Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xuất phát từ một nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, Đảng và nhà nước ta đã có những chính sách rất hợp lý trong tiến trình xây dựng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, một trong những chính sách đó là xây dựng mô hình hợp tác xã tín dụng( Quỹ tín dụng nhân dân ) với mạng lưới sát dân nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và cải thiện đời sống, xoá đói giảm nghèo ở các vùng nông thôn Việt Nam.
Hệ thống quỹ tín dụng nhân dân hoạt động chủ yếu là hu
107 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1661 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng công tác giám sát từ xa đối với quỹ tín dụng nhân dân tại Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi khu vực Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y động vốn để cho vay đối với các thành viên ở khu vực nông thôn, là nơi mặt bằng kinh tế thấp, sản xuất kinh doanh chứa đựng nhiều rủi ro. Để quyền lợi của người gửi tiền được đảm bảo, đòi hỏi bên cạnh hoạt động giám sát, thanh tra bằng các định chế do Ngân hàng Nhà nước ban hành thì phải có một hệ thống kiểm tra giám sát của một cơ quan độc lập, mà cơ quan đó không phải tổ chức nào khác chính là Bảo hiểm tiền gửi.
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam ra đời với mục đích là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, ổn định bền vững hệ thống ngân hàng, góp phần tăng trưởng kinh tế… Trong đó giám sát là một trong những khâu trọng yếu nhất nhằm giúp Bảo hiểm tiền gửi thực hiện các mục tiêu của mình.
Mục đích của giám sát trong bảo hiểm tiền gửi là nhằm hạn chế mức thấp nhất các rủi ro có thể xảy ra góp phần nâng cao chất lượng nghiệp vụ của hệ thống Ngân hàng nói chung và hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân nói riêng, giúp Bảo hiểm tiền gửi nhận biết được rủi ro đối với đối tượng này, từ đó có sự “can thiệp” phù hợp nhất…
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác giám sát tại Bảo hiểm tiền gửi nói riêng, trong thời gian thực tập tại Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam Chi nhánh khu vực Hà Nội, tôi đã chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng công tác giám sát từ xa đối với Qũy tín dụng nhân dân cơ sở tại Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi khu vực Hà Nội” làm nội dung nghiên cứu khoá luận tốt nghiệp.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của khoá luận
2.1 Mục đích
Nghiên cứu tình hình công tác giám sát từ xa tại Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chi nhánh khu vực Hà Nội đối với Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, trên cơ sở đó tìm ra các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường hiệu quả của công tác giám sát từ xa trong quá trình hoạt động của Chi nhánh.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ hoạt động và vai trò của Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi khu vực Hà Nội trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương
- Phân tích thực trạng của công tác giám sát từ xa của Chi nhánh đối với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, cụ thể là quỹ tín dụng nhân dân cơ sở;
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác gíam sát từ xa tại Chi nhánh đối với quỹ tín dụng nhân dân cơ sở;
- Kiến nghị một số chính sách về hoạt động bảo hiểm và công tác giám sát từ xa của Bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là: Công tác giám sát từ xa
- Phạm vi nghiên cứu: Khoá luận tập trung nghiên cứu trong phạm vi công tác giám sát từ xa đối với Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở tại Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam khu vực Hà Nội;
4. Phương pháp nghiên cứu
- Dựa trên cơ sở lý luận kinh tế Marx- Lê Nin nói chung và lý luận giám sát từ xa, có tiếp thu những thông tin của kinh tế học hiện đại
- Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và hệ thống lý luận, phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp khảo sát thực tế.
5. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm 3 chương :
Chương I: Lý luận chung về hoạt động giám sát từ xa của Bảo hiểm tiền gửi đối với qũy tín dụng nhân dân cơ sở
Chương II: Thực trạng của công tác giám sát từ xa đối với quỹ tín dụng nhân dân tại Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam khu vực Hà Nội
Chương III: Một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác giám sát từ xa tại Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi khu vực Hà Nội đối vơí quỹ tín dụng nhân dân cơ sở.
6. Lời cảm ơn
Tôi xin chân thành cảm ơn Th.s Đỗ Kim Hảo- Phó chủ nhiệm khoa Quản trị kinh doanh ngân hàng. Các anh, chị tại Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam khu vực Hà Nội, đặc biệt là cô Nguyễn Thị Kim Oanh – Giám đốc Chi nhánh BHTGVN khu vực Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành khoá luận này.
Chương 1. Lý luận chung về hoạt động giám sát từ xa của bảo hiểm tiền gửi đối với quỹ tín dụng nhân dân
1.1 Hoạt động của bảo hiểm tiền gửi
1.1.1 Mục đích của bảo hiểm tiền gửi
Bảo hiểm tiền gửi được định nghĩa như là một cơ chế có giới hạn nhưng chính thức cung cấp sự đảm bảo mang tính pháp lý cho các khoản tiền gửi( thường cả gốc và lãi) của người gửi tiền.
Bảo hiểm tiền gửi trên thế giới ra đời và hoạt động nhằm mục đích:
- Bảo vệ người gửi tiền nhỏ bằng cách cung cấp một cơ chế thanh toán ngay lập tức phần tiền gửi được bảo hiểm trong trường hợp tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi không có khả năng thanh toán;
- Tăng cường ổn định hệ thống tài chính bằng cách tạo điều kiện thiết lập hệ thống khuyến khích mang tính cạnh tranh để xử lý đổ vỡ của từng ngân hàng và ngăn chặn sự lây lan;
- Tăng cường sự ổn định của những tổ chức kinh doanh tiền tệ mới và nhỏ để cạnh tranh với những tổ chức tín dụng lớn và hoạt động lâu năm;
- Xác định rủi ro của Chính phủ khi một hoặc một nhóm ngân hàng sụp đổ trong các thời kỳ ổn định;
ở phần lớn các nước trên thế giới bao gồm cả thành viên trong EU đều nhấn mạnh việc bảo vệ người gửi tiền nhỏ là một mục tiêu chính của bảo hiểm tiền gửi. Quan điểm này dựa trên cơ sở cho rằng những người gửi tiền nhỏ có số lượng lớn, thường thiếu thông tin nên khi nghi ngờ về khả năng thanh toán của một ngân hàng, họ sẽ rút tiền hàng loạt từ đó làm mất ổn định chung của tiền gửi và hệ thống ngân hàng, gây sự đổ vỡ của một hoặc của một nhóm thậm chí của cả hệ thống ngân hàng.
1.1.2 Đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi
Đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi là các tổ chức tài chính có thực hiện hoạt động nhận tiền gửi cá nhân, đó là:
+ Các tổ chức tín dụng( các ngân hàng thương mại, hợp tác xã tín dụng…)
+ Các tổ chức không phải là tổ chức tín dụng được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng( công ty tài chính)
Việc tham gia BHTG có thể theo cơ chế tự nguyện hoặc theo cơ chế bắt buộc. Cơ chế tự nguyện là cơ chế mà các tổ chức tài chính có quyền quyết định có tham gia hệ thống BHTG hay không tham gia, luật pháp không bắt buộc phải bảo hiểm tiền. Đối với cơ chế bắt buộc thì theo quy định của pháp luật mọi tổ chức có kinh doanh tiền tệ và tham gia hoạt động ngân hàng đều phải tham gia bảo hiểm tiền gửi. Hiện nay trên thế giới, phần lớn các nước quy định chế độ BHTG bắt buộc.
Một nước có thể bảo hiểm ngầm hoặc công khai tất cả các khoản tiền gửi hay một số lượng tiền gửi. Việc bảo hiểm công khai yêu cầu các tổ chức tham gia BHTG phải niên yết công khai về việc tham gia BHTG tại trụ sở hoặc địa điểm giao dịch, đặc biệt là nội dung liên quan đến hạn mức BHTG. Thực tế cho thấy các hệ thống BHTG được xây dựng công khai có nhiều lợi thế hơn so với chế độ đảm bảo ngầm, nhờ đó có thể làm giảm rủi ro mà Chính phủ phải chịu khi các ngân hàng gặp khó khăn. Chính vì thế mà phần lớn các quốc gia trên thế giới áp dụng chế độ đảm bảo công khai tiền gửi. Trên thế giới cho thấy, cho tới năm 1993 trong số 72 nước có hệ thống bảo hiểm tiền gửi thì có tới 68 nước áp dụng theo chế độ BHTG công khai, chỉ có 4 quốc gia là áp dụng chế độ bảo hiểm ngầm.
1.1.3 Nghiệp vụ chính của Bảo hiểm tiền gửi
ở nhiều nước, tổ chức Bảo hiểm tiền gửi( BHTG) được gọi Công ty Bảo hiểm tiền gửi. Thực chất của bảo hiểm tiền gửi đối với các ngân hàng, đó là việc các ngân hàng phải nộp một khoản phí bảo hiểm nhất định đối với các khoản tiền gửi của khách hàng cho một tổ chức bảo hiểm chỉ chuyên đảm nhận rủi ro về tiền gửi đối với các ngân hàng. Thông thường tổ chức bảo hiểm tiền gửi này là tổ chức bảo hiểm của nhà nước, hoạt động mang tính chất tương hỗ, không mang tính chất thương mại, số tiền phí bảo hiểm tích tụ được qua các năm sẽ là một nguồn rất quan trọng dùng để chi trả tiền bảo hiểm cho bất kỳ ngân hàng nào rơi vào tình trạng phá sản hoặc chưa phá sản nhưng có nguy cơ rất lớn của sự phá sản. Như vậy, chi phí cho BHTG lớn( nhất là khi không phải chỉ một ngân hàng đổ vỡ) trong khi khoản thu phí bảo hiểm có hạn nên tổ chức BHTG phải do một tổ chức chính trị đứng ra thành lập, có thể là chính phủ hoặc ngân hàng Trung ương. Vốn ban đầu của tổ chức này được nhà nước cấp hoặc do Bộ tài chính, Ngân hàng Trung ương và các tổ chức tài chính được bảo hiểm đóng góp hoặc vay từ kho bạc và từ Ngân hàng trung ương.
a. Giám sát tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
ở các quốc gia nhìn chung đều quy định trách nhiệm của tổ chức tham gia BHTG trong việc giám sát tổ chức tham gia BHTG nhằm hạn chế rủi ro. Công tác giám sát các tổ chức này chủ yếu được thực hiện dưới hai dạng : giám sát từ xa và kiểm tra trực tiếp.
Kiểm tra trực tiếp gồm kiểm tra định kỳ và kiểm tra đột xuất. Hầu hết thì kiểm tra định kỳ đều được thực hiện theo kế hoạch và các vấn đề cần kiểm tra sẽ được điều chỉnh theo xu hướng tài chính. Kiểm tra đột xuất được thực hiện trên cơ sở nhu cầu đặc biệt phát sinh hoặc khi có chỉ thị cụ thể của cơ quan cấp trên. Ngoài ra, khi các tổ chức tài chính xin tham gia bảo hiểm tiền gửi, tổ chức bảo hiểm tiền gửi có thể thực hiện việc kiểm tra ban đầu để đảm bảo rằng các tổ chức tài chính đó đủ tiêu chuẩn. Hoạt động kiểm tra của tổ chức bảo hiểm tiền gửi không chỉ dựa trên quan điểm “cung cấp hỗ trợ chứ không phải đơn thuần là kiểm tra” và tuân thủ chính sách chia sẻ trách nhiệm giám sát với các cơ quan chức năng khác, mà còn quan tâm đến việc hỗ trợ các tổ chức tài chính bằng hoạt động kiểm tra này với mong muốn các tổ chức này sẽ hoạt động hiệu quả hơn.
Khi kiểm tra một tổ chức tài chính, tổ chức bảo hiểm tiền gửi còn phải đưa ra các quyết định tuỳ thuộc vào mức độ sai phạm của tổ chức này. Tuỳ theo quy định của mỗi quốc gia và mức độ sai phạm mà đưa ra quyết định, có thể yêu cầu cán bộ của tổ chức được bảo hiểm điều chỉnh ngay trong thời gian đoàn tiến hành kiểm tra hoặc nếu sai phạm lớn thì có thể khuyến nghị với các cơ quan có thẩm quyền;
Hoạt động giám sát từ xa được thực hiện đối với các tổ chức tham gia được bảo hiểm để đánh giá một cách hiệu qủa tính an toàn và tính lành mạnh trong hoạt động của các tổ chức này. Hầu hết các nước thực hiện giám sát từ xa đều dựa trên những cơ sở sau:
- Các thông tin cơ bản về hoạt động ngân hàng, các sai phạm trong hoạt động hoặc bất kỳ thông tin nào liên quan đến tổ chức tài chính đó.
- Thông qua các báo cáo kiểm toán nội bộ và báo cáo kiểm toán hàng quý, báo cáo tình hình hoạt động, bảng cân đối tài sản, báo cáo tài sản … để đánh giá về những sai phạm của tổ chức được bảo hiểm;
Trên cơ sở đó xây dựng các hồ sơ dấu hiệu cảnh báo quan trọng mà dựa vào các dấu hiệu này tổ chức bảo hiểm tiền gửi có thể xây dựng được các hồ sơ xử lý đánh giá sau.
b. Hỗ trợ đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi mất khả năng chi trả
Tình trạng mất khả năng chi trả có thể dẫn đến sự đổ vỡ ngân hàng và có thể gây nguy cơ khủng hoảng cả hệ thống Ngân hàng. Vì lẽ đó, khi một tổ chức tham gia BHTG có nguy cơ mất khả năng chi trả sẽ được tổ chức BHTG xem xét và tuỳ trường hợp cụ thể có thể được tổ chức BHTG hỗ trợ khắc phục tình trạng khó khăn đó, chẳng hạn như: được tổ chức BHTG cho vay hỗ trợ để chi trả tiền gửi được bảo hiểm, mua lại nợ…
c. Việc chi trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm
Khi tổ chức tham gia BHTG bị đổ vỡ, tổ chức BHTG có trách nhiệm chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền tại tổ chức đó theo quy định. Nếu không đủ vốn để chi trả, tổ chức BHTG sẽ được hỗ trợ vốn dưới hình thức cho vay từ nhà nước( Chính phủ) hoặc vay từ thị trường có sự bảo lãnh của Chính phủ.
d .Quản lý và thanh lý tài sản đối với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị phá sản
Trường hợp tổ chức tham gia BHTG bị phá sản, tổ chức BHTG được quyền tham gia quá trình quản lý và thành lý tài sản của tổ chức đó theo luật định. Số tiền thu hồi được từ việc thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG được bổ sung vào nguồn vốn hoạt động của tổ chức BHTG .
Tất cả những nội dung trình bày trên đã nói lên được một cách cơ bản về BHTG. ở nhiều nước hệ thống BHTG được hình thành từ lâu và hoạt động của hệ thống này có ý nghĩa vô cùng quan trọng và trở thành một bộ phận không thể thiếu được đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng.
1.2 Một vài nét cơ bản về phương pháp giám sát từ xa
1.2.1 Khái niệm
Giám sát từ xa là phương thức mà trong đó người giám sát sử dụng thông tin trên các báo cáo, nhằm phân tích đánh giá thực trạng hoạt động của các tổ chức tín dụng để đề ra các biện pháp xử lý khi cần thiết;
Như vậy công tác giám sát từ xa còn được hiểu là phương pháp mà cán bộ giám sát ngồi tại trụ sở của cơ quan tiếp nhận các thông tin báo cáo để phân tích đánh giá tình hình đơn vị được giám sát một cách thường xuyên và có hệ thống.
1.2.2 Phương pháp phân tích làm cơ sở cho việc giám sát
Để thực hiện nhiệm vụ của mình, công tác giám sát vừa phải sử dụng phương pháp nghiên cứu của một số môn khoa học khác vừa sử dụng phương pháp nghiên cứu có tính đặc thù riêng. Trong quá trình phân tích giám sát tuỳ thuộc vào bản chất của các sự việc, tuỳ thuộc vào từng đối tượng cụ thể cũng như nguồn tài liệu phân tích đánh giá mà áp dụng các phương pháp cho phù hợp:
a. Phương pháp so sánh
Bằng phương pháp so sánh có thể biết được kết quả hoạt động kinh doanh của một TCTD, qua đó có thể đánh giá được mức độ thực hiện mục tiêu mà các TCTD đã đề ra, đánh giá được tốc độ, xu hướng phát triển của hoạt động kinh doanh giữa các kỳ với các kỳ trước đó, cũng như mức độ tiến bộ hay lạc hậu của từng chỉ tiêu cụ thể so với hoạt động chung của tổ chức tín dụng đó hay cao hơn nữa còn phải so sánh với hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng;
Để tiến hành so sánh, phải đảm bảo hai điều kiện sau:
+ Phải có ít nhất hai chỉ tiêu hoặc hai đại lượng dùng để so sánh ;
+ Các chỉ tiêu đưa ra phải đồng nhất về nội dung kinh tế, thống nhất về phương pháp tính toán, cùng đơn vị đo lường và phải được thu thập trong cùng một khoảng thời gian;
Trong so sánh người ta thường so sánh giữa các chỉ tiêu thực hiện với chỉ tiêu kế hoạch, so sánh theo thời gian và so sánh theo không gian. Ví dụ so sánh giữa các chỉ tiêu thực hiện với chỉ tiêu kế hoạch chính là so sánh giữa kết quả đạt được với mục tiêu mà ngân hàng đề ra, qua đó giúp cho thanh tra cũng như bản thân ngân hàng biết được mức độ thực hiện của các chỉ tiêu, tìm nguyên nhân và đề ra được các biện pháp khắc phục, đồng thời giúp các ngân hàng khai thác và phát huy khả năng tiềm tàng trong nộ bộ mình.
b. Phương pháp phân tích tỷ lệ
Đây là một trong các phương pháp dùng để hỗ trợ cho công tác phân tích và tìm hiểu các báo cáo tài chính của các TCTD trong qúa trình đánh giá hoạt động kinh doanh ngân hàng. Nhờ phương pháp phân tích này mà ta có thể hiểu rõ hơn về bản chất của các hiện tượng cũng như sự biến động của các hiện tượng đó.
Tỷ lệ là một chỉ số toán học so sánh một yếu tố này với một yếu tố khác. Tỷ lệ được lập bởi việc tập hợp hai số liệu hoặc nhiều số liệu tạo ra một mối quan hệ nào đó.
Qua các tỷ lệ phân tích bảng cân đối tài sản, báo cáo dư nợ…của quý, năm chúng ta có thể thấy được xu hướng, tiến độ hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nếu tỷ lệ này có xu hướng không tốt thì tất yếu sẽ không thuận lợi cho các ngân hàng. Từ đó biết được cần phải kiểm tra, tìm hiểu theo phương hướng nào để có khuyến nghị nhà ngân hàng nên có biện pháp điều chỉnh như thế nào cho phù hợp.
Khi phân tích theo phương pháp này cũng cần phải so sánh kỳ này với kỳ trước, số thực tế với kế hoạch, đặc biệt cần phải so sánh các tỷ lệ của các ngân hàng khác nhau có cùng quy mô hoạt động hay so sánh với chuẩn mực của toàn hệ thống.
c. Phương pháp phân tổ
Phân tổ là phân chia chỉ tiêu kinh tế tổng hợp thành nhiều chỉ tiêu bộ phận, nhiều chỉ tiêu chi tiết theo những chi tiết nhất định.
Đây là một phương pháp khá quan trọng trong phân tích: Các hiện tượng và kết quả kinh tế thường rất đa dạng, phức tạp; dựa vào việc phân tổ các chỉ tiêu kinh tế người thanh tra có thể nhận thức được bản chất, mối quan hệ cấu thành và quan hệ nhân- quả cũng như quy luật tạo thành và phát triển của các hiện tượng kinh tế, trên cở sở đó nhà phân tích có thể xác định được đâu là yếu tố trọng điểm cần phải quan tâm trong công tác giám sát của mình, quyết định những hành động nhanh chóng và hiệu quả;
Để đạt được các yêu cầu cơ bản trên, người phân tích có thể chia các chỉ tiêu kinh tế theo thời gian, theo không gian( địa điểm phát sinh) và theo yếu tố cấu thành.
Phân chia theo thời gian sẽ giúp người phân tích biết được mức độ phát triển cũng như mức độ thực hiện các chỉ tiêu đã được đặt ra theo năm, quý, tháng …
Phân chia theo không gian sẽ xác định được nguồn gốc hình thành của chúng từ đó để có hành động cụ thể.
d. Phương pháp Dupont
Là phương pháp phân tích nhằm đánh giá sự tác động tương hỗ giữa các chỉ tiêu. Phương pháp này giúp phân tích một tỷ lệ sơ cấp thành các tỷ lệ thứ cấp, sau đó tỷ lệ thứ cấp mới tìm lại được trở thành tỷ lệ sơ cấp cho sự phân tích tiếp theo. Xét theo quan điểm triết học thì quan hệ giữa các tỷ lệ là mối quan hệ nhân- quả và được biểu hiện qua một chuỗi liên tiếp các tỷ lệ. Và bất kỳ một sự thay đổi nào của tỷ lệ sau sẽ kéo theo sự thay đổi của cả một hiện tượng kinh tế.
1.2.3 Nội dung giám sát từ xa
a. Nội dung cơ bản của phương thức giám sát từ xa:
Để thực hiện giám sát từ xa, có rất nhiều chỉ tiêu để đánh giá hoạt động của các tổ chức tín dụng nhưng theo các nhà quản trị ngân hàng trên thế giới thì các chỉ tiêu đó đều xoay quanh năm nội dung cơ bản sau:
Vốn của ngân hàng- “Capital;
Chất lượng tài sản có-“ Asset quality”;
Khả năng quản lý- “Management ability”;
Khả năng sinh lời-“Earning”;
Khả năng thanh toán-“Liquidity”;
Trong hoạt động ngân hàng 5 nội dung trên có vai trò quan trọng quyết định sự thành bại của mỗi ngân hàng, nếu quản lý tốt 5 lĩnh vực đó sẽ giảm tối thiểu sự đổ vỡ của hệ thống ngân hàng. 5 chỉ tiêu này trở thành mục tiêu chung đối với công tác quản lý và kinh doanh ngân hàng
Giám sát vốn của ngân hàng;
Với đặc điểm kinh doanh tiền tệ, vốn của ngân hàng là rất quan trọng. Phạm vi kinh doanh và quy mô kinh doanh của ngân hàng tuỳ thuộc vào vốn tự có của nó. Mặc dù vốn tự có của ngân hàng rất nhỏ so với tổng nguồn nhưng nó là căn cứ cho phép mức huy động vốn trên thị trường và được sử dụng nó vào mục đích nào? Vì thế các quy chế an toàn trong kinh doanh tiền tệ đều phụ thuộc vào vốn tự có.
Nội dung vốn của ngân hàng gồm: Vốn điều lệ, quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự trữ đặc biệt để dự phong bù đắp rủi ro, lợi nhuận chưa chia, giá trị tài sản tăng thêm do định giá lại tài sản cố định.
Giám sát vốn là giám sát việc bảo toàn và phát triển vốn tức là kiểm tra vốn thực có so với vốn đăng ký ghi trong giấy phép thành lập và so với vốn pháp định xem có đảm bảo hay không? kiểm tra quỹ dự phòng rủi ro có chấp hành theo quy định không? các chỉ tiêu an toàn và hiệu quả sử dụng và bảo toàn vốn. Giới hạn sử dụng vốn tự có để mua sắm tài sản, bù đắp tổn thất khi không có các nguồn huy động khác, giới hạn xem tổ chức đó được huy động vốn là bao nhiêu?
Hệ số Cooke là thước đo độ bền của mỗi ngân hàng. Theo thông lệ quốc tế tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu phải đạt 8 % trở lên. Tài sản Có của ngân hàng chia làm hai dạng, dạng tài sản có không có hệ số rủi ro tín dụng gồm: tiền mặt, tiền gửi tại Ngân hàng Trung ương, Trái phiếu do Chính phủ phát hành, vàng , bạc, … Dạng các tài sản rủi ro được chia thành 4 hệ số: 10%; 20%; 50%; và 100%. Thí dụ các khoản cho vay có thế chấp bằng động sản có hệ số rủi ro 50%. Tài sản ngoại bảng cũng được chuyển đổi sang các tài sản Có rủi ro theo hệ số.
Chất lượng tài sản Có
Chất lượng tài sản có là chỉ tiêu tổng hợp nói lên khả năng bền vững về mặt tài chính, khả năng sinh lời, năng lực quản lý, và hầu hết rủi ro trong kinh doanh tiền tệ đều tập trung vào tài sản có. Trong tài sản có thì tài sản có sinh lời là nội dung quan trọng nhất quyết định sự thành bại của ngân hàng, vì vậy đây là chỉ tiêu quan trọng mà nhà giám sát cần phải tập trung phân tích;
Tài sản có sinh lời của Ngân hàng bao gồm các khoản đầu tư cho trái phiếu kho bạc, khoản cho vay, góp vốn liên doanh,… Đây là những tài sản Có có khả năng mang lại những khoản thu nhập lớn cho ngân hàng, vì vậy khi giám sát rất cần phải quan tâm đến những thay đổi trong cơ cấu cũng như tỷ trọng của từng loại này trong Tổng tài sản.
Giám sát tài sản có là tập trung phân tích đánh giá các nhóm tài sản có, từng loại cho vay, từng loại dịch vụ theo một chuẩn mực nhất định sau đó tổng hợp các chỉ tiêu để đưa ra đánh giá cuối cùng về chất lượng tài sản có. Trước đây, dư nợ cho vay được xem là một phần quan trọng nhất trong cơ cấu tài sản Có của ngân hàng. Chất lượng cho vay, mức độ tổn thất trong hoạt động tín dụng ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng tài sản Có của ngân hàng. Tuy nhiên với xu thế phát triển của nền kinh tế thị trường thì việc đánh giá chất lượng hoạt động thương mại, dịch vụ của các ngân hàng ngày trở nên quan trọng. Kết quả của những hoạt động này sẽ ngày càng có tác động lớn tới chất lượng tài sản Có. Ngoài ra, các nhà phân tích cần quan tâm tới tỷ lệ tài sản Có sinh lời so với tổng tài sản Có. Bộ phận tài sản này quyết định khả năng thu nhập, lợi nhuận của từng ngân hàng.
Khả năng quản lý
Khả năng quản lý của mỗi ngân hàng là yếu tố năng động nhất. Nếu khả năng quản lý tốt có thể biến đổi một ngân hàng yếu kém thành một ngân hàng khá và ngược lại. Đánh giá năng lực quản lý của ban giám đốc điều hành và biểu hiện chất lượng quản lý bằng hiệu quả kinh doanh thể hiện qua các nội dung sau:
+ Năng lực đề ra sách lược kinh doanh có sức cạnh tranh và đứng vững trong thị trường.
+ Đưa ra được kế hoạch triển khai các công việc một cách hợp lý, rõ ràng, có hiệu quả.
+ Vạch ra đựơc phương thức quản lý nghiệp vụ, quy trình thực hiện nghiệp vụ đảm bảo tuân thủ các quy định trong kinh doanh.
+ Tạo nên một cơ cấu tổ chức hợp lý, có hiệu quả phân định rõ ràng trách nhiệm và quyền hạn giữa các nhân viên và người điều hành các khâu, các bộ phận.
+ Có chính sách nhân sự khuyến khích các thành viên tích cực làm tốt các công việc duy trì kỷ luật tạo không khí thân mật hợp tác trong công việc.
Từ nhận thức này, khâu tuyển chọn những chức vụ quản lý ngân hàng được đặc biệt coi trọng, đây là tiêu chuẩn được quy định thành những điều kiện trong luật áp dụng khi thành lập ngân hàng.
Trong quá trình hoạt động tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng quản lý của ban lãnh đạo điều hành một ngân hàng bao gồm:
Hiệu quả kinh doanh: Thông qua tốc độ tăng trưởng của kết quả kinh doanh có bền vững không, không bị ảnh hưởng khi có biến động và khả năng hạn chế những tổn thất.
Sự tuân thủ pháp luật, chính sách, chế độ lành mạnh trong kinh doanh.
Độ tín nhiệm trong môi trường kinh doanh đối với khách hàng và các ngân hàng khác.
Khả năng sinh lời
Hoạt động kinh doanh có lãi mới tạo được sinh lực cho ngân hàng tồn tại và phát triển. Khả năng sinh lời và kết quả tài chính là thể hiện kết quả cụ thể trong kinh doanh của ngân hàng. Trong cơ chế thị trường, ngân hàng chỉ có thể tồn tại và phát triển khi kinh doanh có lãi.
Khả năng sinh lời được thể hiện ở các khía cạnh sau:
+ Các hoạt động kinh doanh phải tạo ra thu nhập tránh rủi ro và phải bù đắp được khi có rủi ro.
+ Chi phí hoạt động của ngân hàng kể cả những khoản lỗ năm trước.
+ Những khoản tổn thất trong năm kế tài chính, đặc biệt là những khoản tổn thất trong cho vay.
+ Đảm bảo một tỷ lệ tài sản có sinh lời so với tổng tài sản có;
+ Thu nhập tính theo bình quân tài sản Có cao;
+ Chi phí cho vốn huy động thấp;
+ Chi phí cho những khoản tổn thất trong năm thấp;
+ Chi phí cho sản xuất kinh doanh hợp lý.
Khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán là một nội dung quan trọng để đánh giá hoạt động của ngân hàng. Khả năng thanh toán được đánh giá theo các tiêu chuẩn về nội dung khác nhau;
Duy trì khả năng thanh toán là một yếu tố hết sức nhạy cảm trong hoạt động ngân hàng. Kinh nghiệm cho thấy thậm chí đối với một ngân hàng chất lượng tài sản Có lành mạnh song do có sai sót về khả năng thanh toán, không đáp ứng được nhu cầu chi trả tiền gửi cho khách hàng đã dẫn đến mất tín nhiệm và có thể đưa đến rủi ro phá sản.
Để đảm bảo khả năng thanh toán, các ngân hàng luôn phải duy trì một tỷ lệ hợp lý giữa tài sản Có động so với tổng nguồn vốn huy động đồng thời cũng chú ý tới thành phần tiền gửi dễ biến động, mối quan hệ giữa tài sản Có động và tài sản Nợ động.
Tài sản Có động bao gồm hai dạng: Dạng bằng tiền có thể chi trả ngay và dạng tài sản Có có thể chuyển đổi ngay thành tiền. Ngoài ra còn phải tính đến khả năng tiếp cận vốn ở thị trường của ngân hàng. Tỷ lệ hợp thành của ba yếu tố trên là bao nhiêu được quyết định bởi tổng lượng vốn huy động của ngân hàng, thành phần kỳ hạn và cơ cấu của các khoản tiền, Ngân hàng phải thường xuyên duy trì nguồn tiền mặt và nguồn tiền gửi không kỳ hạn, hoặc các tài sản có thể chuyển nhanh thành tiền thường ở mức đáp ứng nhu cầu chi đủ trong 3 ngày làm việc.
b. Các chỉ tiêu giám sát đánh giá hoạt động của các tổ chức tín dụng
- Diễn biến về cơ cấu tài sản nợ và tài sản Có của các tổ chức tín dụng.
Diễn biến về tài sản Nợ và tài sản Có của tổ chức tín dụng được thể hiện qua bảng phân tổ tài sản Nợ và tài sản Có của một tổ chức tín dụng( TCTD). Thông qua phân tổ có thể dễ dàng nhận biết tính hợp lý của cơ cấu nguồn và tài sản, tỷ trọng giữa nguồn vốn ngoại tệ và vốn nội tệ, tỷ trọng giữa vốn ngắn hạn và dài hạn, tính thích hợp giữa tài sản sinh lời và tài sản không sinh lời, tình hình lỗ lãi…
Đồng thời qua số liệu diễn biến có thể phát hiện tình trạng không bình thường về số dư tiền gửi như giảm liên tục, số dư nợ quá hạn tăng đột biến quá mức, lượng tài sản Có động không đảm bảo khả năng thanh toán, tài sản khác cũng như nguồn vốn khác tăng, giảm không bình thường, chi phí có xu hướng tăng dễ dẫn đến lỗ…
Cuối cùng, các số liệu trên thể hiện qua phân tổ này còn được dùng để tính các chỉ số tài chính trong phân tích và xếp loại các tổ chức tín dụng.
- Đánh giá cơ cấu tài sản Nợ và tài sản Có:
Việc đánh giá cơ cấu tài sản Nợ và tài sản Có dựa trên việc đánh giá cơ cấu vốn, chiều hướng tăng trưởng của vốn, mối quan hệ giữa vốn và sử dụng vốn, khả năng sinh lời của tài sản Có.
+ Đánh giá cơ cấu tài sản nợ :
Việc đánh giá cơ cấu tài sản Nợ dựa trên việc đánh giá cơ cấu vốn, chiều hướng tăng trưởng của vốn, mối quan hệ giữa vốn và sử dụng vốn. Cần chú ý một số chỉ tiêu khi đánh giá vấn đề này:
1.
Vốn huy động trên thị trường I là nguồn vốn từ các doanh nghiệp và cá nhân không phải là TCTD, nên vốn được huy động nhiều trên thị trường I thì trong hoạt động có thuận lợi hơn, ít bị ảnh hưởng bởi những biến động thất thường trong quan hệ cung cầu tiền tệ hơn đối với các TCTD dựa vào vốn huy động hoặc đi vay trên thị trường liên ngân hàng. Tỷ lệ vốn trên thị trường I cao còn thể hiện những thay đổi trong chính sách lãi suất, hoạt động của ngân hàng đã chiếm được lòng tin của nhân dân khiến dân cư an tâm gửi tiền;
2.
Nếu vốn không kỳ hạn thấp thì TCTD cần quan tâm lại đến mức độ dự phòng do nguồn vốn này tuy huy động với chi phí thấp nhưng nó lại thiếu tính ổn định.
Nếu vốn có kỳ hạn chiếm tỷ lệ cao thì TCTD không lo về khả năng tiền gửi có thể bị rút ra bất cứ lức nào, tuy nhiên với nguồn vốn này các TCTD phải trả một mức phí cao hơn với tiền gửi không kỳ hạn.
Diễn biến tăng giảm các khoản vốn theo thị trường, theo kỳ hạn và lãi suất, nguồn vốn chi phí cao hơn với tiền gửi không kỳ hạn.
Khả năng huy động vốn của TCTD hiện tại và trong tương lai;
Uy tín của TCTD trên thị trường về khả năng huy động vốn, mức độ huy động vốn có phù hợp với tình hình phát triển kinh tế trên địa bàn không?
Giới hạn an toàn vốn của các TCTD :
+ Đánh giá cơ cấu tài sản Có:
Tài sản Có sinh lời: là giá trị những tài sản đem lại lợi nhuận trong hoạt động của các TCTD, bao gồm; dư nợ cho vay có khả năng thu được lãi, tiền gửi của TCTD khác, các khoản hùn vốn, liên doanh, mua cổ phần và các khoản đầu tư khác.
Khi đánh giá cơ cấu tài sản Có của TCTD là có hiệu qủa hay không thì cần thiết phải đánh giá:
Khi TCTD hoạt động trên thị trường bán lẻ thì hoạt động chủ yếu ở thị trường 1, còn với NH bán buôn thì vốn chủ yếu đầu tư cho các TCTD khác vay.
Giám sát những khoản tín dụng, bảo lãnh lớn phát sinh trong 15 ngày có giá trị từ 5% vốn tự có trở lên.
Giám sát dư nợ tín dụng đối với khách hàng từ 5% VTC của TCTD trở lên.
Để đánh giá chất lượng tài sản Có thì quan trọng phải đánh giá được diễn biến và cơ cấu hoạt động cấp tín dụng:
Phân loại hoạt động cấp tín dụng
Đánh giá chất lượng tín dụng
- Tính toán các tỷ lệ phản ánh chất lượng tín dụng, quan tâm đặc biệt đến nợ quá hạn, nợ chờ xử lý, nợ khoanh;
- Xem xét các yếu tố trong tổng nợ cho vay, cho thuê: nợ qúa hạn, các khoản chờ xử lý, nợ cho vay được khoanh..
+ Đánh giá quan hệ giữa tài sản nợ và tài sản có
- Kiểm tra giới hạn vốn ngắn hạn dùng để cho vay trung dài hạn theo quy định của NHNN.
- Vốn tự có
Trong giám sát VTC điều đầu tiên cần quan tâm đó là vốn điều lệ. Trong trường hợp nếu phát hiện TCTD không đảm bảo vốn điều lệ tối thiểu buộc phải xử lý theo một trong ba hướng sau:
+ Với các TCTD có tiềm năng, uy tín… có thể kêu gọi cổ đông góp vốn thêm vốn cổ phần để thoả mãn yêu cầu vốn điều lệ tối thiểu;
+ Đối với các TCTD yếu kém, không thể bán cổ phiếu để bổ sung vốn điều lệ thì có thể hợp nhất hai hay nhiều TCTD khác để trở thành TCTD mới có quy mô lớn hơn;
+ Đối với các TCTD yếu kém không có khả năng tăng vốn điều lệ và không muốn sát nhập thì buộc phải xin giải thể.
Giám sát VTC là giám sát việc thực hiện quy định về các tỷ lệ để đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD, trong đó đặc biệt quan tâm đến:
Ngoài ra ta cũng cần phải quan tâm đến các tỷ lệ khác như: Cho vay tối đa đối với một khách hàng, cho vay ưu đãi, chuyển nhượng cổ phẩn so với vốn điều lệ, giới hạn góp vốn mua vổ phần so với VTC,….
- Chất lượng tài sản có
Giám sát tập trung vào việc phát hiện ba dạng rủi ro ảnh hưởng đến chất lượng tài sản của ngân hàng là rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối; thể hiện qua:
Đánh giá diễn biến và cơ cấu hoạt động cho vay:
Đây là một việc làm phức tạp và đòi hỏi nhiều nguồn thông tin chính xác trong phạm vi BCĐTS các nhà phân tích có thể áp dụng các chỉ số sau để đánh giá tình hình cho vay của một ngân hàng:
+ Tổng dư nợ/ Nguồn vốn huy động: Chỉ số này xác định hiệu quả đầu tư của một đồng vốn huy động, đồng thời nó còn giúp cho các nhà phân tích so sánh khả năng cho vay của ngân hàng với vốn huy động;
+ Tổng dư nợ/ Tài sản Có: Phản ánh hiệu qủa tín dụng của một đồng Tài sản Có, n._.goài ra nó còn xác định quy mô hoạt động kinh doanh của ngân hàng;
+ Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ: Đây là chỉ số đo lường chất lượng nghiệp vụ tín dụng, các Ngân hàng có chỉ số này thấp đã chứng minh được chất lượng tín dụng cao của mình;
+ Cho vay ngắn hạn( hoặc trung và dài hạn)/ tổng dư nợ: Qua chỉ số này ta xác định được cơ cấu tín dụng trong trường hợp tổng dư nợ được phân theo thời hạn cho vay( ngắn, trung và dài hạn);
Để thực hiện tốt công tác giám sát chất lượng tín dụng đòi hỏi nhà phân tích cần:
+ Trước tiên phân loại các hoạt động cho vay
+ Đánh giá chất lượng hoạt động cho vay, đánh giá các tiêu thức chủ yếu sau:
Theo các chỉ tiêu trên, song cũng cần chú ý rằng chất lượng tín dụng được đánh giá tốt khi tỷ lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ cho vay, cho thuê ở mức dưới 5% và nợ quá hạn khó đòi chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nợ quá hạn…
Giám sát mức đảm bảo rủi ro tín dụng:
+ Giới hạn cho vay một khách hàng so với vốn tự có
+ Dư nợ cho vay một khách hàng không vượt quá 15% so với vốn tự có
+ Tổng số tiền bảo lãnh cho một doanh nghiệp không vượt quá 15% so với vốn tự có
+ Giám sát về duy trì thường xuyên tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng
- Kết quả kinh doanh
Mục tiêu giám sát khả năng sinh lời của TCTD là xác định tình trạng lãi thực lỗ thực trên cơ sở hạch toán chi phí đầy đủ, bao gồm cả các khoản tổn thất trong năm, xác định xu thế đi tới lãi hoặc lỗ, phân tích cơ cấu thu nhập và chi phí để vạch ra những mặt tích cực và những mặt yếu kém trong các nguồn thu nhập và chi phí.
Giám sát về kết quả kinh doanh đòi hỏi phải nắm chính xác và cụ thể tỷ trọng của từng khoản mục trong tổng số, ví dụ như số thu của từng khoản mục/ Tổng thu nhập, Số chi cho từng khoản mục/ Tổng chi phí trên cơ sở đó xác định các khoản thu, chi nổi trội và có nghi vấn khác thường;
Nội dung đánh giá thực hiện qua các tiêu thức sau:
Phân loại các khoản mục thu – chi;
Đánh giá cơ cấu, diễn biến các khoản mục thu- chi:
+ Kiểm tra tính đầy đủ, hợp lý của các khoản thu nhập, chi phí và diễn biến so với kỳ trước;
+ Đánh giá tính tương đối các khoản thu nhập- chi phí so với mức độ sử dụng vốn hoặc so với khối lượng vốn huy động;
+ Kiểm tra việc trích lập dự phòng phải thu khó đòi với việc phân loại tài sản có đầy đủ hay không?
+ Đánh giá các khoản thu nhập thường xuyên hay không thường xuyên.
Tính toán một số tỷ lệ phản ánh kết quả kinh doanh:
1. 2.
3.
Trong đó cần đặc biệt chú ý:
+ ROA, vì chỉ số này cho các nhà phân tích thấy được khả năng bao quát của ngân hàng trong việc tạo ra thu nhập từ tài sản có. Nói cách khác, ROA giúp các nhà phân tích xác định hiệu qủa kinh doanh của một đồng tài sản có. ROA càng lớn chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của ngân hàng đó càng tốt, cơ cấu tài sản hợp lý, ngân hàng đã có sự điều động linh hoạt giữa các hạng mục trên tài sản Có trước những biến động của nền kinh tế, tuy nhiên ROA mà quá lớn thì cũng đặt ra một câu hỏi cho nhà phân tích đó là liệu rủi ro có song hành với lợi nhuận mà ngân hàng đó đã đạt được? Vì vậy so sánh ROA giữa các kỳ phân tích đối chiếu với sự di chuyển các loại tài sản Có, giúp cán bộ thanh tra có thể rút ra nguyên nhân thành công hay thất bại của một ngân hàng;
+Về ROE: chỉ số này đo lường hiệu quả sử dụng của một đồng vốn tự có. Nó còn cho biết lợi nhuận ròng mà các cổ đông có thể nhận từ việc đầu tư vốn của mình. Bên cạnh đó ta còn có thể so sánh nó trong mối tương quan với ROA, nếu ROE qúa lớn so với ROA chứng tỏ vốn tự có của ngân hàng chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng nguồn vốn. Việc huy động vốn quá nhiều có thể ảnh hưởng đến độ lành mạnh trong kinh doanh của ngân hàng;
+ Hệ số thứ 3: Cho biết hiệu quả của một đồng thu nhập, hơn nữa còn đánh giá hiệu quả quản lý thu nhập của một ngân hàng. Cụ thể chỉ số này cao chứng tỏ ngân hàng đã có những biện pháp tích cực trong việc giảm chi phí và tăng thu nhập;
Ngoài ra để có thể đánh giá một cách bao quát, đầy đủ và đảm bảo tính chân thực về tình hình kinh doanh một ngân hàng thì giám sát viên cần quan tâm đến:
- Đảm bảo khả năng chi trả
Khả năng chi trả được đánh giá qua các chỉ tiêu:
+ Giám sát về duy trì thường xuyên tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các TCTD;
+ Đánh giá việc quản lý rủi ro thanh khoản, xem xét tính cân đối về vốn, sử dụng vốn;
+ Uy tín và khả năng huy động vốn trên thị trường;
+ Kết thúc ngày làm việc TCTD duy trì cho ngày làm việc tiếp theo tỷ lệ tối thiểu bằng một giữa tài sản có có thể thanh toán ngay so với các loại tài sản nợ phải thanh toán ngay;
+ Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu bằng VTC so với tài sản có rủi ro quy đổi là 8%;
+ Tài sản có nội, ngoại bảng được điều chỉnh theo mức độ rủi ro;
Đảm bảo chi trả các khoản nợ( tiền gửi của khách hàng và khoản nợ liên ngân hàng) là điều kiện tiên quyết trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nếu một ngân hàng thiếu khả năng chi trả các khoản nợ theo yêu cầu của hợp đồng thì điều này rất dễ dẫn đến một hậu quả vô cùng tồi tệ đối với ngân hàng đó là phá sản ngân hàng.
1.2.4 Xử lý sau giám sát
Căn cứ vào kết quả giám sát từ xa đối với từng TCTD, giám sát viên thông báo cho TGD ( GĐ) TCTD những vấn đề có liên quan trong việc thực hiện các quy định của pháp luật của toàn hệ thống TCTD và những kiến nghị các biện pháp khắc phục và xử lý vi phạm;
Giám sát từ xa có thể xử lý một khối lượng công việc rất lớn mà chỉ cần có một số ít các giám sát viên thực hiện, việc giám sát có thể được tiến hành thường xuyên hàng ngày, tháng, qúy và có thể giám sát toàn diện trên tất cả các mặt hoạt động của ngân hàng khi các thông tin báo cáo hoàn hảo đầy đủ. Tuy nhiên muốn cho phương pháp này đạt hiệu quả cao thì phải có công nghệ thông tin phát triển theo chương trình của mạng vi tính, các TCTD phải chấp hành tốt các quy định về chế độ thông tin, báo cáo định kỳ. Số liệu trên các báo cáo phải chính xác, trung thực, phản ánh đúng thực trạng hoạt động của TCTD.
1.3 Sự cần thiết của công tác giám sát từ xa trong Bảo hiểm tiền gửi đối với quỹ tín dụng nhân dân cơ sở.
1.3.1 Một vài nét về hệ thống quỹ tín dụng nhân dân cơ sở
a. Cơ cấu tổ chức và mô hình hoạt động
Mô hình tổ chức và hoạt động quỹ tín dụng nhân dân đang vận hành theo hình chóp, các cá nhân, hộ gia đình, các hợp tác xã… đủ điều kiện liên kết với nhau lập ra quỹ tín dụng nhân dân, có tên gọi là quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh là nền tảng bền vững của cả hệ thống quỹ tín dụng nhân dân.
Quỹ tín dụng nhân dân cở sở liên kết với nhau tự nguyện lập ra quỹ tín dụng nhân dân cấp quốc gia, có tên gọi là quỹ tín dụng nhân dân Trung ương. Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương là một pháp nhân, hạch toán độc lập, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh và bảo toàn vốn tài trợ của ngân sách và các thành viên góp vốn ban đầu. Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương có vai trò như là ngân hàng của các quỹ tín dụng cơ sở, trước hết chủ yếu là điều hành vốn trôi chảy từ quỹ tín dụng nhân dân cơ sở lên quỹ tín dụng nhân dân Trung ương và ngược lại.
Như vậy, mô hình tổ chức quỹ tín dụng nhân dân có mạng lưới trải rộng khắp cả nước và được tụ lại đầu mối của cả hệ thống là quỹ tín dụng nhân dân Trung ương. Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương có sứ mệnh đại diện cho toàn bộ hệ thống quỹ tín dụng nhân dân( QTDND) trong mối quan hệ với các tổ chức tài chính trong nước và quốc tế, với các cơ quan chức năng của Chính phủ.
b. Đặc trưng của quỹ tín dụng nhân dân
Với mô hình tổ chức và hoạt động, trước hết cần thấy rõ QTDND là loại hình TCTD được tổ chức và hoạt động theo mô hình kinh tế hợp tác. Điều này được đưa ra trên cơ sỏ xuất phát từ nguồn gốc ra đời của QTDND là do những người nông dân, lao động sản xuất và kinh doanh nhỏ cùng nhau góp vốn thành lập đẻ hỗ trợ nhau đựơc vay vốn nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh và cải thiện đời sống , xoá đói giảm nghèo. Các thành viên vừa là người sở hữu, vừa là hội viên và cũng đồng thời là khách hàng của QTDND;
Là loại hình có cơ cấu tổ chức và hoạt động theo mô hình HTX trong đó mọi thành viên đều được quyền tham gia quản lý, kiểm tra giám sát hoạt động và quyết định mọi vấn đề một cách dân chủ, mỗi thành viên được quyền đại diện cho một phiếu bầu mà không phụ thuộc vào vốn góp, các quyết định thuộc về đa số. Đây được coi như một đặc trưng nổi bật của loại hình tổ chức này;
Mục tiêu chính là hỗ trợ giữa các thành viên
Các thành viên QTDND đều là các chủ thể hoạt động kinh tế độc lập, khi họ cùng nhau góp vốn thành lập QTDND thì mục tiêu cơ bản đối với họ là được QTDND cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng một cách thuận tiện, thường xuyên và ổn định lâu dài từ đó có thể nâng cao được hiệu quả hoạt động kinh doanh và qua đó thu được lợi nhuận cao nhất từ những hoạt động sản xuất kinh doanh của riêng mình chứ không phải trước hết nhằm mục tiêu thu được lợi tức góp vốn cao nhất từ các hoạt động của QTDND;
ở đây ta thấy điểm khác biệt căn bản đối với các loại hình TCTD khác là QTDND hoạt động vì mục tiêu cốt yếu là hỗ trợ các thành viên nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc các QTDND tìm cách hoạt động thu được lợi nhuận ngày càng nhiều hơn trong hoạt động không nhằm mục đích chia cổ tức nhiều hơn mà coi đó là phương tiện giúp cho các QTDND đạt được mục tiêu hỗ trợ ngày càng tốt hơn cho các thành viên.
Là loại hình TCTD có quy mô và địa bàn hoạt động nhỏ hẹp, chủ yếu ở khu vực nông nghiệp, nông thôn
Do các thành viên của các QTDND chủ yếu là những người dân nghèo, sản xuất kinh doanh nhỏ nên khả năng góp vốn cũng như vay vốn để phát triển sản xuất kinh doanh còn hạn chế, vì vậy so với các loại hình TCTD khác thì quy mô hoạt động của QTDND thường nhỏ bé. Mặt khác, với tính chất là một tổ chức kinh tế hợp tác, khả năng kết hợp và phục vụ thành viên cũng có giới hạn phụ thuộc vào năng lực tài chính và trình độ của đội ngũ lãnh đạo, nhân viên quản lý điều hành QTDND, trong khi đó so với cán bộ lãnh đạo, nhân viên của các loại hình TCTD khác thì trình độ của những người này còn hạn chế hơn rất nhiều.
Hoạt động của QTDND mang tính chất rủi ro cao và cũng có ảnh hưởng tác động dây chuyền nhanh.
Là loại hình hợp tác hoạt động chủ yếu là huy động vốn để cho vay đối với các thành viên ở khu vực nông nghiệp, nôn thôn là nơi mặt bằng kinh tế thấp, sản xuất, kinh doanh chứa đựng nhiều rủi ro( do phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan như thời vụ, thiên tai, giá cả…), trong khi đó trình độ cán bộ còn nhiều hạn chế.
Hơn nữa, do hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng là lĩnh vực nhạy cảm, chịu tác động lớn bởi các yếu tố tâm lý, thông tin và nhiều nhân tố ảnh hưởng khách quan, chủ quan khác nên thường phải đối mặt với những nguy cơ đổ vỡ, Ngoài ra, tuy các QTDND là các pháp nhân độc lập về kinh tế hoạt động trên địa bàn ở những vùng địa phương khác nhau nhưng lại có cùng một tên gọi, chung một biểu tượng, mô hình tổ chức và phương thức hoạt động kinh doanh, đồng thời khả năng tự bảo vệ của mỗi QTDND còn nhiều bất cập. Vì vậy, khi một QTDND gặp khó khăn thì khả năng chi trả xảy ra phản ứng dây chuyền lây lan cho các QTDND khác trong hệ thống là rất cao;
Mặt khác, tuy thị phần của các QTDND là không lớn lắm so với các TCTD nhưng số lượng khách hàng, thành viên thì lại rất đông đảo và đa số thuộc lớp dân nghèo, sản xuất kinh doanh nhỏ, rất dễ bị tổn thương. Do đó, việc xảy ra đổ vỡ trong hoạt động cuả các QTDND có ảnh hưởng rất lớn tới ổn định an ninh, kinh tế, chính trị, xã hội của một bất kỳ một quốc gia nào.
QTDND là loại hình TCTD lấy QTDND cơ sở làm nền tảng và có tính liên kết hệ thống hết sức chặt chẽ
Với những đặc điểm trên của hệ thống QTDND thì việc cả hệ thống QTDND cùng nhau thiết lập một cơ chế liên kết hệ thống chặt chẽ vừa phát huy được các ưu điểm, lợi thế vốn có của mình lại vừa khắc phục được những nhược điểm mà mỗi QTDND không tự giải quyết được là một tất yếu;
Hệ thống QTDND từ QTDND cơ sở - QTDND Khu vực đến QTDNDTW liên kết, phát triển hệ thống có chức năng đại diện bảo vệ quyền lợi, định hướng phát triển cung cấp các dịch vụ tư vấn thông tin, thực hiện kiểm toán, quản lý quỹ an toàn và đào tạo nguồn lực cho toàn hệ thống QTDND. Việc liên kết này qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh và thúc đẩy sự phát triển của từng QTDND cơ sở cũng như toàn hệ thống đồng thời QTDND cơ sở chính là nơi tạo ra nguồn thu nhập căn bản cho hệ thống QTDND.
Trên đây là cơ cấu tổ chức và hoạt động của hệ thống QTDND, chỉ khi hiểu rõ được những nét đặc trưng về tổ chức hoạt động của QTDND thì mới giúp cho các cơ quan hữu quan có sự chỉ đạo và đưa ra những chính sách phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống QTDND hoạt động an toàn và phát triển bền vững.
1.3.2 Vai trò của công tác giám sát từ xa trong Bảo hiểm tiền gửi đối với hệ thống QTDND
Trong các hoạt động kinh tế, tín dụng là một trong những hoạt động phát triển khá mạnh mẽ, mặc dù hoạt động tín dụng đem lại lợi nhuận cao nhưng rủi ro tín dụng: mất khả năng thanh toán , rủi ro lãi suất… có thể xảy ra vào bất cứ lúc nào gây tổn thương cho các quỹ tín dụng như mất mát, thiệt hại về tài sản, thu nhập… làm cho quỹ tín dụng bị thua lỗ, thậm chí bị phá sản.
Để đối phó với những rủi ro tổn thất không lường trước được do các rủi ro gây ra, có nhiều biện pháp khác nhau nhưng biện pháp bảo hiểm tiền gửi có thể coi là hữu hiệu, nghĩa là chuyển những rủi ro mà mình có thể gặp phải cho các tổ chức bảo hiểm.
Bảo hiểm tiền gửi ra đời với những hoạt động nêu ở trên, trong đó hoạt động giám sát là một trong những nghiệp vụ cơ bản của bảo hiểm tiền gửi, là hoạt động nhằm góp phần đảm bảo an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, phục vụ việc quản lý của tổ chức tham gia của bảo hiểm tiền gửi.
Hệ thống bảo hiểm tiền gửi được triển khai có thể đưa đến tình trạng các ngân hàng nhất là các ngân hàng nhỏ có một sức ỳ nhất định bởi vì họ cho rằng đứng đằng sau sự đổ vỡ của ngân hàng mình là hệ thống bảo hiểm tiền gửi. Bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm trả tiền cho những người gửi tiền như vậy có thể xảy ra hiện tượng các ngân hàng sẽ lợi dụng sự đảm bảo của bảo hiểm tiền gửi chấp nhận những hoạt động kinh doanh có rủi ro cao như cho vay rủi ro cao, tăng lãi suất huy động tiền gửi nhưng mức tăng lãi suất không tương xứng với mức tăng về rủi ro….Trong hoạt động BHTG rủi ro này gọi là rủi ro đạo đức. Điều này sẽ gây ra những hậu quả lớn đối với cả nền kinh tế, quỹ tín dụng nhân dân và người gửi tiền. Như vậy bảo hiểm tiền gửi trở thành con dao 2 lưỡi mà mặt trái của nó có thể gây nên tâm lý chủ quan cho các ngân hàng, bởi vì nếu xảy ra tình trạng này kéo dài thì bảo hiểm tiền gửi công khai sẽ có quan hệ cùng chiều với khủng hoảng tài chính.
Một trong những biện pháp hữu hiệu nhất cho vấn đề này là tăng cường kiểm tra và giám sát, thông qua cảnh báo và phòng tránh các vi phạm xử lý kịp thời các vi phạm. Đặc biệt hơn với những phân tích nêu trên về hệ thống quỹ tín dụng nhân dân( ở các vùng xa xôi, hẻo lánh, mạng lưới dày đặc, quy mô nhỏ…) thì hoạt động kiểm tra trực tiếp sẽ có nhiều khó khăn, do vậy giám sát từ xa lại càng là hoạt động thật sự cần thiết đối với hệ thống này.
Hoạt động giám sát ở đây yêu cầu phải phù hợp với đối với mỗi một loại hình tổ chức tín dụng và đối với mỗi một tình huống cụ thể. Việc giám sát là để sớm phát hiện ra những “vấn đề” của một ngân hàng: về vốn hay yếu tố yếu kém khác trong quá trình hoạt động. Mục đích của việc này là nhằm giúp các tổ chức tín dụng biết được những mặt yếu kém của mình trên cơ sở đó đưa ra sự can thiệp và các giải pháp kịp thời giúp các tổ chức này có thể “khôi phục” lại những mặt yếu kém đó trước khi rơi vào tình trạng không còn khả năng tiếp tục “sống”. Việc giám sát không những giúp phát hiện nhanh chóng, chính xác những yếu kém của các ngân hàng đồng thời còn đưa ra các giải pháp hữu hiệu giúp cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi giảm được gánh nặng phải trả nợ thay quỹ tín dụng khoản tiền thuộc đối tượng bảo hiểm cho người gửi tiền. Đây được coi như là một “bộ phận chính cấu thành” trong vấn đề giúp các QTD cạnh tranh lành mạnh và hiệu quả.
Như vậy, chính hoạt động giám sát là hoạt động sẽ giúp cho cả tổ chức BHTG lẫn các QTDND có thể nhận biết trước được những rủi ro của mình đồng thời từ đó đề xuất những biện pháp nhanh chóng và phù hợp nhằm hạn chế tối đa những rủi ro đó có thể xảy ra. Có thể nói giám sát là “con cả” của BHTG và là họat động không thể thiếu đối với các tổ chức tín dụng, đặc biệt càng quan trọng đối với các tổ chức nhỏ, bé như QTDND, trên cơ sở đó thực hiện mục tiêu mà BHTG đề ra
1.4 Công tác kiểm tra, giám sát trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi tại một số quốc gia
Để có thể hiểu rõ và có cái nhìn khách quan hơn về công tác giám sát từ xa của BHTGVN trong giai đoạn hiện nay, chúng ta nên tìm hiểu về hoạt động này của một số tổ chức BHTG trên thế giới;
1.4.1 Hoạt động giám sát từ xa, kiểm tra tại tổ chức bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ( FDIC)
Hoạt động kiểm tra, giám sát rất được FDIC ( Federal Deposit Insurance Corporation) coi trọng. Ngay từ buổi đầu thành lập (1/1/1934) thì tổ chức này đã có 4.000 kiểm tra viên thực hiện công tác kiểm tra, giám sát các ngân hàng nhằm đánh giá tiêu chí là thành viên của FDIC. Đến năm 1995 thì Hệ thống bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ đã có tới 8.000 thanh tra viên so với 4.000 thanh tra viên của Hệ thống ngân hàng Nhật Bản, điều này chứng tỏ rằng FDIC rất chú trọng đến công tác kiểm tra, giám sát các khách hàng của mình;
Để hoàn thành được các chức năng chủ yếu của mình, FDIC có một đội ngũ chuyên viên thanh tra kiểm soát ngân hàng có trình độ chuyên môn cao. FDIC cũng luôn được sự ủng hộ của chính quyền bang và các tổ chức thanh tra khác( ví dụ như FRS, các cơ quan thuế vụ nhà nước…). Khi một ngân hàng nào đó có vấn đề, các tổ chuyên gia sẽ đến đó để nghiên cứu, đánh giá tình hình thực tế để có các biện pháp chuẩn bị cải tổ lại ngân hàng thanh lý các tài sản có, và nếu như tình hình quá bi đát- sẽ đưa ra kết luận có nên giải thể ngân hàng đó hay không. Theo nguyên tắc, tổ chuyên gia sẽ làm việc một cách bí mật, ngoài hình thức theo dõi giám sát bình thường thì nó còn thể hiện dưới dạng một cuộc kiểm tra thường kỳ. Mục đích thực của việc làm này chỉ được thông báo cho cấp lãnh đạo cao nhất của ngân hàng đó biết được mà thôi;
Các cuộc kiểm tra, giám sát được thực hiện ở trình độ chuyên môn cao sẽ giúp cho tổ chức này đề xuất với Ban lãnh đạo ngân hàng các phương án chiến lược khác nhau để cải thiện tình hình hoạt động của ngân hàng, giúp ngân hàng nhanh chóng vượt qua cơn khủng hoảng. Các chuyên gia của FDIC còn thường xuyên được tham dự các cuộc họp của Ban giám đốc các ngân hàng để từ đó có thể tin tưởng rằng các chủ ngân hàng đó đã nắm bắt được các thông tin cần thiết mà FDIC đã cung cấp cho họ;
Chính nhờ có sự kiểm tra, giám sát của FDIC và các tổ chức, cơ quan chính phủ và chính quyền các bang mà ở Mỹ đã hạn chế được tối đa tình trạng vỡ nợ của các ngân hàng. Tuy nhiên cũng giống như bất kỳ một doanh nghiệp nào khác kinh doanh trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế thị trường, các ngân hàng cũng chịu tác động của một số rủi ro nhất định. Cho nên FDIC sẽ có phương thức hành động ngay lập tức đối với ngân hàng có nguy cơ bị vỡ nợ khi các cổ đông của nó hoặc các cơ quan nhà nước thanh tra lĩnh vực hoạt động ngân hàng dự định đóng cửa cơ sở đó.
Nội dung kiểm tra, giám sát mà FDIC thực hiện bao gồm: Kiểm tra việc đảm bảo là thành viên tham gia BHTG và bổ sung vốn nhằm đảm bảo qui định về vốn trong hoạt động ngân hàng. Tiếp theo là kiểm tra về khả năng đảm bảo hoạt động lành mạnh an toàn của ngân hàng với năm nội dung sau:
+ Thẩm định tài sản có nhằm xác định giá trị ròng của ngân hàng;
+ Xác định chất lượng tài sản có;
+ Phát hiện các hoạt động có thể dẫn đến các khó khăn tài chính;
+ Thẩm định điều hành ngân hàng;
+ Phát hiện các hoạt động không bình thường và có dấu hiệu vi phạm luật pháp.
Nghiên cứu bài viết của Ths. Nguyễn Thị kim Oanh- Giám đốc Chi nhánh BHTG khu vực Hà Nội- trên tạp chí Ngân hàng số 1 năm 2004 cho thấy Luật ngân hàng Mỹ còn qui định rất rõ quyền hạn của FDIC trong công tác thanh tra, tất cả các ngân hàng tham gia BHTG muốn sáp nhập với các tổ chức không tham gia BHTG phải được sự đồng ý của FDIC, hơn nữa FDIC còn được giao quyền yêu cầu bất kỳ ngân hàng nào là thành viên tham gia FDIC phải báo cáo về các giải pháp phòng chống tình trạng có rủi ro đối với hoạt động của mình. Nếu FDIC phát hiện ra tổ chức tham gia BHTG có hoạt động làm ảnh hưởng đến an toàn hoạt động thì FDIC có quyền thông báo tình hình đó với đơn vị thực hiện chức năng thanh tra và FDIC
cũng có thể ra quyết định chấm dứt hợp đồng BHTG đối với ngân hàng đó nếu hoạt động sai phạm không được điều chỉnh kịp thời.
1.4.2 Hoạt động kiểm tra, giám sát tại tổ chức bảo hiểm tiền gửi Đài Loan( CDIC)
Tại Đài Loan luật bảo hiểm tiền gửi ban hành 9/1/1985 quy định rõ: Nếu CDIC thấy cần thiết và sau khi đã được sự đồng ý của cơ quan chức năng( Bộ tài chính) có thể kiểm tra kết quả kinh doanh và tài khoản của tổ chức tham gia bảo hiểm, hoặc hướng dẫn tổ chức tham gia bảo hiểm chuẩn bị và nộp trong thời hạn quy định: Bảng cân đối tài sản, báo cáo tài sản và các báo cáo khác;
CDIC dựa trên những phát hiện từ các cuộc kiểm tra hoặc các báo cáo nói trên, sẽ đề xuất những điều chỉnh đối với tổ chức tham gia bảo hiểm trong một thời gian qui định. Nếu trong thời gian đó mà tổ chức tham gia bảo hiểm không tự điều chỉnh thì CDIC sẽ phải báo cáo vấn đề này cho cơ quan chức năng;
Phương pháp mà CDIC sử dụng trong giám sát các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi là: giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ;
Trong kiểm tra tại chỗ, CDIC thực hiện cả kiểm tra định kỳ và kiểm tra đột xuất . Việc kiểm tra định kỳ cũng được thực hiện theo kế hoạch, kiểm tra đột xuất được thực hiện trên cơ sở nhu cầu đặc biệt phát sinh hay chỉ khi có chỉ thị cụ thể của cơ quan cấp trên. Khi kiểm tra một tổ chức tài chính, CDIC còn đưa ra các quyết định về hành động cần thực hiện tuỳ thuộc vào mức độ sai phạm. Nếu là sai phạm nhỏ, trưởng đoàn kiểm tra có thể yêu cầu cán bộ của tổ chức được bảo hiểm điều chỉnh ngay trong thời gian đó. Nếu sai phạm lớn thì cơ quan này sẽ phải đưa ra một bản Báo cáo kiểm tra gửi cho tổ chức tham gia bảo hiểm với những khuyến cáo chính thức và cụ thể, đồng thời CDIC còn phải báo cáo việc này cho cơ quan chức năng để có những xử lý kịp thời và phù hợp;
CDIC không những chịu trách nhiệm trước Bộ Tài chính và Ngân hàng Trung ương về hoạt động kiểm tra giám sát tất cả các tổ chức tài chính trong cộng đồng mà còn phải chịu trách nhiệm thực hiện các đánh giá tiếp theo. Nội dung của việc đánh giá này bao gồm:
- CDIC theo dõi và xây dựng hồ sơ cho các tổ chức tham gia BHTG bao gồm: các thông tin cơ bản về hoạt động, các sai phạm trong hoạt động và các báo cáo mới hoặc bất kỳ thông tin nào liên quan đến các tổ chức tài chính đó;
- CDIC xây dựng hồ sơ về các sai phạm khi kiểm tra và tiếp tục giúp đỡ các tổ chức được bảo hiểm ngăn ngừa các sai phạm xảy ra thêm lần nữa;
- CDIC yêu cầu các tổ chức tài chính nộp báo cáo kiểm toán nội bộ và báo cáo tự kiểm toán hàng quý để hiểu về chức năng kiểm toán nội bộ và điều kiện xung quanh việc đánh giá tiếp theo về những sai phạm đã được phá hiện trong khi kiểm tra cho các bộ phận kiểm toán, cũng như cung cấp tài liệu tham khảo có giá trị cho các cuộc kiểm tra tại chỗ.
- CDIC còn xây dựng các hồ sơ có dấu hiệu cảnh báo quan trọng. Dựa vào các dấu hiệu này có thể xây dựng được các hồ sơ xử lý đánh giá tiếp theo, các hồ này được hình thành nhằm hỗ trợ cán bộ kiểm tra trong việc tìm hiểu các tổ chức tài chính của họ. Hơn nữa, các hồ sơ này còn là một trong những tài liệu tham khảo của các cuộc kiểm tra đặc biệt nhằm kiểm soát rủi ro trong hoạt động của các tổ chức được bảo hiểm.
Thực tế công tác giám sát, thanh tra của tổ chức BHTG một số quốc gia đã nêu trên, là những kinh nghiệm quý báu giúp cho BHTGVN có những phương pháp và hành động phù hợp trong quá trình kiểm tra, giám sát của mình nhằm thực hiện tốt mục tiêu đã đề ra.
Chương2 . Thực trạng công tác giám sát từ xa đối với quỹ tín dụng nhân dân cơ sở tại chi nhánh bảo hiểm tiền gửi Việt Nam khu vực Hà Nội
2.1 Khái quát về giám sát từ xa của Bảo hiểm tiền gửi Chi nhánh khu vực Hà Nội
2.1.1 Đặc điểm tình hình kinh tế- xã hội các tỉnh mà Chi nhánh quản lý
7 Tỉnh, Thành phố: Hà Nội, Hà Tây, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hoà Bình, Phú Thọ, Vĩnh Phúc thuộc phạm vi mà Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam khu vực Hà nội phải chịu trách nhiệm quản lý trong quá trình hoạt động của mình. Đây là những tỉnh có nền kinh tế được coi là tương đối phát triển trong khu vực miền Bắc nói riêng và trong cả nước nói chung.
Đặc biệt Hà Nội là trung tâm đầu não chính trị- hành chính quốc gia, một trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của các nước, là nơi đặt trụ sở của các cơ quan trung ương của đảng và nhà nước, các tổ chức chính trị- xã hội, các cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế và là nơi diễn ra các hoạt đối nội, đối ngoại quan trọng của đất nước.
Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Hà tây, Bắc Ninh là những tỉnh thuộc đồng bằng bắc bộ nằm liền kề Hà Nội, cách trung tâm Hà Nội khoảng 50km đường bộ, có diện tích đất canh tác chủ yếu là phát triển, trồng cây nông nghiệp ngắn ngày, có mạng lưới giao thông thuận lợi cho giao lưu phát triển kinh tế đối nội, đối ngoại như: Hà Tây có đường quôc lộ 1A nối Bắc- Trung- Nam, Bắc Ninh có trục đường giao thông lớn quan trọng chạy qua nối liền tỉnh với các Trung tâm kinh tế, văn hoá và thương mại của phía Bắc Việt Nam…Khu công nghiệp ở tỉnh ngày càng nhiều và đang góp phần vào xây dựng bộ mặt xã hội ngày càng giàu đẹp, văn minh: Bắc Ninh có KCN Tiên sơn; KCN Quế Võ; KCN Tân Hồng- Hoàn Sơn; KCN Đại Hồng- Hoàn Sơn, Bắc Giang có KCN thuộc xã Hoàng Minh và xã Hồng Thại ở huyện Việt Yên với diện tích 101ha
Duy chỉ Phú Thọ và Hoà Bình là 2 tỉnh có nhiều diện tích đồi núi, trong đó Phú Thọ là một tỉnh thuộc trung du miền Bắc Việt Nam, Hoà Bình là một tỉnh có diện tích hầu hết ở miền núi, song 2 tỉnh này cũng có những thuận lợi trong phát triển kinh tế hiện tại cũng như tương lai: Hoà Bình có Thuỷ điện Sông Đà một công trình quốc gia cung cấp điện cho cả nước, Phú Thọ với vị trí “ngã ba sông”- điểm giao nhau của Sông Hồng, sông Đà và sông Lô, là cửa ngõ phía tây của Thủ đô Hà Nội, là đầu mối giao thông trung chuyển, giao lưu kinh tế giữa các tỉnh vùng đồng bằng Bắc bộ với các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam và hai tỉnh Quản Tây, Vân Nam Trung Quốc.
Về giáo dục và đào tạo thì ngoài Hà Nội là nơi hội tụ đầy đủ các nhân tài của cả nước, nơi hội tụ chủ nhân tương lai tại các trường đại học thì các tỉnh khác cũng có lực lượng lao động rất hùng hậu, đặc biệt mấy năm gần đây với cơ chế mở cửa thị trường thì trình độ dân trí ngày càng được nâng cao, lấy ví dụ cụ thể: Vĩnh Phúc với diện tích 1370km2 có 6 huyện, thị trấn, với dân số là 1.1 triệu người trong đó 520.000 trong độ tuổi laođộng có trình độ đại học, cao đẳng; Bắc Giang hiện nay trên 1.5 triệu người thì có tới 87 vạn người thuộc độ tuổi lao động, Phú Thọ với 12 huyện thị, dân số tính năm 2003 xấp xỉ 1.3 triệu người, trong đó người ở độ tuổi lao động chiếm 57%, mật độ dân số 370 người/ km2, có tới gần 700.000 người có trình độ chuyên môn, tay nghề cao, năng động sáng tạo với lòng nhiệt tình và tinh thần sáng tạo cao.
Toàn bộ những đặc điểm vị trí trong bối cảnh phát triển lâu dài có tác động hết sức mạnh mẽ đến quá trình phát triển kinh tế xã hội ở khu vực.
Về nguồn lực, tài nguyên đất nông nghiệp, đặc biệt là đất lúa và cây công nghiệp ngắn ngày khá phong phú, là yếu tố quan trọng cho phát triển sản xuất nông nghiệp. Công nghiệp cũng đang trên đà khởi sắc, nổi bật hơn cả là Thủ đô Hà Nội với tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp năm 2003 lên tới 29.3%, Vĩnh Phúc tăng 21% cao hơn mức bình quân của cả nước trong năm 2003…Về du lịch có nhiều danh lam thắng cảnh: Suối mơ( Bắc Giang) Đền Hùng( Phú Thọ), Chùa Hương( Hà Tây)…
Về hệ thống Ngân hàng và các tổ chức tín dụng trong khu vực( trong đó có sự góp phần không nhỏ của hệ thống quỹ tín dụng nhân dân), đáp ứng tốt các nhu cầu về vốn cho hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp, đặc biệt là đối với đông đảo các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các dịch vụ tài chính khác được hệ thống ngân hàng thực hiện một cách hết sức nhanh chóng, chính xác và an toàn, hỗ trợ một cách hữu hiệu cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Về chính sách, đang tập trung phát triển đa dạng và nâng cao trình độ, chất lượng các ngành dịch vụ, tập trung đầu tư phát triển dịch vụ thông tin, du lịch, thương mại, ngân hàng, chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực, bảo hiểm, hàng không , bưu chính viễn thông và dịch vụ khác.
Với tốc độ phát triển cao, bền vững, cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu kinh tế trong nước và hội nhập kinh tế quốc tế, các tỉnh đã góp phần vào qúa trình đảm bảo nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý theo hướng dịch vụ- công nghiệp- nông nghiệp đạt mức tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, phát huy thế mạnh của mình trong việc định hướng chiến lược phát triển trong tương lai.
2.1.2 Hoạt động của Chi nhánh bảo hiểm tiền gửi Việt Nam khu vực Hà Nội
Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam khu vực Hà Nội được thành lập ngày 26/12/2001, và khai trương hoạt động ngày 27/5/2002. Giống như các chi nhánh khu vực khác của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam(BHTGVN), chức năng và nhiệm vụ chính của Chi nhánh khu vực Hà Nội là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng;
Với chức năng và nhiệm vụ của mình, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam khu vực Hà Nội qua 2 năm hoạt động đã không ngừng phát triển cả trên phương diện tổ chức bộ máy, quy mô, năng lực và chất lượng hoạt động. Trong thời gian qua, BHTG khu vực Nội đã cùng các chi nhánh khác trong cả nước góp phần quan trọng vào việc thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, đặc biệt là đổi mới trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ - ngân hàng trên địa bàn; bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và sự phát triển an toàn là._.thiện hành lang pháp lý để giúp công tác giám sát ngày càng gắn liền với thực tế kinh doanh của các TCTD, đồng thời giúp cho người cán bộ thực hiện nhiệm vụ đầy đủ và hiệu quả.
Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào công tác giám sát từ xa
Việc tiếp cận các thông tin, tài liệu còn hạn chế, song đặc biệt BHTG còn thiếu một hệ thống thông tin chuyên ngành Ngân hàng, BHTG.
Để đảm bảo nhanh và kịp thời, trong điều kiện hầu hết tổ chức tham gia đã được vi tính hoá, bộ phận giám sát nói chung và toàn hệ thống BHTG cần phải đẩy mạnh việc sử dụng hệ thống máy tính vào việc phân tích chỉ tiêu hoạt động ngân hàng:
Xây dựng phần mềm quản lý và phân tích vào hoạt động giám sát cho mỗi chỉ tiêu an toàn để việc tính toán chỉ tiêu, chỉ số nhanh chóng và chính xác, so sánh số chi tiết với số tổng thể, số kỳ này với số kỳ trước và số kế hoạch để phát hiện những điều bất hợp lý và diễn biến bất thường trong hoạt động của các tổ chức tham gia. Công nghệ hiện đại sẽ làm giảm khối lượng, rút ngắn thời gian và nâng cao hiệu quả của hoạt động giám sát;
Nối mạng hệ thống máy tính giữa nội bộ trong Chi nhánh và với các cơ quan liên quan khác. Việc Chi nhánh trong thời điểm hiện nay đã hoạt động được 2 năm nhưng chưa có hệ thống mạng phần nào thể hiện tính “yếu” trong áp dụng công nghệ thông tin. Trước thềm hội nhập kinh tế quốc tế, ngành ngân hàng đang từng bước hoàn thành “lộ trình” để hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới thì việc đầu tiên và không thể thiếu đó là công nghệ thông tin đảm bảo tính nhanh nhạy, chính xác cao trước mọi sự biến động của nền kinh tế, vì vậy là một cơ quan với trách nhiệm chính là “cảnh báo” cho ngân hàng biết được những rủi ro sẽ xảy đến trong tương lai thì việc nắm bắt thông tin sớm, đầy đủ có tính tin cậy cao là một tất yếu. Do vậy bên cạnh việc có một đội ngũ nhân viên giỏi, nhạy bén thì đòi hỏi Chi nhánh cần nhanh chóng xây dựng một hệ thống mạng thông tin đa chiều với chất lượng cao đáp ứng mọi điều kiện đặt ra;
Ngoài ra việc nối mạng giữa các Chi nhánh với BHTG, với các tổ chức liên quan còn giúp cho việc công khai số liệu tài chính trong nội bộ thanh tra ngân hàng được minh bạch, chính xác và giảm nhiều thời gian công sức.
Việc áp dụng hệ thống công nghệ thông tin vào công tác phân tích phải đảm bảo:
Đảm bảo tính tiêu chuẩn của thông tin, dữ liệu
Hỗ trợ quản lý tập trung thông tin.
Có khả năng xử lý đa tiền tệ.
Khả năng xử lý tự động trực tiếp cao.
Hoàn thiện chế độ thông tin báo cáo giám sát từ xa của chi nhánh
- Để các chuyên viên kinh tế có thể đánh giá được chính xác khả năng cạnh tranh cũng như những cơ hội thách thức mà các TCTD sẽ gặp phải, đặc biệt là trong quá trình hội nhập( hiệp định thương mại Việt- Mỹ, AFTA, APEC, tiến tới ra nhập WTO) trên cở sở đó đưa ra những khuyến nghị phù hợp, thì chuyên viên kinh tế cần tiếp cận được nhiều loại số liệu và thông tin liên quan tới tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, do cơ sở dữ liệu của hệ thống ngân hàng hiện nay vẫn đang trong tiến trình hoàn thiện, các loại số liệu theo yêu cầu của BHTG đôi khi còn chưa thể cung cấp được đầy đủ và đúng hạn gây ảnh hưởng tới kết quả đánh giá của chuyên viên kinh tế.
Những trở ngại về số liệu thống kê liên quan tới hoạt động của hệ thống ngân hàng có thể được giảm thiểu, thậm chí loại trừ thông qua việc các ngân hàng sẽ phối hợp chặt chẽ với các cán bộ giám sát để thống nhất về các số liệu thống kê cần thiết.
- Về các báo cáo liên quan: Để phục vụ tốt hơn cho công tác giám sát từ xa, đặc biệt là việc giám sát các chỉ tiêu về an toàn trong hoạt động kinh doanh của các TCTD, xin kiến nghị BHTGVN cần có công văn yêu cầu các tổ chức tham gia BHTG nộp thêm các báo cáo như sau:
Báo cáo dư nợ tín dụng, tình hình vay trả của tổ chức
Báo cáo tính toán khả năng chi trả và khả năng thanh toán
Báo cáo phân loại nợ và trích bù đắp rủi ro tín dụng
Báo cáo về thu, chi tài chính và lỗ lãi
Ngoài ra, giám sát từ xa cần tiếp cận thông tin từ các nguồn sau:
+ Nguồn thông tin được cung cấp từ các TCTGBHTG;
+ Nguồn thông tin từ thanh tra NHNN;
+ Nguồn thông tin từ kiểm tra tại chỗ của chi nhánh;
+ Nguồn thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng;
Trên cơ sở đó, cán bộ giám sát mới có thể hiểu một cách chi tiết và chính xác về các thông số kế toán mà các tổ chức tham gia BHTG gửi cho mình đồng thời nắm bắt một cách nhanh chóng và kịp thời tình hình kinh doanh của các tổ chức tham gia BHTG, trên cơ sở đó có thể đánh giá ngay tình hình ổn định hay không ổn định của một ngân hàng.
. Xác định được một hệ thống chỉ tiêu giám sát phù hợp.
Đặc biệt qua đó có thể đánh giá được tình hình ổn định hay không ổn định của một ngân hàng.
Bảng cân đối tài khoản của TCTD là phương tiện phục vụ cho giám sát. Nếu tổ chức phân tích tốt sẽ có điều kiện giám sát tốt. Các chỉ tiêu phân tích cần phải đạt được những mục đích của BHTG đề ra nhưng lại phải đạt được những nội dung cụ thể, ví dụ như:
- Về cơ cấu nguồn vốn: Phải làm rõ được sự biến động của từng loại vốn và cơ cấu của nó trong tài sản nợ để xem nó có phù hợp với nhiệm vụ hoạt động- kinh doanh của TCTD không? nếu một rong các nguồn tiền gửi bị giảm liên tục hoặc đột biến, tức là có vấn đề nảy sinh trong huy động vốn, phải báo động và có biện pháp xử lý kịp thời;
- Về tài sản có: Phải thường xuyên nắm được diễn biến tài sản có. Trong đó quan trọng nhất là chất lượng tín dụng. Chất lượng tín dụng được biểu hiện rõ nhất là nợ quá hạn vì nợ quá hạn là một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng trong hoạt động tín dụng, do đó phải tiến hành thường xuyên việc kiểm kê và phân tích nợ quá hạn;
Việc phân tích nợ quá hạn phải được phân loại theo các tiêu thức cụ thể và phù hợp, áp dụng theo tiêu chuẩn phân loại nợ quá hạn của NHNN: nợ quá hạn dưới 180 ngày, từ 180 ngày đến 360 ngày, trên 360 ngày. Trên cơ sở nợ quá hạn cán bộ có thể nắm bắt được tình hình trích dự phòng rủi ro của các TCTD có đúng theo quy định hay không;
- Về kết quả kinh doanh của các TCTD : Đến một thời điểm nhất định cán bộ giám sát phải biết đựơc từng TCTD lỗ hay lãi, tức là biểu hiện kết quả kinh doanh trong hoạt động ngân hàng. Đây cũng là căn cứ để dự báo xu hướng phát triển của các TCTD trong tương lai;
Trong việc phân tích tài chính của các NHTM phải xem xét cơ cấu các nguồn thu, chi trong đó chú trọng các khoản thu chủ yếu: lãi suất cho vay, và hoạt động dịch vụ. Đồng thời chú ý tới các khoản chi chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn như: chi lãi tiền gửi, chi phí quản lý, chi khác.
Đặc biệt quan trọng là trong thời gian tới Chi nhánh cần xây dựng được một hệ thống chỉ tiêu giám sát đầy đủ và cập nhập và nhất thiết có cả các chỉ tiêu như: khả năng thanh toán, khả năng quản lý của các tổ chức tham gia BHTG
Về bố trí nhân sự và đào tạo cán bộ cho bộ phận giám sát từ xa.
Tập trung theo hướng đào tạo bồi dưỡng sâu chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên. Việc Chi nhánh thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ về công tác giám sát và nghiệp vụ khác trong chi nhánh đã giúp cho nhân viên có trình độ hiểu biết ở rất nhiều khâu trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Hơn nữa để có thể làm việc một cách thành thạo ở tất cả các khâu trong quy trình BHTG, Ban giám đốc đã có chính sách điều chuyển cán bộ rất hợp lý: Theo đó một cán bộ không những có cơ hội tiếp xúc với mọi công việc trong nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi mà hơn thế còn làm rất tốt. Chính điều này đã giúp cho các kinh tế viên có cơ hội thể hiện trình độ của mình trong nhiều lĩnh vực;
Với sự quan tâm sát sao của BHTGVN, của Ban giám đốc chi nhánh BHTG khu vực Hà Nội, tuy mới ra đời song công tác đào tạo cán bộ tại chi nhánh đã đạt được một số thành tích đáng kể như đã nêu ở trên. Để tiếp tục tăng cường khả năng chuyên môn cũng như tác phong làm việc trong cơ chế thị trường của người cán bộ gương mẫu, tôi xin đưa ra một số biện pháp cụ thể:
Tăng cường bồi dưỡng tin học, trong đó phát động phong trào tự học sâu rộng trong cán bộ, động viên, khuyến khích giúp đỡ nhau học. Giải pháp này sẽ phát huy tác dụng tốt nhất khi được kết hợp chặt chẽ với giải pháp nối mạng và tăng cường thêm máy tính cho Chi nhánh;
Nên tăng cường tổ chức một số lớp bồi dưỡng nghiệp về tín dụng, về kế toán ngân hàng, bên cạnh đó tổ chức lớp bồi dưỡng về pháp luật kinh tế để mọi cán bộ được tham gia;
Cần hình thành một mô hình đào tạo thường xuyên và kiểm tra chất lượng đội ngũ cán bộ giám sát. Công tác đào tạo cán bộ giám sát được tiến hành trên các lĩnh vực:
Kiến thức chung về nghiệp vụ ngân hàng; kiến thức pháp luật; kiến thức về kinh tế; kế toán ngân hàng; tin học; ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng anh chuyên ngành Bảo hiểm, Ngân hàng,. . .
Kỹ năng giám sát từ xa.
Khả năng giao tiếp, cách nắm bắt thông tin trên thị trường...
Ngoài ra, bản thân các cán bộ giám sát cần phải tự đào sâu tìm hiểu về các nghiệp vụ khác trong ngành để có cái nhìn tổng quan hơn và chính xác hơn;
Mạnh dạn đưa ra những chính kiến của mình đối với mọi đối tượng có liên quan trong công tác: Lãnh đạo, đối tượng giám sát, bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, ngân hàng nhà nước tỉnh, thành phố trên địa bàn giám sát. Đây chính là những tiêu chí đóng vai trò rất quan trọng trong việc các cán bộ tự khẳng định mình.
Tiếp tục tăng cường học hỏi trình độ, kinh nghiệm về nghiệp vụ bảo hiểm trên thế giới. Về lâu dài Chi nhánh nên có chính sách về chương trình cho cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài để từ đó có thể mang kiến thức học được từ các quốc gia có hệ thống Bảo hiểm tiền gửi lâu năm về áp dụng một cách khoa học, sáng tạo tại Việt Nam.
Tổ chức tốt công tác xử lý sau giám sát.
Trên thực tế việc xử lý sau giám sát hiện nay, bộ phận giám sát đang tập trung xử lý những đơn vị vi phạm về phí bảo hiểm, về nộp báo cáo còn nội dung trọng tâm nhất liên quan đến sự tồn tại và phát triển của TCTD Bảo hiểm tiền gửi còn chưa làm được, hệ thống cảnh báo về tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân hàng còn mang nặng tính hình thức, tính pháp lý còn hạn chế, đây là một trong những nguyên nhân làm cho bảo hiểm tiền gửi còn chưa có tiếng nói, chưa có vị trí vai trò một cách thật sự trong hoạt động của các đối tượng tham gia BHTG;
Phải nói rằng công tác giám sát và hệ thống cảnh báo là hai vấn đề không thể tách rời nhau, một quy trình giám sát hoàn chỉnh chính là hệ thống cảnh báo sớm. Qua thực tế cho thấy rằng việc cảnh báo sớm ở đây không chỉ là khái niệm chung chung mà nó cần phải được hiểu chính là cảnh báo xa và cảnh báo gần. Hệ thống cảnh báo của Chi nhánh hiện nay mới đang chủ yếu tập trung ở cảnh báo xa mà chưa thật chú ý đến cảnh báo gần ;
Có thể hiểu được, việc cảnh báo xa ở đây là cảnh báo ở tầm vi mô trên cơ sở tất cả các chỉ tiêu được trình bày ở phần II. Các chỉ tiêu này được xác định để phản ánh về hoạt động và tình trạng của TCTGBHTG riêng biệt; qua chỉ tiêu này chi nhánh xác định được những vấn đề đang nổi lên, giúp Chi nhánh tập trung vào những tổ chức, vào những chỉ tiêu có tình trạng yếu kém tiềm tàng.
Cảnh báo gần được hình thành từ nhận định của giám sát vĩ mô. Tức là các chỉ tiêu được xây dựng trên cơ sở theo dõi các xu hướng tài chính và kinh tế chủ yếu tác động đến hoạt động của các quỹ này; ví dụ như: Tình hình lãi suất, những thay đổi trong cơ cấu hệ thống ngân hàng, những quy định pháp lý mới tác động đến hoạt động của ngân hàng.
Thực chất của giám sát vĩ mô là đưa ra những nhận định có tính chất chiến lược trên cơ sở về dữ liệu xếp loại các tổ chức tham gia BHTG cũng như những dữ liệu thống kê khác, từ đó có những quyết sách để xử lý một TCTGBHTG trong tình huống cụ thể.
Trong cảnh báo BHTG cần thực hiện được đầy đủ cả cảnh báo xa và cảnh báo gần;
Sơ đồ 3: Hệ thống cảnh báo:(*)
Các chỉ tiêu giám sát vi mô
Đánh giá xếp loại thường xuyên và định kỳ
Kết hợp đánh giá, phân tích
Cảnh báo xa
Cảnh báo gần
Hệ thống cảnh báo sớm
Các chỉ tiêu giám sát vĩ mô
Cần phải thấy rõ một điều rằng trách nhiệm của Bảo hiểm tiền gửi là vô cùng lớn lao, theo đó Bảo hiểm tiền gửi còn phải có những công cụ của riêng mình đối với tổ chức tham gia BHTG: Một hệ thống cảnh báo hợp lý và hiệu quả sẽ hạn chế một cách tối đa nhất sự đổ vỡ của các tổ chức tham gia BHTG;
Nếu làm được như vậy, Bảo hiểm tiền gửi không những hạn chế việc chi trả tiền bảo hiểm cho tổ chức tham gia BHTG, giúp cho tổ chức BHTG có thể bảo toàn vốn, mà hơn nữa còn giúp các tổ chức này hoạt động an toàn và có hiệu quả góp phần vào việc ổn định hệ thống ngân hàng nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
3.3 Một số đề xuất kiến nghị
Để giải quyết các tồn tại và thực hiện các biện pháp đã được đề cập ở trên, tôi xin đưa ra một số ý kiến sau:
(*) Nguyễn Đình Tự, Dương Văn Thực trên TCNH trang 19 số 9 năm 2003
Trước hết các cán bộ của Chi nhánh cần xác định được những tồn tại, những khó khăn vướng mắc chưa làm được của phòng mình là do nguyên nhân nào, yếu tố khách quan nào tác động đến và đặc biệt trong bối cảnh kinh tế – xã hội hiện tại, các tồn tại ấy có thể thực hiện giải quyết ngay hay phụ thuộc vào thời gian;
Việc giải quyết khó khăn vướng mắc, phụ thuộc lớn vào môi trường kinh tế xã hội, môi trường pháp luật hay cụ thể là cơ quan nhà nước có thẩm quyền và Ban lãnh đạo Ngân hàng cũng như ban lãnh đạo của BHTGVN. Và điều quan trọng hơn là người cán bộ cần phải biết trang bị cho mình những kiến thức cần thiết trong công việc;
3.3.1 Đối với Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam và chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố
Nâng cao vai trò quản lý vĩ mô của NHNN
Ngân hàng Nhà nước sẽ phải đối mặt với những khó khăn thử thách trong việc quản lý các loại dịch vụ ngân hàng, loại hình tổ chức tài chính ngày càng phức tạp cả về tính chất lẫn quy mô hoạt động trước xu thế tự do hoá về chính sách ngày càng tăng. Ngân hàng Nhà nước cần phải tăng cường vai trò và khả năng điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt nhằm mục tiêu ổn định giá cả, kiểm soát lạm phát, bên cạnh đó phải hoàn thành tốt chức năng thanh tra giám sát để đảm bảo hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn, lành mạnh;
Đề nghị NHNN sớm ban hành quy chế trao đổi thông tin giữa Chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố với Chi nhánh của BHTG. Theo đó các Chi nhánh có thể khai thác kết quả giám sát, kiểm tra và các thông tin khác liên quan đến hoạt động BHTG và ngựơc lại BHTG cung cấp các thông tin liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của các đơn vị chức năng của NHNN, nâng cao hiệu quả giám sát và kiểm tra của các cơ quan liên quan;
Kiến nghị với NHNN hoàn chỉnh hệ thống tài khoản kế toán ngân hàng sao cho phù hợp với công tác thực tế hoạt động của các TCTD, đặc biệt cần có tài khoản riêng biệt giữa tiền gửi cá nhân với tài khoản tiền gửi của các tổ chức để dễ dàng cho công tác giám sát hiện tại cũng như trong tương lai;
Đề nghị NHNN có quy định cụ thể trong thông tư hướng dẫn nghị định 89 loại tiền được bảo hiểm thuộc loại tiền gửi nào trong hệ thống tài khoản kế toán;
NHNN và Chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố phải có biện pháp chỉ đạo chặt chẽ hơn nữa đối với các QTDND cơ sở thực hiện một cách nghiêm chỉnh các chỉ tiêu về an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Trong quá trình giám sát, chỉ đạo, nếu phát hiện bất kỳ một TCTD nào hoạt động không tốt trong kinh doanh, đề nghị thanh tra NHNN phối hợp chặt chẽ với BHTG trong khu vực để cùng giải quyết và có biện pháp chấn chỉnh kịp thời;
Đề nghị có công văn hướng dẫn tăng dần vốn điều lệ lên tuỳ theo tình hình kinh doanh của các QTDND cơ sở để từ đó mà VĐL có thể thực sự đóng vai trò vốn có của nó;
3.3.2 Đối với Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương và hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở
Hệ thống QTDND được hình thành, phát triển, vận động theo xu hướng các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở là những hạt nhân đầu tiên ra đời và cũng chính họ là người chủ sở hữu góp vốn thành lập nên các tổ chức tín dụng hợp tác dưới hình thức liên hiệp HTX và tổ chức liên kết phát triển hệ thống nhằm mục tiêu hỗ trợ hoạt động an toàn và phát triển bền vững; mặt khác, các quyết định liên quan đến xu hướng vận động và phát triển của hệ thống QTDND đều theo nguyên tắc dân chủ. Trong thời gian hoạt động mặc dù hệ hống QTDND đã đạt được mộ số thành tích đáng kể, song vẫn còn nhiều tồn tại cần phải tháo gỡ. Nhằm góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống này tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau:
a. Cho đến nay hệ thống QTDND chưa được là thành viên của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam và cũng chưa có tổ chức liên kết thành hệ thống. Quỹ tín dụng trung ương với mạng lưới 24 chi nhánh cũng chưa gắn kết được các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Do đó đây đang là một khó khăn lớn cho tổ chức tín dụng này. Các quỹ chưa được làm đại lý bán lẻ vốn cho hệ thống NHN0& PTNT Việt Nam. Một số cơ chế, quy chế khác cho hoạt động của hệ thống này cũng đang trong quy trình hoàn thiện dự thảo.Thiết nghĩ những khó khăn đó cần sớm được khắc phục, đẩy nhanh tiến độ, đặc biệt cần tăng cường tính liên kết của cả hệ thống QTDND.
b. Mỗi QTDND cơ sở không chỉ có một số hoạt động như một ngân hàng như mà nó còn có vị trí như một hợp tác xã. Cho tới nay, mới chỉ có các dịch vụ ngân hàng, tài chính là được chú trọng. Bên cạnh đó, ta cũng cần phải lưu ý rằng các QTDND đồng thời cũng là những tổ chức mà các thành viên của nó cấn có sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Trên khía cạnh này, một vấn đề quan trọng là chúng ta cần phải xây dựng một tinh thần tương trợ, đoàn kết chặt chẽ, gắn bó với nhau trong hệ thống các QTDND. Góp phần củng cố, tăng cường hoạt động của Quỹ cũng như làm tăng sự tin cậy lẫn nhau trong hệ thống. Với mong muốn này, việc tăng cường trao đổi thông tin chia sẻ kinh nghiệm giữa các QTDND là rất cần thiết;
c. Cần thiết phải có một cơ quan kiểm toán đối với hệ thống QTDND
Theo kinh nghiệm của quốc tế nói chung, cũng như TCTD khác, QTDND là loại hình TCTD hợp tác cần phải được kiểm toán toàn diện( bao gồm cả kiểm toán tuân thủ, kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán điều hành và hoạt động).
Có ý kiến cho rằng chưa nhất thiết cần phải áp dụng kiểm toán ngay với các QTDND vì loại hình này còn quá nhỏ bé, hoạt động đơn giản sơ khai, năng lực tài chính cũng như khả năng quản lý điều hành còn yếu kém. Riêng tôi, tôi lại cho cho rằng ý kiến đó chưa xác đáng vì một mặt các QTDND càng khó khăn, yếu kém thì lại càng cần có được kiểm toán hơn trước hết, mặt khác yêu cầu kiểm toán cũng luôn song hành với phù hợp với mặt bằng trình độ của các QTDND;
Kiểm toán không chỉ kiểm tra, nhận xét đánh giá, kết luận về việc tuân thủ các quy định pháp luật, các quy định của NHNN về các tiêu chí, tỷ lệ an toàn, các quy định của điều lệ, với nghị quyết đại hội thành viên, quy chế nội bộ QTDND, mà kiểm toán phải xem xét tổ chức và hoạt động của QTDND đã hợp lý hay chưa, có hiệu quả kinh tế không, có phù hợp với nhu cầu nguyện vọng của thành viên không;
Kiểm toán giúp cho QTDND thấy rõ chất lượng từng mặt hoạt động nghiệp vụ và công tác quản trị điều hành, từ đó tư vấn và khuyến khích cho QTDND kịp thời sửa chữa khắc phục các mặt tồn tại, có kế hoạch và giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động và điều chỉnh công tác quản trị điều hành cho phù hợp với mục tiêu tương hỗ và giúp đỡ các thành viên trong quỹ;
Như vậy, có thể nói kết quả kiểm toán vừa phục vụ cho chính QTDND, vừa sẽ là nguồn thông tin toàn diện và độc lập để có thể cung cấp cho tổ chức BHTG khu vực. Sử dụng tốt kết quả kiểm toán thì hoạt động BHTG nói chung sẽ đạt được mục đích của mình một cách hữu hiệu về mặt chuyên môn và hiệu quả về mặt kinh tế;
Ngoài ra, kết quả kiểm toán còn đựơc coi như một nguồn thông tin khá tin cậy mà hệ thống QTDND cung cấp cho BHTG, đây có thể coi là một tài liệu đáng giá hơn cả. Đặc biệt là trong những hoạt động kinh doanh bất thường của các quỹ này như: thành lập mới, giải thể, sát nhập, hợp nhất, chia tách các QTDND thì đánh giá của kiểm toán viên hay kết quả kiểm toán có vai trò hết sức quan trọng, thậm chí có tính quyết định mà không tài liệu nào có thể thay thế được.
d. Cần tăng cường công tác đào tạo lại và đào tạo “ tinh” cho các cán bộ tại quỹ tín dụng nhân dân cơ sở
Hệ thống ngân hàng cần nâng cao đào tạo cán bộ, những người cần được trang bị các kiến thức tổng hợp về nghiệp vụ ngân hàng cũng như các lĩnh vực liên quan khác, có khả năng sử dụng thành thạo công nghệ thông tin, ngoại ngữ, có tác phong công nghiệp và kỷ luật cao, góp phần nâng cao hiệu suất lao động trong ngành ngân hàng;
Với thực trạng về trình độ cán bộ tại các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở hiện nay tôi thấy hệ thống quỹ tín dụng nhân dân nên cần thiết phối hợp cùng NHNN, vụ các tổ chức tín dụng hợp tác( chi phí đào tạo hiện nay của các quỹ tín dụng nhân dân được NHNN tài trợ ) tăng cường hơn nữa công tác đào tạo này. Nội dung đào tạo xin kiến nghị về cơ bản như sau:
Nội dung cơ bản về luật NHNN, Luật các tổ chức tín dụng, Luật HTX;
Những vấn đề cơ bản về tiền tệ- tín dụng ngân hàng;
Những kiến thức cơ bản về kinh tế chính trị, pháp luật đại cương, pháp luật kinh tế;
Quản trị điều hành QTDND cơ sở;
Mô hình tổ chức và hoạt động của QTDND;
Nghiệp vụ kế toán;
Nghiệp vụ tín dụng;
Nghiệp vụ kiểm soát QTDND;
Nghiệp vụ thanh tra, giám sát của NHNN; nghiệp vụ kiểm tra, giám sát của BHTG đối với QTDND.
3.3.3 Đối với BHTGVN
Kiến nghị BHTGVN có văn bản với NHNN bổ sung sửa đổi, hoàn thiện nghị định 89/1999/NĐ-CP của Chính Phủ sao cho phù hợp với thực tế hoạt động của BHTGVN;
Kiến nghị với BHTGVN nhanh chóng cho ra hướng dẫn Quy chế giám sát để tạo điều kiện hành lang pháp lý cho bộ phận giám sát làm việc dễ dàng hơn;
Đề nghị nghiên cứu, thay đổi về hạn mức chi trả theo từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế, mức thu nhập bình quân của người dân cũng như tuỳ theo mức tích tụ tài chính của BHTGVN để trình Chính phủ. Với việc thay đổi này sẽ ngày càng khuyến khích được người dân gửi tiền tin tưởng vào tổ chức tham gia BHTG trên cơ sở đó góp phần giúp các tổ chức tham gia BHTG hoạt động kinh doanh có hiệu quả;
BHTGVN sớm ban hành đầy đủ quy chế hỗ trợ tài chính đối với các tổ chức tham gia BHTG. Theo đó hoạt động BHTG có tính tích cực hơn đối với các tổ chức tham gia BHTG, đồng thời hoạt động giám sát kiểm tra thực hiện Quy chế hỗ trợ là nội dung kiểm tra mang tính bỗ trợ cho công tác kiểm tra toàn diện đối với các TCTGBHTG;
Đề nghị BHTGVN chuẩn bị các điều kiện để sớm kiến nghị cấp có thẩm quyền cho phép thu phí BHTG theo mức độ rủi ro để một mặt khuyến khích các tổ chức tham gia BHTG quản lý, kinh doanh có hiệu quả, mặt khác nâng cao trách nhiệm công tác giám sát, kiểm tra ;
Với mức phạt hiện nay mà BHTGVN áp dụng với mức 0.1% trên số tiền phí nộp chậm và thời gian chậm nộp như đã nói ở trên thì hiệu lực pháp lý còn chưa cao, vì vậy kiến nghị BHTGVN nên đưa ra mức phạt tối thiểu đối với tổ chức tham gia BHTG về hành vi vi phạm thời hạn nộp phí. Điều này không những sẽ khuyến khích được cán bộ nâng cao chất lượng công tác giám sát, mặt khác BHTG có thể bù đắp được chi phí hoạt động, quan trọng hơn nữa việc xử phạt này còn tạo sợi dây dàng buộc giữa các tổ chức tham gia BHTG với BHTGVN: sẽ tạo nên cơ chế bắt buộc các tổ chức tham gia BHTG có ý thức trong việc chấp hành đúng theo quy định pháp luật về BHTG;
Đề nghị NHNN có quy định về xử phạt đối với tổ chức tham gia BHTG vi phạm trong trường hợp:
Không nộp đầy đủ các báo cáo hay nộp báo cáo chậm so với quy định của BHTG;
Không gửi báo cáo ngay với tổ chức BHTG trong trường hợp: gặp khó khăn về khả năng chi trả; thay đổi các thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc(Giám đốc);
Đề nghị BHTGVN cập nhật các văn bản mới liên quan đến hoạt động BHTG, lĩnh vực hoạt động ngân hàng để thông báo cho chi nhánh thực hiện;
Trang bị thêm máy tính cho cán bộ chi nhánh đặc biệt là cán bộ giám sát, kiểm tra;
Kiến nghị về tăng cường kiến thức và kinh nghiệm cho cán bộ giám sát, việc này thể hiện qua cần cho cán bộ giám sát đi khảo sát thực tế công việc của các chi nhánh khác cũng như học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia khác trên thế giới. Ngoài ra còn nên tăng cường các cuộc hội thảo, tham quan nghiên cứu các nơi nhằm mở mang kiến thức để giúp cho cán bộ có thể xử lý một cách nhanh chóng, kịp thời những trường hợp bất thường xảy ra;
Tăng cường các hình thức tuyên truyền về BHTG và các nghiệp vụ chính trong Bảo hiểm tiền gửi
Để góp phần vào việc giúp cho hoạt động BHTG nói chung tại Việt Nam trong tương lai sẽ thành công thì các hoạt động thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến thức về hoạt động BHTG cần phải được chú trọng hơn nữa. Ngoài các hình thức tuyên truyền như phát tờ rơi, đưa tin về hoạt động BHTG trên thông tin đại chúng thì theo tôi cần thiết BHTG phải kết hợp với ngành Ngân hàng và cơ quan liên quan dưới các hình thức sau:
+ Mở rộng cán bộ được đào tạo trong ngành Ngân hàng các kiến thức về BHTG và nghiệp vụ trong BHTG thông qua việc tổ chức thêm các khoá đào tạo theo các nội dung đã được phổ biến tại các hội thảo, hội nghị chuyên đề, các khoá đào tạo được thực hiện trong khuôn khổ của các Ngân hàng;
+ Chuyển các kết quả nghiên cứu khoa học phù hợp của BHTG và một số tài liệu, sách đã được cung cấp trong khuôn khổ hoạt động BHTG để cung cấp cho các trường đại học có chuyên ngành về tài chính ngân hàng, đặc biệt là Học viện Ngân hàng, phục vụ cho công tác giảng dạy và đào tạo trong thời gian tới
Kết luận
Hoạt động kinh doanh ngân hàng là loại hình kinh doanh có rất nhiều rủi ro, dễ bị tổn thương khi có gian lận và sai sót; việc đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức này không những được các nhà kinh doanh ngân hàng quan tâm mà còn là mối quan tâm hàng đầu của những người gửi tiền, của các cơ quan quản lý nhà nước, của toàn xã hội vì sự phá sản của một ngân hàng có thể gây nên đổ vỡ dây chuyền trong hệ thống tài chính- ngân hàng, ảnh hưởng rất lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Để ngăn ngừa những tổn thất và các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình hoạt động kinh doanh ngân hàng, ngoài các biện pháp thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước thì cần thiết công tác giám sát tại tổ chức Bảo hiểm tiền gửi phải có những biện pháp hữu hiệu, mà biện pháp quan trọng nhất là bảo hiểm tiền gửi phải thiết lập được một hệ thống giám sát từ xa một cách đầy đủ và có hiệu quả.
Giám sát trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi được hình thành và phát triển ngay từ buổi đầu mà bảo hiểm ra đời và đi vào hoạt động. Vì vậy Giám sát phát triển và hoàn thiện thể hiện một tổ chức bảo hiểm tiền gửi phát triển cao và có hiệu quả. Phát triển hệ thống giám sát tốt cũng chính là thể hiện một hình thức bảo hiểm công khai có kết quả.
Trong thời gian thực tập tại BHTG chi nhánh khu vực Hà Nội, nhận thức được tầm quan trọng của giám sát từ xa đối với hoạt động kinh doanh tiền tệ của các tổ chức tín dụng, tôi đã quyết định lựa chọn đề tài này.
Tôi mong rằng bài khoá luận này sẽ góp phần nhỏ bé vào việc khẳng định tiếng nói của người cán bộ giám sát và vị trí cần tạo lập của hoạt động này trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi nói riêng và trong nền kinh tế thị trường nói chung.
Cuối cùng, dù đã dành nhiều thời gian và công sức, khoá luận có thể còn nhiều hạn chế, nhiều vấn đề cần tiếp tục làn rõ. Xin cảm ơn sự phê bình, góp ý của các thầy cô và bạn đọc.
Mục lục
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng, biểu, sơ đồ
Phụ lục 1
Danh mục tài liệu tham khảo
Danh mục các bảng, biểu, sơ đồ
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh hiện nay 36
Bảng 1: Phạm vi hoạt động của BHTGVN Chi nhánh Hà Nội 37
Bảng 2: Mạng lưới QTDND cơ sở 38
Bảng 3: Số QTDND cơ sở không tự giác đăng ký tham gia bảo hiểm tiền gửi: 48
Bảng 4: Số QTDND cơ sở nộp chậm phí: 49
Bảng 6: Số báo cáo nộp chậm trong năm 2003 50
Bảng 7: Số phí các QTDND nộp thừa thiếu phí trong năm 2003 53
Bảng 8: Nguồn vốn của các QTDND cơ sở 55
Bảng 9: Tình hình vốn pháp định của các quỹ 56
Bảng 10: Tình hình nợ quá hạn: 58
Bảng11: số QTDND vi phạm tỷ lệ nợ quá hạn trong năm 2003 59
Bảng 13: Vi phạm về tỷ lệ mua sắm tài sản cố định 61
Bảng 14: số QTDND cơ sở vi phạm tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 62
Bảng 15: Đơn vị có kết quả kinh doanh thu nhỏ hơn chi 65
Bảng 16: Số liệu về các chỉ tiêu lợi nhuận: 65
Sơ đồ 2: Về quy trình giám sát(*) 82
Sơ đồ 3: Hệ thống cảnh báo:(*) 92
Phụ lục 1: Văn bản mà khoá luận đã sử dụng
A. Về Bảo hiểm tiền gửi
1.
Nghị định 89/1999/NĐ- CP ra ngày 1/9/1999 về BHTG.
2.
Thông tư 03/ 2000/ TT- NHNN5 ra ngày 16/3/2000
3.
Quyết định 76/2001/QĐ-HĐQT của BHTGVN ra ngày 2/10/2001
4.
Quyết định số 1077/2000/QĐ-NHNN ra ngày 27/8/2001
5.
Quyết định số 217/2001/ về công tác giám sát.
6.
Báo cáo giám sát của Chi nhánh các năm 2002-2003.
B. Về Ngân hàng
1.
Quy chế giám sát từ xa đối với TCTD hợp tác số 329/cv-TTr1 của NHNN ngày 4/5/2000
2.
Quyết định 297/1999/ QĐ-NHNN5 ra ngày 25/8/1999
3.
Nghị định 48/NĐ-CP ngày 13/8/2001
4.
Thông tư số 09/2001/TT-NHNNra ngày 08/10/2001 về hướng dẫn tổ chức và hoạt động của hệ thống QTDND.
5.
Quyết định số 696/2003/QĐ-NHNN ra ngày 02/7/2002
Quyết định 1145/2002/QĐ-NHNN ra ngày 18/10/2002
Công văn số 1075/cv-TTr1 ra ngày 28/10/2003
6.
Chỉ thị số 57 –CT/TW ra ngày 10/10/2000.
Tài liệu tham khảo
A. Tài liệu tiếng Việt
1.
Giáo trình Bảo hiểm của đại học Kinh tế quốc dân.
2.
Giáo trình Ngân hàng Trung ương của Học viện ngân hàng.
3.
Quản trị ngân hàng của Peter Rose ( sách dịch).
4.
Phân tích tài chính ngân hàng thương mại của PTS Ngô Hướng, Hồ Điệu, Lê Phan Diệu Thảo
5.
Tạp chí Ngân hàng, Tạp chí thị trường Tài chính, Thời báo Ngân hàng năm 2003-2004
6.
Các văn bản nêu trong phụ lục 1
B Tài liệu tiếng Anh
7.
Gillian G. H. Garcla: Deposit Insurance Actual and Good Pratices. IMF, Washington DC,2002
8.
United States, Federal Deposit Insurance Corporation, 1996, Manual of Policies & procedures for Bank Liquidation & Receivership( Washington:FDIC)
9.
Freehills,Vietnam: Banking,Finance and Capital Markets
10.
Banking sector review ( June 2002) –World Bank.
11.
Vietnam Economic Monitor- Spring 2002, World bank.
C. Trang website
12.
13.
14.
15.
16.
Bảng ký hiệu, chữ viết tắt
Quỹ tín dụng nhân dân
QTDND
Ngân hàng thương mại
NHTM
Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
TCTGBHTG
Bảo hiểm tiền gửi
BHTG
Tổ chức tín dụng
TCTD
Quỹ tín dụng nhân dân trung ương
QTDNDTW
Nợ quá hạn
NQH
Vốn tự có
VTC
Vốn điều lệ
VĐL
Ngân hàng Nhà nước
NHNN
Vốn pháp định
VPĐ
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0310.doc