Trường đại học kinh tế quốc dân
--- *** ---
Vũ Thị Phương Oanh
Nâng cao chất lượng đào tạo nghề bằng biện pháp tăng cường sự liên kết giữa trường dạy nghề với doanh nghiệp
Chuyên ngành: Quản trị nhân lực
luận văn thạc sỹ kinh tế
người hướng dẫn khoa học: ts. Vũ thị mai
Hà Nội, năm 2008
Mục lục
Danh mục viết tắt
Danh mục bảng, biểu đồ
Lời mở đầu
Danh mục chữ viết tắt
GTZ : Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức
ISO : International Organization for Standardization
ILO : International Lab
130 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1596 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng đào tạo nghề bằng biện pháp tăng cường sự liên kết giữa trường dạy nghề với doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
our Organization (Tổ chức Lao động thế giới)
TW : Trung ương
ĐTN : Đào tạo nghề
ĐH : Đại học
CĐ : Cao đẳng
THCN : Trung học chuyên nghiệp
SL : Số lượng
SPKT : Sư phạm kỹ thuật
HS : Học sinh
GDKT&DN : Giáo dục Kỹ thuật và Dạy nghề
LĐTBXH : Lao động Thương binh và Xã hội
MOLISA : Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
ADB : Asian Development Bank (Ngân hàng đầu tư phát triển châu á)
AFD : Cơ quan phát triển Pháp
Ndf : Northern Development Fund-Quỹ phát triển Bắc Âu
JICA : Cơ quan hợp tác phát triển Nhật Bản
ODA : Official Development Assistance (hỗ trợ phát triển chính thức)
LMIS : Hệ thống thông tin thị trường lao động
GTVT : Giao thông vận tải
TNDT : Thanh niên dân tộc
Tp. HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
BME : Đánh giá giám sát lợi ích
CNKT : Công nhân kỹ thuật
TCN : Trung cấp nghề
CĐN : Cao đẳng nghề
HĐTVTN (PIAC) : Hội đồng tư vấn trường ngành
TBTVCT (SIAC) : Tiểu ban tư vấn chương trình
Danh mục bảng, biểu đồ
1) Bảng 1 : Tổng hợp tình hình thực hiện đào tạo nghề giai đoạn 2003-2007
2) Bảng 2 : Số lượng giáo viên và cán bộ quản lý trong các cơ sở dạy nghề
3) Bảng 3 : Tổng hợp trình độ tay nghề của giáo viên dạy nghề
4) Bảng 4 : Thực trạng nghiệp vụ sư phạm của giáo viên dạy nghề
5) Bảng 5 : Tổng hợp diện tích mặt bằng phòng học của các trường
6) Bảng 6 : Các trường trọng điểm thuộc dự án GDKT&DN
7) Bảng 7 : Đánh giá mức độ hữu ích của các chương trình đào tạo đối với công việc hiện tại
8) Bảng 8 : Tổng hợp số lượng giáo viên tại 15 trường trọng điểm
9) Bảng 9 : Số lượng giáo viên được đào tạo, bồi dưỡng trong khuôn khổ dự án GDKT&DN
10) Bảng 10 : Cơ cấu giáo viên phân theo trình độ giảng dạy
11) Bảng11 : Tình trạng cán bộ quản lý tại các trường trọng điểm
12) Bảng 12 : Tổng hợp tình hình trang bị học liệu, tài liệu của các trường trong khuôn khổ dự án GDKT&DN
13) Bảng 13 : Tổng hợp tình hình thiết bị chuyên môn của 15 trường
14) Bảng 14 : Tổng hợp việc làm và thu nhập của học sinh tốt nghiệp
15) Bảng 15 : Đánh giá về mức độ phù hợp giữa nghề được đào tạo và việc làm theo trình độ đào tạo
16) Bảng 16 : Đánh giá của doanh nghiệp về mức độ đáp ứng yêu cầu công việc của người được đào tạo
17) Bảng 17 : Đánh giá của học sinh về mức độ đáp ứng yêu cầu công việc sau khi tốt nghiệp
18) Bảng 18 : Tổng hợp nguồn thu tại 15 trường trọng điểm
19) Bảng 19 : Thực trạng xây dựng chương trình đào tạo nghề tại các trường
20) Bảng 20 : Tổng hợp hình thức và mức độ liên kết với doanh nghiệp của các trường trọng điểm
21) Bảng 21 : Đánh giá về mức độ liên kết với các trường nghề của doanh nghiệp
22) Bảng 22 : Dự báo nhu cầu lao động – việc làm của nền kinh tế quốc dân giai đoạn 2010-2015
23) Bảng 23 : Kế hoạch tuyển sinh dạy nghề giai đoạn 2008-2020
24) Bảng 24 : Quan hệ liên kết giữa cơ sở đào tạo nghề và doanh nghiệp
25) Biểu đồ 1: Đánh giá tổng hợp chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực ở một số nước châu á
26) Biểu đồ 2: Đánh giá của các trường về khả năng đáp ứng yêu cầu công việc của học viên tốt nghiệp
Trường đại học kinh tế quốc dân
--- *** ---
Vũ Thị Phương Oanh
Nâng cao chất lượng đào tạo nghề bằng biện pháp tăng cường sự liên kết giữa trường dạy nghề với doanh nghiệp
Chuyên ngành: Quản trị nhân lực
Tóm tắt Luận văn
người hướng dẫn khoa học: ts. Vũ thị mai
Hà Nội, năm 2008
Lời nói đầu
Hiện nay, ở Việt Nam có rất nhiều trường dạy nghề đang thực hiện đào tạo nghề với quy mô tương đối lớn và cơ cấu ngành nghề phong phú. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo ở hầu hết các trường dạy nghề chưa cao. Rất nhiều người sau khi đã tốt nghiệp các trường dạy nghề vẫn không đáp ứng được yêu cầu công việc. Một trong những nguyên nhân quan trọng của hiện tượng này là do thiếu sự liên kết giữa nhà trường với doanh nghiệp trong đào tạo nghề. Cung đào tạo do các trường dạy nghề đưa ra chủ yếu dựa trên khả năng của mình mà không tính tới đường cầu tương ứng từ các doanh nghiệp. Điều này dẫn đến sự mất cân đối cung – cầu đào tạo cả về quy mô, cơ cấu và đặc biệt là chất lượng, gây ra những lãng phí lớn và giảm hiệu quả đào tạo.
Xuất phát từ thực tế trên và điều kiện nghiên cứu của bản thân, tác giả chọn đề tài “Nâng cao chất lượng đào tạo nghề bằng biện pháp tăng cường sự liên kết giữa các trường dạy nghề với doanh nghiệp” làm luận văn thạc sỹ cho mình.
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích:
Hệ thống một số vấn đề lý luận cơ bản về đào tạo nghề, chất lượng đào tạo nghề và sự liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo nghề.
Phân tích và đưa ra những đánh giá, kết luận về chất lượng đào tạo, mức độ liên kết giữa các trường và doanh nghiệp trong đào tạo nghề cũng như mối quan hệ giữa chúng.
Đề xuất hệ thống giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề thông qua tăng cường sự liên kết giữa các trường dạy nghề và doanh nghiệp.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu về chất lượng đào tạo nghề và sự liên kết với doanh nghiệp trong đào tạo nghề tại 15 trường dạy nghề trọng điểm thuộc dự án Giáo dục Kỹ thuật và Dạy nghề, Tổng cục Dạy nghề.
Về thời gian: luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng trong giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2007. Các giải pháp cho giai đoạn tiếp theo.
Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh;
Điều tra thực tế tại 15 trường trọng điểm;
Thống kê số liệu.
Kết cấu luận văn: Ngoài mục lục, lời mở đầu, danh mục chữ viết tắt, danh mục bảng biểu, kết luận và các tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm 3 chương:
+ Chương 1: Cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng đào tạo nghề bằng biện pháp tăng cường sự liên kết giữa trường dạy nghề và doanh nghiệp.
+ Chương 2: Phân tích thực trạng về chất lượng đào tạo và sự liên kết giữa trường và doanh nghiệp tại các trường dạy nghề thuộc dự án giáo dục kỹ thuật và dạy nghề.
+ Chương 3: Các giải pháp liên kết giữa trường và doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề.
Chương 1:
cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng đào tạo nghề bằng biện pháp tăng cường sự liên kết giữa trường dạy nghề và doanh nghiệp.
Chương 1 trình bày các vấn đề mang tính lý thuyết về chất lượng đào tạo nghề và sự liên kết giữa cơ sở đào tạo với doanh nghiệp trong dạy nghề như sau:
Đào tạo nghề và chất lượng đào tạo nghề.
Khái niệm về đào tạo nghề, phân loại và các hình thức đào tạo nghề.
- Trình bày một số khái niệm về “đào tạo nghề”. Theo Luật dạy nghề ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2006: “Dạy (đào tạo) nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khoá học”.
- Phân loại đào tạo nghề theo 2 tiêu thức là thời gian đào tạo (có đào tạo ngắn hạn, đào tạo dài hạn) và nghề đào tạo (có đào tạo mới, đào tạo lại và đào tạo nâng cao).
- Giới thiệu một số hình thức đào tạo nghề chủ yếu cùng với ưu nhược điểm của nó, gồm: đào tạo nghề chính quy, đào tạo nghề tại nơi làm việc, tổ chức các lớp cạnh doanh nghiệp, đào tạo nghề kết hợp tại trường và doanh nghiệp.
Quan điểm về chất lượng đào tạo nghề.
- Nêu một số khái niệm về chất lượng nói chung và quan niệm về chất lượng đào tạo nghề trong những không gian và thời gian khác nhau. Trên cơ sở đó, đưa ra cách khái niệm khác về chất lượng đào tạo nghề như sau: “Chất lượng đào tạo nghề là kết quả tác động tích cực của tất cả các yếu tố cấu thành hệ thống đào tạo nghề và quá trình đào tạo vận hành trong môi trường nhất định”.
Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nghề
Trình bày các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nghề bao gồm:
- Các yếu tố bên trong của quá trình đào tạo hay yếu tố đảm bảo chất lượng đào tạo nghề, gồm: Cơ sở vật chất, tài chính; Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý; Học viên học nghề; Mục tiêu đào tạo; Chương trình, giáo trình đào tạo. Chất lượng của các yếu tố này sẽ tác động quyết định tới chất lượng đào tạo nghề.
- Các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo nghề với tính chất là điều kiện, hỗ trợ cho hệ thống, hợp với các yếu tố bên trong thành hệ các yếu tố tác động đến chất lượng đào tạo nghề.
Liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo nghề
Các nội dung và hình thức liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong lĩnh vực đào tạo nghề.
Liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp được hiểu là mọi quan hệ tương tác giữa nhà trường và doanh nghiệp, hợp thành một hệ thống đào tạo nghề thống nhất và phù hợp, trong đó chức năng của hệ thống được tích hợp từ hai bộ phận tạo thành là trường và doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo.
Việc liên kết có thể được thực hiện trên một hoặc nhiều nội dung khác nhau, trong luận văn này giới thiệu một số hình thức liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trên 5 nội dung cơ bản sau:
Liên kết về tổ chức đào tạo;
Liên kết về tài chính và cơ sở vật chất;
Liên kết về nhân sự;
Liên kết về thiết kế và xây dựng chương trình đào tạo;
Liên kết về thông tin
Tương quan tổ chức giữa trường và doanh nghiệp và các mức độ liên kết trong đào tạo nghề.
Mối quan hệ về mặt tổ chức giữa trường nghề và doanh nghiệp chi phối rất nhiều tới mức độ, hình thức cũng như hiệu quả liên kết giữa hai đối tượng này trong lĩnh vực đào tạo nghề.
Luận văn giới thiệu 3 kiểu tổ chức trường – doanh nghiệp phổ biến hiện nay cùng với đặc trưng, ưu – nhược điểm của từng kiểu tổ chức trong việc liên kết đào tạo nghề. Bao gồm:
- Tổ chức trường nằm trong doanh nghiệp;
- Tổ chức doanh nghiệp nằm trong trường;
- Trường dạy nghề và doanh nghiệp là những đơn vị độc lập.
Việc liên kết đào tạo giữa trường nghề và các doanh nghiệp được thực hiện ở nhiều mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào yêu cầu và khả năng của mỗi bên. Về cơ bản, có các mức độ liên kết như sau:
- Liên kết toàn diện: là sự liên kết trong đó có sự tham gia phối hợp của phía doanh nghiệp cùng với nhà trường trong mọi lĩnh vực, mọi khâu của quá trình đào tạo nghề.
Liên kết toàn diện thường chỉ có ở các mô hình tổ chức doanh nghiệp nằm trong trường hoặc trường nằm trong doanh nghiệp. Đối với các mô hình tổ chức độc lập giữa trường và doanh nghiệp thì khó đạt được mức độ liên kết toàn diện song trên thực tế vẫn có một số trường thiết lập được hợp đồng liên kết toàn diện và thường xuyên.
- Liên kết từng phần (có giới hạn): là sự liên kết chỉ được thực hiện trong một số lĩnh vực hoặc một số khâu của quá trình đào tạo nghề.
Với mức độ liên kết từng phần, có thể chia ra làm hai loại là liên kết thường xuyên và liên kết rời rạc. Liên kết thường xuyên là hai bên duy trì sự liên kết một cách liên tục, đều đặn trong thời gian dài ở một số nội dung nhất định. Liên kết rời rạc là sự liên kết không đều đặn, mang tính thời điểm và chỉ thực hiện khi các bên có nhu cầu và điều kiện.
Một số mô hình liên kết giữa trường dạy nghề và doanh nghiệp phổ biến trên thế giới.
Giới thiệu một số mô hình liên kết đào tạo giữa trường dạy nghề và doanh nghiệp phổ biến trên thế giới, đặc trưng và ưu nhược điểm của mỗi mô hình. Bao gồm: Mô hình đào tạo kết hợp “Alternation”; mô hình “Dual system” và mô hình “đào tạo tuần tự”.
Tăng cường kiên kết giữa trường và doanh nghiệp nâng cao chất lượng đào tạo nghề.
Chất lượng đào tạo nghề được đảm bảo bởi một hệ thống các yếu tố cơ bản bên trong của quá trình đào tạo nghề, nếu chất lượng của các yếu tố này được nâng cao thì chất lượng đào tạo nghề sẽ được nâng cao.
Trong phần này, tác giả phân tích tác động của việc liên kết đào tạo giữa trường và doanh nghiệp tới chất lượng của các yếu tố đảm bảo chất lượng đào tạo nghề. Từ đó khẳng định việc thiết lập sự liên kết giữa trường và doanh nghiệp trong đào tạo nghề sẽ cải thiện các yếu tố đảm bảo chất lượng đào tạo, từ đó nâng cao chất lượng đào tạo nghề.
Chương 2:
Phân tích thực trạng về chất lượng đào tạo và sự liên kết giữa trường và doanh nghiệp tại các trường dạy nghề thuộc dự án giáo dục kỹ thuật và dạy nghề
Phân tích sơ lược về thực trạng hệ thống đào tạo nghề của Việt Nam và đi sâu phân tích thực trạng về chất lượng đào tạo tại các trường dạy nghề thuộc dự án Giáo dục Kỹ thuật và Dạy nghề (GDKT&DN) (trường trọng điểm), thực trạng và một số nguyên nhân hạn chế sự liên kết giữa trường với doanh nghiệp trong đào tạo nghề.
2.1 Phân tích chung về thực trạng hệ thống đào tạo nghề của Việt Nam.
Giới thiệu hệ thống cơ sở đào tạo nghề, qui mô và chất lượng đào tạo, thực tế liên kết với doanh nghiệp của các cơ sở đào tạo nghề.
Hiện nay, Việt Nam đã có một hệ thống dạy nghề rộng khắp trong cả nước với 70 trường cao đẳng nghề; 254 trường trung cấp nghề; 665 trung tâm dạy nghề; trên 1.000 cơ sở có dạy nghề khác (bao gồm các trường cao đẳng, đại học có dạy nghề, trung tâm hướng nghiệp...).
*) Qui mô đào tạo nghề hàng năm không ngừng tăng lên (từ 5 đến 8%/ năm giai đoạn 2003-2007) trong đó đào tạo dài hạn tăng nhanh hơn so với ngắn hạn (chi tiết tại Bảng 2.1). Tuy nhiên, qui mô này mới chỉ đáp ứng khoảng 30% nhu cầu nguồn nhân lực kỹ thuật mà Nghị quyết TW2 khoá VIII đề ra. Để đạt được chỉ tiêu 50 – 60% lao động qua đào tạo vào năm 2020 đề ra trong chiến lược phát triển dạy nghề, ngành đào tạo nghề cần nỗ lực cao hơn nữa.
*) Cùng với sự gia tăng về qui mô, chất lượng đào tạo nghề những năm gần đây cũng có những cải thiện nhất định. Nhưng với sự phát triển quá nhanh của khoa học – công nghệ và xu thế hội nhập hiện nay, chất lượng đào tạo nghề tại Việt Nam đang bộc lộ nhiều hạn chế.
Theo khảo sát của công ty tư vấn rủi ro Chính trị và Kinh tế, chất lượng đào tạo và nguồn nhân lực của Việt Nam trong thời gian vừa qua được đánh giá gần thấp nhất trong khu vực châu á (Biểu đồ 1).
2.2 Phân tích thực trạng về chất lượng đào tạo và sự liên kết giữa trường và doanh nghiệp tại các trường trọng điểm.
2.2.1 Phân tích thực trạng về chất lượng đào tạo nghề và các yếu tố đảm bảo chất lượng đào tạo nghề tại các trường thuộc dự án.
Chất lượng đào tạo nghề là kết quả tác động tích cực của tất cả các yếu tố cấu thành hệ thống đào tạo nghề và quá trình đào tạo vận hành trong môi trường nhất định. Trong khuôn khổ luận văn này sẽ tập trung phân tích chất lượng đào tạo nghề dưới tác động của một số yếu tố cơ bản đảm bảo chất lượng đào tạo (đã trình bày tại chương 1) tại 15 trường nghề trọng điểm thuộc dự án GDKT&DN được chọn ra từ hệ thống dạy nghề quốc gia.
Phương pháp phân tích được lựa chọn là đi từ phân tích thực trạng của các yếu tố đảm bảo chất lượng đào tạo nghề để đưa ra những kết luận về chất lượng đào tạo dưới tác động của các yếu tố này.
2.2.2.1 Thực trạng các yếu tố đảm bảo chất lượng đào tạo nghề.
2.2.2.1.1 Chương trình đào tạo.
Hiện 15 trường trọng điểm đã và đang tiến hành xây dựng chương trình đào tạo theo phương pháp mới với sự tham gia của các chuyên gia về phát triển tài liệu, giáo viên có trình độ và kinh nghiệm, các chuyên gia của các cơ sở sản xuất và dịch vụ.
Các chương trình mới này vừa phù hợp với chương trình khung của Nhà nước vừa bám sát thực tiễn sản xuất và đáp ứng tốt hơn yêu cầu của thị trường lao động. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp đã có việc làm đánh giá các chương trình mới này ở mức độ rất hữu ích đối với công việc hiện tại cao hơn (52,9%) so với các chương trình cũ (khoảng 30%).
Tuy nhiên, số chương trình mới này còn ít so với tổng số chương trình mà các trường đang tiến hành đào tạo nên về tổng thể thì chương trình đào tạo của các trường hiện tại vẫn rơi vào tình trạng chung của các cơ sở đào tạo nghề trong toàn hệ thống đó là đã lạc hậu và thiếu cập nhật.
2.2.2.1.2 Đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên.
* Về giáo viên:
Giống như các cơ sở đào tạo khác, số lượng giáo viên dạy nghề tại các trường cũng không ngừng gia tăng trong những năm gần đây song vẫn không kịp đáp ứng do qui mô đào tạo tăng nhanh. Chưa có trường nào đảm bảo được định mức chuẩn của dạy nghề là 15 học sinh/ 1 giáo viên.
Các trường đã và đang tranh thủ mọi nguồn lực để đầu tư nâng cao trình độ cho đội ngũ giáo viên của mình bằng các khoá đào tạo, bồi dưỡng dài hạn và ngắn hạn ở cả trong và ngoài nước đồng thời thực hiện chặt chẽ khâu thi tuyển đầu vào khi tuyển thêm giáo viên để đảm bảo chất lượng giáo viên.
Về cơ bản các trường đã có được một đội ngũ giáo viên tương đối có chất lượng, đặc biệt là các giáo viên dạy lý thuyết. Song các giáo viên dạy thực hành tại các trường vẫn còn những hạn chế nhất định. Đa số họ đã được đào tạo cơ bản, đạt chuẩn về trình độ chuyên môn nhưng kinh nghiệm sản xuất trực tiếp thì còn chưa thực sự thành thục, điều này ảnh hưởng xấu tới chất lượng đào tạo (nhất là với đào tạo nghề thì phần thực hành chiếm từ 50 đến 70% thời lượng khoá học). Tuy nhiên, trên thực tế, lượng giáo viên được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ vẫn chủ yếu thiên về lý thuyết, đây là một bất cập xảy ra ở hầu hết các trường.
Tóm lại, đội ngũ giáo viên dạy nghề của các trường gần đây không ngừng được cải thiện cả về lượng và chất song các trường vẫn cần có sự quan tâm đầu tư hơn nữa nhằm đảm bảo giáo viên cho quá trình đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo nghề.
* Về cán bộ quản lý.
Cán bộ quản lý của 15 trường điểm chủ yếu được chọn ra từ đội ngũ giáo viên và phần lớn là cán bộ kiêm nhiệm nên còn hạn chế về nghiệp vụ quản lý (cán bộ quản lý, nhân viên chiếm 21% tổng số cán bộ giáo viên của trường, trong đó số kiêm nhiệm là 18%).
2.2.2.1.3 Nguồn học liệu, tài liệu giảng dạy.
Các trường đều có nguồn học liệu, tài liệu giảng dạy rất mới, hiện đại, tiên tiến và phong phú cả về mặt nội dung và hình thức. Các học liệu, tài liệu giảng dạy được thể hiện dưới nhiều hình thức phong phú, hiện đại và trực quan như trang trình chiếu (slide), tranh ảnh (poster), đoạn phim (CD, VCD)… điều này giúp cho chất lượng dạy và học được nâng cao, đặc biệt là đối với đào tạo nghề – loại hình đào tạo mang tính thực hành cao.
Tuy nhiên, cũng giống như các chương trình đào tạo, các loại học liệu – tài liệu hiện đại này chỉ gói gọn trong một số nghề hạn chế do dự án chọn thí điểm. Với những nghề còn lại, số lượng và chất lượng của các loại học liệu – tài liệu còn thiếu nhiều, ảnh hưởng xấu đến chất lượng đào tạo.
2.2.2.1.4 Tài chính cho đào tạo nghề.
Hiện nay, ngân sách vẫn là nguồn tài chính chủ yếu chi cho đào tạo nghề tại các trường, các nguồn thu khác chỉ chiếm một phần nhỏ. Đây là một khó khăn trong quá trình đào tạo vì ngân sách nhà nước cấp rất hạn chế và ở mức thấp so với khu vực và quốc tế.
Hàng năm, tổng nguồn thu ở các trường đều có xu hướng tăng lên, ngân sách nhà nước cấp cho đào tạo nghề cũng tăng (về mặt tuyệt đối) nhưng với sự tăng lên nhanh chóng của qui mô đào tạo cùng với mức độ trượt giá của đồng tiền thì khả năng tài chính của các trường vẫn chưa đủ đảm bảo các điều kiện tốt cho đào tạo nghề. Nếu xét theo con số tương đối thì tỷ lệ ngân sách nhà nước cấp cho đào tạo nghề thậm chí có xu hướng giảm xuống.
2.2.2.1.5 Cơ sở vật chất và trang thiết bị đào tạo.
Cơ sở hạ tầng ở các trường trọng điểm hiện nay khá kiên cố và bề thế, có phần trội hơn so với các cơ sở đào tạo khác trong hệ thống. Tất cả các trường đều có hệ thống phòng học, nhà xưởng thực hành, phòng thí nghiệm, thư viện và ký túc xá. Trên 80% diện tích xây dựng này là nhà tầng kiên cố.
Vấn đề đặt ra là mặc dù cơ sở hạ tầng khá kiên cố và hiện đại song hầu hết các trường vẫn ở trong tình trạng quá tải vì qui mô đào tạo những năm gần đây tăng rất nhanh. Một số trường vẫn phải thuê địa điểm đào tạo do không đủ phòng học. Vì vậy, nhu cầu đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho đào tạo của các trường vẫn còn khá lớn, đặc biệt là với tốc độ gia tăng học viên như hiện nay. Cơ sở hạ tầng (bao gồm phòng học, nhà xưởng thực hành …) hiện tại còn thiếu khoảng 20% so với nhu cầu đào tạo thực tế.
Về trang thiết bị đào tạo
Hầu hết các trường trọng điểm đều có những trang thiết bị đào tạo hiện đại, đặc biệt là các thiết bị dùng chung như máy slide, overhead projector, tv&vcd … Nhiều thiết bị đào tạo chuyên môn (phục vụ đào tạo thực hành của các nghề) cũng đã được các trường trang bị. Các thiết bị này giúp cho việc giảng dạy và học tập đạt chất lượng cao hơn, các kỹ năng mà người học có được phù hợp với thực tế sản xuất hơn và dễ thích ứng với công việc khi tốt nghiệp.
Tuy nhiên, số trang thiết bị mới này còn ít so với tổng số thiết bị hiện có cũng như so với nhu cầu sử dụng.
2.2.2.2 Thực trạng về chất lượng đào tạo nghề tại các trường.
Từ sự phân tích nêu trên có thể thấy các nhân tố đảm bảo chất lượng đào tạo tại các trường trong thời gian gần đây đã có những cải thiện đáng kể song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo thực tế. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chất lượng đào tạo còn thấp. Chất lượng đào tạo nghề tại các trường đang dần được nâng cao song vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực cũng như thế giới và chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động kỹ thuật.
Có thể thấy điều này rõ hơn thông qua một số biểu hiện bên ngoài của chất lượng như tỷ lệ có việc làm, thu nhập của người lao động qua đào tạo, mức độ đáp ứng yêu cầu công việc của học sinh tốt nghiệp …
Việc làm và thu nhập của học sinh tốt nghiệp:
Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp tại các trường trọng điểm tìm được việc làm trong vòng 12 tháng sau khi tốt nghiệp có xu hướng tăng lên qua các năm. Cùng với sự gia tăng về việc làm thì mức lương bình quân của những đối tượng này cũng tăng lên. Đây là một trong những biểu hiện của sự cải thiện về chất lượng đào tạo. Tuy nhiên, tỷ lệ này còn thấp so với các nước và mức tăng hàng năm còn chậm (bảng 14).
Mức độ phù hợp của nghề được đào tạo với việc làm:
Trong những năm gần đây, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp có việc làm đúng nghề được đào tạo ngày càng cao, điều này cho thấy việc đào tạo ngày càng gần với thực tế hơn góp phần cải thiện chất lượng đào tạo.
Theo kết quả điều tra lần theo dấu vết học sinh tại các trường trọng điểm năm 2007, phần lớn người lao động được phỏng vấn cho rằng chuyên môn kỹ thuật được đào tạo phù hợp với công việc hiện tại (78,4%). Tuy nhiên tỷ lệ này chỉ tính trên số người đã có việc làm (bảng 15).
Mức độ đáp ứng yêu cầu công việc của người được đào tạo:
Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả đã thực hiện thăm dò ý kiến về mức độ đáp ứng yêu cầu công việc của học viên được đào tạo tại các trường điểm. Tuy nhiên, do có một số hạn chế về điều kiện nghiên cứu nên việc điều tra chỉ được thực hiện tại các trường. Đối với các đánh giá của phía doanh nghiệp và học sinh tốt nghiệp các trường nghề, số liệu được tổng hợp từ kết quả điều tra của hai cuộc điều tra “Lần theo dấu vết học sinh” và “Thị trường lao động” được thực hiện hàng năm trong khuôn khổ dự án GDKT&DN.
Đánh giá khách quan của phía doanh nghiệp về mức độ đáp ứng yêu cầu công việc của người được đào tạo chỉ đạt ở mức trung bình. Đánh giá thấp nhất là về kỹ năng thực hành/ tay nghề và khả năng phối hợp, làm việc nhóm. Còn khá nhiều doanh nghiệp đánh giá các tiêu chí ở mức thấp. Đặc biệt có 6,9% doanh nghiệp đánh giá khả năng tiếp cận công nghệ, thiết bị mới của học sinh tốt nghiệp các trường ở mức rất thấp, 21,68% doanh nghiệp đánh giá về kỹ năng thực hành của học sinh tốt nghiệp ở mức thấp. Có rất ít doanh nghiệp cho rằng học sinh tốt nghiệp các trường nghề có khả năng đáp ứng tốt yêu cầu công việc.
Đánh giá chủ quan từ chính những người được đào tạo về khả năng đáp ứng yêu cầu công việc của họ cao hơn so với đánh giá của các doanh nghiệp nhưng sự chênh lệch này không lớn.
Kết quả đánh giá của các trường nghề về mức độ đáp ứng yêu cầu công việc của học sinh tốt nghiệp cũng tương đối thống nhất với đánh giá của các doanh nghiệp xét về mặt xu hướng. Tiêu chí về kiến thức chuyên môn cũng được đánh giá cao nhất (72%), khả năng thực hành và tiếp cận công nghệ mới được đánh giá thấp hơn (lần lượt là 64% và 50%).
Kết quả khảo sát về mức độ đáp ứng yêu cầu công việc của những học sinh sau khi tốt nghiệp cho thấy chất lượng đào tạo nghề còn chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu. (bảng 16, 17 và biểu đồ 2)
2.2.3 Thực trạng liên kết giữa trường với doanh nghiệp.
Phần này tập trung phân tích các hình thức cũng như mức độ liên kết với doanh nghiệp trong đào tạo nghề hiện có tại các trường trọng điểm.
Hiện nay, tất cả các trường điểm đều đã thiết lập các mối liên kết với các doanh nghiệp trong lĩnh vực đào tạo nghề. Hoạt động liên kết có xu hướng gia tăng song chủ yếu vẫn mang tính đơn lẻ, không hệ thống. Hình thức liên kết chủ yếu hiện nay ở các trường là đào tạo theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp khi doanh nghiệp có nhu cầu (bao gồm cả đào tạo tại trường và đào tạo tại các lớp do doanh nghiệp tự tổ chức). Thông thường, các hợp đồng đào tạo này chỉ là các khoá đào tạo ngắn hạn, bồi dưỡng kiến thức nên giá trị không lớn.
- Đặt quan hệ với phía doanh nghiệp để đưa học sinh đến học trong giai đoạn thực tập sản xuất cũng là kiểu liên kết phổ biến của các trường. Xét về mặt số lượng thì đây là kiểu liên kết mà số học sinh được tham gia là lớn nhất.
- Về mặt tài chính, dấu hiệu khả quan là phần tài chính do các doanh nghiệp đóng góp cho các trường ngày càng tăng lên (bảng 18). Phần tài chính do doanh nghiệp đóng góp cho các trường chủ yếu là phí đào tạo mà doanh nghiệp trả cho trường khi trường thực hiện đào tạo theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp. Đối tượng được đào tạo ở đây chủ yếu là người lao động của doanh nghiệp cần được đào tạo lại hoặc đào tạo bổ sung, bồi dưỡng nâng cao trình độ do yêu cầu của công việc. Ngoài ra, phía doanh nghiệp cũng đóng góp tài chính cho các trường dưới một số hình thức khác như cấp học bổng, đầu tư – hợp tác sử dụng trang thiết bị … nhưng giá trị thu được từ các hình thức này rất nhỏ.
- Về mặt nhân sự, nhiều trường đã có sự hợp tác với phía doanh nghiệp như: mời các cán bộ của doanh nghiệp tham dự các buổi thảo luận, trao đổi trực tiếp với học viên về những công nghệ sản xuất mới của doanh nghiệp để giúp học viên cập nhật kiến thức mới và tích luỹ kinh nghiệm; cử giáo viên tham gia giảng dạy cho các lớp bồi dưỡng do doanh nghiệp tự tổ chức … Tuy nhiên, liên kết về đội ngũ cán bộ quản lý thì hầu như chưa có.
- Về mặt thông tin, hầu hết các trường đều đã có trung tâm hướng nghiệp và giới thiệu việc làm, thậm chí một số trường còn tiến hành các cuộc điều tra khảo sát hàng năm về nhu cầu cũng như xu hướng sử dụng lao động của các doanh nghiệp. Song các thông tin thu được chưa được xử lý một cách hiệu quả, thiếu tính hệ thống nên không phát huy được tác dụng trong việc xây dựng kế hoạch đào tạo. Sau khi tốt nghiệp, hầu hết học sinh tự đi tìm việc làm. Các quan hệ về mặt thông tin đối với các doanh nghiệp mà các trường đã thiết lập hiện nay chưa thực sự chặt chẽ, chưa đáp ứng được yêu cầu thông tin về tuyển sinh đối với trường và tuyển dụng lao động đối với doanh nghiệp.
- Việc tuyển sinh và đánh giá tốt nghiệp trong đào tạo nghề hầu như chỉ được thực hiện bởi một phía là cơ sở đào tạo, ngoại trừ một số doanh nghiệp hợp đồng với trường để đào tạo cán bộ của mình. Trong hội đồng đánh giá tốt nghiệp chưa có đại diện từ phía doanh nghiệp. Điều này dẫn đến việc học sinh tốt nghiệp loại tốt nhưng nhiều khi chưa thoả mãn yêu cầu của doanh nghiệp.
- Về liên kết xây dựng chương trình đào tạo, tất cả các trường đều có sự hợp tác với phía doanh nghiệp trong việc xây dựng chương trình đào tạo nhưng việc này mới chỉ nằm trong khuôn khổ các nghề được xây dựng thí điểm trong dự án GDKT&DN đã nói ở trên. Với các nghề khác, chương trình đào tạo vẫn được xây dựng chủ yếu dựa trên khung quy định của nhà nước.
Kết quả thăm dò ý kiến về việc liên kết đào tạo nghề giữa trường và doanh nghiệp được thực hiện đối với cả phía các trường nghề và các doanh nghiệp (bảng 20, 21) cho thấy: Mặc dù các nội dung liên kết, hợp tác đã được triển khai và đa dạng hoá nhưng còn ở mức độ thấp, không thường xuyên. Phổ biến và thường xuyên nhất vẫn chỉ là việc đưa học sinh tới thực tập tốt nghiệp hoặc tham quan thực tế sản xuất tại doanh nghiệp (62,07 doanh nghiệp được hỏi thường xuyên tạo điều kiện cho học sinh học nghề tới thực tập sản xuất tại doanh nghiệp, 10/15 trường trọng điểm cũng thường xuyên tổ chức cho học sinh của mình tới thực tập sản xuất tại các doanh nghiệp đối tác).
Tóm lại hầu hết các trường đều có sự liên kết hợp tác với các doanh nghiệp trong quá trình đào tạo nghề, hình thức liên kết cũng tương đối đa dạng. Tuy nhiên, sự liên kết này còn yếu, chủ yếu là liên kết từng phần và rời rạc, không thường xuyên, hiệu quả đạt được chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng của các trường cũng như các doanh nghiệp. Theo số liệu tổng hợp được từ kết quả điều tra 15 trường, bình quân giá trị tài chính các trường thu được từ phía doanh nghiệp hiện nay chỉ ở mức dưới 10% tổng nguồn thu. Số học sinh được đào tạo dưới mọi hình thức liên kết chỉ xấp xỉ 11% qui mô đào tạo của các trường (trong đó 7% là thực tập sản xuất tại các doanh nghiệp).
Những mối liên kết được thiết lập giữa các trường với phía doanh nghiệp hiện nay hầu hết là mang tính tự phát do nhu cầu của trường và doanh nghiệp, chưa có sự can thiệp, chỉ đạo của các cấp, các ngành liên quan. Chưa có các loại văn bản pháp qui tạo hành lang pháp lý và ràng buộc trách nhiệm giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp trong việc liên kết đào tạo nghề nên quá trình thực hiện còn nhiều khó khăn.
2.3 Một số nguyên nhân hạn chế sự liên kết giữa trường với doanh nghiệp.
2.3.1 Nhóm nguyên nhân vĩ mô.
- Lịch sử hình thành và phát triển đào tạo nghề chưa thực sự gắn kết cùng sự phát triển của sản xuất công nghiệp theo từng vùng, miền lãnh thổ.
- Quản lý Nhà nước nói chung, kinh tế sản xuất công nghiệp và đào tạo nghề nói riêng vẫn còn bị ảnh hưởng của cơ chế tập trung.
- Thiếu các chính sách qui định cụ thể về quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của các doanh nghiệp (người sử dụng lao động) đối với việc đào tạo lao động.
- Chưa có chính sách đánh giá về quản lý chất lượng, các quyền lợi, nghĩa vụ kèm theo các mức chất lượng được đánh giá đối với các cơ sở đào tạo nghề.
- Chưa có cơ quan xuyên suốt từ TW tới địa phương về tư vấn, thiết lập, điều tiết … sự liên kết đào tạo giữa trường với doanh nghiệp.
2.3.2 Nhóm nguyên nhân vi mô.
Về phía nhà trường:
- Chưa chủ động thiết lập, phát triển liên kết, hợp tác đào tạo với phía doanh nghiệp.
- Thiếu đội ngũ cán bộ có năng lực thực hiện liên kết, hợp tác đào tạo tại trường và doanh nghiệp.
- Nhận thức chưa đầy đủ hoặc đã thấy được lợi ích của việc hợp tác đào tạo nói trên song chưa có khả năng, điều ._.kiện cũng như các giải pháp hữu hiệu để thực hiện.
- Chủ yếu chú trọng đào tạo những nghề truyền thống hoặc đào tạo theo khả năng đã có. Chưa tập trung đào tạo theo yêu cầu của thị trường lao động.
- Còn tâm lý trông chờ vào cơ quan nhà nước, những điều kiện sẵn có, chưa chủ động tìm kiếm thị trường đào tạo, thị trường lao động.
Về phía doanh nghiệp:
- Chưa thực sự năng động, linh hoạt trong công tác đào tạo bồi dưỡng, nâng cấp trình độ đội ngũ lao động của mình.
- Có nhu cầu sử dụng nguồn lao động kỹ thuật nhưng chưa chủ động thiết lập mối liên kết hợp tác với các cơ sở đào tạo nghề.
- Cung lao động lớn hơn cầu nên do sức ép về việc làm, người lao động phải tự đào tạo, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp để có cơ hội việc làm.
Tóm lại, hệ thống đào tạo nghề nói chung và các trường trọng điểm nói riêng còn có những hạn chế nhất định. Điều kiện – nguồn lực đảm bảo và nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát triển của thực tiễn. Việc liên kết, hợp tác đào tạo giữa trường và doanh nghiệp nhằm tăng cường các nguồn lực, nâng cao chất lượng đào tạo nghề còn yếu.
chương 3: Các Giải pháp liên kết giữa trường với doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề
Chương này trình bày sơ lược về bối cảnh, định hướng phát triển của đào tạo nghề trong thời gian tới và đề xuất một số giải pháp tăng cường liên kết giữa trường với doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề.
3.1 Những bối cảnh, định hướng phát triển của đào tạo nghề trong thời gian tới.
Mục tiêu ngành dạy nghề đặt ra là đến năm 2015, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 40 - 50 %, trong đó tỷ lệ của ngành công nghiệp là 40–41%, nông nghiệp là 17-18%, dịch vụ là 29-30%. Để đạt được mục tiêu này, đào tạo nghề cần có kế hoạch vừa tập trung vừa linh hoạt để đổi mới đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động kỹ thuật trong hiện tại và tương lai. Dự kiến qui mô đào tạo năm 2020 là 2.550.000 người, trong đó dài hạn là 878.400 người, ngắn hạn là 1.671.600 người.
3.2 Đề xuất các giải pháp liên kết giữa trường với doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề.
3.2.1 Nhóm giải pháp áp dụng cho cấp cơ sở (trường, doanh nghiệp và người học nghề).
3.2.1.1 Giải pháp liên kết xây dựng mục tiêu, nội dung chương trình, đổi mới phương pháp đào tạo.
Nhà trường tổ chức các “Hội nghị khách hàng” để bàn về mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo của các khoá học với thành phần tham dự bao gồm: nhà trường, doanh nghiệp, người học nghề, cơ quan quản lý đào tạo nghề cấp trên, lãnh đạo địa phương … Thông qua Hội nghị khách hàng, các bên sẽ tham gia vào quá trình xây dựng chương trình đào tạo như sau:
- Các doanh nghiệp căn cứ vào thực tế sản xuất và hướng phát triển của mình sẽ đưa ra các yêu cầu về phẩm chất, năng lực, tác phong công nghiệp, kinh nghiệm làm việc, … mà người học nghề phải đạt được sau khi tốt nghiệp.
- Người học nghề khi tham gia Hội nghị khách hàng sẽ nắm được và được nêu ra ý kiến tham gia xây dựng mục tiêu các khoá đào tạo trước khi dự tuyển vào học.
- Nhà trường, căn cứ vào chương trình khung quốc gia và tham chiếu các ý kiến đóng góp của các doanh nghiệp và người học nghề tại Hội nghị khách hàng, điều chỉnh mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo cho phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động.
3.2.1.2 Giải pháp liên kết nhằm tăng cường nguồn nhân – tài – vật lực cho đào tạo nghề.
Về tài chính và cơ sở vật chất, trang thiết bị đào tạo.
- Trường chủ động liên hệ với doanh nghiệp để quyên nhận số tài chính đầu tư cho đào tạo nghề; hợp tác với các doanh nghiệp có cùng ngành nghề để tổ chức đào tạo nhằm tranh thủ trang thiết bị, dây chuyền sản xuất của các doanh nghiệp này cho việc đào tạo thực hành và thực tập sản xuất.
- Doanh nghiệp sản xuất phải lên kế hoạch đào tạo, tuyển dụng mới, đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật hiện có, đưa kế hoạch sản xuất và đào tạo nhân lực vào kế hoạch hoạt động hàng năm để sẵn sàng hợp tác với các cơ sở đào tạo nghề khi cần thiết.
Về nhân lực.
- Trường chủ động ký hợp đồng với các kỹ thuật viên, công nhân bậc cao có kinh nghiệm sản xuất lâu năm để giảng dạy, hướng dẫn thực hành cơ bản và thực tập sản xuất.
- Nhà trường thường xuyên mời các cán bộ của doanh nghiệp tham dự các buổi thảo luận, trao đổi trực tiếp với học viên về những công nghệ sản xuất mới của doanh nghiệp để giúp học viên cập nhật kiến thức và tích luỹ kinh nghiệm.
- Các doanh nghiệp đưa việc hướng dẫn thực tập sản xuất cho học sinh vào kế hoạch hoạt động của nhà máy. Phân công người hướng dẫn thực tập sản xuất cho học sinh trong quá trình hợp tác, liên kết đào tạo.
3.2.1.3 Các giải pháp liên kết về thông tin – dịch vụ: Các trường cần phối hợp với các doanh nghiệp để thực hiện là phải xây dựng hệ thống thông tin – dịch vụ đào tạo và mạng lưới thông tin - dịch vụ việc làm.
Để tăng cường tất cả các hoạt động liên kết trên và để cho các hoạt động liên kết đó thực sự có hiệu quả, trong luận văn này kiến nghị thành lập “Hội đồng tư vấn trường ngành (HĐTVTN)” và “Tiểu ban tư vấn chương trình đào tạo nghề (TBTVCT)” tại các trường với cơ cấu, chức năng và mục tiêu hoạt động như sau:
Hội đồng tư vấn trường ngành:
HĐTVTN thu thập thông tin đầu vào từ tất cả các TBTVCT về quan hệ trường – ngành (doanh nghiệp) với tư cách là cố vấn, sử dụng các thông tin này để nâng cao năng lực của cơ sở đào tạo trong việc đáp ứng các chiến lược và chiến thuật về bảo đảm chất lượng đào tạo, hợp tác với ngành và thực hiện những nhiệm vụ phù hợp với qui định. Đồng thời, HĐTVTN cung cấp thông tin về thị trường lao động cho nhà trường và Chính phủ để lập kế hoạch chiến lược với mục tiêu đáp ứng những yêu cầu của nền kinh tế xã hội.
Hội đồng tư vấn trường ngành
Đại diện của trường
(2 -3)
Chủ tịch các TBTVCT
Học viên tốt nghiệp
(2 -3)
Đại diện của Sở LĐTBXH
Khác
Cơ cấu của HĐTVTN được mô tả như sơ đồ dưới đây:
Tiểu ban tư vấn chương trình đào tạo nghề:
Tiểu ban tư vấn cấp chương trình đào tạo về quan hệ trường - ngành (doanh nghiệp) cung cấp cơ hội thu thập thông tin đầu vào về thị trường lao động, thu nhận tư vấn kỹ thuật để cho những kỹ năng, thái độ và kiến thức mà học sinh lĩnh hội được tại các trường đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng lao động, của học sinh và của địa phương. Cơ cấu của TBTVCT như sau:
Tiểu ban tư vấn chương trình
Đại diện của trường
(2 -3)
Học viên tốt nghiệp
(1)
Đại diện của ngành
(5-17)
HĐTVTN và TBTVCT khi được thành lập tại các trường sẽ là bộ phận thực hiện việc thiết lập và củng cố và điều hoà quan hệ liên kết, hợp tác giữa các cơ sở đào tạo nghề và ngành (doanh nghiệp).
3.2.2 Nhóm giải pháp hoàn thiện thể chế, chính sách khuyến khích quan hệ trường ngành.
Các cấp quản ý cần có các hoạt động tuyên truyền, phổ biến nhằm nâng cao nhận thức về quan hệ trường ngành, đồng thời phải ban hành một loạt các qui định, chính sách nhằm khuyến khích phát triển quan hệ trường ngành trong đào tạo nghề, nâng cao chất lượng đào tạo như:
- Ban hành chương trình khung quốc gia thống nhất trong toàn quốc. Đồng thời, qui định cụ thể tỷ lệ mà các trường được phép điều chỉnh. Qui định bắt buộc khi thông qua chương trình đào tạo nghề phải có ý kiến của đại diện cơ quan sử dụng lao động (doanh nghiệp).
- Qui định về việc bổ sung đại diện của khối doanh nghiệp vào các Hội đồng tuyển sinh, Hội đồng đánh giá cấp văn bằng chứng chỉ nghề …
- Qui định cụ thể trách nhiệm và nghĩa vụ của các doanh nghiệp đối với đào tạo nghề, đặc biệt là các nghĩa vụ tài chính, bắt buộc các doanh nghiệp phải đóng một khoản thuế khi sử dụng lao động đã qua đào tạo.
- Ban hành chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nhà xưởng, trang thiết bị vào việc đào tạo nghề. Trong trường hợp đó, một phần khấu hao máy móc thiết bị, chi phí bù lỗ các sản phẩm hư hỏng được tính vào chi phí đóng góp cho đào tạo nghề và doanh nghiệp sẽ được giảm một lượng thuế phù hợp tương ứng với khoản tiền trên.
- Phát triển các cơ sở dạy nghề trong các doanh nghiệp, nhất là trong các tập đoàn, công ty lớn, dạy nghề cho doanh nghiệp và cho xã hội.
- Ban hành các chính sách khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp tham gia dạy nghề (cho vay vốn ưu đãi, miễn - giảm thuế ...).
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động nói chung và thị trường lao động qua đào tạo nghề nói riêng; Hình thành hệ thống kết nối giữa hệ thống tư vấn, hướng nghiệp – dạy nghề – tư vấn giới thiệu việc làm – doanh nghiệp.
Trên đây là một số khuyến nghị về các giải pháp tăng cường sự liên kết giữa các trường dạy nghề với các doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề tại các trường thuộc dự án GDKT&DN nói riêng cũng như các cơ sở đào tạo khác nói chung trong thời gian tới.
Trường đại học kinh tế quốc dân
--- *** ---
Vũ Thị Phương Oanh
Nâng cao chất lượng đào tạo nghề bằng biện pháp tăng cường sự liên kết giữa trường dạy nghề với doanh nghiệp
Chuyên ngành: Quản trị nhân lực
luận văn thạc sỹ kinh tế
người hướng dẫn khoa học: ts. Vũ thị mai
Hà Nội, năm 2008
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Lực lượng lao động lành nghề là yếu tố quan trọng quyết định sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia dựa trên sự phát triển của sản xuất. Chúng ta đang sống trong một thế giới mà sự thay đổi diễn ra từng ngày, sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật thúc đẩy sản xuất phát triển. Vô số các công nghệ, kỹ thuật mới, các loại vật liệu mới được ứng dụng vào sản xuất đòi hỏi người lao động phải được đào tạo ở những trình độ lành nghề nhất định.
Hiện nay, ở Việt Nam có rất nhiều trường dạy nghề đang thực hiện đào tạo nghề với quy mô tương đối lớn và cơ cấu ngành nghề phong phú. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo ở hầu hết các trường dạy nghề chưa cao. Rất nhiều người sau khi đã tốt nghiệp các trường dạy nghề vẫn không đáp ứng được yêu cầu công việc. Một trong những nguyên nhân quan trọng của hiện tượng này là do thiếu sự liên kết giữa nhà trường với doanh nghiệp trong đào tạo nghề. Cung đào tạo do các trường dạy nghề đưa ra chủ yếu dựa trên khả năng của mình mà không tính tới đường cầu tương ứng từ các doanh nghiệp. Điều này dẫn đến sự mất cân đối cung – cầu đào tạo cả về quy mô, cơ cấu và đặc biệt là chất lượng, gây ra những lãng phí lớn và giảm hiệu quả đào tạo.
Xuất phát từ thực tế trên và điều kiện nghiên cứu của bản thân, tác giả chọn đề tài “Nâng cao chất lượng đào tạo nghề bằng biện pháp tăng cường sự liên kết giữa các trường dạy nghề với doanh nghiệp” làm luận văn thạc sỹ cho mình.
2. Mục đích nghiên cứu:
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích:
Hệ thống một số vấn đề lý luận cơ bản về đào tạo nghề, chất lượng đào tạo nghề và sự liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo nghề. Đồng thời luận văn cũng giới thiệu một số phương pháp đào tạo nghề và mô hình liên kết đào tạo nghề phổ biến ở Việt Nam và các nước.
Tập trung phân tích và đưa ra những đánh giá, kết luận về chất lượng đào tạo, mức độ liên kết giữa các trường và doanh nghiệp trong đào tạo nghề cũng như mối quan hệ giữa chúng.
Đề xuất hệ thống giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề thông qua tăng cường sự liên kết giữa các trường dạy nghề và doanh nghiệp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu về vấn đề chất lượng đào tạo nghề, sự liên kết giữa các trường dạy nghề với doanh nghiệp trong đào tạo nghề, mối quan hệ giữa chất lượng đào tạo và mức độ liên kết giữa trường với doanh nghiệp trong đào tạo nghề.
Về không gian: luận văn tập trung nghiên cứu về chất lượng đào tạo nghề và sự liên kết với doanh nghiệp trong đào tạo nghề tại 15 trường dạy nghề thuộc dự án Giáo dục Kỹ thuật và Dạy nghề, Tổng cục Dạy nghề.
Về thời gian: luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng trong giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2007. Các giải pháp cho giai đoạn tiếp theo.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh, điều tra mẫu, thống kê số liệu.
5. Kết cấu luận văn:
Kết cấu luận văn: Ngoài mục lục, lời mở đầu, danh mục chữ viết tắt, danh mục bảng biểu, kết luận và các tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm 3 chương:
+ Chương 1: Cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng đào tạo nghề bằng biện pháp tăng cường sự liên kết giữa trường dạy nghề và doanh nghiệp.
+ Chương 2: Phân tích thực trạng về chất lượng đào tạo và sự liên kết giữa trường và doanh nghiệp tại các trường dạy nghề thuộc dự án giáo dục kỹ thuật và dạy nghề.
+ Chương 3: Các giải pháp liên kết giữa trường và doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề.
Chương 1:
cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng đào tạo nghề bằng biện pháp tăng cường sự liên kết giữa trường dạy nghề và doanh nghiệp.
1.1. Đào tạo nghề và chất lượng đào tạo nghề.
1.1.1. Khái niệm về đào tạo nghề, phân loại và các hình thức đào tạo nghề.
1.1.1.1. Khái niệm về đào tạo nghề.
Luật dạy nghề ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2006 định nghĩa: “Dạy nghề (đào tạo nghề) là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khoá học”.
Mục tiêu dạy nghề là đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ có năng lực thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn, đáp ứng yêu cầu của sự công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Như vậy, nội dung của đào tạo nghề bao gồm: trang bị các kiến thức lý thuyết cho học viên một cách có hệ thống và rèn luyện các kỹ năng thực hành, tác phong làm việc cho học viên trong phạm vi ngành nghề họ theo học nhằm giúp họ có thể làm một nghề nhất định.
Đào tạo nghề bao gồm: đào tạo công nhân kỹ thuật (công nhân cơ khí, điện tử, xây dựng, sửa chữa …); đào tạo nhân viên nghiệp vụ (nhân viên đánh máy, nhân viên lễ tân, nhân viên bán hàng, nhân viên tiếp thị …) và phổ cập nghề cho người lao động (chủ yếu là lao động nông nghiệp).
1.1.1.2. Phân loại và các hình thức đào tạo nghề.
Phân loại đào tạo nghề.
Có rất nhiều cách phân loại đào tạo nghề, tuỳ theo mỗi loại tiêu thức ta có thể phân loại đào tạo nghề thành các loại hình khác nhau. Trong phạm vi bài này chỉ xét hai tiêu thức phân loại như sau:
Căn cứ vào thời gian đào tạo nghề:
- Đào tạo ngắn hạn: Là loại hình đào tạo nghề có thời gian đào tạo dưới một năm, chủ yếu áp dụng đối với phổ cập nghề. Loại hình này có ưu điểm là có thể tập hợp được đông đảo lực lượng lao động ở mọi lứa tuổi, những người không có điều kiện học tập tập trung vẫn có thể tiếp thu được tri thức ngay tại chỗ, với sự hỗ trợ đắc lực của các cơ quan đoàn thể, địa phương, Nhà nước về mặt giáo trình, giảng viên…
- Đào tạo dài hạn: Là loại hình đào tạo nghề có thời gian đào tạo từ một năm trở lên, chủ yếu áp dụng đối với đào tạo công nhân kỹ thuật và nhân viên nghiệp vụ. Đào tạo nghề dài hạn thường có chất lượng cao hơn các lớp đào tạo ngắn hạn.
Căn cứ vào nghề đào tạo đối với người học:
- Đào tạo mới: Là loại hình đào tạo nghề áp dụng cho những người chưa có nghề (đào tạo mới là để đáp ứng yêu cầu tăng thêm lao động có nghề).
- Đào tạo lại: Là quá trình đào tạo nghề áp dụng với những người đã có nghề song vì lý do nào đó, nghề của họ không còn phù hợp nữa.
- Đào tạo nâng cao: Là quá trình bồi dưỡng nâng cao kiến thức và kinh nghiệm làm việc để người lao động có thể đảm nhận được những công việc phức tạp hơn.
Các hình thức đào tạo nghề.
Các hình thức đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng nhìn chung là rất phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, về cơ bản đào tạo nghề hiện nay thường áp dụng một số hình thức chính sau đây:
Đào tạo nghề chính quy:
Theo quy định của Luật dạy nghề, đào tạo nghề chính quy được thực hiện với các chương trình sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề tại các cơ sở
dạy nghề theo các khoá học tập trung và liên tục.
Có thể hiểu đào tạo nghề chính quy là loại hình đào tạo tập trung tại các trung tâm dạy nghề, các trường nghề với quy mô đào tạo tương đối lớn, chủ yếu là đào tạo các công nhân kỹ thuật có trình độ lành nghề cao.
Việc đào tạo công nhân kỹ thuật thường chia làm hai giai đoạn: giai đoạn học tập cơ bản và giai đoạn học tập chuyên môn. Giai đoạn học tập cơ bản là giai đoạn đào tạo nghề theo diện rộng, thường chiếm từ 70% đến 80% nội dung giảng dạy và tương đối ổn định. Còn trong giai đoạn học tập chuyên môn, người học được trang bị những kiến thức chuyên sâu và rèn luyện những kỹ năng, kỹ xảo để nắm vững nghề đã chọn.
ưu điểm cơ bản của hình thức đào tạo này là: Học sinh được học một cách có hệ thống từ đơn giản đến phức tạp, từ lý thuyết đến thực hành, tạo điều kiện cho học sinh tiếp thu kiến thức nhanh chóng và dễ dàng; Đào tạo tương đối toàn diện cả lý thuyết lẫn thực hành.
Với hình thức đào tạo chính quy, sau khi đào tạo, học viên có thể chủ động, độc lập giải quyết công việc, có khả năng đảm nhận các công việc tương đối phức tạp, đòi hỏi trình độ lành nghề cao. Cùng với sự phát triển của sản xuất và tiến bộ của khoa học kỹ thuật, hình thức đào tạo này ngày càng giữ vai trò quan trọng trong việc đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật.
Tuy nhiên, đào tạo chính quy cũng có nhược điểm là: Thời gian đào tạo tương đối dài; Đòi hỏi phải đầu tư lớn để đảm bảo đầy đủ cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, các cán bộ quản lý… nên kinh phí đào tạo cho một học viên là rất lớn.
Đào tạo nghề tại nơi làm việc (đào tạo trong công việc):
Đào tạo nghề tại nơi làm việc là hình thức đào tạo trực tiếp, trong đó người học sẽ được dạy những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho công việc thông qua thực tế thực hiện công việc và thường là dưới sự hướng dẫn của những người lao động có trình độ cao hơn. Hình thức đào tạo này thiên về thực hành ngay trong quá trình sản xuất và thường là do các doanh nghiệp (hoặc các cá nhân sản xuất) tự tổ chức.
Chương trình đào tạo áp dụng cho hình thức đào tạo tại nơi làm việc thường chia làm bai giai đoạn: Giai đoạn đầu, người hướng dẫn vừa sản xuất vừa hướng dẫn cho học viên; Giai đoạn hai, giao việc làm thử cho học viên sau khi họ đã nắm được các nguyên tắc và phương pháp làm việc; Giai đoạn ba, giao việc hoàn toàn cho học viên khi họ đã có thể tiến hành làm việc một cách độc lập.
Hình thức đào tạo tại nơi làm việc có nhiều ưu điểm như: Có khả năng đào tạo nhiều người cùng một lúc ở tất cả các doanh nghiệp, phân xưởng; Thời gian đào tạo ngắn; Không đòi hỏi điều kiện về trường lớp, giáo viên chuyên trách, bộ máy quản lý, thiết bị học tập riêng… nên tiết kiệm chi phí đào tạo; Trong quá trình học tập, người học còn được trực tiếp tham gia vào quá trình lao động, điều này giúp họ có thể nắm chắc kỹ năng lao động.
Nhược điểm cơ bản của đào tạo tại nơi làm việc là: Việc truyền đạt và tiếp thu kiến thức không có tính hệ thống; Người dạy không có nghiệp vụ sư phạm nên hạn chế trong quá trình hướng dẫn, việc tổ chức dạy lý thuyết gặp nhiều khó khăn… nên kết quả học tập còn hạn chế; Học viên không chỉ học những phương pháp tiên tiến mà còn có thể bắt chước cả những thói quen không tốt của người hướng dẫn. Vì vậy, hình thức đào tạo này chỉ phù hợp với những công việc đòi hỏi trình độ không cao.
Tổ chức các lớp cạnh doanh nghiệp:
Đây là hình thức đào tạo theo chương trình gồm hai phần lý thuyết và thực hành. Phần lý thuyết được giảng tập trung do các kỹ sư, cán bộ kỹ thuật phụ trách. Còn phần thực hành thì được tiến hành ở các xưởng thực tập do các kỹ sư hoặc công nhân lành nghề hướng dẫn. Hình thức đào tạo này chủ yếu áp dụng để đào tạo cho những nghề phức tạp, đòi hỏi có sự hiểu biết rộng về lý thuyết và độ thành thục cao.
Ưu điểm nổi bật của các lớp cạnh doanh nghiệp là: Dạy lý thuyết tương đối có hệ thống, đồng thời học viên lại được trực tiếp tham gia lao động ở các phân xưởng, tạo điều kiện cho họ nắm vững nghề; Bộ máy đào tạo gọn, chi phí đào tạo không lớn. Tuy nhiên, hình thức đào tạo này chỉ áp dụng được ở những doanh nghiệp tương đối lớn và chỉ đào tạo cho các doanh nghiệp cùng ngành có tính chất giống nhau.
Đào tạo nghề kết hợp tại trường và doanh nghiệp:
Hình thức đào tạo nghề kết hợp tại trường và doanh nghiệp được áp dụng khá rộng rãi trên thế giới nhưng mới chỉ xuất hiện ở Việt Nam trong những năm gần đây và còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Có thể hiểu “đào tạo nghề kết hợp tại trường và doanh nghiệp là hình thức đào tạo dựa trên hệ thống dạy và học có hai chỗ học, sự tích hợp chức năng của hai chỗ học tạo thành chức năng chung của hệ thống”.
Đào tạo nghề kết hợp tại trường và doanh nghiệp có thể được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau tuỳ theo điều kiện, quan điểm ở từng vùng, lãnh thổ và khu vực.
Hình thức đào tạo nghề kết hợp tại trường và doanh nghiệp xuất hiện ở Việt Nam còn quá yếu, mới chỉ thực hiện ở một số khía cạnh của việc kết hợp đào tạo và được biểu hiện ở các hoạt động như:
- Đào tạo theo đơn đặt hàng (Một số doanh nghiệp đặt hàng cho các trường đào tạo);
- Một số tổng công ty lớn thành lập trường đào tạo riêng;
- Nhà trường có xưởng sản xuất;
- Một số trường liên kết đưa sinh viên đi thực tập ở các doanh nghiệp.
1.1.2. Quan điểm về chất lượng đào tạo nghề.
1.1.2.1. Khái niệm về chất lượng.
Chất lượng là một khái niệm tương đối trừu tượng, cùng với sự phát triển của xã hội, khái niệm chất lượng cũng có những thay đổi đáng kể. Trước đây, người ta coi chất lượng là một khái niệm “tĩnh” với tiêu chuẩn chất lượng được coi là cố định và tồn tại trong một thời gian dài. Ngày nay, khái niệm chất lượng không được gắn với một tiêu chuẩn cố định nào đó, mà “chất lượng là một hành trình, không phải là một điểm dừng cuối cùng mà ta đi tới”. Đây là quan niệm “động” về chất lượng, trong đó chất lượng được xác định bởi người sử dụng sản phẩm – dịch vụ hay trong nền kinh tế thị trường còn gọi là khách hàng. Khách hàng cảm thấy thoả mãn khi sử dụng sản phẩm – dịch vụ có nghĩa là sản phẩm – dịch vụ đó có chất lượng.
Bên cạnh sự thay đổi về thời gian thì từ những cách tiếp cận khác nhau cũng dẫn đến những khái niệm khác nhau về chất lượng. Có một số khái niệm
tiêu biểu về chất lượng như:
“Chất lượng là phạm trù triết học biểu thị những thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối của sự vật phân biệt nó với sự vật khác, chất lượng là đặc tính khách quan của sự vật. Chất lượng biểu thị ra bên ngoài qua các thuộc tính. Nó là cái liên kết các thuộc tính của sự vật lại làm một, gắn bó với sự vật như một tổng thể bao quát toàn bộ sự vật và không tách rời khỏi sự vật. Sự vật khi vẫn còn là bản thân nó thì không thể mất đi chất lượng của nó. Sự thay đổi chất lượng kéo theo sự thay đổi của sự vật. Về căn bản, chất lượng của sự vật bao giờ cũng gắn với tính qui định về số lượng của nó và không thể tồn tại ngoài tính qui định ấy. Mỗi sự vật bao giờ cũng là sự thống nhất giữa số lượng và chất lượng” – theo từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin, năm 1999.
“Chất lượng là mức độ mà một tập hợp các đặc trưng vốn có đáp ứng được các yêu cầu của khách hàng và những người khác có quan tâm” – theo ISO 9000 (năm 2000).
Trên đây là các khái niệm chung về chất lượng mà khi xét cho từng đối tượng cụ thể thì cần xét tới cả những điều kiện lịch sử – cụ thể của đối tượng đó.
1.1.2.2. Quan điểm về chất lượng đào tạo nghề.
Chất lượng giáo dục - đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng là vấn đề cơ bản và là mục tiêu phấn đấu không ngừng của các cấp quản lý giáo dục - đào tạo cũng như các cơ sở đào tạo trực tiếp. Có nhiều cách hiểu khác nhau về chất lượng đào tạo nghề với những khía cạnh khác nhau.
Quan điểm nguồn lực ở phương Tây cho rằng chất lượng đào tạo nghề phụ thuộc đầu vào của hệ thống đào tạo. Khi có các yếu tố đầu vào có chất lượng như: giáo viên giỏi, cán bộ quản lý giỏi, cơ sở vật chất đầy đủ, học sinh giỏi … thì chất lượng đào tạo nghề được nâng cao. Cũng có quan điểm cho rằng chất lượng đào tạo nghề được đánh giá bằng sản phẩm của quá trình đào tạo (đầu ra), tức là bằng mức độ hoàn thành của học viên tốt nghiệp. Một số quan điểm khác lại khẳng định chất lượng đào tạo nghề được quyết định bởi các quá trình hoạt động bên trong, đặc biệt là hệ thống thông tin và hệ thống các quyết định tối ưu.
Theo GS.TS Đặng Quốc Bảo, chất lượng đào tạo là kết quả cuối cùng đạt được bởi sự tác động tích cực của các yếu tố cấu thành của quá trình đào tạo. Có thể khái quát quan niệm này như sơ đồ sau:
MT
HV
PP, PT
CSVC, TC
ND
GV
Q
Trong đó:
MT: mục tiêu đào tạo.
PP, PT: phương pháp đào tạo, phương tiện phục vụ đào tạo.
GV: giáo viên và cán bộ quản lý đào tạo.
HV: học viên.
ND: nội dung đào tạo.
CSVC, TC: cơ sở vật chất, tài chính phục vụ đào tạo.
Q: chất lượng đào tạo.
Hệ thống kiểm định quốc gia Việt Nam quan niệm “Chất lượng sẽ được đánh giá bằng cách khách hàng xếp hạng tầm quan trọng của các đặc trưng phẩm chất đối nghịch với tính nhất quán và giá trị bằng tiền”. Đào tạo nghề sẽ đảm bảo, nâng cao chất lượng nếu thực hiện tốt các yếu tố như: đáp ứng yêu cầu của khách hàng; tập trung vào con người và mọi người đóng góp xây dựng tổ chức của mình; có tầm nhìn dài hạn; quản lý sự thay đổi một cách có hiệu quả; có đổi mới; hữu hiệu; tổ chức tiếp thị tốt với thị trường.
Xuất phát từ những khái niệm chung về chất lượng và các quan niệm về chất lượng đào tạo nghề nêu trên, có thể hiểu chất lượng đào tạo nghề với những điểm cơ bản như sau: “Chất lượng đào tạo nghề là kết quả tác động tích cực của tất cả các yếu tố cấu thành hệ thống đào tạo nghề và quá trình đào tạo vận hành trong môi trường nhất định”.
1.1.3. Các yếu ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nghề.
Chất lượng giáo dục nói chung và đào tạo nghề nói riêng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bao gồm cả yếu tố khách quan và chủ quan. Có thể phân các yếu tố chủ yếu thành các nhóm để xem xét như sau:
1.1.3.1. Các yếu tố bên trong (yếu tố đảm bảo chất lượng đào tạo nghề)
Đào tạo nghề chịu ảnh hưởng trước tiên là của các nhân tố bên trong của chính quá trình đào tạo bao gồm: hệ thống cơ sở dạy nghề; cơ sở vật chất, tài chính cho dạy nghề; đội ngũ giáo viên, học viên học nghề; chương trình, giáo trình đào tạo; hệ thống mục tiêu; tuyển sinh, việc làm; kiểm tra đánh giá, cấp văn bằng chứng chỉ…, những yếu tố này được coi là những yếu tố đảm bảo chất lượng của đào tạo nghề. Chúng ta xét một số yếu tố chính như sau:
* Cơ sở vật chất, tài chính:
Cơ sở vật chất bao gồm: phòng học, xưởng thực hành cơ bản và thực tập sản xuất, thư viện – học liệu, trang thiết bị phục vụ cho giảng dạy và học tập… Đây là yếu tố hết sức quan trọng, nó tác động trực tiếp đến chất lượng đào tạo nghề. Máy móc, trang thiết bị là những thứ không thể thiếu trong quá trình đào tạo nghề, nó giúp cho học viên có điều kiện thực hành để hoàn thiện kỹ năng. Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề càng tốt, càng hiện đại, theo sát với công nghệ sản xuất thực tế bao nhiêu thì người học viên càng có thể thích ứng, vận dụng nhanh chóng trong công việc bấy nhiêu. Do vậy, cơ sở vật chất trang thiết bị cho đào tạo nghề đòi hỏi phải theo kịp với tốc độ đổi mới của máy
móc, công nghệ sản xuất.
Tài chính cho đào tạo nghề cũng là một trong những yếu tố cơ bản đảm bảo chất lượng đào tạo, nó tác động gián tiếp tới chất lượng đào tạo nghề thông qua khả năng trang bị về cơ sở vật chất, phương tiện, thiết bị giảng dạy, khả năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, giáo viên, …. Tài chính đầu tư cho đào tạo nghề càng dồi dào thì càng có điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo nghề. Các nguồn tài chính chủ yếu cho đào tạo nghề bao gồm: các nguồn lực từ Ngân sách nhà nước, đóng góp của bên hợp tác (doanh nghiệp), các nguồn hỗ trợ khác.
* Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý:
Giáo viên dạy nghề là người giữ trọng trách truyền đạt kiến thức lý thuyết cũng như các kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm của mình cho các học viên trên cơ sở trang thiết bị dạy học hiện có. Vì vậy, năng lực giáo viên dạy nghề tác động trực tiếp đến chất lượng đào tạo nghề.
Đào tạo nghề có những nét khác biệt so với các cấp học khác trong nền giáo dục quốc dân đó là ngành nghề đào tạo rất đa dạng và học viên học nghề cũng có trình độ văn hóa rất khác nhau. Bên cạnh đó, cấp trình độ đào tạo ở các cơ sở đào tạo nghề cũng rất khác nhau (chưa có nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề, bồi dưỡng, nâng bậc thợ). Sự khác biệt này dẫn đến đội ngũ giáo viên dạy nghề cũng rất đa dạng với nhiều cấp trình độ khác nhau.
Vì vậy, giáo viên dạy nghề phải có đủ cả về số lượng và chất lượng, có đủ về số lượng thì mới có thể tận tình hướng dẫn, theo sát học viên và đội ngũ giáo viên có chất lượng thì mới có thể giảng dạy và truyền đạt cho các học viên học nghề một cách hiệu quả.
Một loại nhân lực khác cũng có ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nghề đó là đội ngũ cán bộ quản lý dạy nghề. Trong giai đoạn trước đây, vai trò của các cán bộ quản lý trong các cơ sở đào tạo không được đánh giá cao, tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay, nhất là trước bối cảnh hội nhập quốc tế và cạnh tranh trong lĩnh vực dạy nghề đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản lý phải là những người thực sự có trình độ. Chất lượng cán bộ quản lý cũng có ảnh hưởng rất lớn đến đào tạo nghề, thể hiện qua khả năng tổ chức, quản lý, điều phối quá trình đào tạo, tìm kiếm cơ hội hợp tác, liên kết đào tạo…
* Học viên học nghề:
Học viên học nghề là nhân tố quan trọng nhất, có tính chất quyết định đối với công tác đào tạo nghề, nó ảnh hưởng toàn diện tới công tác đào tạo nghề. Trình độ văn hoá, sự hiểu biết, tâm lý, cá tính, khả năng tài chính, quỹ thời gian… của bản thân học viên đều có ảnh hưởng sâu sắc tới quy mô và chất lượng đào tạo nghề. Trình độ văn hoá cũng như khả năng tư duy của học viên càng cao thì khả năng tiếp thu các kiến thức trong quá trình học nghề càng tốt, khi ấy chất lượng đào tạo nghề càng cao và ngược lại.
* Mục tiêu đào tạo:
Hệ thống mục tiêu đào tạo bao gồm: các mục tiêu ngành, quốc gia; mục tiêu trường (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn); mục tiêu đáp ứng yêu cầu thực tiễn của thị trường chung; mục tiêu đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp hợp tác đào tạo. Các mục tiêu đào tạo càng sát thực, càng khả thi thì chất lượng đào tạo nghề càng được nâng cao. Do đó, khi xây dựng mục tiêu đào tạo cần phải có sự khảo sát, nghiên cứu kỹ lưỡng đối với từng yếu tố.
* Ch._.hành cơ cấu hệ thống đào tạo nghề thực hành, liên thông gồm các trung tâm dạy nghề, trường dạy nghề, trường trung học chuyên nghiệp và cao đẳng có đào tạo nghề, đào tạo liên thông gồm 3 cấp trình độ: sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề.
- Qui hoạch mạng lưới cơ sở đào tạo nghề theo các chuẩn qui định và đầu tư theo kế hoạch.
- Phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo nghề theo hướng xã hội hoá, đa dạng hoá, linh hoạt, năng động, thích ứng cao với cơ chế thị trường:
+ Nhà nước tập trung đầu tư xây dựng các cơ sở đào tạo nghề công lập ở các tỉnh, thành phố. Xây dựng các trường dạy nghề có chất lượng cao nhằm đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề và bậc cao. Dự định các trường này tiếp nhận khoảng 30% số tuyển sinh vào năm 2015;
+ Khuyến khích phát triển các trường dạy nghề ngoài công lập;
+ Khuyến khích các doanh nghiệp thành lập cơ sở dạy nghề và tổ chức đào tạo nghề phục vụ nhu cầu lao động kỹ thuật phù hợp với công nghệ sản xuất, gắn đào tạo với sử dụng và đổi mới công nghệ sản xuất, phát huy tiềm năng về giáo viên, thiết bị của doanh nghiệp cho đào tạo nghề;
+ Phát triển, mở rộng qui mô của các trung tâm dạy nghề. Tạo điều kiện và môi trường để duy trì, phát triển hình thức kèm cặp, truyền nghề tại các làng nghề, các doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, chế biến nông – lâm – ngư.
- Tăng cường hợp tác quốc tế và tranh thủ trợ giúp từ nước ngoài nhằm nâng cấp cơ sở vật chất – trang thiết bị đào tạo nghề, tăng cường đào tạo giáo viên và học sinh.
- Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật và chính sách về đào tạo nghề:
+ Xây dựng và ban hành Luật dạy nghề; Cụ thể hoá chính sách về khuyến khích, huy động các nguồn lực đầu tư cho đào tạo nghề;
+ Hoàn chỉnh các qui định về chương trình, giáo trình theo hướng tạo điều kiện cho các trường chủ động gắn đào tạo với yêu cầu sản xuất thực tiễn. Qui định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của doanh nghiệp, người sử dụng lao động và người lao động qua đào tạo đối với đào tạo nghề;
+ Đổi mới và hoàn thiện các chính sách đãi ngộ cho giáo viên dạy nghề, chính sách tạo động lực cho người học.
- Nâng cao năng lực đào tạo và quản lý hệ thống đào tạo nghề:
+ Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên dạy nghề theo các tiêu chuẩn qui định; Phát triển đội ngũ các giáo viên thỉnh giảng (cán bộ kỹ thuật của doanh nghiệp, giảng viên các trường đại học, cao đẳng, viện nghiên cứu…);
+ Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo nghề bằng các nguồn như vốn đầu tư theo chương trình - dự án, kết hợp chuyển giao và khai thác các thiết bị của các doanh nghiệp sản xuất, tự tạo thiết bị;
+ Xây dựng lại và ban hành danh mục nghề đào tạo thống nhất. Xây dựng chương trình, giáo trình, phương pháp đào tạo theo hướng nâng cao kỹ thuật thực hành;
+ Xây dựng và áp dụng các tiêu chí đánh giá, kiểm định chất lượng đào tạo nghề trên phạm vi toàn quốc;
+ Đổi mới cơ chế quản lý, điều hành hệ thống theo hướng vừa phát huy tính tự chủ, năng động của cơ sở đào tạo nghề, ngành, địa phương vừa phải tuân thủ thực hiện những qui định chung.
+ ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, đào tạo.
- Đa dạng hoá các nguồn lực phục vụ đào tạo nghề.
3.2. Đề xuất các giải pháp liên kết giữa trường với doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề
Để thiết lập và củng cố mối liên kết hợp tác giữa trường và các doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề, cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, khả thi áp dụng cho các cấp Bộ, ngành khác nhau từ TW tới các cơ sở đào tạo, doanh nghiệp và người học nghề.
3.2.1. Nhóm giải pháp áp dụng cho cấp cơ sở (trường, doanh nghiệp và người học nghề)
Tăng cường liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp là một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo nghề của các trường. Hiện nay, giữa các trường nghề và các doanh nghiệp không phải hoàn toàn không có sự liên kết nhưng sự liên kết này chưa mang tính phổ biến, chưa thường xuyên, và nhất là chưa có sự chủ động từ hai bên.
Để tăng cường sự liên kết giữa trường với doanh nghiệp và để cho sự liên kết này thực sự có tác dụng nâng cao chất lượng đào tạo, vấn đề đầu tiên mà cả trường và phía doanh nghiệp cần thực hiện là nâng cao nhận thức về sự liên kết. Cả trường và doanh nghiệp đều phải nhận thức một cách đầy đủ và có hệ thống về những lợi ích mà sự liên kết này đem lại cho mỗi bên, từ đó xác định trách nhiệm, đóng góp của từng bên trong sự liên kết này.
Cả nhà trường và phía doanh nghiệp đều phải chủ động tìm đến nhau, tìm kiếm cơ hội hợp tác, thiết lập sự liên kết chặt chẽ và có hệ thống trên nhiều phương diện như: phối hợp trong việc đổi mới mục tiêu, nội dung chương trình, đào tạo; liên kết về nhân - tài - vật lực; phối hợp tổ chức đào tạo …
3.2.1.1. Giải pháp liên kết xây dựng mục tiêu, nội dung chương trình, đổi mới phương pháp đào tạo
Xây dựng mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo nghề phải đảm bảo sự quản lý, điều phối và sử dụng của Nhà nước, đảm bảo yêu cầu thực tiễn của sản xuất và thị trường lao động. Việc xây dựng chương trình đào tạo sát hơn với yêu cầu thực tiễn của nền sản xuất hiện đại làm cho chất lượng đào tạo nghề được đánh giá là cao hơn. Để đạt được điều đó, cần có sự liên kết, phối hợp giữa nhà trường, doanh nghiệp, cơ quan quản lý đào tạo và cả người học nghề trong quá trình xây dựng chương trình đào tạo.
Có nhiều giải pháp để tạo ra sự phối hợp nói trên, trong khuôn khổ bài viết này chỉ đề xuất một giải pháp cụ thể là nhà trường tổ chức các “Hội nghị khách hàng” để bàn về mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo của các khoá học. Thành phần tham dự Hội nghị khách hàng sẽ bao gồm: nhà trường, doanh nghiệp, người học nghề, cơ quan quản lý đào tạo nghề cấp trên, lãnh đạo địa phương … Thông qua Hội nghị khách hàng, các bên sẽ tham gia vào quá trình xây dựng chương trình đào tạo như sau:
- Các doanh nghiệp căn cứ vào thực tế sản xuất và hướng phát triển của mình sẽ đưa ra các yêu cầu về phẩm chất, năng lực, tác phong công nghiệp, kinh nghiệm làm việc, … mà người học nghề phải đạt được sau khi tốt nghiệp. Bằng cách đó, nguồn lao động kỹ thuật qua đào tạo sẽ đáp ứng tốt hơn các yêu cầu về trình độ chuyên môn, tay nghề, kinh nghiệm làm việc. Doanh nghiệp cũng chủ động hơn trong việc tuyển lao động cho đơn vị mình.
- Người học nghề khi tham gia Hội nghị khách hàng sẽ nắm được và được nêu ra ý kiến tham gia xây dựng mục tiêu các khoá đào tạo trước khi dự tuyển vào học (trong thực tế, đa số người học nghề không có sự lựa chọn rộng rãi theo mục tiêu của mình mà chọn nghề gần với yêu cầu mục tiêu của bản thân và gia đình. Sau khi học xong người học phải hoàn thiện thêm để đạt mục tiêu của bản thân đặt ra).
- Nhà trường, căn cứ vào chương trình khung quốc gia và tham chiếu các ý kiến đóng góp của các doanh nghiệp và người học nghề tại Hội nghị khách hàng, điều chỉnh mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo cho phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động. Mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo của mỗi khoá học cũng thể hiện tính linh hoạt, chủ động, sáng tạo, trình độ quản lý của các cơ sở đào tạo nghề hay nói cách khác là nó phản ánh chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo nghề.
Cùng với việc đổi mới mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo, phương pháp đào tạo cũng phải được đổi mới theo hướng hiện đại, cập nhật công nghệ sản xuất tiên tiến. Muốn thực hiện được điều này, phía cơ sở đào tạo và doanh nghiệp cũng cần hợp tác với nhau để thực hiện một số hoạt động như:
- Tổ chức, hướng dẫn, giới thiệu cho học sinh (đầu khoá đào tạo) tham quan thực tế nghề nghiệp nghiệp tương lai ở các nhà máy, dây chuyền sản xuất thực tế.
- Chuyển đổi từ hình thức đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo tín chỉ trên cơ sở xây dựng chương trình theo mô đun.
- Tổ chức quá trình dạy – học thực tập sản xuất ngay trong môi trường thực tiễn sản xuất ở các nhà máy, xưởng với những trang thiết bị hiện đại đang vận hành.
3.2.1.2. Giải pháp liên kết nhằm tăng cường nguồn nhân – tài – vật lực cho đào tạo nghề
a) Về tài chính và cơ sở vật chất, trang thiết bị đào tạo.
Liên kết với khối doanh nghiệp là một giải pháp hữu hiệu để tranh thủ nguồn tài chính, tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị đào tạo nghề cả về số lượng, chất lượng và tính cập nhật. Giải pháp cho vấn đề này như sau:
- Cơ sở đào tạo cần chủ động liên hệ với doanh nghiệp để quyên nhận số tài chính đầu tư cho đào tạo nghề trong việc hợp tác đào tạo; chủ động hợp tác với các doanh nghiệp có cùng ngành nghề để tổ chức đào tạo nhằm tranh thủ (miễn phí) các trang thiết bị, dây chuyền sản xuất của các doanh nghiệp này cho việc đào tạo thực hành và thực tập sản xuất. Trường hợp các học viên đến thực tập tại doanh nghiệp và làm ra sản phẩm, doanh nghiệp sẽ trích một phần doanh thu đó trả cho nhà trường để đầu tư trở lại cho đào tạo.
- Doanh nghiệp sản xuất phải lên kế hoạch đào tạo, tuyển dụng mới, đào tạo lại, đào tạo tiếp (bồi dưỡng nâng cao) đội ngũ lao động kỹ thuật hiện có. Hoạch tính kinh phí cần cho đào tạo để đầu tư trong từng năm. Đưa kế hoạch sản xuất và đào tạo nhân lực vào kế hoạch hoạt động trong năm một cách nhịp nhàng, linh hoạt để sẵn sàng hợp tác với các cơ sở đào tạo nghề khi cần thiết.
b) Về nhân lực.
Liên kết với khối doanh nghiệp là một biện pháp tăng cường đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên dạy nghề, đặc biệt là đội ngũ giáo viên dạy thực hành (hướng dẫn thực tập sản xuất) có tay nghề cao, nhiều kinh nghiệm sản xuất thực tiễn. Giải pháp liên kết ở đây là:
- Nhà trường chủ động ký hợp đồng với các kỹ thuật viên, công nhân bậc cao có kinh nghiệm sản xuất lâu năm để giảng dạy, hướng dẫn thực hành cơ bản và thực tập sản xuất. Đặc biệt là khi có sự hợp tác đào tạo tại trường và doanh nghiệp, học sinh thực tập sản xuất ngay trên dây chuyền ở nhà máy của doanh nghiệp.
- Nhà trường thường xuyên mời các cán bộ của doanh nghiệp tham dự các buổi thảo luận, trao đổi trực tiếp với học viên về những công nghệ sản xuất mới của doanh nghiệp để giúp học viên cập nhật kiến thức mới và tích luỹ kinh nghiệm.
- Các doanh nghiệp đưa việc hướng dẫn thực tập sản xuất cho học sinh vào kế hoạch hoạt động của nhà máy. Phân công kỹ thuật viên, công nhân bậc cao hướng dẫn thực tập sản xuất cho học sinh trong quá trình hợp tác, liên kết đào tạo. Chi phí trả tiền công cho người hướng dẫn thực tập sản xuất được tính vào số tiền đầu tư cho đào tạo nghề của doanh nghiệp. Trường hợp các học viên đến thực tập mà làm ra sản phẩm, sẽ trích một phần doanh thu đó trả công cho người hướng dẫn.
3.2.1.3. Các giải pháp liên kết tổ chức quá trình đào tạo
Để nâng cao chất lượng đào tạo nghề, tổ chức quản lý quá trình đào tạo nghề cũng cần có sự phối hợp giữa các cơ sở đào tạo và khối doanh nghiệp, trong đó cơ sở đào tạo nghề đóng vai trò chủ đạo và chủ động. Trong mối liên kết này, nhà trường và doanh nghiệp phải thực hiện một số nội dung như:
- Phân công trách nhiệm và cùng thực hiện công tác tuyển sinh.
- Nhà trường tổ chức phát triển chương trình, doanh nghiệp tham gia với tư cách là tư vấn kỹ thuật và thông qua về mặt yêu cầu đáp ứng thực tiễn của chương trình.
- Thống nhất quyền và trách nhiệm trong quá trình tổ chức và quản lý đào tạo.
- Khảo sát và thống nhất bố trí các nguồn lực cho khoá đào tạo: giáo viên dạy lý thuyết, giáo viên dạy thực hành, giáo viên hướng dẫn thực tập sản xuất, trách nhiệm và phương thức đóng góp kinh phí cho khoá đào tạo, cơ sở vật chất – trang thiết bị cho quá trình đào tạo.
- Thống nhất về thời gian, địa điểm tiến hành đào tạo.
- Thống nhất hội đồng thi kiểm tra, đánh giá tốt nghiệp.
3.2.1.4. Các giải pháp liên kết về thông tin – dịch vụ
Các thông tin về nhu cầu thực tế của các doanh nghiệp về số lượng, chất lượng lao động và ngành nghề đào tạo là một trong những căn cứ để các trường xác định qui mô, cơ cấu đào tạo, nội dung đào tạo. Đồng thời, các trường cũng dựa vào các thông tin phản hồi của doanh nghiệp khi sử dụng lao động được đào tạo bởi nhà trường để có những điều chỉnh phù hợp chương trình đào tạo.
Giải pháp cơ bản nhất là các trường phải phối hợp với các doanh nghiệp để thực hiện là phải xây dựng hệ thống thông tin – dịch vụ đào tạo và mạng lưới thông tin - dịch vụ việc làm. Trong đó:
- Hệ thống thông tin – dịch vụ đào tạo phải đưa ra được các thông tin về: năng lực đào tạo, khả năng đào tạo, chất lượng đào tạo, các khoá đào tạo, các hình thức đào tạo, các nguồn lực phục vụ đào tạo, những thuận lợi trong đào tạo.
- Mạng lưới thông tin – dịch vụ việc làm phải đưa ra được các thông tin cập nhật về: nhu cầu lao động kỹ thuật hiện tại và dự báo trong tương lai (khu vực, vùng, miền, địa phương), các địa chỉ liên hệ việc làm tin cậy, các cơ quan - đơn vị hợp tác với trường, địa chỉ công tác của học sinh tốt nghiệp, các thông tin khác về dịch vụ việc làm.
Tóm lại, để nâng cao chất lượng đào tạo nghề, các cơ sở đào tạo cần liên kết chặt chẽ và toàn diện với các doanh nghiệp. (Các hoạt động liên kết này có thể tóm tắt như trong bảng 3.3).
Bảng 24: Quan hệ liên kết giữa cơ sở đào tạo nghề và doanh nghiệp
Liên kết đào tạo nghề
Hoạt động của nhà trường
Nội dung liên kết
Hoạt động của doanh nghiệp
Tổ chức tuyển sinh theo qui định
Tuyển sinh
Tuyển mới hoặc gửi công nhân đến cơ sở đào tạo để tham gia khoá học
Tổ chức hội nghị, chỉ đạo xây dựng mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo
Xây dựng mục tiêu, nội dung chương trình
Cử đại diện tham gia, góp ý sửa đổi mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo theo yêu cầu thực tiễn của sản xuất
Bố trí giáo viên của trường
Nhân sự
Cử cán bộ kỹ thuật hướng dẫn thực tập sản xuất
Quản lý toàn bộ quá trình đào tạo tại trường và chỉ đạo giám sát thực tập tại xưởng của doanh nghiệp
Tổ chức, quản lý
Tham gia phối hợp giám sát đào tạo tại trường, tổ chức quản lý thực tập sản xuất tại xưởng của doanh nghiệp
Ngân sách và các khoản thu hợp lệ
Tài chính
Đóng góp bằng khấu hao thiết bị, nhà xưởng, tiền công dạy thực tập sản xuất hoặc tiền mặt
Toàn bộ cơ sở vật chất, trang thiết bị của trường
Cơ sở vật chất – trang thiết bị
Nhà xưởng và các dây chuyền sản xuất hiện có
Tổ chức chỉ đạo toàn bộ các kỳ thi
Đánh giá tốt nghiệp
Phối hợp tổ chức thi thực hành tại xưởng của doanh nghiệp
Tìm kiếm thị trường việc làm, cung cấp thông tin, giới thiệu các địa chỉ tin cậy cho học sinh tốt nghiệp
Việc làm
Tiếp nhận một số học sinh tốt nghiệp (theo nhu cầu của doanh nghiệp)
Để tăng cường tất cả các hoạt động liên kết trên và để cho các hoạt động liên kết đó thực sự có hiệu quả, trong luận văn này kiến nghị thành lập “Hội đồng tư vấn trường ngành (HĐTVTN)” và “Tiểu ban tư vấn chương trình đào tạo nghề (TBTVCT)” tại các trường với cơ cấu, chức năng và mục tiêu hoạt động như sau:
Hội đồng tư vấn trường ngành:
HĐTVTN thu thập thông tin đầu vào từ tất cả các TBTVCT về quan hệ trường – ngành (doanh nghiệp) với tư cách là cố vấn, sử dụng các thông tin này để nâng cao năng lực của cơ sở đào tạo trong việc đáp ứng các chiến lược và chiến thuật về bảo đảm chất lượng đào tạo, hợp tác với ngành và thực hiện những nhiệm vụ phù hợp với qui định. Đồng thời, HĐTVTN cung cấp thông tin về thị trường lao động cho nhà trường và Chính phủ để lập kế hoạch chiến lược với mục tiêu đáp ứng những yêu cầu của nền kinh tế xã hội của địa phương và của quốc gia.
Nhiệm vụ cụ thể của HĐTVTN như sau:
Hỗ trợ nhà trường lập kế hoạch chiến lược;
Xác nhận những nhu cầu phát triển và những cơ hội của cộng đồng, các tổ chức và các ngành của cộng đồng, trên cơ sở đó đưa ra kiến nghị về những đổi mới thích hợp đối với những chương trình đào tạo hiện có hoặc đề xuất các chương trình đào tạo mới để thực hiện;
Hỗ trợ tư vấn về vai trò của Chính phủ có thể được cải thiện như thế nào để giúp đỡ giáo dục kỹ thuật và dạy nghề;
Hỗ trợ các cơ sở đào tạo xây dựng các tuyên bố về tầm nhìn và tôn chỉ mục đích, đảm bảo chúng thích hợp với định hướng chiến lược của nhà trường, chuyển hệ thống giáo dục từ hướng cung sang hướng cầu;
Xem xét vai trò của giáo dục kỹ thuật và dạy nghề trong tương lai và chuẩn bị tốt hơn cho học viên tiếp tục học lên và tìm được việc làm;
Hỗ trợ xác định những cơ hội hợp tác, liên kết hiệu quả với ngành (doanh nghiệp) trong giáo dục đào tạo;
Xem xét để đưa công nghệ mới vào đào tạo;
Xây dựng và thực hiện chiến lược học tập dựa trên việc làm;
Hỗ trợ để nhận biết những cơ hội tạo ra thu nhập và được đầu tư trang thiết bị ở cấp trường;
Giúp trường thực hiện cải tiến chất lượng bằng việc xem xét các báo cáo của TBTVCT, đưa ra các khuyến nghị và giám sát kết quả đầu ra;
Giúp trường xem xét khả năng tiếp tục học lên của học sinh;
Tư vấn cho học sinh về các xu hướng của thị trường lao động;
Tư vấn về tác động của các điều luật của Nhà nước đối với ngành;
Giám sát và giúp đỡ trường đáp ứng các yêu cầu về kiểm định;
Cung cấp nguồn thông tin cho trường, các TBTVCT của trường và các trường khác với những tư vấn về ngành (doanh nghiệp), cung cấp các thông tin phản hồi theo yêu cầu cho các Hội đồng phát triển chương trình quốc gia;
Chuẩn bị văn bản báo cáo hàng năm, phác thảo những khuyến nghị chủ yếu cho cơ sở đào tạo và các ngành nghề tương ứng bằng phương pháp phân tích SWOT, báo cáo này sẽ được trình lên hiệu trưởng nhà trường, sở Lao động Thương binh và Xã hội và các cơ quan chủ quản;
Thành viên chủ chốt của HĐTVTN sẽ bao gồm: các chủ tịch của TBTVCT, ít nhất một học viên vừa tốt nghiệp (đã có việc làm), đại diện Sở Lao động Thương binh và Xã hội, hiệu trưởng và hiệu phó nhà trường. Chủ tịch và phó chủ tịch sẽ được lựa chọn từ những đại diện bên ngoài trường. Nhiệm kỳ hoạt động của HĐTVTN là 2 năm.
Cơ cấu của HĐTVTN được mô tả như sơ đồ dưới đây:
Hội đồng tư vấn trường ngành
Đại diện của trường
(2 -3)
Chủ tịch các TBTVCT
Học viên
(2 -3)
Đại diện của Sở LĐTBXH
Khác
Tiểu ban tư vấn chương trình đào tạo nghề:
Tiểu ban tư vấn cấp chương trình đào tạo về quan hệ trường - ngành (doanh nghiệp) cung cấp cơ hội thu thập thông tin đầu vào về thị trường lao động, thu nhận tư vấn kỹ thuật để cho những kỹ năng, thái độ và kiến thức mà học sinh lĩnh hội được tại các trường đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng lao động, của học sinh và của địa phương. Tiểu ban này sẽ luôn phục vụ một chương trình đào tạo hay một ngành nghề cụ thể, tuy nhiên nó có thể phục vụ cho cả nhóm ngành nghề có liên quan với nhau khi phù hợp. Tiểu ban này báo cáo cho lãnh đạo nhà trường, cho HĐTVTN và Sở LĐTBXH nhất là khi tiểu ban phụ trách nhiều chương trình trong cộng đồng.
Nhiệm vụ cụ thể của TBTVCT như sau:
1) Xác nhận rằng mức độ kỹ năng tay nghề của học sinh đáp ứng nhu cầu của ngành;
2) Nhận biết những sự phát triển mới của ngành và các cơ hội trong cộng đồng, khuyến nghị những đổi mới thích hợp trong chương trình đào tạo hoặc đề xuất các chương trình đào tạo mới để thực hiện;
3) Hỗ trợ để xác nhận các cơ hội tạo ra thu nhập và được đầu tư thiết bị ở cấp chương trình;
4) Hỗ trợ để xác nhận các cơ hội hợp tác và liên kết có hiệu quả với ngành (doanh nghiệp) ở cấp chương trình đào tạo;
5) Tư vấn về tuyển sinh/ tiêu chuẩn lựa chọn/ tỉ lệ tốt nghiệp và hao hụt;
6) Xem xét và tư vấn về sự hài lòng của học sinh tốt nghiệp và người sử dụng lao động;
7) Tư vấn về các yêu cầu đối với thiết bị và cơ sở vật chất cho chương trình đào tạo;
8) Xác nhận chất lượng của chương trình đào tạo bằng cách xem xét lại chương trình đào tạo, kết quả học sinh tốt nghiệp, diện nghề nghiệp, trang thiết bị và đánh giá sự sẵn sàng làm việc trong ngành của học sinh tốt nghiệp;
9) Cung cấp thông tin phản hồi cho Hội đồng phát triển chương trình quốc gia;
10) Xác nhận cơ hội đào tạo tại nơi làm việc, hợp tác, thực hành, học tập tại hiện trường sản xuất;
11) Tư vấn về các cơ hội tìm việc làm cho người tốt nghiệp và khuynh hướng của thị trường lao động;
12) Tư vấn về tác động của các qui định pháp luật áp dụng cho ngành;
13) Giám sát và giúp đỡ các chương trình đào tạo đáp ứng các yêu cầu về kiểm định;
14) Xử lý các vấn đề khác nếu thấy thích hợp với chương trình đào tạo;
15) Cung cấp thông tin đầu vào cho trường thông qua HĐTVTN;
16) Chuẩn bị báo cáo hàng năm về chương trình đào tạo theo phương pháp phân tích SWOT để đệ trình lên lãnh đạo trường, Sở LĐTBXH và HĐTVTN.
Thành viên của TBTVCT bao gồm: đại diện của trường; học sinh vừa tốt nghiệp thuộc chương trình đào tạo của trường; từ 7 đến 15 người thuộc lĩnh vực dịch vụ và sản xuất phục vụ cho chương trình đào tạo và chiếm đa số trong thành viên của tiểu ban. Chủ tịch và phó chủ tịch của TBTVCT cũng được chọn ra từ những người ngoài cơ sở đào tạo.
Tiểu ban tư vấn chương trình
Đại diện của trường
(2 -3)
Học viên
(1)
Đại diện của ngành
(5-17)
HĐTVTN và TBTVCT khi được thành lập tại các trường sẽ là bộ phận thực hiện việc thiết lập và củng cố và điều hoà quan hệ liên kết, hợp tác giữa các cơ sở đào tạo nghề và ngành (doanh nghiệp).
3.2.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện thể chế, chính sách khuyến khích quan hệ trường ngành
Tương tự như các giải pháp áp dụng cho cấp cơ sở, các giải pháp mang tính vĩ mô nhằm tăng cường sự liên kết giữa các cơ sở đào tạo với khối doanh nghiệp, nâng cao chất lượng đào tạo trong lĩnh vực đào tạo nghề cũng phải được thực hiện một cách đồng bộ. Vấn đề cần thực hiện trước nhất cũng là vấn đề về nhận thức. Để nâng cao nhận thức về quan hệ trường ngành trong đào tạo nghề, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tổng cục Dạy nghề, Bộ Công nghiệp và các Bộ liên quan, các cấp quản lý dạy nghề và công nghiệp địa phương cần thực hiện một số hoạt động như:
Tổ chức các cuộc hội thảo, hội nghị riêng hoặc lồng ghép ở các cấp để bàn về hoạt động quan hệ trường ngành, những lợi ích mà nó mang lại, kinh nghiệm thực hiện trong và ngoài nước về vấn đề này;
Thảo luận, trao đổi, phổ biến về hoạt động quan hệ trường ngành trên các phương tiện thông tin đại chúng;
Đánh giá, tổng kết hàng năm về việc thực hiện hoạt động quan hệ trường ngành, nhân rộng các điển hình trên phạm vi rộng hơn, nhiều ngành nghề hơn, cấp độ cao hơn.
Song song với vấn đề nâng cao nhận thức, các cơ quan quản lý vĩ mô về đào tạo nghề cần phải ban hành một loạt các qui định, chính sách nhằm khuyến khích phát triển quan hệ trường ngành trong đào tạo nghề, nâng cao chất lượng đào tạo. Cơ bản là phải có qui định về một số vấn đề cụ thể như sau:
1) Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Tổng cục Dạy nghề phải phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan liên quan khác ban hành chương trình khung quốc gia thống nhất trong toàn quốc. Đồng thời, cho phép và hướng dẫn các cơ sở đào tạo xây dựng chương trình chi tiết trên cơ sở chương trình khung với một tỷ lệ điều chỉnh nhất định cho phù hợp với yêu cầu thực tế. Qui định bắt buộc khi thông qua chương trình đào tạo nghề phải có ý kiến của đại diện cơ quan sử dụng lao động (doanh nghiệp).
2) Qui định và kiểm tra về việc cập nhật công nghệ, dây chuyền sản xuất thực tế tiên tiến, hiện đại trong nội dung chương trình.
3) Qui định về việc bổ sung đại diện của khối doanh nghiệp (có sử dụng học sinh tốt nghiệp) vào các Hội đồng tuyển sinh, Hội đồng đánh giá cấp văn bằng chứng chỉ nghề …
4) Qui định cụ thể trách nhiệm và nghĩa vụ của các doanh nghiệp (đơn vị sử dụng lao động được đào tạo nghề) đối với đào tạo nghề, đặc biệt là các nghĩa vụ tài chính. Nhà nước phải có qui định bắt buộc các doanh nghiệp phải đóng một khoản thuế khi sử dụng lao động đã qua đào tạo (có thể gọi là thuế đào tạo hay thuế sử dụng lao động). Khoản tiền thu được sẽ được đầu tư trở lại cho các cơ sở đào tạo nghề một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
5) Ban hành chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nhà xưởng, trang thiết bị vào việc đào tạo nghề dưới nhiều hình thức như cho học sinh thực tập sản xuất tại xưởng, tặng trang thiết bị cho cơ sở đào tạo … Trong trường hợp đó, một phần khấu hao máy móc thiết bị, chi phí bù lỗ các sản phẩm hư hỏng được tính vào chi phí đóng góp cho đào tạo nghề và doanh nghiệp sẽ được giảm một lượng thuế phù hợp tương ứng với khoản tiền trên.
6) Phát triển các cơ sở dạy nghề trong các doanh nghiệp, nhất là trong các tập đoàn, công ty lớn, dạy nghề cho doanh nghiệp và cho xã hội. Các cơ sở dạy nghề này được đặt trong tổng thể quy hoạch phát triển các cơ sở dạy nghề và được đối xử bình đẳng với các cơ sở dạy nghề khác.
7) Ban hành các chính sách khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp tham gia dạy nghề như:
- Các cơ sở dạy nghề trong doanh nghiệp được hỗ trợ vay vốn ưu đãi để xây dựng cơ sở vật chất trang thiết bị dạy nghề;
- Chi phí xây dựng cơ sở dạy nghề được tính vào chi phí sản xuất và trừ vào lãi trước thuế của doanh nghiệp;
- Mua sắm máy móc, trang thiết bị cho dạy nghề trong các cơ sở dạy nghề của doanh nghiệp được miễn, giảm thuế nhập khẩu;
- Doanh nghiệp tổ chức dạy nghề được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp;
- Hỗ trợ đào tạo giáo viên dạy nghề cho các cơ sở dạy nghề của doanh nghiệp, nhất là chuyển từ công nhân trình độ cao đi bồi dưỡng kiến thức, chuyên môn sư phạm để làm giáo viên dạy nghề…
8) Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động nói chung và thị trường lao động qua đào tạo nghề nói riêng. Trong hệ thống này cần có phân tích, dự báo về nhu cầu đào tạo nghề (theo cấp trình độ đào tạo, cơ cấu ngành, nghề, vùng, miền, …). Cơ sở dữ liệu của hệ thống thông tin này sẽ giúp cho các trường chuyển dần sang đào tạo hướng cầu, các doanh nghiệp thuận lợi hơn trong tuyển dụng lao động.
9) Hình thành hệ thống kết nối giữa hệ thống tư vấn, hướng nghiệp – dạy nghề – tư vấn giới thiệu việc làm – doanh nghiệp.
10) Thành lập Hội đồng trường – ngành quốc gia. Đây sẽ là cơ quan điều phối chính sách về quan hệ trường ngành nhằm đảm bảo dạy nghề phải phù hợp, kịp thời, linh hoạt và chất lượng cao để có thể cạnh tranh được với thị trường khu vực và quốc tế. Hội đồng trường – ngành quốc gia nên được thành lập thông qua một Nghị định và được chính thức đưa vào Luật Dạy nghề của Việt Nam với thành viên của Hội đồng là đại diện cho 3 bên: Chính phủ, ngành và khối nghề nghiệp.
Trên đây là một số khuyến nghị về các giải pháp tăng cường sự liên kết giữa các trường dạy nghề với các doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề tại các trường thuộc dự án GDKT&DN nói riêng cũng như các cơ sở đào tạo khác nói chung trong thời gian tới.
Kết luận
Phát triển đào tạo nghề đang được coi là một trong những quyết sách hàng đầu của Việt Nam hiện nay. Được Đảng và Chính phủ dành cho sự quan tâm đặc biệt, gần đây công tác đào tạo nghề đã có những bước tiến rõ rệt, chất lượng đào tạo không ngừng được cải thiện. Tuy nhiên, so với mặt bằng chung của các nước và so với yêu cầu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong thời kỳ hội nhập kinh tế thế giới hiện nay thì chất lượng đào tạo nghề của nước ta còn rất nhiều hạn chế. Chất lượng đào tạo nghề là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo khả năng cạnh tranh của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới và tăng cường sự liên kết giữa nhà trường với doanh nghiệp là một biện pháp hiệu quả để nâng cao chất lượng đào tạo nghề.
Trong luận văn của mình, tôi đã trình bày một số vấn đề lý luận về chất lượng đào tạo nghề và sự liên kết giữa trường với doanh nghiệp trong lĩnh vực đào tạo nghề cũng như thực trạng của các vấn đề này tại các cơ sở đào tạo nghề nói chung và tại 15 trường thuộc dự án Giáo dục Kỹ thuật và Dạy nghề. Từ đó, tôi kiến nghị một số giải pháp liên kết giữa trường với doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng đào nghề tại các cơ sở đào tạo. Tuy nhiên, do những hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn và thời gian nghiên cứu nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Vì vậy, rất mong được sự góp ý của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Vũ Thị Mai đã tận tình hướng dẫn em thực hiện luận văn này.
Tôi xin cảm ơn Ban quản lý dự án Giáo dục Kỹ thuật và Dạy nghề, Tổng cục Dạy nghề đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong việc tìm hiểu thông tin, tài liệu để hoàn thành luận văn này.
Danh mục tài liệu tham khảo
I. Tài liệu tiếng Việt:
1. Thông tin khoa học giáo dục nghề nghiệp – NXB Hà Nội, 2006;
2. Giáo dục nghề nghiệp những vấn đề và giải pháp – Nguyễn Viết Sự – NXB Giáo dục, 2005;
3. Những giải pháp phát triển đào tạo nghề góp phần đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá - Phan Chính Thức, 2003;
4. Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy nghề cho học sinh phổ thông bậc trung học ở trung tâm kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp – Phạm Văn Sơn, 2003;
5. Hoàn thiện hệ thống dạy nghề Việt Nam – Lê Khắc Đoa, 1998;
6. Sổ tay kiểm định – Nguyễn Tiến Đạt;
7. Tổ chức và và quản lý sản xuất trong doanh nghiệp - Đào Thiêm – NXB Giáo dục, 1993;
8. Tư vấn trường ngành hiệu quả - Bryan Daly & Lê Phương Yên, 2003;
9. Thực nghiệm tổ chức kết hợp đào tạo tại cơ sở đào tạo nghề và doanh nghiệp sản xuất – Tạp chí thông tin khoa học giáo dục – Viện chiến lược và chương trình giáo dục, 2003;
10. Tìm hiểu một số hình thức kết hợp đào tạo nghề giữa nhà trường và cơ sở sản xuất – Tạp chí thông tin khoa học giáo dục – Viện chiến lược và chương trình giáo dục, 2003;
11. Thực trạng kết hợp đào tạo nghề tại trường và doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay – Tạp chí thông tin khoa học đào tạo nghề – Tổng cục dạy nghề, 2004;
12. Đào tạo theo địa chỉ, một giải pháp gắn đào tạo với việc sử dụng nguồn nhân lực trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay – Từ chiến lược phát triển giáo dục đến chính sách phát triển nguồn nhân lực – Phan Tùng Mậu – NXB Giáo dục Hà Nội, 2002;
13. Các giải pháp tăng cường mối quan hệ giữa đào tạo với sử dụng nhân lực có trình độ trung học chuyên nghiệp ở Việt Nam – Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ – Viện chiến lược và chương trình giáo dục;
14. Kết hợp đào tạo tại trường và doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay – TS. Trần Khắc Hoàn, 2006.
II. Tài liệu tiếng nước ngoài:
Vocational training system in Korea – Chun Gyun Jung, 2001;
Linking School-based and Work-based Learning – The implications of Laguardia’s Co-operati, on – Grubb W. Norton, Norna Badway, 1998;
National strategy for vocational education and training 2004 – 2010 – Australian National Training Authoriy, 2004;
Vocational Education and Training in Germany and Sweden – Lisbeth Lundahh and Theodor Sander, 1998.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CH-1010.doc