi giới giao dịch bỏ ra là lớn hơn nếu họ nhìn thấy mức lợi nhuận họ thu được cao hơn rất nhiều so với chi phó họ bỏ ra. Do vậy một trong những biện pháp kỹ thuật hiện đại mà công ty có thể áp dụng là tạo ra những sản phẩm như giao dịch trực tuyến trên internet, lập kế hoạch đầu tư, quản lý tài sản giúp khách hàng thông qua mạng.... Đối với những khách hàng là tổ chức, công ty cần có những dịch vụ hỗ trợ khách hàng như: phát hiện cơ hội đầu tư, phân tích đánh giá cơ hội đầu tư, lên chiến lược mua bán, thực hiện mua bán lô lớn, đánh giá các cổ phiếu mới phát hành và thực hiện giao dịch với giá tốt nhất.
3. Hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật
Cở sở vật chất kỹ thuật là một trong những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao năng lực phục vụ, giảm chi phí và tăng cường hình ảnh, uy tín cho nghề môi giới chứng khoán. Trong điều kiện thị trường ngày càng phát triển, số lượng các chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoán ngày càng đông, nên việc nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ phải được tiến hành nhanh chóng, đảm bảo việc giao dịch của khách hàng được kịp thời và chính xác. Do đặc điểm của hoạt động môi giới, các Công ty chứng khoán phải đảm bảo các điều kiện vật chất bao gồm địa điểm, hệ thống máy móc, thiết bị nối mạng với sàn giao dịch, bảng chiếu…Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cung cấp cho nhà môi giới thông tin nhanh, chính xác. Song, hiện đại hóa cơ sở vật chất cần được thực hiện từng bước phù hợp với sự phát triển của thị trường…
Với thực trạng cơ sở vật chất – kỹ thuật còn nhiều yếu kém như hiện nay, HBBS cần hoàn thiện trụ sở và các cơ sở vật chất kỹ thuật kèm theo như hệ thống thông tin nội bộ, tin học hóa công tác văn phòng và kế toán. Đôi khi HBBS gặp phải tình trạng lỗi hệ thống kỹ thuật khi đang thực hiện giao dịch và khớp lệnh cho khách hàng, ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh của công ty cũng như lòng tin của khách hàng vào công ty. Công ty cần phát triển các phần mềm tin học phục vụ cho hoạt động quản lý tài khoản, thanh toán cho khách hàng, quản lý toàn bộ hoạt động môi giới qua máy tính, nhanh chóng hoàn thiện trang Web của công ty, cung cấp thông tin đầu tư của khách hàng dưới nhiều hình thức để đáp ứng nhu cầu của khách hàng…
Đặc biệt cần nâng cấp phần mềm bảo mật của công ty, giúp cho thông tin của khách hàng, đặc biệt là tài khoản giao dịch tuyệt đối an ninh, tạo lòng tin đối với nhà đầu tư; đồng thời thu hút khách hàng tiềm lực.
4. Phát triển đồng bộ các hoạt động kinh doanh của công ty
Theo đánh giá của một số cơ quan tín nhiệm hiện nay và qua kết quả nghiên cứu khách hàng, chất lượng dịch vụ của các sản phẩm do HBBS cung cấp cho khách hàng được đánh giá là khá tốt, có chất lượng đảm bảo.
Công ty TNHH Chứng khoán Habubank cùng với Ngân hàng mẹ là Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội đã phối kết hợp với một số Ngân hàng thương mại như: Ngân hàng TMCP Đông Á, Ngân hàng TMCP Nhà đồng bằng sông Cửu Long, Ngân hàng TMCP Sài Gòn để cung cấp các dịch vụ như cầm cố, ứng trước tiền bán chứng khoán, ứng trước cổ tức cho một khối lượng khách hàng không nhỏ. Hiện nay, công ty đang thực hiện ba hình thức cho vay cầm cố.
Tỷ lệ vay tính trên thị giá chứng khoán cầm cố
Tỷ lệ giảm giá khách hàng phải bổ sung tài sản cầm cố
40%
20%
35%
30%
30%
40%
+ Tổng giá trị chứng khoán đem cầm cố tối thiểu: 20.000.000 Việt Nam đồng/khách hàng
+ Hạn mức tối thiểu là: 10.000.000 Việt Nam đồng/khách hàng
+ Hạn mức tối đa là : 1.000.000.000 Việt Nam đồng/khách hàng
+ Lãi suất cho vay là: 0,98% / tháng
+ Phí quản lý tín dụng: 1,2%/năm tính trên số tiền khách hàng thực nhận nợ
+ Thời gian hiệu lực hợp đồng: 06 tháng và được gia hạn hợp đồng 03 tháng
Tuy nhiên từ khoảng giữa tháng 11/2006, công ty đã tạm dừng dịch vụ cầm cố chứng khoán và đến tháng 10/2007 thì đã cung cấp lại. Công ty cần kết hợp với ngân hàng mẹ để nâng cao hạn mức tín dụng, kiểm soát chặt chẽ rủi ro có thể xảy ra. Ngoài ra đối với một số dịch vụ khác như lưu ký chứng khoán, dịch vụ đặt lệnh từ xa vẫn đang cung cấp miễn phí từ khi mới thành lập thì nên tiếp tục duy trì ưu đãi đó.
Bên cạnh thực hiện các dịch vụ cầm cố, ứng trước…thì HBBS cũng đã thực hiện các hình thức tư vấn cho nhà đầu tư được gần 1 năm qua với đội ngũ nhân viên tư vấn ngày càng chuyên nghiệp và có hiểu biết sâu rộng. Hình thức tư vấn bao gồm cả tư vấn trực tiếp và tư vấn gián tiếp:
+ Tư vấn trực tiếp là việc thực hiện các buổi hội thảo thuyết trình cho khách hàng về những vấn đề mà khách hàng đang quan tâm hoặc những vấn đề mà khách hàng còn chưa thực sự hiểu rõ, đang thắc mắc hoặc những vấn đề nổi cộm, những biến cố thị trường mà đa phần khách hàng của công ty đang lo lắng hoặc quan tâm, ví dụ như: bình luận phiên giao dịch (vào 16h hàng ngày) hay phân tích diễn biến giao dịch tuần và dự đoán biến động của thị trường (vào 16h thứ sáu hàng tuần). Hiện nay khi khách hàng mới đến muốn tìm hiểu quy trình giao dịch để mở tài khoản hay khách hàng đã mở tài khoản muốn tham khảo ý kiến của nhân viên môi giới thì do lý do nào đó, nhân viên môi giới thường nói qua loa, chung chung, không trả lời được hoặc không muốn trả lời. Nhân viên môi giới không còn đơn thuần chỉ là xử lý lệnh nhưng cũng chưa đạt đến tầm có khả năng giải quyết mọi thắc mắc của khách hàng đang quan tâm. Vì vậy việc phát triển hoạt động tư vấn khách hàng trực tiếpvlà điều hết sức cấp thiết để nâng cao chất lượng dịch vụ môi giới, khả năng của nhân viên môi giới nói riêng và chất lượng hoạt động của công ty nói chung.
+ Tư vấn gián tiếp cho khách hàng bằng cách cung cấp thông tin cho khách hàng theo yêu cầu hoặc không theo yêu cầu của họ, đôi khi chỉ là điểm tin chứng khoán. Thông tin này được đưa đến khách hàng qua các bản tin chứng khoán hằng ngày như bản tin chứng khoán 24h của công ty, bản tin TTCK của Sở giao dịch chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh, bản tin TTCK của Trung tâm giao dịch Hà Nội, kết quả phiên giao dịch hay cung cấp các thông tin về các công ty niêm yết (bản cáo bạch, báo cáo tài chính…) và một số thông tin khác theo yêu cầu của khách hàng.
Tất cả những thông tin trên có thể được gửi đến khách hàng qua rất nhiều hình thức như Email cá nhân khách hàng cung cấp cho công ty, qua sms hoặc nhận các thông tin này tại trụ sở công ty. Hiện tại, trừ dịch vụ tin nhắn sms thì các dịch vụ này đang được cung cấp miễn phí. Với tình trạng số lượng các nhà đầu tư đổ vào thị trường ngày càng nhiều và thất thường thì công ty nên có các giải pháp phát triển hệ thống công nghệ tin học để có thể triển khai các dịch vụ này trên mạng, thông qua các trang Web đặc biệt là trang web của công ty để có thể cung cấp các thông tin một cách chính xác, kịp thời và đầy đủ nhất; các bài phân tích, định hướng, dự báo định kỳ và xu hướng thị trường; đưa nó trở thành một dịch vụ mà bất kỳ nhà đầu tư nào cũng nhận được khi đến với HBBS.
5. Hình thành rõ nét văn hóa kinh doanh của công ty
Văn hóa kinh doanh là đặc thù riêng của mỗi công ty, nó thể hiện ý chí đồng nhất từ trên xuống dưới trong toàn bộ công ty đối với cả ban giám đốc, ban lãnh đạo và toàn thể nhân viên. Khi công ty hình thành rõ nét văn hóa, định hình thành đặc thù, thành dáng vóc của mỗi công ty sẽ khiến khách hàng dễ nhận ra nhân viên đó thuộc công ty nào. Ví dụ nét đặc trưng nổi trội của Ngân hàng TMCP Sài gòn thương tín (Sacombank) có nét văn hóa riêng là nhân viên tập trung chào cờ vào mỗi buổi sáng thứ hai. Để tồn tại, phát triển và ngày càng khẳng định bản thân, HBBS cũng có những nét văn hóa riêng có của công ty. Văn hóa đó tạo nên một phong thái riêng biệt khi khách hàng tiếp cận và hợp tác với công ty. Thái độ niềm nở, tận tình, cá tính quyết đoán là những đặc điểm mà mỗi khách hàng dễ dàng cảm nhận ngay từ những thời gian đầu tiếp xúc với nhân viên công ty, tạo cho khách hàng sự tin tưởng, thoải mái trong quá trình hợp tác làm ăn. Bên cạnh đó, sự tận tụy, dốc lòng và quyết đoán tạo cho nhà đầu tư sự quyết tâm kinh doanh nhưng yên tâm vì yên tâm trước sự tư vấn, đặc biệt từ phía nhân viên môi giới có kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp.
6. Chuyên nghiệp hóa các nghiệp vụ môi giới
Như trên đã đề cập, quy trình hoạt động nghiệp vụ môi giới chứng khoán không chỉ riêng HBBS mà đa phần các Công ty chứng khoán đều gồm rất nhiều bước từ tiếp thị, tư vấn cho khách hàng, mở tài khoản giao dịch cho khách hàng cho đến khi thực hiện lệnh giao dịch của khách hàng. Đi kèm với nó là các thao tác phụ trợ như lưu ký chứng khoán, nộp tiền và rút tiền của khách hàng cũng khá là rườm rà và mất thời gian, đôi khi sự quá tải khiến nhân viên môi giới không đáp ứng kịp thời cũng như khả năng chuyên môn nghiệp vụ chưa thực sự giỏi đã dẫn đến sự không hài lòng của khách hàng… Ở Việt Nam hiện nay, chỉ có một số ít cá nhân được coi là nhân viên môi giới chứng khoán chuyên nghiệp, nhân viên môi giới đúng nghĩa của nó. Một yếu tố khó khăn nữa đối với các Công ty chứng khoán là cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật vẫn còn rất thô sơ, quy trình nhận lệnh và đặt lệnh cho đến truyền lệnh được vào đến sàn giao dịch còn tốn nhiều thời gian, khá thủ công. Chính vì lẽ đó, để có được quy trình hoạt động môi giới hiệu quả đem lại lợi nhuận cho công ty và thu hút được nhiều khách hàng thì HBBS buộc phải cải tiến, hoàn thiện, chuyên nghiệp hóa từ khâu nhân sự cho đến các khâu hệ thống và dịch vụ phụ trợ khác. Có như vậy mới thu hút được khách hàng nhất là lượng khách hàng tiềm năng đã đưa vào quy hoạch, nâng cao số lượng tài khoản giao dịch cũng như nâng cao thị phần và uy tín của HBBS trên thị trường tài chính.
7. Giải pháp về Marketing
Một trong những vấn đề quan trọng để khách hàng biết đến doanh nghiệp chính là marketing. Nhằm đáp ứng mục tiêu mở rộng thị phần và nâng cao uy tín của mình, HBBS cần phải phát triển mạnh kế hoạch hoá hoạt động marketing, đẩy mạnh công tác tiếp thị cũng như xây dựng một chiến lược để có thể thực hiện tốt hoạt động này.
Vấn đề đầu tiên mà ban giám đốc HBBS cần phải xác định mục tiêu hoạt động của công ty, sau đó cần phân đoạn thị trường rõ ràng, xây dựng chiến lược marketing, chiến lược nghiên cứu thị trường nhằm phục vụ tốt nhu cầu của các nhóm đối tượng khách hàng. Tiếp theo, HBBS cần tiến hành lựa chọn thị trường mục tiêu, các đối tượng khách hàng tiềm năng dựa vào phân tích khả năng, tiềm lực của công ty cả về nguồn vốn cũng như cơ sở vật chất và nhân sự, xây dựng kế hoạch hoạt động, nghiên cứu các dịch vụ tiện ích, thu thập thông tin về dịch vụ, đảm bảo rằng kế hoạch này sẽ được sự hỗ trợ từ phía công ty. Bên cạnh đó, HBBS nên tiến hành công tác tiếp thị tại các hội nghị khách hàng hoặc qua các dịch vụ chăm sóc khách hàng tạo nên một hình ảnh đẹp về công ty, gây được thiện cảm từ khách hàng và giữ được chữ tín với nhà đầu tư.
Các trang web mà công ty có thể thực hiện chiến lược marketing như: www.vneconomy.vn,www.vietnamnet.vn,www.24h.com.vn,www.dantri.com.vn, www.vir.com.vn, www.vnexpress.net, website khác, trên các phương tiện truyền hình, thông tin đại chúng như báo chứng khoán Việt Nam, thời báo kinh tế, thời báo ngân hàng, báo đầu tư chứng khoán,…Ngoài ra có thể thực hiện chính sách tặng quà cho khách hàng vào những dịp đặc biệt, nhất là khách hàng thân thiết, khách VIP… Giá trị món quà không lớn nhưng góp phần tạo nên cảm giác gần gũi giữa công ty và khách hàng, từ đó góp phần gắn kết khách hàng với công ty.
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
1. Kiến nghị với Bộ, Ngành liên quan
1.1. Đối với Chính Phủ và Bộ Tài Chính
Hoàn thiện khung pháp lý
Khuôn khổ pháp lý rõ ràng và ổn định là điểu đầu tiên và quan trọng nhất để đảm bảo cho TTCK phát triển an toàn và minh bạch. Quốc hội đã ban hàng Luật chứng khoán và bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 01/ 01/ 2007. Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành nghị định 14/ 2007/ NĐ-CP để hướng dẫn thực hiện luật. Luật mới đã quy định rõ ràng và cụ thể hơn, với công ty được cấp phép để thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán là 25 tỷ Việt Nam đồng, những công ty đại chúng thì vốn điều lệ từ 10 tỷ Việt Nam đồng trở lên thì phải lưu ký tập trung tại Trung tâm lưu ký chứng khoán. Thế nhưng một điều chưa hoàn chỉnh đó là nghị định chỉ quy định chung chung, không rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cũng như trách nhiệm của nhân viên môi giới sẽ dẫn đến tình trạng nhân viên môi giới sẽ đặt quyền lợi của bản thân lên trên lợi ích của khách hàng. Vì vậy một kiến nghị đối với Bộ tài chính nên có những thông tư, quy chế hướng dẫn cụ thể, rõ ràng và sớm, tránh trường hợp chồng chéo nghị định. Sở giao dịch chứng khoán hay Trung tâm giao dịch chứng khoán nên ban hành quy chế hoạt động cụ thẻ để khuyến khích hoạt động môi giới của các Công ty chứng khoán cũng như các chế tài xử phạt nghiêm ngặt đối với những vi phạm.
Tăng cường công tác tạo hàng hóa cho TTCK
Trong giai đoạn thị trường đang nóng, chỉ số VN-Index đạt trên 1000 điểm, số lượng các Công ty chứng khoán cũng như hàng hóa trên thị trường tăng vọt. Nguyên nhân là do sự đổ xô đầu tư của khách hàng khiến hàng loạt các công ty chứng khoán thành lập nhằm thu lợi nhuận cũng như các công ty đua nhau niêm yết để hưởng ưu đãi về thuế thu nhập trước khi Luật chứng khoán có hiệu lực. Qua những diễn biến đó, tổng số các Công ty chứng khoán đã đạt 60 công ty và gần 200 loại chứng khoán được niêm yết. Thiết nghĩ, Bộ tài chính cũng như các Bộ, ngành liên quan cần đưa ra các giải pháp thúc đẩy nhanh việc hoàn thiện các bước để công ty đạt điều kiện đưa lên niêm yết. Nghiên cứu để tìm giải pháp bán bớt phần trăm vốn nhà nước trong một công ty và tồng công ty Nhà nước để thu vốn đầu tư phát triển các lĩnh vực khác. Từ năm 2002 đến năm 2007, cả nước đã sắp xếp lại 3.815 doanh nghiệp nhà nước bằng 71% số doanh nghiệp hiện có vào đầu năm 2002; trong đó, thực hiện cổ phần hóa 2440 đơn vị. Ngoài việc hoàn thành thí điểm cổ phần hóa 32 tổng công ty nhà nước, dự kiến Chính phủ sẽ chỉ đạo triển khai cổ phần hóa hơn 20 tổng công ty trong năm 2007. Sự phát triển mạnh mẽ cả về quy mô lẫn số lượng doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã trở thành động lực thúc đẩy TTCK phát triển nhanh chóng trong thời gian vừa qua.
1.2. Đối với Uỷ ban chứng khoán Nhà nước
- Củng cố hệ thống đào tạo và cấp phép hành nghề môi giới chứng khoán
Như chúng ta đã biết, thực trạng hiện nay là số lượng nhân viên môi giới thì nhiều nhưng số lượng nhân viên môi giới thực sự, nhân viên môi giới được cấp chứng chỉ hành nghề thì còn quá khiêm tốn. Thị trường chứng khoán càng phát triển thì đòi hỏi phải có đội ngũ nhân lực chứng khoán cũng như lượng nhà đầu tư chất lượng cao và chuyên nghiệp. Theo quy định hiện nay để hành nghề môi giới chứng khoán, nhân viên môi giới yêu cầu phải có đủ 3 chứng chỉ chuyên môn do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp gồm: chứng chỉ phân tích cơ bản, chứng chỉ phân tích kỹ thuật và chứng chỉ Luật. Trong một số khảo sát gần đây của ban thanh tra Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, có rất nhiều nhân viên môi giới ở một số Công ty chứng khoán, chưa đủ chứng chỉ hành nghề (trong số đó có 27/39 nhân viên môi giới của SSI, 13/22 nhân viên môi giới của VCBS…). Điều này cho thấy tình trạng thiếu hụt trầm trọng nhân viên môi giới ở các Công ty chứng khoán.
Trước tình hình này, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cần tăng cường, gấp rút hoàn thành chương trình đào tạo cấp giấy phép hành nghề mới. Xây dựng được đội ngũ giảng viên vừa có kiến thức chuyên môn sâu vừa bám sát thực tiễn thị trường trong và ngoài nước (có thể cử đi tu nghiệp ở một số nước có TTCK phát triển để lấy kinh nghiệm, kiến thức…) để có thể tạo ra ngày càng nhiều những nhân viên môi giới chuyên nghiệp trong tương lai không xa.
Phổ biến kiến thức và nâng cao nhận thức cho công chúng đầu tư
Khi thị trường phát triển đạt mức nóng, đặc biệt là giai đoạn cuối năm 2006, đầu năm 2007, người dân đổ xô vào đầu tư. Tuy nhiên gặp phải một vấn đề nan giải là đa phần nhà đầu tư chưa hiểu rõ về TTCK cũng như cách thức tính toán, cách thức đầu tư. Với kỳ vọng thu lợi nhuận cao, nhà đầu tư nào cũng ham muốn tìm hiểu kiến thức để có thể quyết định được đầu tư của mình. Trong thời gian gần đây, rất nhiều người quan tâm đến TTCK, nhiều công ty cổ phần muốn tham gia TTCK dưới nhiều hình thức (cổ phần hóa, phát hành, niêm yết…). Dù vậy, trong thực tế, nhiều người, nhiều cán bộ lãnh đạo các công ty cũng chưa hiểu rõ về TTCK, vì vậy công tác tuyên truyền, phổ cập kiến thức về chứng khoán và TTCK cho các đối tượng này là hết sức cần thiết. Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước nên khuyến khích các học viên, nhà đầu tư trên TTCK đề xuất các chủ đề nghiên cứu về chứng khoán và TTCK theo từng lĩnh vực cụ thể, kết hợp với các trường Đại học tổ chức các chương trình đạo tạo, tổ chức các buổi thuyết trình tới các đối tượng học sinh, sinh viên và một trong những nội dung quan trọng nên đề cập đến đó là tuyên truyền, phổ cập về những dịch vụ và nhà đầu tư có thể được hưởng từ nhà môi giới chứng khoán.
Tăng cường công tác quản lý và giám sát hoạt động các Công ty chứng khoán
Bộ tài chính, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước nên tăng cường công tác thanh tra kiểm tra, xử lý vi phạm trên TTCK. Trong quá trình quản lý TTCK cần lưu ý phải kiểm soát bằng được luồng vốn đầu tư vào TTCK; tăng cường tính công khai minh, bạch trên TTCK, ngăn chặn có hiệu quả các hiện tượng lừa đảo, đầu cơ và các biểu hiện tiêu cực trong việc phát hành cổ phiếu của doanh nghiệp, ngăn chặn hành vi lạm dụng của người môi giới; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động của CTCK, công ty quản lý quỹ, công ty niêm yết và các quỹ đầu tư chứng khoán để đảm bảo các hoạt động này đúng pháp luật, công khai, minh bạch. Chỉ đạo ngân hàng nhà nước kiểm soát các hoạt động của các ngân hàng thương mại có ảnh hưởng đến TTCK, đặc biệt là kiểm soát đối với việc sử dụng nguồn vốn ngân hàng để đầu tư chứng khoán cũng như hoạt động cho vay cầm cố…
-Thiết lập hệ thống viễn thông chứng khoán Việt Nam
Với tình trạnh ách tắc như hiện nay không thể đổ hết lỗi cho nhân tố con người mà còn phải kể đến một nhân tố không kém phần quan trọng đó là hệ thống thông tin- kỹ thuật. Nếu như cuối tháng 4 đầu tháng 5 năm 2007, Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh thực hiện khớp lệnh liên tục gây thiệt hại rất lớn cho nhà đầu tư do lệnh không vào kịp hệ thống đúng thời điểm nhà đầu tư muốn giao dịch, do vậy để giảm tải được sự ách tắc, quá tải thì cả Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và Công ty chứng khoán buộc phải nâng cấp hệ thống, nâng cấp công nghệ. Kết quả cụ thể đã đạt được là nâng cấp Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh thành Sở giao dịch chứng khoán và ngày càng nâng cấp cả Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, các hệ thống giao dịch của Công ty chứng khoán để làm sao đồng bộ và hiện đại. Và cuối năm 2007 đã đưa vào vận hành hệ thống phần mềm giao dịch điện tử hiện đại nhằm giảm sự ách tắc cho nhà đầu tư. Lúc này, nhà đầu tư có thể ngồi ở nhà không cần đến Công ty chứng khoán vẫn có thể giao dịch mua bán cổ phiếu hàng ngày.
Một trong những vấn đề vẫn đang là nan giải đối với công chúng là việc vận hành cơ sở hạ tầng kỹ thuật và tiếp nhận công nghệ, đặc biệt là thói quen sử dụng internet. Hiện nay công chúng và nhà đầu tư ở Việt Nam đang tích cực làm quen với với hoạt động giao dịch chứng khoán trên mạng Internet, điện thoại, fax…và bước đầu cũng đã thực hiện được các hoạt động giao dịch (đặc biệt là giao dịch thỏa thuận) trên thị trường giao dịch tập trung và tìm hiểu thông tin trên thị trường OTC. Mạng Internet đã được sử dụng cho việc phổ biến kiến thức về chứng khoán và TTCK, cung cấp thông tin thị trường…Điều này sẽ tạo tiền đề kỹ thuật-vật chất và công nghệ cho việc thiết lập hệ thống viễn thông chứng khoán và từng bước tiến tới thành lập “TTCK computer” tại Việt Nam.
2. Kiến nghị với Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội (Habubank)
Để tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty TNHH Chứng khoán Habubank hoạt động kinh doanh có hiệu quả, đặc biệt là chất lượng hoạt động môi giới chứng khoán, nâng cao thị phần và khả năng cạnh tranh trên thị trường, em xin đề xuất, kiến nghị lên Habubank một số nội dung sau:
- Đề nghị Hội đồng quản trị Habubank cho phép một số chi nhánh Habubank thực hiện các dịch vụ hỗ trợ HBBS như: cho khách hàng của công ty vay cầm cố chứng khoán, cho khách hàng có tiền gửi trên hệ thống Habubank mở tài khoản đa năng kinh doanh chứng khoán khi có nhu cầu, đồng thời tư vấn niêm yết chứng khoán cho các doanh nghiệp cổ phần hoá muốn tham gia thị trường chứng khoán, ưu đãi tín dụng đối với doanh nghiệp cổ phần hoá được công ty cung cấp dịch vụ.
- Trong tương lai, thị trường chứng khoán phát triển hơn, nhu cầu đầu tư tăng lên, HBBS sẽ cung cấp nhiều sản phẩm dịch vụ hoàn hảo để đáp ứng nhu cầu đó, nên HBBS rất cần có vốn để thực hiện. Do vậy, Habubank có chủ trương khuyến khích và cho phép Công ty chứng khoán được bổ sung tăng vốn điều lệ bằng nguồn thu nhập để lại và nguồn cấp bổ sung của Habubank trong những năm tới. Tuy nghiệp vụ môi giới không đòi hỏi vốn điều lệ lớn, nhưng để tiếp tục hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật, tăng hiệu quả, chất lượng hoạt động đòi hỏi công ty phải tăng vốn điều lệ.
- Ngân hàng chủ trương phối hợp với lãnh đạo công ty mở các lớp đào tạo nâng cao chuyên môn cho cán bộ nhân viên đặc biệt là nhân viên môi giới, có chính sách đãi ngộ, và giữ chân các nhân viên có tài, có cính sách khuyến khích nhân viên đóng góp tích cực vào hoạt động chung của công ty và ngân hàng. Cho phép HBBS thực hiện thí điểm việc thuê chuyên gia tư vấn, môi giới đầu tư theo chế độ cộng tác viên để hạn chế việc tăng biên chế mà vẫn đáp ứng nhu cầu kinh doanh.
Việc nghiên cứu và sử dụng đồng bộ các giải pháp và kiến nghị trên sẽ góp phần giúp công ty hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn, và đặc biệt là chất lượng hoạt động môi giới chứng khoán nâng cao và tiến bộ, đồng thời nâng cao uy tín của công ty trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
- Dù là một đơn vị hạch toán độc lập, nhưng công ty TNHH chứng khoán Habubank vẫn là công ty con Ngân hàng mẹ Habubank, cổ đông chi phối đối với HBBS vẫn là Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội, bởi vậy để HBBS hoạt động tốt thì sự quan tâm, giúp đỡ của Ngân hàng mẹ có vai trò hết sức quan trọng.
Thực tế đã cho thấy hoạt động môi giới đã khẳng định được vai trò quan trọng của nó không chỉ trong doanh thu của các Công ty chứng khoán mà nó còn đóng một vai trò to lớn trong việc tạo danh tiếng, uy tín của riêng mỗi Công ty chứng khoán thị trường. Hoạt động môi giới là hoạt động đem lại doanh thu chủ yếu cho các Công ty chứng khoán, là “bộ mặt”, là “bề nổi” của các Công ty chứng khoán, qua hoạt động môi giới cũng như nhân viên môi giới thì khách hàng được tiếp cận đối với văn hóa kinh doanh riêng có của mỗi công ty. Từ vai trò đó, để nâng cao được hiệu quả hoạt động của Công ty chứng khoán thì một vấn đề phải đề cập đến hàng đầu là phải nâng cao chất lượng hoạt động môi giới.
Với mục tiêu nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của Công ty TNHH chứng khoán Habubank, đưa HBBS lên trở thành một trong những Công ty chứng khoán hàng đầu của Việt Nam.
Sau một thời gian tiếp cận, thực tập và nghiên cứu tại Công ty TNHH Chứng khoán Habubank, bản thân em đã rút được một số kết luận, nghiên cứu và kiến nghị giải pháp vì sự phát triển của công ty TNHH chứng khoán Habubank nói riêng và TTCK nói chung.
KẾT LUẬN
Thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng sẽ ngày càng phát triển, đặc biệt là khi đời sống dân cư được nâng cao, đất nước mở cửa hội nhập. Lịch sử hình thành nghề môi giới chứng khóa bắt đầu vào khoảng thế kỷ XVI và đến nay đã thực sự phát triển mạnh mẽ khắp toàn cầu.
Tuy nhiên, do thị trường chứng khoán Việt Nam còn non trẻ, mới đi vào hoạt động vì vậy có những khó khăn nhất định. Từ thực trạng về hoạt động môi giới chứng khoán tại Công ty TNHH Chứng khoán Habubank – một điển hình cụ thể của TTCK Việt Nam có thể thấy: mặc dù đã có dáng dấp ban đầu của một lĩnh vực kinh doanh hiện đại, song về căn bản hoạt động môi giới chứng khoán còn rất thô sơ, chưa thể theo kịp với thời đại. Trong điều kiện hàng hoá trên thị trường còn rất ít cả về chủng loại lẫn số lượng, khách hàng đông nhưng nguồn lực của từng khách hàng thì cũng chưa lớn. Bên cạnh đó công ty chứng khoán còn non trẻ, ít kinh nghiệm, kỹ năng còn mỏng và hoạt động trong một khuôn khổ pháp lý còn đơn giản. Song cùng với sự phát triển của thị trường thì cơ cấu tổ chức, điều kiện vật chất kỹ thuật cũng như kỹ năng hành nghề của nhân viên môi viên môi giới nói riêng và cấu trúc hoạt động của các Công ty chứng khoán nói chung cần được nâng cao để hoạt động môi giới chứng khoán có thể đảm nhiệm được những chức năng đích thực và đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển của TTCK Việt Nam. Nếu không sớm được hoàn thiện, môi giới chứng khoán sẽ là khâu yếu nhất trực tiếp dẫn đến những sai phạm mang tính trọng yếu có thể do cố tình hoặc do thiếu năng lực, gây sụp đổ lòng tin từ phía các nhà đầu tư trên thị trường.
Để nâng tầm hình ảnh công ty cũng như nhanh chóng đạt mục đích trở thành một trong những Công ty chứng khoán đứng đầu tại Việt Nam, HBBS cần nhanh chóng khắc phục những hạn chế còn tồn tại và thúc đẩy nhanh những giải pháp phát triển, như thế mới thu hút sự đầu tư của khách hàng, đặc biệt là các cá nhân – tổ chức nước ngoài và ngày càng tạo lòng tin sâu rộng đối với khách hàng
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Biểu 1. Sơ đồ tổ chức Công ty 32
Biểu 2. Tình hình nhân sự của HBBS 36
Biểu 3. Cơ cấu nhân sự các phòng, ban của HBBS 36
Biểu 4. Cơ cấu nhân sự theo trình độ của HBBS 37
Biểu 5. Sơ đồ quy trình mở tài khoản giao dịch tại HBBS 40
Biểu 6. Mức phí giao dịch và phí các dịch vụ hỗ trợ khách của HBBS 41
Biểu 7. Thị phần giá trị giao dịch khớ lệnh của HBBS so với toàn thị trường 42
Biểu 8. Số lượng tài khoản giao dịch đóng, mở tại HBBS 43
Biểu 9. Đồ thị phản ánh tốc độ đóng, mở tài khoản theo tháng 44
Biểu 10. Phí thu từ hoạt động môi giới chứng khoán tại HBBS 45
Biểu 11. Cơ cấu doanh thu của HBBS 46
Biểu 12. Chi phí của hoạt động môi giới 47
Biểu 13. Cơ cấu lãi thu từ hoạt động môi giới 47
Biểu 14. Cơ cấu tài khoản và nguồn vốn 48
Biểu 15. Kết quả hoạt động kinh doanh 49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Lê Hoàng Nga – Giáo trình Thị trường Chứng khoán – NXB Thống kê, năm 2001.
2. PGS. TS. Nguyễn Văn Nam, PGS. TS. Vương Trọng Nghĩa – Giáo trình Thị trường Chứng khoán – NXB Tài chính, năm 2002.
3. TS. Đào Lê Minh (chủ biên) – Giáo trình Những vấn đề cơ bản về Chứng khoán và Thị trường chứng khoán – NXB Chính trị quốc gia, năm 2002.
4. Ts. Trần Thị Thái Hà - Nghề môi giới chứng khoán – NXB Chính trị quốc gia, năm 2001.
5. Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006
6. Nghị định số 14/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của luật chứng khoán.
7. UBCKNN, Báo cáo thường niên 2006
8. HBBS, Báo cáo tài chính đã kiểm toán 2006.
9. HBBS, Báo cáo tài chính 6 tháng đầu năm 2007
10.
11.
12.
13.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28461.doc