Tài liệu Nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành Đô: LỜI MỞ ĐẦU
Ngành ngân hàng Việt Nam đang ở trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ để phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân và cũng để phù hợp với quá trình hội nhập của đất nước. Năm 2007 vừa qua là năm thành công lớn đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập. Với sự kiện Việt Nam vừa chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO, ngành ngân hàng Việt Nam đang đứng trước rất nhiều cơ hội nhưng cũng phẩi đối mặt với không ít t... Ebook Nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành Đô
80 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2529 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành Đô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hách thức. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói chung và các chi nhánh của ngân hàng nói riêng cũng nằm trong xu hướng ấy. Với truyền thống và bề dày hoạt động và phát triển của mình, ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã gặt hái được những thành công đáng kể và đang chuyển mình mạnh mẽ để tiếp tục vươn xa trong thời kỳ phát triển mới. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt , việc hoàn thiện và phát triển các hoạt động là huớng đi và phương châm cho các ngân hàng tồn tại và phát triển . Và xét cho cùng đây chính là sự đáp ứng cho yêu cầu hiện đại hoá, đa dạng hoá hoạt động ngân hàng và xu thế hội nhập của nền kinh tế.
Bảo lãnh là một trong những nghiệp vụ của ngân hàng thương mại hiện đại. Nó còn mới mẻ với các ngân hàng Việt Nam nói chung và ngân hàng Đầu tư và Phát triển nói riêng. Trong thời gian qua, sự phát triển và khởi sắc của nghiệp vụ bảo lãnh tuy tích cực nhưng còn chưa tương xứng với vai trò và tiềm năng của nó đối với hệ thống ngân hàng và nền kinh tế.
Nhận thức được vấn đề trên sau một thời gian thực tập tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội em quyết định chọn đề tài “Nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành Đô ”.
Nội dung đề tài bao gồm các phần sau:
Chương 1:Tổng quan về hoạt động bảo lãnh ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành Đô.
Chương 3: Các giải pháp và kiến nghị nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành Đô.
Phạm vi của đề tài là nghiên cứu nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. Từ cơ sở lý luận và thực tiễn em mạnh dạn đưa ra ý kiến nhằm hoàn thiện và phát triển hoạt động này tại ngân hàng.
Về phương pháp nghiên cứu, bài viết này sẽ sử dụng phương pháp tổng hợp phân tích và đặc biệt sử dụng nhiều tới lý luận và chính sách Marketing trong ngân hàng.
Để hoàn thành đề tài này, em đã nhận được sự hướng dẫn rất quý báu của Thầy giáo hướng dẫn và các Thầy Cô trong khoa Ngân hàng- Tài chính. Ngoài ra, trong thời gian thực tập, em còn được sự giúp đỡ tận tình của cán bộ công nhân viên chi nhánh Thành Đô.
Em xin chân thành cảm ơn và mong tiếp tục nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô và các cô chú trong ngân hàng.
CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
Nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng
Nguyên nhân và sự ra đời hoạt động bảo lãnh ngân hàng
Bảo lãnh ngân hàng chỉ được ra đời và phát triển vào đầu thập niên 70 của thế kỷ và trở thành một loại hình dịch vụ hữu hiệu của các ngân hàng hiện đại với nền kinh tế. Chúng ta hãy xem xét sự ra đời của bảo lãnh ngân hàng, một loại hình dịch vụ mới của ngân hàng thương mại.
Theo quan niệm Marketing sự ra đời một sản phẩm dịch vụ mới thường bắt nguồn từ ba nhân tố : Phát sinh nhu cầu, khả năng cung ứng và sự cho phép của luật pháp.Ba nhân tố này với sự ra đời của bảo lãnh ngân hàng là:
* Sự phát sinh nhu cầu bảo lãnh: Chính sự phát triển của nền kinh tế mà ở đây là sự phát triển của thương mại và tín dụng đã làm nảy sinh xuất hiện những nhu cầu mới.
- Về thương mại: Xã hội loài người đã trải qua các hình thức sản xuất tự cung tự cấp và sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá ra đời tạo ra bước nhảy vọt trong đời sống, kinh tế và tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của thương mại. Khi nền kinh tế phát triển, thương mại phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu đặc biệt với xu hướng hoà nhập tham gia vào phân công lao động khu vực và thế giới. Sự phát triển của thương mại làm tăng số lượng,giá trị và tốc độ các giao dịch của doanh nghiệp làm các giao dịch vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia.
- Về tín dụng: Tín dụng ra đời do nhu cầu chu chuyển vốn trong nền kinh tế giữa những nơi thừa và thiếu tương đối. Thương mại phát triển kéo theo sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các doanh nghiệp trên mọi lĩnh vực. Để đổi mới sản phẩm, công nghệ đáp ứng thị trường vốn trở nên cực kỳ quan trọng. Tín dụng khi đó không chỉ bao gồm quan hệ cung ứng vốn giữa các tổ chức trong một nước mà còn giữa các nước,các khu vực trên nhiều lĩnh vực nhưng chủ yếu là thương mại với nguyên tắc hoàn trả vốn gốc và một phần lãi nhất định. Ngược lại, người cấp tín dụng sẽ phải đối mặt với rủi ro tín dụng nếu người vay không hoàn trả đúng yêu cầu. Rủi ro này càng lớn khi tín dụng được thực hiện ở phạm vi ngoài quốc gia.
Sự phát triển của thương mại và tín dụng dẫn tới:
+ Sự thiếu hụt thông tin và do đó là sự thiếu tín nhiệm bạn hàng: giao dịch diễn ra với đặc điểm tăng về số lượng, phức tạp hơn trong thời gian dài và trên phạm vi toàn cầu. Quá trình kinh doanh diễn ra với tốc độ chóng mặt, do vậy trong cùng một lúc một doanh nghiệp phải giao dịch với rất nhiều bạn hàng khác nhau. Họ thiếu thông tin về các bạn hàng cũng như đối thủ cạnh tranh. Sự thiếu hụt thông tin có thể dẫn tới rủi ro về đạo đức do bạn hàng không đáp ứng các hợp đồng đã ký kết. Hoặc nếu họ có thể tìm hiểu được thông tin thì việc tranh thủ cơ hội kinh doanh và các chi phí phải bỏ ra ngăn cản họ thực hiện điều này. Mâu thuẫn nảy sinh đó là sự thiếu hiểu biết về nhau làm các đối tác không có đủ độ tín nhiệm cần thiết để ký kết hợp đồng.
+ Tăng các rủi ro trong kinh doanh: Một doanh nghiệp trong kinh doanh phải gánh chịu rủi ro về lãi suất, tỷ giá, cạnh tranh, các rủi ro bất khả kháng... Rủi ro có thể gây ra những hậu quả không lường trước được cho doanh nghiệp. Theo cơ chế lan truyền các rủi ro này còn ảnh hưởng tới cả các doanh nghiệp khác cùng thực hiện hợp đồng. Rủi ro ví dụ như các rủi ro bất khả kháng đôi khi nằm ngoài khả năng kiểm soát của con người. Kiểm soát rủi ro là khó khăn đặc biệt là các rủi ro lan truyền từ đối tác.Khi cạnh tranh bị đẩy tới mức độ gay gắt, các doanh nghiệp đều phải tận dụng mọi cơ hội để vượt lên trên đối thủ.Mà chịu rủi ro có nghĩa là chịu đe doạ tụt hậu. Vì vây các doanh nghiệp luôn tìm cách giảm thiểu rủi ro.
Như vậy từ bản thân nền kinh tế xuất hiện nhu cầu cần có công cụ ngăn ngừa rủi ro từ đối tác, khắc khục tình trạng thiếu hụt thông tin làm các bên yên tâm thực hiện giao dịch. Về mặt thanh toán các rủi ro đã được kiểm soát bởi các hình thức tín dụng chứng từ, bảo đảm hối phiếu...Còn các rủi ro về không thực hiện không đơn thuần là nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng, nó là cơ sở ra đời của một công cụ mới- bảo lãnh.
*Khả năng cung ứng: Nhu cầu bảo lãnh nảy sinh đòi hỏi có một người thứ ba đứng ra làm trung gian bảo đảm các bên yên tâm thực hiện hợp đồng. Ngân hàng thương mại một trung gian tài chính với các điều kiện sau:
-Có khả năng bảo đảm về tài chính, có uy tín trong kinh doanh tiền tệ.
-Chuyên cung cấp các dịch vụ trung gian tài chính cho nền kinh tế.
-Có khả năng nắm bắt, thu thập thông tin do có mạng lưới khách hàng và đội ngũ cán bộ chuyên môn.
Ngân hàng thương mại hoàn toàn có khả năng cung ứng dịch vụ này thoả mãn nhu cầu nền kinh tế.
Mặt khác nếu tiếp cận theo các hình thức tín dụng ngân hàng thì có thể coi bảo lãnh là một loại hình tín dụng đặc biệt, tín dụng chữ ký. Ngân hàng không phải xuất vốn ngay mà chỉ phát hành thư bảo lãnh bảo đảm chi trả cho người thụ hưởng nếu người được ngân hàng bảo lãnh vi phạm hợp đồng ký kết với người thụ hưởng.
* Về pháp luật: ở một số nước bảo lãnh được thực hiện bởi các công ty bảo hiểm như ở Mỹ và Canada. Song phần lớn các quốc gia trên thế giới nghiệp vụ này ngân hàng được phép thực hiện.
Như vậy sự ra đời và tồn tại của bảo lãnh ngân hàng là khách quan và cần thiết.
Nếu như thư tín dụng đã được các ngân hàng sử dụng rông rãi từ những năm 30 thì bảo lãnh ngân hàng mới chỉ ra đời và phát triển vào đầu thập niên 70 của thế kỷ này. Sự phát triển nhanh chóng của các quốc gia sản xuất dầu hoả ở Trung Đông trong thời gian này cho phép họ ký kết những hợp đồng lớn với các công ty phương Tây cho những dự án lớn như cải tiến cơ sở hạ tầng, các tiện ích công cộng, dự án công nông nghiệp và quốc phòng. Nguồn gốc phát sinh nhu cầu bảo lãnh ngân hàng đặc biệt là bảo lãnh thanh toán ngay lần đầu là từ khu vực này.
Với sự phát triển của thương mại quốc tế ,các giao dịch ngày càng mang tính toàn cầu. Ví dụ các công ty kiến trúc của Hà Lan và Anh có thể cùng tham gia liên doanh các công ty khác trong một dự án xây dựng một sân bay và một số công trình phụ trợ ở Arập, thuê các nhà thầu phụ Nam Triều Tiên, mua thiếp bị từ nhà cung cấp ở Pháp.Tầm cỡ và sự phức tạp của các giao dịch đòi hỏi và thúc đẩy sự phát triển của bảo lãnh ngân hàng.
Hiện nay bảo lãnh ngân hàng phát triển rộng rãi trên nhiều lĩnh vực. Có thể chắc chắn rằng những thương vụ lớn với nước ngoài hiện nay không thể không có một dạng nào đó của bảo lãnh đi kèm.
Bảo lãnh còn đưởc sử dụng rộng rãi trong trị trường nội địa do tính đa dạng và năng động của nó. Bảo lãnh không chỉ hỗ trợ cho các hợp đồng thương mại mà cả các giao dịch phi thương mại, tài chính, phi tài chính như: bảo lãnh thanh toán, hoàn trả tiền ứng trước, thực hiện hợp đồng, bảo lãnh thuế quan...
Bảo lãnh không chỉ được thực hiện như một loại hình dịch vụ mà còn là một công cụ tài trợ cho các doanh nghiệp. Cùng với tín dụng chứng từ, bảo lãnh là một trong những loại hình giao dịch thông dụng và phổ biến nhất trong các hoạt động ngân hàng trên thế giới.
Khái niệm hoạt động bảo lãnh ngân hàng
Trước khi đưa ra khái niệm bảo lãnh trong ngân hàng, chúng ta hãy tìm hiểu về bảo lãnh nói chung và khái niệm bảo lãnh một số lĩnh vực khác.
Trong pháp luật dân sự nước ta khái niệm bảo lãnh được nêu trong điều 366 Bộ luật Dân sự: “ Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền ( gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ( gọi là người được bảo lãnh), nếu khi đến hạn mà nguời được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ ...”.
Trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế: “ Bảo lãnh tài sản là sự bảo đảm bằng tài sản thuộc quyền sở hữu của người nhận bảo lãnh để chịu trách nhiệm tài sản thay cho người được bảo lãnh khi người này vi phạm hợp đồng kinh tế đã ký kết...”
Từ đó ta đưa ra khái niệm chung về bảo lãnh như sau:
“ Bảo lãnh là sự cam kết của người nhận bảo lãnh sẽ thực hiện đầy đủ các nghiã vụ và quyền lợi nếu người xin bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng với bên yêu cầu bảo lãnh”.
Khái niệm bảo lãnh ngân hàng: Theo điều 2 trong Quy chế bảo lãnh ngân hàng( ban hành kèm theo Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/06/2006 của Thống đốc NHNN):
“Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng ( bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay”.
Đặc điểm bảo lãnh ngân hàng
Về thực chất, bảo lãnh là lời hứa thanh toán của ngân hàng với người được yêu cầu bảo lãnh khi người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bảo lãnh là một công cụ bảo đảm, chứ không phải là công cụ thanh toán. Nghiên cứu đặc điểm của bảo lãnh cho chúng ta cơ sở phân biệt giữa bảo lãnh với công cụ thanh toán và bảo đảm khác như thư tín dụng, bảo hiểm...
Bảo lãnh ngân hàng vừa là một nghiệp vụ tín dụng vừa là một nghiệp vụ phi tín dụng bởi khi hợp đồng bảo lãnh được ký kết thì ngân hàng chưa phải xuất tiền ra, nó là một tài sản ngoại bảng, nhưng nó vẫn hàm chứa rủi ro khi ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ thay cho khách hàng. Bảo lãnh là một hình thức tài trợ gián tiếp của ngân hàng đối với khách hàng thông qua uy tín của mình, chứ không phải hình thức tài trợ trực tiếp bằng tiền. Chúng ta sẽ nghiên cứu đặc điểm của nghiệp vụ này để hiểu rõ hơn bản chất của nó.
1.1.3.1. Bảo lãnh mang tính độc lập:
Một đặc tính hết sức quan trọng của bảo lãnh ngân hàng là tính độc lập với hợp đồng. Mặc dù mục đích của một bảo lãnh ngân hàng là bồi hoàn cho người thụ hưởng những thiệt hại từ việc không thực hiện hợp đồng của người được bảo lãnh nhưng việc thanh toán một bảo lãnh chỉ căn cứ vào các điều khoản điều kiện đã được quy định trong hợp đồng bảo lãnh. Bảo lãnh vô điều kiện tạo nên sự khác biệt với các hình thức bảo chứng cổ điển và các hình thức bảo lãnh kèm theo chứng từ. Ngược lại nếu là bảo lãnh có điều kiện hay bảo lãnh có kèm theo chứng từ như phán quyết của toà án, quyết định của trọng tài, xác nhận của bên thứ ba về sự vi phạm của người được bảo lãnh thì tính độc lập của bảo lãnh ít nhiều bị giảm sút.
Tính độc lập còn thể hiện trong trách nhiệm thanh toán của ngân hàng phát hành. Trách nhiệm này hoàn toàn độc lập với mối quan hệ giữa ngân hàng và người được bảo lãnh.Ngân hàng không được viện các lý do như: Người được bảo lãnh bị phá sản, vẫn còn nợ ngân hàng... để từ chối thanh toán.
Với ngân hàng quy tắc độc lập này cũng có thuận lợi. Khi người thụ hưởng có yêu cầu đòi tiền theo thư bảo lãnh, ngân hàng chỉ có trách nhiệm xem xét, kiểm tra xem những điều khoản, điều kiện của thư bảo lãnh có được thoả mãn hay không. Nhiệm vụ này được thực hiện khá dễ dàng. Do vậy ngân hàng không liên quan đến quyền nghĩa vụ các bên ttrong hợp đồng cơ sở và không liên quan tới tranh chấp phát sinh từ hợp đồng cơ sở giữa hai bên.
Tuy nhiên tính chất độc lập của bảo lãnh cũng làm tăng rủi ro do phải thanh toán hộ khi có sự không trung thực của bên yêu cầu bảo lãnh.
Nhưng cần nhớ rằng tính độc lập của bảo lãnh cũng phụ thuộc vào các điều kiện của bảo lãnh, nó là loại bảo lãnh vô điều kiện hay bảo lãnh có điều kiện (xem định nghĩa phần hai). Nếu là bảo lãnh vô điều kiện, việc thanh toán được thực hiện theo yêu cầu đầu tiên, tính độc lập được bảo đảm.
1.1.3.2. Bảo lãnh là một hoạt động ngoại bảng.
Hoạt động boả lãnh là việc ngân hàng đã sử dụng uy tín và khả năng chi trả của mình để cam kết thanh toán cho người thụ hưởng khi người thụ hưởng xuất trình chứng từ hợp lệ, chính vì vậy khi ký kết hợp đồng ngân hàng chưa phải thực hiện xuất tiền ngay, nên một hoạt động bảo lãnh phát sinh không làm thay đổi bảng cân đối kế toán của ngân hàng, không làm thay đổi cơ cấu tài sản cũng như nguồn vốn của ngân hàng. Do đó nó được xếp vào tài sản ngoại bảng. Tuy nhiên khi ký kết hợp đồng bảo lãnh ngân hàng vẫn phải quan tâm đúng mức đến nó bởi hợp đòng bảo lãnh vẫn hàm chứa rủi ro tiềm ẩn. Khi khách hàng không thực hiện cam kết, ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ chi trả cho bên thứ ba, số tiền này trở thành một khoản tín dụng bắt buộcđối với người được bảo lãnh, và được xếp vào loại tài sản xấu trong nội bảng.Do đó khi thực hiên nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng cũng phải tiến hành phân tích, thẩm định, đánh giá rủi ro như một hoạt động tín dụng bình thường.
1.1.3.3. Bảo lãnh tiến hành trên cơ sở chứng từ.
Ngân hàng chỉ thanh toán dựa trên bộ chứng từ phù hợp với hợp đồng bảo lãnh. Do vặyngời thụ hưởng chỉ có quyền yêu cầu thanh toán khi đã lập được đầy đủ các chứng từ hợp lệ mà không xem xét đến hàng hoá hay những sự kiện thực sự phát sinh liên quan đến hợp đồng thương mại hay quan hệ giữa bên yêu cầu mở và ngân hàng phát hành bảo lãnh.
Chính đặc điểm này mà hầu hết các luật về bảo lãnh đều quy định rất rõ trách nhiệm kiểm tra chứng từ phù hợp của ngân hàng phát hànhvà ngân hàng liên quancũng như trách nhiệm lập và xuất trình các chứng từ hợp lệ, đáp ứng các điều kiện trong hợp đồng bảo lãnh của bên hưởng bảo lãnh.
Khi người thụ hưởng bảo lãnh xuất trình chứng từ, ngân hàng phát hành có trách nhiệm kiểm tra tính đầy đủ, hợp lệ của chứng từ với các điều khoản và điều kiện trong hợp đồng bảo lãnh. Ngân hàng phát hành có quyền từ chối thanh toán nếu chứng từ không hợp lệ hoặc có điều khoản, điều kiện của bảo lãnh không được đáp ứng. Nếu ngân hàng không thực hiện đúng trách nhiệm kiểm tra chứng từ của mình thì ngân hàng sẽ không được bồi hoàn từ người được bảo lãnh. Do vây các ngân hàng cần thực hiện một cách nghiêm túc và khách quan để giảm thiểu rủi ro khi phải thực hiện nghĩa vụ thay cho khách hàng.
Phân loại hoạt động bảo lãnh ngân hàng
Phân loại theo phương thức phát hành
1.1.4.1.1. Bảo lãnh trực tiếp ( Direct guarantee):
Là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng bảo lãnh cam kết thanh toán không huỷ ngang trực tiếp với người thụ hưởng không qua ngân hàng trung gian. Ngân hàng chịu trách nhiệm trực tiếp với khách hàng, và khách hàng chịu trách nhiệm trực tiếp bồi hoàn cho ngân hàng.
Loại bảo lãnh này chịu sự chi phối của luật trong nước và khi hết hạn có thể trực tiếp tất toán với người bảo lãnh mà không cần hoàn trả thư bảo lãnh. Ưu điểm của loại bảo lãnh này là người được bảo lãnh không phải mất thêm phí hoa hồng cho ngân hàng đại lý nước ngoài.
Sơ đồ bảo lãnh trực tiếp:
Bên được bảo lãnh
Ngân hàng bảo lãnh
Bên thụ hưởng bảo lãnh
(2)
(3)
(1)
(1) Người được bảo lãnh ký kết hợp đồng cơ sở với bên thụ hưởng trong đó quy định các điều khoản của thư bảo lãnh.
(2) Bên được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phục vụ mình phát hành thư bảo lãnh.
(3) Ngân hàng phát hành thư bảo lãnh cho bên thụ hưởng.
1.1.4.1.2. Bảo lãnh gián tiếp ( Indirect Guarantee):
Là loại bảo lãnh mà ngân hàng uỷ nhiệm một ngân hàng thứ hai ở nước người thụ hưởng hoặc một ngân hàng khác mở tiếp bảo lãnh. Bảo lãnh này có lợi cho người thụ hưởng do họ được thuận tiện hơn trong giao dịch hoặc đòi tiền sau này. Ngân hàng bảo lãnh phát hành bảo lãnh theo chỉ thị của một ngân hàng trung gian phục vụ cho người được bảo lãnh dựa trên một bảo lãnh khác gọi là bảo lãnh đối ứng. Người được bảo lãnh không chịu trach nhiệm bồi hoàn cho ngân hàng phát hành mà ngân hàng trung gain chịu trách nhiệm bồi hoàn.
Người thụ hưởng không đòi tiền từ ngân hàng thứ nhất. Mối quan hệ giữa ngân hàng thứ nhất với ngân hàng thứ hai gần giống mối quan hệ giưã người được bảo lãnh và ngân hàng phát hành trong trường hợp bảo lãnh trực tiếp. Nghĩa vụ đền bù cho ngân hàng phát hành thường được quy định trong thư bảo lãnh đối ứng mà ngân hàng thứ nhất phát hành cho ngân hàng thứ hai được thụ hưởng. Theo đó, nếu ngân hàng phát hành phải trả tiền cho người được thụ hưởng theo đúng các điều khoản của thư bảo lãnh. Ngân hàng phát hành sẽ được ngân hàng trung gian bồi hoàn và ngân hàng trung gian sẽ đòi người được bảo lãnh.
Sơ đồ bảo lãnh gián tiếp.
(3)
Ngân hàng trung gian
Bên yêu cầu bảo lãnh
Bên thụ hưởng
Ngân hàng phát hành
(2)
(4)
(1)
Bên được bảo lãnh và bên thụ hưởng ký kết hợp đồng cơ sở trong đó có quy định các điều khoản bảo lãnh.
Người được bảo lãnh chỉ dẫn ngân hàng phục vụ mình phát hành thư bảo lãnh.
Ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng có quan hệ đại lý với mình đóng trụ sở ở nước người thụ hưởng phát hành thư bảo lãnh kèm theo thư bảo lãnh đối ứng hoặc thư tín dụng dự phòng cho ngân hàng đại lý thụ hưởng.
Ngân hàng đại lý phát hành thư bảo lãnh cho bên thụ hưởng.
1.1.4.1.3. Bảo lãnh được xác nhận
Trong bảo lãnh này ngoài ngân hàng phát hành, người thụ hưởng, người được bảo lãnh còn có ngân hàng xác nhận bảo lãnh, người được thụ hưởng bảo lãnh do không tin tưởng vào khả năng tài chính của ngân hàng phát hành đã chỉ định xác nhận bảo lãnh, nếu ngân hàng phát hành không đủ khả năng thanh toán cho người thụ hưởng bảo lãnh thì ngân hàng xác nhận sẽ là người thanh toán.
Tuy nhiên hình thức này không phổ biến vì nếu không tin tưởng ngân hàng phát hành, người thụ hưởng sẽ yêu cầu tái bảo lãnh.
1.1.4.1.4. Đồng bảo lãnh
Đồng bảo lãnh được áp dụng trong trường hợp có thương vụ lớn, rủi ro cao, một ngân hàng không thể thực hiện đựơc vì các quy định về pháp lý của chính phủ. Do vậy để phân tán rủi ro ngân hàng đó sẽ thực hiện một nghiệp vụ đồng bảo lãnh. Khi một nghiệp vụ đồng bảo lãnh phát sinh sẽ phải có một ngân hàng đứng ra làm đầu mối trong số các ngân hàng tham gia.trách nhiệm của ngân hàng này là phát hành thư bảo lãnh cho toàn bộ số tiền bảo lãnh, giữ chứng từ thế chấp, cầm cố,thu phí bảo lãnh và chia cho các ngân hàng khác theo tỷ lệ. Trách nhiệm thanh toán cho người được thụ hưởng là của ngân hàng đầu mối, sau khi đã thanh toán ngân hàng đầu mối sẽ đòi từ các ngân hàng thành viên số tiền đã thanh toán theo tỷ lệ tham gia của từng ngân hàng.
Phân loại theo mục đích
Đây là cách phân loại thông dụng nhất và cách này cho biết mục đích sử dụng của từng loại bảo lãnh. Các loại hình bảo lãnh theo cách phân loại này bao gồm:
1.1.4.2.1. Bảo lãnh dự thầu (Bid bond/ Tender guarantee)
Bảo lãnh dự thầu là cam kết của ngân hàng với chủ thầu sẽ trả tiền thay trong phạm vi thời hạn và số tiền bảo lãnh nếu bên dự thầu vi phạm quy chế dự thầu mà không nộp hoặc nộp không đủ số tiền phạt cho bên chủ thầu.
Trong việc thực hiện các hợp đồng xây dựng hoặc cung cấp hàng hoá, đấu thầu thường được sử dụng để lựa chọn đối tác tối ưu nhất. Việc đấu thầu bao gồm các bước gọi thầu, mở thầu, tuyên bố trúng thầu. Trong hồ sơ xin dự thầu chủ thầu yêu cầu người dự thầu phải có thư bảo lãnh của ngân hàng với giá trị từ 1% -3% tổng giá trị ước tính của giá bỏ thầu nhằm xác minh khả năng của họ tham gia đấu thầu. Mục đích của bảo lãnh dự thầu là khẳng định việc tham gia đấu thầu là nghiêm túc và người dự thầu sẽ ký hợp đồng nếu trúng thầu.Việc phát hành bảo lãnh dự thầu còn bảo đảm cho chủ thầu về khả năng tài chính của người thầu. Trong trường hợp trúng thầu các hình thức bảo lãnh cho các công việc tiếp theo như: bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tiền đặt cọc ... sẽ được sẵn sàng.
Nếu ngân hàng đồng ý bảo lãnh họ sẽ phát hành một thư bảo lãnh dự thầu. Chủ đầu tư có quyền đòi tiền theo thư bảo lãnh nếu nhà thầu không thực hiện đúng nghĩa vụ. Số tiền và thời hạn bảo lãnh được ghi trong thư bảo lãnh khớp đúng với đề nghị của bên yêu cầu bảo lãnh nhưng không trái với quy chế đấu thầu.
Điều kiện để chủ thầu đòi tiền theo thư bảo lãnh dự thầu là:
- Nhà thầu rút hồ sơ dự thầu trong thời gian còn hiệu lực nêu trong đơn dự thầu.
- Nhà thầu, khi được chủ thầu thông báo trúng thầu trong thời gian còn hiệu lực của đơn dự thầu mà:
+ Không ký hợp đồng theo phần chỉ dẫn khi được chủ thầu yêu cầu hoặc :
+ Không nộp bảo lãnh thực hiện hợp đồng cho chủ thầu.
Bảo lãnh dự thầu hoàn thành chức năng và sẽ không bị đòi tiền khi các nhà thầu khác thắng thầu. Đôi khi trong thư bảo lãnh dự thầu còn quy định rằng nó phải được trả lại nhà thầu khi họ không thắng thầu.
Các loại bảo lãnh dự thầu bao gồm:
- Bảo lãnh dự thầu xây lắp.
- Bảo lãnh dự thầu cung ứng máy móc, thiết bị, hàng hoá.
1.1.4.2.2. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng (Performance Guarantee):
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là cam kết của ngân hàng bảo lãnh về việc thực hiện hợp đồng của bên được bảo lãnh. Trong trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hợp đồng mà không nộp hoặc không nộp đủ tiền phạt cho bên yêu cầu bảo lãnh thì ngân hàng bảo lãnh trả thay trong phạm vi số tiền và thời hạn bảo lãnh.
Đây là loại bảo lãnh được dùng phổ biến nhất và có thể không phải yêu cầu một loại bảo lãnh nào khác ngoài nó trong quá trình mua bán hàng hoá hoặc dự thầu xây dựng.
Số tiền trong thư bảo lãnh thường có giá trị từ 5- 15 % giá trị hợp đồng cơ sở. Trường hợp đặc biệt trong bảo lãnh thực hiện hợp đồng xây lắp số tiền này có thể hơn 15% nhưng phải được người có thẩm quyền quyết định đầu tư chấp nhận. Số tiền bảo lãnh có thể giảm dần theo tiến độ hợp đồng. Thời hạn trong thư bảo lãnh được kéo dài đến khi hoàn thành hợp đồng như hàng hoá đã giao xong, máy móc thiết bị đã được vận hành, công trình được đưa vào sử dụng; sau đó chuyển sang giai đoạn bảo hành.
Các loại bảo lãnh thực hiện hợp đồng:
- Bảo lãnh thực hiện hợp đồng xây lắp.
- Bảo lãnh thực hiện hợp đồng cung ứng máy móc, thiết bị, hàng hoá.
1.1.4.2.3. Bảo lãnh bảo hành chất lượng sản phẩm theo hợp đồng (Maintenance Guarantee):
Là loại bảo lãnh ngân hàng cam kết với chủ thầu/ Nhà nhập khẩu trong trường hợp nhà thầu/ nhà xuất khẩu vi phạm hợp đồng về chất lượng sản phẩm mà không bồi thường hoặc không bồi thường đủ ngân hàng sẽ trả thay trong phạm vi số tiền và thời hạn bảo lãnh.
Bảo lãnh này phát hành nhằm bảo đảm nhà thầu/ Nhà xuất khẩu sẽ sửa chữa những hỏng hóc phát sinh sau khi giao hàng, bàn giao công trình hoặc bồi thường do hàng hoá thiếu hụt, phẩm chất kém.
Loại bảo lãnh này có hiệu lực trong thời gian bảo hành sản phẩm. Số tiền bảo lãnh thấp hơn nhiều so với bảo lãnh thực hiện hợp đồng thường từ 2% -5% giá trị hợp đồng.
Các loại bảo lãnh chất lượng sản phẩm:
- Bảo lãnh bảo đảm chất lượng công trình.
- Bảo lãnh bảo đảm chất lượng máy móc thiết bị và hàng hóa.
Bảo lãnh bảo hành chất lượng công trình được sử dụng nhiều trong hợp đồng xây lắp. Bảo lãnh nhằm thuyết phục chủ đầu tư giải toả lần thanh toán cuối cùng mà chủ đầu tư thường giữ lại để nhằm bảo đảm nhà thầu sẽ sửa chữa những hỏng hóc có thể xảy ra trong thời gian bảo hành công trình.
1.1.4.2.4. Bảo lãnh bảo đảm thanh toán (Payment Guarantee):
Đây cam kết của ngân hàng với bên thụ hưởng về việc thanh toán tiền đúng theo hợp đồng cơ sở của người được bảo lãnh. Trong truờng hợp người được bảo lãnh không hoặc không thanh toán đủ số tiền theo hợp đồng thì ngân hàng bảo lãnh sẽ chịu trách nhiệm trả thay cho người được bảo lãnh.
Bảo lãnh bảo đảm thanh toán nhằm mục đích tránh tổn thất cho người thụ hưởng trong trường hợp người được bảo lãnh không thanh toán hoặc không thanh toán đủ số tiền theo đúng hợp đồng.
Số tiền và thời hạn bảo lãnh phù hợp với số tiền và thời hạn thanh toán trong hợp đồng cơ sở.
Các loại bảo lãnh thanh toán:
- Bảo lãnh thanh toán tiền xây lắp công trình.
- Bảo lãnh thanh toán tiền lắp đặt máy móc thiết bị.
1.1.4.2.5. Bảo lãnh tiền ứng trước(Advanced Payment Guarantee):
Bảo lãnh tiền ứng trước là cam kết của ngân hàng về việc sử dụng tiền ứng trước của nhà thầu/ Người nhập khẩu với chủ thầu/ Người xuất khẩu. Ngân hàng sẽ trả thay trong phạm vi số tiền và thời hạn bảo lãnh nếu bên được bảo lãnh vi phạm họp đồng ứng trước.
Trong hầu hết các hợp đồng lớn, nhà xuất khẩu/ nhà thầu thường được ứng trước từ 5%- 15% giá trị hợp đồng để họ có nguồn hỗ trợ tài chính thực hiện hợp đồng, đặc biệt trong giai đoạn đầu thực hiện dự án. Đổi lại nhà nhập khẩu/ chủ đầu tư thường yêu cầu nhà thầu phải nộp một thư bảo lãnh tiền ứng trước để bảo đảm việc hoàn trả lại số tiền này trong trường hợp nhà thầu không thực hiện đúng hợp đồng.
Số tiền bảo lãnh có giá trị bằng toàn bộ số tiền ứng trước của hợp đồng.Tiền bảo lãnh ứng trước sẽ được giảm dần theo các chuyến giao hàng hoăc theo tiến độ thực hiện công trình.Vì vậy trong thư bảo lãnh loại này thường có điều khoản khấu trừ quy định việc giảm số tiền bảo lãnh tối đa của thư bảo lãnh khi có bằng chứng về việc đã hoàn thành từng việc của hợp đồng cơ sở. Ví dụ thư bảo lãnh tiền ứng trước trong hợp đồng mua bán hàng hoá giảm giá trị tới không khi nhà thầu đã giao hàng xuống tầu. Thư bảo lãnh tiền ứng trước khi đó hết hiệu lực và việc hoàn thành toàn bộ giao dịch sẽ được bảo đảm bằng thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng.
Mục đích của bảo lãnh tiền ứng trước có thể rộng hơn bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Chẳng hạn khi hai bên thoả thuận huỷ bỏ hợp đồng hay hợp đồng không được thực hiện do lý do khách quan thì thư bảo lãnh tiền ứng trước sẽ bị đòi tiền. Lý do là việc trả tiền theo thư bảo lãnh tiền ứng trước được xem như là trả lại số tiền chủ thầu đã ứng cho nhà thầu trong khi bảo lãnh thực hiện hợp đồng lại chỉ đảm bảo những tổn thất do vi phạm hợp đồng.
Các loại bảo lãnh tiền ứng trước gồm:
-Bảo lãnh tiền ứng trước thi công công trình.
-Bảo lãnh tiền ứng trước sản xuất máy móc thiết bị.
1.1.4.2.6. Bảo lãnh hoàn trả vốn vay (Repaymnet Guarantee):
Bảo lãnh hoàn trả vốn vay của ngân hàng là cam kết của ngân hàng sẽ trả thay nợ vay (Gốc và lãi) nếu bên đi vay không trả đủ hoặc đúng hạn nợ vay.
Việc bảo lãnh này nói chung khá phức tạp, số tiền bảo lãnh thường lớn do vậy rủi ro của ngân hàng bảo lãnh là rất cao. Ngân hàng phải xem xét tính khả thi của dự án, tài sản thế chấp và tư cách người vay để quyết định bảo lãnh bởi chính ngân hàng là người có trách nhiệm trả tiền khi người vay không có khả năng hoàn trả các khoản nợ đến hạn.
Số tiền và thời hạn bảo lãnh là số tiền, thời hạn ghi trong thư bảo lãnh theo đề nghị của bên đi vay phù hợp với hợp đồng vay vốn.
Ngoài hình thức phát hành thư bảo lãnh,ngân hàng có thể bảo lãnh vay vốn bằng cách mở L/C trả chậm, ký bảo lãnh trên các hối phiếu và giấy nhận nợ theo yêu cầu của người được bảo lãnh.
1.1.4.2.7. Các loại bảo lãnh khác:
Thư tín dụng dự phòng (Stand-by L/C):
Thư tín dụng dự phòng thường được sử dụng với mục đích tương tự như bảo lãnh thanh toán nhằm bảo đảm an toàn thanh toán trong trường hợp bên được bảo lãnh có thể không thực hiện hợp đồng cam kết.
Loại thư tín dụng này thường được sử dụng trong hợp đồng thương mại quốc tế. Người nhập khẩu thường phải cung cấp tín dụng cho người xuất khẩu dưới dạng tiền đặt cọc, ký quỹ, ứng trước, mở L/C.. Các khoản này chiếm tới 10-15 % tổng giá trị đơn đặt hàng. Vì vậy cần có bảo lãnh bảo đảm trả lại số tiền đó nếu bên xuất khẩu không thực hiện đúng nghĩa vụ giao hàng.
Để hiểu cách thức của một thư tín dụng dự phòng hãy so sánh nó với một thư tín dụng thông thường. Thư tín dụng dự phòng khác với một thư tín dụng thông thường ở những điểm sau:
Người làm đơn mở là người xuất khẩu và ngân hàng bên xuất khẩu sẽ phát hành thư bảo lãnh.
Người thụ hưởng là người nhập khẩu trong khi người thụ hưởng của thư tín dụng thông thường là người xuất khẩu.
Thư tín dụng dự phòng là một phương tiện bảo lãnh trong khi thư tín dụng thông thường là một phương tiện thanh toán.
Thư tín dụng dự phòng được áp dụng trong những trường hợp sau:
Mua bán máy móc và thiết bị toàn bộ.
Mua bán nguyên vật liệu với khối lượng lớn, thời hạn dài.
Mua bán đổi hàng, mua bán đối ứng, mua bán lại.
Bảo lãnh vận đơn (Bill Loading Guarantee):
Mục đích của bảo lãnh vận đơn nhằm bảo vệ người có quyền lợi chính đáng trước sự lợi dụng vận đơn. Số tiền bảo lãnh từ 100%-150% trị giá hàng hoá để có thể bù đắp những thiệt hại phát sinh, thường cho tới khi chủ hàng có hàng mới.
Có hai loại bảo lãnh vận đơn:
Bảo lãnh vận đơn người xuất khẩu là người đề nghị phát hành: Trong trường hợp này ngân hàng cam kết với người nhập khẩu bồi thường mọi thiệt hại có thể phát sinh đối với họ nếu vận đơn gốc không được xuất trình hoặc xuất trình hoặ._.c xuất trình không kịp thời.
Bảo lãnh vận đơn người nhập khẩu là người đề nghị phát hành: Ngân hàng cam kết với người chủ vận tải sẽ bồi thường mọi khoản thiệt hại nếu hàng hoá được giao cho một người không có quyền nhận hàng, do chứng từ thất lạc, đến chậm hơn tàu hoặc chủ hàng vận tải được uỷ nhiệm nhận hàng không có chứng từ để sử dụng.
Bảo lãnh thuế quan (Custom Guarantee):
Mục đích của bảo lãnh này là đảm bảo cho người có trách nhiệm nộp thuế trước những đòi hỏi của cơ quan thuế quan do chưa được thực hiện nghĩa vụ thuế của mình, như trong trường hợp nhập hàng tạm thời để tham gia hội chợ, nhập máy móc công cụ để lắp ráp công trình xây dựng. Giá trị bảo lãnh do cơ quan thuế quan ấn định trong từng trong từng trường hợp cụ thể. Thời hạn bảo lãnh cho đến khi hoàn tất nghĩa vụ nộp thuế.
Bảo lãnh sai sót trong chứng từ nhờ thu:
Theo đề nghị của nhà xuất khẩu ngân hàng cam kết với người nhập khẩu bù đắp những thiệt hại phát sinh trong phương thức thanh toán nhờ thu do việc xuất trình chứng từ không phù hợp với những điều khoản của hợp đồng mua bán hoặc số lượng chứng từ thiếu không được gửi tiếp theo.
Bảo lãnh hối phiếu (Draft Guarantee):
Đây là cam kết của ngân hàng trả tiền cho bên thụ hưởng khi hối phiếu đến hạn trả tiền mà bên được bảo lãnh không thực hiện đúng các trách nhiệm tài chính như đã quy định. Với hình thức bảo lãnh này phải ghi rõ nội dung và kèm theo chữ ký của đại diện bên đứng ra bảo lãnh. Ngân hàng chịu trách nhiệm đến mức như trách nhiệm của người được bảo lãnh đối với bên thụ hưởng trừ khi ngân hàng đã quy định trên hối phiếu.
Bảo lãnh phát hành chứng khoán (Underwriting Guarantee) :
Là việc ngân hàng đứng ra bảo lãnh cho việc phát hành cổ phiếu của một công ty thường chưa có uy tín, tiếng tăm trên thị trường. Với loại bảo lãnh này trách nhiệm của ngân hàng là phải thanh toán đủ mệnh giá ....
Phân loại theo điều kiện phát hành
1.1.4.3.1. Bảo lãnh vô điều kiện (Unconditional Guarantee ) : Còn được gọi là bảo lãnh theo yêu cầu (Demand Guarantee)
Đây là loại bảo lãnh trong đó việc thanh toán sẽ được thực hiện ngay sau khi ngân hàng nhận được yêu cầu đầu tiên của người thụ hưởng và xem đó là một lệnh thanh toán không đòi hỏi phải có chứng từ kèm theo.
Loại bảo lãnh này có tính độc lập cao nhất với các giao dịch khác kể cả hợp đồng cơ sở mà theo đó nó được phát hành. Người bảo lãnh không được viện dẫn bất cứ lý do gì để từ chối thanh toán. Loại bảo lãnh này được sử dụng rất phổ biến vì sự thuận tiện và lợi thế cho phía người hưởng và phù hợp với tập quán, thông lệ giao dịch của ngân hàng thương mại trên thế giới. Tuy nhiên mặt trái của nó là việc đòi bồi thường mang tính chủ quan, nên có thể xảy ra gian lận thậm chí lừa đảo nếu người thụ hưởng là đối tác không trung thực.
1.1.4.3.2. Bảo lãnh có điều kiện ( Conditional guarantee):
Đây là loại bảo lãnh mà người thụ hưởng, nếu muốn được trả tiền phải xuất trình chứng từ của phía thứ ba hoặc của Toà án để chứng minh sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng của đối tác.
Loại bảo lãnh này gây ra sự chậm chễ trong thanh toán trả bồi thường cho người thụ hưởng. Các ngân hàng cũng ngần ngại trong việc phát hành những bảo lãnh này vì họ có thể dây vào những tranh chấp phát sinh giữa cá bên trong quan hệ hợp đồng.Với các điều kiện chứng từ như trên, về bản chất bảo lãnh có điều kiện rất tương đồng với nghiệp vụ bảo hiểm. Do kém linh hoạt và không hợp với thông lệ giao dịch ngân hàng nên bảo lãnh có điều kiện ít được sử dụng trong nghiệp vụ ngân hàng thương mại. Vì vậy với nhiều nước bảo lãnh này do các công ty bảo hiểm phát hành như ở Mỹ và Canada. Hiện nay, bảo lãnh có điều kiện chỉ được sử dụng nhiều ở khu Trung Đông, Bắc Phi mà ít được sử dụng ở châu Âu. Một số các nước khác chấp nhận dạng bảo lãnh pha trộn của hai dạng trên miễn là các bên yêu cầu và ngân hàng đồng ý phát hành.
Các yếu tố trong bảo lãnh ngân hàng
Nội dung thư và hợp đồng bảo lãnh
Bảo lãnh ngân hàng phải được thực hiện bằng văn bản, bao gồm các hình thức sau:
Hợp đồng bảo lãnh;
Thư bảo lãnh;
Ký hậu hối phiếu;
Các hình thức khác pháp luật không cấm và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Phát hành thư bảo lãnh chỉ là một trong các hình thức bảo lãnh của ngân hàng mà ta sẽ xem xét ở phần dưới.Tuy nhiên đây là hình thức thông dụng nhất. Thông qua thư bảo lãnh chúng ta có thể hiểu rõ hơn một số khái niệm cũng như nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng.
Các bảo lãnh đều phải quy định:
- Ngân hàng phát hành
- Khách hàng yêu cầu mở bảo lãnh
- Bên hưởng bảo lãnh
- Hợp đồng cơ sở yêu cầu phát hành bảo lãnh
- Số tiền lớn nhất được thanh toán và loại tiền thanh toán
- Ngày hoặc sự kiện đáo hạn của bảo lãnh
- Các điều kiện đòi thanh toán
- Các điều khoản khấu trừ bảo lãnh nếu có
Một thư bảo lãnh thường bao gồm những nội dung sau:
Tên, địa chỉ người nhận
Phần mở đầu:
Các thành viên tham gia hợp đồng, số hợp đồng, ngày ký hợp đồng.
Tên hàng, giá trị hàng (công trình).
Mục đích bảo lãnh: Khẳng định việc thiết lập thư bảo lãnh ngân hàng như đã thoả thuận trong hợp đồng .
Phần mở đầu bao gồm một đoạn giới thiệu qua về nghiệp vụ chính từ đó dẫn tới thiết lập thư bảo lãnh ngân hàng. Phần này không mang tính bắt buộc nhưng cần thiết để làm rõ các phần sau.
*Phần nội dung: Tuyên bố trách nhiệm của ngân hàng:
Ngân hàng đứng ra bảo lãnh: tên, địa chỉ.
Bên chỉ thị bảo lãnh:Tên, địa chỉ.
Bên thụ hưởng bảo lãnh: Tên, địa chỉ.
Hợp đồng cơ sở dẫn tới bảo lãnh.
Số tiên tối đa và loại tiền phải trả :
Nếu không quy định điều này người thụ hưởng có thể yêu cầu đòi tiền lớn hơn số tiền trong thư bảo lãnh. Số tiền tối đa này không bao gồm lãi suất phạt trong trường hợp ngân hàng trả chậm.
Loại tiền trong thư bảo lãnh không nhất thiết phải là đồng tiền trong hợp đồng cơ sở.
Điều kiện đòi tiền: Đây là điều khoản quan trọng nhất của một thư bảo lãnh vì nó thể hiện mối quan hệ giữa các bên trong hợp đồng cơ sở và sự thoả thuận về phân chia rủi ro giữa các chủ thể này. Thường có các điều kiện sau:
+ Trả tiền theo yêu cầu đầu tiên.
+ Trên cơ sở xuất trình chứng từ hoặc phán quyết của toà án.
Thời hạn hiệu lực: Có ba cách quy định ngày hết hạn :
+ Quy định ngày cụ thể theo lịch.
+ Dựa trên một sự kiện xảy ra trong hợp đồng cơ sở. Ví dụ như thư bảolãnh tiền ứng trước trong hợp đồng mua bán thường quy định ngày hết hiệu lực là ngày người xuất khẩu hoàn thành nghĩa vụ giao hàng. Việc quy định này thường dùng với các trường hợp không xác định cụ thể ngày hoàn thành nghĩa vụ của người được bảo lãnh.
+ Phối hợp hai cách trên: Chẳng hạn thư bảo lãnh tiền ứng trước có thể quy định nó sẽ hết hiệu lực khi kết thúc giao hàng lần cuối nhưng không được muộn hơn một ngày cụ thể nào đó.
Điều khoản khấu trừ (nếu có): Điều khoản này có ý nghĩa làm giảm số tiền tối đa của thư bảo lãnh theo tiến độ thực hiện hợp đồng và do đó làm giảm trách nhiệm của ngân hàng và người được bảo lãnh theo thư bảo lãnh.
Điều khoản này thường xuất hiện trong thư bảo lãnh tiền vay vốn, bảo lãnh tền ứng trước..
Các nội dung khác như: Thời gian trả tiền của ngân hàng, chuyển nhượng, luật áp dụng và cơ quan tài phán...
Chữ ký của người có thẩm quyền: Thư bảo lãnh có thể lập bằng văn bản có chữ ký của người có thẩm quyền.
Hợp đồng bảo lãnh
1. Hợp đồng cấp bảo lãnh do bên bảo lãnh, khách hàng và các bên liên quan (nếu có) thoả thuận bao gồm các nội dung sau đây:
Tên, địa chỉ của bên bảo lãnh, khách hàng và thời gian ký hợp đồng;
Số tiền, thời hạn bảo lãnh và phí bảo lãnh;
Mục đích bảo lãnh;
Điều kiện thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh;
Hình thức bảo đảm cho nghĩa vụ của khách hàng đối với tổ chức tín dụng bảo lãnh, giá trị tài sản làm bảo đảm;
Quyền và nghĩa vụ của các bên;
Quy định về hoàn trả của khách hàng sau khi tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh;
Quy định về giải quyết tranh chấp phát sinh;
Chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ của các bên;
Những thoả thuận khác.
2. Hợp đồng cấp bảo lãnh có thể được sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ nếu các bên liên quan thoả thuận.
1.1.5.2 Phí bảo lãnh
Phí bảo lãnh là chi phí mà người được bảo lãnh phải trả cho ngân hàng do được hưởng dịch vụ này. Phí bảo lãnh phải đảm bảo bù đắp các chi phí bỏ ra của ngân hàng có tính đến các rủi ro mà ngân hàng có thể phải gánh chịu. Nếu xét bảo lãnh dưới góc độ một sản phẩm dịch vụ thì phí bảo lãnh chính là giá cả của dịch vụ đó.
Phí bảo lãnh có thể được tính bằng số tuyệt đối hoặc tính trên cơ sở tỷ lệ phí.
Phí bảo lãnh theo tỷ lệ phí được tính theo công thức:
Phí bảo lãnh = Số tiền bảo lãnh * Tỷ lệ phí * Thời gian bảo lãnh.
Số tiền bảo lãnh: Là số tiền ngân hàng cam kết trả thay khi bên được bảo lãnh không thực hiện đúng hợp đồng được ghi trong hợp đồng bảo lãnh.
Tỷ lệ phí (%): Được quy định cụ thể với từng loại bảo lãnh, từng ngân hàng và từng quốc gia khác nhau.
Phí bảo lãnh được tính vào phí dịch vụ nói chung của ngân hàng và đóng góp trực tiếp vào lợi nhuận của ngân hàng.
1.1.5.3. Phạm vi bảo lãnh
Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ các nghĩa vụ sau đây:
Nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi vay và các chi phí khác có liên quan đến khoản vay;
Nghĩa vụ thanh toán tiền mua vật tư, hàng hoá, máy móc, thiết bị và các khoản chi phí để khách hàng thực hiện các dự án hoặc phương án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh hoặc dịch vụ đời sống;
Nghĩa vụ thanh toán các khoản thuế, các nghĩa vụ tài chính khác đối với nhà nước;
Nghĩa vụ của khách hàng khi tham gia dự thầu;
Nghĩa vụ của khách hàng khi tham gia quan hệ hợp đồng với bên nhận bảo lãnh, như thực hiện hợp đồng, bảo đảm chất lượng sản phẩm, nhận và hoàn trả tiền ứng trước;
Các nghĩa vụ hợp pháp khác do các bên thoả thuận.
1.1.5.4. Giới hạn bảo lãnh
Tổng số dư bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 15% (mười lăm phần trăm) vốn tự có của tổ chức tín dụng. Tổng số dư bảo lãnh của chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng nước ngoài.
Số dư bảo lãnh của tổ chức tín dụng cho một khách hàng quy định tại khoản 1 điều này bao gồm tổng số dư bảo lãnh và các cam kết phát hành theo hình thức tín dụng chứng từ, ngoại trừ hình thức mở thư tín dụng trả ngay được khách hàng ký quỹ đủ hoặc được cho vay 100% giá trị thanh toán.
Rủi ro trong hoạt động bảo lãnh
1.1.6.1. Rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng, có một số quan điểm cho rằng thực hiện bảo lãnh gặp rất ít rủi ro Vì tiền của ngân hàng không ra khỏi ngân hàng mà chỉ phát hành mỗi thư bảo lãnh. Trong phần này chúng ta thử phân tích xem nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng có rủi ro không và mức độ rủi ro như thế nào.
Quan niệm chung nhất về rủi ro đó là những sự vật hiện tượng nằm ngoài ý muốn của con người và gây ra bất lợi cho con người.
Trong kinh doanh, mối nguy cơ bị rủi ro là lớn nhất vì các nhà kinh doanh không những phải gánh chịu nhữnh rủi ro chung như thiên tai, hoả hoạn... mà còn chịu rủi ro về thay đổi giá cả, sản phẩm ứ đọng, nợ nần dây dưa, thua lỗ...
Rủi ro trong kinh doanh được định nghĩa là sự xuất hiện một biến cố không mong đợi gây ra mất mát, thiệt hại về tài sản, thu nhập trong quá trình kinh doanh. Tương tự như vậy chúng ta có thể nói rủi ro trong bảo lãnh ngân hàng là những tổn thất có thể xảy ra ngoài dự kiến của ngân hàng khi thực hiện nghĩa vụ thanh toán các hợp đồng bảo lãnh.
1.1.6.2.Các loại rủi ro trong bảo lãnh ngân hàng
1.1.6.2.1. Mọi rủi ro của doanh nghiệp được bảo lãnh là rủi ro của ngân hàng:
Nguyên nhân gây ra rủi ro trong kinh doanh rất đa dạng. Ngoài những rủi ro chung như thiên tai, hoả hoạn còn có những nguyên nhân như thiếu thông tin, lạm phát, các chính sách không ổn định trong đó đặc biệt là chính sách thuế, tình hình chính trị không ổn định...
Quy chế về nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng đã khẳng định bảo lãnh cam kết của ngân hàng chịu trách nhiệm trả tiền thay cho bên được bảo lãnh nếu bên được bảo lãnh không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ đã thoả thuận với bên yêu cầu bảo lãnh.
Như vậy có thể kết luận rằng mọi rủi ro của các doanh nghiệp được bảo lãnh dẫn tới doanh nghiệp này có thể không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với bên yêu cầu bảo lãnh cũng sẽ là rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng.
1.1.6.2.2. Rủi ro tín dụng:
Trong bảo lãnh ngân hàng có loại bảo lãnh bảo đảm hoàn trả vốn vay. Tuy không phát tiền vay nhưng về thực chất mức độ trách nhiệm, nghĩa vụ ngân hàng trong nghiệp vụ này cũng tương đương như nghiệp vụ tín dụng. Hoạt động bảo lãnh bảo đảm hoàn trả vốn vay đặt ngân hàng trước cùng một rủi ro như rủi ro của các món cho vay trực tiếp.
Rủi ro tín dụng là rủi ro lớn nhất trong kinh doanh của ngân hàng thương mại. Nguyên nhân của rủi ro này là người vay cố tình dây dưa không trả nợ hoặc không có khả năng trả nợ. Người vay tạm thời có khó khăn về ngân quỹ hoặc do kinh doanh không có hiệu quả hoặc bị rủi ro.
1.1.6.2.3. Rủi ro về lãi suất:
Rủi ro về lãi suất trong bảo lãnh ngân hàng được thể hiện dưới nhiều dạng:
Trong nền kinh tế thị trường lãi suất huy động vốn luôn biến động trong khi mức phí bảo lãnh đã được xác định cố định trong suốt thời gian hiệu lực của bảo lãnh dẫn tới có khả năng rủi ro lãi suất trong trường hợp lãi suất bình quân đầu vào tăng.
1.1.6.2.4. Rủi ro hối đoái :
Tỷ giá hối đoái là quan hệ về giá trị giữa hai đồng tiền, hay nó là giá cả của đơn vị tiền tệ này được thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ khác. Tỷ giá luôn biến động nên ngoài các rủi ro thông thường, bảo lãnh bằng ngoại tệ còn có rủi ro hối đoái.
1.1.6.2.5. Rủi ro mất khả năng thanh toán
Thông thường tỷ lệ trích quỹ bảo lãnh là vào khoảng 5đến 10 % giá trị hợp đồng bảo lãnh, nếu rủi ro thực tế lớn hơn 5 đến 10% giá trị bảo lãnh thì khả năng thanh toán trong nghiệp vụ bao lãnh sẽ không bảo đảm, gây tác động xấu đối với khả năng thanh toán chung của ngân hàng. Ngược lại khi khả năng thanh toán chung của ngân hàng không đảm bảo khả năng thanh toán trong bảo lãnh cũng bị ảnh hưởng.
1.1.6.3. Mức độ rủi ro trong bảo lãnh ngân hàng:
Như đã phân tích ở trên, thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh cũng luôn đối mặt với rủi ro. Để đánh giá rủi ro trong các món bảo lãnh chúng ta hãy tìm hiểu mức độ rủi ro của các tài sản có của ngân hàng. Người ta phân chia tài sản có của ngân hàng ra thành 7 loại. Mỗi loại có một hệ số rủi ro khác nhau phản ánh mức độ rủi ro tín dụng của từng loại đó. Cụ thể là:
- Loại có hệ số rủi ro bằng 0% : Đó là tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại NHT, tiền cho chính phủ vay, các khoản vay có thế chấp bằng tiền.
- Loại có hệ số rủi ro bằng 10% : Đó là :
+Tiền mặt ngoại tệ tại quỹ
+ Tín dụng có bảo lãnh của NHNN và của chính phủ.
+ Tín dụng có thế chấp bằng ngoại tệ.
- Loại có hệ số rủi ro bằng 20% :
+ Tín dụng có thế chấp bằng vàng bạc, đá quý.
+ Các loại trái phiếu giữ tại ngân hàng
+ Các khoản tiền mặt trong quá trình thu.
- Loại có hệ số rủi ro bằng 40% :
+ Cho vay các tổ chức tín dụng
+ Tín dụng bảo lãnh bởi các tổ chức tín dụng khác
+ Tín dụng có thế chấp bằng hàng hoá
- Loại có hệ số rủi ro bằng 50%:
+ Tín dụng có thế chấp bằng động sản và bất động sản :
+ Hùn vốn, liên doanh, liên kết
+ Các tài sản của ngân hàng
- Loại có hệ số rủi ro bằng 100% : Các khoản tín dụng tư nhân và các thành phần khác nhau không có thế chấp.
Để xác định được mức độ rủi ro của các loại bảo lãnh chúng ta cũng xử lý theo một cách tương tự bằng cách ấn định cho mỗi loại bảo lãnh một loại tín dụng tương đương và ta sẽ có các hệ số rủi ro tương đương phản ánh mức độ rủi ro của các loại bảo lãnh.
Như vậy ta sẽ có hệ số rủi ro của loại ký quỹ 100% bằng đồng tiền bảo lãnh là 0 %. Hệ số này tăng dần lên đến 50% cho loại bảo lãnh có thế chấp bằng động sản và bất động sản và hệ số này đạt 100% cho loại bảo lãnh cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không có thế chấp.
Chất lượng hoạt động bảo lãnh
Khái niệm chất lượng hoạt động bảo lãnh
Trong một nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng có sự tham gia của ít nhất 3 chủ thể người yêu cầu bảo lãnh, ngân hàng phát hành, và người thụ hưởng bảo lãnh. Giữa các chủ thể đó có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chất lượng của hoạt động bảo lãnh là việc ngân hàng bảo lãnh đáp ứng được yêu cầu của bên được bảo lãnh, thoả mãn lợi ích của người được bảo lãnh. Nhưng bên cạnh đó vẫn bảo đảm an toàn tối đa cho ngân hàng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.
Trên giác độ ngân hàng thì chất lượng bảo lãnh được thể hiện thông qua lợi ích của khách hàng, sự hài lòng của khách hàng về dịch vụ này và mức độ an toàn của nghiệp vụ này.Tức lạ ngân hàng không phải trả thay cho người được bảo lãnh và các khoản phí thu từ hoạt động bảo lãnh làm tăng doanh thu cho ngân hàng. Chất lưọng bảo lãnh còn thể hiện ở chỗ khi tiến hành hoạt động này ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải ký quỹ tai ngân hàng theo 1 tỷ lệ nhất định, đây chính la mọtt nguồn vốn với chi phí rẻ cho ngân hàng, phục vụ cho nhu cầu thanh khoản của ngân hàng, hoặc đem lại lợi nhuận cho ngân hàng thông qua hoạt động tín dụng. Đồng thời thực hiện tốt hoạt động bảo lãnh góp phần nâng cao uy tín của ngân hàng trên thị trường.
Để nâng cao đựơc chất lượng hoạt động bảo lãnh ngân hàng phải đáp ứng được một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng, nhưng vẫn phẩi đảm bảo an toàn và sinh lợi cho mình tuân thủ quy định của luật pháp.
Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt mà hoạt động của nó cần phải dựa trên mối quan hệ lâu dài với khách hàng. Thông qua những mối quan hệ lâu dài này ngân hàng nắm được nhu cầu của khách hàng và cố gắng thỏa mãn tối ưu những nhu cầu đó. Trong giai đoạn hiện nay khi ngành tài chính ngân hàng ngày càng phát triển với sự bùng nổ của các ngân hàng thương mại cổ phần sự cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt thì nâng cao chất lượng nghiệp vụ đáp ứng nhu cầu khách hàng là yêu cầu hàng đầu. Có như thế mới thu hùt được khách hàng, nâng cao lợi nhuận của ngân hàng.
Hoạt động bảo lãnh phải đáp ứng các nhu cầu của khách hàng:
Với người được bảo lãnh:
Thời gian và thủ tục tiến hành nghiệp vụ bảo lãnh phải đơn giản, gọn nhẹ, và thuận tiện cho khách hàng
Mức phí hấp dẫn, tỷ lệ tài sản đảm bảo hay ký quỹ thấp.
Hạn mức bảo lãnh cho khách hàng lớn, phù hợp nhu cầu của khách hàng
Góp phần tạo điều kiện giúp đỡ doanh nghiệp mở rộng hoạt động kinh doanh nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp trên thị trường.
Với người hưởng bảo lãnh:
Khắc phục thiệt hại khi rủi ro xảy ra khi bên yêu cầu bảo lãnh không thực hiện theo cam kết.
Thời gian và thủ tục thanh toán bảo lãnh nhanh chóng thuận tiện.
Tạo được niềm tin với người nhận bảo lãnh.
Đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng nhưng ngân hàng vẫn phải đảm bảo an toàn trong hoạt động của mình, thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro. Do đó ngân hàng phải cân bằng được lợi ích của mình và của khách hàng, xác định biểu phí bảo lãnh cạnh tranh, phù hợp, đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng nhưng vẫn hấp dẫn khách hàng. Mức ký quỹ phải được xác định riêng cho từng đối tượng sao cho vẫn bảo đảm an toàn cho ngân hàng nhưng không gây khó khăn cho khách hàng do tồn đọng vốn không được sử dụng. Ngân hàng cũng cần chú trong mở rộng, đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh, đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu của khách hàng, phân tán, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt động bảo lãnh
1.2.2.1. Doanh số bảo lãnh và dư nợ bảo lãnh.
Doanh số bảo lãnh là tổng giá trị các khoản bảo lãnh phát sinh trong năm.
Dư nợ bảo lãnh là tổng giá trị các khoản bảo lãnh của ngân hàng tại một thời điểm.
Doanh số bảo lãnh tăng lên qua các năm cho thấy hoạt động bảo lãnh của ngân hàng đang được phát triển, cũng có nghĩa là chất lượng hoạt động bảo lãnh của ngân hàng không ngừng được nâng lên. Chất lượng hoạt động bảo lãnh được nâng lên thu hút thêm nhiều khách hàng đến với ngân hàng, nâng cao uy tín của ngân hàng trên thị trường. Doanh số bảo lãnh tăng trưởng đều đặn còn chứng tỏ sự hoạt động ổn định của ngân hàng, đây là một trong các yếu tố góp phần tạo lòng tin cho khách hàng.
Tuy nhiên, dư nợ bảo lãnh cao đồng nghĩa với mức độ rủi ro sẽ tăng lên, bởi hoạt động bảo lãnh vẫn bao hàm rủi ro như hoạt động tín dụng, rủi ro xảy ra khi ngân hàng phải đứng ra thực hiện thanh toán thay cho khách hàng, nếu tỷ lệ này lớn có thể đặt ngân hàng trước nguy cơ mất khả năng thanh toán nếu các biên pháp phòng ngừa rủi ro không được thực hiện tốt. Do đó chỉ tiêu dư nợ và doanh số bảo lãnh không phải chỉ tiêu duy nhất phản ánh đầy đủ và chính xác chất lượng hoạt động bảo lãnh. Chất lượng hoạt động bảo lãnh phải được kết luận sau khi kết hợp phân tích nhiều chỉ tiêu khác nữa.
Doanh thu từ hoạt động bảo lãnh.
Doanh thu từ hoạt động bảo lãnh là một chỉ tiêu đánh giá bao trùm hơn cả trong các chỉ tiêu định lượng, là một chỉ tiêu quan trọng vì nó phản ánh khả năng sinh lời của hoạt động bảo lãnh. Một hoạt động chỉ được đánh giá là có hiệu quả khi đem lại thu nhập ngày càng cao cho ngân hàng. Doanh thu bảo lãnh hình thành từ số phí mà khách hàng trả cho ngân hàng theo tỷ lệ phần trăm trên số tiền và thời gain bảo lãnh. Nó là tổng số phí mà ngân hàng thu được từ hoạt động bảo lãnh. Cũng giống như doanh số và dư nợ bảo lãnh, doanh thu bảo lãnh tăng trưởng một cách đều đặn phản ánh chất lượngbảo lãnh ngân hàng ngày càng được nâng cao, củng cố lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng.
Ngoài số liệu tuyệt đối còn phải xem xét doanh thu bảo lãnh trong mối quan hệ tương quan với doanh thu từ các hoạt động khác của ngân hàng. Có hai chỉ tiêu tương đối:
Tỷ trọng doanh thu Doanh thu từ hoạt động bảo lãnh
từ hoạt động bảo lãnh = 100%
trong doanh thu dịch vụ(%) Doanh thu từ dịch vụ
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời và vị trí của hoạt động bảo lãnh trong toàn bộ các hoạt động dịch vụ của ngân hàng. Tỷ trọng này càng lớn càng chứng tỏ tầm quan trọng của hoạt động bảo lãnh trong hoạt động kinh doanh dịch vụ của ngân hàng.
Tỷ trọng doanh thu Doanh thu hoạt động bảo lãnh
từ hoạt động bảo lãnh = 100%
trong tổng doanh thu (%) Tổng doanh thu
Chỉ tiêu này phản ánh vị trí của hoạt động bảo lãnh trong toàn bộ hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Dư nợ bảo lãnh quá hạn.
Dư nợ bảo lãnh quá hạn là khoản vốn ngân hàng trả thay cho khách hàng đã đến hạn thanh toán, không được gia hạn nợ mà khách hàng vẫn chưa bồi hoàn lại cho ngân hàng.
Dư nợ bảo lãnh quá hạn càng lớn chứng tỏ công tác thẩm định, quản trị rủi ro của ngân hàng không tốt, ngân hàng đứng trước nguy cơ mât vốn. Ngược lại một dư nợ bảo lãnh quá hạn nhỏ chứng tỏ ngân hàng quản lý tốt nguồn vốn của mình, công tác thẩm định, kiểm tra đánh giá tốt. Người ta cũng xem xét chỉ tiêu này trong mối quan hệ với doanh số bảo lãnh trong năm
Doanh số bảo lãnh quá hạn
Tỷ lệ bảo lãnh quá hạn (%) = 100%
Doanh số bảo lãnh
Chỉ tiêu này cho biết tỷ trọng doanh số bảo lãnh quá hạn trong tổng doanh số bảo lãnh, tỷ lệ doanh số bảo lãnh đã phát sinh rủi ro. Tỷ lệ này càng thấp là biểu hiện của một hoạt động bảo lãnh có chất lượng tốt.
Tuy nhiên, nếu khoản nợ bảo lãnh quá hạn phát sinh từ một khoản bảo lãnh từ năm trước thì tính chính xác của chỉ tiêu này không được đảm bảo do một phần dư nợ bảo lãnh quá hạn năm nay do nợ quá hạn từ năm trước để lại. Do đó để đánh giá chính xác hiệu quả hoạt động bảo lãnh trong năm người ta xem xét thêm một số chỉ tiêu khác như: cơ cấu dư nợ bảo lãnh quá hạn theo thòi gian, cơ cấu doanh số bảo lãnh theo thời gian,...
Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động bảo lãnh
Nhân tố chủ quan
Nhân tố chủ quan là những nhân tố thuộc về ngân hàng, nằm trong tầm kiểm soát của ngân hàng, và ngân hàng có thể tác động thay đổi nó.Nhân tố chủ quan mang tính chất quyết định tác động tới bảo lãnh và bao gồm các yếu tố của ngân hàng liên quan tới hoạt động bảo lãnh. Nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng có phát triển tốt hay không phụ thuộc vào điều kiện cũng như cách thức tổ chức và tiến hành bảo lãnh, tức là các chính sách của ngân hàng trong việc thực hiện bảo lãnh. Luật pháp chỉ là khung xương cho ngân hàng tiến hành bảo lãnh còn vận dụng có sát thực hợp lý hay không là tuỳ thuộc các ngân hàng.
Các yếu tố ảnh hưởng tới bảo lãnh ngân hàng như trình độ cán bộ, công tác điều hành quản trị, quy trình bảo lãnh, công nghệ ngân hàng và sự thu thập sử lý thông tin, chính sách tín dụng, kế hoạch phát triển của ngân hàng,... Đội ngũ cán bộ có trình độ và phẩm chất cao có thể ngăn ngừa đựơc rủi ro có thể gặp phải, và thái độ phục vụ tốt của cán bộ thực hiện bảo lãnh góp phần làm hài lòng khách hàng, nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh. Quy trình bảo lãnh hoàn thiện, nhanh gọn, chính xác, công nghệ hiện đại cũng góp phần nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh.
Nhân tố khách quan
Nhân tố thuộc về phía khách hàng:
Khách hàng là nhân tố tác động tương đối nhiều tới hoạt động bảo lãnh của ngân hàng bởi chính ngân hàng tiến hành hoạt động này là để thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Khách hàng tác động tới cả quy mô và chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng. Quy mô bảo lãnh của ngân hàng phụ thuộc vào nhu cầu của khách hàng, không có nhu cầu của khách hàng thì không có nghiệp vụ bảo lãnh. Còn nếu khách hàng xin bảo lãnh làm tốt các yêu cầu của ngân hàng như cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực, có trách nhiệm trong việc thực hiện những cam kết đã thoả thuận với bên yêu cầu bảo lãnh ... sẽ giúp ngân hàng rất nhiều trong tiến hành bảo lãnh.
Nhân tố bên ngoài:
Môi truờng là nhân tố khách quan tác động tới hoạt động bảo lãnh của một ngân hàng. Nhân tố môi trường ở đây bao gồm cả môi trường luật pháp và môi trường kinh tế.
Luật pháp là một bộ phận không thể thiếu của một nền kinh tế có sự quản lý của Nhà nước. Không có luật pháp hoặc luật pháp không phù hợp thì hoạt động của nền kinh tế sẽ gặp nhiều khó khăn. Pháp luật tạo môi trường pháp lý cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành thuận lợi và có hiệu quả, là cơ sở để giải quyết các tranh chấp, khiếu nại. Do vậy nhân tố pháp luật có vai trò rất lớn với các hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng. Khi hệ thống pháp luật không đồng bộ, không phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế, của nghiệp vụ bảo lãnh, các văn bản dưới luật bị mâu thuẫn nhau, khách hàng và ngân hàng nhiều khi không thể thực hiện đúng được. Điều này ảnh hưởng tới chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh.
Môi trường kinh tế cũng tác động tới bảo lãnh theo hai chiều. Một nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện cho các khách hàng của ngân hàng trong quá trình kinh doanh. Khi đó các doanh nghiệp không phải đối phó với các biến động bất ngờ, làm ăn có hiệu quả, có khả năng chiếm lĩnh thị trường và đặc biệt có khả năng thực hiện đúng các nghĩa vụ hợp đồng đã thoả thuận với bên yêu cầu bảo lãnh... Nó sẽ tránh được các rủi ro trong kinh doanh cho cả ngân hàng và khách hàng. Còn khi tình hình kinh tế tài chính bất ổn, các doanh nghiệp phải hứng chịu tình hình ngược lại và như vậy các thoả thuận với bên yêu cầu bảo lãnh khó được thực hiện. Tình hình này làm tăng khả năng ngân hàng phải trả thay cho khách hàng làm giảm chất lượng hoạt động bảo lãnh.
CHƯƠNG II :
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN THÀNH ĐÔ.
2.1 Tổng quan về chi nhánh BIDV Thành Đô
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của chi nhánh ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành Đô.
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) được thành lập theo quyết định số 177/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 26/04/1957 với tên gọi đầu tiên là Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam. Ngân hàng đã trải qua 50 năm hoạt động, xây dựng và trưởng thành với nhiệm vụ chuyên sâu trong lĩnh vực đầu tư phát triển với các tên gọi khác nhau:
Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam - trực thuộc Bộ tài chính (từ 26/04/1957 đến 26/06/1981)
Ngân hàng Đầu tư và xây dựng - trực thuộc Ngân hàng Nhà nước ( từ 26/02/1981 đến 14/11/1990)
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trực thuộc Ngân hàng Nhà nước ( từ 14/11/1990 đến nay)
Chi nhánh ngân hàng Đầu tư và phát triển Thành Đô được thành lập theo quyết định 127/2005/QĐ-HĐQT ngày 11/07/2005 của Hội đồng quản trị NHĐT & PTVN, ban đầu là chi nhánh cấp hai trực thuộc chi nhánh NHĐT & PT Bắc Hà Nội.
Ngày 14/08/2006 chuyển đồi thành chi nhánh ngân hàng ĐT & PT Thành Đô theo quyết định số 222/QĐ-HĐQT của Hội đồng quản trị BIDV và giữ tên đó cho đến giờ. Tuy mới chuyển đổi từ chi nhánh cấp hai lên chi nhánh cấp một nhưng Chi nhánh ngân hàng Đầu tư và phát triển Thành Đô đã có những thành tựu nhất định
2.1.2 Các sản phẩm dịch vụ chính của Chi nhánh:
Chi nhánh Thành Đô
Tín dụng Dự thầu
Thực hiện hợp đồng
Hoàn trả tiền ứng trước
Bảo hành chất lượng sản phẩm
Bảo lãnh Nộp thuế
Thanh toán
Đối ứng
Tín dụng ngắn hạn
Tín dụng trung và dài hạn
Cho vay cán bộ công nhân viên
Cho vay mua nhà, mua ô tô
Cho vay cầm cố giấy tờ có giá
Huy động vốn
Tiết kiệm thông thường
Tiết kiệm dự thưởng
Tiết kiệm bậc thang
Dịch vụ
Thanh toán quốc tế : L/c hàng nhập, L/c hàng xuất, Nhờ thu ( nhờ thu đến, nhờ thu đi, nhờ thu sec), Chuyển tiền, Chiết khấu, Ký hậu vận đơn, bảo lãnh nhận hàng
Dịch vụ khác: ATM, homebanking, thanh toán trong nước, trả lương tự động, thấu chi ( thẻ ATM power), dịch vụ thu chi hộ, chuyển tiền kiều hối, ….
2.1.3. Sơ đồ tổ chức bộ máy của Chi nhánh
Ban giám đốc
Khối tín dụng
Khối dịch vụ
Khối quản lý nội bộ
Khối đơn vị trực thuộc
Phòng tín dụng 1
Phòng tín dụng 2
Phòng thẩm định
Phòng quản lý tín dụng
P. DV khách hàng
P. Thanh toán quốc tế
Tổ tiền tệ kho quỹ
P. kế hoạch nguồn vốn
P.Tài chính kế toán P. Tổ chức cán bộ
Tổ Hành chính quản trị
Tổ Điện toán
P. Kiểm tra nội bộ
Phòng giao dịch 1
Phòng giao dịch 2
Điểm giao dịch
2.1.4 Kết quả hoạt động kinh doanh
2.1.4.1 Kết quả hoạt động vốn
Tổng nguồn vốn huy động bình quân của Chi nhánh năm 2007 đạt 235 tỷ đồng, tăng 44 tỷ đồng hay 32.04 % so với năm 2006.
Ngân hàng có những khách hàng truyền thống của Ngân hàng là các doanh nghiệp, công ty TNHH trên địa bàn. Đồng thời tìm kiếm những khách hàng mới, những tổ chức tín dụng. Nguồn vốn huy động từ nguồn gửi tiết kiệm của dân cư chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn huy động được.
2.1.4.2. Kết quả hoạt động tín dụng
Ngân hàng thực hiện đánh giá, xếp lọai khách hàng và phân loại nhóm nợ theo hướng dẫn của BIDV và ngâ._.lý hơn, tạo điều kiện hơn cho ngân hàng cũng như doanh nghiệp hoạt động song nó vẫn chưa thực sự mở ra những hành lang pháp lý thực sự thông thoáng và hợp lý. Do vậy, hệ thống các văn bản này vẫn cần phải có sự bổ sung, điều chỉnh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và ngân hàng khi thực hiện bảo lãnh.
Tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt động, kinh nghiệm và thói quen, các ngân hàng sẽ cụ thể hoá các văn bản. Vì thế khi thực hiện một số loại hình bảo lãnh như bảo lãnh vay vốn nước ngoài, phía ngân hàng sẽ phải tham khảo thêm các thông lệ chung để đưa ra các điều khoản trong hợp đồng và khi mối quan hệ bảo lãnh vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia thì việc giải quyết các tranh chấp sẽ khó khăn.
Bên cạnh đó, các văn bản Luật vẫn chưa bổ sung thêm các loại hình bảo lãnh mới mà nhu cầu về chúng đang ngày càng tăng như bảo lãnh nộp thuế. NHNN Việt Nam vẫn chưa chính thức thừa nhận, cho phép sử dụng các nghiệp vụ bảo lãnh này. Điều này khiến ngân hàng dè dặt khi đưa ra một sản phẩm mới.
Mức phí mà NHNN quy định vẫn còn là một vấn đề đáng quan tâm đòi hỏi phải có sự thay đổi thích đáng. Mức phí tối đa do NHNN quy đinh chưa đảm bảo cho ngân hàng cân đối được giữa doanh thu thu được với chi phí mà họ bỏ ra nhất là với bảo lãnh vay vốn nước ngoài.
Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam ban hành thẩm quyền quyết định bảo lãnh cho Giám đốc chi nhánh là cần thiết nhằm đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Đặc biệt đối với khoản bảo lãnh vay vốn nước ngoài phải trình NHĐT&PT Việt Nam duyệt. Tuy nhiên trong một số trường hợp, món bảo lãnh có giá trị nhỏ, thời hạn ngắn thì việc NHĐT&PT Việt Nam xem xét giải quyết sẽ kéo dài thời gian, ảnh hưởng tới tính kịp thời của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Mặt khác, quy trình bảo lãnh do NHĐT&PT Việt Nam ban hành đã tạo ra những chuyển biến rất lớn trong hoạt động bảo lãnh trong toàn hệ thống. Song nó vẫn còn nhiều vấn đề bất cập còn tồn tại như là quy trình còn phức tạp, các mẫu biểu được quy định sẵn đôi khi còn sai sót.
* Môi trường canh tranh gay gắt
Trong điều kiện hiện nay, trên địa bàn thành phố Hà Nội đã có hơn 4 Ngân hàng quốc doanh và rất nhiều ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh như VIB, ACB.... Trong số những ngân hàng trên có những ngân hàng có chiến lược Marketing rất tốt, số vốn lớn, khả năng cung ứng sản phẩm đạt ở mức cao. Đây là những ngân hàng có sức cạnh tranh cao. Do đó ngân hàng cần có định hướng phát triển cụ thể nhằm tăng sức cạnh tranh của ngân hàng mình.
* Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp
- Một vấn đề khá bức xúc hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam đó là trình độ và năng lực quản lý còn thấp. Điều này không những ảnh hưởng tới công tác tổ chức điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng tới quá trình doanh nghiệp đến xin bảo lãnh.
Trước hết, do trình độ quản lý yếu kém nên các doanh nghiệp thường không nắm chắc các quy định về bảo lãnh như yêu cầu về hồ sơ xin bảo lãnh, tài sản đảm bảo khiến cho ngân hàng mất nhiều thời gian để xem xét liệu đã đủ điều kiện thực hiện một món bảo lãnh chưa. Chính điều này đã làm ảnh hưởng tới hoạt động của bản thân doanh nghiệp do mất quá nhiều thời gian. Nếu ngân hàng xem xét qua loa thì có thể sẽ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng.
Thứ hai, do công tác tổ chức điều hành không tốt, ảnh hưởng tới quá trình thực hiện hợp đồng với đối tác. Tuy đã có tài sản đảm bảo nhưng khi có vi phạm xẩy ra thì ngân hàng vẫn bị ảnh hưởng, đặc biệt trong những trường hợp tài sản thế chấp sau khi phát mại không đủ bù đắp chi phí ngân hàng đã bỏ ra.
- Các doanh nghiệp Việt Nam nhất là các doanh nghiệp mới thường không có đủ điều kiện về tài sản đảm bảo. Với những DNNN, phần lớn tài sản nằm trong tình trạng lạc hậu, khó thanh khoản. Nhiều tài sản như công xưởng, đất đai lại thuộc quyền sở hữu của nhà nước nên gây khó khăn trong việc thanh lý, phát mại do chưa có văn bản Luật nào quy định rõ điều này.
Trong khi nhóm khách hàng mới chủ yếu là các công ty CP phải ký quỹ hoặc thế chấp 100%. Các tài sản này thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nên vấn đề thanh lý, phát mại là không có khó khăn nhiều. Nhưng với món bảo lãnh có giá trị bảo lãnh lớn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại không đáp ứng đủ điều kiện về tài sản thế chấp có giá trị tương đương. Vì thế làm mất cơ hội kinh doanh của cả ngân hàng và khách hàng.
- Bản thân các doanh nghiệp khi tiến hành một dự án đầu tư cũng không thẩm định kỹ càng. Có thể đầu tư vượt quá khả năng của mình dẫn đến việc không thực hiện được hợp đồng, Hoặc tính toán các yếu tố đầu vào hay xác định thời hạn bảo lãnh không chính xác khiến bị thua lỗ hoặc vi phạm về thời gian.
- Nguyên nhân gây ra tình trạng các ngân hàng khó kiểm soát, quản lý được khách hàng là do các doanh nghiệp vay vốn, mở tài khoản giao dịch tại nhiều ngân hàng khác nhau. Việc này khiến cho ngân hàng khó nắm bắt được tình hình hoạt động và công nợ thực tế của doanh nghiệp để có thể ra những quyết định đúng đắn.
CHƯƠNG III:
GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI CHI NHÁNH THÀNH ĐÔ.
3.1. Định hướng phát triển trong những năm tới
3.1.1. Định hướng chung
Mục tiêu, kế hoạch kinh doanh năm 2008
Lấy an toàn, chất lượng và hiệu quả bền vững làm mục tiêu hàng đầu trong hoạt động kinh doanh tại chi nhánh. Đặt mục tiêu hiệu quả kinh doanh bền vững trên cơ sở hoạt động có bài bản và chuẩn mực; quảng bá được hình ảnh của chi nhánh Thành Đô và thương hiệu BIDV.
Đảm bảo hiệu quả kinh doanh của chi nhánh. Thu nhập của cán bộ nhân viên 2008 cao hơn năm 2007. Chủ động cơ cấu lại nguồn huy động và sử dụng vốn, đảm bảo cơ cấu tài sản hợp lý về kỳ hạn - loại tiền - loại hình khách hàng... chuyển dịch theo hướng tích cực, tiệm cận với chuẩn quốc tế.
Tăng cường công tác dịch vụ, ngày càng nâng cao tỷ trọng của hoạt động này trong tổng lợi nhuận của chi nhánh trên cơ sở phát triển thêm nhiều loại hình sản phẩm dịch vụ mới hướng tới khách hàng dân cư, các doanh nghiệp vừa và nhỏ để tăng doanh số hoạt động dịch vụ.
Kiểm soát được mọi hoạt động, đảm bảo minh bạch, an toàn, hiệu quả. Chế độ thông tin báo cáo và chỉ đạo được thông suốt kịp thời.
Đào tạo chuyên sâu đội ngũ cán bộ có đạo đức nghề nghiệp, tinh thông nghiệp vụ.
Chỉ tiêu cụ thể
Trên cơ sở kết quả đạt được của năm 2007, với mục tiêu trên Chi nhánh xây dựng kế hoạch kinh doanh năm 2008 trên một số chỉ tiêu chính như sau:
- Chênh lệch thu chi: 34tỷ
- Thu dịch vụ ròng: 6tỷ
- Trích DPRR trong năm: 10 tỷ
- Lợi nhuận sau thuế 17.28 tỷ
- Tỷ lệ nợ quá hạn < 1.5%
- Tỷ lệ nợ xấu < 5%
3.1.2. Định hướng phát triển hoạt động bảo lãnh
Với mục tiêu phát triển Chi nhánh NHĐT&PT Thành Đô thành một chi nhánh mạnh trong hệ thống, sản phẩm có chất lượng tốt, có uy tín trong và ngoài nước thì phải không ngừng đổi mới, cải tiến chất lượng các nghiệp vụ đã có và phát triển thêm một số loại hình nghiệp vụ mới. Trong đó phải phát triển các hoạt động dịch vụ để nâng cao sức cạnh tranh, tăng thu nhập. Bên cạnh các nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, nghiệp vụ bảo lãnh là một trong các nghiệp vụ trong tương lai đem lại thu nhập cao cho ngân hàng. Đánh giá tình hình thực hiện bảo lãnh trong những năm vừa qua, ban lãnh đạo ngân hàng đã đề ra những mục tiêu phấn đấu sau:
- Tăng tỷ trọng thu nhập từ hoạt động bảo lãnh trong tổng thu nhập của ngân hàng để cơ cấu lại nguồn thu nhập giữa hoạt động tín dụng và hoạt động dịch vụ, phù hợp với mục tiêu phấn đấu xây dựng ngân hàng thành một chi nhánh hoạt động đa năng tổng hợp, có hiệu quả.
- Đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh. Bên cạnh việc củng cố, nâng cao chất lượng của các loại hình bảo lãnh đã có thì phát triển thêm một số loại hình bảo lãnh mới.
- Thực hiện tốt chính sách khách hàng, chiến lược Marketing để thu hút thêm khách hàng. Không chỉ phục vụ trong lĩnh vực xây dừng mà còn trong cả lĩnh vực thương mại, không chỉ phục vụ đối với thành phần kinh tế quốc doanh mà còn chú trọng tới các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
- Chú trọng tới việc đưa công nghệ hiện đại vào không chỉ hoạt động bảo lãnh mà còn tới tất cả các hoạt động khác nhằm đáp ứng nhu cầu một cách nhanh nhất với chất lượng tốt nhất.
- Đào tạo và quản lý tốt đội ngũ cán bộ, đặc biệt bồi dưỡng nâng cao kiến thức về nghiệp vụ bảo lãnh.
Trên cơ sở kết hợp phân tích những khó khăn vướng mắc trong công tác bảo lãnh, định hướng kinh doanh nói chung và nghiệp vụ bảo lãnh nói riêng tại ngân hàng trong những năm tới, em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp và kiến nghị như sau:
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh
3.2.1. Xây dựng hệ thống văn bản hướng dẫn hoàn thiện và cải tiến quy trình bảo lãnh
Quy trình bảo lãnh có thể hoàn thiện theo hướng
- Tăng cường công tác thẩm định khách hàng về mặt pháp lý, tài chính nhằm hạn chế rủi ro, nâng cao chất lượng bảo lãnh.
- Đơn giản hoá các thủ tục, giảm bớt thời gian xét duyệt nhưng vẫn phải đảm bảo an toàn, đầy đủ theo quy định. Giải quyết các vướng mắc xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên kịp thời tránh để khách hàng chờ đợi quá lâu.
- Nâng cao chất lượng theo dõi, giám sát và quản lý chặt chẽ khách hàng được bảo lãnh trong quá trình thực hiện hợp đồng.
- Chú trọng việc đánh giá, tổng kết, đúc rút ra kinh nghiệm sau khi tất toán một món bảo lãnh từ đó tìm ra những giải pháp hoàn thiện cho các món bảo lãnh tiếp theo.
3.2.2. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định
Giống như hoạt động tín dụng, hoạt động bảo lãnh cũng chứa đựng những rủi ro nhất định. Nếu ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì món bảo lãnh đó sẽ trở thành một món vay bắt buộc, khi đó nó sẽ có nguy cơ không thu hồi được nợ. Chính vì vậy để hạn chế rủi ro xẩy ra, ngân hàng cần phải hết sức chú trọng tới công tác thẩm định trước khi ra quyết định. Muốn vậy các cán bộ tín dụng cần đảm bảo tuân thủ quy trình và nội dung thẩm định phương án thực hiện hợp đồng kinh tế đã ký giữa hai bên. Tuy nhiên, quá trình này nhiều khi không được chặt chẽ và chính xác do các yếu tố khách quan và chủ quan. Do vậy trong việc thẩm định nhu cầu bảo lãnh, ngân hàng cần chú trọng hơn đến các vấn đề sau:
- Tư cách pháp nhân: Điều này là cần thiết đối với các khách hàng mới, đặc biệt là công ty cổ phần, công ty TNHH. Bởi vì, khi có tranh chấp xẩy ra, mọi việc đều được đưa ra trước pháp luật. Do đó, ngân hàng cần quan tâm tới tư cách pháp lý của khách hàng để nhằm tránh những bất lợi cho ngân hàng sau này.
-Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh: Các cán bộ tín dụng cần đặc biệt chú trọng tới việc phân tích tình hình hoạt động kinh doanh dựa trên các báo cáo tài chính, hay công suất sử dụng máy móc, số lượng công nhân viên. Việc thu thập thông tin có thể trực tiếp qua khách hàng hoặc qua bạn hàng, báo chí và đặc biệt là trực tiếp đến tìm hiểu tại doanh nghiệp. Bên cạnh đó cũng phải chú ý tới việc phân tích môi trường kinh doanh, đánh giá khó khăn, thuận lợi của doanh nghiệp từ đó đưa ra ý kiến xem liệu doanh nghiệp có khả năng hoàn thành được hợp đồng hay không.
- Khả năng điều hành của chủ doanh nghiệp: Đây là một yếu tố khá quan trọng, ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy, các cán bộ tín dụng cần phải đánh giá kỹ càng khả năng điều hành của lãnh đạo doanh nghiệp thông qua năng lực tổ chức (bố trí, sắp xếp lao động...), năng lực chuyên môn và uy tín của họ. Có thể thu thập thông tin qua các nhân viên, qua bạn hàng hoặc tiếp xúc trực tiếp. Kết hợp với kinh nghiệm từ trước, các cán bộ tín dụng sẽ đưa ra đánh giá chính xác hơn.
- Khả năng tài chính: Một trong những điều kiện để ra quyết định bảo lãnh đó là doanh nghiệp phải có khả năng tài chính lành mạnh, có khả năng trả được nợ. Ngân hàng sẽ xem xét đánh giá tình hình công nợ hiện có của doanh nghiệp, thu chi hàng năm của doanh nghiệp để ra quyết định.
- Định giá tài sản thế chấp: Đây là một trong những vướng mắc rất lớn không chỉ đối với chi nhánh mà còn đối với rất nhiều ngân hàng khác.
Trong thực tế, nhóm khách hàng truyền thống thường là các DNNN, tài sản thế chấp của họ chủ yếu thuộc quyền sở hữu của nhà nước do đó cơ chế thanh lý, phát mãi rất phức tạp. Do đó trước khi tiếp nhận tài sản thế chấp, cán bộ tín dụng cần nắm rõ các quy định hiện thời của các cơ quan chức năng về tài sản thế chấp đó để có phương hướng giải quyết phù hợp.
Một vấn đề gặp phải nữa đó là việc định giá tài sản thế chấp, đặc biệt tài sản đó là nhà cửa, máy móc, trang thiết bị. Việc định giá tài sản này gặp phải khó khăn do chúng có tính hao mòn. cả hữu hình và vô hình. Cán bộ tín dụng phải tính toán được chính xác mức độ hao mòn của tài sản dựa trên phương pháp tính hao mòn tại doanh nghiệp đó, đồng thời kết hợp với kinh nghiệm của bản thân. Ngoài ra cán bộ tín dụng cần tính đến cả hao mòn vô hình bằng cách đánh giá tình hình thị trường về loại tài sản đó, mức độ lên xuống của giá cả. Nếu tổng giá trị tài sản thế chấp không bằng 70% giá trị bảo lãnh thì phải yêu cầu doanh nghiệp đảm bảo thêm tài sản hoặc thực hiện thêm hình thức đảm bảo khác như ký quỹ.
3.2.3 Nâng cao tính cạnh tranh của hoạt động bảo lãnh
Những định hướng lớn và mục tiêu của ngân hàng chỉ có thể đạt được dựa trên cơ sở đáp ứng được các nhu cầu và đem lại lợi ích cho khách hàng. Vì vậy trong hoạt động bảo lãnh Chi nhánh nên điều hoà hợp lý giữa lợi ích của mình và khách hàng, nhàm nâng cao tính cạnh tranh cho hoạt động bảo lãnh của ngân hàng. Thực hiện như vậy, thu nhập của ngân hàng từ mỗi nghiệp vụ có thể sẽ giảm sút nhưng bù lại, ngân hàng sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn và tổng thu nhập từ hoạt động bảo lãnh có thể tăng lên.
Cụ thể hoá giải pháp này là ngân hàng nên áp dụng mức phí bảo lãnh linh hoạt đối với từng đối tượng khách hàng. Nhất là những khách hàng truyền thống, lâu năm, có uy tín thì nên có chế độ ưu đãi. Điều này sẽ tạo sự thoải mái, hài lòng va tạo mối quan hệ tốt đối với khách hàng.
Ngoài ra cũng phải chú trọng đến viêc xác định hạn mức bảo lãnh cho từng khách hàng. Hiện nay việc xác định hạn mức còn cứng nhắc và thiếu chặt chẽ. Điều này ảnh hưởng khá lớn đến chất lượng hoạt động bảo lãnh. Vì vậy, ngân hàng phải xác định hạn mức bảo lãnh dựa trên những cơ sở thống nhấtvà khoa học, đưa ra một hạn mức bảo lãnh hợp lý sẽ tạo điều kiện nâng cao chất lượng bảo lãnh.
Ngân hàng cũng nên điều chỉnh mức ký quỹ phù hợp với từng đối tượng khách hàng, tránh đọng vốn của khách hàng, nâng cao tính hấp dẫn của nghiệp vụ bảo lãnh.
Cùng với việc gia nhập WTO, môi trường hoạt động của ngành ngân hàng ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Vì vậy để thu hút, hấp dãn khách hàng thì Chi nhánh phải quan tâm đến việc thực hiện tốt chính sách Marketing, thoả mãn nhu cầu của khách hàng, mở rộng các nghiệp vụ bảo lãnh. Chi nhánh có chính sách đa dạng, phong phú, linh hoạt. Cụ thể như:
Ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng đến giao dịch như đảm bảo an ninh, thuận tiện , thủ tục gọn nhẹ nhanh chóng.
Thái độ đón tiếp của nhân viên nhã nhặn, tận tình, lịch sự.
Chi nhánh nên xây dựng một chiến lược Marketing hỗn hợp gồm chiến lược khách hàng, chiến lược sản phẩm, chiến lược giá cả,...nắm bắt nhu cầu thị trường để tìm ra giải pháp cho từng giai đoạn cụ thể.
3.2.4 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ quá trình thực hiện các món bảo lãnh.
Chi nhánh cần tăng cường kiểm tra kiểm soát với hoạt động bảo lãnh, với mục đích kiểm tra việc chấp hành các quy định, phát hiện các tồn tại, sai sot từ đó có những điều chỉnh kịp thời, phù hợp.
Trong nhiều trường hợp do các cán bộ tín dụng sau khi thực hiện một món bảo lãnh quên không chuyển thông tin xuống phòng kế toán nên không nhập ngoại bảng, ảnh hưởng tới việc thu phí. Do đó cần tăng cường các biện pháp kiểm tra đối với quá trình thực hiện bảo lãnh. Sau khi thực hiện xong một món bảo lãnh, yêu cầu tất cả các cán bộ tín dụng buộc phải vào sổ theo dõi. Để đến cuối tuần so sánh với phòng kế toán. Đồng thời phải hoàn thiện chương trình điện toán trong đó yêu cầu các cán bộ tín dụng khi thực hiện xong một món bảo lãnh phải nhập thông tin ngay.
Cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi, cập nhật tình hình vốn, hoạt động của doanh nghiệp, nhằm đảm bảo việc sử dụng vốn của doanh nghiêp đúng mục đích, khi phát hiện khách hàng sử dụng vốn không đúng mục đích thì chi nhánh phải có biện pháp xử lý kịp thời, thu hồi lại nợ trả cho bên cho vay. Cán bộ tín dụng cũng có thể tư vấn cho khách hàng sử dụng vốn có hiệu quả hơn, giải quết các khó khăn, điều này sẽ làm cho mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng ngày càng mật thiết.
3.2.5 Giải pháp về nguồn nhân lực
Con người là một trong những yếu tố quyết định tới kết quả của công tác bảo lãnh nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung. Do đó cần phải quan tâm tới công tác đào tạo, tổ chức cán bộ nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo lãnh, thúc đẩy hoạt động bảo lãnh ngày càng phát triển.
Ngân hàng cần phải chú ý thực hiện các hoạt động sau nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ cả về lý luận và thực tế cho các cán bộ tín dụng:
- Đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ thông qua các lớp đào tạo dài hạn trong và ngoài nước, kết hợp với đào tạo tại chỗ.
- Ngân hàng cần chú trọng tới việc nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học cho các cán bộ tín dụng. Bởi vì với những món bảo lãnh mà có liên quan tới phía nước ngoài như bảo lãnh vay vốn nước ngoaì, bảo lãnh thanh toán… thì việc am hiểu và nắm rõ các điều khoản ghi bằng ngoại ngữ trên hợp đồng là rất quan trọng. Để từ đó đưa ra các điều khoản khi ký hợp đồng bảo lãnh và phát hành thư bảo lãnh phải chính xác. Nếu không việc tranh chấp là khó tránh khỏi khi có vi phạm xẩy ra. Bên cạnh đó, một vấn đề nữa đặt ra với các cán bộ tín dụng là phải nắm rõ và thường xuyên cập nhật các thông tin về luật, quy tắc và thông lệ trong giao dịch bảo lãnh.
- Bồi dưỡng, nâng cao ý thức tinh thần trách nhiệm của toàn thể các cán bộ ngân hàng. Luôn phải coi hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của ngân hàng. Cần phải có thái độ niềm nở, phục vụ tận tình, chu đáo để tạo ra hình ảnh tốt về ngân hàng.
- Khuyến khích các cán bộ tự nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ. Khuyến khích các cán bộ học cao hơn, đặc biệt là nâng cao số cán bộ có trình độ đại học và sau đại học. Thường xuyên tổ chức các hội thi, phong trào tìm hiểu về các nghiệp vụ tại đơn vị giúp các cán bộ bổ sung kiến thức, trao đổi kinh nghiệm, tạo không khí đoàn kết trong ngân hàng.
- Tổ chức sắp xếp lao động phải hợp lý, đảm bảo phù hợp về trình độ, năng lực, tính cách, nguyện vọng. sở thích của mỗi người.
- Chi nhánh nên có một phòng Marketing riêng với các cán bộ chuyên sâu về lĩnh vực này để có các chiến lược toàn diện và tổng thể. Điều này sẽ giúp cho chi nhánh có được những chiến lược Marketing một cách toàn diện trên cơ sở những nghiên cứu có tính khoa học hơn. Đồng thời cũng giúp cho Phòng thẩm định chuyên sâu hơn về chuyên môn của họ. Trong phòng Marketing sẽ có không chỉ các cán bộ chuyên về Marketing mà còn có những cán bộ học chuyên về ngân hàng-tài chính để trao đổi thông tin, hỗ trợ nhau khi lập chiến lược.
- Để có được đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, bên cạnh những cán bộ ngân hàng có kinh nghiệm cần có các cán bộ trẻ có tính sáng tạo, năng động. Do đó cần có các chính sách thu hút, tuyển dụng các cán bộ có trình độ và năng lực cao từ các nơi khác. Đồng thời thu hút các cán bộ trẻ có tài năng, có khả năng tìm tòi, sáng tạo, năng động.
3.2.6. Hiện đại hoá trang thiết bị
Trong thời đại toàn cầu hoá như hiện nay, nếu chúng ta không được trang bị các công nghệ hiện đại để theo kịp với trình độ xã hội thì hiển nhiên là chúng ta sẽ đứng ngoài lề sự phát triển đó. Tuy hiện nay chi nhánh đã có một số trang thiết bị công nghệ ngân hàng tương đối hiện đại, nhưng vẫn chưa đầy đủ, và còn lạc hậu so với các ngân hàng trên thế giới và trong khu vực. BIDV đang từng bước hiện đại hoá trang thiết bị, công nghệ ngân hàng, tiến tới trở thành một tập đoàn tài chính lớn. Chi nhánh nên áp dụng nhiều hơn nữa các trang thiết bị, công nghệ vào hoạt động bảo lãnh, bởi đây cũng là một biện pháp giảm thiểu rủi ro, cũng như nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh.
3.2.7 Hoàn thiện công tác quản trị rủi ro trong hoạt động bảo lãnh
* Chính sách phí bảo lãnh
Phí bảo lãnh cũng là một nhân tố quyết định tới nhu cầu bảo lãnh của khách hàng. Ngân hàng nên đưa ra một chính sách phí linh hoạt có tính cạnh tranh cao để thu hút khách hàng nhưng vẫn phải đảm bảo bù đắp được chi phí cho ngân hàng. Ngân hàng nên có một biểu phí chi tiết hơn hiện nay, quy định cụ thể đối với từng loại đối tượng khách hàng, loại hình bảo lãnh, mức độ rủi ro đối với từng loại.
* Mức ký quỹ:
Tuỳ từng đối tượng khách hàng mà ngân hàng nên có mức ký quỹ cho hợp lý. Bởi vì mức ký quỹ là 100% tỏ ra không hợp lý vì nó gây khó khăn cho khách hàng do bị đông vốn lưu động. Chi nhánh nên yêu cầu khách hàng ký quỹ theo môt tỷ lệ nhất định đồng thời kết hợp linh hoạt với các hình thức đảm bảo khác như đảm bảo bằng số dư tài khoản tiền gửi hoặc tài sản thế chấp. Điều này rất có ý nghĩa đối với khách hàng khi giá trị bảo lãnh lớn. Tuỳ từng đối tượng mà cán bộ tín dụng sẽ đưa ra mức ký quỹ và hình thức đảm bảo khác cho phù hợp.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát quản lý khách hàng về mặt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng với bên nhận bảo lãnh cũng như với ngân hàng
Cán bộ tín dụng phải thường xuyên đôn đốc khách hàng thực hiện đúng các quy định trong hợp đồng. Nếu khách hàng gặp khó khăn, cán bộ sẽ cùng họ tham gia tìm hiểu nguyên nhân để từ đó có biện pháp tháo gỡ, khắc phục. Thường xuyên phối hợp với các phòng ban như phòng kế toán để theo dõi số dư tiền gửi tại ngân hàng đồng thời theo dõi tình hình công nợ của doanh nghiệp tại ngân hàng khác. Nếu khách hàng có dấu hiệu vi phạm thì phải có biện pháp xử lý kịp thời.
3.3. Kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền
Một môi trường pháp lý đồng bộ, đầy đủ và phù hợp với thực tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng không những cho hoạt động của ngân hàng mà còn cho tất cả các tổ chức kinh tế. Nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng phát triển. Nghiệp vụ bảo lãnh là một nghiệp vụ mới tại Việt Nam, mặc dù các văn bản pháp luật đã ra đời song nó vẫn chưa quy định rõ ràng và đầy đủ. Ngay như vấn đề tài sản thế chấp đã phát sinh từ khi có hoạt động tín dụng nhưng cho đến nay vẫn chưa có văn bản nào quy định rõ về việc thanh lý, phát mãi tài sản thế chấp của các DNNN. Do đó việc xây dựng một hành lang pháp lý đầy đủ và đồng bộ, thống nhất là yêu cầu cấp thiết đối với sự phát triển của hệ thống NHTM Việt Nam. Các văn bản liên quan đến bảo lãnh được chính phủ ban hành vẫn chưa có điều lệ quốc tế điều chỉnh, điều này gây bất lợi cho phía Việt nam khi có tranh chấp với nước ngoài. Cho nên việc xây dựng hành lang pháp lý đòi hỏi phải có sự phối hợp của nhiều Bộ, ngành có liên quan.
- Chính phủ cần quy định rõ ràng danh mục tài sản cầm cố, quy định xử lý danh mục tài sản thế chấp, cầm cố khi doanh nghiệp không trả được nợ ngân hàng.
- Chính phủ và các Bộ cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện quy chế đấu thầu để đảm bảo chắc chắn rằng tất cả các doanh nghiệp có đủ điều kiện đều có cơ hội tham gia. Đây cũng là một giải pháp để đảm bảo an toàn cho nghiệp vụ Bảo lãnh ngân hàng.
- Tiếp tục duy trì chế độ thế chấp, cầm cố tài sản đối với các Doanh nghiệp Nhà nước nhưng trong đó nên đồng ý cho phép ngân hàng có thể phát mãi các tài sản trên để thu nợ.
- Tiếp tục tiến hành cổ phần hoá các Doanh nghiệp Nhà nước nhằm nâng cao vai trò làm chủ thực sự của các doanh nghiệp mà đặc biệt là khẳng định quyền sở hữu hợp pháp của các doanh nghiệp này đối với các tài sản thế chấp để làm căn cứ đảm bảo cho ngân hàng khi thực hiện bảo lãnh.
Chính phủ cũng cần ổn định môi trường chính trị xã hội, môi trường kinh tế vĩ mô, xây dựng cơ chế thị trường đồng bộ, hoàn chỉnh hệ thống tiền tệ, tín dụng, và giá cả. Môi trường kinh tế phát triển ổn định, lành mạnh sẽ là động lực thúc đẩy hoạt động tài chính, tiền tệ - ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng. Bất ổn về chính trị xã hội luôn đem lại những rủi ro bất khả kháng đối với doanh nghiệp làm giảm chất lượng của hoạt động bảo lãnh.
3.3.2. Với ngân hàng nhà nước
3.3.2.1. Về điều kiện được bảo lãnh
NHNN quy định tổng số tiền bảo lãnh tối đa cho một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam. Trong trường hợp vượt mức trên thì phải được chấp thuận của NHNN. Điều này nên để cho các ngân hàng tự giải quyết không nên trình từng trường hợp, nên để ngân hàng thực hiện báo cáo theo định kỳ.
3.3.2.2. Về mức phí bảo lãnh
Ngoài ra, mức phí tối thiểu mà NHNN hiện đang quy định tương đối cao. Nếu các cán bộ tín dụng mà tuân theo quy định của NHNN thì lại không thu hút được khách hàng, thiết nghĩ NHNN nên xem xét điều này để có sự thống nhất, không ảnh hưởng tới hoạt động của các ngân hàng. Đồng thời các cán bộ tín dụng khi thoả thuận mức phí sẽ dễ dàng hơn, không bị trái Luật.
3.3.2.3. Về các hình thức bảo lãnh
Hiện nay, có nhiều loại hình bảo lãnh mà các ngân hàng thương mại đã thực hiện hoặc khách hàng đang có nhu cầu nhưng trong các văn bản Luật vẫn chưa quy định cụ thể, chỉ quy định một cách rất chung chung là các loại bảo lãnh khác. Những loại bảo lãnh mới nhưng đã được các ngân hàng áp dụng như bảo lãnh thuế,... Để tạo điều kiện cho các ngân hàng hoạt động dễ dàng hơn, không gặp phải cản trở do trong Luật chưa quy định rõ ràng, thiết nghĩ NHNN nên quy định rõ hơn về các loại bảo lãnh mới này.
3.3.3. Kiến nghị với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Tuỳ thuộc vào từng loại bảo lãnh và đối tượng khách hàng mà ngân hàng quyết định mức phí cho hợp lý. Trong trường hợp doanh nghiệp xin ký quỹ 100% thì rõ ràng doanh nghiệp sẽ cảm thấy thiệt thòi, vì vậy nên chăng cần phải quy định mức phí bảo lãnh linh hoạt hơn với từng loại bảo đảm.
Hiện nay, NHĐT&PT Việt Nam đang quy định mức thẩm quyền quyết định cho chi nhánh là 30 tỷ cho một món bảo lãnh. Nếu số tiền bảo lãnh mà vượt mức trên thì phải trình lên NHĐT&PT Việt Nam xem xét và giải quyết. Thiết nghĩ nên nâng cao mức phán quyết cho các chi nhánh để đỡ mất thời gian cho khách hàng và cũng tạo điều kiện cho chi nhánh hoạt động một cách tự chủ hơn.
Quy trình bảo lãnh còn phức tạp, có nhiều phần quy định không cần thiết, gây phiền hà cho khách hàng. Thiết nghĩ NHĐT&PT Việt Nam nên giảm bớt các quy định, các phần không cần thiết. Trong phần Lập tờ trình nằm trong Bước2 – Quyết định bảo lãnh, nên bỏ phần Nội dung Tờ trình vì phần trên đã nêu rõ rằng các cán bộ tín dụng khi lập tờ trình đã phải nêu đầy đủ quan điểm cá nhân đồng thời có ý kiến của trưởng phòng tín dụng. Trong phần này chỉ cần nêu rằng: “ Nội dung Tờ trình được thảo trên cơ sở mẫu tờ trình có sẵn. Tờ trình NHĐT&PT Việt Nam phải tuân theo Mẫu tờ trình số BM 02a/QT-BL-02” là đủ.
Ngoài ra, trong quy trình bảo lãnh, ở Bước 4, phần theo dõi thực hiện hợp đồng bảo lãnh có nêu: “ Kiểm tra, theo dõi khách hàng (trừ trường hợp bảo lãnh bằng ký quỹ 100% vốn tự có)” là không chính xác. Bởi vì đối với trường hợp bảo lãnh bằng ký quỹ 100% vốn tự có thì cán bộ tín dụng cũng cần phải theo dõi việc thực hiện hợp đồng bảo lãnh vì điều này sẽ ảnh hưởng tới uy tín của ngân hàng đối vơí người nhận bảo lãnh vì thế thiết nghĩ chỉ nên viết là: “Kiểm tra, theo dõi khách hàng: ”.
Mặt khác, trong quy trình bảo lãnh chưa đưa ra cách tính hạn mức đối với loại bảo lãnh hạn mức một cách tốt nhất. Thiết nghĩ NH ĐT&PT Việt Nam nên xem xét lại điều này và đưa ra một cách tính hạn mức phù hợp nhất. Cách tính hạn mức này phải dựa trên hạn mức bảo lãnh năm trước của khách hàng (khách hàng truyền thống mới được bảo lãnh hạn mức) và dựa trên các món bảo lãnh thực phát sinh vào năm trước đó, đồng thời trên cơ sở phân tích nhu cầu bảo lãnh có thể phát sinh trong năm tới của họ. Phân tích nhu cầu bảo lãnh trong năm tới có thể căn cứ vào khả năng phát triển kinh doanh từ đó xác định nhu cầu cần xây dựng hay mua máy móc thiết bị...của các doanh nghiệp khi đề nghị bảo lãnh sao cho phù hợp nhất.
Ngoài ra, đối với việc gia hạn bảo lãnh, đơn xin gia hạn không có phần duyệt của ngân hàng. Do đó khi gia hạn, cán bộ tín dụng lại phải làm lại tờ trình này, đây là một điều không thuận lợi, mất nhiều thời gian cho khách hàng. Do đó, trong tờ trình xin gia hạn bảo lãnh phải có luôn phần duyệt của ban lãnh đạo.
KẾT LUẬN
Cho đến nay, bảo lãnh ngân hàng là một loại hình nghiệp vụ không thể thiếu đối với các ngân hàng cũng như với sự phát triển kinh tế của đất nước, nhu cầu đổi mới hoạt động của hệ thống NHTM càng đòi hỏi ngày một hoàn thiện và phát triển. Chính vì vậy các nghiệp vụ ngân hàng ngày càng được áp dụng rộng rãi nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của ngành.
Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu và qua quá trình tìm hiểu thực tế về hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh NH ĐT&PT Thành Đô, bằng phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, chuyên đề tốt nghiệp đã đạt được một số kết quả sau:
- Khái quát được quá trình hình thành, sự cần thiết ra đời hoạt động bảo lãnh cũng như những vấn đề cơ bản khác về nghiệp vụ bảo lãnh.
- Tổng hợp và phân tích tình hình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh tại Chi nhánh NH ĐT&PT Thành Đô, từ đó tìm hiểu những mặt hạn chế tại Chi nhánh từ đó tìm ra nguyên nhân của những hạn chế đó.
- Trên cơ sở thực tế, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng.
Chuyên đề tốt nghiệp của em được thực hiện trong thời gian 4 tháng đến nay đã kết thúc. Song do trình độ hiểu biết còn hạn chế và thời gian nghiên cứu hạn hẹp nên chuyên đề chưa thể bao quát được nội dung của toàn bộ hoạt động bảo lãnh cũng như không thể tránh khỏi những sai sót do chưa có tính thực tế. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo và tập thể cán bộ tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành Đô để nội dung chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Để hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp, ngoài sự nỗ lực của bản thân, em còn nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô trường ĐH KTQD, tập thể phòng tín dụng 2, Chi nhánh ngân hàng ĐT&PT Thành Đô.
Em xin trân trọng cảm ơn thầy Lê Đức Lữ và toàn thể các thầy cô giáo khoa Ngân hàng - Tài chính giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12404.doc