Nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính của Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương 1

LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong nền kinh tế thị trường đầy năng động như hiện nay, các doanh nghiệp đều phải đối mặt với những khó khăn và nhiều thách thức lớn. Do đó, để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới tư duy, tác phong công việc và đặc biệt là đổi mới khoa học công nghệ tiên tiến để nhanh chóng đáp ứng nhu cầu và xu thế thị trường. Bên cạnh đó, sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cùng các công ty trong nước làm

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1582 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính của Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương 1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt và khốc liệt hơn. Qua thực tiễn nghiên cứu, em nhận thấy công tác phân tích tài chính tại các doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ chứng minh và khẳng định thế mạnh của các doanh nghiệp mà còn góp phần đẩy mạnh sự phát triển của nền kinh tế. Hơn nữa, có rất nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình thực trạng tài chính của các doanh nghiệp với rất nhiều mục đích khác nhau, chủ yếu là các nhà quản lý, nhà đầu tư và cá nhân, tổ chức trực tiếp cho doanh nghiệp vay. Do đó sự chính xác, kịp thời và khoa học của công tác phân tích tài chính doanh nghiệp cùng những dự án khả thi sẽ giúp các nhà quản trị tài chính có chiến lược phát huy thế mạnh một cách hợp lý, sẽ tạo niềm tin vững chắc cho các nhà đầu tư yên tâm rót vốn đầu tư và đặc biệt là thu hút một nguồn vốn dồi dào từ những người cho vay. Tuy nhiên công tác phân tích tài chính hiện nay chưa được các doanh nghiệp quan tâm một cách thích đáng, cách thức tổ chức phân tích và phương pháp phân tích còn nhiều vướng mắc. Là một sinh viên khoa Ngân hàng-Tài chính, nhận thức được tầm quan trọng của việc phân tích tài chính doanh nghiệp và những kiến thức được trang bị trong suốt quá trình học, em mạnh dạn lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính của Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I” nhằm đưa ra một số biện pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu quả của công tác phân tích tài chính trên cơ sở đánh giá tình hình tài chính của Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I 2. Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu tình hình công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I. - Đề xuất một số biện pháp để nâng cao chất lượng phân tích tài chính tại Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là hoạt động phân tích tài chính của Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I. Chuyên đề đi sâu vào nghiên cứu cách thức tổ chức, phương pháp phân tích và các thông tin sử dụng trong quá trình phân tích tài chính tại công ty. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Chỉ nghiên cứu hoạt động phân tích tài chính của Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I. - Về thời gian: Giai đoạn 2006-2008. - Về giác độ nghiên cứu: Nghiên cứu trên giác độ vi mô. 4. Kết cấu đề tài Tên đề tài “Nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính của Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I” Ngoài lời mở đầu và phần kết luận, phần nội dung của đề tài được chia thành 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. Chương 2: Thực trạng công tác phân tích tài chính Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I. Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I. CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 1.1. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp Phân tích tài chính doanh nghiệp là việc thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính, quyết định quản lý phù hợp. Quá trình vận động và chuyển hoá các nguồn lực tài chính trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ thuộc hoạt động tài chính của doanh nghiệp diễn ra như thế nào, kết quả kinh tế tài chính của sự vận động và chuyển hoá ra sao, có phù hợp với mục tiêu mong muốn của các đối tượng quan tâm đến tài chính doanh nghiệp là đối tượng nghiên cứu cụ thể của phân tích tài chính doanh nghiệp. Vấn đề quan tâm hàng đầu của các nhà quản trị tài chính là bằng cách nào để duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp trong nền kinh tế đầy thách thức như hiện nay. Đó chính là nguy cơ rủi ro phá sản của doanh nghiệp, được thể hiện chủ yếu và trực tiếp qua sự biến động của các nhóm chỉ số khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn cũng như khả năng sinh lãi của doanh nghiệp trong quá trình hoạt động kinh doanh. Qua đó, các nhà quản trị tài chính sẽ đánh giá một cách toàn diện về tình hình tài chính của doanh nghiệp và đưa ra những dự báo chuẩn xác về kết quả hoạt động trong tương lai để từ đó có biện pháp hỗ trợ, cải thiện tình hình tài chính doanh nghiệp tốt hơn. Có thể nói phân tích tài chính được coi là cơ sở cho những dự báo tài chính trong tương lai của doanh nghiệp. 1.2. Chức năng của phân tích tài chính Ngày nay phân tích tài chính đã trở thành một nội dung được các nhà quản lý quan tâm và khai thác một cách triệt để nhằm phát huy tối đa tính hữu ích của công cụ này. Tùy theo từng loại hình doanh nghiệp và mục đích nghiên cứu mà phân tích tài chính có những chức năng mang tính chất đặc thù khác nhau. Tựu chung lại, phân tích tài chính có những chức năng cơ bản sau: Chức năng đảm bảo vốn cho quá trình hoạt động kinh doanh; chức năng đánh giá và giám sát nhằm đảm bảo kết quả kinh doanh đạt hiệu quả cao; chức năng điều chỉnh; chức năng dự báo. Chức năng thứ nhất là đảm bảo vốn cho quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nói vốn là điều kiện không thể thiếu cho sự tồn tại và vận hành của bất cứ doanh nghiệp nào. Trong mọi loại hình doanh nghiệp, vốn phản ánh nguồn lực tài chính đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Hơn thế, vốn còn là nhân tố cực kỳ quan trọng giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Như vậy, vốn không những là cơ sở để doanh nghiệp có thể nâng cao khả năng khả năng sản xuất, tăng cường mạng lưới phân phối mà còn có thể giúp doanh nghiệp vượt qua các đối thủ cạnh tranh hay hơn nữa là loại bỏ họ bằng những chính sách marketing khôn khéo, tăng cường quản cáo, giảm giá, khuyến mại,…Do đó, phân tích tài chính chính cần phải tính toán được nhu cầu vốn, cách thức lựa chọn và huy động vốn với những ước lượng chi phí cụ thể nhằm tối thiểu hoá chi phí mà vẫn đạt được mục tiêu đề ra. Đặc biệt, huy động vốn thành công còn phải kết hợp với việc sử dụng vốn hiệu quả, vì vậy phân tích tài chính còn phải vạch ra phương hướng quản lý vốn tối ưu. Chức năng thứ hai là đánh giá, giám sát nhằm đảm bảo kết quả hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao. Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các luồng chuyển dịch giá trị, các luồng vận động của nguồn lực tài chính trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ hoặc vốn hoạt động của doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Các luồng đó vận động như thế nào, các nhân tố tác động đến sự chu chuyển cũng như những ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như thế nào, có phù hợp với mục tiêu kinh doanh đã đề ra hay không, có phù hợp với cơ chế chính sách hiện hành không,…là những vấn đề mà phân tích tài chính phải làm rõ. Chính những kết quả được cung cấp bởi phân tích tài chính sẽ là cơ sở để các nhà quản lý nhân thức được những thành tựu cũng như hạn chế của các quan hệ tài chính, từ đó có biện pháp xử lý kịp thời để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một cách liên tục. Chức năng thứ ba là điều chỉnh. Sự thực là hệ thống các quan hệ tài chính của doanh nghiệp không phải luôn tồn tại dưới một hình thức truyền thống mà có thể biến hoá dưới nhiều hình thái khác nhau tại các thời điểm và các giai đoạn khác nhau của nền kinh tế. Các quan hệ tài chính này sẽ ổn định nếu doanh nghiệp biết duy trì sự kết hợp giữa các nhân tố của chúng một cách hài hoà. Do đó, muốn quản trị tài chính một cách hiệu quả cần phải hiểu rõ được nội dung, hình thức cũng như bản chất của các mối quan hệ tài chính phát sinh. Phân tích tài chính sẽ giúp các nhà quản lý doanh nghiệp và các đối tượng quan tâm khác nhận thức được vấn đề này. Thứ tư là dự báo. Bên cạnh những chức năng trên, phân tích tài chính còn giúp doanh nghiệp dự báo được tình hình tài chính trong tương lai. Bất kì một doanh nghiệp nào trong quá trình hoạt động đều đặt ra những mục tiêu ngắn hạn và dài hạn trong tương lai, do đó, nhờ những dự báo tài chính trên, doanh nghiệp có thể điều chỉnh mục tiêu sao cho phù hợp nhất. Tuy nhiên, những dự báo tài chính này không phải là những dự báo chung chung mà phải được chi tiết hoá bằng những con số để doanh nghiệp có chiến lược điều chỉnh từng khoản cụ thể. Với những chức năng trên, nhiệm vụ của bộ phận phân tích tài chính là phải cung cấp những thông tin chính xác và đầy đủ về tất cả các mặt tài chính của mình. Hơn nữa, phân tích tài chính doanh nghiệp để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp nhằm đảm bảo và phân phối vốn cho sản xuất kinh doanh, hoặc để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn trong kinh doanh, tình hình thanh toán, tính toán và lượng hóa các nhân tố tác động đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục và khai thác triệt để tiềm năng của doanh nghiệp nhằm đạt được kết quả kinh doanh cao nhất. 1.3. Vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp Phân tích tài chính của doanh nghiệp mà tiêu biểu là phân tích báo cáo tài chính của doanh nghiệp là việc kiểm tra, đối chiếu và so sánh kết quả hiện tại với quá khứ trong một thời gian đủ dài nhằm đánh giá thực trạng, hiệu quả kinh doanh, tiềm năng hoặc những rủi ro trong tương lai. Các báo cáo tài chính được xem là nguồn thông tin chủ yếu của các nhà phân tích tài chính sử dụng tại các doanh nghiệp bởi lẽ các báo cáo tài chính là tài liệu tổng hợp tình hình tài sản, nguồn vốn của doanh nghiệp tại một thời điểm phân tích, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong cả kỳ kinh doanh. Các báo cáo tài chính không chỉ rất hữu dụng với các nhà quản lý doanh nghiệp mà nó còn là đối tượng được rất nhiều chủ thể quan tâm. Đó chính là các nhà đầu tư, các ngân hàng hay các nhà tài trợ doanh nghiệp,… 1.3.1. Đối với các nhà quản lý doanh nghiệp Các nhà quản lý doanh nghiệp là những người trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý doanh nghiệp, là những người trực tiếp ra quyết định về chiến lược sản xuất kinh doanh, những chính sách tác động đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp nên trước hết bản thân họ phải là những người am hiểu sâu sắc về tài chính doanh nghiệp, do đó họ cần tổng hợp rất nhiều thông tin từ các nguồn khác nhau phục vụ cho quá trình phân tích của mình. Các nhà quản lý doanh nghiệp quan tâm đến việc tìm kiếm lợi nhuận và nâng cao khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Họ cũng chính là những người phải giải quyết những vấn đề quan trọng nhất của tài chính doanh nghiệp. Phân tích tài chính doanh nghiệp nhằm giúp các nhà quản lý đưa ra những chiến lược đầu tư dài hạn cho doanh nghiệp. Từ việc phân tích tình hình, hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp, các nhà quản lý sẽ cân nhắc nên tập trung đầu tư vào loại tài sản nào cho phù hợp. Bên cạnh đó, dựa vào việc phân tích diễn biến sử dụng vốn và hiệu quả sử dụng vốn, các nhà quản trị tài chính sẽ nhận định về tình cân đối vốn của doanh nghiệp, từ đó quyết định tăng giảm tỷ trọng các khoản mục nguồn vốn và nguồn cũng như cách thức huy động vốn một cách hợp lý nhất. Để đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh, doanh nghiệp có thể tiến hành vay ngắn hạn (có thể sử dụng tín dụng ngân hàng hay tín dụng thương mại), hay có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu, hoặc vay dài hạn trên thị trường tài chính,…Để đưa ra quyết định dùng hoàn toàn vốn chủ sở hữu, vay nợ hay sử dụng kết hợp nợ và vốn chủ sở hữu với tỷ lệ bao nhiêu, các nhà quản trị tài chính cần tính toán tổng chi phí đối với mỗi phương thức huy động nhằm huy động với một mức chi phí thấp nhất. Phân tích tài chính cũng là công cụ để kiểm tra, kiểm soát hoạt động, quản lý trong doanh nghiệp. Do đó, các nhà quản lý sẽ sử dụng công cụ này để đưa ra các chiến lược tài chính ngắn hạn nhằm quản lý hoạt động tài chính hàng ngày của doanh nghiệp, chủ yếu là liên quan đến việc quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. Hơn nữa các hoạt động tài chính gắn liền sự vận động của dòng tiền nhập quỹ và xuất quỹ, vì thế các nhà quản trị tài chính cần xử lý để duy trì sự chênh lệch giữa chúng sao cho phù hợp nhất. Như vậy, các nhà quản trị tài chính của doanh nghiệp là những người trực tiếp chịu trách nhiệm về việc chỉ đạo các hoạt động tài chính và căn cứ vào thực trạng tình hình tài chính để định hướng cho giám đốc doanh nghiệp trong việc đưa ra các quyết định đầu tư, tài trợ hay kế hoạch chi trả cổ tức và dự báo tài chính. Các quyết định của các nhà quản trị tài chính nhằm mục đích duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, tránh khả năng phá sản, tăng khả năng cạnh tranh mở rộng thị phần, tối thiểu hoá chi phí, tối đa hoá lợi nhuận và duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định. Doanh nghiệp có hoạt động hiệu quả hay không là phụ thuộc nhiều vào sự đúng đắn của các quyết định của nhà quản lý. Muốn làm được điều đó, bản thân các nhà quản trị tài chính trong doanh nghiệp cần đảm bảo chất lượng công tác phân tích tài chính tốt nhất có thể. 1.3.2. Đối với các nhà đầu tư vào doanh nghiệp Trước hết, các nhà đầu tư cần biết những thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp để quyết định có nên đầu tư vào doanh nghiệp hay không. Họ có thể là những cổ đông, cá nhân, các doanh nghiệp hoặc các đơn vị khác, và vấn đề quan tâm chủ yếu của các nhà đầu tư là mức sinh lời của khoản vốn, thời gian hoàn vốn cũng như mức độ rủi ro khi đầu tư vào doanh nghiệp. Với doanh nghiệp cổ phần hóa, trước khi đưa ra quyết định đầu tư, các nhà đầu tư quan tâm đến giá trị của doanh nghiệp mà chủ yếu là giá trị cổ phiếu của doanh nghiệp tại thời điểm đầu tư. Những nhà đầu tư là những người giao vốn cho các nhà quản lý doanh nghiệp sử dụng, vì thế rủi ro tiềm ẩn luôn là mối đe doạ nguồn vốn của họ. Đặc biệt, những rủi ro này được phản ánh trực tiếp qua sự biến động của giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán và sự sụt giá của chúng có thể là nguy cơ phá sản của doanh nghiệp. Do vậy, các nhà đầu tư luôn phải cân nhắc giữa lợi nhuận kỳ vọng và mức độ rủi ro phải gánh chịu. Các nhà đầu tư phải thông qua chuyên gia phân tích tài chính để nắm bắt được thông tin về tình hình hoạt động, tình hình kết quả kinh doanh cũng như lợi nhuận hàng năm của doanh nghiệp thông qua các bản báo cáo phân tích tài chính được cung cấp bởi các nhà quản lý, từ đó có thể dự đoán triển vọng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai và có chiến lược phân bổ nguồn vốn của mình cho hiệu quả. Phần thu nhập của cổ đông bao gồm phần cổ tức được chia và phần giá trị tăng thêm của cổ phiếu trên thị trường. Do đó, các cổ đông đặc biệt quan tâm đến chính sách phân phối lợi nhuận và cơ cấu tài trợ của doanh nghiệp. Nếu công tác phân tích tài chính hiệu quả dẫn đến một cơ cấu tài trợ hợp lý giữa nợ và vốn chủ sở hữu sẽ giúp doanh nghiệp vừa tăng vốn đầu tư lại tăng giá trị cổ phiếu của doanh nghiệp và thu nhập trên mỗi cổ phiếu. Mặt khác, các cổ đông chỉ chấp nhận giảm việc chi trả cổ tức để tăng lợi nhuận giữ lại phục vụ mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh nếu những kết quả phân tích tài chính của công ty khẳng định quyền lợi của họ không bị ảnh hưởng và sẽ đạt được một mức thu nhập cao hơn trong tương lai. Như vậy, phân tích tài chính doanh nghiệp luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu và xuyên suốt của các nhà đầu tư. 1.3.3. Đối với những người cho doanh nghiệp vay vốn Đây có thể là các ngân hàng thương mại, các nhà cung cấp tín dụng thương mại, những người cho doanh nghiệp vay vốn để phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh. Trước khi đưa ra quyết định cho vay, họ phải nắm chắc được khả năng hoàn trả tiền vay và thu nhập (tức lãi tiền vay) là bao nhiêu, liệu nó có xứng đáng với khoản vốn mà họ đã bỏ ra hay không. Do đó, những người cho vay, họ quan tâm đến phân tích tài chính nhằm xác định khả năng trả nợ (tức khả năng thanh toán lãi vay) của khách hàng. Trong nội dung phân tích này, có sự khác biệt giữa khả năng thanh toán ngắn hạn và khả năng thanh toán dài hạn. Nếu là các khoản vay ngắn hạn, người cho vay đặc biệt quan tâm đến khả năng thanh toán ngay của doanh nghiệp, nói cách khác thì đó là khả năng đối phó của doanh nghiệp khi các khoản vay đến hạn phải thanh toán. Nếu là các khoản cho vay dài hạn, người cho vay phải tin khả năng hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong khi việc hoàn trả vốn và lãi lại phụ thuộc vào chính khả năng sinh lời này. Nếu đứng ở vị trí các chủ ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác thì họ chủ yếu quan tâm đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp mà điển hình là khả năng thanh toán tức thời, khả năng chuyển hoá các tài sản ngắn hạn nhanh chóng thành tiền. Hơn nữa, họ cũng quan tâm đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp, đặc biệt là tỷ trọng của vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn, bởi lẽ nguồn vốn này chính là nguồn bảo hiểm cho khoản tiền mà họ cho doanh nghiệp vay. Nhưng nếu là các nhà cung ứng vật tư hàng hóa, dịch vụ cho doanh nghiệp, họ cần biết được khả năng thanh toán của doanh nghiệp hiện tại và trong thời gian sắp tới để quyết định xem có nên cho phép khách hàng mua chịu hay không. Ngoài những đối tượng kể trên còn có những người lao động và các cơ quan quản lý Nhà nước cũng rất quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Bởi lẽ, kết quả hoạt động của doanh nghiệp tác động trực tiếp đến khoản thu nhập chính của người lao động, và các cơ quan quản lý Nhà nước cần thực hiện phân tích tài chính để đánh giá, kiểm tra và kiểm soát hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính có thực hiện theo đúng chính sách, chế độ Nhà nước quy định hay không,… 1.4. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp Phân tích tài chính vốn là một quá trình phức tạp đòi hỏi người phân tích phải có kiến thức tổng hợp và có kế hoạch phân tích cụ thể, tỉ mỉ như: Lập quy trình phân tích tài chính, chỉ rõ những thông tin phục vụ cho quá trình phân tích, phải xác định rõ phương pháp phân tích và cuối cùng là phải thiết lập các nội dung sẽ phải làm rõ trong quá trình phân tích. Cụ thể, những công việc cần phải làm như sau: 1.4.1. Quy trình phân tích tài chính Tổ chức phân tích tài chính doanh nghiệp là việc thiết lập trình tự các bước cần phải phải tiến hành cho công tác phân tích tài chính trong doanh nghiệp. Quá trình phân tích tài chính chỉ thực sự hiệu quả khi các nhà quản trị. Một quy trình phân tích thong thường bao gồm các bước chính sau: Bước một là lập kế hoạch phân tích. Đây là bước đầu tiên nhưng lại đòi hỏi phải có thời gian chuẩn bị chu đáo bởi lẽ giai đoạn này tác động và ảnh hưởng lớn đến cả quá trình phân tích. Một quy trình phân tích nếu có giai đoạn đầu được chuẩn bị chu đáo và tỉ mỉ sẽ là bước khởi đầu tốt cho những giai đoạn về sau. Giai đoạn này bao gồm tất cả các công việc như: Xác định mục tiêu phân tích và xây dựng chương trình phân tích. Mục tiêu phân tích phải đáp ứng nhu cầu phân tích ở thời điểm phân tích nhưng cũng phải phù hợp với loại hình doanh nghiệp và đặc thù nền kinh tế hiện tại, không xác định những mục tiêu xa rời thực tế, phải gắn chặt với những yêu cầu cấp thiết của doanh nghiệp. Và kế hoạch phân tích cũng cần phải xác định rõ nội dung phân tích, phạm vi và thời gian phân tích cũng như những thông tin cần thiết cho quá trình phân tích. Bước hai là tiến hành phân tích. Đây là quá trình triển khai, tiến hành thực hiện những công việc đã vạch ra trong bước đầu. Cụ thể, các công việc cần phải hoàn thành trong bước này như sau: tập hợp tài liệu, xử lý số liệu; tính toán các chỉ tiêu phân tích; xác định nguyên nhân và tính toán cụ thể mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến các chỉ tiêu phân tích; xác định và dự đoán các nhân tố kinh tế xã hội tác động đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; tổng hợp kết quả và rút ra nhận xét, kết luận về thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Quá tình phân tích tài chính doanh nghiệp sử dụng moi nguồn thông tin có khả năng chứng minh, giải thích cho thực trạng tình hình tài chính nhằm đưa ra các dự báo tài chính chuẩn xác. Những nguồn thông tin đó bao gồm các thông tin nội bộ của doanh nghiệp và các nguồn thông tin bên ngoài khác, trong đó tập trung vào các thông tin trong bảng báo cáo tài chính. Tuy nhiên, khi có được các thông tin cung cấp từ các nguồn khác nhau, các nhà phân tích phải xử lý thông tin theo góc độ nghiên cứu của mình nhưng vẫn đảm bảo tuân thủ các mục tiêu đề ra. Bước ba là đưa ra kết quả phân tích. Đây là bước cuối cùng của quá trình phân tích tài chính và điều quan trọng nhất là các nhà phân tích phải đưa ra các quyết định tài chính. Bước này bao gồm các công việc cụ thể như sau: Viết báo cáo về tình hình tài chính của doanh nghiệp; Nêu định hướng phát triển và các giải pháp khắc phục, cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp. 1.4.2. Những thông tin phục vụ cho quá trình phân tích tài chính của doanh nghiệp. Để có thể phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp một cách toàn diện và hiệu quả, các nhà quản trị tài chính phải sử dụng rất nhiều thông tin từ các nguồn cung cấp khác nhau. Những nguồn đó có thể là do chính bản thân doanh nghiệp cung cấp hoặc cũng có thể là do những nguồn bên ngoài doanh nghiệp như các chế độ kế toán hiện hành, chuẩn mực kế toán do Nhà nước ban hành và yêu cầu thực hiện,v.v…Những thông tin đó bao gồm: 1.4.2.1. Thông tin hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Như đã nói ở trên, phân tích tài chính doanh nghiệp cần sử dụng rất nhiều thông tin từ các nguồn khác nhau, bao gồm cả thông tin bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Trong các nguồn thông tin nội bộ thì các báo cáo tài chính là nguồn thông tin đặc biệt cần thiết, bởi lẽ các báo cáo tài chính là sản phẩm của quá trình thu thập, xử lý, tổng hợp thành. a) Thông tin phản ánh trong bảng báo cáo tài chính Các báo cáo tài chính có nhiệm vụ cung cấp cho người sử dụng những thông tin hữu ích cho việc ra các quyết định kinh doanh, liên quan đến việc phân phối và sử dụng các nguồn lực của đơn vị cũng như trong việc tính toán các chỉ tiêu tài chính khác. Và công việc phân tích tài chính dựa vào các báo cáo tài chính đó được gọi là xử lý các báo cáo kế toán. Thông thường cơ cấu của một bảng báo cáo tài chính bao gồm bốn bảng nhỏ: Bảng cân đối kế toán, bảng báo cáo kết quả kinh doanh, bảng lưu chuyển tiền tệ van cuối cùng là bảng thuyết minh báo cáo tài chính. Nội dung của các bảng báo cáo này như sau: Thứ nhất là bảng cân đối kế toán (CĐKT): Là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Đây là một báo cáo tài chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh tế và quan hệ quản lý với doanh nghiệp bởi lẽ nó phản ánh tổng quát tình hình tài sản, nguồn vốn của doanh nghiệp tại thời điểm phân tích dưới hình thái tiền tệ, được xem như là một bức chụp nhanh vị thế tài chính của doanh nghiệp. Việc phân tích bảng CĐKT sẽ cho cái nhìn tổng quát về tình hình tăng giảm, cơ cấu và hiệu quả sử dụng vốn và tài sản của doanh nghiệp. Bảng CĐKT của doanh nghiệp bao gồm hai phần lớn: Phần tài sản và Phần nguồn vốn. Bảng 1.1. Bảng cân đối kế toán Tại ngày…tháng…năm Đơn vị tính:… TÀI SẢN NGUỒN VỐN A. TÀI SẢN NGẮN HẠN A. NỢ PHẢI TRẢ I. Tiền và các khoản tương tiền I. Nợ ngắn hạn II. Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn II. Nợ dài hạn III. Các khoản phải thu ngắn hạn IV. Hàng tồn kho V. Tài sản ngắn hạn khác B. TÀI SẢN DÀI HẠN B. VỐN CHỦ SỞ HỮU I. Các khoản phải thu dài hạn I. Vốn chủ sở hữu II. Tài sản cố định II. Nguồn kinh phí và quỹ khác III. Bất động sản đầu tư IV. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn V. Tài sản dài hạn khác TỔNG CỘNG TÀI SẢN TỔNG CỘNG NGUỒN VỐN Nguồn QĐ số 15/2006/QĐ-BTC Phần tài sản: Bao gồm tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. Tài sản của phản ánh tiềm lực mà doanh nghiệp có quyền quản lý, sử dụng dài hạn nhằm thu được lợi nhuận trong tương lai (nếu đứng trên giác độ pháp lý), nhưng phần tài sản cũng cho phép đánh giá quy mô vốn, năng lực sản xuất của doanh nghiệp (nếu xét trên giác độ kinh tế). Phần nguồn vốn: Bao gồm phần nợ doanh nghiệp phải trả(ngắn hạn và dài hạn) và phần vốn chủ sở hữu. Đứng trên giác độ pháp lý, phần nguồn vốn của doanh nghiệp khẳng định trách nhiệm pháp lý về vật chất của doanh nghiệp đối với những cá nhân, tổ chức cho doanh nghiệp vay hay các bên góp vốn với doanh nghiệp. Cụ thể hơn, phần nguồn vốn phản ánh doanh nghiệp phải có trách nhiệm đối với số vốn đã đăng kí kinh doanh và với các khoản nợ của mình. Đứng trên giác độ kinh tế, phần nguồn vốn phản ánh nguồn hình thành nên tài sản, kết cấu nguồn vốn và cũng phần nào khái quát được khả năng độc lập tài chính (qua cơ cấu vốn) và thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Tóm lại, bảng CĐKT đã giúp các chuyên gia phân tích tài chính có cái nhìn tổng quát về tình hình tài chính của doanh nghiệp, sự biến động của tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp, tình hình phân bổ và sử dụng nguồn vốn cũng như khả năng thanh toán của doanh nghiệp qua các khoản phải thu và phải trả. Thứ hai là bảng báo cáo kết quả kinh doanh (BCKQKD). Một thông tin không kém phần quan trọng được sử dụng trong phân tích tài chính là thông tin phản ánh trong BCKQKD. Khác với bảng CĐKT, bảng BCKQKD cho biết sự dịch chuyển của tiền trong quá trình sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. BCKQKD giúp các nhà phân tích so sánh doanh thu với tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hóa, dịch vụ hoặc so sánh tổng chi phí phát sinh với tổng số tiền xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp.Trên cơ sở doanh thu và chi phí có thể xác định được kết quả sản xuất – kinh doanh là lãi hay là lỗ,…Như vậy, BCKQKD phản ánh kết quả hoạt động sản xuất – kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời kì nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình van kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Nội dung của một bảng BCKQKD thường bao gồm các khoản mục như: Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, các khoản giảm trừ doanh thu, doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ, giá vốn hàng bán, lợi nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ , doanh thu hoạt động tài chính, chi phí hoạt động tài chính, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh, thu nhập khác, chi phí khác, lợi nhuận khác, tổng lợi nhuận kế toán trước thuế, chi phí thuế thu nhập hiện hành, chi phí thuế thu nhập hoãn lại, lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp van thu nhập vốn cổ phần. Qua bảng BCKQKD nhà phân tích tài chính có thể tính toán các chỉ số lợi nhuận trên tổng doanh thu và vốn là bao nhiêu, từ đó tính được tốc độ tăng trưởng của kì này so với các kì trước,… Thứ ba là bảng báo cáo lưu chuyển tiền tệ (BCLCTT). BCLCTT là một trong bốn báo cáo tài chính bắt buộc mà mỗi doanh nghiệp đều phải cung cấp cho người sử dụng thông tin của doanh nghiệp. Nếu bảng CĐKT cho biết tài sản hiện có và nguồn vốn của doanh nghiệp; BCKQKD cho biết thu nhập và chi phí phát sinh để tính kết quả lỗ lãi của một kì kinh doanh, thì bảng BCLCTT được lập và phản ánh luồng tiền vào ra, số dư tại thời điểm đầu kỳ và cuối kỳ kinh doanh, tình hình thu chi ngắn hạn của doanh nghiệp. Có thể nói, đây là bảng có giá trị và ý nghĩa đối với tất cả các đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp vì nó phản ánh khả năng quản lý dòng tiền, khả năng tạo tiền, tình hình thu chi bằng tiền và những rủi ro tiềm ẩn của doanh nghiệp. Thông thường mỗi bảng BCLCTT bao gồm ba phần: lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh, lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính và lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động bất thường. Cuối cùng là bảng thuyết minh báo cáo tài chính (TMBCTC). Bảng này được lập nhằm cung cấp các thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh chưa có trong hệ thống báo cáo tài chính, đồng thời giải thích thêm một số chỉ tiêu mà trong các bản báo cáo tài chính chưa được trình bày nhằm giúp cho người đọc phân tích các chỉ tiêu trong báo cáo tài chính có một cái nhìn cụ thể và chi tiết hơn về sự thay đổi những khoản mục trong bảng CĐKT và BCKQKD.Nó phản ánh đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp, kỳ kế toán và đơn vị tiền tệ sử dụng khi trình bày báo cáo tài chính, những tuyên bố về chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán mà kế toán doanh nghiệp sử dụng để hình thành nên các bản báo cáo tài chính, những vấn đề ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, các chính sách kế toán mà doanh nghiệp đang sử dụng,…Bảng này trình bày 7 chỉ tiêu để cụ thể hóa các chỉ tiêu trong bảng CĐKT. Những chỉ tiêu này bao gồm: Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp (trụ sở và loại hình pháp lý của doanh nghiệp, Quốc gia đã chứng nhận tư cách pháp nhân của doanh nghiệp, các tính chất nghiệp vụ, ngành nghề kinh doanh và hoạt động chính của doanh nghiệp); chính sách kế toán áp dụng tại doanh nghiệp (doanh nghiệp đang sử dụng chế độ kế toán theo Quyết định nào của Bộ Tài chính và tình hình chấp hành các chuẩn mực kế toán của Nhà nước như thế nào); chi tiết một số chỉ tiêu trong báo cáo tài chính (sự thay đổi đột biến của các chỉ tiêu như tiền mặt, hàng tồn kho,…); giải thích và thuyết minh một số tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh (giải trình sự thay đổi của vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí trả trước ngắn hạn và dài hạn,…); phương pháp lập một số chỉ tiêu đánh giá khái quát thực trạng tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp (doanh nghiệp sử dụng phương pháp nào để đánh giá tình hình tài chính của mình); đánh giá tổng quát các chỉ tiêu; các kiến nghị. Qua bảng TMBCTC, tình hình thanh toán các khoản phải thu và phải trả là một trong những chỉ tiêu phản ánh khá sát thực chất của hoạt động tài chính. Nếu phân tích tài chính lành mạnh, doanh nghiệp có thể điều chỉnh các khoản phải thu để giảm hẳn các khoản phải trả, tránh tình trạng tranh chấp, nợ kéo dài ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Sử dụng bản TMBCTC sẽ tăng tính khách quan và phù hợp của các kết quả phân tích. b) Những thông tin hỗ trợ khác Đó là những thông tin về chiến lược, sách lược kinh doanh của doanh nghiệp trong thời kì, những thông tin về tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình tạo lập, phân phối và sử dụng vốn, tình hình và khả năng thanh toán. Những thông tin này được các nhà quản lý giải trình qua các nghiệp vụ hạch._. toán thống kê, hạch toán nghiệp vụ,v.v… 1.4.2.2. Thông tin kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp Đây là các thông tin về tình hình kinh tế chính trị, môi trường kinh tế pháp luật, cơ hội đầu tư và cơ hội về kinh tế kỹ thuật,…có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong năm. Sự suy thoái hay tăng trưởng của nền kinh tế có tác động mạnh mẽ đến cơ hội kinh doanh, đến sự biến động của giá cả các yếu tố đầu vào và thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra, từ đó có tác động đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Để quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, Nhà nước tổ chức các cuộc thăm dò thị trường, triển vọng phát triển trong sản xuất kinh doanh và dịch vụ thương mại,… và chính những kết quả điều tra đã ảnh hưởng không nhỏ đến chiến lược kinh doanh trong thời kì của doanh nghiệp. Khi các tác động diễn ra theo chiều hướng thuận lợi, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được mở rộng, lợi nhuận tăng lên và do đó, kết quả kinh doanh trong năm là khả quan, và ngược lại, khi các biến động của nền kinh tế bất lợi đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ gây hậu quả khó mà lường trước được. Chính vì vậy, muốn kết quả phân tích đảm bảo tính khách quan, các nhà phân tích phải kết hợp các thông tin bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. a) Ảnh hưởng của ngành kinh tế tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Đây là các thông tin mà kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mang tính chất của nền kinh tế. Đặc điểm của ngành kinh tế liên quan đến nhịp độ phát triển của các chu kỳ kinh tế, đến tính chất của các sản phẩm doanh nghiệp sản xuất, liên quan đến quy trình công nghệ kỹ thuật mà doanh nghiệp ứng dụng trong quá trình kinh doanh, liên quan đến cơ cấu sản xuất của doanh nghiệp( ngành công nghiệp nặng hay công nghiệp nhẹ, chính những cơ cấu này lại liên quan đến vòng quay vốn, lợi nhuận hay khả năng sinh lời của doanh nghiệp). b) Ảnh hưởng của chính sách tới hoạt động của doanh nghiệp Nguồn thông tin này cũng rất phong phú và đa dạng. Chính sách của Đảng và Nhà nước có thể có tác động tích cực nhưng cũng có thể gây khó dễ cho hoạt động sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp. Có thể đơn cử như chính sách của Chính phủ về hoạt động tín dụng giữa ngân hàng và doanh nghiệp, nếu Chính phủ can thiệp tốt làm giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ thì sẽ hỗ trợ doanh nghiệp phát triển, cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp. Như vậy, chính sách của Nhà nước cũng là một trong những yếu tố tác động đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. 1.4.3. Phương pháp phân tích tài chính Để tiến hành quá trình phân tích tài chính, các nhà phân tích phải sử dụng kết hợp rất nhiều phương pháp phân tích khác nhau, có thể là phương pháp so sánh, phương pháp đối chiếu, phương pháp đồ thị, phương pháp biểu đồ,…nhưng chủ yếu các nhà phân tích sử dụng một số biện pháp cơ bản như: Phương pháp so sánh, phương pháp tỷ số và phương pháp tài chính Dupont. 1.4.3.1. Phương pháp so sánh Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích tài chính để đánh giá kết quả, vị trí và xu hướng biến đổi của các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp. Đây là công cụ dùng để phân tích nhằm phản ánh khuynh hướng, tốc độ nhanh chậm của các chỉ tiêu. Vì vậy, sự biến đổi cùng hướng hay ngược chiều với khuynh hướng tốt thì cần tìm hiểu nguyên nhân rõ ràng để có biện pháp xử lý sao cho phù hợp nhất. Thứ nhất, khi so sánh phải tồn tại ít nhất hai chỉ tiêu để tiến hành so sánh. Các chỉ tiêu sử dụng phải đảm bảo so sánh được. Đồng thời, khi so sánh cần phải thống nhất về đơn vị đo lường, thời gian tính toán và phương pháp tính toán. Thứ hai, khi so sánh phải xác định được gốc so sánh. Gốc được sử dụng để làm đại lượng so sánh có thể tại một thời điểm hoặc cũng có thể là kết quả tổng kết của một kì. Khi lấy gốc so sánh là trị số của chỉ tiêu tại một thời điểm trong quá khứ thì sẽ xác định được xu hướng và tốc độ phát triển của các chỉ tiêu cần phân tích. Tuy nhiên, năm sử dụng để lấy số liệu so sánh phải đảm bảo là năm hoàn toàn bình thường, không có biến động đặc biệt nào. Và khi so sánh tình hình kết quả đã đạt được so với kế hoạch đề ra thì gốc được chọn làm so sánh phải là trị số của chỉ tiêu tại kỳ kế hoạch. Khi cần xác định vị thế của doanh nghiệp trong ngành thì cần lấy gốc so sánh có thể là trị số trung bình ngành hoặc chính xác hơn nữa là trị số trung bình của một số doanh nghiệp cùng ngành. Thứ ba, khi so sánh các chỉ tiêu tổng hợp, phức tạp cần thống nhất về nội dung và cơ cấu của các chỉ tiêu. Khi không so sánh được các trị số tuyệt đối hoặc kết quả so sánh tuyệt đối không có ý nghĩa kinh tế thì các nhà phân tích có thể chuyển sang so sánh các chỉ tiêu tương đối. Trong quá trình phân tích có thể sử dụng cả các trị số tuyệt đối, các chỉ số tương đối và các trị số bình quân. Trị số bình quân phản ánh mặt chung nhất của chỉ tiêu, nó san bằng mọi sự chênh lệch về trị số của chỉ tiêu. Ngay cả trị số bình quân cũng có thể tồn tại dưới hình thức trị số tuyệt đối và tương đối( như tỷ lệ %). Nếu chỉ phân tích dựa trên những trị số tương đối thì không thể phản ánh đúng các mặt bên trong của doanh nghiệp, vì vậy để kết quả phân tích khách quan và đầy đủ, các nhà phân tích nên sử dụng kết hợp chỉ tiêu tuyệt đối và chỉ tiêu tương đối. Hơn nữa, khi áp dụng phương pháp so sánh này, người phân tích không chỉ dừng lại ở việc so sánh giữa các năm với nhau mà phải so sánh với cả các doanh nghiệp khác trong ngành, đặc biệt là đối thủ cạnh tranh để thấy rõ được điểm mạnh, điểm yếu, từ đó có chiến lược phát triển cho phù hợp. 1.4.3.2. Phương pháp tỷ số Phương pháp tỷ số là phương pháp này sử dụng các tỷ số để phân tích và đây cũng là một phương pháp truyền thống được áp dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp. Đó là các chỉ số được thiết lập bởi chỉ tiêu này với các chỉ tiêu khác. Những nội dung cần tiến hành khi sử dụng phương pháp phân tích tỷ số tài chính hoàn chỉnh là: Xác định đúng công thức đo lường chỉ tiêu phân tích; Xác định đúng số liệu từ các báo cáo tài chính để lắp vào công thức tính; Giải thích ý nghĩa của tỷ số vừa tính toán; Đánh giá tỷ số vừa tính(cao, thấp hay phù hợp); Rút ra kết luận về tình hình tài chính của doanh nghiệp; Phân tích các nhân tố ảnh hưởng; Nêu các khuyến nghị và cuối cùng là viết báo cáo phân tích. Sử dụng phương pháp này sẽ giúp các nhà phân tích khai thác có hiệu quả các số liệu và phân tích một cách có hệ thống hàng loạt tỷ số theo chuỗi thời gian liên tục hoặc theo từng giai đoạn. Phương pháp này sẽ cho hiệu quả phân tích cao nếu các điều kịên sử dụng ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Theo nguyên tắc, phương pháp này đòi hỏi cần xác định các ngưỡng, các tỷ số tham chiếu. Để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp cần so sánh các tỷ số của doanh nghiệp với các tỷ số tham chiếu. Như vậy, phương pháp này luôn được sử dụng với các phương pháp phân tích tài chính khác. Khi phân tích, các nhà quản trị tài chính thường kết hợp phương pháp so sánh như so sánh theo thời gian(so sánh các tỷ số của kỳ phân tích và các kỳ trước đó), theo không gian(so sánh với tỷ số trung bình ngành, với tỷ số trung bình của các doanh nghiệp tương tự) để đánh giá tình hình thực trạng tài chính của doanh nghiệp cũng như vị thế tài chính của doanh nghiệp trong ngành kinh doanh. 1.4.3.3. Phương pháp tài chính Dupont Nếu chỉ đánh giá riêng biệt bất cứ một loại chỉ tiêu tài chính nào đều không đủ để đánh giá một cách toàn diện hiệu quả tài chính và thành quả kinh doanh của doanh nghiệp. Phải có quá trình tổng hợp phân tích các chỉ tiêu và nắm vững ý nghĩa của các chỉ số tài chính thì mới đánh giá được một cách hợp lý và toàn diện tình hình tài chính của doanh nghiệp. Do đó, trên cơ sở đã nắm vững các phương pháp đánh giá cơ bản năng lực kinh doanh, năng lực thanh toán, khả năng sinh lợi,..của doanh nghiệp, nhà phân tích cần phải đánh giá tổng hợp hiệu quả tài chính. Có rất nhiều phương pháp được sử dụng để tổng hợp nhưng phương pháp chủ yếu nhất được các nhà phân tích quan tâm và ứng dụng là phương pháp tài chính Dupont. Đây là phương pháp phân tích các chỉ số tài chính dựa trên tỷ lệ so sánh với doanh thu được áp dụng rất hiệu quả tại công ty Dupont nên sau đó gọi là phương pháp tài chính Dupont, được nhiều nhà quản trị áp dụng trong phân tích mối quan hệ giữa lợi nhuận và các tỷ số khác dựa trên doanh thu. Bản chất của phương pháp này là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh mức sinh lợi của doanh nghiệp như thu nhập trên vốn chủ sở hữu (ROE) và mức sinh lợi trên tổng tài sản (ROA) thành tích số của một chuỗi các tỷ số có liên quan phản ánh mối quan hệ nhân quả giữa các nhân tố với nhau. Nhờ cách phân tích này, các nhà quản trị tài chính sẽ phân tích được ảnh hưởng của các tỷ số đó đến tỷ số tổng hợp, sẽ nhận biết được nguyên nhân dẫn đến các biểu hiện tốt, xấu của doanh nghiệp. Từ đó các nhà quản lý nội bộ doanh nghiệp có thể có cái nhìn cụ thể và ra quyết định xem nên cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp bằng cách nào. Phương pháp này sử dụng các công thức như: TNST TS ROE = × TS VCSH = ROA × EM (Hệ số nhân vốn) TS 1 Trong đó: EM = = VCSH VCSH TS 1 1 = = Tổng Nợ 1 - 1 – Hệ số nợ TS TNST DT ROA = × DT TS = PM × AU Trong đó: PM là doanh lợi tiêu thụ phản ánh tỷ trọng lợi nhuận sau thuế trong doanh thu của doanh nghiệp. AU là hiệu suất sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Đây là phương pháp mang nét đặc trưng riêng so với các phương pháp trên bởi chính ưu điểm của nó là giúp các nhà quản trị tài chính biết được nguyên nhân chính dẫn đến sự tăng giảm của ROE và ROA. 1.4.4. Nội dung phân tích 1.4.4.1. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp Vốn của doanh nghiệp được chia thành hai loại: vốn cố định và vốn lưu động. Vốn nhiều hay ít, tăng hay giảm, phân phối cho từng khâu, từng giai đoạn có phù hợp hay không sẽ ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Phân tích sự biến động của nguồn vốn (diễn biến nguồn vốn) và tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp sẽ đánh giá được tình hình tăng giảm vốn, phân bổ vốn như thế nào và từ đó đánh giá việc sử dụng vốn của doanh nghiệp có hiệu quả hay không. Một công cụ hữu ích của các nhà quản lý tài chính là sử dụng là bảng tài trợ, từ đó sẽ có thể xác định được nguồn cung ứng vốn và mục đích sử dụng vốn. Trong phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn, người ta thường hay xem xét sự thay đổi của các nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của một doanh nghiệp trong một thời kỳ theo số liệu giữa hai thời điểm lập bảng cân đối kế toán. Để lập được bảng này, trước hết phải liệt kê sự thay đổi của các khoản mục trên bảng cân đối kế toán từ đầu kỳ đến cuối kỳ. Mỗi sự thay đổi được phân biệt ở hai cột sử dụng vốn và nguồn vốn theo nguyên tắc: Sử dụng vốn (tăng tài sản hoặc giảm vốn) và nguồn vốn (giảm tài sản hoặc tăng vốn). Khi phân tích diễn biến vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp, các nhà phân tích luôn quan tâm đến việc phân tích tình hình nguồn vốn để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải có tài sản bao gồm tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn được tài trợ tương ứng bởi các nguồn ngắn hạn và dài hạn. Nguồn vốn ngắn hạn là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong khoảng thời gian dưới một năm cho hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm nợ ngắn hạn, nợ quá hạn, nợ nhà cung cấp và nợ ngắn hạn phải trả khác. Nguồn vốn dài hạn là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng lâu dài cho việc kinh doanh của mình, bao gồm có nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn vay nợ trung và dài hạn. Nguồn vốn dài hạn trước hết được đầu tư cho tài sản dài hạn, sau đó phần dư mới đầu tư cho tài sản ngắn hạn. Chênh lệch giữa nguồn vốn ngắn hạn và nợ ngắn hạn được gọi là nguồn vốn lưu động thường xuyên. Tăng tài sản dài hạn (như tăng tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô hình,v.v…) kết hợp với giảm nguồn vốn dài hạn (như giảm vốn chủ sở hữu do kinh doanh lỗ, hoàn trả các khoản nợ trung và dài hạn) sẽ làm tăng vốn lưu động thường xuyên này. Ngược lại, khi tăng nguồn vốn dài hạn (như phát hành thêm cổ phiếu làm tăng vốn chủ sở hữu, tăng khoản vay nợ dài hạn,v.v…) cùng với giảm nguồn vốn dài hạn (như thanh lý tài sản cố định,v.v…) sẽ làm giảm nguồn vốn lưu động thường xuyên. Vốn lưu động thường xuyên phản ánh mức độ an toàn cho doanh nghiệp bởi lẽ nếu nguồn vốn lưu động thường xuên tăng lên, nó thể hiện phần lớn tài sản dài hạn được tài trợ bởi nguồn vốn dài hạn. Tuy nhiên, để đạt được điều đó, doanh nghiệp phải tăng nợ dài hạn, bởi nếu khối lượng nợ dài hạn tăng lên sẽ tăng nguồn chi phí tài chính, dẫn tới giảm kết quả kinh doanh. Nếu tăng vốn lưu động thường xuyên chỉ bằng cách tăng vốn chủ sở hữu thì tình hình tài chính của doanh nghiệp sẽ được cải thiện , nhưng doanh nghiệp sẽ phải chịu chi phí sử dụng vốn cao hơn nợ vay và có thể phải chia sẻ quyền kiểm soát doanh nghiệp. Do đó, mọi quyết định huy động vốn và sử dụng vốn phải cân nhắc kỹ lưỡng. Có thể nói, việc lập bảng nguồn vốn và sử dụng vốn là cơ sở tiến hành phân tích tình hình tăng giảm nguồn vốn, việc sử dụng vốn, chỉ ra trọng điểm đầu tư vốn và những nguồn vốn và những nguồn chủ yếu được sử dụng để tài trợ cho nguồn vốn của doanh nghiệp. Từ đó có biện pháp khai thác tốt các nguồn vốn và nâng cao sử dụng vốn của doanh nghiệp. 1.4.4.2. Phân tích các tỷ số tài chính Trong phân tích tài chính, phương pháp phân tích tỷ số tài chính thường được phân thành bốn nhóm chính: Nhóm tỷ số về khả năng thanh toán, nhóm tỷ số về khả năng cân đối vốn hoặc cơ cấu vốn, nhóm tỷ số về khả năng hoạt động và nhóm tỷ số về khả năng sinh lãi. Hầu hết, các nhà phân tích tài chính thường quan tâm đến sự lành mạnh của tình hình tài chính doanh nghiệp, khả năng chi trả các khoản nợ đến hạn hay không. Nhưng tùy vào mục tiêu phân tích và ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp mà các nhà phân tích sẽ đi sâu vào các nhóm tỷ số khác nhau. Ví dụ như đứng trên địa vị của người cho vay, họ chỉ quan tâm chủ yếu đến nhóm khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Hoặc nếu là các nhà đầu tư vốn vào doanh nghiệp, những cổ đông, thì họ quan tâm chủ yếu đến tỷ số khả năng sinh lãi của doanh nghiệp vì họ không trực tiếp quản lý doanh nghiệp mà giao vốn cho các nhà quản lý, do đó cái đích cuối cùng mà họ quan tâm là thu nhập thực mà họ thu được là bao nhiêu. Các chỉ số tài chính cung cấp khá nhiều thông tin về tình hình tài chính doanh nghiệp nhưng nó sẽ càng chính xác hơn nếu nó được so sánh trong một thời kỳ tương đối dài. Bản thân các tỷ số chỉ là các con số nhưng nếu các nhà phân tích biết cách sử dụng nó hiệu quả thì sẽ là những con số “biết nói”, và để làm được điều đó, các nhà phân tích phải tìm hiểu được mối liên hệ giữa các nhóm tỷ số, có như thế thì kết quả phân tích mới khách quan và toàn diện được. Mỗi nhóm tỷ số phân tích có thể chứa đựng rất nhiều các chỉ số khác nhau nhưng việc chọn lựa chỉ số nào, số lượng bao nhiêu là tùy thuộc vào quy mô của hoạt động phân tich. 1.4.4.2.1. Nhóm tỷ số về khả năng thanh toán Khả năng thanh toán là một thuật ngữ tài chính - kế toán dùng để so sánh giữa tài sản và nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp được coi là có khả năng thanh toán cao khi lượng tài sản của doanh nghiệp lớn hơn số nợ mà doanh nghiệp phải trả. Do đó cũng có thể đo lường khả năng thanh toán bằng cách so sánh tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn. Việc phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp không chỉ hữu ích đối với các chủ nợ mà còn hữu dụng đối với các nhà quản lý của doang nghiệp, bởi lẽ nhờ quá trình phân tích này mà các nhà quản trị tài chính biết được khả năng chi trả của doanh nghiệp, từ đó điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn sao cho phù hợp với tình hình tài chính doanh nghiệp. Các tỷ số khả năng thanh toán bao gồm: - Khả năng thanh toán hiện hành Tài sản ngắn hạn Khả năng thanh toán hiện hành = Nợ ngắn hạn Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó. Trong đó, tài sản ngắn hạn thông thường bao gồm tiền, các chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển đổi thành tiền, các khoản phải thu và dự trữ. Còn nợ ngắn hạn bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả, phải nộp khác,… Thông thường, tỷ số này bằng một là đạt trạng thái cân bằng, bởi lẽ khi đó, toàn bộ tài sản ngắn hạn tài trợ cho các khoản nợ ngắn hạn. Còn nếu tỷ số này quá cao thì lại là dấu hiệu không tốt vì doanh nghiệp đang đầu tư vào tài sản ngắn hạn nhiều hơn nhu cầu ngắn hạn. Do đó, các nhà quản lý phải phân bổ vốn một cách hợp lý, tránh lãng phí tài sản của mình. - Khả năng thanh toán nhanh Tài sản ngắn hạn - Dự trữ - Tài sản ngắn hạn khác Khả năng thanh toán nhanh = Nợ ngắn hạn Tài sản quay vòng vốn nhanh = Nợ ngắn hạn Tỷ số này được tính bằng cách chia tài sản quay vòng nhanh cho nợ ngắn hạn. Trong đó, tài sản có khả năng quay vòng vốn nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, bao gồm tiền, chứng khoán ngắn hạn và các khoản phải thu. Tỷ số này phản ánh khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phị thuộc vào việc bán tài sản dự trữ (tồn kho). Nhìn chung, tỷ số này cao chưa phản ánh chính xác việc doanh nghiệp có thể nhanh chóng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn một cách hiệu quả hay chưa mà phải tùy thuộc vào điều kiện kinh doang của doanh nghiệp. Khả năng thanh toán tức thời Tiền và các tài sản tương đương tiền+các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn Khả năng thanh toán tức thời = Nợ ngắn hạn Tỷ số này là chỉ tiêu phản ánh rõ nhất khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn bằng tiền của doanh nghiệp. Ngoài ra, còn một tỷ số nữa mà các nhà phân tích cũng sử dụng, đó là tỷ số dự trữ trên vốn lưu động ròng. Tỷ số này cho biết dự trữ chiếm bao nhiêu phần trăm trong vốn lưu động ròng. Nếu tỷ số này quá cao so với các doanh nghiệp khác cùng ngành thì cũng không đánh giá được về tình hình thanh toán của doanh nghiệp vì nếu là doanh nghiệp kinh doanh mùa vụ, và quá trình phân tích đúng vào thời điểm doanh nghiệp đang tích trữ nguyên, nhiên vật liệu thì cũng không thể kết luận doanh nghiệp đang dự trữ quá mức. 1.4.4.2.2. Nhóm tỷ số về khả năng cân đối vốn hoặc cơ cấu vốn Tỷ số này đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ đối với doanh nghiệp và có ý nghĩa quan trọng trong phân tích tài chính. Thông thường các chủ nợ thích tỷ số này thấp nhưng các chủ sở hữu lại mong tỷ số này cao hơn để tăng lợi nhuận và toàn quyền quản lý doanh nghiệp. Song, nếu tỷ số này quá cao sẽ làm cho doanh nghiệp dễ bị rơi vào tình huống mất khả năng thanh toán. Nhóm chỉ số này chủ yếu bao gồm các chỉ tiêu nhỏ hơn như: Hệ số nợ, khả năng thanh toán lãi vay, khả năng độc lập về tài chính và tỷ lệ cơ cấu tài sản. Nợ Hệ số nợ = TS Nợ dài hạn Thông số nợ dài hạn = Nợ dài hạn + VCSH Lợi nhuận trước thuế và lãi Khả năng thanh toán lãi vay = hay số lần có thể trả lãi Lãi vay VCSH Khả năng độc lập về tài chính = Vốn trung và dài hạn Tài sản ngắn hạn hoặc dài hạn Tỷ lệ cơ cấu tài sản = TS Tổng Nợ Thông số nợ trên vốn chủ = VCSH 1.4.4.2.3. Nhóm tỷ số về khả năng hoạt động Các chỉ số này đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản, nguồn vốn của doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh thu được sử dụng chủ yếu trong tính toán các chỉ số này để xem xét tình hình hoạt động của doanh nghiệp.Nhóm chỉ số này bao gồm các chỉ tiêu: Vòng quay tiền, vòng quay hàng tồn kho, kỳ thu tiền bình quân, hiệu suất sử dụng tài sản cố định, hiệu suất sử dụng tổng tài sản. DT Vòng quay tiền = Tiền và chứng khoán dễ bán DT Vòng quay hàng tồn kho = Hàng tồn kho DT Vòng quay các khoản phải thu = Khoản phải thu Khoản phải thu Kỳ thu tiền bình quân = DT Phải trả người bán × Số ngày trong năm Kỳ thanh toán bình quân = Trị giá hàng mua tín dụng DT Hiệu suất sử dụng tài sản cố định = TSCĐ DT Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = TS 1.4.4.2.4. Nhóm tỷ số về khả năng sinh lãi Khả năng sinh lãi là kết quả tổng hợp chịu tác động của rất nhiều nhân tố khác. Nếu như các nhóm chỉ số trên chỉ phản ánh từng khía cạnh riêng biệt của doanh nghiệp. Mục đích chung của các doanh nghiệp kinh doanh là làm sao để một đồng vốn bỏ ra đầu tư cho lợi nhuận cao nhất có thể. Người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau: Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm, thu nhập trên vốn chủ sở hữu (ROE), doanh lợi tài sản (ROA). TNST Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = DT Lợi nhuận gộp Lợi nhuận gộp biên = DT TNST ROA = TS TNST ROE = VCSH Ngoài các chỉ số trên, đối với các công ty cổ phần còn sử dụng thêm một số chỉ số khác để đánh giá khả năng sinh lãi như thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS) và giá trên thu nhập (P/E), giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu, giá trị thị trường trên giá trị sổ sách (M/B). TNST - Cổ tức ưu đãi EPS = Số lượng cổ phiếu lưu hành Giá trị thị trường của cổ phiếu P/E = Thu nhập trên mỗi cổ phiếu VCSH Giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu = Tổng số cổ phiếu lưu hành Giá trị thị trường mỗi cổ phiếu Giá trị thị trường trên giá trị sổ sách = Giá trị sổ sách mỗi cổ phiếu 1.4.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến phân tích tài chính doanh nghiệp Phân tích tài chính vốn đã phức tạp lại chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố, bao gồm cả nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Những nhân tố đó là: Quy trình phân tích, phương pháp phân tích, thông tin sử dụng cho quá trình phân tích, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người phân tích và cả tính chính xác của hệ thống trung bình ngành. Cụ thể như sau: 1.4.5.1. Nhân tố chủ quan 1.4.5.1.1. Quy trình tổ chức phân tích Đây là nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả phân tích tài chính của doanh nghiệp bởi lẽ nếu không xây dựng được một kế hoạch phân tích khoa học và trình tự sắp xếp các công việc không hợp lý sẽ dẫn đến vướng mắc khi tiến hành phân tích và chậm tiến độ hoàn thành công việc. Bất cứ một quy trình phân tích tài chính nào đều có ba giai đoạn, phải tiến hành đầy đủ và chu đáo từ khâu đầu tiên sẽ giúp cho doanh nghiệp có những kết quả chính xác hơn. Đặc biệt, ngày nay việc sử dụng công nghệ kỹ thuật hiện đại phục vụ cho công việc phân tích tài chính đã cho kết quả phân tích rất khả quan mà lại tiết kiệm được chi phí. Mặc dù vậy, nhà quản trị tài chính phải có trách nhiệm phân chia công việc cụ thể trong nhóm phân tích để mỗi cá nhân chuyên trách một phần khác nhau, đảm bảo hoàn thành quá trình phân tích đúng thời hạn . 1.4.5.1.2. Phương pháp phân tích Phân tích tài chính có rất nhiều phương pháp có thể sử dụng nhưng chọn lựa phương pháp nào thì các nhà quản lý tài chính phải tính toán kỹ lưỡng sao cho phương pháp sử dụng là thích hợp nhất. Nếu như chỉ dùng một phương pháp phân tích thì kết quả phân tích không khách quan, do đó cần phải sử dụng kết hợp các phương pháp phân tích và đặc biệt là không được bỏ sót phương pháp tài chính Dupont. Tuy nhiên cũng phải biết giới hạn số lượng phương pháp áp dụng trong phân tích, không nên sử dụng quá nhiều phương pháp mà phải căn cứ vào mục tiêu phân tích để tìm ra những phương pháp phù hợp. 1.4.5.1.3. Thông tin sử dụng trong phân tích Đây là yếu tố rất quan trọng vì nó trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng kết quả phân tích. Một khi thông tin sử dụng không chính xác thì những kết quả phân tích cũng chỉ là những kết quả không có thực và nó không phản ánh một cách trung thực tình hình tài chính của doanh nghiệp. Những nguồn thông tin bên trong doanh nghiệp cần phải đảm bảo luôn luôn đúng, còn những thông tin bên ngoài doanh nghiệp về ngành nghề, chu kì kinh tế có thể lấy những giá trị gần chính xác vì đó là những nguồn thông tin không dễ xác minh được. 1.4.5.1.4. Trình độ chuyên môn của người phân tích Từ các nguồn thông tin khác nhau, các cán bộ phân tích thu thập tài liệu và tổng hợp lên các bảng, biểu và dùng khả năng chuyên môn của mình để phân tích, biến những con số trở nên “biết nói”. Không chỉ thế, từ tình hình tài chính của doanh nghiệp, các cán bộ phân tích còn phải vạch ra những điểm mạnh, yếu của doanh nghiệp để có định hướng khắc phục và cải thiện. Do tính chất phức tạp và khó khăn của công tác phân tích tài chính mà đòi hỏi các cán bộ phân tích phải có trình độ chuyên môn cao. 1.4.5.2. Nhân tố khách quan Phân tích tài chính sẽ trở nên đầy đủ và có ý nghĩa hơn nếu sự tồn tại của hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành. Bởi lẽ, đây là cơ sở tham chiếu rất quan trọng khi phân tích. Khi so sánh các chỉ tiêu tài chính với các chỉ tiêu tương ứng của trung bình ngành sẽ cho người phân tích những kết luận tốt, xấu về doanh nghiệp. Cụ thể hơn, từ việc so sánh này mà các nhà quản trị tài chính biết được vị thế tài chính của doanh nghiệp mình trong ngành kinh doanh, từ đó có biện pháp nâng cao vị thế của mình, sẵn sàng vượt qua những đối thủ cạnh tranh khác. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH CÔNG TY CỔ PHẦN THUỐC THÚ Y TRUNG ƯƠNG I 2.1. Tổng quan về công ty 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển Trước năm 1959, việc cung ứng vật tư và thuốc thú y là một bộ phận nằm trong Công ty thuốc trừ sâu và vật tư thú y. Năm 1973 theo quyết định số 97 NN-TCQĐ ngày 23/03/1973 của Bộ Nông nghiệp tách bộ phận cung ứng vật tư thú y thành lập một công ty có tên gọi là Công ty vật tư thú y cấp I. Năm 1983 theo quyết định số 156/TCCB-QĐ ngày 11/06/1983 của Bộ Nông nghiệp chuyển công ty thành đơn vị trực thuộc Bộ quản lý (cấp I). Trong thời gian từ 1973-1992, về tên gọi có thay đổi cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển nhưng chức năng và nhiệm vụ chính của công ty là: cung ứng dịch vụ, sản xuất và nhập tất cả các loại thuốc thú y, dụng cụ thú y, các loại vật tư phục vụ ngành chăn nuôi, đáp ứng đủ vật tư cho công tác nghiên cứu khoa học chăn nuôi thú y, phục vụ công tác giảng dạy, đào tạo cán bộ của ngành và công tác phòng chống bệnh cho đàn gia súc, gia cầm trong phạm vi cả nước với vốn đầu tư ban đầu là 12.000.000 đồng. Từ khi thành lập đến nay, công ty đã trải qua nhiều thử thách thăng trầm và có nhiều biến đổi, công ty đã xác định đúng trách nhiệm của mình và tự khẳng định được chỗ đứng của mình. Đặc biệt những năm 1989-1992 từ cơ chế bao cấp chuyển sang cơ chế hạch toán kinh doanh, công ty đã từng bước đổi mới, dần dần thích nghi với cơ chế thị trường nên mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều có hiệu quả. Trụ sở chính của công ty hiện nay đã rất khang trang. Kho chứa hàng hoá đảm bảo diện tích và đạt được tiêu chuẩn kỹ thuật. Bộ máy tổ chức ngày càng hoàn thiện, đội ngũ cán bộ trình độ nghiệp vụ chuyên môn ngày càng nâng cao. Số lượng cán bộ có trình độ đại học và có nhiều kinh nghiệm được bố trí vào các đơn vị công tác thích hợp để có đủ điều kiện hoàn thành công việc được giao. Từ tháng 5/1993-12/1999 công ty hoạt động theo mô hình DNNN với chức năng nhiệm vụ chính là sản xuất và kinh doanh, nhập khẩu vacxin và thuốc thú y - một lĩnh vực mới mà sản phẩm mang tính kỹ thuật đòi hỏi công ty có nhiều nỗ lực, nhiều giải pháp và đầu tư cho sản xuất nhiều hơn mới có thể phát triển bền vững đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và được thị trường người tiêu thụ chấp nhận. Giai đoạn đầu năm 1993, công ty chỉ có vài sản phẩm đưa ra thị trường nhưng đến cuối năm 1999, công ty đã có hơn 150 sản phẩm đưa ra lưu thông và được thị trường chấp nhận, trong đó có những sản phẩm là mũi nhọn chủ lực của công ty có hiệu lực điều trị bệnh và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Trong số đó có 10 sản phẩm đạt giải Bông lúa vàng và hai sản phẩm đạt Huy chương vàng tại hội chợ quốc tế. Thực hiện chủ trương của Chính Phủ về việc cổ phần hoá DNNN, bằng quyết định số 06/2000/QĐ BNN-TCCH ngày 26/01/2000 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã chuyển doanh nghiệp Công ty vật tư thuốc thú y Trung ương I thành Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I hoạt động theo Luật doanh nghiệp và Điều lệ công ty cổ phần với vốn điều lệ ban đầu là 7 tỷ đồng. Trong những năm qua, công ty đã đạt được những thành tích tiêu biểu như: + Huân chương Lao động hạng III do Chủ tịch nước tặng thưởng năm 1985. + Huân chương Lao động hạng II do Chủ tịch nước ban tặng năm 1996. + 8 cờ thi đua, bằng khen của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tặng về thành tích xuất sắc từ năm 1990-1999. + 18 năm liền từ năm 1988-2006 được UBND quận Đống Đa tặng danh hiệu và cờ thi đua quyết thắng trong công tác tự vệ và cờ 10 năm (1988-1997) đơn vị quyết thắng. + Từ năm 1990-2006 liên tục được công an Thành phố Hà Nội tặng cờ, bằng khen, giấy khen trong công tác bảo vệ. + Là tổ chức công đoàn cơ sở vững mạnh từ nhiều năm nay và năm 2006 do công đoàn quận Đống Đa khen thưởng. + Nhiều bằng khen, giấy khen cho hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động khác của đơn vị. 2.1.2. Tổ chức hoạt động của Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I Là một công ty cổ phần hóa, Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I có bộ máy tổ chức được sơ đồ hóa như sau: Bảng 2.1. Cơ cấu tổ chức của Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ VINAVIETCO Giám đốc Đại diện lãnh đạo về chất lượng P. Kế hoạch vật tư P. Đảm bảo chất lượng P. Thị trường bán hàng Phân xưởng sản xuất P. Kỹ thuật P. Kế toán tài chính P. Tổ chức hành chính Ban kiểm soát Nguồn: Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I Trong đó: Hội đồng quản trị (HĐQT): Là cơ quan quản lý công ty có quyền hạn và trách nhiệm như sau: + Toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của đại hội đồng cổ đông. + Có trách nhiệm giám sát Tổng giám đốc điều hành và những người quản lý khác. HĐQT có trách nhiệm cụ thể hoá các Nghị quyết của Đại hội cổ đông về tổ chức hoạt động của công ty. + Chịu trách nhiệm trước cổ đông về kết quả hoạt động của công ty bao gồm: Bảo toàn và phát triển vốn, đảm bảo việc làm và thu nhập cho người lao động, đảm bảo các chỉ tiêu tài chính đã được Đại hội cổ đông thông qua. Quyền và nghĩa vụ của HĐQ._. tạo điều kiện cho bộ phận sản xuất hoạt động tốt. Từ đó tổng chi phí không đổi nhưng định phí cấu thành nên một số sản phẩm sẽ được giảm xuống. Và để giảm chi phí TSCĐ, công ty có kế hoạch tìm nhà cung cấp với giá thấp nhất nhưng vẫn đảm bảo các thông số kỹ thuật thông qua hình thức chào bán công khai hay đấu thầu công khai. Đối với các khoản chi phí quản lý doanh nghiệp, công ty đang có dự định thiết lập cấu trúc tổ chức quản lý của công ty sao cho cấu trúc quản lý của công ty ngày càng hoàn thiện hơn, hoạt động ngày càng hiệu quả hơn nhưng chi phí ngày càng giảm nhiều tới mức thấp nhất có thể. Tóm lại, bằng cách giảm tối đa các khoản định phí cũng như biến phí mà trong đó tập trung giảm chi phí nguyên vật liệu là chủ yếu, đồng thời quan tâm đến công tác quản lý mà cụ thể là giúp cho công ty không chỉ hạ thấp được giá thành sản phẩm mà còn giảm thiểu đến mức có thể tổng chi phí sản xuất kinh doanh. Nhờ đó, công ty sẽ thành công trong chiến lược cạnh tranh với chi phí thấp nhất, mang lại lợi thế kinh doanh và giá cho bản thân công ty trên thị trường cạnh tranh. Trong nền kinh tế hiện nay, marketing có vai trò vô cùng quan trọng trong sản xuất kinh doanh, qua các hoạt động marketing doanh nghiệp có thể xác định được định hướng đầu tư trong tương lai, điều chỉnh sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng, xác định xu hướng thị trường, cũng như của đối thủ cạnh tranh. Nhận thức được tầm quan trọng của marketing trong sản xuất kinh doanh, mặc dù có nhiều khó khăn nhưng công ty rất chú trọng việc thu thập thông tin về nhu cầu khách hàng, hình ảnh công ty trong mắt người tiêu dùng, xu thế thị trường và đối thủ cạnh tranh chính, chủ yếu qua hệ thống bán hàng trực tiếp tiếp xúc với khách hàng, qua đối tác làm ăn và qua giao lưu học hỏi các công ty, ngành có liên quan. Công ty vạch ra chiến lược quảng cáo sản phẩm trong thời gian tới như tham gia hội chợ, triển lãm, sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là trên đài báo, ti vi, trên các kênh truyền hình trung ương, những phương tiện gắn liền với người chăn nuôi. Hơn nữa, công ty cũng có chiến lược phân phối sản phẩm đến tận người tiêu dùng và phổ biến quy trình sử dụng tại chỗ, giải đáp những thắc mắc kịp thời cho người chăn nuôi, hướng dẫn sử dụng thuốc đúng nhằm đem lại hiệu quả trong chăn nuôi. Trong đó, công ty chú trọng đầu tư hệ thống phân phối tại chỗ, tổ chức mạng lưới hiệu thuốc, phân phối, bán lẻ tốt, từng bước làm chủ, khai thác tốt thế mạnh thị trường nội tỉnh Ngoài ra, công ty cũng có chiến lược hoàn thiện những sản phẩm hiện hữu của mình ngày càng cao và phù hợp với nhu cầu thị trường bên cạnh những sản phẩm mới, công tác phân phối sản phẩm nhanh chóng và kịp thời đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Đây cũng là những biện pháp tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp trước các đối thủ cạnh tranh. Các chiến lược cạnh tranh được xem như những cách thức chủ yếu mà doanh nghiệp dùng để cạnh tranh trong ngành. Những chiến lược này bảo vệ doanh nghiệp trước áp lực cạnh tranh, giúp doanh nghiệp tồn tại trong giai đoạn cạnh tranh ác liệt, tạo ra các rào cản chống lại sự xâm nhập từ bên ngoài. Tuy nhiên, không phải công ty nào cũng thành công, thậm chí mất đi lợi thế cạnh tranh. Nhận thức được điều này, công ty không chỉ ra các chiến lược cạnh tranh mà còn có những chiến lược đầu tư thích hợp nhằm duy trì và tăng lợi thế cạnh tranh thông qua việc xem xét các giai đoạn phát triển của ngành và thực trạng của bản thân doanh nghiệp. Từ thực tiễn cho thấy các sản phẩm hàng hoá của công ty sản xuất ra vừa kinh doanh tiêu thụ, vừa phục vụ cho ngành chăn nuôi cả nước trong bối cảnh rất nhiều doanh nghiệp cạnh tranh gay gắt về chất lượng, giá cả, mẫu mã, chủng loại, dịch vụ sau bán hàng,…Để đứng vững và phát triển trong cơ chế thị trường thì doanh nghiệp phải không ngừng phấn đấu nâng cao tính hiệu quả và tăng trưởng bền vững của công ty. Sự cạnh tranh đó chính là phải tận dụng các thế mạnh sẵn có của công ty như thế mạnh thương hiệu, đường lối phát triển, công tác quản lý sử dụng đội ngũ cán bộ công nhân viên, nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp và khả năng thích ứng sáng tạo trong thời kỳ hậu WTO. 3.1.4. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực Trong các nguồn lực đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh, yếu tố con người giữ một vai trò quyết định, khai thác và sử dụng tốt nguồn nhân lực trong sản xuất kinh doanh là một trong những thành công lớn của doanh nghiệp. Nhận thức được điều này, công ty cũng có những định hướng cụ thể phát triển nguồn nhân lực của mình như sau: Trên nguyên tắc kiện toàn bộ máy tổ chức quản lý, thực hiện tinh giản biên chế và sắp xếp lại lao động và sản xuất, công ty đã và đang tập trung củng cố bộ máy quản lý, bố trí bộ máy điều hành gọn nhẹ, với phương châm “vì việc tìm người” để có thể triển khai hiệu quả các nghị quyết của Hội đồng quản trị(HĐQT). Theo tinh thần của nghị quyết HĐQT số 94 ngày 29/10/2004, công ty tiếp tục “Phát huy năng lực, sử dụng có hiệu quả thời gian làm việc, gắn được trách nhiệm của cán bộ quản lý đơn vị phần việc được phân công. Các đơn vị trong công ty phải có chức năng, nhiệm vụ rõ ràng, không chồng chéo, không có mảng trống, không gây cản trở cho công việc, các khâu công việc có người chịu trách nhiệm cụ thể, có sự phối hợp hiệu quả”. Hơn nữa, việc bổ nhiệm cán bộ quản lý phải chú trọng đến năng lực làm việc, tính phối hợp trong công việc. Cụ thể, HĐQT phải quán triệt đầy đủ trách nhiệm của cả tập thể và của từng thành viên để thực hiện nghiêm túc các quy định về trách nhiệm dân sự, trách nhiệm vật chất đã ghi rõ trong điều lệ, phải xây dựng quy chế phân định trách nhiệm, quyền hạn đối với kết quả hoạt động của công ty giữa HĐQT và bổ nhiệm Giám đốc. Bên cạnh việc phân định trách nhiệm rõ ràng cho từng thành viên, ban quản lý cũng cần xây dựng chỉ tiêu đánh giá mức độ hoàn thành công việc đã phân công cho các thành viên theo từng quý, 6 tháng, 9 tháng, cả năm để kịp thời rút kinh nghiệm. Trong việc thực hiện quyền quản trị doanh nghiệp phải nghiêm túc thực hiện theo điều lệ, quy chế, đối với Giám đốc phải thực hiện nghiêm túc Hợp động lao động. Các cán bộ giữ vai trò chủ chốt cần phải có tư duy và nhận thức đúng đắn, biết vận dụng sáng tạo tri thức khoa học công nghệ mới, biết khai thác tối đa nguồn lực lao động và thu hút nhân tài, đóng góp tích cực cho sự phát triển của công ty. Ngoài ra, những nhà lãnh đạo cần góp phần vào việc xây dựng văn hoá công ty, rèn luyện và bồi dưỡng phẩm chất yêu nghề, trung thành với nghề cho những người lao động, sống có đạo đức và lối sống lành mạnh, hết lòng bảo vệ thương hiệu của công ty mình. Ban lãnh đạo cũng cần chú trọng đến việc phát huy tiềm năng của người lao động bằng cách đưa họ vào làm việc một cách có tổ chức, có cơ chế khuyến khích tính năng động, sáng tạo theo hiệu quả và sự đóng góp của mỗi người và được hoạt động trong môi trường đồng đội thân thiện, cởi mở, và khuyến khích sự tìm tòi đổi mới. Với đặc thù ngành sản xuất thuốc là ảnh hưởng trực tiếp và nhanh chóng tới tình hình sức khoẻ của người tiêu dùng và người sản xuất nên người sản xuất phải có những kiến thức nhất định về thuốc. Công ty có quy hoạch về nguồn nhân lực để có chương trình tuyển dụng , đào tạo và đào tạo lại nhằm đáp ứng yêu cầu về công tác cán bộ cho năm 2009. Đào tạo đội ngũ quản lý và người lao động để đáp ứng quy trình công nghệ sản xuất mới về thuốc thú y và thuốc thú y thủy sản, kinh doanh trong tình hình cạnh tranh và xu thế hội nhập, phù hợp với các tiêu chuẩn chất lượng khu vực ASEAN, các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế GMP-WTO (Thực hành và sản xuất thuốc tốt tiêu chuẩn của tổ chức Y tế thế giới). Nguồn cán bộ sẵn có kinh nghiệm dạn dày và nguồn lao động mới không ngừng tìm tòi, cập nhật những tri thức tiến bộ sẽ tạo ra một đội ngũ nhân viên bản lĩnh và từng trải là nguồn lực quan trọng cho công ty trong quá trình phát triển. Để đảm bảo tận dụng tối đa thời gian làm việc của đội ngũ lao động trong công ty, Ban lãnh đạo công ty cũng đề ra các định mức lao động buộc người lao động phải hoàn thành trong một thời gian nhất định, tránh tình trạng công việc còn nhiều trong khi công nhân rảnh rỗi, lãng phí nguồn nhân lực. Song song với việc tập trung sản xuất kinh doanh, công ty cũng chú trọng mối quan hệ với ngành và củng cố đoàn kết với chính quyền và người dân sở tại nhằm góp phần giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, xây dựng địa bàn an toàn. Công ty luôn có chính sách khuyến khích, phát huy sáng kiến của người lao động trong công việc, tạo điều kiện cho người lao động khẳng định mình trong quá trình làm việc. Ngoài ra, công ty cũng có chính sách thưởng phạt phân minh, kịp thời nhằm động viên người lao động, tránh tình trạng người lao động bị thiệt thòi trong công việc. Có thể nói đây là chính sách rất hữu hiệu trong chiến lược quản lý nhân sự, bởi có tạo được lòng tin trong người lao động thì họ mới có thể trung thành cống hiến và gắn bó với công ty lâu dài. Hơn thế nữa, công ty cũng tích cực đầu tư nghiên cứu và tạo ra các sản phẩm mũi nhọn, đặc trưng, độc quyền để nâng cao hình ảnh của mình trong ngành sản xuất kinh doanh thuốc thú y, xứng đáng với thương hiệu VINAVETCO được người tiêu dùng cả nước mến mộ và tin tưởng. 3.2. Một số giải pháp 3.2.1. Áp dụng quy trình phân tích đầy đủ các bước Xuất phát từ chính sự cần thiết của công tác phân tích tài chính, công ty nên thành lập một bộ phận chuyên trách chịu trách nhiệm phân tích tài chính. Như thế, tính chuyên môn hoá trong công việc sẽ cao hơn và công tác nghiên cứu cũng sâu hơn và đầy đủ hơn. Hơn nữa, công ty cần có kế hoạch phân bổ cụ thể về thời gian phân tích và các bước cần tiến hành trong quá trình phân tích để tránh tình trạng bị động trong khi làm việc và đưa ra những đánh giá chuẩn xác về tình hình tài chính của công ty, là cơ sở cho việc ra đời những quyết định tài chính đúng. Công ty nên xây dựng một quy trình phân tích đầy đủ 3 giai đoạn: giai đoạn chuẩn bị cho quá trình phân tích, giai đoạn tiến hành phân tích và giai đoạn kết thúc phân tích. Trong giai đoạn đầu, công ty cần xác định phải xác định rõ nhu cầu của quá trình phân tích, việc phân tích phục vụ cho việc ra quyết định kinh doanh nào, mục tiêu của quá trình phân tích, phải xác định những nguồn thông tin sẽ sử dụng cho quá trình phân tích, với điều kiện chất lượng thông tin phải đảm bảo chính xác, thời gian phân tìm kiếm những nguồn tài liệu đó được phân bổ cụ thể như thế nào, phương pháp phân tích, số lượng cán bộ cần sử dụng cho quá trình phân tích vào khoảng bao nhiêu là hợp lý, và cũng phải dự tính tổng chi phí cho toàn bộ quá trình phân tích. Sau khi đã chuẩn bị chu đáo các công việc cần thiết cho quá trình phân tích, công ty tiến hành phân tích đảm bảo đầy đủ các bước như thu thập và xử lý thông tin, tiến hành thẩm vấn trực tiếp kế toán trưởng để khẳng định những thông tin trên báo cáo tài chính chính xác trước khi phân tích, phân tích các số liệu, có thể tham khảo ý kiến các chuyên gia phân tích trong quá trình phân tích, đưa ra những nhận xét đối với từng chỉ tiêu phân tích. Phân tích báo cáo tài chính phải nêu được biến động doanh thu sau thuế, phải chỉ rõ được biến động của các kết quả ròng, phải làm rõ được cơ cấu chi phí của doanh nghiệp. Cuối cùng, khi hoàn thành quá trình phân tích, cán bộ phân tích phải lập báo cáo tổng hợp về tình hình tài chính của doanh nghiệp cùng với những định hướng sửa đổi để cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp trong tương lai. Đồng thời, kết thúc quá trình phân tích, cán bộ phân tích cũng cần trả lời cụ thể những câu hỏi như: khả năng sinh lời và khả năng thanh toán trong ngắn hạn như thế nào; Khả năng sinh lợi và tăng trưởng dài hạn ra sao; Những rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính cũng như rủi ro tín dụng của doanh nghiệp được cảnh báo như thế nào; Lợi nhuận trên một cổ phiếu; ... 3.2.2. Nâng cao chất lượng nguồn thông tin sử dụng trong phân tích Để đảm bảo tính khách quan của các kết quả phân tích, cán bộ phân tích cần kết hợp giữa thông tin bên trong và thông tin bên ngoài doanh nghiệp. Tuy nhiên, để có những thông tin kế toán có giá trị thì công ty nên có biện pháp kiểm tra bằng chính nội bộ hoặc kiểm toán. Công ty cần bổ sung nguồn thông tin sử dụng ngoài hệ thống báo cáo tài chính bắt buộc của Bộ tài chính để phục vụ luồng thông tin đầy đủ cho công tác phân tích tài chính như Báo cáo thu nhập hàng năm của công ty, báo cáo công nợ, báo cáo tình hình mua sắm và sử dụng TSCĐ, báo cáo chi tiết về chi phí,… Đây là những tài liệu rất quan trọng trọng và được sử dụng cho những quyết định về cơ cấu vốn, sử dụng vốn, các quyết định về đầu tư và sử dụng đòn bẩy,… Với một khối lượng công việc phức tạp cần phải giải quyết, các kế toán viên không thể đảm bảo tránh khỏi những nhầm lẫn trong việc thu thập và phản ánh trên bảng báo cáo tài chính. Để khắc khục khó khăn này, hiện nay, việc sử dụng phần mềm kế toán (Fastbook) trong các doanh nghiệp đã giúp các doanh nghiệp hạn chế tối đa những sai sót này. Không chỉ giúp giảm nhẹ công việc cho kế toán, phần mềm kế toán còn giúp các nhà quản trị doanh nghiệp theo dõi, quan sát, kiểm tra khách hàng, doanh thu, chi phí của doanh nghiệp. 3.2.3. Tăng cường chất lượng đội ngũ cán bộ phân tích Công ty cần xây dựng một đội ngũ chuyên trách vấn đề phân tích tài chính. Số lượng cán bộ không quá nhiều, tránh lãng phí nguồn nhân lực. Công ty cần tuyển dụng những cán bộ có thâm niên trong công tác tài chính, không ngừng đào tạo cán bộ chuyên trách thông qua các khoá tập huấn của Bộ tài chính, trung tâm giáo dục của các trường đào tạo chuyên ngành. Hơn nữa, công ty cũng cần tăng cường đào tạo cho Giám đốc, đội ngũ các nhà quản trị tài chính, đội ngũ kế toán, thường xuyên cập nhập những kiến thức kế toán, kiểm toán cũng như phân tích tài chính mới nhất, nhằm sửa đổi phương pháp phân tích hiện có cho phù hợp hơn. Ngày nay, khi nền kinh tế đang dao động mạnh, các nghiệp vụ kinh tế ngày càng phức tạp và đa dạng hơn đòi hỏi các nhà phân tích tài chính cần trình độ cao hơn, phân tích những tác động của diễn biến nền kinh tế tới tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu chi phí không nhiều, doanh nghiệp có thể cử cán bộ phân tích của mình sang nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm của các chuyên gia bên đó, sau đó phân tích điều kiện của công ty để chọn lựa phương pháp phân tích hiệu quả nhất. 3.2.4. Lựa chọn phương pháp phân tích phù hợp Ngoài hai phương pháp truyền thống, công ty nên sử dụng kết hợp với một số phương pháp khác nữa như phương pháp loại trừ. Phương pháp loại trừ là phương pháp được áp dụng để xác định xu hướng và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đối với chỉ tiêu phân tích. Khi phân tích ảnh hưởng của một nhân tố nào đó phải loại trừ ảnh hưởng của nhân tố khác. Điều kiện áp dụng của phương pháp này là mối quan hệ giữa các nhân tố cần đo ảnh hưởng và chỉ tiêu phân tích phải thể hiện được dưới dạng công thức. Ngoài ra, việc sắp xếp các nhân tố ảnh hưởng và xác định ảnh hưởng của chúng tới chỉ tiêu phân tích phải xét cả phương diện số lượng và chất lượng. Trình tự thay thế các nhân tố phải tuân theo một nguyên tắc nhất định vừa phù hợp với ý nghĩa của việc nghiên cứu, vừa đảm bảo mối liên hệ chặt chẽ về thực chất của các nhân tố. Ưu điểm của phương pháp này là xác định được mức độ và chiều hướng ảnh hưởng của các nhân tố, sắp xếp các nhân tố theo mức độ ảnh hưởng của chúng, từ đó sẽ có biện pháp nhằm khai thác, thúc đẩy nhân tố tích cực và hạn chế những nhân tố tiêu cực.Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này là xem xét ảnh hưởng của các nhân tố là tách rời nên cần được sử dụng với các phương pháp khác. Ngoài ra, công ty cũng nên sử dụng thành thạo phương pháp phân tích tài chính Dupont bởi vì đây là một phương pháp rất hay được nhiều công ty lớn sử dụng. Phương pháp tài chính Dupont sẽ cho thấy ảnh hưởng của từng tỷ lệ tài chính riêng biệt đến tỷ lệ tổng hợp. Đây là một nhân tố rất quan trọng giúp nhà quản trị công ty có kế hoạch quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh của công ty hiệu quả hơn. 3.2.5. Xác định nội dung phân tích đảm bảo tính toàn diện và hiệu quả nhất. Ngoài những chỉ tiêu công ty dùng để phân tích tình hình tài chính đã nêu ở trên, công ty nên sử dụng thêm một số chỉ số khác nữa để kết quả phân tích được đầy đủ hơn, tạo điều kiện cho các nhà quản lý đưa ra các quyết định kinh doanh đúng đắn. Cụ thể, khi phân tích khả năng cân đối vốn của doanh nghiệp, cán bộ phân tích nên đưa thêm chỉ tiêu “thông số nợ trên vốn chủ” vào phân tích. Tổng Nợ Thông số nợ trên vốn chủ = VCSH Thông số này được dùng để đánh giá mức độ sử dụng vốn vay của công ty. Tỷ lệ này cho biết các chủ nợ cung cấp bao nhiêu đồng tài trợ so với mỗi đồng vốn mà cổ đông cung cấp hay nói cách khác, mỗi đồng vốn chủ đang đảm bảo cho bao nhiêu đồng vốn vay. Hơn nữa, trong nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng hoạt động, người phân tích nên đưa thêm chỉ tiêu khác để kết hợp phân tích như: Phải trả người bán × Số ngày trong năm Kỳ thanh toán bình quân = Trị giá hàng mua tín dụng Trong đó, phải trả người bán là số dư cuối kỳ nhưng lấy con số bình quân của đầu kì và cuối kì thì sẽ chuẩn xác hơn. Con số này cho biết thời hạn bình quân của khoản trả người bán. Thông thường các công ty muốn duy trì thời hạn phải trả vì thường là các khoản này có chi phí thấp hơn. Tuy nhiên, nếu công ty duy trì tỷ số này quá cao sẽ dẫn đến tình trạng công tr sẽ phải đối mặt với tình huống phải trả quá nhiều khoản nợ đến hạn. Và trong nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lãi, công ty nên đưa thêm chỉ số lợi nhuận gộp biên vào phân tích bên cạnh hai chỉ số phổ biến ROA và ROE. Lợi nhuận gộp Lợi nhuận gộp biên = DT Thông số này đo lường hiệu quả hoạt động sản xuất và Marketing. Một công ty có chỉ số này cao hơn chỉ số bình quân của nhóm công ty tương tự trong ngành sẽ cho thấy sự thành công trong chiến dịch cắt giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu lao động so với các công ty khác. Đặc biệt thông số này còn phản ánh tính hợp lý trong chính sách định giá của công ty. Ngoài ra, trong công tác phân tích tài chính, cán bộ phân tích nên phân tích về chu chuyển vận động của tiền mặt trong doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, tiền của doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn. Trên bảng CĐKT, khoản mục tiền phản ánh hình thái biểu hiện dưới dạng giá trị của tài sản ngắn hạn và trong quá trình kinh doanh thì tiền phản ánh tiềm năng tài chính của doanh nghiệp. Muốn làm được điều này, công ty lại cần quan tâm đến các Báo cáo LCTT, bởi nó phản ánh nhu cầu về tiền mặt cũng như tình hình tạo tiền của doanh nghiệp. Nó cũng giúp các nhà quản lý doanh nghiệp có định hướng lập kế hoạch tài chính ngắn hạn, dự báo tiền mặt để công ty có thể nghiên cứu, chọn lựa hình thức đầu tư hoặc huy động vốn kịp thời. Mục tiêu phân tích luồng tiền của doanh nghiệp là rút ngắn chu kỳ vận động của tiền. Chu kỳ vận động của tiền = Thời gian vận động của nguyên vật liệu + Thời gian thu hồi các khoản phải thu + Thời gian trả chậm các khoản phải thu Công ty cũng cần tập trung vào phân tích diễn biến vốn và sử dụng vốn, bởi lẽ nếu chỉ căn cứ vào nhóm tỷ số khả năng hoạt động và cân đối vốn thì chưa đủ để khẳng định công ty có sử dụng vốn hiệu quả hay không. Hơn nữa, công ty cũng cần tập trung phân tích sự biến động của các luồng tiền vào/ra thông qua việc sử dụng mô hình quản lý tiền mặt, bởi lẽ tiền mặt của công ty thông thường là tài sản không sinh lời hoặc có suất sinh lời rất thấp. Do đó, tiền mặt có chi phí cơ hội và buộc nhà quản trị tài chính phải có chính sách và chiến lược quản trị hiệu quả để dung hòa mục tiêu sinh lợi và mục tiêu thanh khoản trên bước đường tối đa hóa giá trị doanh nghiệp. Bên cạnh đó, công ty cũng cần phân tích thực trạng từng loại sản phẩm để qua đó cơ cấu lại mặt hàng và điều hành sản xuất để mang lại hiệu quả cao hơn. 3.3. Một số kiến nghị Ngày nay, khi cuộc khủng hoảng tài chính đang diễn ra trên toàn cầu, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang phải chịu áp lực cạnh tranh rất lớn từ các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, và từ chính những doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước. Do đó, để tồn tại và phát triển trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp nói chung và Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I phải củng cố tình hình tài chính của mình bằng cách ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại, tiên tiến, không ngừng nâng cao trình độ quản trị tài chính thông qua công tác phân tích tài chính. Phân tích tài chính thành công không chỉ giúp nâng cao kỹ năng phân tích, năng lực quản trị tài chính,…mà còn góp phần vào việc phát triển nền kinh tế. Tuy nhiên, để có thể nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính, bên cạnh sự nỗ lực của doanh nghiệp cần có sự quan tâm,giúp đỡ từ phía Chính phủ. 3.3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước Mặc dù không trực tiếp tham gia vào quá trình phân tích tài chính tại doanh nghiệp nhưng vai trò của Nhà nước trong việc tạo môi trường thuận lợi cho quá trình phân tích là vô cùng quan trọng và không thể thiếu trong việc nâng cao chất lượng phân tích. Trong điều kiện khủng hoảng tài chính toàn cầu như hiện nay, nền kinh tế có nhiều chuyển biến lớn, Nhà nước cần ưu tiên thực hiện những vấn đề sau: Nhà nước phải không ngừng hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật hịên hành, xây dựng một môi trường pháp lý ổn định, tạo sự an tâm cho các doanh nghiệp kinh doanh. Nhà nước cần hoàn thiện chế độ kế toán, chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán. Để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế trong quá trình hội nhập, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và giúp các doanh nghiệp hoà nhập với sự thay đổi đó, thì Nhà nước phải không ngừng hoàn thiện kịp thời hệ thống kế toán và các chuẩn mực kế toán, kiểm toán Việt Nam. Chế độ kế toán mới phải đảm bảo giải quyết các hoạt động kinh tế mới hoặc sẽ phát sinh trong tương lai, nhằm phản ánh đầy đủ các thông tin tài chính doanh nghiệp. Cùng với đó là vấn đề thông tin kế toán càng được kiểm toán khuyến khích hoặc bắt buộc với từng loại hình doanh nghiệp. Có những quy định về giá trị pháp lý của báo cáo tài chính đã kiểm toán. Ngoài ra, Nhà nước cũng cần tiếp thu những ý kiến phản hồi từ phía doanh nghiệp trong quá trình hoàn thiện chế độ kế toán và chuẩn mực kế toán mới. Doanh nghiệp vừa và nhỏ như Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I chiếm đa số trong tổng số doanh nghiệp hoạt động trên cả nước, do đó Nhà nước cần đặt sự quan tâm một cách đúng mực. Để thúc đẩy quá trình phân tích tài chính tại các doanh nghiệp này, Chính phủ cần có những biện pháp phát triển thị trường chứng khoán để thúc đẩy việc niêm yết cổ phiếu trên sàn giao dịch, khi đó có rất nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của công ty; do đó, doanh nghiệp càng phải chú tâm đến công tác phân tích tài chính. Nhà nước cần xây dựng hệ thống công khai báo cáo tài chính hoàn chỉnh để có một môi trường thông tin đầy đủ và cạnh tranh lành mạnh, từ đó doanh nghiệp có thể so sánh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với các doanh nghiệp cùng ngành hoặc các đối thủ cạnh tranh. 3.3.2. Kiến nghị đối với ngành Trong phân tích tài chính, cáo cáo tài chính là tài liệu vô cùng quan trọng trong khi chế độ kế toán sửa đổi thường xuyên khiến cho việc phản ánh các thông tin trên bảng báo cáo tài chính càng khó khăn đối với những người làm công tác kế toán. Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể phát huy tối đa hiệu quả của việc phân tích tài chính, Bộ tài chính cần thường xuyên mở các hội nghị nhằm cung cấp những thông tin mới nhất về hệ thống kế toán cho các doanh nghiệp nắm bắt kịp thời, yêu cầu các doanh nghiệp nhanh chóng thực hiện theo một cách thống nhất. Bộ tài chính cũng cần liên tục mở các lớp huấn luyện, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ phân tích cho các cán bộ chịu trách nhiệm phân tích tài chính trong doanh nghiệp để họ nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có thể hoàn thành công việc phân tích của mình ngay cả trong những tình huống phức tạp nhất. Hơn nữa, Bộ tài chính cần có các công văn hướng dẫn đầy đủ và cụ thể về công tác phân tích tài chính tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các công ty cổ phần. Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều có luật pháp điều chỉnh, và công tác phân tích tài chính cũng vậy, để trong quá trình phân tích, nếu có những vướng mắc, cán bộ phân tích có thể có cơ sở để trả lời một cách nhanh chóng. Bộ tài chính cũng cần phải xây dựng một hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành cho chuẩn xác và cập nhập thường xuyên hệ thống này để có cơ sở trong việc so sánh các doanh nghiệp. Ngoài ra, Bộ tài chính nên phân loại chỉ số trung bình ngành đối với những doanh nghiệp hoạt động đa lĩnh vực và những doanh nghiệp có quy mô tương đồng và chỉ số trung bình ngành đối với các doanh nghiệp còn lại nhằm tăng thêm hiệu quả của phương pháp tỷ số trong phân tích tài chính doanh nghiệp. KẾT LUẬN Trong bất kỳ doanh nghiệp nào, công tác phân tích tài chính luôn đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với các nhà quản trị tài chính và nó đã trở thành công cụ hữu hiệu cho các nhà quản lý của doanh nghiệp. Thông qua quá trình phân tích tài chính, Giám đốc doanh nghiệp nắm bắt được thực trạng tình hình hoạt động của doanh nghiệp trong kỳ, từ đó rút ra kinh nghiệm quản lý và làm cơ sở cho việc ra các quyết định tài chính đúng đắn. Do vậy hoạt động phân tích tài chính là vô cùng cần thiết cho mọi doanh nghiệp. Qua thời gian nghiên cứu, thực tập tại Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I và quan sát hoạt động phân tích tài chính tại công ty, em đã tìm hiểu nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động phân tích và đưa ra một số giải pháp. Mặc dù với sự cố gắng nỗ lực của bản thân nhưng do thời gian thực tập có hạn và sự hạn chế về kinh nghiệm cũng như kiến thức nên những giải pháp em đề xuất nhằm nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính tại công ty chưa hẳn phù hợp và mang lại hiệu quả tối ưu. Vì vậy em rất mong được sự đóng góp tối ưu của cô giáo và các bạn để em có thể hoàn thiện hơn nữa đề tài nghiên cứu của mình. Sau cùng, em xin cảm ơn thầy, cô giáo trong Khoa Ngân hàng – Tài chính đặc biệt là cô giáo Đoàn Phương Thảo và Ban lãnh đạo công ty, các cô chú làm việc tại phòng Kế toán – tài chính đã giúp đỡ em tận tình trong thời gian em thực tập và hoàn thành bài luận văn này. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BCKQKD Báo cáo kết quả kinh doanh CĐKT Cân đối kế toán DT Doanh thu HĐQT Hội đồng quản trị LCTT Lưu huyển tiền tệ TMBCTC Thuyết minh báo cáo tài chính TNST Thu nhập sau thuế TS Tài sản TSCĐ Tài sản cố định VCSH Vốn chủ sở hữu DANH MỤC BẢNG Tên bảng Trang Bảng 1.1. Bảng cân đối kế toán 14 Bảng 2.1. Cơ cấu tổ chức 36 Bảng 2.2. Tốc độ tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận, chi phí qua các năm 44 Bảng 2.3. Bảng báo cáo kết quả kinh doanh 46 Bảng 2.4. Bảng cân đối kế toán 47 Bảng 2.5. Tốc độ tăng trưởng tài sản 51 Bảng 2.6. Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn 53 Bảng 2.7. Khả năng thanh toán của công ty 55 Bảng 2.8. Khả năng cân đối vốn của công ty 56 Bảng 2.9. Khả năng hoạt động của công ty 57 Bảng 2.10. Khả năng sinh lợi của công ty 58 Tên biểu Trang Biểu 2.1. Lợi nhuận sau thuế của công ty qua các năm 43 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS.TS. Lưu Thị Hương (2005), Giáo trình tài chính doanh nghiệp, Nxb Thống kê, Hà Nội PGS. TS. Lưu Thị Hương, PGS. TS. Vũ Duy Hào (2006), Quản trị tài chính doanh nghiệp, Nxb Tài chính, Hà Nội JOSETTE PEYRARD (2008), Phân tích tài chính doanh nghiệp, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh TS. Nguyễn Thanh Liêm (2007), Quản trị tài chính, Nxb Thống kê, Hà Nội TS. Nguyễn Minh Kiều (2009), Tài chính doanh nghiệp căn bản, Nxb Thống kê, Hà Nội GS. TS. Ngô Thế Chi, PGS. TS. Nguyễn Trọng Cơ (2008), Phân tích tài chính doanh nghiệp, Nxb Tài chính, Hà Nội Pháp lệnh số 18/2004/PL-UBTVQH11 ngày 29 tháng 4 năm 2004 về thú y Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC Trang web điện tử Trang web điện tử Trang web điện tử Trang web điện tử Trang web điện tử Trang web điện tử MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 4 1.1. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp 4 1.2. Chức năng của phân tích tài chính 5 1.3. Vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp 7 1.3.1. Đối với các nhà quản lý doanh nghiệp 7 1.3.2. Đối với các nhà đầu tư vào doanh nghiệp 9 1.3.3. Đối với những người cho doanh nghiệp vay vốn 10 1.4. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp 11 1.4.1. Quy trình phân tích tài chính 11 1.4.2. Những thông tin phục vụ cho quá trình phân tích tài chính 13 1.4.3. Phương pháp phân tích tài chính 19 1.4.4. Nội dung phân tích 23 1.4.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến phân tích tài chính doanh nghiệp 31 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH CÔNG TY CỔ PHẦN THUỐC THÚ Y TRUNG ƯƠNG I 34 2.1. Tổng quan về công ty 34 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển 34 2.1.2. Tổ chức hoạt động của Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I 36 2.1.3. Tình hình hoạt động của Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I 41 2.2. Thực trạng công tác phân tích tài chính của công ty 44 2.2.1. Tổ chức công tác phân tích 44 2.2.2. Thông tin sử dụng trong phân tích 46 2.2.3. Phương pháp phân tích tài chính của công ty 49 2.2.4. Nội dung quá trình phân tích tài chính của công ty 50 2.3. Đánh giá công tác phân tích tài chính tại công ty 58 2.3.1. Kết quả 58 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 60 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN THUỐC THÚ Y TRUNG ƯƠNG I 65 3.1. Định hướng phát triển của công ty trong thời gian tới 65 3.1.1. Mục tiêu về chất lượng 65 3.1.2. Chiến lược sản xuất kinh doanh. 65 3.1.3. Chiến lược cạnh tranh 67 3.1.4. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực 70 3.2. Một số giải pháp 72 3.2.1. Áp dụng quy trình phân tích đầy đủ các bước 72 3.2.2. Nâng cao chất lượng nguồn thông tin sử dụng trong phân tích 73 3.2.3. Tăng cường chất lượng đội ngũ cán bộ phân tích 74 3.2.4. Lựa chọn phương pháp phân tích phù hợp 75 3.2.5. Xác định nội dung phân tích đảm bảo tính toàn diện và hiệu quả nhất. 76 3.3. Một số kiến nghị 78 3.3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước 78 3.3.2. Kiến nghị đối với ngành 80 KẾT LUẬN 81 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22233.doc
Tài liệu liên quan